Công ty Cổ phần và vai trò của nó trong phát triển kinh tế ở nước ta hiện nay

Phần một: mở đầu Đất nước Việt nam đang trên đà phát triển để sánh vai với các cường quốc năm châu. Ngược dòng lịch sử: Tháng 12 năm 1986 đã đánh dấu một mốc son quan trọng trong lịch sử dân tộc Việt Nam. Đó là đại hội đảng lần thứ VI chính thức đánh dấu sự đổi mới của nền kinh tế Việt Nam. Đó là quá trình chuyển đổi từ nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước. Sự chuyển đổi này đã làm thay đổi một cách sâu sắc nền kinh tế nước ta cả về cơ

doc30 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1448 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Công ty Cổ phần và vai trò của nó trong phát triển kinh tế ở nước ta hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
cấu kinh tế, cơ chế vận hành và quan hệ sở hữu. Đến nay sau 16 năm đổi mới nền kinh tế nước ta đẫ đạt đươc một số thành tựu quan trọng. Những thành tựu đó đã góp phần cải thiện đời sống nhân dân và thay đổi một phần bộ mặt đất nước. Có được như vậy là do đã xuất hiện những hình thức tổ chức kinh tế mới trong nền kinh tế. Công ty cổ phần (CTCP) là một trong những tổ chức kinh doanh mới xuất hiện ở Việt Nam. Tuy vậy CTCP được kỳ vọng sẽ là nhân tố thúc đẩy sự phát triển nền kinh tế đất nước. CTCP không phải là hiện tượng kinh tế xã hội mới mẻ đối với nền kinh tế thế giới. Nhưng ở Việt Nam hiện nay việc nghiên cứu về CTCP là điều hết sức cần thiết. Chính vì vậy em đã chọn đề tài “ CTCP và vai trò của nó trong phát triển kinh tế ở nước ta hiện nay”. Trong phạm vi đề tài này em xin đề cập đến một số vấn đề sau: - Một số lý luận về CTCP. - CTCP và vai trò của nó trong nền kinh tế ở nước ta hiện nay. - Một số giải pháp cơ bản nhằm đẩy nhanh quá trình hình thành và để nâng cao vai trò của CTCP ở Việt Nam. Hy vọng những vấn đề được đề cập đến trong đề tài này sẽ góp một phần nhỏ vào việc nghiên cứu CTCP và những giảI pháp được đề cập tới sẽ góp phần vào việc giải quyết những vướng mắc về CTCP hiện nay. Từ đó góp phần vào sự phát triển của nền kinh tế đất nước. Phần II: Nội dung Chương I: Một số lý luận về công ty cổ phần. Khái niệm chung về công ty cổ phần. Khái niệm. Vào những năm cuối thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX, nhiều phát minh mới xuất hiện, làm cho lực lượng sản xuất và cơ cấu kinh tế có sự thay đổi, ngành công nghiệp nhẹ chuyển sang công nghiệp nặng, nhu cầu tư bản (vốn) đòi hỏi với qui mô lớn, qui luật tích tụ và tập trung tư bản và tập trung sản xuất hoạt động mạnh. Sản xuất ngày một tập trung vào các xí nghiệp lớn – công ty cổ phần. Công ty cổ phần là hình thức tổ chức phát triển của sở hữu hỗn hợp, từ hình thức sở hữu vốn của một chủ sang hình thức sở hữu của nhiều chủ diễn ra trong phạm vi công ty. Nó là sản phẩm tất yếu của quá trình xã hội hoá về mặt kinh tế - xã hội (mặt sở hữu) và cũng là sản phẩm tất yếu của quá trình tích tụ và tập trung hoá sản xuất của nền sản xuất lớn hiện đại. Những vấn đề cơ bản về công ty cổ phần. Qui trình thành lập. Qui trình thành lập công ty bao gồm: - Việc sáng lập CTCP: Đây là giai đoạn chuẩn bị cho sự ra đời của CTCP. Việc vận động về sáng lập được thực hiện qua một số người gọi là sáng lập viên. Sáng lập viên là những người có sáng kiến lập công ty đứng ra kêu gọi hội viên, kêu gọi góp vốn. Việc góp vốn cần làm các việc như: Thông báo việc thành lập, tên, địa chỉ, mục đích hoạt động, xác minh vốn pháp định, định mệnh giá mỗi cổ phiếu, số lượng cổ phiếu. - Đăng ký mua cổ phần: Là việc thể hiện sự chấp thuận tham gia vào công ty; một sự thoả thuận giữa sáng lập viên và người đăng ký cổ phần, có thể đóng góp bằng tiền mặt, hiện vật hoặc cả hai. - Đại hội cổ đông sáng lập: Được triệu tập khi vốn đã góp đủ, các cổ phần đã đóng tiền theo qui định. Đại hội cổ đông sẽ thông qua: Sự hợp lệ của việc thành lập công ty; điều lệ công ty; bầu hội đồng quản trị và ban kiểm toán; công bố sự thành lập công ty. - Pháp nhân của công ty: CTCP có pháp nhân độc lập; có danh hiệu và địa chỉ; có quốc tịch; bản vốn bất định; có thể trở thành hội viên của công ty khác. Cổ đông. - Cổ đông là những người mua cổ phần của công ty, tức là chủ của công ty vì họ góp vốn vào để công ty được thành lập. - Cổ đông có quyền: Tham dự các đại hội cổ đông, hưởng cổ tức, ưu tiên mua cổ phiếu của công ty do công ty phát hành thêm; chuyển nhượng cổ phần. - Đại hội đồng cổ đông bao gồm: Đại hội cổ đông sáng lập khi thành lập công ty; đại hội cổ đông có tính chất bắt buộc mỗi năm một lần (để chia cổ tức, bầu ban quản trị, kiểm toán mặc dù có lãi hay không) để thảo luận xem xét tình hình hoạt động trong năm. Đại hội thường niên của công ty thường xuyên yêu cầu thành phần tham dự phải đại diện cho hơn 1/4 hoặc 1/2 bản vốn của công ty. Nếu không đủ phải triệu tập lần hai, lần này không cần qui định phải đại diện cho bao nhiêu bản vốn. Đại hội bất thường của công ty được triệu tập khi cần thiết, đặc biệt như sửa đổi điều lệ, vì tầm quan trọng của đại hội này, nên số cổ đông đại diện cho bản vốn của công ty cũng như khi biểu quyết, tỷ lệ luôn luôn cao hơn đại hội thường kỳ c. Cổ phiếu Cổ phiếu của CTCP được ban hành có mệnh giá bằng nhau. Có nhiều loại cổ phiếu trong CTCP. Theo tính chất chuyển nhượng có: Cổ phiếu đích danh và cổ phiếu vô danh. Theo quyền lợi được hưởng có: Cổ phiếu thường, cổ phiếu ưu đãi , cổ phiếu ưu đãi dự phần, cổ phiếu ưu đãi hoàn vốn, cổ phiếu hưởng lãi sau. Cổ phiếu của công ty chỉ mất đi khi công ty phá sản d. Quản trị Công ty Cổ phần - CTCP được quản trị bởi một hội đồng quản trị do đại hội cổ đông bầu ra (có thể chỉ định trong điều lệ và thông qua đại hội cổ đông sáng lập). + Hội đồng quản trị (HĐQT) thường mỗi tháng họp một lần, quyền tập thể và có thể là thành viên HĐQT, chuyên viên ở công ty khác. +HĐQT có nhiệm vụ vạch các chính sách lớn để quản trị công ty như: Mở rộng hoặc thu hẹp công ty; bổ nhiệm hoặc bãi nhiễm giám đốc điều hành hoặc thông qua quy chế hoạt động công ty; phương án cổ tức - Giám đốc công ty: Do HĐQT đề cử để trực tiếp điều hành hoạt động hàng ngày của công ty. Quyền hạn, quyền lợi của giám đốc được xác định theo điều lệ, quy chế. Giám đốc có thể thuê ngoài hoặc do chủ tịch HĐQT kiêm nhiệm. Dù là thành viên HĐQT hay không, giám đốc phải tham gia đủ các cuộc họp CTCP. - CTCP có ban kiểm toán từ 1 đến 3 kiểm toán viên trong đó phải có một của toà án thương mại do hội đồng cổ đông bầu ra. Nhiệm vụ của kiểm toán viên là kiểm soát công việc tài chính, kế toán theo cách nào cho phù hợp với quyền hành của mình như: kiểm tra tài liệu báo biểu của HĐQT trình đại hội cổ đông, trong trường hợp khẩn cấp họ có quyền triệu tập đại hội cổ đông bất thường và hàng năm nếu HĐQT xao lãng. e. Sinh hoạt CTCP. - Niên khóa hoạt động của CTCP từ ngày 1 tháng 1 đến ngày 31 tháng 12 năm đó. - Thay đổi điều lệ công ty được thực hiện do các biến động về kinh tế, xã hội, điều kiện kinh doanh. Ví dụ: tăng vốn, giảm vốn, thay đổi hình thức công ty, hợp nhất với công ty khác - CTCP bị giải tán trong trường hợp: Công ty mãn hạn; không còn mục tiêu; lỗ vốn. Tất cả các trường hợp trên đều phải đúng luật định 1.2. Sự ra đời và phát triển của công ty cổ phần. 1.2.1 Nguyên nhân ra đời. CTCP là sự hình thành một kiểu tổ chức doang nghiệp trong nền kinh tế thị trường. Nó ra đời không nằm trong ý muốn chủ quan của bất cứ lực lượng nào mà là một quá trình kinh tế khách quan do các nguyên nhân sau: - Quá trình xã hội hoá tư bản tăng cường tích tụ và tập trung tư bản ngày càng cao là nguyên nhân hàng đầu thúc đẩy CTCP ra đời. Trong nền sản xuất hàng hoá, qui luật giá trị tác động mạnh như cạnh tranh khốc liệt giưa các nhà tư bản, buộc họ phải tìm cách cải tiến nâng cao trình độ kỹ thuật, nâng cao năng suất lao động, giảm chi phí sản xuất nhằm sao cho giá trị hàng hoá cá biệt của mình thấp hơn hoặc bằng mức giá trị hàng hoá xã hội thì mới có thể tồn tại và phát triển. Để làm được điều này các nhà tư bản vừa và nhỏ phải tự tích tụ vốn để mở rộng qui mô sản xuất và hiện đại hoá cao trang thiết bị, tạo điều kiện nâng cao năng suất lao động, hạ giá thành sản phẩm. Như vậy các nhà tư bản vừa và nhỏ có thể thoả hiệp, liên minh với nhau, tập trung các nhà tư bản cá biệt của họ lại thành một tư bản lớn để đủ sức cạnh tranh với các nhà tư bản khác. Từ hình thức tập trung vốn như vậy các CTCP dần dần hình thành và phát triển ngày càng mạnh mẽ. - Sự ra đời và phát triển của nền đại công nghiệp – cơ khí của tiến bộ kỹ thuật tạo động lực thúc đẩy CTCP ra đời và phát triển. Sự phát triển của lực lượng sản xuất và do trình độ kỹ thuật ngày càng phát triển cao, đòi hỏi tư bản cố định tăng lên vì thế qui mô tối thiểu mà một tư bản cần có để có thể kinh doanh dù trong điều kiện bình thường cũng ngày càng lớn hơn. Mặt khác do kỹ thuật ngày càng phát triển làm xuất hiện ngày càng nhiều lĩnh vực kinh doanh. Và các mặt hàng mới có hiệu quả hơn đã thu hút các nhà tư bản đổ xô vào các ngành, các lĩnh vực và các mặt hàng mới này, bằng cách di chuyển tư bản từ các ngành, lĩnh vực và các mặt hàng kinh doanh kém hiệu quả. Nhưng điều này rất khó khăn và không thể trong một sớm một chiều có thể làm được. Vì thế các nhà tư bản cá biệt phải liên minh với nhau góp vốn xây dựng doanh nghiệp lớn. Cùng chung mục đích tìm lợi nhuận siêu ngạch, thoả thuận cùng góp vốn thành lập CTCP cùng kinh doanh. - Sự phân tán tư bản để tránh rủi ro trong cạnh tranh và tạo thế mạnh về quản lý. Sản xuất càng phát triển, trình độ kỹ thuật càng cao, cạnh tranh càng khốc liệt thì sự rủi ro trong kinh doanh đe doạ phá sản đối với các nhà tư bản ngày càng lớn. Để tránh gặp phá sản, các nhà tư bản đã phải phân tán tư bản của mình để tham gia vào nhiều tư bản khác biệt, nghĩa là tham gia đầu tư vào nhiều ngành, nhiều lĩnh vực, nhiều công ty khác nhau. Với cách làm này một mặt các nhà tư bản chia sẻ sự thiệt hại cho nhiều người khi gặp rủi ro. Nhưng mặt khác do cùng một số đông người tham gia cùng quản lý, tập trung được trí tuệ của nhiều người, CTCP hạn chế được rủi ro trong kinh doanh. Tóm lại CTCP là quá trình kinh tế khách quan do đòi hỏi của sự hình thành và phát triển kinh tế thị trường, nó là kết quả tất yếu của quá trình tập trung tư bản. Nó diễn ra mạnh mẽ cùng với sự phát triển của nền đại công nghiệp cơ khí và sự tự do cạnh tranh với CNTB. Mac khẳng định “ngày nay sự thu hút lẫn nhau giữ các nhà tư bản riêng lể và xu hướng tập chung tỏ ra mạnh hơn bao giờ hết”. Từ đây đánh dấu một thời kỳ phát triển mạnh mẽ của các CTCP, đồng thời nó trở thành một mô hình tổ chức sản xuất phổ biến ở hầu khắp các nước trên thế giới. 1.2.2 Quá trình phát triển: Trải qua 4 giai đoạn: Giai đoạn I: Là giai đoạn mầm mống CTCP đầu tiên xuất hiện mang tên công ty Đông ấn, do thương nhân Anh thành lập. Năm 1773 tại Luân Đôn hình thù đầu tiên của sở giao dịch chứng khoán ra đời vào năm 1801 thì chính thức được thành lập. Thị trường giao chứng khoán của Mỹ ra đời vào năm 1790. Giai đoạn II: Là giai đoạn hình thành trước và sau cuộc cách mạng công nghiệp chủ yếu là nửa đầu thể kỷ XIX, các CTCP chính thức lần lượt ra đời với hình thức tổ chức và hình thức phân phối riêng của chúng. Khoảng giữa thế kỷ XVIII đầu thế kỷ XIX, công ty cổ phần đã xuất hiện trong lĩnh vực giao thông vận tải: đường sông và đường sắt; đến năm 1837 số công ty cổ phần đã là 46. Giai đoạn III: là giai đoạn phát triển, sau những năm 70 của thế kỷ XIX các CTCP đã phát triển rất nhanh mọc nên một cách phổ biến ở tất cả các nước, các ngành quy mô sản xuất mở rộng mạnh mẽ, tập trung tư bản diễn ra với tốc độ chưa từng thấy như: CacTen, XanhĐiCa, TôRôt. đến năm 1930, số CTCP ở Anh là 86 nghìn và 90% tư bản Anh đều chịu sự khống chế của CTCP. ở Mỹ, năm 1909 có tới 262000 CTCP. Đến năm1939, số CTCP ở Mỹ chiếm 51,7% trong số các xí nghiệp công nghiệp. Giai đoạn IV: Là giai đoạn trưởng thành, sau chiến tranh thế giới thứ II, CTCP ngày càng trở nên hoàn thiện hơn về cơ cấu tổ chức và phát triển mạnh mẽ trên quy mô to lớn . CTCP ra đời trên cơ sở nền sản xuất xã hội hoá đặc biệt là xã hội hoá về vốn, quan hệ tín dụng phát triển, quan hệ thị trường hình thành đầy đủ. Trải qua mấy trăm năm, CTCP đẫ phát triển ở hầu hết tất cả các nước tư bản theo xu hướng từ đơn giản đến phức tạp, từ quy mô lớn từ một lĩnh vực đến nhiều lĩnh vực, từ một ngành đến đa ngành, từ một quốc gia đến các công ty xuyên quốc gia. Đặc điểm và vai trò của công ty cổ phần đối với sự phát triển kinh tế Đặc đểm của công ty cổ phần.. CTCP là một hình thức tổ chức doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường nó có các đặc điểm sau: - CTCP là một tổ chức kinh doanh có tư cách pháp nhân vá các cổ đông chỉ có trách nhiệm pháp lý hữu hạn trong phần góp vốn của mình. Điều này cho phép công ty có tư cách pháp lý đủ để huy động những lượng vốn lớn nằm rải rác thuộc nhiều cá nhân trong xã hội. - Công ty có thể phát triển nhiều loại cổ phần, trong đó phải có cổ phần phổ thông. Ngoài cổ phần phổ thông, công ty có thể phát hành cổ phần ưu đãi: Cổ phần ưu đãi biểu quyết, cổ phần ưu đãi cổ tức, cổ phần ưu đãi hoàn lại và cổ phần ưu đãi do điều lệ công ty qui định. - Cổ đông có quyền tự do chuyển nhượng cổ phần của mình cho người khác, trừ trường hợp đó là cổ phần ưu đãi biểu quyết và cổ phần ưu đãi của cổ đông sáng lập công ty trong 3 năm đầu kể từ ngày công ty được cấp giấy chứng nhận kinh doanh. Đặc điểm này của CTCP đã cho phép các nhà đầu tư có khả năng chuyển đổi hình thức và mục tiêu đầu tư một cách linh hoạt. - Công ty được phép phát hành chứng khoán ra công chúng. Đặc điểm này cho thấy khả năng huy động vốn của công ty là rất lớn và rộng rãi trong công chúng. - Cổ đông của CTCP tối thiểu là 3 và không hạn chế số lượng tối đa (khác với công tyTNHH là số thành viên là không quá 50 người). Trong quá trình hoạt động, CTCP được phép phát hành chứng khoán và cổ đông được quyền tự do chuyển nhượng cổ phần của mình vì thế số lượng cổ đông của CTCP thường là rất đông 3.2. Vai trò: - Công ty cổ phần thông qua thị trường chứng khoán có khả năng tập trung vốn nhanh và nhiều để đủ sức thực hiện các hoạt động sản xuất kinh doanh với qui mô khổng lồ mà từng nhà kinh doanh riêng biệt không thể tự mình làm nổi. Điều này do quan hệ sở hữu trong công ty cổ phần là thuộc về các cổ đông. - Công ty cổ phần góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng của đồng vốn thông qua các biểu hiện sau: + Đối với công ty cổ phần thì phương án sản xuất kinh doanh không phải do Nhà nước hay ngân hàng quyết định mà do chính xí nghiệp quyết định. Hơn nữa do hình thức tự cấp phát tài chính bằng huy động các nguồn vốn trong dân cư đã đề cao trách nhiệm của xí nghiệp và nâng cao sự quan tâm của xí nghiệp đến hiệu quả sử dụng vốn. + Công ty cổ phần thông qua việc gọi vốn qua thị trường chứng khoán đã rút ngắn được khoảng cách giữa việc huy động vốn và sử dụng vốn. + Do lợi nhuận của công ty cổ phần khác nhau trong các lĩnh vực khác nhau thúc đẩy nên có thể dẫn dắt tiền vốn nhàn dỗi từ nhiều kênh khác nhau trong xã hội vào các lĩnh vực, các ngành có năng xuất lao động và tỷ suất lợi nhuận cao làm cho vốn được phân bố và sử dụng hiệu quả trong nền kinh tế. + Công ty cổ phần cho phép xác nhận quyền sở hữu về tài sản của người chủ sở hữu và xác định rõ vốn của mỗi người thông qua số lượng cổ phần mà cổ đông nắm giữ. Thực chất công ty cổ phần đã tách được quyền sở hữu ra khỏi quyền quản lý kinh doanh. Điều đó cho phép người giám đốc chủ động linh hoạt tìm kiếm và thực thi các giải pháp kinh doanh có lợi nhất đối với công ty của mình. - Công ty cổ phần có khả năng phối hợp các lực lượng kinh tế khác nhau duy trì được mối quan hệ giữa các thành viên. Các thành viên này cùng tồn tại và phát huy những thế mạnh riêng do đó làm giảm đến mức thấp nhất sự ngưng trệ của các nguồn vốn và sự đổ vỡ, sự gián đoạn của các hoạt động kinh doanh. - Công ty cổ phần là hình thức kinh doanh tốt nhất để tranh thủ sự tham gia đầu tư của nước ngoài. Với một nền kinh tế đặc biệt ở các nước đang phát triển việc thu hút vốn, khoa học kỹ thuật, trình độ quản lý thông qua liên doanh liên kết với nước ngoài là vô cùng cần thiết để phát triển kinh tế trong nước. - Công ty cổ phần tạo ra một cơ chế phân bố rủi ro đặc thù đã hạn chế được những tiêu cực về kinh tế xã hội khi một doanh nghiệp lâm vào tình trạng khủng hoảng. Chế độ trách nhiệm hữu hạn đã hạn chế đến mức thấp nhất những thiệt hại của sự rủi ro thua lỗ. Cơ chế phân bố rủi ro này đã tạo điều kiện cho những người có vốn mạnh dạn đầu tư, làm cho nền kinh tế phát triển vã có xu hướng ổn định hơn. Việc hình thành chứng khoán của công ty cổ phần cùng với việc chuyển nhượng, mua bán chứng khoán đến một mức độ nhất định sẽ tạo điều kiện cho ra đời thị trường chứng khoán - trái tim của thị trường vốn. ý nghĩa căn bản của việc ra đời thị trường chứng khoán là ở chỗ: đó là nơi các nhà kinh doanh có thể tìm kiếm được nguồn tài trợ cho hoạt động đầu tư sản xuất kinh doanh, là nơi khai thông các nguồn tiết kiệm của những người tích luỹ đến các nhà đầu tư, là cơ chế phân bổ các nguồn vốn đầu tư thích hợp với yêu cầu của nền kinh tế thị trường và còn là cơ sở quan trọng để Nhà nước qua đó sử dụng các chính sách tiền tệ can thiệp vào hoạt động của nền kinh tế nhằm đạt được những mục tiêu đã lựa chọn. Bên cạnh những vai trò lớn như vậy đối với nền kinh tế, công ty cổ phần vẫn còn tồn tại những điểm hạn chế sau: + Với chế độ trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần đã đem lại thuận lợi cho các cổ đông nhưng lại chuyển bớt rủi ro cho các chủ nợ. + Công ty cổ phần gồm đông đảo các cổ đông tham gia góp vốn, số vốn góp khác nhau họ lại không quen biết nhau sẽ dẫn đến tình trạng tranh chấp và phân hoá lợi ích giữa các nhóm cổ đông. Vì thế việc điều hành các công ty cổ phần rất phức tạp. + Cơ cấu tổ chức quản lý ở công ty cổ phần tương đối cồng kềnh và phức tạp vì vậy chi phí cho việc quản lý tương đối lớn. Mặc dù còn một số hạn chế, nhưng nhìn chung công ty cổ phần là một loại hình tổ chức kinh doanh phù hợp với quy mô sản xuất lớn, thích ứng được những đòi hỏi của nền sản xuất xã hội hoá cao và sự phát triển nền kinh tế thị trờng hiện đại Chương 2 : Công ty cổ phần và vai trò của nó trong nền kinh tế ở nước ta hiện nay . 2.1. Quá trình hình thành công ty cổ phần ở Việt nam. 2.1.1. Tính tất yếu khách quan của việc hình thành CTCP ở nước ta. - Điều kiện và môi trường pháp lý: Chúng ta đã có nhiều bộ luật và các bộ luật này ngày càng được bổ sung và hoàn thiện. Ngoài ra còn có một số bộ luật mới sắp được đưa vào hệ thống luật để phù hợp với xu thế phát triển xã hội ngày nay. Những bộ luật đó đã mở ra một môi trường pháp lý thuận lợi cho việc ra đời của CTCP. Mặc dù chưa thực sự hoàn chỉnh song những bộ luật đó sẽ là nhân tố mở đầu cho sự ra đời của CTCP. - Chính phủ đã nhận thức được tầm quan trọng trong việc CPH, đây là nhân tố rất quan trọng. Bởi lẽ không CPH thì hiệu quả làm ăn của các doanh nghiệp khó được nâng cao. Điều đó làm nền kinh tế nước ta càng tụt hậu so với các nước khác. Khi chính phủ đã nhận thức được tầm quan trọng của việc CPH thì sẽ có những chính sách hợp lý để thúc đẩy quá trình CPH.Bởi Chính phủ không những chỉ có chính sách khuyến khích mà còn có cả chính sách bắt buộc. - Tình hình kinh tế đất nước biến đổi theo hướng tích cực. Sau hơn 15 năm đổi mới nền kinh tế nước ta đã có những dấu hiệu khả quan. Những thành tựu của nền kinh tế đã tạo môi trường thuận lợi cho sự ra đời của CTCP. - Thu nhập của dân cư được nâng cao. Do nền kinh tế đã có sự tăng trưởng thu nhập người dân được cải thiên từ đó người dân có điều kiện và sự tự tin để đóng góp vào CTCP. Làm ăn bằng vốn, trí tuệ và sức lực của mình. -Nền kinh tế thị trường đã tạo ra sự cạnh tranh giữa các doanh nghiệp vì thế đã xuất hiện đội ngũ quản lý doanh nghiệp có năng lực. Đội ngũ này sẽ là những người năng động sáng, đủ sức đứng vững trên thị trường khi tham gia vào CTCP. -Nhà nước ta đã có luật đầu tư nước ngoài. Khuyến khích các doanh nghiệp các nhà tư bản nước ngoài đầu tư vào Việt nam . Thu hút được một lượng vốn đáng kể để thực hiện quá trình CPH. -Nước ta có nền kinh tế đang phát triển. Việc đưa CTCP vào nền kinh tế còn mới mẻ đối với Việt nam nhưng không mới mẻ với nhiều nước trên thế giới. Vì thế nước ta có đIều kiện học hỏi kinh nghiệm của các nước trên thế giới. Tránh được những sai lầm, rút ngắn những bước không cần thiết, học hỏi kinh nhiệm quản lý. Tóm lại: dù là nhân tố bên trong hay bên ngoài chúng ta đều có nhiều thuận lợi để hình thành CTCP.Hơn nữa việc hình thành CTCP là một yếu tố khách quan mà không nền kinh tế thị trường nào tránh đuợc. Vì thế như nhiều nước trên thế giới CTCP đã hình thành ở Việt nam. Và hy vọng trong tương lai không xa đó sẽ là hình thức tổ chức kinh doanh đem lại hiệu quả lớn cho nền kinh tế Việt nam Sự hình thành và phát triển CTCP ở Việt nam. Ngày 21 tháng 12 năm 1990 luật công ty Việt nam ra đời. đến tháng 11 năm 1991 chủ trương CPH doanh nghiệp nhà nước ở Việt nam lần đầu tiên được nêu tại Nghị quyết Hội nghị lần thứ 2 Ban chấp hành Trung ương khoá VII. Cho đến ngày 31 tháng 7 nă 1999 nước ta đã có khoảng 230 CTCP được thành lập theo luật công ty và 206 doanh nghiệp nhà nước được CPH chuyển sang hình thức CTCP. Quá trình thực hiện có thể chia làm 2 giai đoạn chính: -Giai đoạn thí đểm (1992 – 1995 ) : Trong giai đoạn này, Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng ( nay là Thủ tướng Chính phủ ) đã ban hành quyết định số 202/CT ngày 8 tháng 6 năm 1992 về việc thí đIểm chuyển một số doanh nghiệp nhà nước thành CTCP và chỉ thị 84/TTg về việc xúc tiến thực hiện thí điểm CPH doanh nghiệp nhà nước và các giải pháp đa dạng hoá hình thức sở hữu đối với các doanh nghiệp nhà nước. Sau 4 năm triển khai quyết định số 202/CT và chỉ thị số 84/TTg của Thủ tướng Chính phủ ( 1992 - 1995 ), đã có 5 doanh nghiệp nhà nước chuyển thành CTCP. Đó là: + Công ty Đại lý Liên hiệp vận chuyển, thuộc Bộ Giao thông Vận tải (cổ phần hoá năm 1993 ). + Công ty Cơ điện lạnh, thuộc Uỷ ban Nhân dân thành phố Hồ Chí Minh ( cổ phần hoá năm 1993 ). + Xí nghiệp Giày Hiệp An, thuộc Bộ Công nghiệp (cổ phần hoá năm 1994 ). +Xí nghiệp chế biến hàng xuất khẩu, thuộc Uỷ ban nhân dân tỉnh Long An (cổ phần hoá năm 1995 ). +Xí nghiệp chế biến thức ăn gia súc, thuộc Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn (cổphần hoá năm 1995 ). Trong số các doanh nghiệp nói trên thì có 4 doanh nghiệp thuộc địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh và1doanh nghiệp thuộc địa bàn Tỉnh Long An. -Giai đoạn mở rộng thêm ( từ năm 1996 dến nay ) : Trên cơ sở đánh giá các ưu điểm và tồn tại trong giai đoạn triển khai thí điểm CPH một số doanh nghiệp nhà nước, Chính phủ đã ban hành nghị định số 28/CP ngày 7 tháng 5 năm 1996 về chuyển một số doanh nghiệp nhà nước thành CTCP. Nghị định này đã xác định rõ giá trị doanh nghiệp; chế độ ưu đãi cho người lao động trong doanh nghiệp và tổ chức bộ bộ máy giúp Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo công tác CPH doanh nghiệp nhà nước, đồng thời giao nhiệm vụ cho các Bộ, các địa phương hướng dẫn và tổ chức thực hiện công tác này. Trong quá trình thực hiện, nghị định28/CP đã bộc lộ một số hạn chế nhất định. Vì vậy, ngày 26/3/1997 Chính phủ đã ban hành nghị định số 25/CP sửa đổi một số điều của Nghị định 28/CP kể trên. Nhờ những văn bản này, công tác CPH đã đạt được kết quả khá khả quan trong hai năm 1996-1997. Số doanh nghiệp nhà nước CPH trong 2 năm tăng gấp nhiều lần so với 4 năm trước, đưa tổng số doanh nghiệp nhà nước hoàn thành việc chuyển thành CTCP, hoạt động theo Luật Công ty lên 18 doanh nghiệp. Hầu hết 18 doanh nghiệp này, sau khi chuyển sang CTCP đều phát triển tốt với một số chỉ tiêu như doanh thu, lợi nhuận, thu nhập của người lao động đều tăng trưởng cao hàng năm. Đây thực sự là tín hiệu tốt, khích lệ cán bộ, công nhân viên trong các doanh nghiệp nhà nước chuẩn bị chuyển sang CTCP tiếp tục ủng hộ chủ trương CPH của Đảng và Chính phủ. Tuy nhiên, trong vong 5 năm ( 1992 -1997 ) mà các ngành, các địa phương trong cả nước mới chỉ cổ phần hoá xong có 18 doanh nghiệp chứng tỏ tốc độ CPH diễn ra còn quá chậm. Các nguyên nhân của sự chậm chạp đã được chỉ ra và khắc phục từng bước, tạo nên một sự chuyển biến ngày một mạnh mẽ cả về việc sửa đổi, bổ sung, hoàn chỉnh hệ thống các văn bản pháp luật, các quy trình, thủ tục lẫn việc thực hiện CPH. Bước chuyển biến lớn và rất quan trọng có thể nói được bắt đầu từ năm 1998, nhất là sau khi Thủ tướng Chính phủ có Chỉ thị 20/1998/CT –TTg về đẩy mạnh sắp xếp và đổi mới doanh nghiệp nhà nước và Nghị định 44/1998/NĐ -CP ngày 29/6/1998 về chuyển một số doanh nghiệp nhà nước thành CTCP. Các loại công ty cổ phần ở Việt nam. ở Việt nam hiện nay có các loại CTCP sau: Thứ nhất: đó là công ty quốc doanh. Đây là giải pháp khắc phục khuyết tật của hình thức sở hữu nhà nước và tiếp tục đổi mới cơ chế quản lý trong khu vực doanh nghiệp quốc doanh. CTCP quốc doanh gồm nhiều chủ sở hữu: Nhà nước, những người lao động trực tiếp trong CTCP, các cá nhân và các tổ chức khác. Một đặc điểm của loại CTCP này là nhà nước nắm giữ cổ phiếu khống chế chi phối hoạt động của CTCP do đó được gọi là công ty quốc doanh. Người thay mặt nhà nước với tư cach là một cổ đông trong hội đồng quản trị có vai trò quyền hạn trách nhiệm rõ ràng hơn so với vai trò chủ sở hữu gắn với bộ máy nhà nước và viên chức nhà nước. Ngoài ra cũng là CTCP nên có đầy đủ các vai trò, đặc điểm của CTCP đã nêu Thứ hai: Loại CTCP liên doanh với nước ngoài. Ta biết rằng CTCP là hình thức liên doanh tốt nhất để tranh thủ đầu tư nước ngoài. Do đó với một nền kinh tế đang phát triển như nước ta hiện nay, sự ra đời của CTCP liên doanh với nước ngoài là đặc biệt quan trọng. Ta vừa tranh thủ được vốn lại vừa tranh thủ được công nghệ, trình độ quản lý, kinh nghiệm làm ăn của công ty nước ngoài. Điểm khác nhau cơ bản của CTCP liên doanh với nước ngoài và CTCP quốc doanh là nó có sự tham gia của các cá nhân, tổ chức nước ngoài vào mọi bộ phận của công ty. Dù vậy nhưng do nước ta có định hướng phát triển nền kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước nên trong loại CTCP này nhà nướcvẫn nắm cổ phiếu khống chế Thứ ba: Loại CTCP có 100% vốn nước ngoài. Đó là các CTCPdo các cá nhân hoặc các tổ chức nước ngoài lập nên ở Việt nam. Hoặc do một CTCP liên doanh với nước ngoài nhưng sau một thời gian làm ăn, các cá nhân hoặc tổ chức kinh tế nước ngoài dần dần nắm được toàn bộ số cổ phiếu của Công ty Thứ tư: Chính phủ quy định bổ sung hình thức bán toàn bộ giá trị vốn nhà nước hiện có tại doanh nghiệp nhà nước để chuyển thành CTCP. Hình thức này áp dụng cho các doanh nghiệp hoạt động kinh doanh các ngành nghề thông thường. Trên đây là 4 loại CTCP ở Việt nam hiện nay. Mặc dù khác nhau về hình thức nhưng bản chất của các công ty là khác nhau và đều đóng góp vào công cuộc phát triển nền kinh tế đất nước. 2.3 Vai trò của công ty cổ phần trong nền kinh tế nước ta hiện nay Nền kinh tế nước ta là một nền kinh tế nghèo nàn, lạc hậu và chậm phát triển. Mặc dù đã đổi mới nền kinh tế được hơn 15 năm và đã giành được một số thành tựu nhất định. Nhưng so với các nước trên thế giới thì khoảng cách giữa nền kinh tế nước ta và nền kinh tế thế giới là khá xa. Nước ta đang nỗ lực phấn đấu để thu hẹp khoảng cách này. CTCP ra đời đã có một vai trò nhất định trong công cuộc phát triển kinh tế đất nước, thu hẹp khoảng cách với nước ngoài. Vai trò đó thể hiện ở những điểm sau: Vai trò thứ nhất: Huy động được vốn nhàn rỗi từ dân cư. Qua hơn 15 năm đổi mới nền kinh tế nước ta đã có nhiều tiến bộ thu nhập của dân cư được nâng cao. Tuy nhiên nhiều người còn chưa biết sử dụng vốn một cách hợp lý do chưa năng động, chưa sáng tạo và chưa tự tin. Việc gửi tiết kiệm vào ngân hàng đem lại một số lãi hạn chế. Vậy người dân phải tìm nơi để đầu tư số tiền của mình để đem lại hiệu quả kinh tế cao nhất- Đó chính là CTCP. Về phía người góp vốn họ được lợi nhuận cao hơn so với gửi ngân hàng, lại phải có trách nhiệm về số vốn đã đầu tư nên họ phải chăm chỉ, phải nỗ lực hơn để có được kết quả tốt nhất. Còn về phía công ty mỗi thành viên góp vốn thì số vốn công ty sẽ được tăng thêm có điều kiện mở rộng sản xuất, thay đổi công nghệ, đủ sức cạnh tranh với các Công ty khác. Vai trò thứ hai: Thu hút vốn đầu tư nước ngoài. Việt nam là nước đang thu hút được sự chú ý của rất nhiều nhà đầu tư nước ngoài. Vì Việt nam là nước có thị trường tiêu thụ lớn do đông dân cư, có nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú, có nguồn nhân công dồi dào với mức lương thấp... Còn về phía Việt nam các doanh nghiệp thiếu vốn để mở rộng sản xuất, công nghệ sản xuất lạc hậu, trình độ năng lực quản lý còn thấp, khi hợp tác với nước ngoài vừa thu hút được nguồn vốn, vừa được chuyển giao công nghệ lại học hỏi được kinh nghiêm quản lý... vì vậy quan hệ hợp tác là quan hệ 2 chiều, hai bên cùng có lợi. CTCP đã thực hiện tốt vai trò này, là chiếc cầu nối cho sự giao lưu hợp tác giữa nước ta với nước ngoài. Thúc đẩy nhanh hơn nền kinh tế đất nước Vai trò thứ ba của CTCP trong nền kinh tế nước ta hiện nay là nâng cao vai trò chủ đạo của nền kinh tế nhà nước. Trong nền kinh tế nước ta hiện nay các doanh nghiệp nhà nước chiếm đa số. Nhưng trước đây các doanh nghiệp này làm ăn không có hiệu quả do ở trong chế độ quan liêu bao cấp nên các doanh nghiệp có sức ỳ lớn, không năng động vì không phải chịu trách nhiệm khi làm ăn thua lỗ. Khi Chính phủ quyết định CPH các doanh nghiệp nhà nước đã làm cho các doanh nghiệp phải tự thân vận động chịu trách nhiệm về hành động của mình, lời ăn lỗ chịu nên các doanh nghiệp hoạt động có hiệu quả hơn. Tuy nhiên trong các doanh nghiệp này Nhà nước vẫn nắm cổ phiếu khống chế. Như vậy Nhà nước vừa quản lý được doanh nghiệp vừa buộc doanh nghiệp phải tự mình phải sản xuất kinh doanh. Do đó CTCP đã nâng cao được vai trò chủ đạo của kinh tế Nhà nước. Vai trò thứ tư của CTCP là tránh được rủi ro trong kinh doanh. Mặc dù không có những nhà tư bản lớn lũường, không có các công ty độc quyền ở Việt nam. Nhưng khi tham gia sản xuất kinh doanh các doanh nghiệp với số vốn nhỏ sẽ chịu sác xuất rủi ro cao. Nhất là khi hiện nay Việt nam đã chuẩn bị tham gia AFTA, sẽ phá bỏ hàng rào thuế quan với các nước trong khu vực. Vì vậy các doanh nghiệp sẽ phải cạnh tranh khốc liệt với các doanh nghiệp khác trong khu vực. Nếu số vốn ít, trình độ kém sẽ sớm bị đào thải. Nên tham gia vào CTCP sẽ là biện pháp hữu hiệu để các nhà sản xuất, các doanh nghiệp Việt nam hạn chế được các rủi ro. Nâng cao sức cạnh tranh cả ở thị trường trong nước và trong khu vực. Vai trò thứ năm của CTCP là thúc đẩy sự ra đời và phát triển của thị trường chứng khoán ( TTCK ). Nhờ có sự ra đời của các CTCP mà TTCK Việt nam đã hình thành. Mặc dù còn non nớt nhưng cũng đã góp phần vào việc củng cố sự phát triển của CTCP. Đây là mối quan hệ 2 chiều hỗ trợ thúc đẩy nhau cùng phát triển. Như vậy CTCP đã có những vai trò nhất định đối với nền kinh tế Việt nam. Trong thời gian tới CTCP sẽ được mở rộng hơn nữa và sẽ đóng góp vai trò quan trọng hơn nữa vào qúa trình phát triển của nền kinh tế Việt nam. Thực trạng quá trình cổ phần hoá ở Việt nam. Một số thành tựu Sau một thời gian thực hiện quá trình CPH chúng t._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc33682.doc
Tài liệu liên quan