Đặc điểm ngữ nghĩa của phần phụ chú trong câu tiếng Việt

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH Đặng Thị Kim Phượng ĐẶC ĐIỂM NGỮ NGHĨA CỦA PHẦN PHỤ CHÚ TRONG CÂU TIẾNG VIỆT Chuyên ngành : Ngôn ngữ học Mã số : 60 22 01 LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ HỌC NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS. DƯ NGỌC NGÂN Thành phố Hồ Chí Minh - 2009 LỜI CẢM ƠN Em xin kính gửi lời cảm ơn chân thành, sâu sắc đến PGS.TS Dư Ngọc Ngân – người đã hết lòng động viên, dẫn dắt trong quá trình thực hiện đề tài. Em trân trọng cảm ơn q

pdf211 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 2893 | Lượt tải: 4download
Tóm tắt tài liệu Đặc điểm ngữ nghĩa của phần phụ chú trong câu tiếng Việt, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
uý thầy cô đã truyền đạt kiến thức cùng những kinh nghiệm quý báu trong suốt thời gian qua. Cuối cùng, xin chân thành cảm ơn các thầy cô trong Hội đồng, gia đình, nhà trường và bạn bè đã ủng hộ và tạo mọi điều kiện học tập, nghiên cứu. Xin chân thành cảm ơn và trân trọng kính chào. Thành phố Hồ Chí Minh, ngày 09/12/2009 Tác giả Đặng Thị Kim Phượng DẪN NHẬP 1. Lí do chọn đề tài và mục đích nghiên cứu 1.1. Lí do chọn đề tài Phần phụ chú là một vấn đề ngữ pháp thuộc thành phần câu. Về mặt ngữ pháp, phần phụ chú là một thành phần biệt lập, nằm ngoài cấu trúc cú pháp của câu. Tuy nhiên xét về mặt ý nghĩa trong câu, phần phụ chú lại có quan hệ nội hướng, nó dùng để chú giải thêm một khía cạnh nào đó có liên quan đến sự tình nêu trong câu, giúp người nghe, người đọc hiểu rõ hơn về nội dung của câu hay dụng ý của người chú giải. Vấn đề phân định thành phần câu nói chung là một vấn đề không đơn giản, nhất là khi nó vượt ra ngoài hai thành phần chính của câu là chủ ngữ và vị ngữ. Vì vậy phần phụ chú, với tư cách là một “thành phần phụ”,“thứ yếu”, “biệt lập”, được nhìn nhận rất khác nhau ở nhiều nhà nghiên cứu. Nhìn chung có hai cách hiểu về phần phụ chú: Cách thứ nhất cho đó là thành phần phụ nằm trong câu được dùng để giải thích hay bổ sung ý nghĩa cho thành phần câu đứng trước nó và có cùng chức năng ngữ pháp với bộ phận được chú thích (Hoàng Trọng Phiến). Cách thứ hai cho rằng đây là thành phần có thể cùng chức năng hoặc không đồng chức năng với bộ phận ngữ pháp được nó chú giải bởi nó không chỉ là thành phần phụ giải thích cho một thành phần hay một bộ phận nào đó của câu mà nó còn được dùng để giải thích, bổ sung một điều cần chú thích cho toàn câu. Ngoài ra, phần phụ chú trong câu tiếng Việt, mặc dù là một vấn đề ngữ pháp đã xuất hiện từ lâu nhưng ít được các nhà nghiên cứu quan tâm. Chính vì vậy, khi bàn về vấn đề này, các tác giả cũng chỉ mới đưa ra khái niệm, nêu quan hệ nghĩa chung của phần phụ chú với phần câu còn lại, chưa bao quát được vấn đề. Có thể nói rằng, cho đến nay việc nghiên cứu về phần phụ chú trong câu tiếng Việt vẫn chưa được quan tâm đúng mức, vẫn còn có rất ít công trình nghiên cứu đi sâu vào vấn đề này (ngoài công trình nghiên cứu của Đào Thị Vân). Trong khi đó, về nguyên tắc, có thể tìm hiểu phụ chú ở nhiều phương diện nghĩa như: nghĩa biểu hiện, nghĩa tình thái,… để làm rõ vai trò, tác dụng của phụ chú trong câu, văn bản. Vì tính đa dạng, phức tạp trong cách nhìn nhận vấn đề và sự cần thiết khai thác đề tài nên chúng tôi nhận thấy đây là một vấn đề lí thú, một mảng nghiên cứu giàu tiềm năng. Trong luận văn này, chúng tôi muốn đi tìm hiểu sâu hơn về Đặc điểm ngữ nghĩa của phần phụ chú trong câu tiếng Việt, hy vọng sẽ có thêm những đóng góp cho loại thành phần câu này. 1.2. Mục đích nghiên cứu Trên cơ sở tiếp thu những kết quả nghiên cứu của người đi trước, luận văn sẽ khảo sát đặc điểm ngữ nghĩa của phần phụ chú trên một số loại văn bản như văn bản nghệ thuật, văn bản khoa học, văn bản chính luận và văn bản báo chí. Hướng đi của chúng tôi là tập hợp các câu có phần phụ chú trong một số văn bản thuộc những phong cách ngôn ngữ khác nhau để khảo sát và khái quát hoá các đặc trưng về chức năng ngữ nghĩa của phụ chú trong khung câu. Từ đó có thể có được cách nhìn nhận đầy đủ hơn về vai trò, tác dụng của phần phụ chú trong câu và trong văn bản tiếng Việt. Về mặt lý luận, luận văn hy vọng góp phần làm rõ thêm về khái niệm, cách nhận diện phần phụ chú và đặc biệt là làm rõ những đặc điểm về ngữ nghĩa biểu hiện và ngữ nghĩa ngữ dụng của phần phụ chú trong câu tiếng Việt. Đó là những vấn đề đã được đề cập đến nhưng chưa được quan tâm đúng mức và chưa được lí giải đầy đủ. Về mặt thực tiễn, xuất phát từ thực tế viết câu của học sinh, có thể cung cấp cho các em một số kĩ năng để phát hiện, sửa lỗi câu, cải biến câu… làm cho nghĩa của câu không chỉ chính xác mà còn phong phú, đa dạng hơn. 2. Lịch sử vấn đề Phần phụ chú là một vấn đề đã được các nhà nghiên cứu ngữ pháp trên thế giới cũng như ở Việt Nam quan tâm từ lâu. 2.1. Việc nghiên cứu phần phụ chú trên thế giới Theo một số tài liệu mà chúng tôi có được, từ đầu thế kỉ XX, các nhà ngôn ngữ học thế giới đã đề cập đến phần phụ chú với hai tên gọi là cú giải thích (comment clause) và phần trong ngoặc (parenthesis). Cách gọi “trong ngoặc” là cách gọi hình ảnh, không nhất thiết phải đặt trong ngoặc đơn. Đến năm 1985, R.Quirk, S.Greenbaum, G.Leech, J.Svartvik trong công trình “A Comprehensive Grammar of the English Language” đánh dấu bước chuyển mới trong việc nghiên cứu phần phụ chú: cú giải thích được coi là “phần biệt lập kiểu trong ngoặc” (Comment clause are parenthetical disjuncts). Chúng có thể xuất hiện ở đầu hoặc ở cuối hoặc giữa câu, và bởi thế nói chung mang một âm điệu tách rời [61: 106-107]. Năm 1995, Asher R.E trong “The Encyclopedia of language and linguistics” cho rằng phần trong ngoặc “là một phần chêm có tính chất mở rộng trong một văn bản, loại như I saw him – John that is – yesterday” (tôi đã gặp hắn – cái anh chàng John ấy mà – hôm qua). 2.2. Việc nghiên cứu phần phụ chú ở Việt Nam Ở nước ta, một trong những tài liệu đầu tiên bàn về vấn đề liên quan đến phụ chú có lẽ là “Việt Nam văn phạm” của các tác giả Trần Trọng Kim, Bùi Kỉ, Phạm Duy Khiêm (in lần thứ tư, tủ sách giáo khoa Tân Việt, không đề năm in). Trong quyển sách này, tuy không nhắc đến phụ chú nhưng khi bàn về dấu câu, các tác giả viết như sau: “Dấu ngoặc đơn [( )]dùng để phân những tiếng có nghĩa riêng ở giữa câu và để giải thích cái nghĩa cả câu” [31:36] Từ những năm 60 của thế kỉ XX, giới nghiên cứu Việt ngữ học đã đề cập đến phụ chú trong tiếng Việt. Năm 1963, Trương Văn Chình, Nguyễn Hiến Lê dùng khái niệm giải từ (tức phụ chú) để chỉ hiện tượng ngữ pháp này. Các tác giả đã phân biệt giải từ của bậc cụm từ (ông gọi là “từ kết”) với giải từ bậc câu. Bàn về phần phụ chú, tác giả Nguyễn Kim Thản trong “Nghiên cứu về ngữ pháp tiếng Việt”, tập II (1964) dùng hai tên gọi đồng vị ngữ và phụ chú ngữ . Ở đây ông đã xem xét hai khái niệm này với tư cách là thành phần biệt lập (hoặc còn gọi là thành phần thứ yếu biệt lập). Tuy nhiên đến 1997, trong cuốn “Cơ sở ngữ pháp tiếng Việt”, ông đã dùng một thuật ngữ khác để gọi tên hiện tượng ngữ pháp này: gia ngữ, ông cho rằng gia ngữ là một thành phần phụ bên cạnh những thành phần khác như trạng ngữ, khởi ngữ, hô ngữ. Đến năm 1980, Hoàng Trọng Phiến, trong công trình nghiên cứu “Ngữ pháp tiếng Việt, câu”, đã nhắc đến hiện tượng ngữ pháp này với thuật ngữ đồng vị ngữ. Cùng năm ấy, Hữu Quỳnh trong “Ngữ pháp tiếng Việt hiện đại” đã đề cập đến phần phụ chú với tên gọi thành phần xen. Cách hiểu về thành phần xen của tác giả Hữu Quỳnh có quan niệm rộng hơn so với tác giả Hoàng Trọng Phiến về hiện tượng ngữ pháp này. Theo quan niệm của các tác giả của cuốn “Ngữ pháp tiếng Việt”- Uỷ ban Khoa học xã hội Việt Nam (1983), thành phần phụ chú là “thành phần bổ sung một điều chú thích kịp thời hoặc cho cả nòng cốt câu hoặc cho một yếu tố thuộc bậc cấu tạo thành phần trước đó [49: 43,191]. Như vậy, cách hiểu của Uỷ ban Khoa học xã hội Việt Nam có phần gần gũi với các tác giả Trương Văn Chình – Nguyễn Hiến Lê, Hữu Quỳnh. Cũng trong năm 1983, Lê Cận, Phan Thiều, Diệp Quang Ban, Hoàng Văn Thung trong quyển “Giáo trình ngữ pháp tiếng Việt”, tập II, đã nhắc đến hiện tượng ngữ pháp này với tên gọi thành phần biệt lập (biệt lập ngữ). Theo quan niệm của các tác giả này, thành phần biệt lập là một bộ phận “không cấu tạo nên nòng cốt câu”, không bổ sung ý nghĩa cho câu, không có quan hệ về ý nghĩa và về ngữ pháp với câu” [8: 204]. Tác giả Diệp Quang Ban trong “Câu đơn tiếng Việt” (1987) đã phân biệt giải ngữ của câu với giải ngữ của từ. “Giải ngữ của câu thường đứng giữa chủ ngữ và vị ngữ hoặc đứng sau nòng cốt câu, cũng có kiểu có thể đứng trước nòng cốt câu. Còn giải ngữ của từ được coi là phần phụ của từ “được dùng để thuyết minh thêm nội dung hay giải thích thêm một khía cạnh nào đó của từ mà nó phụ thuộc về nghĩa. Theo ông điểm chung của hai thành phần này là “tuy biệt lập về mặt ngữ pháp (không có quan hệ về mặt ngữ pháp) với các yếu tố khác trong câu một cách hiển nhiên nhưng về mặt ý nghĩa lại giải thích cho toàn câu, hoặc một yếu tố nào đó trong câu, tức là có quan hệ nội hướng”. Trong một công trình khác [5], Diệp Quang Ban cho rằng phần phụ chú là một bộ phận có tính chất trung gian. Theo ông, có những trường hợp phần phụ chú nằm trong cấu trúc cú pháp của câu một cách rõ rệt. Nhưng trong không ít trường hợp khác, ông cũng thừa nhận rằng phần phụ chú nằm ngoài cấu trúc cú pháp của câu chứa nó. Sau đó, Hồ Lê trong “Cú pháp tiếng Việt” quyển II (1992) gọi thành phần này là phụ chú ngữ. Quan điểm của ông gần với quan điểm của Nguyễn Kim Thản. Ông đề nghị gọi đồng vị ngữ của Nguyễn Kim Thản là đồng danh ngữ và phụ chú ngữ của Nguyễn Kim Thản là đoạn chú thích. Ngoài ra, tác giả Hồ Lê cũng nêu những điều kiện khống chế để thiết lập hai kiểu nhỏ phụ chú này. Điểm chung giữa các tác giả Nguyễn Kim Thản, Diệp Quang Ban, Hồ Lê, Lê Cận, Phan Thiều, Hoàng Văn Thung là đều coi phụ chú là thành phần biệt lập, mặc dù cách diễn đạt có phần khác. Mặc dù vậy, quan niệm về phần phụ chú vẫn còn có những điểm khác biệt, chưa thống nhất ở nhiều nhà nghiên cứu, thậm chí chúng ta cũng có thể thấy những quan niệm khác nhau ở cùng một nhà nghiên cứu. Gần đây nhất, Đào Thị Vân trong công trình nghiên cứu về “phần phụ chú trong câu tiếng Việt” (2003) đã xem xét phần phụ chú ở các phương diện: phương diện cấu tạo hình thức, phương diện hành động nói, phương diện quan hệ nghĩa với phần văn bản hữu quan . Tuy vậy, ở mảng đề tài này, chúng tôi nhận thấy có thể khai thác sâu hơn nữa về mặt ngữ nghĩa biểu hiện và ngữ nghĩa ngữ dụng để làm rõ hơn nữa vai trò, tác dụng của phần phụ chú trong câu tiếng Việt. 3. Nhiệm vụ của luận văn Luận văn này có những nhiệm vụ cụ thể như sau: - Xem xét một số ý kiến tiêu biểu về phụ chú nói chung và phụ chú trong tiếng Việt nói riêng, vận dụng chúng vào việc nhận diện phụ chú, đồng thời xác lập một cách nhìn về phụ chú trong câu tiếng Việt. - Xem xét vai trò của phần phụ chú trong khung câu ở hai bình diện: ngữ nghĩa biểu hiện và ngữ nghĩa ngữ dụng. Cụ thể, xem xét phần phụ chú trong khung câu ở các phương diện: nghĩa biểu hiện, nghĩa tình thái và các hành động nói. - Đối chiếu tần số sử dụng của các kiểu phụ chú trên bốn loại văn bản: văn bản nghệ thuật, văn bản khoa học, văn bản hành chính và văn bản báo chí. Từ đó luận văn khái quát hóa đặc điểm và cách thức sử dụng của phần phụ chú trong câu, văn bản tiếng Việt. 4. Phương pháp nghiên cứu và nguồn ngữ liệu 4.1. Phương pháp nghiên cứu Để thực hiện đề tài này, trong quá trình nghiên cứu, ngoài những phương pháp, thủ pháp nghiên cứu khoa học chung như: thu thập ngữ liệu, phân loại, khảo sát, nhận xét…, luận văn chủ yếu sử dụng phương pháp sau: - Phương pháp miêu tả: Phương pháp này được sử dụng để miêu tả các quan hệ giữa phần phụ chú và nội dung câu ở bình diện ngữ nghĩa (ngữ nghĩa biểu hiện và ngữ nghĩa ngữ dụng). - Phương pháp phân tích ngôn ngữ học: Phương pháp này được sử dụng thường xuyên để phân tích những đặc điểm ngữ nghĩa biểu hiện và ngữ nghĩa ngữ dụng của phần phụ chú, làm rõ vai trò và tác dụng của chúng trong khung câu. - Phương pháp thống kê: Luận văn dùng phương pháp này để định lượng đặc điểm ngữ nghĩa của phần phụ chú trong các loại văn bản tiếng Việt. 4.2. Nguồn ngữ liệu Nguồn ngữ liệu chủ yếu được thu thập từ các văn bản thuộc các phong cách ngôn ngữ như: phong cách ngôn ngữ nghệ thuật, phong cách khoa học, phong cách chính luận và phong cách báo chí. 5. Bố cục của luận văn Ngoài phần Dẫn nhập và phần Kết luận, phần Nội dung chính của luận văn được phân thành 3 chương. Chương 1: Chương này trình bày những vấn đề lí luận cơ sở như khái niệm phần phụ chú trong câu, những phương diện nghĩa của câu bao gồm nghĩa biểu hiện, nghĩa tình thái và lí thuyết hành động ngôn từ. Đây là chương làm tiền đề cho việc khảo sát và phân tích ngữ nghĩa biểu hiện, ngữ nghĩa ngữ dụng của phụ chú trong các chương sau. Chương 2: Chúng tôi tiến hành khảo sát mặt ngữ nghĩa biểu hiện của phần phụ chú với những ngữ liệu được thu thập trong các văn bản thuộc nhiều phong cách ngôn ngữ khác nhau. Thông qua kết quả khảo sát ngữ liệu, trong chương này, luận văn nêu bật những ý nghĩa của phần phụ chú trong quan hệ với cấu trúc nghĩa biểu hiện của câu. Chương 3: Chương này khảo sát phần phụ chú về mặt ngữ nghĩa ngữ dụng. Từ đó luận văn phân tích và khái quát phần phụ chú trên cơ sở đích ngôn trung và nghĩa tình thái. Chương 1 NHỮNG CƠ SỞ LÝ THUYẾT VÀ TỔNG QUAN VỀ PHẦN PHỤ CHÚ 1.1. Khái quát về phần phụ chú 1.1.1. Khái niệm 1.1.1.1 Giới nghiên cứu ngôn ngữ học trên thế giới Khái niệm về thành phần phụ chú phụ thuộc khá nhiều vào tên gọi của nó. Trong tiếng Anh, phụ chú được gọi là cú giải thích (comment clause) và phần trong ngoặc (parenthesis). *Theo R. Qurik, Cú giải thích được coi là “phần biệt lập kiểu trong ngoặc” (comment clause are parenthetical disjuncts), “một cú dùng để chú thích cho một cú khác trong câu” (comment clause: a clause which comments on another clause in a sentence); ở một chỗ khác, tác giả viết Cú giải thích là “một lời chú thích thêm, thường theo kiểu đặt trong ngoặc đơn, cho một cú khác” (A comment added, often parenthetically, to another clause). Chúng có thể xuất hiện ở đầu hoặc ở cuối hoặc giữa câu, và bởi thế nói chung mang một âm điệu tách rời. Cú giải thích cũng là phần biệt lập về mặt nội dung, dùng để diễn đạt những lời giải thích của người nói đối với nội dung của câu chứa chúng, hoặc là biệt lập về mặt phong cách, dùng để kèm thêm cách nhìn của người nói đối với cách nói đang được dùng [61: 112]. Ví dụ: - He is, I believe, an American. (Anh ấy, tôi tin vậy, là người Mĩ). -Coming from you, that sounds surprising. (Theo anh nói, điều đó nghe có vẻ bất ngờ quá). * Theo Asher, Phần trong ngoặc “là một phần chêm có tính chất mở rộng trong một văn bản”. Ví dụ: I saw him – John that is – yesterday (Tôi đã gặp hắn – cái anh chàng John ấy mà – hôm qua). 1.1.1.2 Giới nghiên cứu Việt ngữ học Cách hiểu về phần phụ chú vẫn chưa có sự thống nhất. Dựa vào quan điểm của các nhà nghiên cứu, có thể chia thành 2 khuynh hướng: a. Khuynh hướng 1 Khuynh hướng này bao gồm những quan điểm cho rằng thành phần phụ chú là một thành phần phụ nằm trong câu, được dùng để giải thích hay bổ sung nghĩa cho thành phần câu đứng trước nó (tức nó chỉ có quan hệ với bộ phận nào đó của câu) và có cùng chức năng ngữ pháp với bộ phận này. Đại diện cho khuynh hướng này có thể kể đến Hoàng Trọng Phiến, Hữu Quỳnh…. Hoàng Trọng Phiến gọi thành phần phụ chú là đồng vị ngữ, ông định nghĩa: đồng vị ngữ là “những từ khác nhau cùng biểu hiện một biểu vật, có cùng chức năng ngữ pháp của thành phần trước đó” [40: 148]. “Đó là thành phần có tổ chức riêng, có cùng vị trí, chức năng của thành phần trước đó. Chức năng của nó là chú thích thêm cho rõ nghĩa của thành phần trước nó” [39: 146] và “có thể bỏ đi cũng không phương hại gì đến cấu trúc câu và ý nghĩa cơ bản của câu” [40: 148]. Ví dụ: Hà Nội – thủ đô nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam là nơi đại diện cho nền văn hóa của dân tộc ta Còn Hữu Quỳnh [42] gọi đây là thành phần xen và xác định nội dung của nó như sau: “thành phần có tác dụng nói rõ thêm nội dung của một từ hay nhóm từ ở trong câu, về ý nghĩa, nó giống như lời chú thích, bổ sung đối với một điều nào đó trong câu. Về mặt cấu tạo ngữ pháp, nó không phải là thành phần trong nòng cốt câu; nó thường được đặt tiếp sau từ hay nhóm từ mà nó có quan hệ về ý nghĩa” [42: 135]. b. Khuynh hướng 2 Khuynh hướng này được hầu hết các nhà nghiên cứu Việt ngữ học tán đồng. Đây là quan điểm cho rằng phụ chú không chỉ là thành phần phụ giải thích cho một thành phần hay một bộ phận nào đó của câu mà nó còn được dùng để giải thích, bổ sung một điều cần chú thích cho toàn câu, hoặc những đơn vị lớn hơn câu, nó không đồng chức năng ngữ pháp với bộ phận được nó chú thích. * Trương Văn Chình, Nguyễn Hiến Lê [12] dùng khái niệm giải từ (tức phụ chú) và phân biệt giải từ của bậc cụm từ (ông gọi là “từ kết”) với giải từ bậc câu. - Giải từ ở bậc cụm từ được xác định “là tiếng dùng để giải thích một tiếng khác, chứ không thêm nghĩa. Giải từ đứng sau tiếng chính” [12: 252]. Trong các ví dụ, tác giả có dẫn ra ví dụ lấy từ tác phẩm của Trần Tế Xương: Bắt chước ai ta chúc mấy lời, Chúc cho khắp hết cả trên đời, Vua quan sĩ thứ, người muôn nước, Sao được cho ra cái giống người. - Giải từ bậc câu “là tiếng dùng để giải thích một việc hay nhiều việc” [12: 583]. Ví dụ: Tối ba mươi nghe pháo nổ đùng: òa! tết! Sáng mồng một đụng nêu kêu cộp: ủa! xuân! * Nguyễn Kim Thản [44] dùng hai tên gọi đồng vị ngữ và phụ chú ngữ theo hai cách hiểu: Đồng vị ngữ được định nghĩa là “khác ngữ đồng vị ở chỗ nó đứng biệt lập, không nhập vào từ tổ với từ mà nó giải thích. Đồng vị ngữ trong tiếng Việt bao giờ cũng là danh từ đứng sau từ mà nó giải thích, và có thể xen vào sau bất kì thành phần nào [44: 222]. Để minh họa cho khái niệm này, tác giả đã đưa ra ví dụ: Đích bèn chung vốn với Oanh, một bạn gái đồng sự của y. Còn phụ chú ngữ thì giải thích thêm một từ nào đó hoặc dùng để tỏ thái độ chủ quan của người nói đối với sự vật, hoạt động hay trạng thái nêu ra trong câu [44: 225]. Như vậy, theo cách giải thích của Nguyễn Kim Thản thì phụ chú vừa hẹp hơn (loại trừ cái gọi là “đồng vị ngữ” ra khỏi phụ chú), vừa rộng hơn (cộng thêm cái mà một số tác giả khác coi là “phần tình thái”) so với quan niệm của nhiều tác giả khác. Sau này, Nguyễn Kim Thản lại dùng thuật ngữ “gia ngữ” [45] và định nghĩa: Gia ngữ là phần phụ có tác dụng giải thích thêm nội dung của một từ, một cụm từ nào đó, hoặc chú thích thái độ tình cảm của người nói, người viết. Gia ngữ bao giờ cũng đặt ở sau từ, cụm từ được giải thích thêm, hoặc được chú thích thêm, và thường xen vào giữa lời nói. Gia ngữ thường đặt sau một quãng ngắt nhỏ thể hiện trên chữ viết bằng một dấu phẩy hay một dấu gạch ngang (-) và kết thúc bằng một quãng ngắt nhỏ [45: 53]. Ví dụ: Thưa ông – người lạ mặt hỏi – có phải ông là ông Hai không ạ? Các tác giả của Uỷ ban Khoa học xã hội Việt Nam [49] cho rằng thành phần phụ chú là “thành phần bổ sung một điều chú thích kịp thời hoặc cho cả nòng cốt câu hoặc cho một yếu tố thuộc bậc cấu tạo thành phần trước đó [49:191]. Thành phần phụ chú còn được gọi bằng hai thuật ngữ: giải thích ngữ và chú thích ngữ dựa vào vào ý nghĩa, cấu tạo và đặc trưng ngữ pháp. Theo quan niệm của các nhóm tác giả Lê Cận, Phan Thiều, Diệp Quang Ban, Hoàng Văn Thung [8]: - Giải thích ngữ là thành phần biệt lập dùng để giải thích thêm cho nội dung của từ hoặc cụm từ làm thành phần câu hay thành tố phụ trong cụm từ [8: 204]; có vị trí ngay sau từ mà nó giải thích, được ngăn cách với từ này bằng một quãng ngắt, được biểu thị bằng dấu phẩy, dấu ngang hoặc dấu ngoặc đơn và có cấu tạo thường do danh từ hoặc cụm danh từ đảm nhiệm. - Chú thích ngữ là “thành phần biệt lập dùng để chú thích thêm tình cảm, thái độ, cảm tưởng, ý nghĩ của người nói về một ý nào đấy do một bộ phận nào đấy trong câu biểu thị; có vị trí thường đứng liền sau bộ phận mà nó chú thích, tách khỏi bộ phận này bằng một quãng ngắt được đánh dấu bằng vạch ngang hoặc bằng một dấu ngoặc đơn”; có cấu tạo do cụm từ, câu, hoặc có khi cả một đoạn văn gồm nhiều câu biểu thị [8: 207]. Như vậy, nội dung của “thành phần biệt lập” cũng không có gì khác “thành phần xen” và “thành phần phụ chú” đã nói ở trên. Diệp Quang Ban [1] phân biệt giải ngữ của câu với giải ngữ của từ như sau: “Giải ngữ của câu thường đứng giữa chủ ngữ và vị ngữ hoặc đứng sau nòng cốt câu, cũng có kiểu có thể đứng trước nòng cốt câu. Giải ngữ của câu được dùng làm sáng tỏ thêm về một phương diện nào đó có liên quan gián tiếp đến câu làm cho người nghe hiểu câu nói đúng hơn, rõ hơn. Thông thường nội dung của giải ngữ câu là sự bổ sung các chi tiết, là sự bình phẩm về việc nói trong câu, làm rõ xuất xứ câu, làm rõ thái độ, cách thức đi kèm khi câu được diễn đạt [1: 200]. Giải ngữ của từ được coi là phần phụ “được dùng để thuyết minh thêm nội dung hay giải thích thêm một khía cạnh nào đó của từ mà nó phụ thuộc về nghĩa (…). Giải ngữ thường đứng sau từ nó có quan hệ nghĩa, Tuy nhiên cũng không hiếm trường hợp không có sự liên hệ trực tiếp về không gian tuyến tính như vậy. Trên chữ viết, giải ngữ thường được tách biệt bằng hai dấu chấm, dấu ngang, dấu phẩy, hoặc dấu ngoặc đơn. Khi đọc, giải ngữ thường được phát âm nhỏ hơn và nhanh hơn [1: 239-240]. Gần đây, Diệp Quang Ban [5] lại cho rằng phần phụ chú là một bộ phận có tính chất trung gian. Theo ông “phần phụ chú có thể nằm trong hoặc không nằm trong hoặc không nằm trong cấu trúc cú pháp của câu chứa nó, với chức năng nghĩa là làm sáng tỏ thêm phương diện nào đó có liên quan đến nghĩa cả câu, giúp cho người đọc người nghe hiểu rõ hơn, hiểu đúng hơn nội dung của câu hoặc ý định của người nói. - Còn Hồ Lê [36] nói về phụ chú với cách gọi: phụ chú ngữ. Theo ông phụ chú ngữ có hai dạng: Đồng danh ngữ (“từ tổ danh từ dùng để nói rõ hơn về đối tượng do danh từ hoặc đại danh từ đứng trước nó biểu thị”[36: 405]) và Đoạn chú thích (“một ý riêng” nào đó được “xen vào” “để giải thích hoặc lưu ý thêm một điều gì đó. Ý riêng này được biểu đạt bằng một từ tổ động từ hoặc bằng cú và không đồng thành phần, đồng chức năng với bất cứ thành phần nào, bộ phận nào trong câu) Ví dụ: Vội vàng (ấy, cũng cái kiểu vội vàng cố hữu đó mà), ông ba kéo tay mấy ông bạn già vào giữa phòng. Đoạn chú thích trên có tác dụng lưu ý thêm về cách thức vội vàng của ông Ba. Theo tác giả, bỏ nó đi câu vẫn nguyên vẹn là câu cách thức – hành động. Điểm chung giữa các tác giả Nguyễn Kim Thản, Diệp Quang Ban (trong quan niệm truyền thống), Hồ Lê, Lê Cận, Phan Thiều, Hoàng Văn Thung… là đều coi phụ chú là thành phần biệt lập, mặc dù cách diễn đạt có phần khác nhau. Qua ý kiến của các tác giả đã được trình bày, có thể thấy rằng cách hiểu về phụ chú vẫn còn có chỗ chưa thống nhất, thậm chí có những quan niệm khác nhau ở cùng một nhà nghiên cứu ở những thời điểm khác nhau. Tuy nhiên ở đây ta vẫn có thể thấy những điểm giống nhau cơ bản: - Về thành phần câu, các tác giả đều cho đây là thành phần biệt lập, nằm ngoài nòng cốt câu, có thể bỏ đi mà không ảnh hưởng gì đến cấu trúc cú pháp của câu. - Về chức năng, các tác giả cũng đã khẳng định phần phụ chú có tác dụng làm rõ những yếu tố ngôn ngữ mà nó phụ thuộc về nghĩa hoặc bổ sung thêm một điều gì đó (như nội dung, ý nghĩa, thái độ, tình cảm,…) cho phần câu được nó giải thích. - Về vị trí, nó thường đứng sau phần câu được nó chú thích. - Về hình thức, nó thường được ngăn cách với phần câu còn lại bằng các dấu câu như: dấu hai chấm, dấu phẩy, dấu ngoặc đơn, dấu ngang cách. Đến đây, luận văn tạm tiếp thu quan điểm của Đào Thị Vân trong luận án khoa học về “Phần phụ chú trong câu tiếng Việt” (2003) để xác định khái niệm của phần phụ chú như sau: Phần phụ chú không nằm trong cấu trúc cú pháp của câu. Nó chỉ là một bộ phận chêm xen với chức năng thực hiện một số hành động nói nào đó, như: giải thích, minh họa, quy ước, chuyển chú, biểu cảm…nhằm giúp người nghe, người đọc hiểu rõ hơn, hiểu đúng hơn nội dung của câu hay một ý định nào đó của người chú thích. Về nội dung, phụ chú có quan hệ với văn bản hữu quan theo những kiểu nghĩa nhất định. Về hình thức, nó có thể được cấu tạo từ từ, câu, chữ số hoặc kí hiệu quy ước… Về vị trí, nó thường đứng liền sau phần câu được chú thích và ngăn cách với bộ phận này bằng các dấu câu, như: dấu ngang cách, dấu phẩy, dấu ngoặc đơn, dấu hai chấm, dấu móc vuông,… 1.1.2. Phân loại Về cách phân loại phụ chú, ý kiến của các nhà nghiên cứu cũng có những điểm không giống nhau. *Hoàng Trọng Phiến (1980) với tên gọi “đồng vị ngữ” đã phân loại dựa vào chức năng cú pháp của đối tượng mà phụ chú giải thích như sau: - Thành phần đồng vị chủ ngữ: Đại đội trưởng, Huy, ra lệnh cho anh em tiếp tục lên đường. - Thành phần đồng vị vị ngữ: Chúng ta là thế hệ thanh niên Hồ Chí Minh, thế hệ trẻ Việt Nam anh hùng. - Thành phần đồng vị định ngữ: Măng mọc trên phù hiệu ở ngực thiếu nhi Việt Nam, lứa măng non của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. (TM) - Thành phần đồng vị bổ ngữ Nước non đau xót như lòng mẹ Mất một người con: Nguyễn Chí Thanh. (HT) Theo tác giả, “Thành phần đồng vị ngữ cũng có thể bao gồm hơn hai bộ phận để làm chú giải cho thành phần nào đó trong câu”. *Hữu Quỳnh (1980) đã chia thành phần xen (phụ chú) thành hai loại lớn dựa vào nội dung chú thích của thành phần này. Thành phần xen nói rõ thêm về nội dung của từ hay nhóm từ trong kết cấu chủ ngữ, vị ngữ hoặc thành phần phụ của câu. Thành phần xen chú thích ý nghĩ, cảm tưởng, thái độ của người nói, người viết. *Các tác giả cuốn “Ngữ pháp tiếng Việt” (1983) của Ủy ban Khoa học xã hội Việt Nam đã phân biệt hai trường hợp: - Thành phần chú thích thuộc bậc cấu tạo câu và không có quan hệ riêng với thành phần nào hay yếu tố nào trong nòng cốt. Ví dụ: Em học sinh ấy – thật là gan dạ - đã nổ mìn diệt cả tốp địch - Thành phần chú thích có thể coi là thuộc bậc cấu tạo thành phần câu và có tác dụng chú thích một yếu tố ở trước nó và yếu tố này thuộc cấu tạo của một thành phần trong nòng cốt. Ví dụ: Thành phố Huế, quê tôi, thật đẹp. Như vậy, theo quan niệm của tác giả Hoàng Trọng Phiến, phần phụ chú (cách gọi của tác giả luận văn) chỉ giải thích cho một số bộ phận của câu. Đến tác giả Hữu Quỳnh việc phân loại chủ yếu dựa vào nội dung ý nghĩa của phụ chú. Theo đó, phần phụ chú ngoài việc làm rõ nội dung ý nghĩa của một thành phần câu, đôi khi nó còn chú thích cho ý nghĩ, cảm tưởng, thái độ của người nói, viết. Với các tác giả của “Ngữ pháp tiếng Việt” (1983), thành phần phụ chú không chỉ chú thích cho một thành phần nào đó của câu mà có khi nó chú thích cho cả câu. Ngoài ra, các tác giả khác như Lê Cận, Phan Thiều, Diệp Quang Ban, Nguyễn Kim Thản… cũng đã có những cách phân loại tương tự. Qua ý kiến phân loại của một số tác giả đã được trình bày và ý kiến của nhiều tác giả khác, chúng tôi nhận thấy các tác giả đã phân loại phụ chú theo nhiều hướng khác nhau. Tuy nhiên, ở đó các tác giả chưa đưa ra các tiêu chí cụ thể để làm cơ sở cho việc phân loại. Theo chúng tôi, việc phân loại phụ chú có thể dựa trên các tiêu chí sau đây: 1. Dựa vào đặc điểm cấu tạo của đối tượng (thành tố) phụ chú 2. Dựa vào quan hệ ngữ nghĩa giữa phần phụ chú và đối tượng phụ chú Dựa vào (1), ta thấy về chức năng phần phụ chú có thể giải thích cho một yếu tố nào đó trong câu, một thành phần câu, cho cả câu, hoặc một chuỗi câu. Vì vậy có thể phân loại như sau: - Phụ chú cho từ hoặc cụm từ. - Phụ chú cho câu. - Phụ chú cho một chuỗi câu hay một đoạn văn. Dựa vào (2), ta thấy giữa phần phụ chú và đối tượng được phụ chú có thể có nhiều quan hệ nghĩa khác nhau. Tuy nhiên ở đây, chúng tôi thấy có thể phân phụ chú thành hai loại như sau: - Phụ chú giải thích cho nội dung câu hoặc nghĩa biểu hiện của câu (nghĩa sự việc). - Phụ chú giải thích hoặc bổ sung ý nghĩ, thái độ, tình cảm của người nói, người viết (nghĩa tình thái). 1.2. Những phương diện nghĩa của câu Xét về phương diện nghĩa của câu, có thể phân biệt hai loại nghĩa: nghĩa biểu hiện, nghĩa tình thái. Như đã trình bày, phụ chú là phần “dùng để chú giải thêm một khía cạnh nào đó có liên quan đến sự tình nêu trong câu, giúp người nghe, người đọc hiểu rõ hơn về nội dung của câu hay dụng ý của người chú giải”. Như vậy có thể thấy rằng phần phụ chú có liên quan chặt chẽ với nghĩa biểu hiện của câu và bản thân nó cũng có lúc biểu hiện nghĩa tình thái có liên quan đến nội dung câu. Vì vậy trong giới hạn nghiên cứu của đề tài, chúng tôi sẽ đề cập đến nghĩa biểu hiện và nghĩa tình thái trong câu. 1.2.1. Nghĩa biểu hiện 1.2.1.1 Khái quát Nghĩa biểu hiện (còn được gọi là nghĩa miêu tả, nghĩa mệnh đề, nghĩa hạt nhân) là thành phần nghĩa phản ánh sự vật, hiện tượng khách quan vào trong lời nói thông qua nhận thức của con người. Về chức năng, nghĩa biểu hiện là thành phần cốt lõi làm nên nội dung thông báo để thực hiện chức năng giao tiếp, chức năng tư duy. Tóm lại, những sự tình được thông báo, các hiển ngôn, hàm ngôn đều phải trực tiếp hay gián tiếp dựa vào câu mà biểu hiện. Mỗi từ ngữ, mỗi thành phần chức năng trong câu đều có vai trò của nó, nhưng có thể nói hạt nhân của câu là cái khung ngữ vị từ gồm có vị từ trung tâm và các tham thể quây quần xung quanh, biểu thị một vai nghĩa nào đó. Có những vai nghĩa bắt buộc, nhưng cũng có những vai nghĩa không bắt buộc. Theo lí thuyết diễn trị của Tesnière, những vai nghĩa bắt buộc được hiện thực hóa thông qua những ngữ đoạn được gọi là diễn tố (actant), còn những vai nghĩa không bắt buộc thì được hiện thực hóa thông qua những ngữ đoạn được gọi là chu tố (circonstant). Việc đánh giá một vai nghĩa bắt buộc hay không bắt buộc phải đặt trong quan hệ với vị từ trung tâm. Một vai nghĩa có thể có tính không bắt buộc đối với vị từ này nhưng lại bắt buộc đối với vị từ khác. Ví dụ: - Anh ấy làm việc ở Sài Gòn (vai nghĩa nơi chốn không bắt buộc). - Anh ấy có ở Sài Gòn vào tháng trước. (vai nghĩa nơi chốn mang tính bắt buộc). 1.2.1.2. Các tham tố của vị từ Trong xu hướng chung đi tìm các phổ quát ngôn ngữ, ở những năm 60, Fillmore đã đưa ra một số vai nghĩa mà ông cho là có tính phổ quát, có thể tìm thấy trong mọi._. ngôn ngữ: Agentive (tác thể), Instrument (cách công cụ), Dative (tặng cách), Factitive (tạo cách), Location (cách địa điểm), Object (đối thể). Danh sách các vai nghĩa về sau đã được nhiều nhà ngôn ngữ học bổ sung (Chafe, Dik, Dixon, Parson…). Cho đến nay số vai nghĩa vẫn chưa có sự thống nhất. Trong trong luận văn này chúng tôi tiếp thu ý kiến của S.C. Dik để phân biệt hai loại tham tố là diễn tố và chu tố. a. Diễn tố (actants) Diễn tố là loại tham tố cần và đủ, có số lượng nhất định cho từng vị từ tham gia vào nội dung biểu hiện của khung ngữ vị từ. Đó là những vai nghĩa được giả định một cách tất yếu trong nội dung nghĩa của vị từ mà nếu thiếu đi thì cái sự tình hữu quan không thể thực hiện, không còn là nó nữa. Có thể nói, diễn tố là tham tố quan trọng không thể thiếu của khung ngữ vị từ. chẳng hạn, một sự tình bơi, chạy, nhảy, phải có diễn tố (người hoặc vật) thực hiện. Thiếu đi diễn tố này, không thể tồn tại sự tình bơi, chạy, nhảy, Diễn tố có thể vắng mặt trong câu nhưng vẫn được người đọc, người nghe hiểu ngầm. Ví dụ : Trong cái sự tình được gọi là “Mất rồi”, diễn tố không có mặt nhưng chúng ta vẫn ngầm hiểu là có một cái gì đó hay một người nào đó vừa ở trạng thái mất. Diễn tố thường do danh ngữ đảm nhận, cũng có khi diễn tố là đại từ (nhân xưng). b. Chu tố (circumstants) Tham gia vào sự tình còn có những vai nghĩa khác. Chu tố là một loại tham tố không bắt buộc, không nhất thiết phải có mặt để cho sự tình có thể được gọi tên bằng vị từ trung tâm. Ví dụ : Trong câu phản ánh sự tình “chạy”có thể có những tham tố chỉ nơi chạy, hướng chạy, chỉ đích, chỉ điểm xuất phát…Những tham tố này không cần phải có mặt mà sự tình “chạy” vẫn được thực hiện. Những tham tố đó được gọi là chu tố [Dẫn theo 25]. Chu tố là tham tố có thể có (không bắt buộc) bên cạnh các diễn tố, chỉ các tình huống như thời gian, nơi chốn, phương thức, phương tiện, nguyên nhân, mục đích, kết quả… của sự tình. Ví dụ: Bên cầu tơ liễu bóng chiều thướt tha. (Nguyễn Du) Khung ngữ vị từ, với vị từ trung tâm và các tham tố của nó là cơ sở để nghiên cứu nghĩa của câu, xét ở góc độ cấu trúc nội tại: quan hệ giữa các yếu tố nghĩa tạo câu, các loại câu xét theo nghĩa biểu hiện. 1.2.1.3. Phân loại câu theo nghĩa biểu hiện Theo Cao Xuân Hạo, phân loại câu theo nghĩa biểu hiện (của khung ngữ vị từ) thực chất là phân loại các sự tình. Các sự tình được phân loại như sau [Dẫn theo 25]: SỰ TÌNH Biến cố Tồn tại Tình hình (+ động ) (- động) Hành động Quá trình Trạng thái Quan hệ (+chủ ý) (- chủ ý) (+nội tại) (- nội tại) a. Câu tồn tại Là loại câu có nghĩa biểu hiện sự tồn tại của sự vật, hiện tượng (trong không gian, thời gian hoặc một chiều kích nào đó được hình dung như không gian/thời gian). Câu tồn tại nhận định rằng có một cái gì ở đâu đó (tức là sự định vị) có trường hợp là bắt buộc [ví dụ (***), (****)], có trường hợp không [ ví dụ(*), (**)]. Ví dụ: * Có muỗi. ** Còn bạc, còn tiền, còn đệ tử. Hết cơm, hết rượu, hết ông tôi. (Nguyễn Bỉnh Khiêm) *** Sao đầy trời. **** Trên tường treo một bức tranh. b. Câu hành động - Câu hành động diễn tả một sự tình động có chủ ý. Chủ thể của hành động gọi là hành thể. Nếu hành động trong câu có tác động đến một số đối tượng, hành thể thường được gọi là tác thể. Hành thể là diễn tố thứ nhất, có khi là duy nhất của vị từ hành động. Ngoài các diễn tố, trong câu hành động cũng có thể có các chu tố. + Câu hành động vô tác Hành động vô tác là hành động không tác động đến đối tượng nào ở bên ngoài. Ví dụ: Em bé bò trên sàn nhà. (Diễn tố: hành thể) (hành động) (Chu tố: vị trí) Thằng bé nhìn con hổ (Diễn tố: hành thể) (hành động) (Diễn tố: mục tiêu) Các hành động vô tác có thể chia làm hai loại: + di chuyển và – di chuyển (như bò và nhìn trong hai ví dụ trên). + Câu hành động chuyển tác Hành động chuyển tác là hành động có tác động đến đối tượng làm cho đối tượng thay đổi trạng thái hay vị trí, hoặc bị hủy diệt, hoặc tạo ra một vật. Về các hành động chuyển tác, có sự phân biệt giữa các hành động chuyển thái, chuyển vị và các hành động tạo diệt (tạo tác và hủy diệt) Ví dụ: Liên nấu cơm (chuyển thái) Liên cho em cái bánh (chuyển vị - chuyển vị trí sở hữu). Các bác thợ xây nhà (tạo tác). c. Câu quá trình Câu quá trình diễn tả một sự tình động (biến cố) không có chủ ý, bao gồm 2 loại: câu quá trình vô tác và câu quá trình chuyển tác. + Câu quá trình vô tác Câu quá trình vô tác là câu có nội dung biểu thị quá trình không chuyển tới đối tượng bên ngoài. Quá trình được biểu thị có thể là một sự chuyển biến, một sự nảy sinh hoặc một sự hủy diệt. Chủ thể của quá trình vô tác có thể là người, động vật, hoặc vật vô tri. Ví dụ: Mưa rơi. Cây đổ. Người chết. Em bé ngã. + Câu quá trình chuyển tác Câu quá trình chuyển tác biểu thị quá trình trong đó vật vô tri gây ra một tác động thay đổi trạng thái hay vị trí của một đối tượng hoặc hủy diệt đối tượng đó. Câu biểu thị quá trình chuyển tác có chủ đề giữ vai lực, vị từ trung tâm là vị từ chỉ quá trình chuyển tác. Ví dụ: Gió mở tung cửa sổ. Sét đánh đổ cây. d. Câu trạng thái Câu trạng thái là câu diễn tả tình hình nội tại, tức tính chất hay tình trạng của sự vật. Chủ thể của tính chất, tình trạng của sự vật hiện tượng có thể là người, vật, hay động vật, giữ cương vị chủ đề. Tính chất và tình trạng phân biệt nhau một cách tương đối và có phần ước định ở chỗ nó thường tồn (tính chất) hay nhất thời (tình trạng). Câu trạng thái thường có một diễn tố là đương thể của tính chất hay nghiệm thể của tâm trạng. Ví dụ: Con chó gầy giơ xương. (Diễn tố: đương thể) Chúng tôi rất thương cháu (Diễn tố: nghiệm thể) (tâm trạng) Những vị từ tình cảm như thích, yêu, ghét, giận, sợ, kính, nể,… có hai diễn tố: một nghiệm thể và một là đối thể hoặc nguồn gây ra tình cảm ấy ở nghiệm thể. Ví dụ: Hắn rất nể anh ấy (Diễn tố1 (Tình cảm) (Diễn tố 2 nghiệm thể) đối thể/nguồn e. Câu quan hệ Quan hệ là một tình hình mà nội dung là một cái gì đó ở giữa hai sự vật, chẳng hạn một khoảng cách, một mối liên hệ nhân quả, một sự so sánh, một sự tiếp xúc… Câu quan hệ nhất thiết phải có hai vế. Loại câu này được đánh dấu bằng sự xuất hiện của những vị từ quan hệ như hơn, kém, bằng,như, giống, khác…, và những danh từ quan hệ như: trên, dưới, trước, sau, trong, ngoài, giữa… Ví dụ: Cô ấy là cô giáo cũ của chúng tôi Minh hơn Nam về khả năng giao tiếp. 1.2.2. Nghĩa tình thái Bên cạnh nghĩa biểu hiện, nghĩa tình thái là một loại thành tố ngữ nghĩa của câu, cung cấp cho người tiếp nhận những thông tin về tình thái trong câu. Khởi nguồn cho việc nghiên cứu nghĩa tình thái (tính tình thái của câu) là việc nghiên cứu của các nhà logic học với những khái niệm công cụ như tính hiện thực, tính tất yếu, tính khả năng,… “Tình thái” vốn là một khái niệm logic học. Trong logic học, nội dung của một mệnh đề được chia làm hai phần: phần thứ nhất là phần ngôn liệu (vị ngữ logic và các tham tố của nó được xem xét như một mối liên hệ tiềm năng) và phần thứ hai là phần tình thái, tức là cách thực hiện mối liên hệ ấy với hiện thực khách quan: Mối liên hệ ấy có tính hiện thực hay không (có xảy ra hay không xảy ra), tất yếu hay không tất yếu (nghĩa là đối tượng được nói có mang đặc trưng được gán cho trong mọi thế giới hay không), có khả năng hay không có khả năng (nghĩa là đối tượng được nói mang đặc trưng được gán cho ít nhất trong một thế giới nào đó hay không). Đi vào chi tiết hơn, các nhà nghiên cứu còn xem xét tính hiện thực, tính tất yếu và tính khả năng được nêu ra ở phương diện nhận thức (dựa trên bằng chứng hay suy luận), phương diện đạo nghĩa (dựa trên những ràng buộc về quyền lợi và nghĩa vụ). Ví dụ: Lớp chúng tôi có lẽ phải học chuyên đề ngôn ngữ học tri nhận vào tuần tới, tại phòng C705. Phần ngôn liệu của mệnh đề gồm vị ngữ logic “học” và bốn tham tố của nó: (1) Lớp chúng tôi (chủ thể của hành động), (2) chuyên đề ngôn ngữ học tri nhận (đối thể của hành động), (3) vào tuần tới (thời gian diễn ra hành động), (4) tại phòng C705 (nơi thực hiện hành động). Phần ngôn liệu này tiềm tàng mối liên hệ giữa mệnh đề với thực tại khách quan mà nó phản ánh trên cơ sở phần ngôn liệu và phần tình thái được xem xét. Chẳng hạn, việc Lớp chúng tôi học chuyên đề ngôn ngữ học tri nhận vào tuần tới tại phòng C705 là chưa xảy ra (phi hiện thực), có thể được (có khả năng), không tất yếu, bắt buộc. Ví dụ: Xét tình thái của các mệnh đề: a) Trái đất xoay quanh mặt trời. b) Nước sẽ sôi ở nhiệt độ 100 độ C. Trong ví dụ trên, (a) là mệnh đề có tính [+khả năng], [+tất yếu], [+hiện thực]. Còn (b) là mệnh đề có tính [+ khả năng], [- tất yếu] (không tất yếu) vì nước có thể không sôi ở nhiệt độ 100 độ C), [- hiện thực] (phi hiện thực), vì tình trạng nước sôi chưa xảy ra. Trong logic học, tình thái của một mệnh đề được nghiên cứu qua ba thông số: - Tình thái có khả năng hay không có khả năng ( khả năng ) - Tình thái tất yếu hay không tất yếu ( tất yếu) - Tình thái hiện thực hay phi hiện thực (hiện thực). Trong ngôn ngữ học, tình thái của câu không chỉ dừng lại ở ba thông số như logic học. Vì câu thuộc bình diện ngôn ngữ học, là đơn vị cơ bản của hoạt động giao tiếp và tư duy, tình thái của câu còn được xem xét qua các thông số: thái độ (người nói đồng tình hay không đồng tình với sự tình, tôn trọng hay không tôn trọng người nghe), sự đánh giá của người nói (người nói tin hay không tin vào điều mình nói ra). Sự đánh giá có thể coi như một trong những kiểu tình thái trùm lên nội dung được miêu tả trong sự biểu hiện của ngôn ngữ. Thông số này làm cho tình thái của câu phong phú và đa dạng hơn so với tình thái logic. Tuy vậy, thái độ của người nói không chỉ làm thành một thông số tình thái riêng trong câu mà còn thâm nhập vào ba thông số kia để biến những thông số chỉ được xét ở hai với hai trị () (có, không) trong logic trở nên thông số có nhiều giá trị khác nhau trong ngôn ngữ. Ví dụ: a) Tất nhiên là anh ấy sẽ chiến thắng và trở về. b) Dĩ nhiên là anh ấy ra Hà Nội chiều qua. Ở ví dụ (a) có các tình thái phi hiện thực, tất yếu, có khả năng (những tình thái khách quan) và những tình thái chủ quan như: sự tin tưởng, đồng tình, mong muốn (những tình thái bổ sung), còn ở ví dụ (b) lại có tình thái: hiện thực, tất yếu, có khả năng (những tình thái khách quan), tin tưởng, thân mật,… (những tình thái chủ quan). Tình thái còn được xem xét ở góc độ tình thái của hành động phát ngôn và tình thái của lời phát ngôn… Tình thái của hành động phát ngôn là loại tình thái phân biệt các lời nói trên phương diện mục đích và tác dụng trong giao tiếp. Đó là sự phân biệt các kiểu câu trần thuật, nghi vấn, cầu khiến, cảm thán. Thuộc phạm vi tình thái của hành động phát ngôn, người ta còn phân biệt giữa loại câu miêu tả mang tính chất thông báo thuần túy với loại câu xác nhận, câu phản bác và nhất là câu ngôn hành. Ví dụ: a) Hôm nay trời mưa to. (câu miêu tả) a’) Đúng là hôm nay trời mưa to. (câu xác nhận) a’’) Hôm nay trời mưa không to (câu phản bác) b) Nó đã xin lỗi cô giáo. (câu miêu tả) b’) Em xin lỗi cô ạ. (câu ngôn hành) Về vấn đề tình thái, Cao Xuân Hạo có nêu “Tình thái của lời phát ngôn thuộc cái nội dung được truyền đạt (trong trần thuật hay trong câu hỏi), nó có liên quan đến thái độ của người nói đối với điều mình nói ra hoặc đến quan hệ giữa sở đề và sở thuyết của mệnh đề. Ví dụ: Hình như nó đi từ lúc 12 giờ. Thanh ngạc nhiên khi thấy cây hoàng lan trổ bông. Có thể nói, tình thái của câu gồm ba nội dung sau: Một là, tình thái biểu thị mối quan hệ giữa người nói và người nghe (còn gọi là tình thái liên nhân). Tình thái liên nhân thường được đánh giá qua các thông số [ tôn trọng], [ thân mật],… Tình thái liên nhân có thể được đánh dấu bằng hô ngữ, phụ ngữ tình thái hoặc bằng các đại từ nhân xưng, trợ từ ngữ khí,… được sử dụng trong câu. Ví dụ: Em thắp lên chị Liên nhé? (Thạch Lam, Hai đứa trẻ) Bẩm chỉ mới có hai ông ở Hải Phòng và ở Hà Nội về trình sổ sách. (Vũ Trọng Phụng, Giông tố) Hai là tình thái biểu thị thái độ, cách đánh giá của người nói đối với sự việc được nêu trong câu (tình thái đánh giá). Tình thái đánh giá thường được xem xét qua các thông số [ đồng tình], [ tin tưởng], [ mong đợi],… Tình thái đánh giá thường được đánh dấu bằng các phụ ngữ tình thái đánh giá hoặc những trợ từ biểu thị sự đánh giá. Ví dụ: a) Hình như có một thời hắn đã ao ước có một gia đình nho nhỏ. (Nam Cao, Chí Phèo) b) Nếu tôi nói thì chắc người ta cũng bằng lòng. (Vũ Trọng Phụng, Số đỏ) c) Thằng bé ăn những hai bát cơm. d) Thằng bé chỉ ăn hai bát cơm. Ở ví dụ (a), phần câu hình như cho thấy người nói chưa hoàn toàn tin tưởng vào điều mình nói ra. Câu (b) thể hiện sự phỏng đoán có độ tin cậy cao đối với sự việc. Ở ví dụ (c), trợ từ những cho người đọc hiểu là sự đánh giá về lượng cơm mà thằng bé ăn được là nhiều. Nhưng ở ví dụ (d), trợ từ chỉ thể hiện sự đánh giá ngược lại: theo người nói, lượng cơm mà thằng bé ăn được là còn ít. Ba là, tình thái biểu thị mối quan hệ của sự việc được nêu với hiện thực khách quan như thời gian, cách thức diễn ra hành động, tính [ khả năng, tất yếu,  hiện thực] của sự tình được đề cập,… (tình thái khách quan). Tình thái khách quan thường được đánh dấu bằng các phụ từ như đã, sẽ đang, không, chưa, chẳng… hoặc bằng các vị từ tình thái, như có thể, bèn, toan, cần, phải,…hoặc bằng các phương tiện từ vựng. Ví dụ: - Sự thật là dân ta đã lấy lại nước Việt Nam từ tay Nhật chứ không phải từ tay Pháp. (Hồ Chí Minh, Tuyên ngôn Độc lập) - Hắn nhặt một hòn gạch vỡ, toan đập đầu. (Nam Cao, Chí Phèo) - Việc từ bỏ văn hóa cha ông và tiếng mẹ đẻ phải làm cho mọi người An Nam tha thiết với giống nòi lo lắng. (Nguyễn An Ninh, Tiếng mẹ đẻ - nguồn giải phóng các dân tộc bị áp bức) - Tao không thể là người lương thiện được nữa. (Nam Cao, Chí phèo) Ba nội dung tình thái của câu vừa trình bày trên có thể gộp thành hai mảng như sau: 1) Tình thái chủ quan (tình thái thuộc về người nói) gồm tình thái đánh giá và tình thái liên nhân. Nội dung tình thái này vừa có thể có những phương tiện riêng để biểu thị vừa sử dụng ngay những phương tiện biểu thị tình thái khách quan. 2) Tình thái khách quan là tình thái thuộc về mối liên hệ giữa nội dung của câu với hiện thực được phản ánh. Nó cũng có những phương tiện biểu thị đặc thù vừa có những phương tiện chung. Như vậy, trong ngôn ngữ học, tình thái là phạm trù ngữ pháp – ngữ nghĩa biểu thị quan hệ của người nói với phát ngôn và quan hệ của nội dung phát ngôn với hiện thực khách quan. Tính tình thái là một phổ niệm ngôn ngữ, nó thuộc phạm trù cơ bản của ngôn ngữ tự nhiên. Nghĩa tình thái cũng là một phạm trù nghĩa của câu. Tình thái của câu là một vấn đề rất phức tạp, hiện nay vẫn còn nhiều ý kiến khác biệt về vấn đề này. Đi tìm hiểu vể biểu hiện tình thái trong phần phụ chú, chúng tôi sẽ khai thác theo cách hiểu đã được nhiều người thừa nhận. 1.3. Lý thuyết hành động ngôn từ 1.3.1. Khái niệm về hành động ngôn từ Người đầu tiên nghiên cứu lý thuyết này là nhà triết học người Áo, L.Wittgenstein. Ông đã đồng nhất hoạt động giao tiếp với hoạt động xã hội và việc sử dụng ngôn từ (lời nói) như một hành động. Sau đó, J. L. Austin lại là người đã đánh dấu mốc cho sự phát triển của lý thuyết hành động ngôn từ bằng công trình nghiên cứu “How to do thing with words”, ông bày tỏ luận điểm: “To say is to do something” (nói là làm). Ông cho rằng để biểu hiện, diễn tả một hành động ngôn từ thì cần phải nói ra điều đó, còn làm là thực tế, là việc đi vào thực tiễn. Từ luận điểm này mà người ta xây dựng nên lý thuyết về hành động ngôn từ. Như vậy, khi ta nói một câu nghĩa là ta đã thực hiện một hành động nào đó. Chẳng hạn như: thông báo, khuyên, chúc mừng, tuyên bố, hứa hẹn…Đó là những hành động được thực hiện bằng ngôn từ, được gọi là hành động ngôn từ. Và J. L. Austin xem hành động ngôn từ là một thể thống nhất các hành động: - Hành động tạo lời (locutionary act). - Hành động tại lời (illocutionary act). - Hành động mượn lời (perlocutionary act). 1.3.2. Các hành động ngôn từ  Hành động tạo lời là “nói một điều gì đó”. Đây là hành động sử dụng các yếu tố ngôn ngữ như ngữ âm, từ vựng, ngữ pháp để tạo nên một câu nói.  Hành động tại lời là “nói một điều gì đó và thực hiện điều đó như thế nào”. Đồng thời, hành động ấy phải thực hiện ngay khi phát ra câu nói. Ví dụ: Lớp ồn quá! (Hành động tại lời là nhận xét “lớp ồn”) Vì vậy hành động tại lời chính là lực ngôn trung, là đích phát ngôn. Nó bị chi phối bởi các qui tắc hình thành tự nhiên theo cộng đồng với những điều kiện sử dụng được thực hiện. Cốt lõi của hành động ngôn từ chính là hành động tại lời.  Hành động mượn lời là hành động thông qua việc phát ngôn câu nói, người nói tác động đến tư tưởng tình cảm… của người tiếp nhận. Với một hành động mượn lời, người nghe có thể không nhận ra ngay mặc dù hiểu được hành động tại lời. Một hành động tại lời có thể có nhiều hành động mượn lời khác nhau. Ví dụ: Một hành động tại lời là người nói không muốn tiếp chuyện với người nghe và đưa ra một lời yêu cầu trực tiếp: Khuya rồi, anh về đi. Hành động mượn lời có thể là một trong những trường hợp sau: - Mấy giờ rồi nhỉ ? - Ngày mai tôi có việc phải dậy sớm. - Thức khuya có hại cho sức khỏe lắm đấy! J. R. Searle trong công trình “Các hành động ngôn từ gián tiếp” (1969), đã đưa ra khái niệm hành động ngôn từ gián tiếp. Một hành động ngôn từ gián tiếp là hành động ngôn từ được thực hiện bằng hình thức của một hành động ngôn từ khác. Nghĩa là một hành động tại lời được thực hiện gián tiếp phải thông qua một hành động tại lời khác. Nó có đặc điểm sau: - Một hành động ngôn từ gián tiếp được thực hiện thông qua những hành động tại lời khác nhau. - Cùng một hành động tại lời có thể tạo ra những hành động gián tiếp khác nhau. Ví dụ: Anh có thể chuyển dùm tôi đĩa ớt kia không? Ở ví dụ trên hành động tại lời là hỏi (hình thức) nhưng mục đích là đề nghị: Anh hãy chuyển dùm tôi đĩa ớt. J. R. Searle phân loại các hành động ngôn từ có sự tiến bộ hơn so với J.L. Austin. Ông đưa ra 12 tiêu chí để phân loại. Trong đó có 3 tiêu chí quan trọng chi phối sự phân loại, đó là: - Mục đích của hành động tại lời (Illocutionary point). - Hướng thích nghi giữa lời lẽ và hiện thực (Direction of fit). - Trạng thái tâm lí được biểu hiện. Dựa vào những tiêu chí này mà J.R.Searle chia hành động ngôn từ ra thành 5 loại: (1) Biểu hiện (Representative) (2) Cầu khiến (Directive) (3) Ước kết (Commissive) (4) Bày tỏ (Expressive) (5) Tuyên bố (Declaratives) 1.3.3. Điều kiện sử dụng hành động ngôn từ Trong hoạt động giao tiếp, lời nói được xem là một hành động. Việc sử dụng lời nói chịu sự chi phối nhất định mà L. Wittgenstein gọi là “trò chơi ngôn ngữ”, đồng thời J. Austin cũng đưa ra luận điểm “nói là làm”, nói là một cách sử dụng âm thanh ngôn ngữ để bộc lộ một nội dung thông báo nào đó. Và để đạt được hiệu quả trong giao tiếp, người nói cần quan tâm đến các điều kiện sử dụng của các hành động ngôn từ. Bởi lẽ để hành động được thực hiện thì mỗi hành động ngôn từ đòi hỏi phải có những điều kiện nhất định. Muốn cho người nghe thực hiện một hành động nào đó như yêu cầu, đề nghị, sai bảo, khuyên răn,… mà người nói mong muốn thì từ phía người nói phải lựa chọn cách nói làm sao để người nghe không chỉ hiểu điều mình nói ở bề mặt ngôn từ mà còn tri nhận đích ngôn trung. Các hành động tại lời cũng đòi hỏi những điều kiện nhất định. Các hành động tại lời bị chi phối bởi các qui tắc hình thành tự nhiên theo cộng đồng. Vì vậy mà mỗi loại hành động tại lời có những điều kiện sử dụng của nó mà Austin gọi tên chúng là những điều kiện thuận lợi. Về vấn đề này, Searle chia làm 3 loại chính như sau: - Điều kiện ban đầu. - Điều kiện chân thực. - Điều kiện thiết yếu (điều kiện căn bản). a. Điều kiện ban đầu Ví dụ: Hành động ngôn từ ra lệnh. - S ra lệnh cho H làm một việc gì đó có lợi cho S còn H bị thiệt (về thời gian, công sức hay tiền của…) - S có vị thế giao tiếp (biểu hiện vị thế xã hội) cao hơn hoặc là người bậc trên so với H (trong trường hợp vị thế xã hội không bình đẳng). Hệ quả là tính bắt buộc cao. - Ra lệnh là làm một việc gì đó cho tôi, hoặc cho cả anh và tôi, hoặc không liên quan gì đến anh nhưng anh vẫn phải làm. - Khi S ra lệnh cho H làm một hành động C thì đương nhiên là hành động chưa được thực hiện hoặc thực hiện rồi mà vẫn chưa đạt yêu cầu, nên S mới ra lệnh cho H thực hiện hay thực hiện lại mà thôi. - Đồng thời người ra lệnh cần biết được rằng người nhận lệnh có khả năng hiểu được và thực hiện được mệnh lệnh của mình. Như vậy, điều kiện ban đầu liên quan đến quan hệ giữa hai người: người nói và người nghe, tới những ý nguyện, lợi ích và khả năng của người nghe. b. Điều kiện chân thành Ví dụ: Hành động ngôn từ mời mọc . Khi S muốn mời H (ăn uống hay tham dự một cuộc vui chơi hoặc tham gia vào một công việc kinh doanh …nào đó) thì S phải chân thành mời thực chứ không phải mời lơi. Mời mọc thường mang lợi cho H gây thiệt cho S. Vì vậy một lời mời chân thành không chỉ hiển ngôn điều lợi mà H nhận được ,và còn cần phải gia tăng tính ép buộc mà vẫn không làm mất đi tính lịch sự của lời mời. Chẳng hạn S dùng câu cầu khiến trực tiếp để mời mọc H “Thế nào tối mai H cũng phải tới nhà tôi dùng bữa đấy nhé”! H tới nhà S dùng bữa, H được lợi, còn S bị thiệt (S phải tốn tiền, mất thời gian chuẩn bị bữa ăn…) và rõ ràng trong lời mời của S, S đã hiển ngôn điều lợi “ tới dùng bữa” và S thể hiện tấm chân tình của mình bằng cách ép buộc “thế nào cũng phải tới”…Đây chính là điều kiện chân thực của hành động mời mọc. Khác hẳn với lời mời gián tiếp bằng hình thức một câu hỏi “Tối mai H có tới nhà tôi dùng bữa được không?” S đã đặt H vào tình huống lựa chọn có/ không. Trong một hoàn cảnh nào đó thì có thể coi đây là một lời mời lơi, mời cho có mời. Như vậy điều kiện chân thành tập trung chủ yếu nói đến trạng thái tâm lý của hành động mà người nói thực hiện. Thông báo một điều gì đó cho người khác thì phải tâm niệm rằng thông tin đó là sự thật. Ra lệnh không chỉ là ép buộc mà phải thực sự mong muốn người nhận lệnh chấp hành. Dùng câu hỏi để tìm hiểu thông tin, người hỏi chân thành khi hoàn toàn chưa biết gì và thực sự muốn biết về thông tin đó chứ không phải là hỏi xã giao, lấy lệ…hay thực hiện hành động mời mọc thì phải mong muốn người nghe nhận lời của mình… TIỂU KẾT Qua những nội dung đã trình bày ở trên, chúng tôi tóm lại một số điểm sau: - Phần phụ chú không thuộc thành phần trong cấu trúc cú pháp của câu. Nó chỉ là bộ phận chêm xen với chức năng như: giải thích, minh họa, quy ước, bổ sung, biểu cảm,… nhằm giúp người nghe, người đọc hiểu rõ hơn, đúng hơn nội dung của câu hay ý định nào đó của người nói. - Trong cấu trúc nghĩa biểu hiện của câu, có các vai nghĩa mang tính bắt buộc (diễn tố) và các vai nghĩa không bắt buộc (chu tố). Theo đó, dựa vào vị từ để phân loại câu theo nghĩa biểu hiện, ta có: câu tồn tại, câu hành động, câu quá trình, câu trạng thái, câu quan hệ. Nghĩa tình thái trong câu có thể chia thành theo 2 loại: tình thái chủ quan và tình thái khách quan. - Dựa vào lí thuyết của hành động ngôn từ, có thể chia hành động thành các lớp: biểu hiện, cầu khiến, hứa hẹn, bày tỏ, tuyên bố. Và hành động này đòi hỏi phải có điều kiện nhất định để trở thành hiện thực. Chương 2 ĐẶC ĐIỂM NGỮ NGHĨA BIỂU HIỆN CỦA PHẦN PHỤ CHÚ TRONG CÂU TIẾNG VIỆT Nghĩa là bình diện của “sự tình” được biểu đạt và những “vai trò” tham gia sự tình ấy gọi là tham tố (participants) của sự tình gồm diễn tố (actants) và chu tố (circumstants - những yếu tố đứng xung quanh) [34: 20]. Cách hiểu trên dựa vào lí thuyết kết trị của động từ và cương vị diễn tố của L.Tesnière (1959). L.Tesnière quan niệm cấu trúc nghĩa của câu xoay quanh động từ (sự tình) và các diễn tố bổ nghĩa cho nó. Diễn tố là những vai nghĩa tất yếu được giả định sẵn trong nghĩa của vị từ. Chẳng hạn vị từ “tặng” có chủ thể của hành động “tặng” gọi là hành thể. Vị từ “tặng” cũng giả định trước một đối thể là vật đem tặng và một tiếp thể là người nhận tặng phẩm. Hành thể, đối thể và tiếp thể là diễn tố. Các chu tố làm thành cảnh trí xung quanh các diễn tố. Chu tố không được giả định một cách tất yếu trong khung vị ngữ: đó là những điều kiện, không gian, thời gian, cách thức, phương tiện hoặc những nhân vật có liên quan. Ngoài ra, các chu tố cũng được phân biệt theo chức năng nghĩa học thành: vị trí, địa điểm,… (theo quan niệm của S. C. Dik). Phần này, luận văn sẽ tìm hiểu thành phần phụ chú trên bình diện ngữ nghĩa biểu hiện. 2.1. Phần phụ chú trong quan hệ với cấu trúc nghĩa biểu hiện 2.1.1. Quan hệ nghĩa của phần phụ chú với các tham tố bắt buộc (diễn tố) Như đã trình bày ở chương trước, phụ chú là một bộ phận không tham gia vào cấu trúc nghĩa của câu với tư cách là thành phần câu mà nó chỉ đóng vai trò phụ thêm cho một bộ phận nào đó của câu hoặc cả câu. Và bộ phận nào cũng có thể đặt phụ chú. Do vậy, phụ chú có mối liên hệ với tất cả các tham tố trong câu. Tham tố bắt buộc là các diễn tố trong câu, bao gồm diễn tố 1, diễn tố 2 và diễn tố 3. Theo đó, phụ chú cho diễn tố có tác dụng làm rõ đối tượng hay chủ thể được đề cập. Qua quá trình khảo sát ngữ liệu, chúng tôi nhận thấy có thể khái quát một số chức năng ngữ nghĩa chủ yếu của phần phụ chú với các diễn tố như sau: - Mở rộng nghĩa cho các diễn tố - Thu hẹp nghĩa cho các diễn tố Để thể hiện chức năng ngữ nghĩa của diễn tố, phần phụ chú thường có các dạng cấu tạo sau: phụ chú có cấu tạo danh ngữ, phụ chú có cấu tạo chủ - vị. * Phụ chú có cấu tạo danh ngữ (1a) Khoảng 23 giờ ngày 26-1-2000, anh Lê Tâm Việt (chiến sĩ Phòng Cảnh sát hình sự, CSHS) ngồi ở quán Cơm Phở Hà Nội … [ 75:80] Với dạng phụ chú như ví dụ (1a) thì đa phần là mở rộng thêm thông tin về nghề nghiệp, nơi làm việc của chủ thể được đề cập; cụ thể là “anh Lê Tâm Việt” được tác giả văn bản nêu thêm chức danh là “chiến sĩ Phòng Cảnh sát hình sự”. (1b) Tây Bắc (…) là một vùng rộng lớn (một phần tư diện tích miền Bắc) rất giàu và đẹp của nước ta... [65: 252] Trong ví dụ (1b), diễn tố là “một vùng rộng lớn” được thu hẹp nghĩa bằng phần phụ chú “một phần tư diện tích miền Bắc”. * Phụ chú có cấu tạo chủ - vị (2a) Lâm Xuân Phát khai đã giao hồ sơ vụ án này cho văn thư của Phòng kiểm sát điều tra án trị an là chị Hải (chị Hải hiện nay đang định cư tại Mỹ),… [75: 120] Dạng phụ chú cấu tạo chủ - vị này có tác dụng bổ sung thêm, mở rộng thông tin cho đối tượng chú thích. Trong ví dụ (2a), “chị Hải” là diễn tố được phần phụ chú bổ sung thêm thông tin bằng kết cấu chủ vị: chị Hải hiện nay đang định cư tại Mỹ. (2b) Những người lính Tây Tiến phần đông là thanh niên Hà Nội (Quang Dũng thuộc vào số này). [69: 83] Ở (2b), phần phụ chú “Quang Dũng thuộc vào số này” đã thu hẹp lại đối tượng so với diễn tố “những thanh niên Hà Nội”. Sau đây chúng tôi sẽ đi vào quan hệ của phần phụ chú với từng diễn tố cụ thể. a) Quan hệ của phần phụ chú với diễn tố 1 Diễn tố 1 là thành phần bắt buộc đối với vị từ trong câu và là chủ thể của vị từ. Diễn tố 1 có thể là hành thể trong câu hành động vô tác, là tác thể trong câu trong câu hành động chuyển tác, là động thể trong câu quá trình, là đương thể, nghiệm thể trong câu tư thế và trạng thái. Ví dụ: (3) Chị thằng Phác, một cô bé yếu ớt mà can đảm, đã phải vật lộn để tước con dao trên tay thằng em trai, không cho nó làm một việc trái với luân thường đạo lí. [70: 67] Ở đây, diễn tố 1 là Chị thằng Phác, phần phụ chú bổ sung nghĩa cho Chị thằng Phác. Nhờ phụ chú mà diễn tố 1 được bổ sung thêm ý nghĩa để làm rõ hơn về chủ thể: cái cô bé phải thực hiện hành động đó rất yếu ớt về hình thể nhưng lại can đảm về tinh thần. Sau đây là những dạng cấu tạo thường thấy của diễn tố 1. a1. Diễn tố 1 là một danh từ, danh ngữ Trong hiện thực khách quan, có nhiều trường hợp người, sự vật, hiện tượng, nơi chốn,… có tên gọi giống nhau hoặc ít được biết đến, do đó rất khó xác định vật quy chiếu của những danh từ này một cách chính xác nếu không kèm theo nó một định ngữ miêu tả hoặc một phụ chú để giải thích. Khi được phụ chú giải thích, các danh từ này được coi là đối tượng chú thích của phụ chú. Ví dụ: (4) Nhưng dù thế nào thì cái chi tiết quan trọng mà chú bé nhớ lại (bố nó từng vận chiếc bành tô bằng da) cũng hằn lên tâm trí chú như một thắc mắc. [70: 107] Trong (4), phụ chú “bố nó từng vận chiếc bành tô bằng da” đã được dùng để giải thích cho danh ngữ làm diễn tố là “cái chi tiết quan trọng” (5) Bà cụ Tứ (mẹ Tràng) ngạc nhiên. [70: 24] (Bà cụ) Tứ là một danh từ riêng và là đối tượng chú thích của phụ chú mẹ Tràng. Mặt khác, bên cạnh những từ ngữ được dùng theo chức năng, ý nghĩa của chúng còn có các từ ngữ được người viết sử dụng một cách bất thường với một dụng ý nào đó. Lúc này, để người đọc hiểu, người viết thường dùng phụ chú để giải thích. Ví dụ như: (6) Ở đây, người ta chỉ trông chờ ở mỗi đương sự một cái gì riêng, người khác không thay thế được. Món hàng độc ấy (độc đáo chứ không phải độc hại) có thể hiểu theo nhiều nghĩa. [74: 15] Trong trường hợp này, nếu không có phụ chú độc đáo chứ không phải độc hại, người đọc sẽ không hiểu dụng ý dùng từ “độc” của tác giả. a2. Diễn tố 1 là một đại từ Nhìn chung, các đại từ đều có bản chất là chưa rõ nghĩa, vì chúng chỉ hiện thực hóa ý nghĩa khi quy chiếu đối tượng nào trong hiện thực khách quan. Khi hoàn cảnh giao tiếp không thuận tiện, để người đọc xác định nghĩa của đại từ thì người viết có thể dùng._.họ (Thọ “đại úy”) cũng tích cực đuổi theo Phan Lê Sơn, miệng hò hét chửi bới… [75: 89] 82. …khi y vừa bước lên bậc thềm của quán để đuổi theo Sơn chạy vào trong nhà thì bị tên Hồ Thanh Tùng đứng phía sau đâm trúng vào lưng bị trọng thương (vì tên Tùng tưởng Thọ là người bên anh Sơn). [75: 89] 83. Nguyễn Hùng Cường (Cường anh), chủ quán 136 Nguyễn Thái Học và em trai Nguyễn Tuấn Hùng chạy xe đến sau cùng. [75: 90] 84. Sơn quay đầu chạy ngược theo hướng Hàm Nghi – Nguyễn Huệ đến gần quán phở Lan (liền kế với quán Cấm Chỉ) thì bị Văn Công Tiến dùng ghế nhựa đập vào đầu,… [75: 90] 85. Anh nguyễn Văn Đông là chồng chị Nguyễn Thị Lan chủ quán phở, chiến sĩ CSHS – Công an Quận 1 đang ngủ trên lầu 1 của quán phở Lan (nhà số 4, Hải Triều), thấy có ồn ào đánh nhau dưới đường, lấy súng K54 bắn cảnh cáo nên tất cả bọn chúng mới bỏ chạy. [75: 91] 86. Tên Từ Anh Kiệt chở tên Nguyễn Hùng Cường (Cường anh) chạy đến trung tâm cấp cứu Sài Gòn thăm Nguyễn Văn Thọ. [75: 93] 87. Các tên Huỳnh Anh Tuấn (Hùng nhỏ), Nguyễn Tuấn Hùng (Cường em), có mặt ở hiện trường giữ xe và chứng kiến đồng bọn đâm, đánh các nạn nhân, sau khi nghe tiếng súng nổ đều bỏ chạy khỏi hiện trường. [75: 94] 88. Hồ Thanh Tùng khai đã sử dụng con dao bấm hình cây viết cài ngực, (lưỡi sắc, nhọn đều, rộng khoảng 1-1,5 cm). [75: 94] 89. Các bị can đều khai nhận sau khi gây án, chúng đều vứt bỏ hung khí (dao) của các đối tượng sử dụng trong khi gây án, Cơ quan điều tra đã tổ chức cho các bị can và nhân chứng nhận dạng dao có các đặc điểm, hình dáng gần giống như các loại dao đã được mô tả ở trên. [75: 95] 90. Tại đây, Bảy Việt, Kim Anh gặp lê Thị Hồng Ngọc, thị Điệu (vợ Thọ) và một số đối tượng vừa gây án ở Hải Triều. [75: 95] 91. Tại đây, Bảy Việt và Kim Anh gặp Dương Ngọc Hiệp (Hiệp “phò mã”). [75: 96] 92. Được tin cha con Nguyễn Hữu Thịnh, Nguyễn Văn Thọ cùng đồng bọn đánh nhau, đâm chết hai người ở đường Hải Triều, ngay trong đêm (rạng sáng 27-1-2000), Dương Ngọc Hiệp tức Hiệp “phò mã” đã điện thọai cho cha vợ là Năm Cam… [75: 96] 93. Năm Cam gọi Dương Ngọc Hiệp đến hỏi để nắm lại tình hình vụ án, sai Lê Thị Điệu (vợ Thọ “đại úy”, mẹ Thịnh) gọi điện kêu Thịnh đang bỏ trốn, về thành phố để gặp Năm Cam… [75: 97] 94. Sau khi nghe Hiệp “phò mã”, Thịnh, Thọ kể lại Năm Cam đã nắm được nội dung vụ án, đại ý là: Thịnh cùng đám bạn đi ăn khuya ở Hải Triều, dọi đèn pha vào mặt Sơn (sau này Năm Cam mới biết tên hai nạn nhân) đang ngồi nhậu. [75: 97] 95. Theo lời khai của Dương Ngọc Hiệp, vì lo sợ Nguyễn Văn Thọ (Thọ “đại úy”) bị bắt nên cha vợ y là Năm Cam đã chỉ đạo Hiệp phải gọi Nguyễn Hữu Thịnh về đầu thú,… [75: 98)] 96. ….Tối hôm đó (26 rạng ngày 27-1-2000) khi Thịnh bị đánh gọi điện về cho Bảy Việt đang ngồi ở quán 136 Nguyễn Thái Học kêu người ra Hải Triều để can thiệp… [75: 98] 97. Trước khi đưa Nguyễn Hữu Thịnh ra đầu thú, bản thân Năm Cam đã cùng Hiệp gặp Thịnh, Tiến, Yến Tại nhà Hiệp ở 36 Nguyễn Hữu Cầu, phường Tân Định, quận 1 (tối 29-1-2000). [75: 99] 98. …Dương Ngọc Hiệp và Nguyễn Văn Thọ đến nhà Kim Anh để cùng bàn bạc, tổ chức cho Bùi Anh Việt trốn đi Campuchia (CPC)… [75: 100] 99. Trưa hôm sau (9/1 âm lịch), Hiệp, Thọ, Kim Anh đã gặp Bảy Việt để thuyết phục Bảy Việt đi trốn… [75: 100] 100. Dương Ngọc Hiệp đã bàn bạc và nhờ Tôn Vĩnh Đắc (Long “đầu đinh”) bố trí xe ô tô. [75: 100] 101. Hiệp thuê tên Taing Peng Chheu (Tư Miên) người CPC, lấy vợ Việt Nam ở Sài Gòn là bạn buôn bán xe ô tô cùng với Long và Hiệp, để Tư Miên dẫn đường đưa Bảy Việt sang CPC. [75: 101] 102. Tối ngày 9-1-2000 (âm lịch), Bùi Anh Việt từ nhà Kim Anh đi taxi đến nhà Long ở 274/21B Nam Kỳ Khởi Nghĩa – phường 8 – Quận 3 gặp Nguyễn Tấn Lộc… [75: 101] 103. Cũng trong thời gian này, theo sự chỉ đạo của Ban Giám đốc Công an thành phố, Dương Minh Ngọc (nguyên là trưởng phòng CSHS) và Nguyễn Mạnh Trung (nguyên là phó trưởng phòng CSĐT) đã gặp riêng Năm Cam để thuyết phục Năm Cam đưa Bảy Việt và các tượng khác ra đầu thú. [75: 102] 104. Năm Cam đã nói với Dương Ngọc Hiệp chỉ đạo Tư Miên đưa Bảy Việt từ CPC về Việt Nam và ra đầu thú (ngày 17-3-2000). [75:102] 105. Cả Nguyễn Văn Thọ, Dương Ngọc Hiệp, Lê Thị Kim Anh, Tôn Vĩnh Đắc đều được cơ quan điều tra, điều tra viên (ĐTV) Đặng Hải Tương mời lên làm việc và tổ chức cho đối chất với Bảy Việt trong trại giam,… [75: 103] 106. Lê Ngọc Lâm (Lâm “chín ngón”) sinh năm 1945 tại Hà Tây. [75: 104] 107. Nguyễn Hữu Thế Trạch (con rể bà Mai) đã nhờ Năm Cam nói với Lâm để được giúp đỡ. [75: 105] 108. Ngoài ra còn có thông tin đến tai Năm Cam (Bình Kiểm nói) là Lâm muốn gây chuyện với Cam. [75: 106] 109. Tối ngày 9 hoặc 10-7-1999, Dung Hà đi xe máy do Nguyễn Duy Quân (Quân béo) chở đến nhà Năm Cam… [75: 106] 110. Năm Cam đồng ý và gọi điện cho Nguyễn Văn Thọ (Thọ “đại úy”) đi mua axit. [75: 107] 111. …Thọ mang axit về đựng trong bình nhựa màu trắng (loại can nhựa 1 lít) đưa cho Dung tại nhà Năm Cam. [75: 107] 112. Sau đó, Quân chở Dung đem theo can axit còn lại về số 19 Bùi Thị Xuân, quận 1, nơi Dung tạm trú, cất can axit và hai người tiếp tục đi đến ngã tư đường 3-2 – Sư Vạn Hạnh (khu vực nhà Lâm). [75: 107] 113. Khi đến nơi, chị Liên và con trai vào bàn ngồi trước (lúc này khoảng 20 giờ 30 phút), Lâm đang dựng xe máy thì bị một thanh niên khoảng 30 tuổi đi đến cầm ca nhựa màu đỏ đựng axit bất ngờ tạt vào mặt… [75: 107] 114. Sau khi bị tạt axit gây thương tích, Lâm không dám tố cáo mặc dù nghi vấn chủ mưu việc này do Năm Cam (vì sợ thế lực của Năm Cam trong giới giang hồ). [75: 109] 115. …Đặng Huy Hải (Nam lùn), Nguyễn Phúc, Hoàng “nổ” (còn gọi là Hoàng MEXICO) cùng một thanh niên nữa đi hai xe máy đến nhà Lâm tại số 297, đường 3-2, quận 10, rủ Lâm đi nhậu, nhưng Lâm không đi. [75: 110] 116. Cơ quan điều tra gọi hỏi Nguyễn Trọng Hoàng (Hoàng “đệ”) đang làm thuê cho Tân “hói” hiện ở 240 Đoàn Văn Bơ, phường 14, quận 4, nhưng Hoàng không thừa nhận có quan hệ với anh Phạm Sinh, Nguyễn Phúc, Đặng Duy Hải. [75: 110] 117. Dương Thanh Hà (Thanh “xoăn”) phạm nhân đang cải tạo tại A2 – V26 – Bộ Công an khai báo: … [75: 110] 118. Năm Cam giao cho nhóm tội phạm đâm thuê chém mướn gốc Hải Phòng là Thành (Thành “chân”), đang định cư ở nước ngoài, Quốc “lủi”, Long “rắn”, Thủy “ba thỏ”, Dũng “Bắc cạn”, Sơn “con”, Tuấn “cơm”, Văn “con” (đã chết), Tiệp “chó”, Tới “hen” (đã bị tử hình về tội giết người) tổ chức đánh nhau tại cầu Công Lý (sở dĩ chọn địa điểm này vì đây là địa bàn giáp ranh giữa phường 7, quận 3 và phường 16, quận Phú Nhuận, có nhiều đường ngang ngõ tắt, dễ bề tẩu thoát ). [75: 110] 119. Cơ quan điều tra đã tiến hành ghi lại lời khai Lê Kim Quyền (Cu “sún”), hiện bị tạm giam tại trại Chí Hòa về tội mua bán ma túy… [111] 120. Nhưng do Lâm có thể lực tốt, lại được cấp cứu kịp thời nên thoát chết, nhưng bị thương tật rất nặng (tỷ lệ 75%) đã cấu thành tội cố ý gây thương tích được quy định tại điều 104 Bộ luật Hình sự. [75: 112] 121. Khỏang 12 giờ ngày 26-12-1987, Đổng Chí Nam sinh 1963 tại Sài Gòn, trú tại 1/17 đường Calmett, phường 19 (nay là phường Nguyễn Thái Bình), quận 1, thành phố Hồ Chí Minh là công nhân bốc xếp tại chợ cá Cầu Ông Lãnh, đòi tiền bốc xếp của chủ hàng tôm tên là Mỹ, dẫn tới có sự cãi nhau giữa Nam với chị Mỹ và anh Hùng lái xe chở hàng cho chị Mỹ (không xác định được địa chỉ của chị Mỹ và anh Hùng). [75: 113] 122. Lúc đó Châu Phát Lai Em cũng từ nhà 88X (nhà của Châu Kim Hoa) trong hẻm 88X đi ra và gặp Nam ở đầu hẻm. [75: 113] 123. Nhân chứng Nguyễn Minh Chánh, là công nhân bốc xếp chứng kiến trực tiếp sự việc từ đấu đến cuối, có khai (lúc 14 giờ 30 phút ngày 26-12-1987 ngay sau khi sự việc xảy ra)”…sau đó tôi có thấy anh Nam đến đứng trước căn nhà 89X Bến Chương Dương (cạnh hẻm 88X Bến Chương Dương), trên tay anh Nam có cầm 1 cây sắt đặc và một cây ống nước dài khoảng 80-90cm. [75: 114] 124. Những tài liệu, kết quả điều tra nêu trên (lời khai nhân chứng, biên bản giải phẫu tử thi, kết luận giám định, thực nghiệm điều tra…) đã bác bỏ hoàn toàn lời khai chối tội của bị can Châu Phát Lai Em. [75: 116] 125. Mặt khác theo phiếu nhập, xuất và bàn giao tang vật mà Nguyễn Minh Tuân chuyển đến Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh gồm: 1 con dao và hai thanh sắt nhưng trên kết luận điều tra vụ án chỉ thấy nêu tang vật là một con dao (biên bản thu hồi tang vật tại hiện trường ngày 26-12-1987 cũng chỉ có một con dao). [75: 118] 126. Ngày 8-10-1988 ông Nguyễn Văn Bông (Phó viện trưởng) ký lệnh tạm tha số 106/KSĐT – TA đối với bị can Châu Phát Lai Em về tội giết người do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng. [75: 119] 127. Sau khi đình chỉ điều tra, Lâm Xuân Phát đã không chuyển giao hồ sơ vụ án cho bộ phận tổng hợp để chuyển lưu giữ, dẫn tới mất tòan bộ hồ sơ vụ án (hồ sơ chính và hồ sơ kiểm sát điều tra). [119] 128. …Lâm Xuân Phát khai đã giao hồ sơ vụ án này cho văn thư của Phòng kiểm sát điều tra án trị an là chị Hải (chị Hải hiện nay đang định cư tại Mỹ),… [75: 120] 129. Việc để lọt tội giết người của Châu Phát Lai Em (một đối tượng có nhiều tiền án tiền sự, tay chân thân tín của Năm Cam), hắn tiếp tục có điều kiện thực hiện các việc phạm tội khác trong thời gian dài, làm mất ổn định trật tự xã hội trên địa bàn rộng lớn, ảnh hưởng đến lòng tin của quần chúng nhân dân đối với Đảng và nhà nước… [75: 121] 130. Trước đây, Minh không dám tố cáo vì khiếp sợ thế lực của anh em nhà Châu Phát Lai Em (Lai Em là anh ruột của Châu Phát Út và là tay chân thân cận cua Năm Cam)… [75: 122] 131. Châu Phát Út đến quán “Barconket” (sau đổi tên thành nhà hàng Hoàng Hôn), thì gặp Nguyễn Trần Lam (Lam là bạn tù trước đây với Út ở trại Xuyên Mộc) và Đinh Tuấn Huy (bạn của Lam)… [75: 122] 132. Lam chở Huy cầm kiếm ngồi sau bỏ chạy đến đầu đường Nguyễn Công Trứ (cửa công ty SAIGON SHIP) thì dừng lại và Lam gọi điện thoại cho Út nhưng không gặp. [75: 123] 133. …Út dựng xe bên lề đường và đi vào nhà em rể tên là Của (hiện Của đã chết),… [75: 122] 134. Gia đình Đinh Tuấn Huy tự nguyện bồi thường cho gia đình Minh 2 triệu đồng nhưng chị Phượng (vợ Trần Văn Minh) không nhận. [75: 124] 135. …Nguyễn Bá Phong (nguyên là Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân quận 1) đã từng bước chỉ đạo và đến ngày 23-7-2001 thì đình chỉ điều tra vụ án… [75: 127] 136. Ngày 15-2-2001, Nguyễn Bá Phong trực tiếp nhận “đơn xin bãi nại” (bản photo) không ghi ngày tháng năm 2001 của Trát Minh Dũng…, “đơn xin bảo lãnh” của Châu Kim Hoa (chị ruột của Châu Phát Út) và công văn đề nghị của Hợp tác xã bốc xếp số 1 Bến Chương Dương do Châu Phát Lai Em (anh ruột của Châu Phát Út) đưa. [75: 127] 137. Nay có đơn bãi nại, nếu thương tích không trầm trọng (11%) thì phân loại xử lý đề nghị công an hủy bỏ biện pháp ngăn chặn. [75: 127] 138. …mặc dù chức năng giao vụ án này cho cấp dưới để kiểm sát điều tra là nhiệm vụ của ông Lê Mạnh Quân (Phó viện trưởng phụ trách án hình sự). [75: 128] 139. …Ông Lê Mạnh Quân đã có bút phê: “Bị can phạm tội thuộc khoản 2 điều 104 BLHS (có tính chất côn đồ và dùng hung khí nguy hiểm),… [75: 129] 140. Vụ Lê Duy Long cố ý gây thương tích (dùng dao chém Nguyễn Đăng Đức và Nguyễn Văn Thảo tại ngã ba Tống Duy Tân – Trần Phú, Hà Nội). [75: 131] 141. Khoảng 22 giờ ngày 19-8-2001, Lê Duy Long (Long “tây”) ngồi uống rượu với Nguyễn Xuân Trường, sinh năm 1974, trú tại 28 tổ 7, Phúc Tân, Hoàn Kiếm – Hà Nội; Vũ Đình Thi, sinh năm 1974 trú tại 31B, Phạm Ngũ Lão, Hải Dương và một người bạn của Thi (chưa xác định được) tại quán Haleclub ở 64 Nguyễn Du, Hà Nội. [75: 132] 142. …Công an quận Hoàn Kiếm ra lệnh bắt tạm giam Lê Duy Long (có phê chuẩn của Viện kiểm sát nhân dân quận Hoàn Kiếm). [75: 133] 143. Vụ Hải “Bánh” cố ý gây thương tích (dùng đĩa thức ăn đập vào đầu anh Lê Quang Hiếu, tại quán ăn Tân Hải Vân, đường Nguyễn Trãi, Bến Thành, quận 1, thành phồ Hồ Chí Minh). [75: 134] 144. Hồi 0 giờ 30 phút ngày 24-5-2001, trước quán ăn Tân Hải Vân (đối diện với quán Dìn Ký, số 139, Nguyễn Trãi, Bến Thành, quận 1), Hải Bánh (sinh 1967, trú tại 36, Hàng Cót, Hàng Mã, Hoàn Kiếm, Hà Nội) ngồi chờ đồ ăn cùng với 3 thanh niên là Nguyễn Toàn Thắng (sinh 1975, ngụ tại 66/3, Phó Đức Chính, Nguyễn Thái Bình, quận 1, thành phố Hồ Chí Minh), Nguyễn Tiến Minh (anh của Thắng, sinh 1965) và Phạm Chung Thành (sinh 1973, đối tượng sống lang thang). [75: 15] 145. Lúc đó, anh Lê Quang Hiếu (sinh 1974, ngụ 364/8A Cộng Hòa, phường 13, Tân Bình) từ quán ăn Dìn Ký đi bộ băng qua gặp Thành. [135] 146. …Cơ quan Cảnh sát điều tra nhận được rất nhiều đơn thư và điện thoại tố cáo hành vi cưỡng đoạt tài sản của một số tên (đàn em của Năm Cam) trên nhiều địa bàn ở thành phố Hồ Chí Minh… [75: 136] 147. …chủ khách sạn Minh Thắng (số 53/1 Nguyễn Khắc Nhu, Cô Giang, quận 1, thành phố Hồ Chí Minh) tố cáo Nguyễn Minh Khánh (Khánh “Bà Mì”) đến quậy phá khách sạn, yêu cầu anh Đức hàng tháng phải đưa tiền bảo kê. [75: 137] 148. Lai Em không đồng ý mà chỉ cho Khánh thu mỗi tháng 1,5 triệu vì khách sạn Minh Thắng là của Nguyễn Minh Đức (em vợ Hứa Văn Em). [75: 138] 149. Khi Tuyền về nhà mẹ đẻ ở, giấy tờ căn nhà này Tuyền gửi bà Nương (mẹ của Tuyền),… [75: 142] 150. Cụ thể là vào năm 1997, Nguyễn Thanh Tuyền và Nguyễn Thị Ngọc Xuân là con gái của bà Nương chung nhau mua căn nhà số 129/3 Lê Lợi, phường 3, quận Gò Vấp, lúc đó chìa khóa căn nhà này do Tuyền giữ (khi đó Giang và Tuyền vẫn đang sống với nhau). [75: 147] 151. Sau đó bà Nương mua lại căn nhà này và đã làm đầy đủ các giấy tờ sang tên cho bà Nương (đã thu bản photocopy giấy tờ mua bán, sang tên căn nhà này cho bà Nương). [75: 147] 152. Đến năm1999, anh Thức và Vinh mới làm xong giấy tờ hoàn công (khi đó Tuyền đã không còn ở chung với Giang tại 21/15A đường Trường Sơn nữa). [75: 148] 153. Vào năm 1998, Vinh có nhận làm cho Tuyền hồ sơ hoàn công xưởng dệt của anh Quốc (bạn của Tuyền) với giá 40 triệu đồng. [75: 148] 154. Ngoài khoản thu này thì nhóm của Minh và Thơm “đui” còn thu tiền của các xe ô tô chở cá vào chợ (gọi là tiền bến bãi)… [75: 155] 155. Lê Văn Thơm (tức Thơm “đui”) khai: đã cùng với Trần Văn Minh đi thu tiền của các ô tô cá… [75: 156] 156. Các ông Phương, Biết, Hùng (cảnh sát khu vực phụ trách tổ dân phòng) cũng xác định đã chỉ đạo cho tổ dân phòng thu khoản tiền này theo thỏa thuận với các chủ ô cá… [75: 157] 157. Căn cứ lời khai của bị can Trần Văn Minh, của Lê Văn Thơm và lời khai của người bị thấy có đủ cơ sở xác định Minh và Thơm đã cưỡng đoạt tài sản của chị Lê Thị Lắm (Năm “mọi” 7.200.000 đồng và của chị Đặng Thị Kim Nho là 2.400.000 đồng) bằng hình thức nhận bảo kê. [75: 160] 158. Lê Thị Lắm (Năm “mọi”) khai: Tâm nhiều lần vào xin tiền và xin cá, nếu xin tiền thì cho 10.000 – 20.000 đồng, nếu xin cá thì không cần có đồng ý hay không, Tâm vẫn cứ lấy (không nhớ bao nhiêu lần). [75: 167] 159. Lê Thị Hùng khai: Tâm rất nhiều lần đến xin tiền, không xin cá (không nhớ bao nhiêu lần) [75: 167] 160. Khi đến xin thì Tâm luôn nói “hôm nay muốn giết người” rồi sau đó mới xin (không nhớ bao nhiêu lần). [75: 168] 161. Năm Cam lấy một đầu mười (1/10) của mình chia lại cho Thảo, Nguyễn Văn Thọ (Thọ “đại úy”)… [75: 170] 162. Các miếng “đồng vị” được làm từ một lá bài cỡ nhỏ (bài tây 54 lá) cắt thành 4 hình tròn. [75: 170] 163. Các con bạc chọn ô (chẵn hoặc lẻ) trên chiếu bạc để đặt tiền (nếu đặt tiền với số lượng lớn thì đổi ra phỉnh). [75: 171] 164. Mỗi ngày chúng được Ba Mạnh, Sáu Nhà trả công từ 80.000 (tám mươi nghìn) đến 120.000 (một trăm hai mươi nghìn) đồng. [75: 173] 165. Do Chánh mê đánh bạc và tự tiện cho con bạc vay mượn làm thâm hụt tiền quỹ nên Hà cho Chánh nghỉ việc, giao Hòa và thị Phượng (Hòa và Phượng đều là em ruột của Thảo “ma”) thay nhiệm vụ của Chánh. [173] 166. Khoảng cuối tháng 1-2001 (hạ tuần tháng Chạp năm Canh Thìn), Nguyễn Văn Nhã bàn với Năm Cam và Nguyễn Thành Thảo tiếp tục mở sòng bạc xóc đĩa tại quận 9. [75: 175] 167. Tổng số tiền lời làm cái hàng ngày được chia làm mười phần (gọi là tiền “đầu mười”) … [75: 178] 168. Khỏang mùng 10 tết Canh Thìn (tức khoảng tháng 2-2001) Năm Cam đi Mỹ, Nguyễn Văn Nhã và Nguyễn Thành Thảo tiếp tục mở sòng bạc tại nhà Liên… [75: 178] 169. Tham gia góp vốn có Triệu Tô Hà, Tạ Đắc Lung, Trương Mạnh Long (Long “giấy”). [75: 179] 170. Tiền lời làm cái (đầu mười) được chia làm 10 phần: … [75: 182] 171. …Hùng đã giới thiệu địa điểm quán cà phê của Nguyễn Văn Nghĩa (quán 12 kinh doanh cà phê có chiếu bóng đá thu qua vệ tinh) số nhà 1102 đường Tự Lập phường 4, Tân Bình. [75: 182] 172. Bộ phận phục vụ sòng bạc gồm có các tên: Trần Thị Anh Anh (thủ quỹ), Nguyễn Hoàng Khương (lắc cái), Nguyễn Thị Kim Phượng, Nguyễn Thị Kim Hòa (giữ phỉnh đổi tiền trong sòng bạc), Vũ Thế Khải, Bùi Viết Hùng (giám sát), Tăng Văn Sên, Mã Chung Phát, Đào Thế Minh, Trịnh Chảy (hồ lỳ), Đặng Thị Bé, Nguyễn Thanh Tuấn (phục vụ ăn uống), Nguyễn Minh Tiến, Bùi Thanh Tuấn, Nguyễn Thành Hiệp (cảnh giới bảo vệ). [75: 183] 173. Tổng số phần hùn làm cái hàng ngày khoảng 1,3 tỷ (một tỷ ba trăm triệu) đồng. [184] 174. …phần còn lại chia làm 4 phần: Quốc và Năm Cam mỗi người một phần (Năm Cam chia lại phần của mình cho Nhã một phần, Thọ một phần, Năm Cam 2 phần);… [75: 184] 175. Tiền lời làm cái (đầu mười) được chia làm mười phần: Năm Cam 1 phần, Quốc 1 phần. [75: 185] 176. Còn lại 8/10 (tám đầu mười) đem chia tiếp ra làm 10 phần:… [75: 185] 177. Mặt khác Nhã cũng lấy tiền từ sòng bạc mỗi ngày 3.900.000 đồng giao cho Nguyễn Văn Thọ và Cô Đệ chi phí bảo vệ và “ngọai giao” với một số cán bộ công an phường 1, quận 8 và cảnh sát hình sự quận 8 (trong đó 3.600.000 đồng dùng để hối lộ, 300.000 đồng trả công bảo vệ canh gác vòng ngoài sòng bạc). [75: 186] 178. Sau khi sòng bạc bị bắt giữ, Anh Anh trở lại nhà Quốc mở két sắt lấy đi toàn bộ số tiền của sòng bạc (khoảng 800.000 đồng) rồi bỏ trốn, và trốn khỏi nơi giam của Nguyễn Khánh Quốc. [75: 187] 179. Trong khi đang chấp hành án phạt tù tại trại Phi Liệt (nay là trại Xuân Nguyên), Nguyễn Khánh Quốc cùng đồng bọn đánh bạc xóc đĩa, bị bắt quả tang ngày 20-11986 (việc đánh bạc do Quốc rủ rê các phạm nhân khác tham gia và chính Quốc là người chuẩn bị dụng cụ như bát, đĩa và cắt lá bài tổ tôm là đồng vị…). [75: 187] 180. Đánh bạc bằng hình thức chơi bài xập xám là sử dụng bộ bài Tây 52 lá chia ra bốn tụ, mỗi tụ 13 lá (tiếng Quảng Đông – Trung Quốc số 13 là xập xám),… [75: 188] 181. …người ngồi ngoài có thể ké (góp vốn vào mỗi tụ), các con bạc ăn thua với nhau. [75: 188] 182. Khoảng tháng 6-2000, tên VươngTử (tự Xây – việt kiều Canada, anh vợ trước của Triệu Tô Hà) cho Triệu Tô Hà biết:… [75: 188] 183. Đồng thời Xây dẫn thêm hai người bạn nữa (không rõ tên tuổi, địa chỉ) cùng đến tham gia đánh bạc. [75: 190] 184. Nhà này do tên Xây thuê làm nơi ở và tổ chức sòng bạc (Xây nhờ Nguyễn Công Hán, ngụ tại 46/12A Âu Cơ phường 9 Tân Bình đứng tên hợp đồng thuê nhà). [75: 191] 185. Vương Tử đưa hai người Hoa (không rõ tên tuổi, địa chỉ) đến đánh bạc. [75: 192] 186. Huy đồng ý và Năm Cam giao cho Nguyễn Thành Thảo và Bé Ba (Võ Thị Kim Hương) và Nguyễn Hữu Đức trực tiếp ghi sổ và thu tiền xâu. [75: 192] 187. Sòng bạc hoạt động sang ngày thứ hai (9-10-2001) thì sòng bạc xóc đĩa tại 74/18 Trần Nguyên Hãn, phường 13, quận 8 bị bắt, … [75: 193] 188. Trong thời gian quen biết, Năm Cam thường xuyên mời anh Ba Tung (tức Phan Thanh, trưởng phòng Cảnh sát hình sự Công an thành phố Hồ Chí Minh) và Dương Minh Ngọc đi ăn nhậu. [75: 193] 189. Lúc này, Năm Cam đã đi cải tạo về (tháng 10-1987) tiếp tục chủ động tìm gặp Dương Minh Ngọc để củng cố mối quan hệ đã có từ trước. [75: 194] 190. Đến khoảng giữa năm 1998, mối quan hệ giữa các tên Năm Cam, Nguyễn Thành Thảo (Thảo “ma”), Dương Ngọc Hiệp (Hiệp “phò mã”) và Dương Minh Ngọc trở nên thân thiết. [194] 191. Khi sòng bạc hoạt động Ngọc biết nên đã giao nhiệm vụ cho Võ Văn Tâm (Đội trưởng Đội chống tệ nạn xã hội Phòng Cảnh sát hình sự) lên phương án bắt. [75: 194] 192. Lần 1 nhận 5 triệu đồng tại tầng 10 nhà hàng khách sạn trên đường Hàm Nghi, lần 2 nhận 5 triệu đồng tại quán trên đường Cách Mạng Tháng Tám (không nhớ rõ địa chỉ). [75: 195] 193. …Dương Minh Ngọc đã cố ý làm ngơ, bao che cho Năm Cam mở sòng bạc ở quận 8, được Năm Cam cho 10 triệu đồng, trả tiền ăn nhậu (lợi ích vật chất khác) 6 triệu đồng, tổng cộng là 16 triệu đồng. [75: 195] 194. Tại nhà hàng Cánh Buồm (số 127 Pasteur, phường 6, quận 3, thành phố Hồ Chí Minh), Năm Cam cho Minh Ngọc hùn vốn 100 triệu đồng, … [75: 196] 195. Tại nhà hàng Ra Khơi (số 5 công trường Mê Linh, phường Bến Nghé, quận 1, thành phố Hồ Chí Minh), Năm Cam cho Ngọc hùn 100 triệu đồng. [75: 196] 196. Tại nhà hàng Thanh Vy (số 146, Nguyễn Văn Trỗi, phường 8, Phú Nhuận), Năm Cam cho Minh Ngọc hùn 7000 USD (tương đương 100 triệu đồng). [75: 197] 197. Minh Ngọc đồng ý và điện thoại gặp ông Hoàng Mai (Trưởng phòng Cảnh sát hình sự Công an Đồng Nai) trao đổi về việc đối tượng Tạ Đắc Lung ra đầu thú. [75: 198] 198. …Minh Ngọc đưa lá thư này cho Thảo, Thảo đưa cho Lý “Đôi” mang lên Đồng Nai đưa cho một cán bộ không rõ tên nhờ chuyển cho ông Mai, nhưng Dương Minh Ngọc khai đưa thư cho một cán bộ Phòng PC 14 Công an thành phố Hồ Chí Minh (không nhớ tên) chuyển cho ông Mai. [75: 198] 199. …Năm Cam khai đã khấu trừ 4 tuần tiền xâu của Lý “Đôi” ở sòng bạc quận 8 (nơi Lý “Đôi” góp vốn cùng Năm Cam mở sòng bài) khoảng 14 triệu đồng. [75: 199] 200. Ngày 24-9-1992, Sau ba tháng Ngọc mới chỉ đạo cho Trương Công Hớn (Đội phó săn bắt cướp) soạn thảo công văn gửi cho PC14 Hải Phòng đề nghị xác minh lai lịch tên Quốc… [75: 200] 201. Theo lời khai của Trần Văn Thuyết và Năm Cam, Thuyết dẫn Năm Cam đến nhà ông Cao Huy Phước (cán bộ về hưu) ở 111 Hàng Bông, Hoàn Kiếm, Hà Nội. [75: 202] 202. Năm Cam đã mua vé máy bay ra Hà Nội nhờ Thắng “Tài Dậu” dẫn đến nhà Trần Văn Thuyết ở số 91 Nguyễn Thái Học, Hà Nội để nhờ Thuyết lo chạy giúp (vì biết Thuyết có quen nhiều cán bộ ở các cơ quan pháp luật, các cơ quan báo chí ở trung ương). [75: 202] 203. …đồng thời gia đình phải viết đơn (kêu oan) cho Năm Cam, do Trúc đứng tên… [75: 205] 204. …Hiệp “phò mã” và gia đình sử dụng số tiền một tỉ đồng trước đây đã thế chấp căn nhà 191, Lý Tự Trọng, phường Bến Thành, quận 1, thành phố Hồ Chí Minh, cho Ngân hàng Sài Gòn công thương – chi nhánh Thái Bình (số tiền này trước khi Năm Cam bị bắt tập trung cải tạo đã chuẩn bị trả, vì vậy, đã gia hạn từ sau khi Năm Cam bị bắt tập trung cải tạo năm 1995, đến tháng 2-1998 đã trả xong). [75: 206] 205. Năm 1985, Năm Cam và gia đình (Phan Thị Trúc và Hiệp “phò mã”) có nhờ Thuyết lo “chạy tội” cho Năm Cam. [75: 206] 206. Trong thời gian này ông quen biết Trần Văn Thuyết (trước khi đó ông Hạnh không quen biết Thuyết) [75: 208] 207. Thực tế, ông Trần Mai Hạnh với danh nghĩa là tổng biên tập báo Nhà báo và Công luận đã cho đăng 2 bài báo theo yêu cầu của Thuyết (bài “Về đơn khiếu nại của bà Phan Thị Trúc” và bài “Viện kiểm sát nhân dân Tối cao kiến nghị về trường hợp tập trung cải tạo đối với Năm Cam”). [75: 210] 208. Thuyết chuẩn bị 1 phong bì bên trong bỏ 1000USD (loại 100USD). [75: 213] 209. …Ông Nguyễn Hữu Ngọc (cán bộ Cục Canh sát hình sự) thu giữ, sử dụng điện thoại di động của gia đình Năm Cam gây thiệt hại gần 20 triệu dồng. [75: 212] 210. Do đó, ông Hạnh đã lấy chiếc Omega của Thuyết (trị giá 2500 USD),… [75: 213] 211. Hôm đó ông Hạnh đến nhà Thuyết ăn cơm trưa, khi ăn xong ông Hạnh ra về, Hiệp chạy theo bỏ phong bì có 1000 USD vào túi áo vét của ông Hạnh (Thuyết khai thời điểm này là sau khi ông Hạnh cho đăng báo kêu oan cho Năm Cam). [75: 213] 212. …Thuyết đặt vấn đề lắp cho ông Hạnh một dàn máy nghe nhạc nhưng đến năm 1999 thì Thuyết mới lắp (dàn máy gồm 1 tivi 21 inch, 1 đầu video, 1 âmly, 2 loa thùng, loại hàng của Nhật),… [75: 214] 213. Việc đưa, nhận hối lộ này lại phù hợp với những việc làm mà ông Hạnh đã làm cho Thuyết và Hiệp – làm theo yêu cầu của người đưa hối lộ (ông Hạnh cho đăng 2 bài báo trên và có 2 công văn hỏi Viện kiểm sát nhân dân Tối cao về việc của Năm Cam), do đó có căn cứ xác định. [75: 215] 214. Năm 1996, bị can Dương Ngọc Hiệp lấy chiếc đồng hồ Rolex của Năm Cam sử dụng (do người bạn của Năm Cam cho)… [75: 215] 215. …ông Hạnh lấy chiếc đồng hồ Omega (trị giá 2.500 USD) của Thuyết để sử dụng, còn chiếc đồng hồ Rolex thì Thuyết sử dụng (việc này cả bị can Trần Văn Thuyết và Dương Ngọc Hiệp đều biết và khai nhận hoàn toàn khớp với nhau). [75: 216] 216. Hiện nay ông Hạnh đã trả Thuyết 40 triệu đồng, còn thiếu 100 triệu (nguồn tiền nàyThuyết khai là của Dương Ngọc Hiệp). [75: 216] 217. …bị can Dương Ngọc Hiệp khai trong 2 năm 1995 và 1996, Hiệp đưa cho ông Hạnh 2 lần tiền tại nhà riêng của Thuyết (91, Nguyễn Thái Học, Điện Biên, Ba Đình, Hà Nội),… [75: 216] 218. …ông Hạnh chỉ nhận 2 bộ vest mới và quần áo sơ mi, một số bộ đầm cho vợ ông Hạnh (ông Hạnh không biết giá trị Thuyết mua là bao nhiêu). [75: 217] 219. Cơ quan Cảnh sát điều tra Bộ Công an yêu cầu ông Hạnh trình bày về việc ai là người thu thập nội dung công văn trên, ai là người ở Viện Kiểm sát nhân dân Tối cao cung cấp công văn số 1333 thì ông Hạnh không trả lời được và xin hoàn toàn chịu trách nhiệm về việc này (vì công văn của Viện Kiểm sát nhân dân Tối cao trả lời ông Hạnh không nêu cụ thể nội dung văn bản số 1333, trong khi đó bài báo lại nêu rất chi tiết văn bản này). [75: 219] 220. Một tấm ảnh khác chụp có bà Phạm Thị Chức (vợ ông Chiến), ông Phạm Sỹ Chiến, anh Vũ Văn Mão (lái xe cho Thuyết), vợ chồng anh Thành (giám đốc khách sạn Mai Anh). [75: 220] 221. Ngày 19-8-1996, ông Phạm Sỹ Chiến đã ký văn bản số 1333/KSĐT – TA để kiến nghị ông Bộ trưởng Bộ Nội vụ hủy bỏ quyết định tập trung cải tạo số 73 ngày 20-5-1995 của Ủy ban nhân dân thành phố Hồ Chí Minh đối với việc tập trung cải tạo Năm Cam (cần lưu ý là văn bản số 1333 đóng dấu “mật” và chỉ sao gửi cho Văn phòng Quốc Hội, Văn phòng Chủ tịch nước và Văn phòng chính phủ. Hiện nay chưa làm rõ được vì sao ông Hạnh lại có văn bản này để đăng báo). [75: 226] 222. Ngày 26-12-1996, Bộ Nội vụ có văn bản số 1117 gửi Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân Tối cao phúc đáp kiến nghị số 1333 với nội dung khẳng định: Năm Cam là một đối tượng rất nguy hiểm đến an ninh trật tự, bắt tập trung cải tạo đúng tiêu chuẩn, đúng đối tượng; không có căn cứ để hủy bỏ quyết định tập trung cải tạo một tên trùm lưu manh là Năm Cam, làm ngơ trước các tài liệu quan trọng do Thủ tướng chỉ đạo và nhiều công văn và tài liệu của Cơ quan chức năng trao đổi (phải chăng, tất cả những cái đó không đáng tin cậy bằng “lời kêu cứu” của vợ con tên trùm lưu manh hay sao). [75: 227] 223. Tại buổi làm việc ngày 26-6-2002, do Ủy ban Kiểm tra Trung ương tổ chức (có lãnh đạo Cơ quan Cảnh sát điều tra và điều tra viên cùng tham dự), ông Chiến đã thừa nhận: Đến nay thấy tài liệu (1995) để tập trung cải tạo đối với Trương Văn Cam là quá đủ (có khi còn thừa)… [227] 224. Ngoài ra, ngày 30 Tết nguyên đán 1996, vợ chồng ông Chiến đến nhà Thuyết (91, Nguyễn Thái Học) ăn tất niên… [275: 28] 225. Bà Phạm Thị Chức khai: Việc nhờ Thuyết mua dàn máy nghe nhạc là do Phạm Thị Hòa (con gái bà Chức đang du học tại Anh) đặt vấn đề với Thuyết. [75: 230] 226. Sau khi Thuyết đem dàn máy đến lắp ráp cho gia đình thì bà Chức trả cho Thuyết khoảng 6-7 triệu đồng (bà Chức không nhớ cụ thể là bao nhiêu) [75: 230] 227. Khi cơ quan Điều tra Bộ công an hỏi “dàn máy hiện nay để ở đâu” thì bà Chức khai “mất hết, chỉ còn lại 1 chiếc tivi 21 inch” do chuyển nhà; lúc thì khai “hiện vẫn còn đầy đủ dàn máy trên, để ở nhà” (tổ 28, cụm 4, Xuân La, Tây Hồ, Hà Nội). [75: 231] 228. Sau khi Năm Cam bị bắt (tháng 12-2001), ông Chiến đã kiểm tra, nghiên cứu tài liệu… [75: 231] 229. … Thuyết chuẩn bị một túi quà gồm rượu, trái cây và phong bì 10 triệu đồng tiền Việt Nam (trị giá 1000 USD). [75: 228] 230. Thuyết trực tiếp đưa túi quà trên cho bà Phạm Thị Chức để biếu ông Chiến (ông Chiến không có nhà). [75: 228] 231. Việc này do vợ con làm, ông Chiến không biết (ông Chiến đi công tác phía Nam). [75: 232] 232. Cho đến nay, các cơ quan chức năng có thẩm quyền của Đảng và Nhà nước (cụ thể là Ban cán sự Đảng của Viện Kiểm sát nhân dân Tối cao) đã tiến hành thẩm định lại hồ sơ tập trung cải tạo Năm Cam năm 1995… [75: 233] 233. Ngày 14-8-1995, ông Đặng Chung viết báo cáo kết quả việc trên với lãnh đạo Viện Kiểm sát nhân dân Tối cao (bản viết tay)… [75: 235] 234. Ông Đạo nói là đơn gửi cho ông Cường (thư ký riêng của ông Đạo). [75: 238] 235. Từ đó đến tháng 3-1997 (khi vụ án Epco xảy ra), Liên Khui Thìn đã cho Hoàng Linh tiền rất nhiều (không nhớ số lần cụ thể) … [75: 252] 236. …cho tới khi Thìn bị bắt (đầu năm 1997), Hoàng Linh đã được Liên Khui Thìn cho một điện thoại di động Erisson và nhiều lần cho tiền… [75: 253] 237. Vào khoảng năm 1998, Hoàng Linh đã viết một bài báo về việc nhập khẩu hàng hóa có lợi cho công ty XNK Nông sản, tiểu thủ công nghiệp Vũng Tàu (SHINHANCO). [75: 255] 238. Sau khi vụ án Trung sĩ Phan Lê Sơn xảy ra, Ban chuyên án và Ban giám đốc (ông Võ Văn Măng) đã nhiều lần chỉ đạo các đơn vị và Cơ quan điều tra… [75: 258] 239. Trong quá trình làm giám đốc Công an thành phốHồ Chí Minh (từ tháng 4-1996 đến tháng 7-2001)…ông Bùi Quốc Huy (Năm Huy) đã thiếu chỉ đạo, thiếu biện pháp điều tra có hiệu quả để phạm tội có tổ chức xảy ra trong thời gian dài, gây hậu quả đặc biệt quan trọng…[75: 260] 240. Ông Năm Huy chỉ đạo thành lập chuyên án và giao cho ông Võ Văn Măng (tự Út Măng, phó giám đốc phụ trách cảnh sát) làm trưởng ban và một số phòng ban nghiệp vụ tham gia. [75: 262] ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfLA7508.pdf
Tài liệu liên quan