Công ty cổ phần và vai trò của nó trong phát triển kinh tế ở nước ta hiện nay

Phần 1 Lời mở đầu Đất nước ta đã trải qua rất nhiều biến chuyển trong lịch sử ,không những về mặt chính trị mà cả về lĩnh vực kinh tế .Một trong những dấu mốc quan trọng là tại đại hội đảng lần thứ VI(12/1986) Đánh dấu sự đổi mới to lớn của nền kinh tế Việt Nam .Quá trình chuyển đổi từ nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp nay chuyển sang nền kinh tế thị trường .Quá trình chuyển đổi này không chỉ làm thay đổi một cách sâu sắc nền kinh tế nước ta về mặt cơ cấu kinh tế,cơ chế vận hành,quan hệ

doc31 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1412 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Công ty cổ phần và vai trò của nó trong phát triển kinh tế ở nước ta hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
sở hữu mà còn có cả sự xuất hiện của những tổ chức kinh tế mới ,trong đó có công ty cổ phần. Công ty cổ phần là một hình thức kinh doanh xuất hiện từ thế kỷ VII, nó trở nên phổ biến ở hầu hết các nước có nền kinh tế phát triển .những kết quả mà nó đã đạt được trong hơn một thế kỷ qua đã minh chứng cho tầm qua trọng vĩ mô của nó .Bất kỳ một nước nào muốn tiến lên,đi kịp thời đại đều không thể bỏ qua hình thức kinh doanh này .Đối với việt nam ,nền kinh tế còn non trẻ việc áp dụng quản lý theo công ty cổ phần chăc chắn sẽ nâng cao hiệu quả kinh tế về mọi mặt của nền kinh tế quốc dân . Vì vậy, việc đưa ra và bàn bạc vấn đề ‘‘Công ty cổ phần và vai trò của nó trong phát triển kinh tế ở nước ta hiện nay ’’ là xuất phát từ sự cấp thiết và tính thời sự của nó. Chính vì những lý do trên mà em chọn đề tài này. Em xin trân thành cảm ơn thầy Trần Tiến đã giúp đỡ em hoàn thành bài viết này. Sinh viên thực hiện Đỗ Thị Quyên. Phần 2: Nội dung Chương 1: lý luận chung về công ty cổ phần . Sự ra đời và phát triển của công ty cổ phần . Khái niệm chung về công ty cổ phần Vào những năm cuối thế kỷ XIX và đầu thế XX kỷ ,nhiều phát minh mới ra đời ,làm cho lực lượng sản xuất và cơ cấu kinh tế có sự thay đổi ,ngành công nghiệp nhẹ chuyển sang công nghiệp nặng,nhu cầu tư bản đòi hỏi với quy mô lớn ,quy luật tích tụ và tập trung sản xuất hoạt động mạnh .Sản xuất ngày một tập trung vào các xí nghiệp lớn –Công t y cổ phần . Như vậy: công ty cổ phần là hình thức tổ chức phát triển của sở hữu hỗn hợp ,từ hình thức sở hữu vốn của một chủ sang hình thức sở hữu vốn của nhiều chủ diễn ra trên phạm vi công ty . Nó là sản phẩm tất yếu của quá trình xã hội hoá về mặt kinh tế xã hội và cũng là sản phẩm tất yêu của quá trình tích tụ vầ tập trung hoá sản xuất của nền sản xuất lớn hiện đại Công ty cổ phần là là loại hình tổ chức công ty mà vốn của nó do nhiều cổ đông góp lại thông qua việc mua bán cổ phiếu do công ty phát hành. Theo luật thương mại của Anh quốc thì có 2 loại công ty cổ phần: -Công ty công cộng :là loai công ty mà cổ phiếu của nó được mua bán trao đổi trên thị trường chứng khoán .Loại công ty này tương đương với công ty vô danh của pháp . -Công ty riêng :tương đương với công ty trách nhiệm hữu hạn của pháp Lôgic và lịch sử cho thấy rằng có 3 con đường hình thành công ty cổ phần . Hình thành theo con đường truyền thống Điều đó có nghĩa việc hình thành đi từ công ty một chủ sang công ty nhiều chủ từ thấp đến cao theo quy luật tự nhiên Hình thành do liên doanh liên kết giữa nhà nước với kinh tế tư bản tư nhân trong nước và nước ngoài . Con đường từ cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nước thành công ty cổ phần . Vì sao lại hình thành các công ty cổ phần trên thế giới . Thứ nhất ,trong nền sản xuất hàng hoá ,do tác động của quy luật giá trị dẫn đến cạnh tranh khốc liệt giữa các nhà tư bản ,buộc họ phải cải thiện và nâng cao kỹ thuật,nâng cao năng suất lao động ,giảm chi phí sản xuất sao cho giá trị hàng hoá cá biệt của của mình thấp hơn hoặc bằng mức giá trị hàng hoá xã hội thì mới có thể tiếp tục tồn tại và phát triển. Điều này thường chỉ có những nhà tư bản lớn ,có quy mô sản xuất ở những mức độ nhất định,mới có khả năng để trang bị những kỹ thuật hiện đại ,làm năng suất lao động tăng lên,do đó mới có thể dành thắng lợi trong cạnh tranh. Các nhà tư bản vừa và nhỏ để tránh khỏi thua lỗ trong cạnh tranh phải tự tích tụ vốn đẻ mở rộng quy mô sản xuất và hiện đại hoá các trang thiết bị ,máy móc kỹ thuật .Ttừ hình thức tập trung vốn như vậy các công ty cổ phần dần dần đã hình thành và phát triển ngày càng mạnh mẽ . Thứ hai, dọ sự phát triển của lực lượng sản xuất đòi hỏi vốn cố đinh ngày càng tăng,từng nhà kinh doanh không thể đáp ứng được yêu cầu trên ,phải có sự liên minh hùn vốn để cùng nhau kinh doanh .Hơn nữa do kỹ thuật ngày càng phát triển làm suất hiện ngày càng nhiều ngành nhiều lĩnh vực kinh doanh và những mặt hàng mới có hiệu quả hơn thu hút cá nhà tư bản đổ xô vào các ngành ,lĩnh vực và các mặt hàng mới này bằng cách di chuyển tư bản từ những ngành lĩnh vực và các mặt hàng đang kinh doanh kém hiệu quả .Để làm điều này các nhà tư bản gặp nhiều khó khăn khi thực hiện di chuyển vốn ,biện pháp khắc phục mà họ đã chọn là phải tìm cách liên minh với nhau ,cùng nhau góp vốn để xây dựng những xí nghiệp mới .Cùng chung mục đích đi tìm lợi nhuận siêu ngạch họ đã gặp nhau và nhanh chóng thoả thuận cùng nhau góp vốn thành lập các công ty cổ phần để cùng nhau kinh doanh . Thứ ba:sản xuất phát triển ,trình độ kỹ thuật càng cao ,cạnh tranh càng khốc liệt thì sự rủi ro trong kinh doanh được đe doạ ,phá sản đối với nhà tư bản càng lớn .Để tránh rủi ro và qua kinh nghiệm của cuộc sống các nhà tư bản phải phân tán tư bản của mình để tham gia vào nhiều tư bản cá biệt khác .Với cách làm này , một mặt các nhà tư bản tìm cách chia sẻ thiệt hạicho nhiều người khi gặp rủi ro .Mặt khác do có được một số đông người tham gia quản lý ,tập trung được trí tuệ ,công ty cổ phần đạt dược hiệu quả kinh doanh ,kinh doanh cao hơn và ít rủỉ ro hơn . Tóm lại: S ự hình thành các công ty cổ phần là kết quả tất yếu của quá trình tập trung tư bản .Nó diễn ra mạnh mẽ cùng với sự phát triển của nền đại công nghiệp và sự tự do cạnh tranh Các giai đoạn hình thành và phát triển của công ty cổ phần . Có bốn giai đoạn: Giai đoạn 1: là gai đoạn mầm mống công ty cổ phần đầu tiên xuất hiện mang tên công ty Đông ấn do thương nhân Anh thành lập .Năm 1773 tại London hình thức đầu tiên của sở giao dịch chứng khóan ra đời vào năm 1801 thì chính thức được thành lập .Trường giao dịch chứng khoán ở Mỹ ra đời vào năm 1790. Giai đoạn2 :Là giai đoạn hình thành trước và sau cuộc cách mạng công nghiệp chủ yếu là nửa đầu thế kỷ 19 ,các công ty cổ phần chính thức lần lượt ra đời với hình thức tổ chức và hình thức phân phối riêng của chúng .Khoảng giữa thế kỷ XVIII đầu thế kỷ XIX ,công ty cổ phần đã xuất hiện trong lĩnh vực giao thông vận tải :đường sông, đường sắt … Giai đoạn 3: Là giai đoạn phát triển ,sau những năm 70 của thế kỷ XIX. Các công ty cổ phần đã phát triển rất nhanh mọc nên một cách rất phổ biến ở tất cả các nước ,các ngành quy mô sản xuất mở rộng mạnh mẽ,tập trung tư bản diễn ra với tốc độ chưa từng thấy như :Cacten, Xanhđica,TơRot Đến năm 1930 số công ty cổ phần ở Anh là 86000 và 90% tư bản Anh đều chịu sự khống chế của công ty cổ phần .ở Mỹ năm 1909 có tới 26200 công ty cổ phần .Đến năm 1939 số công ty cổ phần ở Mỹ chiếm 51,7% trong số các xí nghiệp công nghiệp . Giai đoạn 4: Là giai đoạn trưởng thành .sau chiến tranh thế giới lần 2,công ty cổ phần ngày càng trở nên hoàn thiện hơn về cơ cấu tổ chức và phát triển mạnh mẽ trên quy mô to lớn. Công ty cổ phần ra đời trên cơ sở nền sản xuất xã hội hoá đặc biệt là xã hội hoá về vốn ,quan hệ tín dụng phát triển ,quan hệ thị trường hình thành đầy đủ .Trải qua mấy trăm năm ,công ty cổ phần đã phát triển ở hầu hết tất cả các nước tư bản theo xu hướng từ giản đơn đến phức tạp ,từ quy mô nhỏ đến quy mô lớn ,từ một lĩnh vực đến nhiều lĩnh vực ,từ một ngành đến đa ngành từ một quốc gia đến các công ty xuyên quốc gia . Vai trò của công ty cổ phần đối với sự phát triển kinh tế . 1.31 Công ty cổ phần và đặc điểm của nó . Công ty cổ phần là một hình thức tổ chức kinh doanh có tư cách pháp nhân và các cổ đông chỉ có trách nhiệm pháp lý hữu hạn trong phần vốn góp của mình .Vốn của công ty cổ phần được chia thành nhiều phần bằng nhau gọi là cổ phần .Giá trị mỗi cổ phần gọi là mệnh giá cổ phiếu trong đó là môt thứ chứng khoán có giá trị ghi nhận quyền sở hữu cổ phần Đồng thời đảm bảo cho người chủ sở hữu có quyền lĩnh một phần thu nhập của công ty tương ứng với số tiền ghi trên cổ phiếu .Mỗi công ty chỉ được phép phát hành một số lượng cổ phiếu nhất định .Cổ phiếu thường và cổ phiếu ưu đãi do công ty phát hành hình thành nên vốn cổ phiếu của công ty .Cổ phiếu chứng minh tư cách thành viên của ngươi góp vốn vào công ty cổ phần ,những thành viên này gọi là cổ đông .Mỗi thành viên có thể mua 1 hoặc nhiều cổ phiếu .Quyền trách nhiệm và lợi ích của mỗi cổ đông phụ thuộc vào số lượng cổ phiếu của họ trong công ty.Cổ đông nắm được số lượng cổ phiếu khống chế thì có thể nắm được quyền chi phối hoạt động của công ty . Cơ cấu tổ chức và điều hành công ty cổ phần : Do đặc điểm nhiều chủ sở hữu trong công ty cổ phần nên các cổ đông không trực tiếp thực hiện vai trò chủ sở hữu của mình ,mà phải thông qua tổ chức đại diện làm nhiệm vụ tổ chức trực tiếp quản lý công ty bao gồm : Đại hội cổ đông ,hội đồng quản trị ,giám đốc điều hành và ban kiểm soát . Đại hội cổ đông: là cơ quan quyết định cao nhất của công ty ,đại hội của những người cổ đông sở hữu đối với công ty cổ phần .Đại hội cổ đông có 3 hình thức là đại hội đồng thành lập ,đại hội cổ đông bất thường và đại hội cổ đông . Hội đồng quản trị: Là bộ máy quản trị của công ty cổ phần bao gồm những thành viên có trình độ chuyên môn cao và quản lý giỏi để có thể hoàn thành tốt các nhiệm vụ do đại hội đồng cổ đông giao phó .Số thành viên do đại hội đồng cổ đông quyết định và được ghi vào điều lệ công ty .Hội đồng quản trị có toàn quyền nhân danh công ty để quyết định mọi vấn đề có liên quan đến mục đích quyền lợi của công ty, trừ các vấn đề thuộc thẩm quyền của đại hội đồng .Hội đồng quản trị tự bầu chủ tịch hội đồng và chủ tịch hội đồng có thể kiêm tổng giám đốc công ty nếu điều lệ công ty không quy định khác Giám đốc điều hành :Là người điều hành hoạt động hàng ngày của công ty và chịu trách nhiệm trước hội đồng quản trị,về việc thực hiện các nhiệm vụ và quyền hạn được giao .Về thực chất giám đốc điều hành là người làm thuê cho chủ tịch hội đồng quản trị ,giám đốc không làm việc theo nhiệm kỳ mà làm việc theo thời hạn hợp đồng ký kết với chủ tịch hội đồng quản trị. Ban kiểm soát : Có vai trò giám sát mọi hoạt động của công ty .Số lượng uỷ viên kiểm soát tuỳ theo điều lệnh của công ty .Những người này không phải thành viên của hội đồng quản trị hoặc giám đốc . Phân chia lợi nhuận trong công ty cổ phần : Trong công ty cổ phần quan hệ phân phối được thực hiện theo nguyên tắc vốn góp của các cổ đôngvà lệ thuộc vào lợi nhuận của công ty .Lợi nhuận của công ty sau khi dùng các khoản chung cần thiết ,phần còn lại được chia đều cho các cổ đông tỷ lệ với phần góp vốn của họ và được gọi là lợi tức cổ phần . Vai trò của công ty cổ phần. Nó có vai trò vô cùng to lớn đối với sự phát triển kinh tế, cụ thể là: Công ty cổ phần có khả năng tập chung vốn nhanh chóng với quy mô lớn để thực hiện các hoạt dộng sản xuất kinh doanh khổng lồ mà không có nhà tư bản riêng biệt nào có thể tự mình làm nổi .Các-Mác đã đánh vai trò này cccủa công ty cổ phần như sau : “Nếu như cứ phải chờ cho đến khi tích luỹ làm cho một nhà tư bản riêng lẻ lớn đến mức có thể đảm đương việc xây dựng đường sắt thì ngày nay thế giới vẫn chưa có đường sắt .Ngược lại qua công ty cổ phần, sự tập trung đã thực hiện điều đó trong nháy mắt ’’. Mặt khác công ty cổ phần còn góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng vốn bởi vì các lí do sau: Do tình hình cấp phát tài chính bằng huy động vốn đã đề cao trách nhiệm của doanh nghiệp, nâng sự quan tâm đến hiệu quả sử dụng đồng vốn.Mặt khác do sức ép của cổ đông trong việc đổi chia lãi cổ phần và muốn duy trì mức giá cổ phiếu cao trên thị trường chứng khoán khiến doanh nghiệp phải phấn đấu nâng cao hiệu quả sử dụng đồng vốn . Do lợi nhuận của công ty cổ phần khác nhau trong cá lĩnh vực khác nhau thúc đẩy nên có thể dẫn dắt tiền vố nhàn rỗi từ nhiều kênh khác nhau trong xã hội vào các lĩnh vực, vào cácngành có năng suất lao động và tỷ suất lợi nhuận cao làm cho vốn được phân bổ và sử dụng có hiệu quả trong nền kinh tế. Đó là côngty cổ phần tạo ra một cơ chế phân bổ rủi ro đặc thù đã hạn chế được những tác động tiêu cựcvề kinh tế xã hội khi một doanh nghiệp lâm vào tình trạng khủng hoảng chế độ trách nhiệm hữu hạn đã hạn chế đến mức thấp nhất những thiệt hại của sự rủi ro .Vốn tự do của công ty cổ phần đã được huy động thông qua phát hành cổ phiếu là vốn của nhiều cổ đông. Do đó san sẻ rủi ro cho nhiều cổ đông .Nhờ vậy, khi công ty cổ phần phá sản ,hậu quả tiêu cực về kinh tế xã hộiđược hạn chế ở mức thấp nhất.Cấch thức huy động vốn của công ty cổ phần đã tạo điều kiện cho các nhà đầu tư tài chính có thể mua cổ phiếu ,trái phiếu của các công ty ở nhiều ngành khác nhau nên giảm bớt được tổn thất khi công ty bị phá sản so với việc đầu tư vào một công ty .Cơ chế phân bố rủi ro này đã tạo điều kiện cho những người có vốn ,mạnh dạn đầu tư ,làm cho nền kinh tế phát triển và có xu hướng ổn định .Việc phát hành chứng khoán của công ty cổ phần cùng với việc chuyển nhượng, mua bán chứng khoán –trái tim của thị trường vốn .ý nghĩa căn bản của sự ra đời thị trường chứng khoán là ở chỗ : Đó là nơi khai thông các nguồn tiết kiệm của những người tích luỹ đến các nhà đầu tư , là cơ chế phân bổ các nguồn vốn đầu tư phù hợp với yêu cầu của nền kinh tế thị trường. Công ty cổ phần đảm bảo sự tham gia đông đảo của công chúng, là cơ cấu tổ chức quản lý chặt chẽ phân định rõ ràng giữa quyền sở hữu và quyền kinh doanh .nên đã tạo điều kiện cho người lao động tham gia vào công ty một cách thực sự. Vai trò cuối cùng của công ty cổ phần đó là :công ty cổ phần là hình thức kinh doanh tốt nhất để tranh thủ sự tham gia của các nhà đầu tư nước ngoài .Với một nền kinh tế đang phát triển thì việc thu hút nguồn vốn khoa học kỹ thuật ,trình độ quản lý thông qua thông qua liên doanh liên kết với nước ngoài là vô cùng cần thiết để phát triển nền kinh tế trong nước . Công ty cổ phần tuy có vai trò to lớn đối với sự phát triển kinh tế - xã hội nhưng không có nghĩa là không có những hạn chế .Chẳng hạn :chế độ trách nhiệm hữu hạn đã chuyển bớt rủi ro cho những chủ nợ .Mức độ ảnh hưởng của các cổ đông đối với hoạt động kinh doanh của công ty không giống nhau có thể dẫn đến việc lợi dụng và lạm dụng hoặc làm nảy sinh tranh chấp và phân hoá lợi hoá lợi ích giữa các cổ đông hay các nhóm cổ đông khác nhau .Tính công khai của công ty cổ phần là một ưu điểm đối với nước xã hội chủ nghĩa nhưng nó lại là một hạn chế đối với hoạt động kinh tế vốn có đặc tính kín đáo. Chương 2 : Công ty cổ phần – thực trạng quá trình cổ phần hoá ở Việt Nam 2.1 Quá trình hình thành công ty cổ phần ở Việt Nam. 2.11 Tính tất yếu khách quan của việc hình thành công ty cổ phần ở nước ta. Công ty cổ phần là hình thức kinh tế mới xuất hiện khi nước ta chuyển sang nền kinh tế nhiều thành phần sự hình thành công ty cổ phần ở nước ta là một thực tế khách quan ,một xu hướng tất yếu không thể đảo ngược .Để phân tích điều này phải chỉ ra điều kiện cần và đủ để hình thành công ty cổ phần ở nước ta. Thứ nhất : ở nước ta cần phải hình thành công ty cổ phần dựa trên một số căn cứ sau : Xuất phát từ nhu cầu chuyển dịch cơ cấu kinh tế sang hướng đa dạng hoá sở hữu .Xác định người chủ đích thực sở hữu nhà nước thay đổi phương thức quản lý và hoạt động sản xuất kinh doanh để thích nghi với cơ chế thị trường quá trình hình thành công ty cổ phần bằng việc cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước là con đường hiệu quả nhất Xuất phát từ nhu cầu huy động vốn của tổ chức ,cá nhân trong và ngoài nước để phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước Điểm đặc biệt của cơ chế huy động vốn của công ty cổ phần là có thể thu hút được các nguồn vốn lớn của các ngân hàng đến nguồn vốn vô cùng nhỏ của tầng lớp dân cư .Cơ chế huy động vốn của công ty cổ phần là có thể thu hút các nguồn vốn lớn của các ngân hàng đến các nguồn vốn vô cùng nhỏ của tầng lớp dân cư .Cơ chế huy động vốn của công ty cổ phần ở trình độ xã hội hoá rất cao so với huy động vốn của ngân hàng .Đây là cách huy động vốn tiên tiến nhất phù hợp với xu thế phát triển của nền kinh tế hiện đại . Xuất phát từ mục tiêu nâng cao hiệu quả hoạt động của hệ thống doanh nghiệp trong toàn bộ nền kinh tế ,đặc biệt là hệ thống doanh nghiệp nhà nước .Động lực lợi ích là mục tiêu tối thượng của doanh nghiệp của người có vốn cũng như người lao động .Nó là cơ sở bên trong thúc đẩy việc nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp ,đòi hỏi phải tìm đến một hình thức kinh tế thích hợp là công ty cổ phần .Bởi trong công ty cổ phần quyền sở hữu và quyền sử dụng tài sản được phân tách rõ ràng nên cơ chế phân phối lợi ích được giải quyết tương đối ổn thoả . Xuất phát từ nhu cầu cải cách hệ thống doanh nghiệp nhà nước .Để nâng cao vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước ,hiện nay khu vực doanh nghiệp nhà nước kinh doanh với hiệu quả rất kém vì vậy việc cải cách hệ thống doanh nghiệp nhà nước theo hướng đa dạng hoá hình thức sở hữu cải tiến quản lý và nâng cao hiệu quả trở nên cấp bách hơn bao giờ hết .Một trong những biện pháp cải cách doanh nghiệp nhà nước hiện nay ở Việt Nam là cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước. Như vậy quá ttình hình thành công ty cổ phần từ cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước là xu hướng tất yếu hiện nay .Sự hình thành công ty cổ phần là sự phát triển hợp với xu thế thời đại hiện xu hướng quốc tế hoá đời sống kinh tế và cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước diễn ra ở mọi nước trên thế giới .Trong bối cảnh quốc tế đó sự giao lưu hoà nhập hợp tác kinh tế giữa các quốc gia là tất yếu khách quan. Một trong các hình thức liên kết dưới các quốc gia dưới hình thức góp vốn kinh doanh là công ty cổ phần vì đây là hình thức kinh tế có trình độ xã hội hoá cao, phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất và quốc tế hoá đời sống kinh tế của nhiều quốc gia Mặt khác hiện nay các quốc gia trên quốc tế đều vực dậy khu vực doanh nghiệp nhà nước bằng cổ phần hoá. Nên trong bối cảnh quốc tế như vậy chúng ta thúc đẩy quá trình cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước là phù hợp với xu thế quốc tế hoá và với điều kiện thực tế của Việt Nam hiện nay. Thứ hai : Việt Nam hịên nay đã và đang chuẩn bị đủ các điều kiện cho công ty cổ phần ra đời vì : Nền sản xuất đang dần từng bước chuyển từ sản xuất nhỏ kỹ thuật thủ công sang nền sản xuất bằng kỹ thuật cơ khí hiện đại .Từ sản xuất tự cung tự cấp sang nền sản xuất hàng hoá mở rộng giao lưu với bên ngoài, phân công lao động từng bước mở rộng .Các loại thị trường đang dần dần hình thành điều đó có nghĩa là trình độ xã hội hoá sản xuất đã phát triển đạt đến trình độ nhất định ,tạo điều kiện cho công ty cổ phần ra đời trong nền kinh tế thị trường có nhiều thành phần ở nước ta hiện nay . Hệ thống ngân hàng thương mại đang chuyển từ cơ chế hoạt động cho vay với lãi xuất âm kiểu bao cấp sang hoạt động kinh doanh với lãi xuất dương từ hạch toán kinh doanh và có lãi suất,song song với nó là hệ thống ngân hàng thương mại cổ phần ra đời huy động vốn rộng rãi cả trong nước và nước ngoài hoạt động theo cơ chế mới đó là những điều kiện ban đầu vô cùng quan trọng để công ty cổ phần ra đời .Bởi vì hệ thống ngân hàng này sẽ giúp các công ty cổ phần mới thành lập phát hành cổ phiếu đồng thời chính các ngân hàng này sẽ là các nhà đầu tư cổ phiếu lớn trên thị trường chứng khoán . Đội ngũ cán bộ khoa học kỹ thuật, cán bộ quản lý được đào tạo cơ bản đang từng bước tiếp cận với nền kinh tế thị trường hiện đại .Đây là nền tảng văn hoá rất cơ bản một nguồn lực tiềm năng vô cùng to lớn để cung cấp cán bộ quản trị viên cho các công ty cổ phần tạo điều kiện cho các công ty cổ phần ra đời . Nhà nước tạo hành lang pháp luật củng cố bộ máy tổ chức cổ phần hoá thực hiện cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước đồng thời nhà nước tạo môi trường chính trị xã hội ổn định .Mỗi môi trường kinh tế lành mạnh khuyến khích nhân dân mua cổ phiếu. Trên đây là những lý do để công ty cổ phần ra đời . 2.12 Vai trò của công ty cổ phần trong nền kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước ở Việt Nam. Công ty cổ phần là hình thức tổ chức kinh doanh phổ biến trong nền kinh tế thị trường, có vai trò to lớn trong quá trình phát triển kinh tế, góp phần hoàn thiện cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước. Trong nền kinh tế thị trường ,công ty cổ phần tạo ra các công cụ để có thể huy động vốn nhanh chóng ,với quy mô lớn và hiệu quả cao nhờ phát hành cổ phiếu và trái phiếu công ty cổ phần có thể huy động được những khoản tiền nhàn rỗi, nhỏ bé tản mạn trong xã hội để tập chung lại đầu tư vào những công trình đòi hỏi nguồn vốn lớn và dài hạn mà từng cá nhân hoặc từng doanh nghiệp không có khả năng tích luỹ .So với các hình thức huy động vốn trước đây hình thức huy động vốn của công ty cổ phần có nhiều ưu điểm :làm giảm được mọi chi phí không cần thiết do đó tạo điều kiện thuận lợi cho việc sử dụng vốn cũng như bảo vệ quyền lợi của người có vốn .Mặt khác sử dụng vốn mua cổ phiếu mặc dù chịu sự rủi ro ở mức độ nhất định ,nhưng họ cũng được hưởng may mắn mà trong thương trường lúc nào cũng có .Chính vì những lợi ích đó mà việc mua cổ phiếu hấp dẫn hơn gửi tiền tiết kiệm. Công ty cổ phần tạo ra một cơ chế phân tán rủi ro nhằm hạn chế những tác động tiêu cực về kinh tế xã hội khi một doanh nghiệp lâm vào tình trạng khủng hoảng. Rủi ro trong kinh doanh là có thể xẩy ra tuy không phải tất yếu đối với mọi doanh nghiệp cũng là lẽ tự nhiên trong thương trường.Khắc phục rủi ro bằng cách thận trọng là điều cần thiết ,song chưa phải là cách duy nhất ,mà nhiều khi con người phải chấp nhận mạo hiểm .Nó không có nghĩa là liều lĩnh mà đi với nó cần phải có cơ chế hạn chế đến mức thấp nhất những tác động tiêu cực và sự thiệt hại của sự rủi ro dân đến phá sản .Công ty cổ phần là cơ chế như vậy. Đối với công ty cổ phần ,người mua cổ phần không có quyền rút vốn ,chỉ có quyền sở hữu các cổ phiếu và được mua bán chuyển nhượng .Như vậy ,lợi ích của các cổ đông gắn chặt vào hoạt động của công ty cổ phần .Trong hình thức công ty cổ phần ,người đầu tư lớn có thể mua cổ phiếu ở nhiều công ty khác nhau ,nhiều ngành khác nhau ,do đó sự rủi ro và mạo hiểm của đầu tư được phân tán vào nhiều ngành ,nhiều lĩnh vực, làm giảm bớt tổn thất cho người đầu tư hơn là tập chung vào một công ty khi công ty đó bị phá sản . Việc ra đời của công ty cổ phần với việc phát hành các loại chứng khoán và cùng với việc chuyển nhượng, mua bán chứng khoán đến một mức độ nhất định sẽ tạo điều kiện cho sự ra đời của thị trường chứng khoán – trái tim của thị trưởng vốn . Công ty cổ phần đảm bảo sự tham gia đông đảo của công chúng, lại có cơ cấu tổ chức quản lý chặt chẽ ,phân định rõ ràng những quyền sở hữu và quyền kinh doanh có thể yên tâm làm việc chuyên môn của mình vì đồng vốn của họ ít nhiều vẫn có khả năng sinh lời do đã được các nhà kinh doanh chuyên nghiệp sử dụng. Như vậy công ty cổ phần đã loại trừ được tình trạng bất hợp lý hiện nay là trong khi các đơn vị sản xuất kinh doanh có khả năng sử dụng đồng vốn một cách hiệu quả, đem lại lợi ích cho cả người có vốn, người sử dụng vốn và xã hội lại không đủ vốn để hoạt động . Công ty cổ phần tuy có vai trò to lớn đối với sự phát triển kinh tế xã hội nhưng nó không có nghĩa là nó không có những hạn chế như : Công ty cổ phần với chế độ trách nhiệm hữu hạn đã đem lại lợi nhuận cho công ty ,nhưng lại chuyển bớt rủi ro cho phía chủ nợ Công ty cổ phần có đông đảo các cổ đông tham gia nhưng trong đó đa số các cổ đông lại không biết nhau và nhiều người trong họ không am hiểu kinh doanh. Công ty cổ phần mặc dù có cơ cấu tổ chức tương đối chặt chẽ, nhưng việc phân công quyền lợi và chức năng của từng bộ phận cho hoạt động của công ty có hiệu quả lại rất phức tạp. Công ty cổ phần là tổ chức có tính dân chủ cao trong kinh tế nhưng nó phụ thuộc đáng kể vào tỷ lệ vốn góp. Những hạn chế đó không phải là không đáng kể, tuy nhiên không phải là vô phương khắc phục.Việc giảm bớt khắc phục công ty cổ phần phụ thuộc vào nhiều yếu tố như sự hoàn hảo của pháp luật, trình độ phát triển chung của nền kinh tế ,trình độ phát triển cao của dân trí và có một bộ máy nhà nước kỷ cương phép tắc. Từ một cách nhìn như vậy chúng ta đã thấy rằng không có lý do gì để cản trở sự ra đời của công ty cổ phần trong nền kinh tế thị trường nước ta hiện nay .Nhưng điề đó không có nghĩa là rồi đây chúng ta cho các công ty cổ phần ra đời một cách ào ạt theo kiểu phong trào .Thực tiễn đã chỉ ra rằng ,nó cần phải có bước đi thận trọng và liên tục ,phù hợp với sự phát triển tự nhiên của đời sống kinh tế như nó cần phải có . 2.2 Các loại công ty cổ phần ở Việt Nam 2.21 Công ty cổ phần quốc doanh. Đây là một giải pháp để khắc phục khuyết tật của hình thức sở hữu nhà nước và tiếp tục đổi mới cơ chế quản lý tron khu vực doanh nghiệp quốc doanh. Công ty cổ phần quốc doanh gồm nhiều chủ sở hữu : nhà nước ,những người lao động trực tiếp trong công ty cổ phần ,các cá nhân và tổ chức khác một điểm quan trọng là nhà nước nắm giữ cổ phiếu khống chế để chi phối hoạt động của các công ty cổ phần do đó được gọi là công ty cổ phần quốc doanh . Người thay mặt nhà nước với tư cách là cổ đông trong hội đồng quản trị có vai trò quyền hạn trách nhiệm rõ ràng hơn so với vai trò chủ sở hữu gắn với bộ máy nhà nước và viên chức nhà nước .Ngoài ra do cũng là công ty cổ phần nên có đầy đủ vai trò ,đặc điểm của công ty cổ phần đã nêu. 2.22 Công ty cổ phần liên doanh với nước ngoài . Chúng ta đều biết rằng công ty cổ phần là hình thức liên doanh tốt nhất để tranh thủ đầu tư nước ngoài .Do đó với một nền kinh tế đang phát triển như nước ta hiện nay ,Sự ra đời của công ty cổ phần liên doanh với nước ngoài là đặc biệt quan trọng . Đặc điểm cơ bản của công ty cổ phần này so với công ty cổ phần quốc doanh đó là có sự tham gia của các cá nhân ,tổ chức nước ngoài vào bộ phận của công ty .Mặc dù vậy ,do nước ta định hướng phát triển một nền kinh tế thị trường có sự điều tiết của nhà nước nên trong các công ty cổ phần loại này chủ yếu là nhà nước nắm cổ phiếu khống chế . 2.23 Công ty cổ phần 100% vốn nước ngoài Đó là công ty cổ phần do các cá nhân hoặc tổ chức nước ngoài lập lên ở Việt Nam cũng có thể là một công ty cổ phần liên doanh với nước ngoài nhưng sau một thời gian làm ăn các cá nhân hoặc tổ chức kinh tế nước ngoài dần nắm được toàn bộ số cổ phiếu của công ty. Ta cũng cần phân biệt công ty cổ phần với công ty hợp doanh và công ty trách nhiệm hữu hạn – hai loại công ty tồn tại khá phổ biến ở Việt Nam .Điểm khác nhau cơ bản giữa chúng đó là công ty hợp doanh và công ty trách nhiệm hữu hạn nhiều hội viên không được phát hành cổ phiếu và trái phiếu trong quá trình kinh doanh .Trong trường hợp thiếu vốn thì công ty chỉ có thể huy động các cổ đông góp thêm mà thôi .Việc góp vốn này do đại hội cổ đông quyết định . 2.3 Thực trạng của quá trình cổ phần hoá ở nước ta hiện nay. 2.31 Thực trạng cổ phần hoá ở Việt Nam Quá trình cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước được bắt đầu thí điểm từ cuối năm 1991.Song thực tế triển khai chủ trương chiến lược của đảng và nhà nước còn chậm ,từ năm 1991 đến năm 1994 chỉ chính thức 5 công ty được thực hiện cổ phần hoá .Đến 1/1/1998 cũng chỉ mới 18 doanh nghiệp trở thành công ty cổ phần trong đó có 4 doanh nghiệp thuộc ngành vận tải,một doanh nghiệp thuộc ngành chế biến nông sản,3 doanh nghiệp thuộc ngành chế biến dịch vụ .Thành phố HCM thực hiện tốt nhất với 10 doanh nghiệp và thủ đô Hà Nội làm kém nhất chỉ có 1 doanh nghiệp trong khi đó Hà Nội có số doanh nghiệp nhà nước nhiều nhất với hơn 1000 doanh nghiệp .Tiến trình thực hiện cổ phần hoá đã từng bước rõ rệt đánh dấu bởi nghị định số 44/1998/NĐCP của chính phủ ngày 29/6/1998 chỉ trong 6 tháng cuối năm 1998 sau nghị định 44/CP ra đời đã có 90 doanh nghiệp cổ phần hoá .Đưa con số doanh nghiệp nhà nước được cổ phần hoá lên 120.Năm 1999 trong cả nước đã có 370 doanh nghiệp được cổ phần hoá ,rõ ràng đây là một bước tiến dài trong quá trình cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước . Báo cáo hoạt động của 50 doanh nghiệp đã cổ phần hoá hơn một năm cho thấy hầu hết đều có chuyển biến tích cực ,toàn diện kể cả những doanh nghiệp trước khi cổ phần hoá bị thua lỗ . Doanh thu bình quân tăng trên 25% số lượng lao động tăng bình quân hơn 10% công ty chế biến xuất khẩu Long An ,công ty cổ phần cơ điện lạnh ,công ty cổ phần Đại Lý liên hợp giao thông vận tải tăng hơn 20% thu nhập bình quân hàng năm .Lợi nhuận trước thuế hàng năm tăng bình quân trên 26%,có công ty đạt lợi nhuận tăng 2-3 lần so với trước khi cổ phần hoá .Lộp ngân sách tăng bình quân hàng năm trên 30% ,lãi cổ tức đạt cao hơn lãi tiết kiệm bình quân đạt 1,2% ,vốn điều lệ của công ty tăng trên 25% năm.Mặc dù đạt được nhiều thành tích đáng kể ,quá trình cổ phần hoá của các doanh nghiệp vẫn còn tồn tại một số vấn đề cần giải quyết. Đến năm 1999 chúng ta dự kiến cổ phần hoá 400 doanh nghiệp nhà nước trong chỉ thị số 20/1998/CTTTG quy định đến cuối năm 2000 cổ phần hoá khoảng 20% doanh nghiệp nhà nước tức là vào khoảng 1200 đơn vị đến nay mới chỉ thực hiện được 370 doanh nghiệp .Số doanh nghiệp đã cổ phần hoá không những không nhiều mà còn chiếm tỷ lệ rất khiêm tốn so với kết quả phân loại doanh nghiệp một trong những mục tiêu cơ bản của cổ phần hoá là thu hút thêm vốn ngoài xã hội để cơ cấu lại doanh nghiệp .Tuy nhiên số doanh nghiệp cổ phần hoá chỉ là các doanh nghiệp vừa và nhỏ từ thực trạng đó ta thấy việc đẩy nhanh quá trình cổ phần hoá ở nước ta hiện nay vẫn đang là vấn đề hết sức cần thiết . 2.32 Cổ phần hoá - nhiệm vụ quan trọng và bức bách. Thực hiện chính sách nâng cao hiệu quả kinh tế và sức cạnh tranh của các doanh nghiệp nhà nước ,đảng và chính phủ đã coi cổ phần hoá là một trong những biện pháp tích cực tăng cường vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước,thúc đẩy các thành phần kinh tế phát triển làm tốt cổ phần hoá sẽ góp phần : Giải quyết tốt vấn đề sở hữu công cộng, cụ thể hoá quyền sở hữu của người lao động,tạo điều kiện cho quần chúng lao động tham gia làm chủ doanh nghiệp một cách thiết thực . Tăng vốn,tăng hiệu quả sản xuất kinh doanh ,tăng sức mạnh cạnh tranh cho các doanh nghiệp nhà nước ,giúp các doanh nghiệp có sức và cơ hội mở rộng thị trường,tiếp thu công nghệ ứng dụng hiện đại . Góp phần đắc lực và hiệu quả cao để thực hiện thành công chủ trương chuyển đổi cơ cấu kinh tế của đảng và nhà nước Huy động tối đa sức dân vào công cuộc xây dựng đất nước . Tạo cơ sở thúc đẩy quá trình ra đời,hoàn thiện và phát triển thị trường tài chính,chứng khoán ở Việt Nam . Thực tế, quá trình cổ phần hóa thời gian đã làm tăng hiệu quả kinh doanh và sự cạnh tranh của các doanh nghiệp, nâ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc35230.doc