Công tác xác định phí & bồi thường tổn thất trong bảo hiểm vật chất xe cơ giới tại Công ty Cổ phần bảo hiểm Petrolimex (PJICO)

LờI Mở ĐầU Ngày nay, cùng với sự phát triển của kinh tế thị trường, đời sống dân cư ngày càng được cải thiện, nhờ đó mà nhu cầu giải trí, đi lại, giao lưu văn hoá- kinh tế giữa các nước, các vùng ngày càng được chú trọng. Do nhu cầu đi lại, vận chuyển hành hoá, hành khách ngày càng tăng đòi hỏi hệ thống giao thông và phương tiện đi lại được phát triển theo. Trong đó giao thông đường bộ tỏ ra có ưu thế hơn cả về tính cơ động cao, khả năng vận chuyển lớn, tốc độ tương đối nhanh, giá cả hợp lý… N

doc85 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1344 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Công tác xác định phí & bồi thường tổn thất trong bảo hiểm vật chất xe cơ giới tại Công ty Cổ phần bảo hiểm Petrolimex (PJICO), để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hưng việc đi lại, vận chuyển bằng các phương tiện cơ giới cũng dễ gặp phải những tai nạn, rủi ro bất ngờ không thể lường trước được do đâm va, lật đổ, hoả hoạn… Những rủi ro này ảnh hưởng lớn đến tính mạng và tài sản của nhân dân, là mối đe doạ lớn cho chủ xe vì họ không những phải chịu trách nhiệm đền bù những thiệt hại lớn mà mình gây ra cho người thứ ba mà còn phải gánh cả phần chi phí sửa chữa bản thân phương tiện của mình. Để khắc phục những tổn thất có thể xảy ra cho cả hai phía. Bảo hiểm xe cơ giới đã ra đời và thực tế triển khai đã minh chứng vai trò tích cực của nhà bảo hiểm- là nhà tài trợ, chia xẻ rủi ro đối với chủ xe, lái xe mỗi khi việc lưu hành xe gây ra thiệt hại Khi mà giá trị xe ngày càng lớn, lượng xe lưu thông ngày càng nhiều thì các chủ xe thường xuyên phải đứng trước nguy cơ mất phần lớn nguồn tài chính khi xe bị tai nạn. Nhận thức được vấn đề đó PJICO đã triển khai nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe cơ giới ngay từ những ngày đầu mới thành lập, nhằm bù đắp một phần thiệt hại về vật chất xe cho chủ xe. Nhưng đây là một nghiệp vụ mà các công ty bảo hiểm khác cũng triển khai rất rộng rãi, do đó công ty gặp phải sự cạnh tranh rất quyết liệt trên thị trường. Để tồn tại và tạo được chỗ đứng trên thị trường, Công ty phải tạo ra bản sắc riêng cho sản phẩm bảo hiểm của mình cũng như hoàn thiện công tác bồi thường để tạo lòng tin nơi khách hàng và khẳng định vị thế của mình trên thị trường. Xuất phát từ lý do trên kết hợp với việc nghiên cứu tình hình thực tiễn triển khai tại phòng bảo hiểm Phi hàng hải- công ty PJICO, em đã lựa chọn đề tài: “Nâng cao hiệu quả trong công tác xác định phí và bồi thường tổn thất trong bảo hiểm vật chất xe cơ giới tại Công ty cổ phần bảo hiểm Petrolimex (PJICO)” để làm chuyên đề thực tập tốt nghiệp. Mục đích của đề tài này là làm rõ một số vấn đề lý luận về bảo hiểm xe cơ giới nói chung, đi sâu vào công tác xác định phí và bồi thường, mạnh dạn đưa ra một số kiến nghị có tính khả thi, có cơ sở khoa học nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe cơ giới tại PJICO. Nội dung của đề tài, ngoài phần mở đầu và kết luận, bao gồm ba chương: Chương I: Khái quát chung về bảo hiểm vật chất xe cơ giới. Chương II: Thức trạng công tác xác định phí và bồi thường tổn thất trong bảo hiểm vật chất xe cơ giới tại công ty PJICO Chương III: Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả trong công tác xác định phí và bồi thường tổn thất trong BHVC xe cơ giới tại PJICO Do còn hạn chế về mặt kiến thức cũng như sự phức tạp của hệ vấn đề, nên chuyên đề sẽ không tránh khỏi những thiếu sót và hạn chế nhất định. Em rất mong nhận được ý kiến đóng góp của các thầy, cô và các bạn để chuyên đề của em được đầy đủ và hoàn chỉnh hơn nữa. Chương I KHáI QUáT CHUNG Về BảO HIểM VậT CHấT XE CƠ GiớI I. Đặc điểm xe cơ giới và sự cần thiết của bảo hiểm vật chất xe cơ giới 1. Đặc điểm và sự cần thiết của bảo hiểm vật chất xe cơ giới Cùng với sự phát triển ngày càng cao của KHKT, các phương tiện sử dụng trong ngành giao thông vận tải cũng được cải tiến và ngày càng hoàn thiện như máy bay, tàu hoả, ô tô, tàu thuỷ… Sự phát triển của ngành giao thông vận tải đã góp một phần không nhỏ vào sự phát triển chung của xã hội loài người đặc biệt xu hướng phát triển trên thế giới hiện nay là xu hướng “toàn cầu hoá”. ở nước ta ngành giao thông vận tải cũng đã cho thấy được vai trò to lớn trong hai lần chiến thắng thực dân Pháp và đế quốc Mĩ, đặc biệt là trong gần 30 năm trở lại đây khi đất nước ta được giải phóng, đã và đang thực hiện đường lối đổi mới của Đảng và Nhà nước. Trước đây, do đất nước đang trong quá trình phục hồi sau chiến tranh, do đó hệ thống đường xá cũng như số lượng, chất lượng các phương tiện vận tải còn thô sơ, lạc hậu làm cho nhu cầu đi lại của người dân phần nào còn bị hạn chế. Sau khi đất nước ta chuyển sang cơ chế thị trường, đời sống của nhân dân từng bước được nâng cao, các nhu cầu tối thiểu như “ăn, ở, mặc” phần nào đã được đáp ứng đầy đủ. Từ đó phát sinh các nhu cầu khác như đi lại, thay đổi chỗ ở ngày càng nhiều để đáp ứng nhu cầu sống ngày càng cao của người dân. Các phương tiện giao thông ngày càng đa dạng như đường sắt, đường hàng không, đường biển đường bộ… Trong đó, đường bộ tỏ ra có ưu thế hơn cả vì sự cơ động, giá rẻ, dễ điều khiển… Xác định được điều đó Nhà nước và các cấp ngành có liên quan đã có sự quan tâm khá kịp thời đến công tác nâng cấp phát triển cơ sở hạ tầng, đường xá cầu cống. Điều này được đánh đấu bằng sự tăng lên cả về số lượng và chất lượng đường bộ, hiện nay cả nước có 111.474 km đường bộ, trong đó quốc lộ chiếm 14.926 km bao gồm các loại mặt đường sau. - Bê tông xi măng: 75 km tương đương với 0,05% - Bê tông nhựa: 3.551 km tương đương với 23,79 % - Đá dăm rải nhựa: 5.253 km tương đương với 35,19% - Đá dăm cấp phối: 4.233 km tương đương với 28,36% - Đất: 1.814 km tương đương với 12,15% Đặc biệt, hệ thống giao thông đô thị của Thủ đô Hà Nội cũng đã được nâng cấp xây dựng mới đạt tổng chiều dài 270 km Từ khi nước ta thực hiện công cuộc công nghiệp hoá- hiện đại hoá, người dân dần thích nghi với đời sống công nghiệp. Điều này được thể hiện qua số lượng ô tô, xe máy tăng lên không ngừng: ô tô, xe máy trên cả nước hàng năm tăng 20%-24%, lượng ôtô tăng lên hàng năm chỉ tính riêng ở địa bàn Hà Nội năm 1998-1999 tăng 9%, từ 1999-2000 tăng xấp xỉ 4%, các năm 2001, 2002 các con số này còn tăng hơn nữa , còn nếu tính trên cả nước thì đạt bình quân hàng năm là 8,0%- 8,4%, và theo như ước tính của cơ quan quản lý giao thông thì tốc độ này còn tăng cao hơn nữa đặc biệt là sau khi Việt Nam gia nhập AFTA, con số này chứng tỏ ngày càng có nhiều người sử dụng hình thức giao thông đường bộ và nó ngày càng đáp ứng tốt hơn nhu cầu sử dụng. Lượng ôtô, xe máy tăng chứng tỏ đời sống của nhân dân ngày càng cao, nhưng chính điều này lại làm tăng số vụ tai nạn giao thông cả về quy mô và mức độ nghiêm trọng. Mặc dù có sự cố gắng của bản thân con người cũng như sự trợ giúp của KH- KT nhưng tai nạn vẫn xảy ra đó là do đặc điểm của xe cơ giới: xe được vận hành bằng một lực do động cơ tạo ra nên được coi là nguồn nguy hiểm cao độ. Mặt khác hệ thống đường bộ nước ta còn rất xấu, mặc dù đã có sự mở mới và nâng cấp nhưng nhìn chung chất lượng mặt đường chưa đồng đều, nhiều đoạn đường, cây cầu sức chịu đựng rất kém thêm vào đó là tình trạng vi phạm luật lệ an toàn giao thông đường bộ của chủ điều khiển ôtô, xe máy: chở quá tải, phóng nhanh vượt ẩu, không làm chủ được tốc độ gây tai nạn… Ngoài ra, chất lượng không đảm bảo của các phương tiện giao thông cũng là một trong các nguyên nhân gây ra tai nạn. Những năm gần đây đặc biệt là các năm 1999-2002 thị trường xe máy Việt Nam bị tràn ngập bởi xe máy Trung Quốc, chất lượng không đảm bảo nhưng giá rẻ vẫn được tiêu thụ mạnh. Công tác kiểm tra còn nhiều bất cập, tính đến tháng 9/2002, các chủ hàng, các chủ phương tiện mới đưa vào kiểm tra 406.000 đầu xe chiếm 73% tổng số xe hoạt động trong đó 102.000 phương tiện không đạt tiêu chuẩn hoạt động và hiện có 13.953 ôtô chở khách quá niên hạn sử dụng nhưng vẫn lưu hành. Các xe vận tải nhỏ không đăng ký, và không qua kiểm định 62.905 xe chiếm 83% và 10 triệu xe máy hầu hết là xe Trung Quốc, Đài Loan và Hàn Quốc, Honđa đời cũ… chất lượng kém. Đây thực sự là mối de doạ, nguy hiểm đến tính mạng, tài sản của chủ phương tiện, người tham gia giao thông và tài sản của nhân dân, toàn xã hội. Bảng số liệu dưới đây sẽ cho thấy mức độ nguy hiểm của tai nạn giao thông: Bảng 1: Tai nạn giao thông giai đoạn (1998 – 2002) STT Nội dung tai nạn giao thông Đơn vị 1998 1999 2000 2001 2002 1 Số vụ Vụ 16.270 18.967 21.901 24.732 28.772 2 Số người chết Người 7.025 7.985 9.172 10.044 13.242 3 Số người bị thương Người 1.989 22.710 25.263 28.202 33.874 4 Bình quân người chết /ngày Người 19 21 25 27 36 5 Tổng số người chết trong tháng Người 570 630 750 810 1.080 Nguồn: “Tạp chí giao thông vận tải ” Trong năm 2002, tai nạn giao thông nguyên nhân do người tham gia giao thông( 83,1%), trong đó: - Do chạy quá tốc độ quy định : 40% - Do tránh vượt sai quy định: 32,4% - Do các nguyên nhân khác:10,7% Qua bảng số liệu trên cho thấy tình hình tai nạn giao thông tăng cả về số vụ và số người thiệt mạng, các chủ phương tiện gặp phải những khó khăn về nhiều mặt: thiệt hại do phương tiện của mình gây ra cho người thứ 3, thiệt hại vật chất của chính phương tiện… Tạo ra sức ép cả về tài chính lẫn tinh thần. Trước nhu cầu đòi hỏi cấp thiết đó, nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe cơ giới đã được triển khai ở tất cả các công ty bảo hiểm phi nhân thọ Việt Nam. Chủ xe tham gia bảo hiểm vật chất xe là để được bồi thường những thiệt hại vật chất xảy ra với xe của mình do những rủi ro được bảo hiểm gây nên, từ đó làm giảm sức ép về tài chính và tinh thần. Biện pháp bảo đảm này được thực hiện dựa trên cơ sở người tham gia đóng góp một khoản tiền nhỏ gọi là phí bảo hiểm để xây dựng quỹ bảo hiểm tại công ty bảo hiểm. Nếu không may rủi ro xảy ra thì chủ xe sẽ được chi trả theo thoả thuận trong hợp đồng. Như vậy bảo hiểm vật chất xe cơ giới đã thể hiện được bản chất của bảo hiểm thương mại đó là: bảo hiểm thương mại là biện pháp chia nhỏ tổn thất của một hay một số ít người có khả năng cùng gặp một loại rủi ro dựa vào một quỹ chung bằng tiền được lập bởi sự đóng góp của nhiều người cũng có khả năng gặp tổn thất đó thông qua hoạt động của công ty bảo hiểm. Bằng cách chia nhỏ tổn thất như vậy, hậu quả lẽ ra rất nặng nề, nghiêm trọng với một hoặc một số người sẽ trở nên không đáng kể có thể chấp nhận được đối với cả cộng đồng những người tham gia bảo hiểm. Từ đó ta có thể thấy được sự cần thiết phải triển khai nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe cơ giới tại các công ty bảo hiểm đối với đời sống nhân dân. 2. Tác dụng của bảo hiểm vật chất xe cơ giới. Cũng giống như bảo hiểm nói chung, bảo hiểm vật chất xe cơ giới có các tác dụng đặc trưng của nó. Thứ nhất: Giúp ổn định tình hình tài chính của chủ phương tiện khi không may rủi ro xảy ra. Khi tham gia giao thông, tất nhiên không ai mong muốn tai nạn xảy ra với mình và phương tiện của mình. Nhưng rủi ro luôn tiềm ẩn yếu tố bất ngờ, ngẫu nhiên. Nhiều khi chỉ là một sơ suất, bất cẩn nhỏ cũng có thể dẫn tới những hậu quả thiệt hại lớn và chủ xe là người trước tiên phải gánh chịu những thiệt hại này. Tình trạng này sẽ được khắc phục nếu như chủ xe tham gia bảo hiểm vật chất xe cơ giới bằng cách đóng một khoản phí nhất định để xây dựng quỹ bảo hiểm. Khi thiệt hại xảy ra, công ty bảo hiểm sẽ bồi thường những thiệt hại về mặt tài chính cho chủ phương tiện căn cứ vào mức độ thiệt hại của xe và số tiền bảo hiểm để tránh những trục lợi từ phía khách hàng. Số tiền bồi thường đó sẽ giúp chủ phương tiện nhanh chóng ổn định đời sống tránh những xáo trộn lớn và nhanh chóng thoát khỏi tình trạng khó khăn, tạo ra sự ổn định chung của xã hội. Thứ hai: Tạo điều kiện gần như tốt nhất cho sản xuất Nền kinh tế thị trường luôn diễn rạ sự cạnh tranh quyết liệt giữa các đối thủ. Do đó, các công ty luôn muốn huy động một lượng vốn tối đa có thể để đầu tư sản xuất, nhằm tạo được lợi thế giữa các đối thủ cạnh tranh, tăng thị phần. Vì thế trong quá trình kinh doanh nếu doanh nghiệp phải dự trữ một khoản tiền tương đối lớn để đề phòng khi rủi ro xảy ra bất ngờ, thì quả là lãng phí. Các doanh nghiệp nhỏ, số lượng đầu xe ít thì quỹ dự trữ này có thể không đáng kể, nhưng đối với các doanh nghiệp lớn, số lượng đầu xe nhiều thì quỹ dự trữ này tương đối lớn, sẽ làm ảnh hưởng đến lượng vốn kinh doanh. Nếu doanh nghiệp tham gia bảo hiểm vật chất xe cơ giới thì chỉ phải đóng một lượng phí nhỏ, công ty bảo hiểm sẽ lập quỹ bảo hiểm bảo vệ cho số xe của doanh nghiệp theo nguyên tắc “Số đông bù số ít” doanh nghiệp sẽ yên tâm hoạt động nhờ một quỹ lớn hơn nhiều do các thành viên khác cũng đóng góp. Thứ ba: Góp phần đề phòng hạn chế tổn thất tai nạn giao thông. Với số phí thu được từ người tham gia bảo hiểm, công ty bảo hiểm sẽ lập một quỹ ngoài mục đích chính là bồi thường cho các rủi ro được bảo hiểm xảy ra đó là sử dụng cho mục đích đề phòng hạn chế tổn thất. Những nguy cơ gây ra tai nạn do chất lượng hệ thống cơ sở hạ tầng còn thấp như tại các đèo, dốc nguy hiểm (Đèo Cả, đèo Cù Mông, đèo Hải Vân…) đã được các công ty bảo hiểm lớn (trong đó có PJICO) hỗ trợ hàng tỷ đồng để xây dựng đường lánh nạn, đường phụ, dốc cứu nạn, thành chắn… Hàng năm cứu thoát khỏi nguy hiểm hàng trăm tính mạng. Ngoài ra, các công ty cũng khuyến khích các chủ xe thực hiện các biện pháp đề phòng hạn chế tổn thất, nâng cao ý thức thông qua công tác tuyên truyền luật lệ an toàn giao thông. Đặc biệt công ty còn giảm phí nếu sau một thời gian nhất định mà xe không gặp phải bất kỳ một thiệt hại nào. Biện pháp này sẽ làm tăng cố gắng để không xảy ra tai nạn của các chủ điều khiển phương tiện giao thông. Cuối cùng: Góp phần tăng thu ngân sách Nhà nước. Mức sống ngày càng cao, số lượng các phương tiện xe cơ giới tăng mạnh trong năm 2001 mỗi tháng 45.000 đầu xe ôtô và gần 500.000 xe máy đăng ký đưa tổng số phương tiện tham gia giao thông 6/2002 là 555.000 chiếc xe ôtô và gần 10 triệu xe máy chủ yếu tập trung ở các thành phố lớn như Hà Nội, Tp. Hồ Chí Minh, Hải Phòng, Đà Nẵng…, đó là chưa kể 75.000 xe vận tải nhỏ (xe công nông đầu dọc, đầu ngang, xe lam, xe kéo…) tham gia hoạt động giao thông làm mạng lưới giao thông đường bộ quá tải, nảy sinh nhiều phức tạp. Hơn nữa, khi các điều kiện sống đầy đủ,trình độ dân trí cao thì nhu cầu tự bảo vệ cho bản thân, gia đình, tài sản lại càng được nâng cao. Vì thế lượng khách hàng tiềm năng của nghiệp vụ này là rất lớn, nguồn thu từ đó sẽ được nâng cao, nó sẽ góp phần tăng thu cho ngân sách Nhà nước thông qua hình thức nộp thuế của các công ty bảo hiểm. Và ngược lại, Chính phủ có thể sử dụng ngân sách Nhà nước phối hợp với các doanh nghiệp bảo hiểm khác hỗ trợ đầu tư nâng cấp chất lương hệ thống cơ sở hạ tầng làm giảm thiểu tai nạn, ổn định xã hội và nâng cao chất lượng đời sống dân cư. Qua đó có thể thấy được tác dụng to lớn của nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe cơ giới, mang ý nghĩa tích cực, nhân đạo sâu sắc và việc triển khai nghiệp vụ này là thực sự cần thiết. II. Nội dung của bảo hiểm vật chất xe cơ giới. Bảo hiểm vật chất xe cơ giới là loại hình bảo hiểm tài sản. Đây là loại hình bảo hiểm không bắt buộc, do đó chủ xe có thể lựa chọn bảo hiểm hay không bảo hiểm, nếu bảo hiểm thì tham gia ở hình thức nào. 1. Đối tượng bảo hiểm Đối tượng bảo hiểm là bản thân chiếc xe với đầy đủ những yếu tố sau: - Xe cơ giới phải được gắn động cơ (khác với xe không có động cơ như xe đạp, xe do gia súc kéo…) - Xe cơ giới di chuyển trên đất liền không cần đường dẫn (khác với tàu hoả, xe điện…) - Xe cơ giới phải có chỗ tối thiểu cho người điều khiển Như vậy xe cơ giới bao gồm nhiều loại: xe mô tô, xe ôtô chở người, xe tải chở hàng, các loại xe chuyên dụng khác. Để có thể trở thành đối tượng được bảo hiểm, xe cơ giới phải đảm bảo những điều kiện về mặt kỹ thuật và pháp lý cho sự lưu hành. Được cơ quan có thẩm quyền cấp giấy đăng ký xe, biển kiểm soát, giấy chứng nhận kiểm định an toàn kỹ thuật và môi trường, giấy phép lưu hành xe. Do điều kiện kinh tế- xã hội ngày càng phát triển, mức sống ngày càng cao, giá trị các phương tiện đi lại cũng lớn hơn nhiều, do đó nếu rủi ro xảy ra thì thiệt hại đối với tài sản này chắc chắn không nhỏ. Thông thường đối tượng bảo hiểm của nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe cơ giới là các loại ôtô do chúng có giá trị lớn, vận tốc cao, phạm vi hoạt động rộng, một khi rủi ro xảy ra thì chi phí sửa chữa sẽ rất tốn kém. Còn xe máy do có giá trị thấp hơn nhiều so với ôtô, chi phí sửa chữa không nhiều, rất khó xác định được giá trị hiện tại của xe. Do đó loại hình bảo hiểm vật chất xe máy tại các công ty bảo hiểm hiện nay thu hút được không nhiều khách hàng. Vì thế đối tượng bảo hiểm ở đây chính là các xe ôtô vận chuyển hàng hoá, hành khách còn đủ giá trị, có đủ điều kiện về mặt kỹ thuật (đã qua kiểm định an toàn kỹ thuật và các điều kiện về môi trường), có giấy phép lưu hành hoạt động trên lãnh thổ của quốc gia. Riêng đối với các loại xe đua, xe tập lái, chạy thử sau khi sửa chữa thì chỉ được bảo hiểm khi có các thỏa thuận giữa hai bên. Trên phương diện kỹ thuật bảo hiểm người ta thường phân chia xe thành các tổng thành. Trên cơ sở phân chia đó người bảo hiểm có thể bảo hiểm toàn bộ xe hoặc từng bộ phận xe. Thông thường xe cơ giới được chia thành 7 tổng thành sau: - Động cơ: bao gồm phần máy, chế hoà khí hoặc bơm cao áp, bơm xăng, bầu lọc khí, lọc dầu, máy phát điện, máy nén khí, két nước và các bộ phận làm mát. - Thân vỏ: có ba nhóm (A,B,C). + Nhóm A: Thân vỏ bao gồm: ca bin toàn bộ, cabô, chắn bùn, toàn bộ cửa và kính, toàn bộ đèn và gương, toàn bộ phần vỏ kim loại, các cần gạt và bàn đạp ga, côn số phanh chân, phanh tay… + Nhóm B: Ghế điện và nội thất bao gồm: toàn bộ ghế đệm ngồi hoặc nằm, các trang thiết bị: điều hoà nhiệt độ, quạt đài… + Nhóm C: Sát si: bao gồm: khung xe, ba đờ sốc, các cơ cấu bấu chặt vào khung, bình chứa nguyên liệu, đường ống và tuy ô dẫn dầu, dây dẫn điện… - Hộp số: bao gồm hộp số chính, hộp số phụ (nếu có). - Hệ thống lái: bao gồm vô lăng lái, trục tay lái, các đăng dẫn động lái, hộp tay lái, bổ trợ tay lái (nếu có), thanh kéo ngang, thanh kéo dọc, phi dê. - Trục trước: bao gồm dầm cầu, trục lắp, hệ thống treo nhíp, may ô trước, cơ cấu phanh, nếu là cầu chủ động thì có thêm một cầu si vai và vỏ cầu. - Cầu sau: gồm vỏ cầu toàn bộ, ruột cầu, si vai, cụm may ơ sau, cơ cấu phanh, xilanh phanh, trục lắp ngang hệ thống treo cầu sau, nhíp… - Lốp: các bộ săm hoàn chỉnh của xe (kể cả săm lốp dự phòng) - Ngoài ra, ở một số loại xe chuyên dùng như xe cứu thương, cứu hỏa, xe chở container, cần cẩu… còn có tổng thành cơ cấu chuyên dụng lắp trên xe để sử dụng theo nhu cầu: cần cẩu nâng, phát thanh truyền hình, đào xúc… Tuỳ thuộc vào các loại xe mà cơ cấu giá trị của các tổng thành này trong toàn bộ giá trị của xe cũng khác nhau. Bảng 2: Tỷ lệ giá trị tổng thành các loại xe du lịch, xe khách và xe vận tải nhỏ (các nước khu vực II sản xuất) Đơn vị: (%) Tên tổng thành Xe con 4-5 chỗ Xe khách (trên 20 ghế) Xe khách nhỏ, nhỡ (dưới 20 ghế) Nhóm xe du lịch Xe ngoại cả KVI, KVII Loại I cầu chủ động Loại II cầu chủ động Động cơ 15,5 11,0 14,5 15,4 Hộp số 7,0 4,5 7,0 8,2 Trục cầu trước 5,5 3,8 1,2 6,8 Cần sau 9,2 7,5 7,6 7,0 Hệ thống lái 5,7 5,4 5,5 5,1 Thân vỏ xe Thân vỏ 53,5 30,3 59,8 37,1 57,2 32,5 54,2 30,4 Nội thất 14,1 13,3 16,5 15,8 Sát si 9,1 9,4 5,2 8,0 Săm lốp 3,6 8,0 4,0 4,3 Hiện nay, các công ty bảo hiểm Việt Nam thường tiến hành bảo hiểm toàn bộ xe hoặc thân vỏ xe. Vì trong số các tổng thành, thân vỏ xe chiếm tỷ trọng lớn về mặt giá trị (như trong bảng đã chỉ ra) và cũng chịu ảnh hưởng nhiều nhất những hậu quả của vụ tai nạn. 2. Phạm vi bảo hiểm Trong nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe cơ giới, các rủi ro được bảo hiểm thông thường bao gồm: - Tai nạn do đâm va, lật đổ. - Cháy nổ, bão lụt, sét đánh, động đất, mưa đá. - Mất cắp toàn bộ xe. - Tai nạn do rủi ro bất ngờ khác gây nên. Ngoài ra, các công ty bảo hiểm còn thanh toán cho các chủ xe tham gia bảo hiểm những chi phí cần thiết và hợp lý nhằm: + Ngăn ngừa và hạn chế tổn thất phát sinh thêm khi xe bị thiệt hại do các rủi ro được bảo hiểm. + Chi phí bảo vệ xe và kéo xe bị thiệt hại tới nơi sửa chữa gần nhất. + Giám định tổn thất nếu thuộc trách nhiệm của bảo hiểm Tuy nhiên, trong mọi trường hợp tổng số tiền bồi thường của công ty bảo hiểm không vượt quá số tiền bảo hiểm đã ghi trên đơn hay giấy chứng nhận bảo hiểm. Công ty bảo hiểm sẽ không chịu trách nhiệm bồi thường những thiệt hại vật chất của xe gây ra bởi: - Hao mòn tự nhiên, mất giá, giảm dần chất lượng, hỏng hóc do khuyết tật hoặc hỏng thêm do sửa chữa. Hao mòn tự nhiên được tính dưới hình thức khấu hao và thường được tính theo tháng. - Hư hỏng về điện hoặc máy móc, thiết bị, săm lốp hư hỏng mà không do tai nạn gây ra. - Mất cắp bộ phận của xe. Để tránh những “nguy cơ đạo đức” lợi dụng bảo hiểm, những hành vi vi phạm pháp luật, luật lệ giao thông, hay một số những rủi ro đặc biệt khác, những thiệt hại, tổn thất xảy ra bởi những nguyên nhân sau cũng không được bồi thường: - Hành động cố ý của chủ xe, lái xe. - Xe không đủ điều kiện kỹ thuật và thiết bị an toàn để lưu hành theo quy định của Luật an toàn giao thông đường bộ, - Chủ xe (lái xe) vi phạm nghiêm trọng Luật an toàn giao thông đường bộ như: + Xe không có giấy phép lưu hành. + Lái xe không có bằng lái, hoặc có nhưng không hợp lệ. + Lái xe bị ảnh hưởng của rượu bia, ma tuý hoặc các chất kích thích tương tự khác trong khi điều khiển xe. + Xe chở chất cháy, chất nổ trái phép. + Xe chở quá trọng tải hoặc số hành khách quy định. + Xe đi vào đường cấm. + Xe đi đêm không đèn. + Xe sử dụng để tập lái, đua thể thao, chạy thử sau khi sửa chữa. - Những thiệt hại gián tiếp như: Giảm giá trị thương mại, làm đình trệ sản suất kinh doanh… - Thiệt hại do chiến tranh, đình công, bãi công… Trong thời hạn bảo hiểm nếu chủ xe chuyển quyền sở hữu cho chủ xe khác thì quyền lợi bảo hiểm vẫn còn hiệu lực với chủ xe mới. Tuy nhiên, nếu chủ xe cũ không chuyển quyền lợi bảo hiểm cho chủ xe mới thì công ty bảo hiểm sẽ hoàn lại phí bảo hiểm cho họ và làm bảo hiểm cho chủ xe mới nếu họ có yêu cầu. 3. Giá trị bảo hiểm và số tiền bảo hiểm Giá trị bảo hiểm của xe cơ giới là giá trị thực tế trên thị trường của xe tại thời điểm người tham gia bảo hiểm mua bảo hiểm. Việc xác định đúng giá trị tham gia bảo hiểm là rất quan trọng vì đây là cơ sở để bồi thường chính xác thiệt hại thực tế cho chủ xe tham gia bảo hiểm. Tuy nhiên giá xe trên thị trường luôn luôn biến động và có thêm nhiều chủng loại xe mới gây khó khăn cho việc xác định giá trị xe. Trong thực tế, các công ty bảo hiểm thường dựa trên các yếu tố sau để xác định giá trị xe: - Loại xe - Năm sản xuất - Mức độ cũ, mới của xe - Thể tích làm việc của xi lanh… Tuy nhiên, việc đánh giá các yếu tố này là khá khó khăn, hiệu quả không cao chỉ có những người chuyên môn mới thực hiện được, việc đánh giá có thể đẫn đến tranh cãi, không khách quan. - Hiện nay, các công ty bảo hiểm hay áp dụng phương pháp xác định giá trị bảo hiểm căn cứ vào giá trị ban đầu của xe và mức khấu hao theo công thức: GBH = GBĐ - GKH Trong đó: GBH : Giá trị bảo hiểm GBĐ : Giá trị ban đầu xe, gía mua mới GKH : Giá trị đã được khấu hao của chiếc xe (theo năm) GKH = GBĐ Tỷ lệ khấu hao Số năm đã sử dụng - Đối với xe có thời gian sử dụng dưới một năm thì GKH = 0 nên giá trị bảo hiểm bằng giá trị ban đầu của xe. - Đối với xe có thời gian sử dụng trên một năm thì GKH > 0 nên giá trị bảo hiểm luôn nhỏ hơn giá trị ban đầu của xe. Để thống nhất mức khấu hao chung cho các công ty bảo hiểm thuận tiện trong đánh giá giá trị bảo hiểm, Bộ tài chính đã quy định một tỷ lệ khấu hao cố định cho xe cơ giới là 9%/năm. Nhưng mức này khó có thể hấp dẫn được khách hàng vì nó tương đối cao, giá trị bảo hiểm vì thế mà giảm xuống, điều này làm cho người tham gia bị thiệt thòi. Ngoài ra, trong thực tế có nhiều trường hợp xe đã khấu hao hết, nhưng trong thực tế vẫn còn giá trị sử dụng và vẫn còn được sử dụng tiếp nên mức này tỏ ra ít phù hợp, do đó các công ty bảo hiểm phải linh hoạt hơn để thu hút khách hàng. Số tiền bảo hiểm là khoản tiền được xác định trong hợp đồng bảo hiểm thể hiện giới hạn trách nhiệm của công ty bảo hiểm. Có nghĩa là, trong bất kỳ trường hợp nào, số tiền bồi thường, chi trả cao nhất của người bảo hiểm cũng chỉ bằng số tiền bảo hiểm Trong bảo hiểm vật chất xe cơ giới, số tiền bảo hiểm được xác định theo ba trường hợp: - Số tiền bảo hiểm nhỏ hơn giá trị bảo hiểm: thì được gọi là bảo hiểm dưới giá trị. Khi tổn thất xảy ra, công ty bảo hiểm sẽ dựa trên cơ sở tỷ lệ giữa số tiền bảo hiểm và giá trị bảo hiểm SBT = - Số tiền bảo hiểm = Giá trị bảo hiểm: được gọi là bảo hiểm ngang giá trị. Khi tổn thất toàn bộ xảy ra, công ty bảo hiểm sẽ bồi thường bằng giá trị bảo hiểm - Số tiền bảo hiểm lớn hơn giá trị bảo hiểm: thì được gọi là bảo hiểm trên giá trị theo điều kiện bảo hiểm gía trị thay đổi mới (chỉ áp dụng đối với tổn thất toàn bộ). 4. Hợp đồng bảo hiểm Hợp đồng bảo hiểm vật chất xe cơ giới là sự thoả thuận giữa các bên theo đó bên mua bảo hiểm (chủ phương tiện, lái xe) có trách nhiệm nộp phí bảo hiểm, bên bảo hiểm (công ty bảo hiểm) có trách nhiệm trả tiền bồi thường cho người tham gia bảo hiểm khi xảy ra các sự kiện bảo hiểm. Hợp đồng bảo hiểm là chứng từ có tính chất pháp lý, quy định rõ nghĩa vụ và quyền lợi của mỗi bên tham gia. Bên cạnh hình thức hợp đồng bảo hiểm còn tồn tại một số hình thức khác: Giấy chứng nhận bảo hiểm, đơn bảo hiểm cũng có giá trị pháp lý tương tự, nhưng hợp đồng bảo hiểm vẫn là hình thức đầy đủ gồm những nội dung bắt buộc sau: - Công ty bảo hiểm (Tên, địa chỉ liên hệ) - Người tham gia bảo hiểm - Đối tượng bảo hiểm - Số tiền bảo hiểm, giá trị bảo hiểm - Mức bảo hiểm, cách thức nộp phí - Phạm vi, điều kiện bảo hiểm - Thời hạn bảo hiểm - Các điều khoản quy định về giải quyết tranh chấp - Chữ ký xác nhận của bên mua bảo hiểm và bên bảo hiểm Thông thường cá nhân khi tham gia bảo hiểm, công ty sẽ cấp cho người tham gia giấy chứng nhận bảo hiểm trong đó ghi rõ tên người tham gia, số tiền bảo hiểm, thời gian bảo hiểm, có thể ghi phí hoặc không, xác nhận của các bên. Người tham gia có quyền sử dụng giấy này để xuất trình cho cơ quan kiểm tra và có trách nhiệm bảo quản cẩn thận vì đây là một trong những giấy tờ cần thiết để công ty giải quyết bồi thường. Trong trường hợp làm mất, hỏng thì phải thông báo cho nhà bảo hiểm để được bảo hiểm để được cấp lại. 5. Phí bảo hiểm Trong bất kỳ nghiệp vụ bảo hiểm nào công tác xác định mức phí là việc làm rất quan trọng. Phí có thể coi là giá của sản phẩm bảo hiểm. Giá có hợp lý thì mới thu hút được khác hàng, và phải đảm bảo lợi nhuận cho công ty. Thông thường khi xác định phí bảo hiểm cho từng đối tượng tham gia bảo hiểm cụ thể, các công ty bảo hiểm căn cứ vào những nhân tố sau: * Loại xe Do mỗi loại xe có những đặc điểm kỹ thuật khác nhau, có mức độ rủi ro khác nhau nên phí bảo hiểm vật chất xe được tính riêng cho từng loại xe. Thông thường, các công ty bảo hiểm đưa ra những biểu xác định phí bảo hiểm phù hợp cho hầu hết các loại xe thông dụng thông qua việc phân loại xe thành các nhóm. Việc phân loại này được dựa trên cơ sở tốc độ tối đa của xe, tỷ lệ gia tốc, chi phí và mức độ khó khăn khi sửa chữa và sự khan hiếm của phụ tùng. Đối với các xe hoạt động không thông dụng như xe kéo rơmooc, xe chở hàng nặng… do có mức độ rủi ro cao nên phí bảo hiểm thường được cộng thêm một tỷ lệ nhất định dựa trên mức phí cơ bản. Giống như cách tính phí bảo hiểm nói chung, phí bảo hiểm phải đóng cho mỗi đầu xe đối với mỗi loại xe được tính theo công thức sau: P = f + d Trong đó: P - Phí thu mỗi đầu xe d - Phụ phí f - Phí bồi thường Theo công thức trên, việc xác định phí bảo hiểm phụ thuộc vào các nhân tố sau: f = - Tình hình bồi thường tổn thất của những năm trước đó. Căn cứ vào số liệu thống kê, công ty bảo hiểm sẽ tính toán được phần phí bồi thường (f) cho mỗi đầu xe như sau: (Với i= 1,2,…,n) Trong đó: S i - Số vụ tai nạn xảy ra trong năm thứ i Ti - Thiệt hại bình quân một vụ năm thứ i Ci - Số xe hoạt động thực tế năm thứ i - Các chi phí khác, hay còn gọi là phần phụ phí (d) bao gồm các chi phí như chi phí đề phòng hạn chế tổn thất, chi quản lý… Ngoài ra, trên thực tế các công ty bảo hiểm áp dụng một phương pháp tính phí khác dựa trên cơ sở số tiền bảo hiểm P = Tỷ lệ phí SBH ở Việt Nam, tỷ lệ phí bảo hiểm do Bộ Tài chính đưa ra và hiện nay tất cả các công ty đều áp dụng mức phí này. Cụ thể là: + Bảo hiểm toàn bộ giá trị xe. P = 1,5% giá trị thực tế của chiếc xe trên thị trườngViệt Nam + Bảo hiểm toàn bộ giá trị xe miễn thuế: P = 3,5% giá trị miễn thuế của xe tại thị trường Việt Nam + Bảo hiểm thân, vỏ xe: P = 2,5% giá trị thực tế của xe tỷ lệ cấu thành. - Riêng đối với trường hợp bảo hiểm không tính khấu hao thay mới thì công ty áp dụng biểu phí riêng. Tham gia hình thức này người được bảo hiểm có lợi ích cụ thể là: Khi rủi ro phát sinh công ty sẽ bồi thường cho xe không tính đến khấu hao thay mới các vật tư. Bảng 3: Tỷ lệ phí báo hiểm vật chất xe cơ giới không tính khấu hao thay mới Đơn vị: (%) Giá trị thực tế của xe Bảo hiểm toàn bộ giá trị xe Bảo hiểm thân vỏ xe 1. Xe sử dụng dưới 3 năm (giá trị còn lại trên 70% giá trị xe mới) 1,5% 2,5% 2. Xe sử dụng từ 3- 6 năm (giá trị còn lại từ 50% - 70% giá trị xe mới) 1,7% 2,7% 3. Xe sử dụng trên 6 năm (giá trị còn lại dưới 50% giá trị xe mới) 1,9% 2,9% Nguồn : “ Quy định của Bộ Tài chính” Nhưng cần lưu ý việc xác định chính xác giá trị thực tế của xe khi tham gia bảo hiểm, vì trên thực tế có nhiều xe tuy thời gian sử dụng không lâu nhưng trong quá trình sử dụng chủ xe không bảo quản tốt dẫn đến việc giá trị còn lại của xe không còn là bao so với giá trị xe mới. * Khu vực giữ xe và để xe: Trong thực tế, không phải công ty bảo hiểm nào cũng quan tâm đến nhân tố này. Tuy nhiên, cũng có một số công ty bảo hiểm tính phí bảo hiểm dựa theo khu vực giữ xe và để xe rất chặt chẽ. Những xe để tại bãi đỗ xe có nguy cơ xảy ra rủi ro lớn (như gần kho chứa xăng, dầu… ) thì sẽ phải đóng phí cao hơn những xe để tại những bãi đỗ xe có điều kiện an toàn hơn. * Mục đích sử dụng xe: Đây là nhân tố rất quan trọng khi xác định phí bảo hiểm. Nó giúp công ty bảo hiểm biết được mức đọ rủi ro có thể xảy ra. Ví dụ: Xe do một người về hưu sử dụng cho mục đích đi lại đơn thuần chắc chắn sẽ đóng phí bảo hiểm thấp hơn so với xe do một thương gia sử dụng để đi lại trong những khu vực rộng lớn. Rõ ràng xe lăn bánh trên đường càng nhiều khả năng xảy ra rủi ro càng lớn. Một số công ty bảo hiểm sử dụng những nhóm truyền thống sau: - Sử dụng xe loại A dành cho mục đích xã hội, nội bộ và giải trí do đích thân người được bảo hiểm sử dụng có liên quan tới nghề nghiệp của người đó ngoại trừ sử dụng với mục đích cho thuê, vận chuyển cho mục đích thương mại hay bất cứ mục đích nào có liên quan đến kinh doanh xe cơ giới và sử dụng để đua xe, thi tài hoặc ._.thử xe. Một số công ty bảo hiểm đồng ý giảm phí bảo hiểm nếu phạm vi bảo hiểm chỉ giành cho mục đích xã hội và nội bộ. Định nghĩa này vẫn cho phép người sở hữu đơn bảo hiểm dùng xe đi lại nơi làm việc của mình bởi vì nó được gộp cả cụm từ “xã hội, nội bộ, giải trí”. Nội dung đơn tiêu chuẩn loại A yêu cầu người được bảo hiểm phải ở trong xe khi xe được sử dụng cho mục đích công việc cho dù người được bảo hiểm không lái xe. Công việc nói trên phải là công việc của người được bảo hiểm. - Sử dụng loại xe B1 dành cho “mục đích xã hội, nội bộ, giải trí và sử dụng cho công việc của người được bảo hiểm và chủ lao động của người được bảo hiểm hay các cộng sự ngoại trừ sử dụng cho thuê, vận chuyển cho mục đích thương mại hay bất cứ mục đích nào có liên quan tới kinh doanh xe cơ giới, đua xe hoặc thử xe. Đây là loại sử dụng hoàn toàn cho công việc ngoại trừ vận chuyển cho mục đích thương mại. - Sử dụng cho loại xe B2 tương tự như loại xe B1 tuy nhiên phần loại trừ có khác biệt loại trừ sử dụng để vận chuyển hành khách, sử dụng cho thuê, hay để đua xe, thi tài hoặc thử xe. Không loại trừ vận chuyển cho mục đích thương mại. Tuy nhiên cách phân chia này khá phức tạp và khó hiểu rất khó áp dụng với thực tế mà cần phải căn cứ vào mức độ rủi ro thực tế của từng đối tượng tham gia bảo hiểm. * Tuổi tác và kinh nghiệm lái xe của người yêu cầu bảo hiểm và những người thường xuyên sử dụng chiếc xe được bảo hiểm. Số liệu thống kê cho thấy rằng các lái xe trẻ tuổi bị tai nạn nhiều hơn so với các lái xe lớn tuổi. Trong thực tế các công ty bảo hiểm thường áp dụng giảm phí bảo hiểm cho các lái xe trên 50 hoặc 55 tuổi, do kinh nghiệm cho thấy số người này gặp ít tai nạn hơn so với các lái xe trẻ tuổi. Tuy nhiên đối với các lái xe quá lớn tuổi (thường từ 65 tuổi trở lên) thường phải xuất trình giấy chứng nhận sức khỏe phù hợp để có thể lái xe thì công ty bảo hiểm mới nhận bảo hiểm Ngoài ra để khuyến khích hạn chế tai nạn, các công ty thường yêu cầu người được bảo hiểm tự chịu một phần tổn thất xảy ra với xe (hay còn gọi là mức miễn thường). Mức miễn thường này không giống nhau ở các công ty bảo hiểm. Mức miễn thường không phải lúc nào cũng căn cứ vào kinh nghiệm và người ta sẽ áp dụng một mức miễn thường bổ xung cho những lái xe thiếu kinh nghiệm (đó là những lái xe không có bằng lái xe đầy đủ, hoặc có thời hạn dưới 12 tháng). Đối với những lái xe trẻ tuổi mức miễn thường này thường cao hơn so với những lái xe có tuổi lớn hơn. Nếu một người được bảo hiểm lựa chọn một mức miễn thường tự nguyện để được giảm phí bảo hiểm, mức miễn thường đó sẽ được bổ xung thêm vào mức miễn thường áp dụng cho lái xe thiếu kinh nghiệm hoặc trẻ tuổi. * Giảm phí bảo hiểm Để khuyến khích các chủ xe có số lượng lớn tham gia bảo hiểm tại công ty mình, các công ty bảo hiểm thường áp dụng mức giảm phí so với mức phí chung theo số lượng xe tham gia bảo hiểm. Ngoài ra, hầu hết các công ty bảo hiểm còn áp dụng cơ chế giảm giá cho những người tham gia không có khiếu nại và gia tăng tỷ lệ giảm giá này cho một số năm không có khiếu nại gia tăng. Có thể nói đây là biện pháp phổ biến trong bảo hiểm xe cơ giới. Riêng đối với những xe hoạt động mang tính chất mùa vụ, tức là chỉ hoạt động một số ngày trong năm, thì chủ xe chỉ phải đóng phí cho những ngày hoạt động đó theo công thức sau: ở Việt Nam để thuận tiện cho việc tính toán thì số tháng xe hoạt động được làm tròn và phí bảo hiểm được tính như sau: - Xe hoạt động dưới 3 tháng phải đóng 30% phí cả năm - Xe hoạt động từ 3-6 tháng phải đóng 60% phí cả năm - Xe hoạt động từ 6-9 tháng phải đóng 90% phí cả năm - Xe hoạt động từ 9 tháng trở lên phải đóng 100% phí cả năm Ngoài ra đối với trường hợp xe chỉ hoạt động trong một thời gian mà chủ xe đã đóng phí cả năm thì công ty bảo hiểm sẽ hoàn lại một khoản phí nhất định, số phí được hoàn lại này cũng như là số phí được giảm đi trên mỗi đầu phương tiện tuy nhỏ, nhưng nếu doanh nghiệp có số đầu xe tham gia bảo hiểm lớn thì số tiền này rất đáng kể, hơn nữa nó còn tạo ra sự thoải mái cho khách hàng, bảo vệ quyền lợi cho người tham gia. * Biểu phí đặc biệt: Khi khách hàng có số lượng xe tham gia bảo hiểm nhiều, các công ty bảo hiểm có thể áp dụng biểu phí riêng cho từng khách hàng đó. Việc tính toán biểu phí riêng cũng tương tự như cách tính phí riêng như đã đề cập ở trên, chỉ khác là chỉ dựa trên các số liệu về bản thân khách hàng đó, cụ thể: - Số lượng xe của công ty tham gia bảo hiểm - Tình hình bồi thường tổn thất của công ty bảo hiểm cho khách hàng ở những năm trước đó. - Tỷ lệ phụ phí theo quy định của công ty Trường hợp mức phí đặc biệt thấp hơn mức phí quy định chung, công ty bảo hiểm sẽ áp dụng theo mức phí đặc biệt. Còn nếu mức phí đặc biệt tính được là cao hơn (hoặc bằng) mức phí chung, tức là tình hình tổn thất của khách hàng cao hơn (hoặc bằng) mức tổn thất bình quân chung, thì công ty bảo hiểm sẽ áp dụng mức phí chung. * Hoàn phí bảo hiểm Có những trường hợp chủ xe đã đóng phí bảo hiểm cả năm, nhưng trong năm xe không hoạt động một thời gian vì một lý do nào đó, ví dụ như ngừng hoạt động để tu sửa xe. Trong trường hợp này thông thường công ty bảo hiểm sẽ hoàn lại phí bảo hiểm của những tháng ngừng hoạt động đó cho chủ xe. Số phí hoàn lại được tính như sau: Phí hoàn lại = Phí cả năm x Mỗi công ty bảo hiểm có tỷ lệ hoàn phí là khác nhau, nhưng thông thường tỷ lệ này là 80%. Nếu chủ xe muốn hủy bỏ hợp đồng bảo hiểm khi chưa hết thời hạn hợp đồng thì thông thường công ty bảo hiểm cũng hoàn lại phí bảo hiểm cho thời gian còn lại đó theo công thức trên (nhưng với điều kiện là chủ xe chưa có lần nào được công ty bảo hiểm trả tiền bảo hiểm) sau khi đã trừ đi những chi phí quản lý cần thiết. 6. Giám định tổn thất 6.1. Nguyên tắc giám định Mục đích của công tác giám định là tìm ra nguyên nhân tổn thất và đánh giá một cách trung thực nhất mức độ của tổn thất. Kết quả của công tác giám định có tác động rất lớn tới bồi thường, do đó khi tiến hành giám định phải đảm bảo các nguyên tắc sau: - Việc giám định phải được thực hiện một cách sớm nhất sau khi nhận được thông tin tai nạn (theo quy định chung là 5 ngày). Nếu không tiến hành sớm được thì lý do của chậm chễ phải được thể hiện trong biên bản giám định. - Tiến hành giám định tất cả các thiệt hại thuộc trách nhiệm bảo hiểm - Trong trường hợp đặc biệt nếu công ty bảo hiểm không thực hiện được việc lập biên bản giám định, thì có thể căn cứ vào biên bản của cơ quan chức năng, chụp ảnh, hiện vật thu được, khai báo của chủ xe và kết quả điều tra. - Quá trình giám định phải có mặt và chữ ký xác nhận của chủ xe, lái xe bị thiệt hại hoặc người đại diện hợp pháp - Phải xác định được chính xác nguyên nhân tai nạn, mức độ thiệt hại làm cơ sở cho việc xác định trách nhiệm của bảo hiểm cũng như tính toán số tiền bồi thường. Trong quá trình giám định nếu cả hai bên không thống nhất được nguyên nhân cũng như mức độ của thiệt hại thì lúc này giám định viên trung gian sẽ được chỉ định làm công tác giám định. Khi đã có sự thống nhất của hai bên, biên bản giám định sẽ được thành lập. Nội dung của biên bản giám định phải phản ánh một cách trung thực, chính xác, rõ ràng và cụ thể về nguyên nhân cũng như mức độ của thiệt hại, có chữ ký xác nhận của các bên tham gia. 6.2. Quy trình giám định tổn thất Khi tai nạn xảy ra quy trình giám định phải tuân theo các bước sau: * Nhận thông tin Cũng như các loại đơn bảo hiểm khác, người bảo hiểm yêu cầu chủ xe (hoặc lái xe) khi xe bị tai nạn một mặt phải tìm mọi cách cứu chữa, hạn chế tổn thất, mặt khác phải nhanh chóng báo cho công ty bảo hiểm biết một số thông tin sau: - Tình hình tai nạn: số xe, chủ xe, thời gian, địa điểm xảy ra tai nạn, sơ bộ thiệt hại… - Nơi cấp giấy chứng nhận bảo hiểm, loại hình bảo hiểm tham gia, thời hạn bảo hiểm… - Tình hình giải quyết bước đầu của chủ xe và cơ quan chức năng. Chủ xe không được di chuyển, tháo dỡ hoặc sửa chữa xe khi chưa có ý kiến của công ty bảo hiểm, trừ trường hợp phải thi hành chỉ thị của cơ quan có thẩm quyền. Đồng thời cán bộ tiếp nhận thông tin phải đưa ra nhận định sơ bộ về phạm vi, trách nhiệm bảo hiểm và ghi sổ tiếp nhận tai nạn. Khảo sát giá, giám sát chi phí sửa chữa Bồi thường theo chi phí sửa chữa lại thiệt hại Thu hồi giá trị còn lại Bồi thường Xác định giá trị tổn thất thực tế Bồi thường dựa trên cơ sở đánh giá thiệt hại Hoàn chỉnh hồ sơ Thống nhất giá trị tổn thất quyết toán, nghiệm thu sửa chữa Cùng chủ xe lựa chọn phương án khắc phục Lập biên bản giám định Tiến hành giám định Hướng dẫn xử lý ban đầu Nhận thông tin Mệnh lệnh sơ bộ Bồi thường toàn bộ Sơ đồ giám định thiệt hại trong bảo hiểm vật chất xe cơ giới * Hướng dẫn xử lý ban đầu - Sau khi nhận được thông tin tuỳ từng tình hình và yêu cầu chủ xe: + Làm những việc cần thiết để hạn chế thiệt hại phát sinh + Bảo vệ hiện trường, tài sản hoặc xe + Khai báo với cơ quan chức năng để giải quyết tai nạn đúng luật - Báo cáo lãnh đạo - Lập phương án giám định - Thống nhất với lái xe, chủ xe về thời gian, địa điểm giám định. - Giám định viên có thể là người của công ty bảo hiểm, nếu không đủ khả năng hoặc có sự yêu cầu đổi giám định viên từ phía khách hàng thì có thể mời giám định viên trung gian tiến hành giám định. * Tiến hành giám định Đây là công đoạn quan trọng nhất của quá trình giám định, đòi hỏi phải thực hiện một cách cẩn trọng nhất: - Chuẩn bị các tài liệu, phương tiện cần thiết (biên bản giám định, máy ảnh…) cho công tác giám định. Thông báo cho các bên liên quan có mặt - Kiểm tra tính hợp lệ của giấy tờ bao gồm: + Giấy chứng nhận bảo hiểm + Đăng ký lái xe + Chứng nhận kiểm định an toàn kỹ thuật và môi trường + Bằng lái xe Nếu sao chụp các giấy tờ trên, giám định viên phải ký xác nhận vào bản sao. - Chụp ảnh: Phải chụp cả ảnh tổng thể và chi tiết + ảnh tổng thể phải chụp toàn bộ hiện trường tai nạn + ảnh chi tiết phải bộc lộ từng chi tiết bị thiệt hại. Phải dùng phấn, mực… để đánh dấu, khoanh vùng vị trí thiệt hại. Khi giám định những chi tiết hỏng bên trong phải chụp ảnh chi tiết tháo rời. Trường hợp thiệt hại nặng cần thiết chụp thêm số máy, số khung, năm sản xuất, hãng sản xuất. + Những vụ tai nạn có dấu hiệu do nguyên nhân kỹ thuật hay các nguyên nhân nằm trong loại trừ bảo hiểm, cần phải chụp ảnh những chi tiết có liên quan, để chứng minh nguyên nhân tai nạn. + Đưa ảnh vào hồ sơ có ngày chụp, tên người chụp, chú thích, đánh dấu xác nhận… - Ghi nhận chính xác, trung thực nguyên nhân, mức độ thiệt hại, nếu cần có thể tham khảo ý kiến của các chuyên gia liên quan đến đối tượng được giám định và các cơ quan kiểm nghiệm và xét ngiệm… - Nếu có những vấn đề đặc biệt, vượt quá khả năng thì phải thông tin, xin ý kiến chỉ đạo của lãnh đạo ngay. - Xác định mức độ thiệt hại thuộc trách nhiệm bảo hiểm. - Hướng dẫn chủ xe thực hiện các công việc tiếp theo sau khi giám định như: tiến hành cẩu kéo, bảo vệ tài sản, thu thập các giấy tờ, chứng từ có liên quan… Ngoài ra trong quá trình giám định cần phải chú ý: - Nếu thiệt hại nhẹ, nguyên nhân đơn giản rõ ràng, số lượng bộ phận hư hỏng không nhiều, bằng quan sát bên ngoài có thể đánh giá, xác định được mức độ thiệt hại thì chỉ cần lập biên bản giám định đơn giản và một lần. - Nếu tai nạn nghiêm trọng phá huỷ nhiều chi tiết, khó đánh giá đủ thiệt hại bằng quan sát thông thường thì ngoài biên bản giám định ban đầu còn phải có các biên bản giám định bổ xung phát sinh trong quá trình sửa chữa. Để không bỏ sót, biên bản giám định nên ghi chép theo trình tự hệ thống cấu tạo hoặc tổng thành. - Trường hợp hư hỏng nặng có mức độ thiệt hại lớn, có hư hỏng cho cả chi tiết nằm trong những cụm tổng thành đắt tiền như động cơ, hộp số, việc giám định bổ xung được thực hiện khi tháo rời các cụm đó và kèm theo bản đề xuất chấp nhận phương án sửa chữa - Trường hợp tai nạn có dấu hiệu từ nguyên nhân loại trừ bảo hiểm phải xuất phát từ hiện tượng, từ dấu vết hư hỏng để dự đoán lựa chọn phương án giám định, xác định nguyên nhân, từ đó có những kết luận thích hợp. Nếu cần thiết phải trưng cầu giám định chuyên môn, điều tra kỹ thuật hình sự. * Lập biên bản giám định Khi đã có những thống nhất về mức độ thiệt hại cũng như nguyên nhân xảy ra tai nạn giám định viên sẽ tiến hành lập biên bản giám định. Biên bản giám định phải nêu lên được nguyên nhân của tai nạn, mức độ thiệt hại thực tế, phần thiệt hại thuộc trách nhiệm của công ty bảo hiểm, và các thiệt hại nằm trong điều khoản loại trừ (nếu có). Các số liệu thu thập được phải phù hợp với dẫn chứng. Cuối biên bản phải có các nhận định, kết luận của giám định viên dựa trên các số liệu thu được trong quá trình giám định và có chữ ký xác nhận của các bên liên quan. Tất cả các nội dung trên phải được thể hiện một cách khách quan, trung thực, chính xác, rõ ràng và cụ thể toàn bộ diễn biến của quá trình giám định cũng như các kết quả thu được từ giám định. * Cùng chủ xe lựa chọn phương án khắc phục thiệt hại ở bước này chủ xe, lái xe sẽ cùng công ty bảo hiểm đi đến thống nhất về cách thức bồi thường thiệt hại: - Bồi thường thiệt hại dựa trên cơ sở chi phí sửa chữa lại thiệt hại: Đây là biện pháp mà công ty sẽ trả các chi phí để sửa chữa các hỏng hóc của xe bị tai nạn. Công ty hoặc chủ xe sẽ đưa xe đi sửa chữa (nếu là chủ xe thì phải có sự giám sát của công ty) nếu cần thiết thì có thể tiến hành đấu thầu sửa chữa - Xác định thiệt hại trên cơ sở đánh giá thiệt hại: Công ty sẽ nhanh chóng xác định giá trị thiệt hại thực tế của xe và tiến hành bồi thường theo giá trị thiệt hại. Biện pháp này chỉ áp dụng khi chi tiết bị hỏng không hoặc hiếm có thiết bị thay thế, hoặc trong trường hợp cần phải giải quyết gấp. -Tổn thất toàn bộ và xử lý tài sản thu hồi: Trường hợp này chủ xe sẽ nhận được tiền bồi thường theo giá trị bảo hiểm tham gia, Công ty sẽ tiến hành thu hồi và xử lý tài sản thu hồi. * Hoàn chỉnh hồ sơ bồi thường Khi yêu cầu cơ quan bảo hiểm bồi thường thiệt hại vật chất xe, chủ xe phải cung cấp những tài liệu chứng từ sau: - Tờ khai tai nạn của chủ xe - Bản sao của giấy chứng nhận bảo hiểm, giấy chứng nhận đăng ký xe, giấy kiểm định an toàn kỹ thuật và bảo vệ môi trường phương tiện cơ giới đường bộ, giấy phép lái xe - Kết luận điều tra của cơ quan công an hoặc bản sao bộ hồ sơ tai nạn gồm: + Biên bản khám nghiệm hiện trường + Biên bản khám nghiệm xe liên quan đến tai nạn + Biên bản giải quyết tai nạn - Biên bản hoặc quyết định của toà án trong trường hợp có tranh chấp tại toà án - Các biên bản tài liệu xác định trách nhiệm của người thứ ba - Các chứng từ xác định thiệt hại do tai nạn, ví dụ: chứng từ xác định chi phí sửa chữa xe, thuê cẩu kéo… Sau đó cán bộ bồi thường có trách nhiệm vào sổ theo dõi bồi thường Tóm lại, toàn bộ quy trình giám định là các bước độc lập với nhau, nhưng có quan hệ chặt chẽ với nhau tạo nên một chỉnh thể thống nhất. Nó có ảnh hưởng trực tiếp tới công tác bồi thường tổn thất được diễn ra ngay sau đó. Có thể nói, công tác giám định là bước đệm quan trọng tạo đà cho công tác bồi thường tổn thất được nhanh chóng và chính xác. 7. Công tác bồi thường 7.1. Nguyên tắc bồi thường Khi tiến hành bồi thường các công ty bảo hiểm phải tuân theo các nguyên tắc sau: - Giải quyết đúng chế độ bảo hiểm + Đúng trách nhiệm bảo hiểm: về đối tượng bảo hiểm, rủi ro nhận bảo hiểm. + Đúng thiệt hại thuộc phạm vi, trách nhiệm bảo hiểm + Trả tiền đúng đối tượng - Đủ căn cứ pháp lý chứng minh được: + Đối tượng được bảo hiểm đã gặp rủi ro nhận bảo hiểm khi hợp đồng bảo hiểm đang có hiệu lực. + Thiệt hại thuộc phạm vi nhận bảo hiểm. + Không vi phạm những điểm loại trừ - Thuận lợi, kịp thời: + Thuận lợi, chặt chẽ nhưng không phức tạp có thể thực hiện được. Có các phương án thay thế khi cần. Về cụ thể số tiền bồi thường sẽ được tính toán như sau: * Trường hợp xe tham gia bằng hoặc dưới giá trị thực tế Số tiền bồi thường = Thiệt hại thực tế *Trường hợp xe tham gia trên giá trị thực tế Theo nguyên tắc công ty bảo hiểm không chấp nhận trường hợp bảo hiểm trên giá trị thực tế đế tránh tình trạng trục lợi bảo hiểm. Nhưng nếu vì nguyên nhân nào đó từ phía người tham gia dù vô tình hay cố ý, thì khi tổn thất xảy ra công ty bảo hiểm cũng chỉ bồi thường bằng thiệt hại thực tế của xe. Ví dụ: Xe Matiz trị giá 250 triệu đồng, nhưng chủ xe tham gia bảo hiểm với số tiền bảo hiểm 300 triệu đồng. Giả sử tổn thất bộ phận 50 triệu, khi đó công ty bảo hiểm sẽ bồi thường 50 triệu đồng. Nếu xảy ra tổn thất toàn bộ công ty bảo hiểm chỉ bồi thường 250 triệu đồng. Nhưng bên cạnh đó công ty bảo hiểm cũng chấp nhận bảo hiểm trên giá trị thực tế. Theo đó chủ xe có thể tham gia bảo hiểm với số tiền bảo hiểm lớn hơn giá trị thực tế của xe. Khi tổn thất toàn bộ xảy ra công ty bảo hiểm sẽ bồi thường bằng đúng số tiền bảo hiểm. Tức là theo như ví dụ trên khi tổn thất toàn bộ chủ xe sẽ nhận được số tiền là 300 triệu đồng. Tuy nhiên, chủ xe phải đóng phí bảo hiểm khá cao, theo các điều kiện bảo hiểm khá nghiêm ngặt. * Trường hợp tổn thất bộ phận Về cơ bản khi tổn thất bộ phận xảy ra, công ty bảo hiểm cũng bồi thường theo hai nguyên tắc trên. Tuy nhiên các công ty bảo hiểm thường giới hạn mức bồi thường đối với tổn thất bộ phận bằng tỷ lệ giá trị tổng thành xe. Ví dụ: Xe Toyoto Corona tham gia bảo hiểm toàn bộ theo giá trị thực tế là 350 triệu đồng Trong đó: + Tổng thành thân vỏ : 53,5% 350 = 187,25 (triệu) + Động cơ : 15,5% 350 = 54,25 (triệu) Thiệt hại: + Thân vỏ : 150 (triệu) + Động cơ : 60 (triệu) Khi đó số tiền bồi thường sẽ là: + Thân vỏ : 150 (triệu) + Động cơ : 54,25 ( triệu) * Trường hợp tổn thất toàn bộ Xe được coi là tổn thất toàn bộ khi bị mất cắp, mất tích hoặc xe bị thiệt hại nặng đến mức không thể sửa chữa phục hồi để đảm bảo lưu hành an toàn, hoặc chi phí phục hồi bằng hoặc lớn hơn giá trị thực tế của xe. Nếu tổn thất toàn bộ, chủ xe sẽ được bồi thường theo giá trị ghi trên đơn bảo hiểm nếu tham gia bảo hiểm bằng hoặc nhỏ hơn giá trị thực tế, hoặc được bồi thường theo giá trị thực tế nếu tham gia bảo hiểm trên giá trị. Nếu xe tham gia bảo hiểm nhỏ hơn hoặc bằng giá trị thực tế của xe Số tiền bồi thường = Số tiền bảo hiểm – (khấu hao + tận thu (nếu có)) Ví dụ: Ngày 1.1.2002 xe tham gia bảo hiểm với số tiền bảo hiểm 400 triệu, khấu hao 5 năm. Ngày 25.12.2002 xe bị tai nạn hư hỏng toàn bộ. Giá trị tận thu là 25 triệu. Số tiền bồi thường là STBT = STBH - (khấu hao + tận thu) = 400 - (5% 400 1 + 25) = 355 (triệu) Các công ty bảo hiểm cũng quy định khi giá trị thiệt hại so với giá trị thực tế của xe bằng hoặc lớn hơn một tỷ lệ nhất định nào đó thì được xem là tổn thất toàn bộ ước tính. Tuy nhiên lại giới hạn bởi bảng tỷ lệ cấu thành xe. Ví dụ: Xe Zace tham gia bảo hiểm với số tiền bảo hiểm 400 triệu đồng (bảo hiểm toàn bộ) tại công ty bảo hiểm X . Theo quy định của công ty bảo hiểm X, xe chỉ được coi là tổn thất toàn bộ ước tính khi giá trị thiệt hại bằng hoặc lớn hơn 80% giá trị thực tế của xe tính theo bảng tỷ lệ cấu thành xe. Trong thời hạn bảo hiểm xe bị tai nạn thuộc phạm vi bảo hiểm, giá trị thiệt hại tính theo chi phí sửa chữa là: Thân vỏ thiệt hại 100% chi phí sửa chữa: 350 Triệu đồng Động cơ thiệt hại 100% chi phí sửa chữa: 100 Triệu đồng Hộp số thiệt hại 100% chi phí sửa chữa: 75 Triệu đồng Tổng giá trị thiệt hại: 345 Triệu đồng Giá trị thiệt hại như trên lớn hơn 80% giá trị thực tế của xe (345 Trđ/400 Trđ = 0,8625). Nhưng căn cứ vào bảng tỷ lệ tổng thành giá trị thì thiệt hại thuộc trách nhiệm của công ty bảo hiểm X là: Thân vỏ: 53,5% * 100% = 53,5% Động cơ: 15,5% * 100% =15,5% Hộp số: 7,0% * 100% = 7,0% Tổng cộng = 76% (0,76 < 0,8625) Trường hợp này không được coi là tổn thất toàn bộ ước tính, mà chỉ giải quyết bồi thường theo tổn thất bộ phận. Ngoài ra, khi tính toán số tiền bồi thường còn phải tuân theo những nguyên tắc sau: - Những bộ phận thay thế mới, khi bồi thường phải trừ khấu hao đã sử dụng hoặc chỉ tính giá trị tương đương với giá trị của bộ phân được thay thế ngay trước lúc xảy ra tai nạn. Nếu tổn thất xảy ra trước ngày 16 của tháng, thì tháng đó không phải tính khấu hao. Còn nếu tổn thất xảy ra từ ngày 16 trở đi thì phải tính khấu hao của tháng đó. - Công ty bảo hiểm sẽ thu hồi những bộ phận được thay thế hoặc đã được bồi thường toàn bộ giá trị. * Bảo hiểm trùng: Có những trường hợp chủ xe tham gia bảo hiểm vật chất xe theo một hay nhiều đơn bảo hiểm. Theo nguyên tắc hoạt động của bảo hiểm, tổng số tiền chủ xe nhận được từ tất cả các đơn bảo hiểm chỉ đúng bằng thiệt hại thực tế. Thông thường, các công ty bảo hiểm giới hạn trách nhiệm bồi thường của mình theo tỷ lệ giữa số tiền bảo hiểm ghi trong giấy chứng nhận bảo hiểm của công ty mình so với tổng số tiền bảo hiểm ghi trong tất cả các đơn bảo hiểm. 7.2. Quy trình bồi thường Về cơ bản trình tự bồi thường tuân theo các bước chính sau: Báo cáo trên phân cấp Đóng góp ý kiến Đòi người thứ ba Trả tiền Thông báo bồi thường Lãnh đạo công ty xét duyệt Phòng nghiệp vụ xem xét hoặc duyệt Tính toán, lập tờ trình bồi thường Phân loại, kiểm tra và hoàn thiện hồ sơ Tiếp nhận hồ sơ QUY TRìNH BồI THường BảO HIểM vật chất XE CƠ GiớI 1. Tiếp nhận hồ sơ khiếu nại bồi thường Cán bộ bồi thường sau khi nhận được hồ sơ khiếu nại bồi thường của chủ xe do giám định viên chuyển đến cần kiểm tra sơ bộ các chứng từ của hồ sơ và vào sổ khiếu nại. 2. Phân loại, kiểm tra và hoàn thiện hồ sơ Căn cứ vào loại hình tham gia bảo hiểm, quy tắc và hợp đồng bảo hiểm cán bộ bồi thường kiểm tra lại toàn bộ các tài liệu của hồ sơ khiếu nại. Trường hợp chưa đủ tài liệu chứng minh tổn thất, cán bộ bồi thường yêu cầu giám định viên cung cấp thêm những số liệu cần thiết theo đúng quy định trong quy tắc bảo hiểm hiện hành 3. Tính toán, lập tờ trình bồi thường Là quy định theo đó cán bộ bồi thường hoặc lãnh đạo phòng sẽ: Nghiên cứu kỹ hướng dẫn bồi thường để tính toán đúng đủ, chính xác số tiền bồi thường. Trên cơ sở có đủ hồ sơ và tài liệu, chứng tư chứng minh thiệt hại và nguyên nhân tai nạn, cán bộ bồi thường sẽ tiến hành tính toán số tiền bồi thường - Trong trường hợp giám định viên đã tính toán tổn thất thì cán bộ bồi thường xem xét, kiểm tra lại những khoản mục nào tính toán chưa đúng, loại trừ. - Xem xét, kiểm tra phương án khắc phục, các bản đề xuất về phương án giải quyết, sửa chữa xe bị tai nạn, giải quyết hàng hoá hư hỏng 4. Trình duyệt bồi thường Phòng nghiệp vụ trình lãnh đạo duyệt bồi thường bao gồm các nội dung sau: Tên người được bảo hiểm Đối tượng được bảo hiểm Đơn bảo hiểm, thời hạn bảo hiểm, số tiền bảo hiểm. Ngày thanh toán phí Tóm tắt sự kiện bảo hiểm ý kiến phòng nghiệp vụ Sau đó hồ sơ bồi thường sẽ được chuyển qua lấy ý kiến của các phòng có liên quan. Trường hợp có ý kiến trái ngược, các phòng cần xem xét lại để có ý kiến thống nhất trước khi trình lãnh đạo công ty duyệt 5. Thông báo bồi thường Hồ sơ bồi thường được lãnh đạo công ty duyệt, phòng nghiệp vụ sẽ gửi thư thông báo bồi thường cho khách hàng. Sau đó, phòng kế toán sẽ làm thủ tục trả tiền cho khách hàng theo đúng quy định. 6. Đòi người thư ba, xử lý tài sản bị hư hỏng Nếu tổn thất có liên quan đến lỗi của người thứ ba, phòng nghiệp vụ sẽ làm thủ tục thế quyền người được bỏ hiểm, sau đó lập hồ sơ đời người thứ ba và theo dõi giải quyết tiếp III. Trách nhiệm và quyền lợi của các bên tham gia bảo hiểm vật chất xe cơ giới 1. Quyền và nghĩa vụ của doanh nghiệp bảo hiểm 1.1. Doanh nghiệp bảo hiểm có quyền Thu phí bảo hiểm theo thoả thuận trong hợp đồng bảo hiểm Yêu cầu bên mua bảo hiểm cung cấp đầy đủ, trung thực những thông tin liên quan đến chiếc xe được bảo hiểm. Đơn phương đình chỉ thực hiện hợp đồng bảo hiểm khi chủ xe vi phạm những điều sau: + Cố ý cung cấp thông tin sai sự thật nhằm giao kết hợp đồng bảo hiểm để được trả tiền bảo hiểm hoặc được bồi thường + Trường hợp phát sinh thêm các nguy cơ làm tăng thêm rủi ro cho đối tượng được bảo hiểm nhưng chủ xe không thông báo cho cơ quan bảo hiểm. Hoặc chủ xe có thông báo nhưng không chất nhận mức tăng phí của công ty bảo hiểm + Không thực hiện các biện pháp bảo đảm an toàn cho đối tượng được bảo hiểm kể cả khi công ty đã gia thêm hạn để chủ xe thực hiện Từ chối trả tiền bảo hiểm cho chủ xe trong trường hợp tổn thất xảy ra không thuộc phạm vi bảo hiểm hoặc nằm trong điều khoản loại trừ. Yêu cầu bên mua bảo hiểm áp dụng các biện pháp đề phòng, hạn chế tổn thất theo quy định của luật bảo hiểm và các quy định khác của pháp luật có liên quan Yêu cầu người thứ ba bồi hoàn số tiền bảo hiểm mà doanh nghiệp bảo hiểm đã bồi thường cho chủ xe do lỗi của người thứ ba. Các quyền khác theo quy định của pháp luật. 1.2. Doanh nghiệp bảo hiểm có nghĩa vụ - Giải thích cho bên mua bảo hiểm các điều kiện điều khoản bảo hiểm, quyền và nghĩa vụ của bên mua bảo hiểm. - Cấp cho bên mua bảo hiểm giấy chứng nhận bảo hiểm, đơn bảo hiểm ngay sau khi giao kết hợp đồng bảo hiểm. - Bồi thường cho chủ xe khi xảy ra sự kiện bảo hiểm - Giải thích bằng văn bản cho chủ xe lý do từ chối bồi thường. - Phối hợp với bên mua bảo hiểm để giải quyết yêu cầu của người thứ ba đòi bồi thường về những thiệt hại thuộc trách nhiệm bảo hiểm khi xảy ra sự kiện bảo hiểm. - Các nghĩa vụ khác theo quy định của pháp luật. 2. Quyền và nghĩa vụ của bên mua bảo hiểm 2.1. Bên mua bảo hiểm có quyền - Lựa chọn doanh nghiệp bảo hiểm hoạt động tại Việt Nam để mua bảo hiểm - Yêu cầu doanh nghiệp bảo hiểm giải thích rõ ràng các điều kiện, điều khoản bảo hiểm, cấp giấy chứng nhận bảo hiểm hoặc đơn bảo hiểm. - Đơn phương đình chỉ hợp đồng khi doanh nghiệp bảo hiểm vi phạm những điều sau: + Doanh nghiệp bảo hiểm cố ý cung cấp thông tin sai sự thật nhằm giao kết hợp đồng + Doanh nghiệp bảo hiểm không thực hiện giảm phí khi chủ xe cung cấp những thông tin về giảm mức độ rủi ro của xe + Yêu cầu doanh nghiệp bảo hiểm bồi thường khi có tổn thất xảy ra thuộc phạm vi bảo hiểm. + Chuyển nhượng hợp đồng bảo hiểm theo thoả thuận trong hợp đồng bảo hiểm theo quy định của pháp luật + Các quyền khác theo quy định của pháp luật. 2.2. Bên mua bảo hiểm có nghĩa vụ - Đóng phí bảo hiểm đầy đủ, đúng thời hạn. - Kê khai đầy đủ, trung thực mọi chi tiết có liên quan đến hợp đồng bảo hiểm theo yêu cầu của doanh nghiệp bảo hiểm. - Thông báo các trường hợp có thể làm tăng rủi ro xảy ra tổn thất đối với đối tượng được bảo hiểm. - áp dụng các biện pháp đề phòng, hạn chế tổn thất theo quy định của Luật bảo hiểm và các luật khác có liên quan. - Khi có tổn thất xảy ra phải báo ngay cho doanh nghiệp bảo hiểm. - Các nghĩa vụ khác theo quy định của pháp luật. Chương II THựC TRạNG CÔNG TáC XáC ĐịNH PHí Và BồI THƯờng tổn thất trong bảo hiểm vật chất xe cơ giới tại công ty PJICO I. Giới thiệu khái quát về PJICO 1. Sự ra đời và phát triển Xuất phát từ chủ trương phát triển kinh tế đa thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, mà nổi bật là chủ trương cổ phần hoá và phát triển các công ty cổ phần theo Luật công ty năm 1990. Vì thề từ sau năm 1994 một loạt các công ty cổ phần bảo hiểm đã ra đời. Sự ra đời của các công ty bảo hiểm đó đã làm sôi động thêm thị trường bảo hiểm Việt Nam, vốn trước đây chỉ có một mình Bảo Việt hoạt động trong lĩnh vực phi nhân thọ. Hoà theo sự phát triển đó, năm 1995 Công ty cổ phần bảo hiểm Ptrolimex, tên giao dịch là PJICO (Ptrolimex Joint- Stock Insuarance Company) đã chính thức đi vào hoạt động. Công ty được thành lập theo giấy chứng nhận đủ tiêu chuẩn và điều kiện kinh doanh bảo hiểm số 06- TC/GCN ngày 27/5/1995 của Bộ Tài chính, giấy phép thành lập số 1873 GP- UB ngày 8/6/1995 của UBND thành phố Hà Nội và giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh số 060256 ngày 15/6/1995 của Uỷ ban kế hoạch (hiện là Sở kế hoạch đầu tư) Thành phồ Hà Nội. Công ty có trụ sở chính tại 22 Láng Hạ- Hà Nội. Tổng số vốn đầu tư ban đầu của công ty là 31 tỷ VNĐ. PJICO có 8 cổ đông lớn trong đó có 7 thành viên sáng lập và 1 thành viên tham gia, những công ty này đã có những đóng góp rất tích cực góp phần đưa hoạt động của Công ty ngày càng hiệu quả. PJICO là công ty cổ phần trách nhiệm hữu hạn thuộc sở hữu của các cổ đông, có tư cách pháp nhân, tự chủ về mặt tài chính, hạch toán độc lập. Công ty có thời hạn hoạt động là 25 năm, kể từ ngày được cấp giấp phép thành lập hoạt động, hết thời hạn trên nếu tiếp tục kinh doanh thì có thể xin gia hạn. Bảng 4: Danh sách sáng lập viên và số vốn góp Công ty Tỷ lệ vốn góp Vốn góp (Triệu đồng) 1. Tổng công ty xăng dầu Việt Nam (Petrolimex) 51% 28.050 2. Ngân hàng ngoại thương Việt Nam (Vietcombank) 10% 5.500 3. Tổng công ty thép Việt Nam (VSC) 6% 3.300 4. Công ty tái bảo hiểm quốc gia (Vinare) 8% 4.400 5. Công ty vật tư và thiết bị toàn bộ (Matexim) 3% 1.650 6. Công ty điện tử Nà Nội (Hanel) 2% 1.100 7. Công ty thiết bị an toàn (AT Co.,Ltđ) 0,5% 275 Nguồn: “Báo cáo tổng kết 5 năm hoạt động của PJICO” 2. Cơ cấu tổ chức của công ty PJICO PJICO là công ty cổ phần, do đó nó có cơ cấu tổ chức chặt chẽ, phân cấp quản lý từ trên xuống dưới. + Đại hội cổ đông: Đây là cơ quan có quyền lực cao nhất của PJICO bao gồm: Đại hội đồng thành lập Đại hội đồng thường niên Đại hội đồng bất thường + Hội đồng quản trị: là cơ quan quản lý PJICO, do đại hội cổ đông bầu ra và thay mặt cổ đông giữa hai kỳ đại hội, có toàn quyền nhân danh PJICO để quyết định các vấn đề liên quan đến mục đích, quyền lợi của PJICO trừ những vấn đề thuộc thẩm quyền của đại hội cổ đông. sơ đồ tổ chức bộ máy hoạt động công ty PJICO Đại hội cổ đông Tổng giám đốc Phó Tổng giám đốc Phó Tổng giám đốc Hội đồng quản trị Phòng tài sản hoả hoạn Phòng phi hàng hải Chi nhánh Nghệ An Phòng bảo hiểm Thanh Hoá Văn phòng bảo hiểm KVI Văn phòng bảo hiểm KV II Chi nhánh Hải Phòng Chi nhánh Quảng Ninh Phòng Tổng hợp Phòng quản lý nghiệp vụ Phòng bảo hiểm Quảng Nam Chi nhánh Đà Nẵng Chi nhánh Huế Phòng bảo hiểm Hàng hải Phòng tái bảo hiểm Chi nhánh Khánh Hoà Văn phòng bảo hiểm KV III Văn phòng bảo hiểm KV IV Văn phòng bảo hiểm KV V Văn phòng bảo hiểm KV VI Văn phòng bảo hiểm KV VII Phòng đầu tư Tín dụng Phòng kế toán Chi nhánh Quảng Bình Phòng BH Hà Tĩnh Ban thanh tra pháp chế Phòng tổ Chức cán bộ Phòng BH Cà Mau Ph._.ại Công ty Trong những năm qua, mặc dù nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe cơ giới tại PJICO có những bước tiến đáng kể với tốc độ tăng phí bình quân là 1,278, tỷ lệ giải quyết bồi thường ngày một tăng, hạ thấp tỷ lệ số vụ tồn đọng… Nhưng còn một thực tế công ty còn phải quan tâm đó là hiện tượng trục lợi bảo hiểm vẫn xảy ra. Số vụ gian lận bảo hiểm cũng như mức độ nghiêm trọng ngày một tăng. Bảng 12: Tình hình giải quyết hồ sơ khiếu nại bồi thường trong bảo hiểm vật chất xe cơ giới tại PJICO (1998- 2002) Đơn vị 1998 1999 2000 2001 2002 Số vụ khiếu nại Vụ 1.732 1.690 1.765 1.714 2.180 Số vụ bồi thường Vụ 1.664 1612 1.685 1.632 2.080 Số vụ nghi ngờ Vụ 121 117 125 130 167 Số vụ phát hiện Vụ 20 18 25 27 44 Tổng số tiền từ chối bồi thường Trđ 189 303 687 1071 1.583 Tổng số tièn từ chối bồi thường bình quân Trđ 9,45 16,83 27,48 39,67 35,98 Số tiền bồi thường Trđ 4.425 6.273 9.045 14.334 21.986 Tỷ lệ số vụ nghi ngờ so với số hồ sơ khiếu nại % 6,99 6,92 7,08 7,58 7,66 Tỷ lệ số vụ phát hiện so với số vụ nghi ngờ % 16,53 15,39 20,00 20,77 26,35 Tỷ lệ số tiền bồi thường % 4,27 4,83 7,6 7,47 7,2 Nguồn: “Báo cáo hàng năm của PJICO” Biểu đồ thể hiện tình hình giải quyết hồ sơ khiếu nại bồi thường BHVCXCG Qua bảng số liệu cho thấy: Tỷ lệ số vụ nghi ngờ so với hồ sơ khiếu nại tăng qua các năm (từ 6,69% năm 1998 đến 7,66% năm 2002) chứng tỏ trục lợi từ phía khách hàng ngày càng gia tăng Tỷ lệ số vụ phát hiện so với số vụ nghi ngờ gian lận tăng (từ 16,53% năm 1997 đến 26,35% năm 2001) cho thấy Công ty đã thực hiện tốt và ngày càng tốt hơn công tác phòng chống khiếu nại gian lận, trình độ chuyên môn của giám định viên cũng ngày một nâng cao. Việc phát hiện gian lận qua công tác giám định và từ chối bồi thường đã tiết kiệm cho Công ty một khoản chi phí từ năm 1998 đến năm 2002 là 3,833 tỷ đồng chiếm 6,84% tổng số tiền bồi thường Tỷ lệ số vụ phát hiện so với số vụ nghi ngờ tuy có tăng từ 16,53%- 26,35% từ năm 1998- 2002, tỷ lệ này là tương đối thấp, còn khoảng hơn 70% só vụ nghi ngờ chưa phát hiện được là Công ty chưa đủ chứng cớ để kết luận trục lợi. Mặt khác có thể còn do một số nguyên nhân sau: - Số lượng công việc khá lớn (trung bình 2- 3 ngày lại có một vụ) trong khi nhân viên của Công ty không phải là nhiều. - Trang bị về kỹ thuật cũng như khả năng đáp ứng nhu cầu làm việc chưa cao - Cán bộ chưa được hưởng những khuyến khích từ trục lợi (như chia % các vụ gian lận phát hiện được). - Phát sinh nhiều hình thức trục lợi. Như vậy gian lận bảo hiểm vật chất xe cơ giới đã gây ra cho Công ty những thiệt hại tài chính đáng kể do thất thoát bồi thường. Nếu ngăn chặn được tình trạng này thì chắc chắn chi bồi thường của Công ty sẽ giảm, điều này rất quan trọng với Công ty trong điều kiện cạnh tranh gay gắt như hiện nay. 3.2. Các hình thức trục lợi + Hợp lý hoá ngày xảy ra tai nạn và hợp đồng bảo hiểm: Hình thức này được sử dụng nhiều nhất, bởi phương thức thực hiện đơn giản. Tai nạn xảy ra khi hợp đồng hết hiệu lực. Chủ xe trục lợi bằng cách lùi này xảy ra tai nạn trong thời hạn có hiệu lực của hợp đồng. Hình thức này thường được thực hiện với sự tiếp tay của cơ quan chức năng. + Lập hồ sơ khiếu nại nhiều lần: Hình thức này được thực hiện khi chủ xe mua bảo hiểm ở nhiều công ty khác nhau mà không thông báo điều này khi họ gặp tai nạn để được bồi thường ở tất cả các công ty bảo hiểm. + Thay đổi tình tiết vụ tai nạn: Đây là trường hợp vi pham luật lệ giao thông, bằng lái hoặc giấy phép lưu hành hết hiệu lực hoặc không phù hợp với xe được lái, xe chở quá trọng tải, quá số lượng hành khách quy định… Khi xảy ra tai nạn đương nhiên các trường hợp này sẽ không nằm trong phạm vi bảo hiểm do đó sẽ không được bồi thường. Chủ xe có thể thay đổi các nguyên nhân xảy ra tai nạn để tai nạn nằm trong phạm vi được bảo hiểm. Cũng giống như trường hợp đầu loại hình trục lợi này có sự tiếp tay của nhân viên cơ quan có chức năng. Tuy nhiên ở hình thức này, cũng có thể là do chủ xe không hiểu hết quy tắc bảo hiểm. Do vậy cũng chưa thể kết luận là chủ xe có hành vi trục lợi bảo hiểm hay không. Bởi họ cho rằng khi có tai nạn xảy ra sẽ được bồi thường mà không chú ý đến các điều khoản lại trừ khác. + Tạo hiện trường giả: Trong trường hợp này thường đi liền với hình thức thay đổi biển số xe không bị tai nạn đã mua bảo hiểm vào xe bị tai nạn chưa mua bảo hiểm, hoặc đưa xe từ nơi bị tai nạn đến nơi khác để lập biên bản. Số tiền hòng trục lợi trong trường hợp này lớn, thủ đoạn tinh vi, chặt chẽ rất dễ đẫn đến bồi thường nhầm. + Khai tăng tổn thất: Khi bị tai nạn sẽ khai tổn thất lớn hơn tổn thất thực tế mà xe gặp phải nhằm nhận được tiền bồi thường lớn hơn thiệt hại thực tế. Tóm lại, tất cả những hình thức trục lợi từ phía khách hàng đều nhằm làm lợi một cách bất chính cho họ và điều này đã làm thiệt hại cho Công ty. Vấn đề này cần được nhìn nhận một cách nghiêm túc từ đó rút ra những giải pháp thiết thực nhằm hạn chế đến mức thấp nhất các trường hợp trục lợi bảo hiểm. Bởi vì trục lợi bảo hiểm không những làm xấu đi tình hình tài chính của Công ty mà còn làm giảm khả năng cạnh tranh cũng như uy tín của Công ty. * Nguyên nhân của tình trạng trên có thể là do: + Khách quan: - Từ phía Nhà nước: Ngày 1- 4- 2002 Luật kinh doanh bảo hiểm đã được áp dụng, đây là văn bản quan trọng nhất cho sự ra đời hành lang pháp lý trong kinh doanh bảo hiểm. Tuy nhiên, trong luật vẫn chưa có quy định về xử phạt đối với những trường hợp gian lận bảo hiểm bị phát hiện. Các công ty tự giải quyết bằng cách từ chối bồi thường những thiệt hại do hành vi gian lận và vẫn bồi thường các thiệt hại thuộc tránh nhiệm. Tình trạng này một phần do sự cạnh tranh gay gắt trên thị trường bảo hiểm, các công ty không muốn khởi tố (Mặc dù Luật dân sự (Điều 142) và Luật hình sự (Điều 134, 157) của nước CHXHCN Việt Nam đã quy định rõ hình phạt) vì vậy sẽ ảnh hưởng đến quy trình khai thác của nghiệp vụ. Chính diều này khiến những người có hành vi gian lận vẫn tiếp tục có ý đồ trục lợi, bởi nếu trót lọt thì được lợi, còn nếu bị phát hiện họ cũng không mất gì. Thêm vào đó các quy tắc của nghành bảo hiểm còn thiếu tính chặt chẽ, một số quy tắc còn lỏng lẻo, sơ hở, nhất là đối với những người vận dụng cẩu thả, dập khuôn. Quy định của một số văn bản cũng không rõ ràng, kín kẽ, khiến khách hàng nảy sinh ý định trục lợi. Ví dụ trường hợp xe chở quá trọng tải, khi xảy ra tai nạn họ thường bóc bớt hàng hoá để tổn thất của họ thuộc phạm vi bảo hiểm. Nếu như có giấy tờ kiểm định về số lượng hàng hoá vận chuyển trên xe thì sẽ tiện cho việc điều tra, giám dịnh của giám định viên. - Về phía thị trường bảo hiểm Việt Nam: Trong những năm gần đây thị trường bảo hiểm Viẹt Nam thực sự sôi động với sự ra đời của hàng loạt các công ty bảo hiểm, do dó cạnh tranh diễn ra trên thị trường mang ý nghĩa sống còn đối với mỗi công ty. Tuy nhiên, môi trường cạnh tranh vẫn chưa thật lành mạnh, cạnh tranh thiếu tổ chức vẫn tồn tại điều này càng thúc đẩy các hành vi gian lận. Bởi các công ty thường tập trung mũi nhọn vào khâu khai thác, giành giật khách hàng tạo nhiều sơ hở, khách hàng lại rất nhạy cảm đối với những sơ hở này. Mặt khác, khi có tai nạn xảy ra các công ty thường thiếu sự phối hợp chặt chẽ, do vậy hình thức khách hàng khiếu nại nhiều lần ở các công ty vẫn xảy ra. Hiện tương bảo hiểm trùng một phần do thiếu sự hiểu biết về nguyên tắc bảo hiểm, nhưng phần chính là ý đồ trục lợi, sự thiếu đồng bộ, không hợp tác của các công ty bảo hiểm đã được kách hàng tận dụng triệt để. Các công ty phát hiện ra các hình thức gian lận mới cũng không thông tin chuyên ngành cho nhau để rút kinh nghiệm, do vậy đối tượng gian lận dùng một hình thức mà vẫn sử dụng được ở nhiêu địa bàn khác nhau hoặc những vụ tượng tự. Tổng Công ty cũng như các chi nhánh của PIJICO trong những năm gần đây rất quan tâm đến vấn đề này vì số vụ trục lợi bị phát hiện ngày càng nhiều cả về số lượng lẫn mức độ nguy hiểm. Tuy nhiên, trang thiết bị kỹ thuật điều tra và phục vụ công tác phòng chống gian lận còn hạn chế rất cần được bổ sung. Đây cũng là yếu tố còn tồn tại trong việc ngăn chặn sự ra tăng khiếu nại gian lận bảo hiểm. - Một nguyên nhân khác cần phải nói đến là điều kiện địa lý hoạt động của xe cơ giới. Đặc điểm của xe cơ giới là nó không những hoạt động ở địa bàn nơi mua bảo hiểm mà còn hoạt động ở rất nhiều nơi khác, nên khi xảy ra tai nạn công việc giám định trực tiếp là rất khó khăn, mà một trong những yêu cầu của công tác giám định là nhanh chóng, kịp thời chính xác. Do vậy, việc giám định phải dựa trên các biên bản của cơ quan công an, mà đôi khi những văn bản này thiếu chính xác hoặc thiếu thông tin cần thiết, thậm chí thiếu trung thực. Mặt khác, việc xe cơ giới hoạt động ở điạ bàn rộng, xa khu dân cư, hoang vắng, gây khó khăn cho việc giữ nguyên hiện trường, tìm kiếm nhân chứng. Nhân chứng khai đôi khi không trung thực hoặc bị mua chuộc. Có những trường hợp (tuy không nhiều) do họ tự nguyện khai sai bởi nhận thức về bảo hiểm nói riêng và trình độ dân trí nói chung còn thấp. Họ không hiểu đúng ý nghĩa của bảo hiểm, cộng thêm tinh thần nhân đạo vô trách nhiệm, bởi họ cho rằng khai sai để giúp đỡ người gặp tai nạn để lấy tiền bồi thường của Công ty để khắc phục khó khăn là một việc làm tốt. Tóm lại, những thiệt hại về xe cơ giới khi tai nạn xảy ra là rất lớn, với ý định trục lợi dể bù đắp một phần nào đó của thiệt hại đã dẫn đến các hành vi gian lận. Tuy nhiên, với một hành lang pháp lý chặt chẽ, một thị trường bảo hiểm cạnh tranh lành mạnh, các biện pháp xử lý kiên quyết của Công ty cùng các cơ quan chức năng, và khả năng thực hiện tốt công tác giám định của Công ty thì có thể ngăn chặn đáng kể các hành vi trục lợi. + Chủ quan - Nguyên nhân đầu tiên là trình độ nghiệp vụ và khả năng của nhân viên bảo hiểm: Đây là vấn đề đặt ra đối với nghành bảo hiểm nói chung chứ không phải của riêng PJICO. Về trình độ và kinh nghiệm một phần do nghành bảo hiểm nước ta còn non trẻ, phần khác có thể là do các nhân viên bảo hiểm chưa được đào tạo một cách chuyên sâu nghiệp vụ. PJICO khai thác chủ yếu dựa trên giấy chứng nhận bảo hiểm, ít đòi hỏi chủ xe cho kiểm tra các giấy tờ cần thiết của chiếc xe được bảo hiểm, càng tạo điều kiện cho hành vi gian lận bảo hiểm xảy ra. Mặt khác cần phải nói đến tinh thần trách nhiệm của nhân viên, để giải quyết nhanh chóng quá trình bồi thường, nhiều nhân viên bỏ qua khâu rà soát các giấy tờ có liên quan đến hành vi gian lận và điều này được các chủ xe có ý đồ gian lận lợi dụng một cách triệt để. - Một nguyên nhân khác đó là: Mặc dù phải mất nhiều thời gian, chi phí cho công tác điều tra các vụ có nghi ngờ gian lận, nhưng các nhân viên của Công ty chưa có chế độ khuyến khích thích đáng cho kết quả đạt được, do vậy chư tạo được động lực thúc đẩy tích cực làm việc cho nhân viên. - Nguyên nhân không kém phần quan trọng đó là sự thông đồng của các nhân viên cơ quan liên quan. Sự thông đồng này dù vô tình hay cố ý đều khiến Công ty bị thiệt thòi trong bồi thường. Hành vi thông đồng này cần được xem xét và xử lý một cách nghiêm minh, bởi nó là hành vi của những người biết luật thực thi luật mà lại cố tình vi phạm và còn liên quan đến sự suy thoái phẩm chất nghề nghiệp và tính nghiêm minh của pháp luật. Còn nghiêm trọng hơn nếu có sự tiếp tay của chính nhân viên của Công ty bảo hiểm, bởi vì họ đã có kiến thức cơ bản về bảo hiểm và khi đó rất khó phát hiện cũng như xử lý. ở đây lỗi một phần do sự thiếu thận trọng trong công tác tuyển dụng, cũng như giám sát nhân viên, cộng tác viên của Công ty. Với hàng loạt các nguyên nhân kể trên khiến tình trạng khiếu nạn gian lận càng tăng cả về số lượng và sự tinh vi trong quá trình tiến hành. Nhưng nguyên nhân sâu xa chính là sự thiệt hại nặng nề về tài chính do tai nạn gây ra khiến các chủ xe nảy sinh ý định trục lợi để phần nào bù đắp tổn thất, và hậu quả là những thiệt hại về mặt tài chính của công ty. Nghiên cứu các hình thức gian lận, nguyên nhân của gian lận giúp Công ty thấy được thực trạng và từ đó đề ra các biện pháp ngăn chặn, xử lý và kịp thời thay đổi những tồn tại trong công tác quản lý. Chương III Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả trong công tác xác định phí và bồi thường tổn thất trong BHVC xe cơ giới tại PJICO I. Trong công tác xác định phí Sự an toàn về mặt tài chính là mối quan tâm hàng đầu của bất kỳ công ty kinh doanh bảo hiểm nào, Sự an toàn ở đây chính là khả năng thanh toán của quỹ thuộc sự quản lý của công ty, tức là khả năng của công ty thanh toán các khiếu nại phát sinh. Có ba yếu tố có thể đe doạ đên sự an toàn của Công ty đó là: - Phí bảo hiểm đã thu và các khoản dự phòng đã lập không đủ do hậu quả của những số liệu thống kê sai, và thông tin về nghiệp vụ không thích hợp, hoặc có những thay đổi, ví dụ như các khiếu nại ngày càng tăng lên, và không có các hành động diều chỉnh kịp thời - Khả năng tích tụ về số lượng hoặc mức độ của các khiếu nại không được thu xếp thích hợp, thông thường qua việc tái bảo hiểm - Tổn thất về đầu tư và các tài sản khác trong những tình huống đặc biệt Đối với bảo hiểm phi nhân thọ, nguyên nhân chính của mối nguy hiểm dối với công ty bảo hiểm là do phí bảo hiểm và các khoản dự phòng được lập không đầy đủ. Tại PJICO nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe cơ giới là một trong những nghiệp vụ có doanh thu cao và cũng là một trong các nghiệp vụ có tỷ lệ bồi thường cao nhất (Năm 2002 tỷ lệ bồi thường của nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe cơ giới là 67,1%). Do đó, nếu có sự sai sót trong cách tính phí cũng như lập các quỹ dự phòng của Công ty sẽ ảnh hưởng đến khả năng chi trả của Công ty tức là ảnh hưởng đến sự an toàn của Công ty. Việc thu phí bảo hiểm không đầy đủ trong giai đoạn vài năm mà Công ty bảo hiểm không hề nhận biết được có thẻ xảy ra nếu các khoản dự phòng thích hợp đối với phí chưa được hưởng và đối với các khoản bồi thường cho các khiếu nại chưa thanh toán không thực hiện đúng thời gian. Cơ bản mà nói, khả năng thanh toán liên tục của công ty bảo hiểm phi nhân thọ tuỳ thuộc vào quỹ của các cổ đông cùng với phí bảo hiểm thu được. Vì xét cho cùng vốn của các cổ đông là khoản chênh lệch giữa tài sản có và các nguồn tài chính của một công ty bảo hiểm, không tính dến vốn của các cổ đông, theo đó bất kỳ sự đánh giá quá cao nào về tài sản có và định giá quá thấp các tài sản nợ đều sẽ ảnh hưởng đến việc tăng quỹ của các cổ đông. Để biết được giá trị thực khi đánh giá bên tài sản có của bảng cân đối tài sản, cần phải khấu trừ toàn bộ hoặc một phần giá trị của một số hạng mục như: - Khấu trừ toàn bộ lợi thế của công ty và những khoản nợ không đảm bảo của một công ty liên kết hoặc công ty trực thuộc. Lợi thế Công ty là số tiền gia tăng thường được trả thể hiện mức giá trị vượt quá tài sản thực có của công ty. “Tài sản” này không phải là vật hữu hình mà trong các trường hợp đặc biệt (ví dụ như không đủ khả năng thanh toán) sẽ không có giá trị chuyển đổi trên thị trường. - Các khoản nợ không đảm bảo đương nhiên là có giá trị thấp hơn các khoản vay có đảm bảo; và vì Tổng công ty có thể ít kiểm soát các chi nhánh, các tài sản thuộc loại này có giá trị không đảm bảo. - Khấu trừ 2/3 giá trị các tài sản cố định (không kể bất động sản). Tài sản cố định là tài sản của công ty có thể bao gồm đất đai, nhà cửa, thiết bị văn phòng, xe cộ, nhà máy và máy móc. Hầu hết tài sản có thuộc loại này được định giá căn cứ vào công việc kinh doanh đang tiến hành và trong trường hợp cần bán gấp, các tài sản này có thể không thể bán được bằng số tiền ghi trong các báo cáo kế toán - Khấu trừ 1/3 giá trị của bất động sản. Bất động sản là đất và nhà do Công ty sở hữu hoặc cho thuê dài hạn. Chiết khấu thấp hơn phản ánh tính chất dễ mua bán của các loại tài sản này. - Khấu trừ 1/3 cổ phần trong các công ty liên kết. Vì Tổng công ty có thể ít hoặc không kiểm soát các công ty liên kết, vì vậy việc đánh giá thường dựa vào chủ quan: do đó cần phải thực hiện việc khấu trừ. - Kiểm tra để đảm bảo rằng giá trị được thể hiện trong bảng tổng kết tài sản đối với bất kỳ khoản đầu tư có yết giá nào cũng không được vượt quá giá thị trường hiện tại của chúng. Nếu không chỉ số giá thị trường hiện tại phải được thay thế. - Kiểm tra đảm bảo số dư ở các đại lý hoặc ở Công ty không được vượt quá 20% của toàn bộ tài sản có (sau khi đã khấu trừ đi tất cả những mục nêu trên). Số dư của đại lý, đơn giản là số tiền các đại lý nợ công ty của mình, và trong nhiều trường hợp số tiền này phải được hoàn trả trong thời gian ngắn. Trong một công ty thành lập lâu năm, số dư của một đại lý sẽ là một trong số các tài sản đa dạng. Tuy nhiên, đối với một công ty mới thành lập như PJICO sẽ phải phụ thuộc nhiều hơn vào phí bảo hiểm của hợp đồng mới và con số này theo đó sẽ cao hơn như là một phần của tài sản có. Khi số dư của một đại lý tăng lên, đó là dấu hiệu của sự yếu kém trong hệ thống quản lý tín dụng của Công ty và điều này sẽ là nguyên nhân phát sinh các vấn đề khác. Cho dù số dư của đại lý sẽ được giàn trải ở hàng loạt các trung gian bảo hiểm và do vậy sai sót của một đại lý đơn lẻ sẽ không gây ảnh hưởng quá lớn, nhưng nếu có sự nghi ngờ chung về sự an toàn của công ty bảo hiểm, thì số dư ở đại lý có thể giảm đột ngột do các hợp đồng bảo hiểm bị huỷ và điều này sẽ ảnh hưởng đến luồng tiền của công ty bảo hiểm. Phải kiểm tra về tiền mặt, số dư trong tài khoản ngân hàng và tiền gửi ngắn hạn không thấp hơn 6% của toàn bộ tài sản có. PJICO cũng như tất cả cá công ty bảo hiểm khác đề cần tiền mặt để đáp ứng các nhu cầu trước mắt, ví dụ như để thanh toán cho một loạt các khiếu nại không theo dự tính. Tiền mặt làm cơ sở cho việc cân đối tài sản và bảo vệ công ty khỏi những biến đọng ngắn hạn. Một số công ty khác (không phải là công ty bảo hiểm) mất khả năng thanh toán đã cho thấy, mặc dù người ta vẫn nhìn thấy rõ một số lượng các tài sản có của Công ty, nhưng nếu không có tiền mặt thanh toán cá hoá đơn thì Công ty sẽ bị thất bại. - Phải kiểm tra để đảm bảo rằng các khoản đầu tư có yết giá theo giá thị trường cộng với tiền mặt, số dư tại ngân hàng, tiền gửi ngắn hạn phải tương ứng với các quỹ bảo hiểm bao gồm cả khiếu nại chưa giải quyết thể hiện ở bên tài sản nợ của bảng tổng kết tài sản. Đây chỉ là chỉ số về khả năng thanh toán của một công ty, trong đó tài sản có hiện tại cân bằng với tài sản nợ hiện tại, có nghĩa là công ty có đủ các nguồn để thanh toán các khoản nợ chưa đến hạn. - Cần nhận thấy sự cần thiết đối với công ty bảo hiểm trong việc duy trì một chính sách đầu tư rông và lành mạnh để đảm bảo đáp ứng các yêu cầu về tiền mặt nhắn hạn và dài hạn, đồng thời xem xét các loại đầu tư khác nhau. Đối với hầu hết các công ty bảo hiểm, mục lớn nhất trong phần tài sản nợ của bảng cân đối tài sản là mục dự phòng thanh toán cho các khiếu nại tồn đọng và tiếp đến là khoản dự phòng phí chưa được hưởng đối với bảo hiểm phi nhân thọ. Vì vậy điều quan trong là công ty phải dành riêng một khoản dự phòng phí chưa được hưởng, ức là phí thu được phải đảm bảo lập được quỹ dự phòng này. Dự phòng không đủ trong khoảng thời gian vài năm có thể dẫn đến sự suy giảm các nguồn cuả công ty. Tuy nhiên, để xác định được sự đầy đủ của các dự phòng. Điều này chỉ có thể thực hiện được với một hiểu biết chi tiết về thu nhập phí của từng loại bảo hiểm trong bảo hiểm phi nhân thọ và các khiếu nại tồn đọng của mỗi nghiệp vụ bảo hiểm. Trong trường hợp này đó chính là phí thu được và các vụ khiếu nạn đọng của nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe cơ giới. Khi tài sản có của Công ty đã được kiểm tra, nếu cần thiết được tính toán lại và tổng các tài sản nợ của công ty (không kể vốn của các cổ đông) được đánh gía bằng cách lấy tài sản có trừ đi các khoản nợ sẽ ra biên khả năng thanh toán. Điều quan trọng là biên khả năng thanh toán của công ty không được thất hơn 25% của tổng thu nhập phí bảo hiểm sau khi trừ phí tái bảo hiểm. Hay nói một cách khác, phí bảo hiểm thu được phải đảm bảo thực hiện được nguyên tắc định phí của Công ty như: đủ để bồi thường các khiếu nại phát sinh, lập được quỹ dự phòng giao động lớn, bù đắp chi phí hoạt động kinh doanh và cuối cùng là phải đem lại lợi nhuận cho Công ty. II. Trong công tác bồi thường tổn thất 1. Nâng cao trình độ chuyên môn của giám định viên Công tác bồi thường của Công ty sẽ không thể đạt được hiệu quả cao nhất nếu có những yếu kém về mặt chuyên môn của giám định viên làm công tác giám định. Vì có giám định chính xác, kịp thời thiệt hại thì công tác bồi thường tổ thất mới nhanh chóng và chính xác được. Muốn vậy, Công ty cần phải quan tâm tới một số các vấn đề sau. - Hành lang pháp luật với bảo hiểm chưa nhiều, các điều khoản ,luật vẫn còn đang được hoàn thiện để từ đó có một bộ luật thống nhất, đầy đủ về bảo hiểm. Bộ luật quan trọng nhất mới được ban hành là luật kinh doanh bảo hiểm (ngày 1-4-2001) tạo cơ sở cho sự phát triển của ngành bảo hiểm .Với những văn bản luật mới được áp dụng cần cho nhân viên nắm vững, để cho mọi hoạt động của Công ty luôn chấp hành đúng quy định của Nhà nước. - Thường xuyên gửi cán bộ đi học củng cố, nâng cao kiến thức chuyên môn, bổ xung những kiến thức ngoài chuyên môn như tin học, ngoại ngữ, công nghệ mới trong ngành… Tuyên truyền, nâng cao ý thức đạo đức cho giám định viên bởi quyết định của họ có ảnh hưởng lớn đến số tiền bồi thường. Đồi các với trường hợp không đủ trình độ, Công ty cần xem xét bổ xung kiến thức, nếu không thể thì có thể thuyên chuyển xang làm công tác phù hợp hơn. - Có chế độ thi tuyển rộng rãi, thu hút người tài về Công ty. Bởi vì mỗi cá nhân trong Công ty đóng vai trò quan trọng đối với hoạt động của nhũng người còn lại. Thường xuyên tổ chức tập huấn nâng cao nghiệp vụ cho nhân viên để họ theo kịp yêu cầu công tác. 2. Các biện pháp đề phòng hạn chế tổn thất - Phối hợp với cảnh sát giao thông để tổ chức các chiến dịch phòng ngừa tai nạn thông qua các phương tiện thông tin đại chúng. - Với những đoạn đường nguy hiểm Công ty có thể cho xây dựng các công trình làm giảm độ nguy hiểm của đoạn đường như: đường lánh nạn, gương cầu, tường chắn… để hạn chế tai nạn. Thành lập các trạm cấp cứu giao thông thường trực 24/24 tại các đoạn đường có mật độ xe cao. Để thực hiện biện pháp này, Công ty có thể phối hợp cùng với Nhà nước thực hiện để giảm bớt chi phí. - Trong trường thiệt hại xảy ra thì tìm mọi biện pháp hạn chế tổn thất xảy ra thêm như: khoanh vùng tai nạn, thuê người trông coi… - Thực hiện các cuộc nghiên cứu, điều tra về nguyên nhân tai nạn, mức độ thiệt hại trong từng trường hợp cụ thể, sau đó tư vấn cho khách hàng về những nguyên nhân của những tai nạn có thể xảy ra đối với xe của họ và các biện pháp phòng tránh thích hơp. Biện pháp này sẽ có tác dụng nâng cao tinh thần cảnh giác của lái xe, chủ xe, hạn chế đến mức thấp nhất các tai nạn có thể xảy ra. - áp dụng hệ thống ước tính chi phí sửa chữa bằng máy vi tính. Để giải quyết bồi thường hiệu quả và hợp lý hơn. Công ty có thể trang bị thêm các phần mềm cần thiết cho hệ thống máy vi tính. Việc ước tính chi phí sửa chữa có thể được tự động tính ngay sau khi những số liệu cần thiết dược truy cập vào máy vi tính. 3. Bảo đảm chính xác và kịp thời cho người thụ hưởng trong bồi thường tổn thất Khi tai nạn xảy ra, các chủ xe có mua bảo hiểm thường mong muốn công ty nhanh chóng bồi thường cho họ, để họ có thể nhanh chóng ổn định và đi vào hoạt động sản xuất bình thường. Vì vậy, khi có hồ sơ khiếu nại, trong thời gian sớm nhất có thể, Công ty phải giải quyết cho khách hàng tránh dể tồn đọng hồ sơ, từ đó sẽ tạo được lòng tin nơi khách hàng. Muốn vậy, công ty cần phải: - Hướng dẫn chi tiết và cụ thể các bước trong quá trình thu thập hồ sơ, chứng từ có liên quan đến vụ tai nạn để đảm bảo giải quyết bồi thường nhanh chóng, bởi một phần các vụ tồn dọng là do không đủ giấy tờ. - Các vụ nghi ngờ gian lận cũng cần được điều tra nhanh chóng để đưa ra các kết luận rõ ràng về việc có bồi thường hay không (phải được thông báo rõ ràng bằng văn bản), tránh ỷ lại vì có sự nghi ngờ nên trì trệ trong việc giải quyết hồ sơ. - Với các vụ tai nạn ở xa, cần phải có sự phối hợp kịp thời giữa Tổng công ty và các công ty bảo hiểm trực thuộc để nhanh chóng xét giải quyết bồi thường cho khách hàng. 4. Nhanh chóng phát hiện và xử lý các trường hợp trục lợi bảo hiểm Khi có sự nghi ngờ gian lận bảo hiểm trong đơn khiếu nại của khách hành, Công ty phải tiến hành điều tra khẩn trương, giữ bí mật công tác điều tra, không cho chủ xe biết. Bởi nếu có sự rò rỉ thông tin sẽ đánh động cho chủ xe có phương án đối phó kịp thời. Nếu phát hiện có trục lợi phải có ngay các biện pháp ngăn chặn và xử lý nghiêm minh như: Ngừng ngay việc chi trả bồi thường, truy đòi người tham gia bảo hiểm những chi phí mà Công ty đã bỏ ra trong quá trình điều tra và huỷ bỏ hợp đồng, nếu quá nghiêm trọng có thể đưa ra truy tố trước pháp luật… Đối với từng trường hợp gian lận bảo hiểm cần phải có từng biện pháp xử lý riêng. Cụ thể là: - Nếu nghi ngờ có hiện tượng hợp lý hoá ngày tai nạn và hiệu lực bảo hiểm thì việc đầu tiên là kiểm tra lại giấy chứng nhận bảo hiểm xem có hợp lý không. Nếu đã thấy hợp lý thì việc giám định chủ yếu dựa vào việc xác minh tại hiện trường cùng lời khai của các nhân chứng để xác định đúng ngày xảy ra tai nạn, bao gồm tổng hợp các công việc sau: + Xác minh tại hiện trường dựa trên các dấu vết còn lại xem có phù hợp với tai nạn như lời khai của chủ xe, lái xe không + Xác minh dựa trên lời khai của các nhân chứng + Xác minh qua các đối tượng liên quan trong vụ tai nạn như người bị thương trên xe, người thứ ba, đã được đưa đi cấp cứu ở đâu, vào lúc nào… + Xác minh hành trình của xe: hành trình từ đâu, vào lúc nào, đã từng bốc hàng hay chở hàng ở đâu… Sau đó bằng các biện pháp nghiệp vụ có thể kêt luận thời điểm xảy ra tai nạn. - Nếu có sự nghi ngờ về hiện tượng lập hồ sơ khiếu nại nhiều lần. Để ngăn chặn hiện tượng này rất cần có sự phối hợp của các công ty bảo hiểm trên thị trường với nhau như: trao đổi những thông tin có liên quan đến chiếc xe bị tai nạn… Điều này có thể thực hiện được thông qua mạng Internet. - Nếu nghi ngờ có hiện tượng thay đổi tình tiết vụ tai nạn thì cần: + Đọc kỹ lời khai của lái xe, biên bản khám nghiệm hiện trường để tim ra nguyên nhân của vụ tai nạn + Đối chiếu bản gốc của các loại giấy tờ liên quan: giấy phép lái xe, giấy phép lưu hành… - Nếu có nghi ngờ về sự tạo hiện trường giả thì qua điều tra các dấu vết còn sót lại trên hiện trường xem có phải là xe đã bị tai nạn ở đây hay không, đối chiếu với những dấu vết trên xe bị tai nạn. Hoặc đối chiếu biển số xe với số khung, số máy để xác định xem xe đang nằm trên hiện trường có phải là xe đã tham gia bảo hiểm hay không. - Nếu có sự nghi ngờ khai tăng tổn thất thực tế thì cần: + Kiểm tra lại các chứng từ mà chủ xe đã cung cấp về giá trị pháp lý cũng như tính hợp lý của nó so với thị trường. + Nếu xe do chủ xe tự đem đi sửa chữa thì cần theo dõi thường xuyên trong quá trình sửa chữa, chú ý công tác nghiệm thu sửa chữa xem bộ phận hư hỏng thực tế đã được thay thế, sửa chữa đúng chủng loại, chất lượng hay chưa… - Nếu có nghi ngờ tai nạn xảy ra là do sự cố ý của lái xe để nhận được tiền bồi thường thì cần phải có các biện pháp xử lý thích hợp vì đây là trường hợp vi phạm nghiêm trọng nhất và cũng khó phát hiện nhất. Ngoài ra Công ty cũng cần phải tạo được mối quan hệ tốt với công an, cảnh sát giao thông, để giám sát chặt chẽ trong các trường hợp lái xe vi phạm các quy tắc về đảm bảo an toàn giao thông, giảm thiểu tối đa sự móc nối của lái xe với những với công an. Xiết chặt mối quan hệ với các xưởng sửa chữa xe cơ giới có uy tín vừa để đảm bảo chất lượng sửa chữa, vừa tránh được trường hợp chủ xe câu kết với xưởng sửa chữa để khai tăng giá. Kết luận Với sự phát triển không ngừng của khoa học kỹ thuật, cũng như đời sống của dân cư, nhu cầu bảo hiểm cho bản thân và tài sản của họ ngày càng tăng, trong đó không thể thiếu được bảo hiểm vật chất xe cơ giới, các chủ xe đã xem bảo hiểm như là phương thức xử lý thiệt hại khi tai nạn xảy ra. Do đó để giành được sự thu hút cũng như sự tín nhiệm lâu dài của khách hàng, mỗi công ty bảo hiểm đều cần phải có những chính sách hợp lý, an toàn về khai thác, định phí, bồi thường, đề phòng hạn chế tổn thất. Phí bảo hiểm và khả năng bồi thường của công ty bảo hiểm luôn là điều quan tâm hàng đầu của khách hàng khi ký kết hợp đồng. Vì nó thể hiện chất lường phục vụ của công ty đối với khách hàng, đây là yếu tố quyết định đến sự thành công hay thất bại trong hoạt động kinh doanh của công ty. Do vậy, để tồn tại và phát triển PJICO phải không ngừng học hỏi kinh nghiệm, nghiên cứu và đề ra các biện pháp khả thi để hoàn thiện hơn nữa công tác này. Qua hơn 7 năm hoạt động và phát triển, các mục tiêu tăng trưởng và hiệu quả trên bình diện công ty đã đực thực hiện khá tốt, các đơn vị đã có nhiều sáng kiến trong việc triển khai các nghiệp vụ, dặc biệt là trong nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe cơ giới. Tuy nhiên Công ty phải nhận thức còn nhiều khó khăn, thách thức còn ở phía trước, vì vậy PJICO trong thời gian tới cần phải hoạt động, sáng tạo nhiều hơn nữa để nghiệp vụ bảo hiểm vật chất xe cơ giới là người bạn đường cần thiết và không thể thiếu được với mỗi chủ xe nói riêng và mỗi người dân nói chung Do hạn chế về thời gian cũng như kiến thức nên chuyên đề chỉ dừng lại ở phạm vi nghiên cứu nhỏ là: “định phí và bồi thường tổn thất trong bảo hiểm xe cơ giới”. Trên thực tế để Công ty đạt được một vị thế vững chắc trên thị trường cần thiết phải nghiên cứu một cách chi tiết và toàn diện đối với tất cả các nghiệp vụ của Công ty Tài liệu tham khảo 1. Giáo trình: kinh tế Bảo hiểm, chủ biên: GS.TS. Hồ Sỹ Sà, Khoa Bảo hiểm- Trường ĐH KTQD - Hà Nội năm 2002. 2. Giáo trình: Quản trị kinh doanh Bảo hiểm, chủ biên: PGS.PTS Nguyễn Cao Thường, khoa bảo hiểm, trường ĐH KTQD năm 1998. 3. Giáo trình Bảo hiểm, chủ biên: PGS.TS. Hồ Xuân Phương, Võ Thị Pha, trường ĐH TC- KT Hà Nội năm 1999. 4. Bảo hiểm- Nguyên tắc & thực hành, David- E.Bland, Học viện bảo hiểm Hoàng gia Anh, năm 1993. 5. Nguồn số liệu của Tổng công ty cổ phần bảo hiểm Petrolimex. 6. Quy tắc bảo hiểm xe cơ giới, Tổng công ty bảo hiểm Việt Nam, năm 2002. 7. Luật kinh doanh bảo hiểm. 8. Tạp chí bảo hiểm. 9. Tạp chí giao thông vận tải. Mục lục ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docD0015.doc
Tài liệu liên quan