Đặc điểm hợp tác và kiềm chế giữa các nước lớn từ thập niên 90 đến nay

Lời mở đầu Dù ở bất kỳ giai đoạn nào, quan hệ quốc tế cũng bào hàm những rối ren và phức tạp. Để lý giải sự vận động của thế giới thì việc nghiên cứu và tìm hiểu nó là hết sức cần thiết nhất là trong giai đoạn hiện nay, khi mà tình hình thế giới có những biến chuyển lớn, sâu sắc và phức tạp. Chiến tranh lạnh kết thúc, thế giới đành bước vào một thời kỳ mới trong quan hệ quốc tế. Quan hệ giữa các nước lớn luôn là mối quan tâm của thế giới, điều này cũng dễ hiểu bởi quan hệ giữa các nước lớn luôn

doc63 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1418 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Đặc điểm hợp tác và kiềm chế giữa các nước lớn từ thập niên 90 đến nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
có ảnh hưởng quan trọng trong đời sống quan hệ quốc tế. Thế giới đang hình thành những mối quan hệ quốc tế mới trong phạm vi toàn cầu, có nhiều nhân tố tích cực trong hoà bình, ổn định và hợp tác. Tuy nhiên, ở nhiều khu vực đã và đang xuất hiện những nhân tố bất trắc mới gây ra bất ổn định không lường trước được. Quan hệ giữa các nước lớn tốt lên hay xấu đi đều có ảnh hưởng rất sâu sắc đối với thế giới. Bởi vậy em đã chọn đề tài “Đặc điểm hợp tác và kiềm chế giữa các nước lớn từ thập niên 90 đến nay” để làm đề tài của mình. Trong khuôn khổ của bài khoá luận tốt nghiệp này, do thời gian nghiên cứu và tiếp cận vấn đề còn nhiều hạn chế cho nên em chỉ xin tập trung vào đặc điểm vừa hợp tác vừa kiềm chế giữa các nước lớn trong lĩnh vực chính trị, kinh tế, những lĩnh vực được cho là nóng bỏng và được thế giới quan tâm nhất hiện nay. Đề tài gồm ba chương (không kể mục lục, lời mở đầu và kết luận) Chương 1 Những nhân tố tác động đến quan hệ giữa các nước lớn thời kỳ sau chiến tranh lạnh Chương 2 Hợp tác và kiềm chế giữa các nước lớn từ thập niên 90 đến nay Chương 3 Triển vọng về hợp tác và kiềm chế giữa các nước lớn trong thời gian tới Do đề tài còn mới và thời gian nghiên cứu còn hạn chế nên bài viết không tránh khỏi những sai sót, rất mong các thầy cô giáo và các bạn đóng góp ý kiến để đề tài được hoàn thiện hơn. Em xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo, đặc biệt là Thạc sỹ Nguyễn Thị Quế đã tận tình hướng dẫn em làm đề tài này. Hà nội ngày Sinh viên Tống thị Hoài Hương Chương 1 Những yếu tố tác động đến quan hệ giữa các nước lớn thời kỳ sau chiến tranh lạnh. Khái quát quan hệ quốc tế thời kỳ trong chiến tranh lạnh (1945 - 1991) . Sau thắng lợi của cuộc cách mạng tháng 10 Nga vĩ đại dẫn tới sự ra đời của một nhà nước XHCN Xô Viết . Một nhà nước XHCN hiện hữu bằng xương bằng thịt chứ không phải là một học thuyết của Mác - Ănghen nữa. Điều này đã làm thay đổi hoàn toàn cục diện QHQT và nó có ảnh hưởng sâu sắc tới đời sống chính trị thế giới . Trên thế giới lúc này cùng song song tồn tại hai lực lượng đối lập nhau về mọi mặt kinh tế , chính trị và quân sự ….cho đến hệ tư tưởng . Nhà nước Liên bang Cộng Hoà XHCN Xô Viết ra đời là một thách thức rất lớn với CNTB trên thế giới . Trật tự thế giới bước sang một giai đoạn mới , giai đoạn đối đầu giữa hai phe . giữa một bên là XHCN đứng đầu là Liên xô Và một bên là TBCN đứng đầu là Mỹ . Hai phe cạnh tranh đối đầu gay gắt về mọi mặt .Sau khi ra đời Liên Xô gạp phải vô vàn khó khăn thách thức đó là sự đối đầu giữa một nhà nước Liên Xô trẻ tuổi với các nước TBCN , đứng đầu là Mỹ . Trước năm 1939 , Mỹ và các nước đế quốc muốn lợi dụng con bài phát xít để tiêu diệt Liên xô . Đây là một cuộc đụng đầu thử thách quyết liệt giữa hai thế lực tiến bộ và phản động trên thế giới . Chính nhờ vậy mà sau thắng lợi có tính quyết định của Liên Xô trong cuộc chiến tranh chống phát xít đã làm cho uy tín của Liên Xô được nâng cao và trở thành một yếu tố trong việc hình thành một trật tự thế giới mới sau chiến tranh . Đặc biệt , từ sau chiến tranh lần thứ hai kết thúc , Liên Xô bước ra vũ đài chính trị thế giới với một vị thế mới , một vị thế hết sức quan trọng , là một cực đối trọng với Mỹ nói riêng và TBCN nói chung . Đây là nguyên nhân dẫn tới cuộc chiến tranh lạnh , cuộc đối đầu Đông - Tây Giữa một phe là XHCN , một phe là TBCN , đại diện là Liên Xô và Mỹ . một cuộc chiến có một không hai trong lịch sử nhân loại kéo dài hơn 40 năm mà tổn thất của nó có lẽ còn để lại hậu quả cho tới ngày hôm nay . Lo ngại trước ảnh hưởng ngày càng lớn mạnh của Liên Xô và hệ thống XHCN trên toàn thế giới , Mỹ và các nước phương Tây đã cấu hợp tác với nhau để tìm cách đối phó . Tháng 3 / 1947 , tổng thống Mỹ Truman đã chính thức phát động cuộc chiến tranh lạnh chống lại Liên Xô và các nước XHCN . Vậy “chiến tranh lạnh ” là gì ? Chiến tranh lạnh là một kiểu chiến tranh đặc biệt , một cuộc chiến tranh không hề có tiếng súng . Có thể nói đây la một cuộc chiến hết sức phức tạp , họ tìm mọi cách để tiêu diệt đối thủ . Mỹ phát động chiến tranh lạnh để nhằm tiêu diệt Liên Xô , tiêu diệt CNCS . Mỹ cho rằng chừng nào còn CNXH thì CNTB còn bị đe dọa mà Mỹ là nước đầu tiên . Mỹ không muốn thế giới cùng tồn tại hai cực mà Mỹ chỉ muốn thế giới một cực do Mỹ chi phối . Thực chất chiến tranh lạnh là một cuộc chạy đua vũ trang . Mỹ nhận thấy rằng giải quyết tranh chấp bằng chiến tranh nóng không còn là giải pháp tốt nữa . Tuy nhiên , cuộc chiến tranh này không những gây ra thiệt hại nặng nề cho Liên Xô mà nó còn gây ra thiệt hại cho Mỹ không phải nhỏ. Sau chiến tranh thế gới thứ II , tất cả các nước tham chiến đều chịu thiệt hại nặng nề , chỉ duy có Mỹ là giàu lên nhanh chóng , trở thành một cường quốc trong hệ thống TBCN cũng như trên thế gới . Với tiềm lực và ưu thế về kinh tế , quân sự , chính trị đã tạo điều kiện cho Mỹ vươn lên nắm vai trò lãnh đạo trong hệ thống TBCN và mở rộng phạm vi ảnh hưởng của mình , càng làm lớn thêm tham vọng bá chủ của Mỹ , trên cơ sở ngăn chặn, tiến tới xoá bỏ hẳn Liên Xô cũng như XHCN , CNCS . Mỹ đe doạ Liên Xô , giương cao ngọn cờ “ngăn chặn Liên Xô”, “ngăn chặn CNCS” . Sau cuộc chiến tranh thế giới lần II , Liên Xô phải chịu thiệt hại nặng nề, dù là nước thắng trận . Tuy nhiên, sau đó Liên Xô cũng đạt được những thành công to lớn trở thành nước đứng đầu, lãnh đạo phe XHCN . Điều này càng làm sâu sắc thêm mâu thuẫn vốn có giữa Mỹ và Liên Xô cũng như giữa TBCN và XHCN. Với sự thắng lợi của Liên Xô, sau chiến tranh thế giới lần II, CNXH càng khẳng định vị thế của mình trên trường quốc tế. Với sự lớn mạnh không ngừng về KT, KHKT và quân sự, Liên Xô và CNXH dần trở thành thành trì của phong trào cách mạng thế giới. Không những thế còn là một nhân tố chi phối xu hướng phát triển của thời đại , mở ra một thời kì mới trong QHQT. CNXH đã vượt ra biên giới của một nước trở thành một hệ thống chính trị – hệ thống XHCN. Hệ thống XHCN phát triển và khẳng định vị trí đối trọng với TBCN. Đến đầu những năm 70 CNXH đã giành được thế cân bằng chiến lược, trên thế mạnh so với TBCN , CNĐQ trong nhiều lĩnh vực . Quan hệ quốc tế trong thời kì chiến tranh lạnh bị chi phối chủ yếu bởi quan hệ hai cực Xô - Mỹ, hai cực này đối nghịch nhau về mọi mặt bởi vậy hai nước luôn chống phá nhau trên mọi lĩnh vực. Một bên là các lực lượng cách mạng do siêu cường Liên Xô, một bên là lực lượng đế quốc đứng đầu là Mỹ. Đây chính là biến đổi sâu sắc nhất trong QHQT sau chiến tranh thế giới lần II . Trật tự thế giới sau năm 1945 thực chất là cuộc đối đầu gay gắt giữa hai hệ thống chính trị XH, nhằm đấu tranh, phủ định lẫn nhau. Xét về mặt hình thức, đây là mối quan hệ quốc tế song phương lớn nhất giữa hai quốc gia có thể chế chính trị hoàn toàn khác nhau mang tinh đấu tranh và phủ định lẫn nhau. Cả hai đều là các quốc gia hùng mạnh nhất. Về bản chất , do khả năng và thực lực mỗi bên cùng với sự công nhận pháp lý tại hội nghị Yalta, cả Liên Xô và Mỹ đều có quyền lợi và nghĩa vụ trong việc quyết định các vấn đề quốc tế cho nên trong cùng một thời điểm hai nước vừa là địch thủ vừa là những đối tác bất đắc dĩ trong việc phân chia chịu trách nhiệm trước vận mệnh của nền hoà bình thế giới. Trong giai đoạn này, hệ thống TBCN trải qua những biến đổi sâu sắc trong so sánh lực lượng có lợi cho Mỹ. Các đối thủ hùng mạnh có khả năng cạnh tranh với Mỹ là Đức, ý, Nhật nay đều trở thành nước bại trận, còn Anh , Pháp tuy thắng trận nhưng đều bị thiệt hại nặng nề và kiệt quệ sau chiến tranh. Trong khi đó, nhờ chiến tranh Mỹ thu dược 114 tỷ USD nhờ bán vũ khí, trở thành một quốc gia hùng mạnh nhất trong hệ thống TBCN. Nền kinh tế Mỹ chiếm 52% GNP thế giới , là chủ nợ lớn nhất nắm giữ 70% lượng vàng dự trữ thế giới. Về quân sự, ngoài lực lượng hải quân hùng mạnh, được trang bị vũ khí và thiết bị hiện đại Mỹ còn nắm độc quyền về vũ khí hạt nhân trong lúc bấy giờ. Với tiềm lực to lớn như thế Mỹ đã vươn lên nắm vai trò lãnh đạo trong hệ thống TBCN và mở rộng phạm vi ảnh hưởng trên mọi khu vực trên thế giới. Không những thế Mỹ còn tham vọng làm bá chủ thế giới. Mỹ hoàn toàn có thể thực hiện được điều đó nếu không gặp phải sự ngáng trở của Liên Xô. Đây là trở ngại lớn nhất mà Mỹ muốn tiêu diệt để thực hiện tham vọng của mình. Mỹ đề ra mục tiêu : Chiến lược ưu tiên hàng đầu là ngăn chặn Liên Xô , tiến tới xoá bỏ lực lượng ra khỏi đời sống chính trị thế giới . Mỹ ra sức củng cố và mở rộng phạm vi ảnh hưởng của minh trên thế giới Mỹ cho rằng để ngăn chặn được CNCS thì phải củng cố sức mạnh CNTB . Do đó cùng với kế hoạch Marshall tái thiết các nước tư bản Châu Âu; Mỹ đã đạt được mục tiêu kép : vừa xác lập và củng cố vị thế của mình ở châu Âu vừa tạo ra một liên minh do Mỹ lãnh đạo làm công cụ bao vây cô lập kinh tế đối với Liên Xô và các nước XHCN ở Trung Đông Âu. Kế hoạch Marshall còn nhằm thâm nhập, nô dịch các nước Tây Âu về kinh tế , chính trị, quân sự và chuẩn bị cho việc thành lập khối NATO và chạy đua vũ trang sau này. Nhờ những biện pháp điều chỉnh, thích nghi với điều kiện mới của thời đại do CMKHKT và phong trào cách mạng tạo ra, CNTB đã vượt ra khỏi khủng hoảng và tiếp tục phát triển. Tuy nhiên từ thập niên 60 trở đi, do Mỹ sa lầy trong chiến tranh ở Việt Nam và nhiều nơi khác, do vậy mà tiềm lực của Mỹ bị suy giảm một cách tương đối. Còn Liên Xô, mặc dù Mỹ ra sức thực hiện chính sách thù địch chống Liên Xô và phong trào cách mạng thế giới, song những thay đổi trong so sánh lực lượng sau chiến tranh thế giới II lại diễn ra theo chiều hướng có lợi cho Liên xô. Tuy phai gánh chịu những tổn thất nặng nề nhưng Liên Xô bước ra khỏi chiến tranh với ảnh hưởng quốc tế vô cùng to lớn. Với sức mạnh quân sự hùng hậu được thử thách qua chiến tranh , đất nước rộng lớn với nguồn tài nguyên phong phú, với nguồn nhân lực dồi dào, kinh tế được khôi phục nhanh chóng. Sản lượng công nghiệp tăng 73% so với năm 1940 làm uy tín Liên Xô tăng lên mạnh mẽ, trở thành chỗ dựa vững chắc cho cách mạng thế giới. Điều đó giúp Liên Xô không những đủ thế và lực để khẳng định vị trí không thể thiếu được của mình trong quá trình giải quyết những vấn đề quốc tế mà còn giúp Liên Xô vượt qua được sự phong toả của CNĐQ. Từ đầu những năm 70, thế giới tư bản hình thành ba trung tâm Mỹ, EU. Nhật Bản, ba trung tâm vừa thống nhất vùa đấu tranh gay gắt để chia sẻ quyền lợi. Cũng trong giai đoạn này phong trào cộng sản và công nhân quốc tế phát triển mạnh mẽ cả chiều rộng lẫn chiều sâu, trở thành một dòng thác cách mạng, ngay cả trong lòng các nước TBCN – cuộc đấu tranh này đã góp phần từng bước đánh đổ từng bộ phận của CNĐQ . Giai đoạn này, hệ thống XHCN từ chỗ chiếm vị thế cân bằng chiến lược so với CNĐQ trên nhiều lĩnh vực đã chiếm được ưu thế. Song, do những yếu tố khách quan và chủ quan CNXH thế giới dần mắc phải những sai lầm nghiêm trọng, do không khắc phục được kịp thời nên đã rơi vào khủng hoảng nghiêm trọng và toàn diện. Nhất là từ năm 80 trở đi , do sai lầm trong đường lối cải tổ, chế đọ xã hội ở Liên Xô và Đông Âu dần mất đi ưu thế và vị thế của mình trong cục diện chính trị quốc tế . Mỹ cũng thấy rằng không thể dùng sức mạnh quân sự để bao vây tiêu diệt Liên Xô được nên cũng từ đây Mỹ thay đổi cơ bản chính sách với Liên Xô và các nước XHCN từ “ ngăn chặn ” đến “ vượt lên ngăn chặn ”. Với chính sách này, bên ngoài Mỹ vẫn tiếp tục duy trì lực lượng quân sự lớn làm hậu thuẫn, mặt khác, Mỹ chú trọng hơn đến việc dùng vũ khí tuyên truyền và sức mạnh đồng đô la đến đánh sâu vào bên trong lòng Liên Xô và các nước XHCN Đông Âu. Nguy hiểm hơn, đối tượng chủ yếu của chiến lược này là nhằm vào Đảng Cộng Sản – lực lượng đầu não đang lãnh đạo Liên Xô và các nước XHCN, tuyên truyền “ dân chủ đa nguyên ” làm thoái hoá biến chất đội ngũ lãnh đạo cao cấp của Đảng, tiến tới làm chệch hướng XHCN và đi đến làm sụp đổ chế độ XHCN ở các nước này. Khi nhắc tới chiến tranh lạnh không thể không nhắc tới cuộc chạy đua vũ trang. Đây là một cuộc chiến hết sức khốc liệt. Nó được ví như một cuộc chạy dài hơi, khiến cả hai bên đều chịu những thiệt hại nặng nề mà hậu quả là sự sụp đổ của Liên Xô và Đông Âu vào năm 1991. Cả Liên Xô và Mỹ đều dốc hết sức vào cuộc chạy đua vũ trang, dốc hết sinh lực của minh nhằm làm cho kho vũ khí của mình nhiều lên mà không hề quan tâm đến tiềm lực kinh tế của mình cũng vì thế mà suy kiệt dần. Đây là một bài học cay đắng mà Liên Xô phải trả giá đắt bằng sự sụp đổ của mình. Cuộc chạy đua vũ khí hạt nhân – vũ khí giết người hàng loạt dã đẩy loài người trước nguy cơ huỷ diệt . Như vậy , QHQT thời kì chiến tranh lạnh hình thành do tác động của nhiều yếu tố thời đại , thể hiện sự đan xen , so sánh lực lượng giữa cách mạng và phản cách mạng . Trong đó, tương quan lực lượng giữa CNXH và CNTB , trật tự thế giới hai cực giữa Liên Xô và Mỹ chi phối phần lớn đời sống QHQT thời kì này. Sự sụp đổ của Liên Xô và các nước XHCN ở Đông Âu đã chấm dứt cuộc chiến tranh lạnh, chấm dứt cuộc đối đầu hai cực. Mở ra một thời kì mới trong QHQT – thời kì sau chiến tranh lạnh . Quan hệ quốc tế sau chiến tranh lạnh : Chiến tranh lạnh kết thúc với sự sụp đổ của Liên Xô và các nước Đông Âu, điều này đã lam thay đổi một cách cơ bản cục diện thế giới và đời sống QHQT . Những mâu thuẫn dân tộc, sắc tộc, tôn giáo, chủ nghĩa dân tộc cực đoan cùng xu hướng ly khai có điều kiện trỗi dậy làm bùng nổ những cuộc xung đột đẫm máu kéo dài ở một số nơi, ảnh hưởng không nhỏ đến sự tồn tại và phát triển của nhiều quốc gia . Thế giới không còn sự đối đầu trực tiếp , cục diên thế giới đã hoàn toàn thay đổi, thay vao đó là một xu hướng phát triển hoàn toàn mới . Tuy nhiên, không phải vì thế mà không còn sự đấu tranh gay gắt giữa các thế lực trên thế giới, mà nó chuyển từ dạng này sang dạng khác và hình thức đấu tranh cũng không còn là đối đầu trực diện, nó chuyển sang hình thức đấu tranh ít ồn ào hơn mà thôi. Sự sụp đổ của hệ thống lưỡng cực đã đẩy các quốc gia vào hình thức buộc phải nhìn nhận lại đường lối phát triển và vị thế chiến lược của mình . Sau khi chiến tranh lạnh kết thúc cùng với sự tan rã của thế giới hai cực . QHQT mở ra một thời kì mới đó là xu hướng đa phương hoá, đa dạng hoá. Trật tự thế giới cũ bị mất đi một trong hai siêu cường, so sánh lực lượng trên thế giới trên bình diện toàn cầu từ chỗ cân bằng chuyển sang hướng có lợi cho TBCN nói chung và Mỹ nói riêng. Trật tự thế giới đang trong quá trình hình thành không phải là một cực do Mỹ chi phối lãnh đạo nhưng cũng không phải hẳn là đa cực. Do vậy khi nói đến các trung tâm quyền lực là nói đến thực lực và mối liên quan giữa các trung tâm này , đó là các nước lớn như Mỹ, EU, Nhật Bản, Trung Quốc, Nga... Các nước đều xác lập và củng cố những điều kiện quốc tế có lợi, mở rộng môi trường hợp tác quốc tế, xây dựng cho mình một chính sách đối ngoại độc lập nhất quán và ít phụ thuộc hơn, trên cơ sở đó xây dựng các mối quan hệ theo kiểu “bạn bè đối tác chiến lược can bằng, ổn định và lâu dài ” ở các cấp độ khác nhau. Sự sụp đổ của thế giới hai cực đã dẫn tới một xu hướng phân chia và tập hợp các lực lượng mới giữa các quốc gia. Do vậy quan hệ giữa các nước lớn cũng có những điều chỉnh nhanh chóng, quan trọng và sâu sắc. Từ chỗ mất cân bằng chuyển sang cân bằng hơn, tìm kiếm ổn định, kiềm chế bất đồng tránh những xung đột mang tính chất đối kháng. Giữa các nước lớn đã từng bước hình thành các cặp quan hệ đối tác chiến lược. Xu hướng của thế giới hiện nay theo các học giả cho rằng đó là xu hướng đa cực hoá. Bên cạnh đó các nước vừa và nhỏ cũng điều chỉnh chính sách đối ngoại cho phù hợp với môi trường quốc tế mới. Tất cả các nước đều có chiều hướng chung là thi hành một chính sách đối ngoại độc lập theo chiều hướng đa dạng hoá , tập hợp trên cơ sở lợi ích song trùng, quan hệ tuỳ thuộc trên nhiều bình diện khác nhau cả về kinh tế, chính trị cũng như an ninh ngày càng chặt chẽ và đang trở lên phổ biển ở khắp mọi nơi trên thế giới. Với trào lưu này thì ngày càng ngày nhiều vấn đề vượt ra ngoài ranh giới của một quốc gia mà không thể bằng ngoại giao song phương có thể giải quyết được . Chiến tranh lạnh chấm dứt, Mỹ nghiễm nhiên trở thành siêu cường còn lại duy nhất, Mỹ có toan tính mới nhằm duy trì trật tự “ thế giới một cực”, mong muốn áp đặt mọi chiến lược kinh tế – chính trị – an ninh cho các nước khu vực và các quốc gia trên thế giới. Chính vì vậy, tham vọng vai trò siêu cường thế giới duy nhất luôn là nhân tố hàng đầu chi phối chiến lược ngoại giao của Mỹ . Tuy nhiên, có nhiều nguyên nhân khiến Mỹ không phát huy được sức mạnh của mình để lãnh đạo thế giới theo một trật tự mong muốn. Thứ nhất, tuy là siêu cường duy nhất còn lại trên thế giới nhưng điều này không có nghĩa là sau chiến tranh lạnh là thế giới một cực bởi lẽ rất đơn giản là Mỹ không còn đủ sức cả về kinh tế và chính trị để điều khiển thế giới theo ý muốn của mình. Với xu thế hoà bình, hợp tác cùng phát triển sau chiến tranh lạnh sức mạnh đó không thể sử dụng được để giải quyết các vấn đề thế giới. Thứ hai, tính độc lập tự chủ của nhân dân thế giới sau chiến tranh lạnh rất cao, họ không dễ gì chấp nhận sự áp đặt của Mỹ , không chỉ các nước lớn như Nga, Trung Quốc, EU, Nhật Bản mà ngay cả các nước đang phát triển cũng vậy. Thứ ba, kinh tế Mỹ không còn đủ mạnh như sau chiến tranh thế giới thứ II, để tài trợ cho vai trò lãnh đạo thế giới của Mỹ . Song, trong tất cả các chiến lược toàn cầu được đưa ra từ sau chiến tranh lạnh đến nay thì mục tiêu duy trì, củng cố vị trí siêu cường vẫn là mục tiêu nhất quán, xuyên suốt không thay đổi . Chiến tranh lạnh kết thúc chấm dứt sự đối đầu giữa hai cực Xô - Mỹ, đặc biệt là sự đối đầu về ý thức hệ cũng dần mất đi. Điều này không có nghĩa là không còn cuộc đấu tranh ý thức hệ nữa, nó vẫn tiếp tục diễn ra, nhất là trong nội bộ của từng nước. Trên phạm vi quốc tế, quan hệ giữa các nước với nhau không còn ở vị trí hàng đầu mà nó diễn ra với nhiều hình thức khác nhau, ít bạo lực hơn dưới chiêu bài đấu tranh đòi nhân quyền, dân chủ, đa nguyên đa đảng... Trong QHQT hiện nay tất cả các quốc gia đều chú trọng xây dựng cho mình một vị thế mới trên trường quốc tế, chú trọng quan hệ với các nước láng giềng và khu vực nhằm tạo điều kiện quốc tế thuận lợi để phát triển kinh tế. Mô hình hai cực của hệ thống quan hệ quốc tế bị phá vỡ, Mỹ mất đi một đối trọng, cũng là đối thủ mạnh trên chính trường quốc tế. Đây là thời cơ cần phải “ chớp lấy” để xác lập một trật tự thế giới đơn cực do Mỹ lãnh đạo. Mỹ cho rằng với sức mạnh tổng hợp ( quân sự , KT , KHKT , chính trị…) của mình Mỹ có thể áp đặt mô hình Mỹ, phổ biến các giá trị và lối sống Mỹ ra khắp mọi nơi trên hành tinh. Đó là mong muốn và mục tiêu chiến lược nhưng không dễ gì được nhân dân các nước chấp nhận. Sự kiện Mỹ bị khủng bố ngày 11/ 9/ 2001 cho thấy chính sách sử dụng tuỳ tiện “sức mạnh” của Mỹ đã đưa lại các giá trị phải trả đắt đến như thế nào. Alechxandor Konovalov trong “ những sự kiện vẽ lên khuôn mặt thế kỷ XX” của thông tấn xã Việt Nam ( tài liệu tham khảo đặc biệt 4/1/2001) đã nhận định “nói chung chính sách của Mỹ đã xuất hiện những triệu chứng của căn bệnh rất nguy hiểm , mà ta tạm gọi là triệu chứng của nhà khổng lồ cô đơn” . Chiến tranh lạnh kết thúc, nhất là trong giai đoạn hiện nay thì việc chạy đua vũ trang đã trở lên lỗi thời, thế giới đã và đang thay đổi một cách sâu sắc theo một xu hướng mới. Hiện nay việc phát triển của tất cả các quốc gia trên thế giới được đặt lên vị trí ưu tiên hàng đầu và đây cũng là thời kỳ diễn ra mạnh mẽ quá trình toàn cầu hoá và khu vực hoá trên rất nhiều lĩnh vực. Một số hình thức biểu hiện qua những diễn đàn toàn cầu như Liên Hợp Quốc, WTO… Việc phát triển nền kinh tế vững mạnh là điều sống còn với các quốc gia dân tộc, nó quyết định vị thế của các quốc gia trên trường quốc tế . Ngày nay tính tuỳ thuộc lẫn nhau giữa các quốc gia ngày càng tăng, cùng với xu hướng toàn cầu hoá đang diễn ra mạnh mẽ. Mỹ không thể một mình giải quyết được tất cả các vấn đề trên thế giới, mà ngược lại cần có sự phối hợp của nhiều nước. Trong bối cảnh đó các cường quốc như Nga, Tây Âu, Nhật Bản, Trung Quốc đều đang cố gắng vươn lên tạo cho mình một vị thế có lợi hơn, nhằm chia sẻ quyền lực, chi phối đời sống QHQT. Họ không muốn và không chịu để cho Mỹ múa cây gậy chỉ huy để khống chế thế giới. Tuy nhiên cho tới thời điểm này thế giới cũng chưa hoàn toàn là đa cực hoá. Một thế giới đa cực hoá đảm bảo phải có sự cân bằng giữa các “ cực sức mạnh” . Chưa có một cường quốc nào, một “cực sức mạnh nào” có thể cạnh tranh được với Mỹ . Cả Nhật Bản, Tây Âu, LB Nga, Trung Quốc đều không thể chơi đến cùng “ một thang âm những nhạc cụ sức mạnh” với Mỹ. Sẽ là quá cường điệu khi nói rằng thế giới ngày nay ai giàu nhất và làm bá chủ khoa học kĩ thuật thì người đó sẽ lãnh đạo thế giới, nhưng cần phải thấy rằng sự lạc hậu về KHCN và chậm tiến về kĩ thuật là nguy cơ hàng đầu với nền an ninh của tất cả các nước. Trong xu thế phát triển của thế giới từ sau chiến tranh lạnh, vấn đề kinh tế là nhân tố hàng đầu đối với sự hưng vong của mỗi quốc gia, dân tộc. Vấn đề phát triển kinh tế là ưu tiên hàng đầu trong chương trình hành động của mình. Xuất phát từ ba lý do : Bất kì chính phủ nào muốn đứng vững và duy trì ổn định chính trị thì vấn đề hàng đầu là phải cải thiện được đời sống của các tầng lớp nhân dân . Muốn mở rộng giao lưu , hội nhập vào cộng đồng quốc tế thì trước hết phải có lực lượng kinh tế . Ngày nay kinh tế đóng vai trò quan trọng trong nền an ninh mỗi nước. Đặc điểm nổi bật tình hình kinh tế mỗi nước sau chiến tranh lạnh là sự tăng trưởng tương đối liên tục tuy không cao và chưa thật ổn định. Sau chiến tranh lạnh kết thúc , kinh tế thế giới trở thành một thị trường thống nhất cùng với khoa học công nghệ không ngừng phát triển đã giải phóng sức sản xuất của toàn thế giới. Tương ứng với sự phát triển của lực lượng sản xuất, QHSX được cơ cấu lại theo hướng liên kết hoá và toàn cầu hoá đã đẩy mạnh quốc tế giao lưu kinh tế quốc tế, trước hết là thương mại đầu tư, làm cho tính phụ thuộc nhau về mặt kinh tế giữa các quốc gia và vùng lãnh thổ trở thành một quy luật cho sự phát triển. Một nhân tố khác thúc đẩy sự tăng trưởng kinh tế là sự tăng nhanh của nền ( kinh tế thế giới ) thương mại thế giới theo hướng tự do hoá. Tuy nhiên sự phát triển của nền kinh tế thế giới là không đồng đều giữa các nước. Đây vẫn là một xu thế không thể đảo ngược. Một điều nghịch ký là càng phát triển thì hố ngăn cách giữa các nền kinh tế thế giới lại càng rộng ra. Sự phát triển của nền kinh tế thế giới diễn ra chủ yếu ở ba trung tâm tư bản lớn là Mỹ, Nhật và Tây Âu. Quá trình liên kết kinh tế khu vực hoặc đại khu vực cũng chỉ ở trình độ thấp dưới dạng tự do mậu dịch hay liên minh thuế quan. Đặc điểm nổi bật nhất trong giai đoạn này là xu thế toàn cầu hoá kinh tế, đây là một xu thế khách quan . Một quốc gia sẽ không thể phát triển nếu như không mở cửa hội nhập. Tuy vậy , hội nhập một nặt đón nhận được cơ hội phát triển , song mặt khác phải đối mặt với hàng loạt thách thức đặt ra. Toàn cầu hoá và khu vực hoá bên cạnh mặt tích cực thì nó cũng có một số hạn chế, nó làm cho cạnh tranh giữa các nước và các khu vực trở lên hết sức khốc liệt và có xu hướng dẫn đến chế độ bảo hộ mậu dịch khu vực. Phần thiệt thòi luôn thuộc về những nền kinh tế yếu kém hơn. Quá trình toàn cầu hoá còn có tác động đến lĩnh vực chính trị, dẫn đến sự hình thành các tổ chức chính trị quốc tế đặc biệt là LHQ. Toàn cầu hoá tạo ra cơ hội lớn cho sự phát triển, nhất là vấn đề kinh tế, tuy nhiên đó cũng là quá trình cho chủ nghia tư bản nuôi hi vọng riêng của mình cho toàn cầu : muốn thông qua toàn cầu hoá buộc các nước phải lệ thuộc vào mình, tạo nguy cơ đánh mất bản sắc dân tộc, đánh mất độc lập tự chủ của mỗi quốc gia. Nhưng cũng cần thấy rằng đây là xu hướng tât yếu của kinh tế thế giới, khi lực lượng sản xuất đã vượt ra khỏi biên giới của mỗi quốc gia. Cùng với sự phát triển của cuộc cách mạng khoa học kĩ thuật dẫn đến sự thay đổi cơ cấu của lực lượng sản xuất. Cuộc chạy đua về vốn và khoa học công nghệ diễn ra trên phạm vi toàn cầu. Các nước đấu tranh và hợp tác để cùng tồn tại , mục đích cốt yếu là có thể phát triển tối đa mức có thể cho nền kinh tế của mình. Đưa nền kinh tế thế giới sang một bước ngoặt mới, tiếp tục làm thay đổi sâu sắc bộ mặt kinh tế thế giới và các mối QHQT. Cuộc cách mạng khoa học công nghệ mà nội dung cơ bản là cách mạng về công nghệ thông tin, công nghệ sinh học, năng lượng và vật liệu mới…tiếp tục phát triển với trình độ ngày càng cao. Tốc độ phát triển của KHKT hiện nay phát triển như vũ bão, nó tạo điều kiện cho tất cả các nước có thể thực hiện được bước nhảy vọt trong việc phát triển kinh tế và đời sống xã hội theo hướng công nghệp hoá - hiện đại hoá, đồng thời đòi hỏi tất cả các nước phải cơ cấu lại nền kinh tế của mình, và luôn đặt tất cả các nước trước nguy cơ tụt hậu, đặc biệt là các nước đang phát triển. Tuy nhiên, không ai có thể cưỡng lại được xu thế này. Vấn đề đặt ra là các nước có nền kinh tế yếu kém hơn là làm thế nào để vượt qua được những thách thức này, trong khi tận dụng được những mặt có lợi của quá trình hội nhập và những thành tựu của KHKT, cùng với xu thế toàn cầu hoá thì xu thế hoà bình, ổn định, hợp tác và phát triển, xu thế đấu tranh cho độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội diễn ra ngày càng mạnh mẽ. Mối quan tâm hàng đầu của các quốc gia trên thế giới là bảo đảm hoà bình và ổn định, độc lập, hợp tác để phát triển , khắc phục sự bất bình đẳng về chính trị, kinh tế và xã hội. Toàn cầu hoá không có nghĩa là xoá nhoà bản sắc dân tộc , “ hoà nhập chứ không hoà tan ” , không có nghĩa là xoá bỏ chủ quyền quốc gia. Điều này thể hiện ý thức tự chủ, tự lực tự cường của các quốc gia ngày càng cao . Những nhân tố trên vừa thúc đẩy quá trình điều chỉnh hay đổi mới trong chính sách đối ngoại của các nước , vừa vạch ra những giới hạn và thách thức mà các cước phải vượt qua trong khi thực hiện mục tiêu chiến lược của mình . Điều này thể hiện quá trình điều chỉnh chiến lược của tất cả các nước kể từ sau khi chiến tranh lạnh kết thúc . QHQT trong bất kì giai đoạn nào cũng diễn ra hết sức phức tạp điều này thể hiện sự biến đổi không ngừng trong QHQT ở mọi thời kì , mọi lĩnh vực . Mỗi một thời kì , một giai đoạn phát triể , QHQT đều mang đậm dấu ấn riêng của thời k , giai đoạn đ . Đặc điểm bao trùm toàn bộ QHQT thời kì chiến trnh lạnh chủ yếu là cuộc đối đầu Đông – Tây, giữa hai siêu cường là Liên Xô và Mỹ, là đại diện cho XHCN và TBCN. Bản chất của chiến tranh lạnh là Xô - Mỹ giành giật bá quyền trên phạm vi toàn cầu, đương nhiên là cả về ý thức hệ. Nhưng nguyên nhân căn bản là phe nào cũng muốn kiểm soat thế giới theo ý muốn của mình. Sự đụng đầu hai cực của thế giới diễn ra gay gắt trên mọi phương diện. Sự đối đầu trực tiếp đã đẫn đến một cuộc chạy đua vũ trang lớn chưa từng có. Sự đối đầu giữa hai cực của thế giới chi phối toàn bộ đời sống QHQT thơi kì chiến tranh lạnh. Hai thế lực thù địch luôn tìm cách chống mphá nhằm xoá bỏ nhau do sự đối lập về lợi ích , hệ tư tưởng. Một tham vọng xuyên suốt trong tất cả các chính sách đối ngoại của Mỹ qua mọi thời kì đó là : tham vọng bá chủ thế giới. Với tiềm lực to lớn của Mỹ thì tham vọng đó có thể đạt được, nếu không có sự ngáng trở của một siêu cường lớn mạnh không kém là Liên Xô. Bởi vậy, Mỹ tìm mọi cách để loại bỏ đối thủ của mình là điều dễ hiểu. Tuy nhiên, với sự sụp đổ của Liên Xô và các nước Đông Âu đã dẫn đến CNXN thoái trào với sự sụp đổ. Chiến tranh kết thúc ( 1991 ), đã phá vỡ thế đối đầu giữa hai cực, làm thay đổi hoàn toàn cục diện của thế giới. Chạy đua vũ trang và chiến tranh cục bộ hay các cuộc đối đầu trực tiếp đã không còn nữa. Các cuộc chạy đua vũ trang, chạy đua vũ khí hạt nhân, vũ khí sinh học đã trở nên lỗi thời. Các hình thức đối đầu cạnh tranh trong thời kì chiến tranh lạnh đã được thay thế bằng hợp tác để phát triển kinh tế. Sau chiến tranh lạnh kết thúc, phát triển kinh tế là ưu tiên hàng đầu cùng với xu thế toàn cầu hoá. Chính sách đối ngoại của các nước đưa ra nói chung là hoà dịu hơn. chương 2 Hợp tác và xung đột giữa các nước lớn từ thập kỷ 90 đến nay 2.1. Đặc điểm hợp tác và xung đột giữa các nước lớn: Xung đột và hợp tác là một phạm trù mang tính qui luật khách quan. Thế giới là một chỉnh thể thống nhất và đa dạng thể hiện rõ qui luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập. Vì vậy, vấn đề xung đột và hợp tác là một qui luật tất yếu của lịch sử loài người, trong lịch sử quan hệ giữa các cá nhân, cộng đồng cũng như giữa các quốc gia dân tộc, được biểu hiện bằng những nội dung hình thức phương pháp cùng với những chiến lược, sách lược khác nhau trong những hoàn cảnh lịch sử khác nhau. Trong quan hệ quốc tế thì khái niệm “hợp tác và xung đột” là một vấn đề hết sức nhạy cảm và phức tạp. Bởi vì như chúng ta thấy, do xuất phát từ lợi ích, điều có lợi cho quốc gia này lại có thể là bất lợi cho quốc gia khác. Bởi vậy các nước xây dựng nên mối quan hệ với nhau nhằm đưa tơi những mối quan hệ hợp tác có lợi, để phát huy thế mạnh của mình và cũng đồng thời để kiềm chế lẫn nhau, trước mắt cũng như lâu dài các quốc gia không phân biệt chế độ chính trị- xã hội đều tiến hành bổ xung chiến lược đồi ngoại để giành vị thế cao hơn trong chiến trường quốc tế. Các quốc gia đều muốn giành một vị thế có lợi hoặc ít nhất là không bất lợi trong quan hệ quốc tế đang phát triển đa dạng và phức tạp. Hơn một thập kỉ qua kể từ sau khi chiến tranh lạnh kết thúc(1991), đời sống chính trị thế giới có rất nhiều biến đổi. Một xu hướng nổi bật hiện nay trong tất cả các lĩnh vực như chính trị, kinh tế, văn hóa tư tưởng… là các nước vừa hợp tác vừa kiềm chế lẫn nhau trong các quan hệ song phương và đa phương. Các quốc gia đều xây dựng cho mình một chính sách ngoại giao độc lập tự chủ hơn. Sự tương đồng và khác biệt về lợi ích, quan điểm ý thức hệ, lịch sử, văn hóa… giữa các quốc gia luôn là nhân tố chủ yếu chi phối vấn đề xung đột và hợp tác. Sự xung đột diễn ra nhiều cấp độ, tầng nấc khác nhau bên cạnh đó là sự hợp tác với mục đích cùng nhau phát triển. Các nước lớn đều muốn vươn lên là nước có ảnh hưởng lớn trong quan hệ quốc tế, nhưng một cường quốc muốn lãnh đạo thế giới luôn vận động và phát triển đặc biệt là trong bối cảnh đầy mâu thuẫn và phức tạp của thế giới hiện nay thì “xung đột và hợp tác” hay “hợp tác ._.và kiềm chế” có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, xuất phát từ lợi ích quốc gia dân tộc và điều này nhằm đảm bảo cho những lợi ích đó. Trong hợp tác đã hàm chứa sự cạnh tranh, kiềm chế, cạnh tranh trong những hình thức phù hợp để quá trình hợp tác được tốt hơn, bền vững hơn. Các nhà học giả trên thế giới đưa ta hai công thức trong quan hệ giữa các nước lớn đó là công thức “4+1” và “2+3”. Đây là số lượng các nước lớn sau chiến tranh lạnh. Với công thức “4+1” các học giả đưa ra tức là Mỹ vượt trội hơn hẳn 4 nước kia (không có nghĩa là Mỹ vượt trội hơn 4 nước kia cộng lại là Nhật Bản, Tây Âu, Nga và Trung Quốc). Công thức này ít nói về tập hợp lực lượng và không nên hiểu 4 nước này liên kết lại để chống lại Mỹ. Công thức “2+3” chủ yếu nói về vấn đề tập hợp lực lượng, ở công thức này thì Nga và Trung Quốc chưa phải là đồng minh mà chỉ là đối tác chiến lược. Tuy nhiên giữa các nước lớn là Nga, Mỹ, Tây Âu, Nhật Bản, Trung Quốc các quan hệ song phương vẫn được giữ, dù là chiến lượng hay sách lược thì cái đầu tiên để hoạch định chính sách là so sánh lực lượng. Các công thức này chỉ nói lên mức độ hợp tác thân thiện chứ không phải là chống lại nhau. Tuy nhiên qua đây ta có thể thấy rõ ràng tất cả những nước lớn đều không bỏ qua bất kì cơ hội nào để nhằm nân cao vị thế của mình trên trường quốc tế. Tất cả Nga, Mỹ, Eu, Trung Quốc, Nhật Bản đều muốn mình có ảnh hưởng đều muốn mình có ảnh hưởng sâu sắc trong quan hệ quốc tế, có tiếng nói quan trọng hơn nhất là Nga, Trung Quốc, EU, Nhật Bản; Họ không muốn Mỹ là siêu cường duy nhất trên thế giới có thể chi phối các quan hệ quốc tế. Ngược lại, Mỹ không ngừng củng cố ảnh hưởng và uy tín của mình không muốn chia sẻ quyền lực, bởi vậy các nước này tuy hợp tác với nhau nhưng một mặt lại luôn kiềm chế nhau về mọi mặt cũng là điều dễ hiểu. Những thăng trầm trong quan hệ quốc tế giữa các nước lớn trong giai đoạn này do nhiều nguyên nhân chi phối nhưng nổi bật nhất vẫn là do tương quan lực lượng đang thay đổi. Trật tự thế giới hai cực đổ vỡ kèm theo sự mất đi của những cơ chế và giới hạn kiềm chế các xung đột. Tình trạng bùng nổ các xung đột có nguy cơ gia tăng. Mỹ vẫn là nước lớn mạnh nhất thế giới song bên cạnh đó sự vươn lên mạnh mẽ và không ngừng của Nhật Bản, Nga, Trung Quốc, Tây Âu cùng đe doạ đến vị trí siêu cường của Mỹ. Mỹ tuy ở thế mạnh song cũng nhiều hạn chế khó có thể áp đặt ý muốn của mình cho đối tác. Tuy nhiên Mỹ vẫn chưa từ bỏ mưu đồ xác lập “quyền lãnh đạo thế giới” và luôn thay đổi chiến lược cũng như sách lược. Giữa các nước lớn, những xung đột manh tính chất đối kháng đã trở thành trào lưu chính trong quan hệ với nhau từ sau chiến tranh lạnh . Các nước lớn phương Tây (đứng đầu là Mỹ) có động thái sử dụng triệt để các tổ chức và diễn đàn quốc tế (UN, WB, WTO, IMF…) mưu toan áp đặt các giải pháp chính trị (thậm chí cả quân sự) cho nhiều cuộc khủng hoảng xung đột ở các khu vực trên thế giới nhằm vương lên thành siêu cường duy nhất (Mỹ) hoặc thành một cực chính trị quan trọng trong trật tự thế giới đa cực đang từng bước hình thành (Tây Âu, Nhật Bản)… Như đã nói ở phần trên, tất cả những xung đột và hợp tác giữa các nước lớn đều xuất phát từ lợi ích riêng của từng nước. Các cường quốc này đều đưa ra chính sách tang quan hệ quốc tế, vừa hợp tác vừa kiềm chế lẫn nhau tang tất cả các lĩnh vực như kinh tế, chính trị… nhằm đạt được vị thế có lợi nhất cho mình trong trường quốc tế. Hợp tác và đấu tranh là hai mặt trong quan hệ quốc tế, nó chi phối phương thức quan hệ quốc tế, nó chi phối phương thức quan hệ các nước trong quá trình hội nhập và giao lưu quốc tế. Đấu tranh và hợp tác để cùng tồn tại và phát triển là điều mà các quốc gia hướng tới, bởi nó phù hợp với các đặc điểm và xu thế đa phương hoá, đa dạng hoá quan hệ quốc tế và đường lối đối ngoại của mỗi nước. 2.2.Quan hệ cụ thể giữa các nước lớn: 2.2.1. Quan hệ về chính trị: Thế giới luốn biến đổi không ngừng, chính vì vậy quan hệ quốc tế là một hoạt động vô cùng phức tạp, nhất là quan hệ về chính trị. Bất cứ chính sách nào được đưa ra trong quan hệ quốc tế đều có ảnh hưởng trực tiếp đến quan hệ quốc tế nói chung và với từng quốc gia nói riêng. Quan hệ giữa các nước lớn cũng vậy, có lúc thăng, có lúc trầm. Do xuất phát từ lợi ích riêng của từng quốc gia mà quan hệ giữa các nước không trành khỏi những xung đột và hợp tác. Xung đột và hợp tác về chính trị trong quan hệ giữa các nước lớn sau chiến tranh lạnh được biểu hiện rõ nét qua những mối quan hệ song phương cụ thể : Mỹ (bao hàm cả Tây Âu) với Nga , Mỹ với EU, Mỹ – Trung Quốc, Mỹ – Nhật, Nga – Trung Quốc… Và trên bình diện của khu vực, những mối quan hệ song phương này đan xen nhau, tạo thành những tam giác, tứ giác chiến lược trên cơ sở những tương đồng và khác biệt về cụ thể trong từng thời kì, từng giai đoạn cụ thể. Sau chiến tranh lạnh, Nga là nước thừa kế hợp pháp những gì mà Liên Xô trước đây để lại. Tình trạng khủng hoảng trầm trọng và toàn diện đã làm cho vị thế của nước Nga bị suy giảm một cách đáng kể, làm ảnh hưởng đến quan hệ giữa Nga và các nước trên thế giới, đặc biệt với các nước trong tứ giác chiến lược Mỹ – Trung Quốc – Nhật – Nga. Do tác động của hàng loạt nhân tố, cả chủ quan lẫn khách quan, cả bên trong lẫn bên ngoài đầu thập niên 90, Liên Xô thực sự đứng trên bờ vực thẳm của sự hỗn loạn. Sau khi Liên Xô tan rã, thế giới chỉ còn lại một siêu cường duy nhất là Mỹ, nước luôn muốn duy trì địa vị bá chủ thế giới của mình. Song các cường quốc khác dù là lâu đời hay mới nổi – không dễ gì chấp nhận mô hình trật tự thế giới như vậy. Các cường quốc thế giới đang trong quá trình vừa hợp tác, vừa đấu tranh, cạnh tranh với nhau và ra sức tập hợp lực lượng để từ đó xác lập vai trò, vị trí có lợi nhất cho mình. Tuy nhiên, với tiềm năng, sức mạnh khác nhau, các cường quốc cũng có những lợi thế so sánh khác nhau trên con đường xác lập vị thế quốc tế cho mình. Từ 1991 đến nay, quan hệ giữa các nước lớn nổi lên những điểm đáng chú ý, đó là sự không ổn định, trải qua nhiều thăng trầm ( đặc biệt là quan hệ giữa Mỹ, Nhật Bản với Nga và Trung Quốc ). Trong một thập niên sau chiến tranh lạnh, quan hệ giữa các cường quốc có thể được phân chia thành ba giai đoạn chủ yếu sau : Giai đoạn 1991 – 1995 : Quan hệ giữa các nước lớn không ổn định, cọ xát và xung đột mạnh với nhau. Biểu hiện nổi bật thông qua các sự kiện như Mỹ đòi khám tàu Ngân Hà của Trung Quốc do nghi ngờ tàu này chở vũ khí cho Iran (7/1/1993) : căng thẳng ở eo biển Đài Loan (cuối năm 1995 đến năm 1996 ) buộc Mỹ phải triển khai sự hiện diện quân sự lớn nhất Đông Nam á từ sau chiến tranh Việt Nam ( điều tới 2 tàu sân bay và tuyên bố sẵn sàng can thiệp nếu Trung Quốc tiến đánh Đài Loan), đáp lại Trung Quốc tiến hành một loạt các vụ thử hạt nhân, tập trận. Giai đoạn 1996 – 1998 : Quan hệ giữa các nước lớn từng bước được cải thiện, được cớ cấu lại theo hướng ổn định, lâu dài với sự hình thành các đối tác chiện lược : giữa Trung Quốc và Nga là “quan hệ đối tác chiến lược hướng tới thế kỉ 21”. Quan hệ Trung Quốc và Mỹ là “quan hệ chiến lược mang tính xây dựng” ; Trung Quốc và Nhật Bản là “quan hệ láng giềng hữu nghị mang tính xây dựng” ; Nga và Nhật Bản đã thoả thuận kế hoạch “Yelsin- Hashimoto” tiến tới hiệp ước kí hòa bình; giữa Mỹ và Nhật Bản đã thoả thuận phương châm sửa đổi hiệp ước an ninh Mỹ - Nhật… Giai đoạn từ cuối 98 đến nay : Quan hệ giữa các nước lớn lại xáo động nghiêm trọng do các sự kiện Anh – Mỹ không kích Irac (12/98), diến biến 78 ngày đêm Mỹ và NATO tấn công Nam Tư (1999), Mỹ phản đối hoạt động của Nga ở Chesnia, Mỹ sửa đổi hiệp ước giới hạn vũ khí phòng thủ chiến lược ABM kí với Nga năm 1972; Mỹ- Nhật kí kết triển khai hệ thống phòng thủ tên lửa chiến trường (TMD) ở vùng Viễn Đông… Chịu tác động mạnh mẽ nhất là quan hệ Mỹ – Nga và Mỹ – Trung nhưng xung đột giữa các cường quốc vẫn còn nằm trong giới hạn, trước mắt khó có thể xảy ra đổ vỡ lớn hầu hết các nước đều không muốn đối đầu trực tiếp với nhau. Ví dụ như cả Nga và Trung Quốc đều cần tranh thủ Mỹ, còn Mỹ tuy có phần lấn át song cũng cần sự hỗ trợ của Nga và Trung Quốc trong một số vấn đề quốc tế. Về cơ bản thì sự phân chia giai đoạn chỉ mang tính chất tương đối. Trên thực tế trong mỗi giai đoạn, quan hệ quốc tế giữa các nước lớn đều bao hàm cả hợp tác và kiềm chế lẫn nhau tuỳ theo trường hợp nhất định, tính chất hợp tác hay kiềm chế mới nổi lên chiếm ưu thế. Quan hệ giữa các nước lớn với nhau trải qua những thăng trầm, lúc hợp tác, lúc kiềm chế không ổn định và luôn luôn biến đổi do xu hướng vận động của quan hệ quốc tế luôn luôn thay đổi do tương quan lực lượng giữa các nước lớn đang thay đổi. Các quan hệ song phương cụ thể được trình bày một cách khái quát sau đây sẽ cho thấy rõ hơn về những nhận định đó. Sau khi Liên Xô và Đông Âu sụp đổ, với tham vọng bá chủ thế giới và với tiềm lực kinh tế, chính trị, quân sự của một siêu cường duy nhất, Mỹ coi đây là một cơ hội thuận lợi để thực hiện giấc mơ bá chủ của mình. ở thập kỉ cuối cùng của thế kỉ 20, những âm mưu và hàng động của Mỹ đã cho thấy Mỹ không hề giấu giếm tham vọng đó. Dư luận thế giới đã có sự lo ngại trật tự thế giới hình thành theo xu hướng một cực do Mỹ khống chế. Những thái độ trịch thượng, bê cả, chà đạp lẽ phải và công lí của Mỹ thể hiện trắng trợn qua cuộc chiến tranh IRăc (1991), Mỹ trực tiếp can dự hoặc lợi dụng danh nghĩa Liên Hợp Quốc tiến hành cuộc chiến tranh chống Nam Tư (1999). Thực lực của Mỹ còn rất mạnh, tuy nhiên trong những năm gần đây thực tiến cục diện thế giới cho thấy Mỹ khó lòng thực hiện được tham vọng đó của mình. Bên cạnh đó sự vươn lên của các chủ thể khác cả về tiềm lực, vai trò và ảnh hưởng của họ trên thế giới. Nhật Bản vẫn tiếp tục tăng cường sức mạnh kinh tế của mình và đang là cường quốc thứ hai về kinh tế sau Mỹ, thậm chí ở nhiều khu vực, ảnh hưởng về kinh tế của Nhật còn mạnh hơn Mỹ. Nhật Bản cũng có khả năng khống chế nhiều lĩnh vực công nghệ cao, hơn nữa với sức mạnh kinh tế của mình Nhật Bản không muốn lại bị lép vế về chính trị. Hiện nay Nhật Bản đang có tham vọng chi phối và quyết định nhiều vấn đề chính trị quốc tế, muốn vươn lên để giành vị thế chính trị thế giới cao hơn sao cho tương xứng với tầm vóc kinh tế Nhật Bản. Liên minh Tây Âu (EU) với chương trình mở rộng các nước thành nhât thể hoá về tiền tệ, kinh tế chính trị đầy tham vọng và có tính hiện thực đang thực sự là một trung tâm kinh tế, chính tị lớn trên thế giới. Hiện nay, liên minh châu ÂU là một thực thể kinh tế, chính trị với tiềm lực to lớn, có trình độ công nghệ cao, chiếm giữ nhiầu khu vực kinh tế mũi nhọn, có quan hệ truyền thống với nhiều quốc gia khu vực trên thế giới. Ngoài ra EU còn tham gia vào việc giải quyết một số điểm nóng trên thế giới như Châu Phi, Trung Đông… cho thấy EU đang thật sự cạnh tranh với quyền bá chủ của Mỹ. Trong các hội nghị quốc tế, các quan hệ song phương và đa phương trên diễn đàn LHQ giữa các nước Anh, Pháp, Đức… công khai bày tỏ quan điểm đòi thiết lập lại thế giới đa cực, bác bỏ tham vọng của Mỹ trở thành một cực duy nhất của trật tự thế giới mới. Trung Quốc đang trở thành một đối thủ đáng gờm của Mỹ trong thế kỉ 21. Là một quốc gia rộng lớn với gần 1,3 tỷ người, Trung Quốc cũng đầy tham vọng trong quan hệ quốc tế. Với những thành tựu đạt được trong lĩnh vực kinh tế trong quá trình cải cách mở cửa, tốc độ tăng trưởng kinh tế tăng liên tục. Trong quan hệ chính trị thế giới, Trung Quốc ứng xử mọi cách độc lập, tự chủ, lấy lợi ích quốc gia làm nền tảng cương – nhu tuỳ lúc, tuỳ thời cơ. Những năm gần đây, Trung Quốc không ngừng mở rộng ảnh hưởng ra khắp các khu vực, thành lập quan hệ hợp tác chiến lược với Nga, hữu hảo với Nga, thân thiết với Pháp, Đức, Anh hoà dịu với ấn Độ, đối thoại với ASEAN. Điều này làm Trung Quốc ngày càng có vai trò của một trung tâm kinh tế, chính trị thế giới cạnh tranh và cản trở Mỹ thực hiện tham vọng lớn sâu xa của mình. Quan hệ giữa các nước lớn với nhau cũng trải qua không ít thăng trầm. Những thăng trầm trong quan hệ giữa các nước lớn bị chi phối bởi nhiều nguyên nhân, nhưng nổi bật nhất là do tương quan lực lượng giữa họ bị thay đổi. Mỹ tuy ở thế mạnh hơn các đối thủ khác nhưng cũng có những mặt hạn chế, khó có thể áp đặt sức mạnh của mình lên các đối tác. Quan trọng hơn là Mỹ chưa từ bỏ mưu đồ xác lập “bá quyền lãnh đạo thế giới” và thực hiện ý đồ này, Mỹ luôn thay đổi chính lược cũng như sách lược… Nhiều sự kiện cho thấy những bất ổn trong quan hệ Mỹ – Nga, Mỹ – Trung đều bắt đầu hoặc có nguyên nhân sâu xa từ sự thay đổi trong chính sách của Mỹ. Nhiều xung đột điểm nóng trên thế giới đều có bàn tay dính líu hoặc can thiệp của Mỹ đã gây lo ngại và phản ứng từ Nga, Trung Quốc, buộc hai nước có xu hướng nhích lại gần nhau để đối phó với Mỹ và các cường quốc đồng minh thân cận của Mỹ (Tây Âu, Nhật Bản). Cuộc tiến công đột ngột của lực lượng khủng bố đã đập tan câu chuyện thần thoại về nền an ninh vững chắc của Mỹ do có hai đại dương làm lá chắn tự nhiên, gây chấn động chưa từng thấy không những chỉ với nước Mỹ và với cả thế giới. Sau sự kiện 11/9 buộc Mỹ phải đưa ra chính sách mới để đối phó với chủ nghĩa khủng bố. Quan hệ quốc tế sau 11/9 cũng vì thế mà có nhiều thay đổi. Quan hệ giữa các nước lớn vẫn song song tồn tại mâu thuẫn và hợp tác, dựa vào nhau và kiềm chế lẫn nhau. Các quan hệ song phương cụ thể giữa các nước lớn đựơc trình bày một cách khái quát dưới đây sẽ cho thấy rõ hơn những nhận định trên : _Quan hệ Mỹ – Nga : Sau chiến tranh lạnh, quan hệ này đã thay đổi về chất, nếu như hơn bốn thập kỉ chiến tranh lạnh, quan hệ giữa Nga – Mỹ là sự đối đầu mang tính đối kháng là trục trung tâm của toàn bộ hệ thống quan hệ quốc tế thì nay không còn nữa. Tuy sự đối đầu về hệ tư tưởng là không còn nữa nhưng quan hệ Mỹ – Nga vẫn là nhân tố then chốt trong hệ thống các quan hệ quốc tế thời kì đầu sau sự kết thúc của chiến tranh lạnh. Kết quả của việc xử lý các mối quan hệ này rất quan trọng hoặc sẽ tăng cường một cách ổn định hoặc có thể dẫn tới hỗn loạn, xung đột, mất ổn định thế giới. Sau khi Liên Xô sụp đổ, nhất là sau tuyên bố chung Nga – Mỹ thì quan hệ giữa hai nước bước vào giai đoạn mới, quan hệ bạn bè chiến lược trên cơ sở bình đẳng cùng có lợi và thừa nhận lợi ích của mỗi nước. Hai nước hợp tác chặt chẽ với nhau trên tất cả các lĩnh vực không chỉ chính trị, ngoại giao mà cả kinh tế, thương mại, khoa học kỹ thuật lẫn quân sự, an ninh. Nga là mối quan tâm chiến lược hàng đầu của Mỹ. Do vị trí địa lí, chính trị của Nga, Nga án ngữ các quốc gia Đại Tây Dương và châu á - Thái Bình Dương, cộng thêm đó Mỹ vẫn coi Nga là thách thức tiềm năng lớn nhất với lợi ích quốc gia của họ (Nga là nước duy nhất thừa kế tới 70% sức mạnh của Liên Xô trước đây, Nga kiểm soát một kho vũ khí khổng lồ và vẫn theo đuổi mục tiêu khôi phục quốc gia siêu cường trước đây ). Mỹ tỏ ra mong muốn hợp tác với Nga trên mọi bình diện song đồng thời tìm mọi cách cản trở Nga nâng cao vị thế quốc tế và hạn chế khu vực ảnh hưởng mà Nga thừa kế của Liên Xô (Trung Đông, các nước SNG, Đông Âu, bán đảo Ban-Căng…). Về phía mình, do gặp phải những khó khăn về kinh tế, xã hội trong quá trình cải cách tự do hoá, Nga buộc phải chịu lép vế về nhiều mặt trong quan hệ với Mỹ nhằm tìm kiếm được nguồn ngoại lực cần thiết từ phương Tây. Từ năm 1994 đến nay, do tích tụ quá nhiều mâu thuẫn, quan hệ Mỹ – Nga chuyển sang một cục diện mới : Vừa hợp tác vừa kiềm chế một cách mạnh mẽ hơn. Do có những lợi ích chung, Nga – Mỹ hợp tác chặt chẽ hơn trong các vấn đề an ninh như không phổ biến vũ khí hạt nhân, vũ khí giết người hàng loạt, chống khủng bố… Tuy nhiên Mỹ vẫn chưa sẵn sàng phát triển mối quan hệ bình đẳng với Nga và có xu hướng sử dụng sức mạnh của mình trong việc giải quyết các vấn đề quốc tế. Mặc dù Nga không còn bị coi là đối thủ trực tiếp của Mỹ nhưng Nga vẫn chưa được thừa nhận là bộ phận cấu thành hay đối tác tin cậy của Mỹ và phương Tây. Quan hệ với Nga không còn được coi là hướng chủ đạo trong chính sách đối ngoại của Mỹ, Mỹ đặc biệt chú ý đến việc củng cố phát triển quan hệ đồng minh NATO và Nhật Bản. Vì vậy bất chấp phản ứng của Nga, Mỹ đã khởi xướng và thực thi chiến lược mới của NATO, mở rộng tổ chức này tới sát biên giới và đe doạ trực tiếp đến lợi ích an ninh quốc gia của Nga. Nguy hiểm hơn, Mỹ cùng các đồng minh NATO trực tiếp gây ra cuộc chiến tranh với Nam Tư (nước đồng minh thân cận với Nga) đồng thời xúc tiến xây dựng hệ thống phòng thủ tên lửa quốc gia (NMD) nhằm phá vỡ thế cân bằng vũ khí đạn đạo đã đạt được từ khi kí hiệp ước ABM (1972) đến nay. Mối lo ngại chủ yếu của Mỹ đối với Nga là các công trình quân sự đồ sộ. Trong khi mang tâm lí đề phòng Nga, Mỹ cũng tìm cách duy trì hợp tác với Nga trên một số mặt. Đặc biệt là sau sự kiện 11/9 quan hệ Nga _ Mỹ được cải thiện đáng kể, Nga tích cực ủng hộ Mỹ giáng trả lực lược khủng bố, điều này làm hai nước nhích lại gần nhau hơn. Trên thực tế, Nga muốn tìm cách cải thiện với Mỹ trong khi Mỹ vẫn tỏ thái độ cứng rắn với Nga. Sự kiện 11/9 tạo cơ hội cải thiện quan hệ hai nước. Sự kiện 11/9 không làm cho Mỹ từ bỏ mục tiêu chiến lược thế giới đơn cực, cũng không làm thay đổi sâu sắc lực lượng Mỹ – Nga – Trung. Nga là cường quốc hạt nhân duy nhất có thực lực quân sự đương đầu với Mỹ, chủ trương thế giới đa cực và ý đồ giành lại vị trí cường quốc của Nga khó mà hoàn toàn nhất trí với vị trí chiến lược toàn cầu của Mỹ. Nhưng những bất đồng tích tụ trong lịch sử Mỹ – Nga không thể tiêu tan hết trong một sớm một chiều. Như vậy, sự cạnh tranh, xung đột giữa Nga – Mỹ thể hiện ở cạnh tranh về lợi ích chính trị khu vực, cọ xát về vấn đề nhân quyền, va chạm về lợi ích toàn cầu. Tuy vậy tìm kiếm hợp tác với Mỹ vẫn là mặt chủ đạo trong đường lối đối ngoại của Nga. Nga tự hiểu rằng Nga khó có thể có đựơc sự hợp tác chiến lược nào tốt hơn với phương Tây mà đại diện là Mỹ. Mặc dù thuyết xây dựng thế giới đa cực được đưa ra nhằm chống lại bá quyền của Mỹ được cộng đồng quốc tế đánh giá rất cao nhưng tất cả chỉ là trên giấy tờ. Còn trên thực tế, khả năng thực hiện thuyết này còn xa vời và Nga thì bị lép vế trong các quan hệ song phương, đa phương với các đối tác khác cùng chung quan điểm. Có thể dự đoán rằng trong tương lai gần, quan hệ của Mỹ - Nga vẫn duy trì kết cấu lấy hợp tác làm chính song cạnh tranh và xung đột sẽ có xu hướng tăng. Quan hệ Mỹ – Trung Quốc : Trong chiến tranh lạnh, giữa Trung Quốc và Mỹ đã từng có mối quan hệ đồng minh chiến lược thực chất. Nhưng sau khi Liên Xô sụp đổ (1991) thì mối quan hệ đồng minh đó không còn. Quan hệ giữa Trung Quốc và Mỹ trải qua nhiều thăng trầm, trong đó hợp tác và xung đột cùng tồn tại. Giữa hai nước vừa có đấu trang gay gắt lại vừa duy trì sự phối hợp chặt chẽ trên một số mặt, vừa có xung đột về lợi ích chiến lược lại vừa hợp tác trên cơ sở lợi ích chung. Sau khi chiến tranh lạnh kết thúc, yếu tố chiến lược quan trọng nâng đỡ quan hệ Trung – Mỹ bỗng bị giảm sút, sự bổ xung lẫn nhau về kinh tế cũng làm cho nội dung quan hệ hai bên thay đổi. Cuối thập kỷ 80 đầu thập kỷ 90, Đông Âu biến động dữ dội, Liên Xô tan rã, Trung Quốc cũng trải qua sóng gió chính trị, Mỹ và phương Tây dấy lên làn sang trừng phạt Trung Quốc, bài Hoa. Năm 1992, Mỹ quyết định bán cho Đài Loan 150 máy bay F16. Năm 1993, sau khi đảng Dân Chủ lên cầm quyền, Mỹ gây sức ép gắn thêm điều kiện nhân quyền vào qui chế buôn bán bình thường giành cho Trung Quốc nhưng Trung Quốc vẫn tiếp tục công cuộc xây dựng kinh tế, cải cách và mở cửa. Giữa thập kỉ 90, vụ Lí Đăng Huy thăm Mỹ làm cho quan hệ hai nước rung chuyển dữ dội. Nhưng do nỗ lực của hai bên mà quan hệ song phương trong việc tích cực mở rộng hợp tác đã được đưa ra. Năm 2000, Mỹ đã cho phép Trung Quốc hưởng qui chế buôn bán bình thường vĩnh viễn. Nếu như trong thời kì chiến tranh lạnh, quan hệ hợp tác chiến lược Mỹ – Trung chủ yếu chỉ gói gọn trong lĩnh vực an ninh thì sau chiến tranh lạnh, mối quan hệ đó được mở rộng, phức tạp và đa dạng hơn, phát triển thành hệ thống lớn tương đối ổn định với nội dung bao hàm nhiều nhân tố như chính trị, kinh tế, ngoại giao …Tính chất quan hệ cũng đa dạng hơn : hợp tác, phối hợp, cạnh tranh, cảnh giác, đối kháng, thậm chí xung đột lẫn nhau. Nói một cách cụ thể hơn, tính chất quan hệ hợp tác chiến lược Trung - Mỹ đã chuyển từ hợp tác là chính sang vừa hợp tác vừa hợp tác vừa kiềm chế cạnh tranh, mà mặt đối lập, cạnh tranh có phần được nhấn mạnh hơn. Những năm đầu thập niên 90, do nhiều yếu tố còn tồn tại trong một cục diện quốc tế đang ở bước quá độ, Mỹ chưa coi Trung Quốc là đối thủ cạnh tranh chủ yếu. Chỉ khoảng 4, 5 năm trở lại đây, tính không rõ ràng trong quan hệ chiến lược giữa các cường quốc dần mất đi, Mỹ mới coi Trung Quốc là một đối thủ cạnh tranh chiến lược tiềm tàng. Mỹ nhận thức được Trung Quốc sớm muộn gì cũng trở thành một nước lớn có ảnh hưởng quan trọng trên chính trường quốc tế, vì vậy sẽ rất nguy hiểm nếu Mỹ lại lựa chọn giải pháp kiềm chế và đối đầu quân sự với Trung Quốc. Di vậy Mỹ luôn xác định đường lối đối ngoại chiến lược là “tiếp xúc toàn diện” với Trung Quốc, cùng nhau hợp tác mưu cầu lợi ích chung. Về phần mình, Trung Quốc vẫn rất cần sự ổn định với Mỹ đê mưu cầu những tính toán chiến lược riêng. Trên cùng một cơ sở xuất phát, mối quan hệ đối tác Mỹ – Trung được xác định với sự đồng thuận của cả hai bên. Tuy nhiên trên thực tế, trong các vấn đề toàn cầu, khu vực và song phương, giữa Trung Quốc và Mỹ vừa có lợi ích chung lại vừa có những bất đồng khiến cho quan hệ hai nước có xung đột trong hợp tác, có thoả hiệp trong đấu tranh, có điều chỉnh trong cạnh tranh… Hợp tác là nhu cầu rõ ràng nhưng cạnh tranh xung đột cũng không kém phần gay gắt. Tính hai mặt trong chính sách của Mỹ đối với Trung Quốc thể hiện một cách đầy đủ, Mỹ không thay đổi thực chất “tiếp xúc đi liền với kiềm chế” trong chính sách với Trung Quốc. Mục tiêu cơ bản trong chính sách “tiếp xúc toàn diện” với Trung Quốc là nhằm thay đổi chế độ xã hội ở Trung Quốc bằng âm mưu đưa những quan điểm, giá trị và ý thức hệ phương Tây vào Trung Quốc. Có thể nói quan hệ giữa Trung Quốc và Mỹ ngoài tính chất song phương giữa hai quốc gia được mệnh danh là cường quốc còn bao hàm nhiều tính chất của các mối quan hệ khác như là quan hệ giữa một nước lớn XHCN với một nước lớn TBCN, giữa một nước đang phát triển và một nước phát triển…Do vậy, nội dung xung đột và hợp tác trong quan hệ giữa Mỹ và Trung Quốc có nhiều yếu tố tương đồng với nội dung trong các mối quan hệ trên. Xét trên quan hệ song phương giữa hai quốc gia, ngoài vấn đề mang tính truyền thống là Đài Loan, Mỹ luôn gây sức ép với Trung Quốc v nhiều vấn đề khác. Mỹ luôn chỉ trích Trung Quốc về vấn đề nhân quyền, bên cạnh đó Mỹ có nhiều động thái can thiệp vào công việc nội bộ của Trung Quốc trong các vấn đề về Tây Tạng, Tân Cương… Những hành động đó của Mỹ bị Trung Quốc lên án và phản đối mạnh mẽ, quyết liệt trong các cuộc gặp gỡ song phương và các diễn đàn quốc tế đa phương. Trên bình diện chiến lược, Trung Quốc phản đối hệ thống chính trị quốc tế do Mỹ đề xướng lấy hình thái ý thức quan niệm giá trị và chế độ xã hội theo kiểu phương Tây làm cơ sở. Phản đối Mỹ dùng chiêu bài nhân quyền để áp đặt, can thiệp vào công việc nội bộ của các nước khác. Thời gian gần đây, việc Mỹ ném bom vào đại sứ quán Trung Quốc ở Nam Tư, cũng như quyết định triển khai xây dựng hệ thống phòng thủ tên lửa quốc gia (NMD) và hệ thống phòng thủ tên lửa chiến trường (TMD), trong đó có dự định đưa TMD bố trí tại Đài Loan năm 2007… đã làm cho quan hệ hai nước xuống tới mức thấp nhất, đồng thời cũng cho thấy cùng với sức ép về chính trị, Mỹ đang có xu hướng tăng sức ép về mặt quân sự đối với Trung Quốc. Vào những năm đầu thế kỉ 21, Trung Quốc ngày càng phát huy vai trò quan trọng trong công việc quốc tế, khiến Mỹ cuối cùng duy trì chính sách “tiếp xúc ” với Trung Quốc, có người còn mưu toan sử dụng vấn đề Đài Loan làm “con bài chiến lược” để kiềm chế Trung Quốc. Bởi vậy, quan hệ Trung Quốc khó mà thuận buồm xuôi gió, thường nằm trong tình trạng đợt sóng trước chưa qua, lớp song sau đã ập tới. Sự kiện 11/9 tạo cơ hội cải thiện quan hệ Trung – Mỹ . Nếu như đầu năm 2001 chiến lược của Mỹ là ngăn chặn Trung Quốc trở thành đối thủ của mình trong tương lai thì sau 11/9 buộc Mỹ phải điều chỉnh chiến lược Mỹ cần được Trung Quốc ủng hộ trong cuộc đấu tranh chống khủng bố. Phân tích kỹ thực tế trong thời gian qua có thể thấy rõ là dòng chính của quan hệ Trung – Mỹ vẫn là phối hợp và cạnh tranh chứ không phải là đối kháng, xung đột. Nhìn về lâu dài, Mỹ vẫn coi Trung Quốc là đối thủ tiềm tàng chính sách “Tây hoá”, “phân hoá” và đe doạ về mặt chính trị, quân sự của chính quyền Mỹ với Trung Quốc là không thay đổi. Tuy nhiên giữa hai nước vẫn sẽ tồn tại không gian hợp tác an ninh chiến lược, sẽ rất ít có khả năng xuất hiện nguy cơ đe doạ đến chiến lược an ninh chung giữa Mỹ và Trung Quốc, cả hai bên sẽ duy trì an ninh chiến lược là phòng ngừa khả năng xuất hiện một sự xung đột quân sự trực tiếp và điều đó có hại cho bản thân cả hai nước cũng như cho sự định hướng của cục diện quốc tế mới. _Quan hệ Nga – Trung Quốc : Trước năm 1992, Nga thực thi chính sách ngả hẳn về phương Tây, Trung Quốc chưa có vị trí quan trọng trên bàn cờ đối ngoại của Nga. Sau những thăng trầm, quan hệ của Nga – Trung dần chuyển từ “băng giá” sang “nồng ấm”. Sau sự biến tháng 12/91, quan hệ giữa Nga và Trung Quốc tiếp tục phát triển từ đối đầu sang đối thoại, hơn nữa còn được nâng lên một tầm cao mới về chất, là quan hệ đối tác chiến lược bình đẳng, phối hợp, tin cậy lẫn nhau trên cơ sở năm nguyên tắc chung sống hoà bình (cuối năm 1992, tổng thống Nga Yelsin thăm Trung Quốc, hai bên kí tuyên bố chung về quan hệ Trung – Nga ). Trước những diễn biến bất lợi của tình hình quốc tế sau chiến tranh lạnh, cả hai nước đều thấy cần thiết phải tăng cường hợp tác với nhau để bảo vệ những giá trị và lợi ích dân tộc cũng như chủ quyền đất nước. Chính sách bao vây can thịêp của thế lực bên ngoài cùng với những thách thức đang diễn ra trong mỗi nước đã tạo thêm điểm tương đồng để cả Nga và Trung Quốc xích lại gần nhau hơn trong các vấn đề về an ninh quốc tế và khu vực. Hợp tác chiến lược Nga – Trung không ngừng được tăng cường, nhận thức chung của hai bên bao gồm vấn đề NATO mở rộng về phía Đông, Đài Loan, Chesnia, ổn định chiến lược toàn cầu, phát huy vai trò của Liên Hợp Quốc trong dịp mừng quốc khánh Trung Quốc năm 1999, tổng thống Nga Yelsin nêu rõ quan hệ đối tác chiến lược giữa hai nước đã trở thành sự thật. Tháng 7 năm 2001, tổng thống Putin sang thăm Trung Quốc, hai bên đã ký “tuyên ngôn Bắc Kinh”. Tháng 7 năm 2001, chủ tịch Giang Trạch Dân sang thăm Nga, hai bên đã ký “hiệp ước” hợp tác hữu nghị láng giềng tốt thể hiện hai nước hữu nghị, không bao giờ thù địch nhau, đồng thời phát triển quan hệ hợp tác toàn diện và không liên kết. Có thể nói, hiện nay quan hệ hai nước đang ở đỉnh cao nhất trong lịch sử quan hệ song phương sau nhiều năm không ngừng mâu thuẫn và xung đột. Trung Quốc và Nga có nhiều lợi ích chung, không hình thành bất cứ mối đê doạ nào đối với nhau trong lĩnh vực an ninh chiến lược. Hai nước đã và đang giải quyết một loạt các vấn đề do lịch sử để lại. Trong công việc quốc tế, hai bên có quan điểm chung trong nhiều vấn đề như tăng cường vai trò Liên Hợp Quốc, phản đối ba thế lực khủng bố quốc tế, cực đoan và chia rẽ. Việc thiết lập quan hệ Nga – Trung không chỉ phù hợp với tình hình thế giới sau chiến tranh lạnh và trào lưu phát triển quốc tế mà còn phát huy tác dụng tích cực trong việc đẩy mạnh tiến trình đa cực hoá trên thế giới. Mặc dù phải giải quyết nhiều vấn đề đối nội và đối ngoại trong thời gian gần đây, Nga vẫn giành cho Trung Quốc sự quan tâm đặc biệt. Hai bên đã có sự phối hợp quan điểm khá chặt chẽ với nhau trong vấn đề Ban-căng và kiểm soát vũ khí. Do vấn đề Tân Cương, Tây Tạng, Chesnia đều là các vấn đề phức tạp chưa thể giải quyết dứt điểm và sẽ tiếp tục là mục tiêu can thiệp của phương Tây trong một thời gian dài nên cả Nga và Trung Quốc vẫn có nhu cầu ủng hộ nhau chống lại chủ nghĩa Hồi giáo ly khai và khủng bố quốc tế. Hai bên đã phối hợp quan điểm trên trên các diễn đàn quốc tế nhằm bảo lưu hiệp ước ABM, duy trì sự cân bằng chiến lược toàn cầu chống cuộc chạy đua vũ trang trong không gian và ép Mỹ phê chuẩn hiệp ước cấm thử vũ khí hạt nhân toàn diện và cắt giảm vũ khí tiến công chiến lựơc giai đoạn 3. Hai nước có sự phối hợp khá rõ nét trong hàng loạt vấn đề như Kosovo, bán đảo Triều Tiên, Đông Timo... ủng hộ xụ thế đa cực hoá và đòi thiết lập trật tự chính trị kinh tế mới. Nga – Trung đang có xu hướng thiết lập một liên minh quốc phòng qua việc hợp tác khá chặt chẽ về buôn bán vũ khí và trao đổi tin tức tình báo phồi hợp chính sách. Tuy nhiên, việc Nga – Trung có liên kết chiến lược chặt chẽ không có nghĩa là tất cả thuận buồm xuôi gió, vẫn còn có nhiều vấn đề có thể gây ảnh hưởng tới mối quan hệ này. Quan hệ đối tác chiến lược lại thiếu một nền tảng kinh tế vững chắc, quan hệ chính trị và quan hệ kinh tế chưa tương xứng với nhau. Đối với Nga, Trung Quốc mới chỉ là đối tác số một ở châu á về chính trị, còn kinh tế thì vị trí đó lại là Nhật Bản. Quá trình Nga tranh thủ quan hệ làm ăn với Nhật Bản có thể động chạm đên vấn đề nhạy cảm trong quan hệ giữa Trung Quốc và Nhật Bản. Bên cạnh đó do chiến lược toàn cầu riêng của mỗi nước nên đều có ràng buộc riêng với Mỹ. Do vậy, với các diến biến mối quan hệ Nga – Trung không thể tránh khỏi những rạn nứt nhất định do quan hệ mỗi nước với Mỹ và phương Tây gây ra. Theo phân tích của một số nhà nghiên cứu, cả Nga và Trung Quốc thực tình không muốn cố kết cho một liên minh mà chỉ dùng ý đồ liên minh tay đôi làm vũ khí nhằm tìm kiếm những nhượng bộ từ phía Mỹ. Và trên thực tế, cả hai nước đều công khai bày tỏ mong muốn có quan hệ chặt chẽ với Mỹ. Điều đó có nghĩa là sẽ xuất hiện một số bất đồng trước mắt nào đó giữa Nga và Trung Quốc, thêm vào đó Nga luôn luôn lo ngại sự lớn mạnh của Trung Quốc sẽ dẫn đến sự xâm lấn của kinh tế và dân số Trung Quốc sang Nga. Ngay cả vấn đề về biên giới và lãnh thổ, dù hiệp ước biên giới đã được kí kết nhưng vấn tồn tại khá nhiều bất đồng chưa được giải quyết triệt để. Dù sao cũng phải thừa nhận rằng, quan hệ Nga – Trung đã có những bước tiến tích cực rất to lớn và hiện đang ở đỉnh cao của lịch sử quan hệ song phương. Trong bối cảnh tình hình t._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc29711.doc
Tài liệu liên quan