Đảm bảo nguồn nguyên liệu bông tự nhiên trong nước cho công nghiệp dệt may

Lời mở đầu Bước vào thế kỉ 21 thế giới đang bước vào thời đại của hội nhập , quốc tế hoá sâu sắc cùng nền kinh tế tri thức và khoa học công nghệ hiện đại , Đảng và Nhà nước nhận thức rõ về xu thế chung này của thời đại…Gia nhập WTO, Việt Nam đã chính thức ghi tên mình vào sân chơi bình đẳng của nền kinh tế thế giới, đó là cơ hội cũng chính là thách thức cho nền kinh tế Việt Nam...Ngành công nghiệp dệt may, cùng với dầu thô là một trong hai ngành hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam, đóng góp lớ

doc31 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1341 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Đảm bảo nguồn nguyên liệu bông tự nhiên trong nước cho công nghiệp dệt may, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
n cho ngân sách quốc gia, tạo 2 triệu việc làm cho người lao động của đất nước, với tư cách đó ngành công nghiệp dêt may càng phải chịu nhiều áp lực hơn. Để tồn tại và phát triển, các doanh nghiệp dệt may Việt Nam buộc phải nâng cao sức cạnh tranh của mình bằng nhiều cách. Đối với nền công nghiệp đang phải nhập khẩu hầu hết nguyên liệu, thì viêc đảm bảo nguồn nguyên liệu nội địa- chủ yếu là bông xơ là 1 vấn đề cấp bách được các nhà sản xuất và lãnh đạo ngành dệt may, cũng như các nhà hoạch định chính sách quan tâm . Đó vừa là yêu cầu bắt buộc, vừa là mục tiêu mà ngành dệt may cần thực hiện trong “Chiến lược tăng tốc đến năm 2010”. Với tầm quan trọng như vậy em xin chọn đề tài “Đảm bảo nguồn nguyên liệu bông tự nhiên trong nước cho công nghiệp dệt may” với mong muốn được tìm hiểu về một ngành kinh tế mũi nhọn của đất nước. Đề án của em gồm 3 phần: Phần 1: Sơ lược về cây bông với vai trò là nguyên liệu cho ngành dệt may Phần 2: Những nhân tố ảnh hưởng đến ngành trồng bông Phần 3: Thực trạng của việc phát triển bông tự nhiên trong nước những năm qua - Giải pháp và kiến nghị. Em xin chân thành cảm ơn PGS.TS.Vũ MinhTrai, người đã trực tiếp hướng dẫn và các thầy cô cùng các bạn đã giúp em hoàn thành đề án này. Phần I: Sơ lược về cây bông với vai trò là nguyên liệu cho ngành dệt may 1. Vài nét về cây bông Cây bông thuộc dòng họ Malvaceae, chi Gossypium, là cây trồng lấy sợi rất quan trọng. Nó cung cấp nguyên liệu dệt vải mặc cho con người. Ngoài việc trồng chủ yếu để lấy xơ, hạt bông còn được dùng làm dầu ăn cho người và gia súc, thân cây bông làm nguyên liệu cho công nghiệp giấy, gỗ ép, làm chất đốt và làm phân xanh. Có thể nói cây bông là một cây công nghiệp có hiệu quả kinh tế và đem lại lợi nhuận cao cho một số nước trồng bông lớn trên thế giới như Liên Xô (cũ), Mỹ, Trung Quốc, Ân Độ, Pakistan…Hiện nay ở Việt Nam cây bông đang được Nhà nước rất quan tâm đầu tư phát triển. 1.1. Đặc điểm của cây bông. - Đặc điểm của hạt bông Hạt bông có hình bầu dục nhọn một đầu, hạt bông đã chín thì hạt màu đen hoặc nâu đen rất cứng. Hạt bông chưa chín thì vỏ hơi mềm có màu hồng, màu nâu, màu vàng, có khi có màu trắng. Hạt bông bao gồm: Lông áo, vỏ, nhân (nội nhũ, phôi). Phần ngoài của vỏ hạt là xơ bông (có 2 loại: xơ ngắn và xơ dài). Sau khi cán bông hạt (hạt bông đang còn xơ bám) lấy xơ dài để lại xơ ngắn bám trên vỏ hạt, xơ ngắn này người ta còn gọi là lông áo vỏ hạt. Màu sắc của sơ ngắn thay đổi tuỳ theo giống bông, có màu trắng, màu tro, màu nâu vàng.Hiện nay trong công nghệ sản xuất hạt giống người ta thường khử bỏ lớp lông áo trên vỏ hạt để tạo điều kiện cho hạt nảy mầm được dễ dàng, đồng thời khử mồng mống sâu bệnh. Thành phần hoá học của hạt bông bao gồm: Protein: 21,7% MgO : 0,54% CaO : 0,2% N : 3,0% Gluxit : 45,6% Lipit : 21,4% P2O5 : 1,1% K2O : 3,96% Ro : 3,96% Khối lượng của hạt bông là một chỉ tiêu rất quan trọng để đánh giá chất lượng hạt giống, khối lượng 100 hạt của các hạt giống bông luồi từ 8-10 gam, các giống bông lai 10-13 gam. Trong cùng một loài, giống chín sớm hạt thường nhỏ hơn giống chín muộn. Trên cùng một cây thì quả gần gốc, gần thân chính có hạt nặng hơn. - Giai đoạn ngủ nghỉ, nảy mầm của hạt bông: Hạt bông khi mới thu hoạch thường có sức nảy mầm kém, vì lúc này trong vỏ hạt còn tồn tại một số chất như: Acid Absisic và Paracumaric làm cản trở sự nảy mầm của hạt. Do vậy hạt giống bông cần có một thời gian ngủ nghỉ nhất định sau khi thu hoạch. Trong thời gian ngủ nghỉ hạt bông phải được phơi khô, bảo quản trong điều kiện thích hợp để làm giảm hàm lượng các acid này xuống và tạo điều kiện tốt cho hạt nảy mầm. Hạt bông thường chứa 7% nước, với lượng nước này trong điều kiện 20-32 độ C thì sự nảy mầm có thể bảo quản được đến thứ 28. Nếu độ ẩm hạt 14%, ở nhiệt độ 21 độ C thì sau 17 tháng sẽ hoàn toàn mất khẳ năng nảy mầm, ở nhiệt độ 32 dộ C thì sau 4 tháng khả năng nảy mầm mất hoàn toàn.Nguyên nhân làm mất khẳ năng nảy mầm là do độ ẩm trong hạt cao, kết hợp với sự tăng nhiệt độ môi trường dẫn đến sự giảm đột ngột hàm lượng đường, phôtpho, các nuclêotit, protêin, các vitamin và sư tăng lên của các acid béo tự do trong hạt. 1.2. Các giai đọan phát triển của cây bông. - Giai đoạn nảy mầm Giai đoạn này xúc tiến từ 4-7 ngày tính từ khi hạt giống bông hút đủ nước cho tới khi xoè hai lá mầm. Muốn cho hạt mọc nhanh, mọc đều, cần phải có các điều kiện cơ bản sau: nhiệt độ, độ ẩm và oxy. +Nhiệt độ: Khi hạt bông đã đủ ẩm rồi thì nhiệt độ càng cao, hạt nảy mầm càng nhanh. Nhiệt độ tốt nhất cho quá trình nảy mầm là 25-30 độ C và trên 40 độ C hạt gần như không mọc. +Độ ẩm : Độ ẩm của đất thích hợp nhất cho quá trình nảy mầm là 90%. + Oxy : Rất cần cho quá trình nảy mầm, trong điều kiện đất nặng gieo xong gặp mưa, đất đóng váng, không khí không lưu thông được hạt sẽ không mọc. Khi gieo hạt phải đảm bảo độ ẩm thích hợp, làm đất nhỏ vừa phải, độ sâu thích hợp, độ nén đất vừa phải thì hạt mới nảy mầm mọc đều được. - Giai đoạn cây con: Giai đoạn này tính từ khi xoè hai lá mầm đến khi có nụ đầu tiên, khoảng 24-36 ngày. ở giai đoạn này rễ được ưu tiên phát triển nhiều nhất. Bông giai đoạn cây con rất mẫn cảm với điều kiện ngoại cảnh, do vậy việc chăm sóc bông giai đoạn cây con hết sức quan trọng, nó ảnh hưởng rất lớn tới sinh trưởng phát triển, cho năng suất bông hạt sau này. Các biện pháp kỹ thuật cần chú ý trong giai đoạn này là : Tỉa định cây kịp thời. Làm cỏ và xới xáo sớm. Cung cấp dinh dưỡng sớm. Tưới nước khi cần thiết, không được để bông bị úng nước. - Giai đoạn nụ: Giai đoạn này tính từ khi xuất hiện nụ đầu tiên cho tới khi có hoa nở đầu tiên nở, thời gian từ 20-25 ngày. Nụ bông do mầm hoa phân hoá từ mầm hỗn hợp mà thành. Mầm hoa là do ở mỗi đỉnh của đốt trên cành quả phát dục thành. Cây bông từ lúc ra nụ cho đến khi quả chín nở hai quá trình sinh trưởng dinh dưỡng và sinh trưởng sinh thực luôn chồng chéo nhau, tức là cùng một lúc vừa ra cành lá, vừa ra hoa, quả cứ thế liên tục. Quan hệ giữa sinh trưởng dinh dưỡng và sinh trưởng sinh thực là quan hệ thúc đẩy lẫn nhau. Sinh trưởng dinh dưỡng (thân, lá, cành) tốt sẽ cung cấp vật chất cần thiết cho sự ra nụ, hoa và thành quả. Nếu cây còi cọc (sinh trưởng dinh dưỡng kém) thì chất hữu cơ tạo ra trong cây không đủ, gây trở ngại cho việc ra nụ, nở hoa và kết trái. Trong trường hợp cây sinh trưởng quá mạnh, chất dinh dưỡng tiêu phí chủ yếu cho thân, lá, cây bông trở thành “bốc lá”, không đáp ứng đầy đủ yêu cầu của ra nụ, hoa, quả. Do vậy cần phải chú ý điều tiết cây bông sinh trưởng, phát triển cân đối để đạt được năng suất bông cao. - Giai đoạn hoa nở rộ: Giai đoạn này tính từ khi cây có hoa đầu tiên nở cho tới khi có quả đầu tiên nở, thời gian 55-60 ngày. Hoa bông thuộc loại hoa hoàn toàn, bao gồm tai hoa, đài hoa, tràng hoa, nhị đực, nhuỵ cái. Hoa bông là hoa lưỡng tính, tự hoa thụ phấn là chính, ngoài ra có khoảng 2-12% số hoa thụ phấn từ hoa ngoài (do côn trùng). Tai hoa bông hình tam giác, hoa có ba tai. Đài hoa do năm lá đài hợp thành vây lấy tràng hoa. Nhị bông có 60-90 chỉ thị, trên đầu mỗi chỉ thị có bao phấn, trong bao phấn có nhiều hạt phấn, hạt phấn hình cầu, bề mặt có nhiều gai . Nhụy hoa bông bao gồm đầu nhụy, trụ và bầu, bầu có 3-5 vách ngăn, trong mỗi vách ngăn có 7-11 noãn, noãn sau này sinh trường thành hạt bông. Hoa bông thường nở từ 7-9 giờ sáng, những ngày nhiệt độ cao hoa nở sớm, nhiệt độ thấp hoa nở muộn. Hoa nở buổi sáng có màu trắng, về chiều hoa chuyển qua màu hồng, sang ngày thứ hai có màu hồng tía. Hoa bông nở theo trình tự từ dưới lên trên, từ trong ra ngoài. Hoa ở vị trí 1 của cành thứ nhất nở cách hoa ở vị trí 1 cành thứ 2 từ 1-2 ngày.Trong cùng một cành, hoa ở vị trí 1 nở cách hoa ở vị trí 2 từ 5-6 ngày. Thời gian cây bông ra hoa có thể kéo dài tới 2 tháng, nhưng cũng có thể 1 tháng tuỳ theo giống hoặc tác động các biện pháp kỹ thuật (điều tiết nước, phân bón, trừ sâu tốt). Điều tiết làm cho bông ra hoa nở quả sớm tập trung là một biện pháp kỹ thuật rất tốt để né tránh những lứa sâu hại. Chú ý trong giai đoạn từ khi hoa bắt đầu nở cho đến khi hoa nở rộ, hình thành quả là thời kì nhựa lưu thông mạnh, nhựa sống được hút từ đất qua rễ lên cành lá, nuôi nụ, hoa, quả. Do vậy thời kì này phải cung cấp dinh dưỡng, tưới nước, tiêu úng (nếu ngập mưa) kịp thời, tạo ruộng bông thông thoáng, tạo điều kiện cho cây quang hợp, đồng thời cho quá trình thụ tinh và hình thành quả, Đặc biệt cảnh giác với các loại cây đục quả. - Giai đoạn quả nở: Hoa bông sau khi được thụ phấn tốt, đài không rụng thì quả bông được lớn dần. Quả bông thuộc loại quả nang, do 3-5 lá noãn hợp thành, mỗi lá noãn chiếm một phần của quả bông. Vỏ quả bông có chứa diệp lục nhưng ít,khi quả bông lớn lên và chín, vỏ quả từ màu lục biến thành màu nâu. Khi quả già thành thục hoàn toàn, vỏ quả mất nước, co lại, nứt ra, để phơi những múi bông, xơ bông khô và nở phồng lên. Lúc thu hoạch, chỉ rút các múi bông hạt ra. Giai đoạn quả nở rất cần nắng, nắng nhiều quả già mau nở. Trong giai đoạn này nếu trời mưa nhiều, độ ẩm không khí cao, quả sẽ bị thối, ảnh hưởng tới năng suất bông hạt và chất lượng xơ bông. 2.Cây bông nguyên liệu quan trọng cho ngành dệt may: Ngành dệt may Việt Nam trong những năm qua đã có bước tiến đáng kể,tốc độ tăng trưởng cao, tạo được công ăn việc làm cho 2 triệu lao động trực tiếp và hàng vạn lao động gián tiếp trong sản suất nguyên liệu như trồng bông, trồng dâu nuôi tằm. Thế nhưng việc sản xuất nguyên liệu lại chưa được chú trọng đúng mức đã ảnh hưởng không nhỏ đến sứ phát triển của ngành trong thời gian qua. Đây quả là một nghịch lý đối với một quốc gia nông nghiệp có ngành dệt may đã trở thành ngành nghề truyền thống từ hàng nghìn năm nay như Việt Nam. Đối với Việt Nam, nguyên liệu phục vụ cho ngành dệt có rất nhiều loại như bông xơ, tơ, sợi…Trong đó, người ta thường nhắc đến hai loại nguyên liệu chủ yếu quyết định, quan trọng cho sự phát triển của ngành dệt may Việt Nam, đó là bông xơ và tơ tằm. Việc nhập khẩu hầu hết nguyên liệu là một trong những nguyên nhân khiến cho giá hàng dệt may Việt Nam cao hơn của các nước trong khu vực từ 10%-20%, riêng với Trung Quốc khoảng 20%. Gia nhập WTO, hàng dệt may Việt Nam phải cạnh tranh gay gắt trên sân nhà với sản phẩm của các nước, đặc biệt là Ân Độ và Trung Quốc. Việc cắt giảm chi phí và củng cố lại sản xuất có thể chưa đủ để gia tăng khả năng cạnh tranh của một nền công nghiệp đang thiếu nguồn nguôn liệu nội địa. Các nhà sản xuất ngành dệt may Việt Nam phải nhập khẩu hầu hết nguyên liệu, trong khi Trung Quốc có thể tìm nguồn cung ngay tại trong nước.Đảm bảo nguồn nguyên liệu trong nước, trong đó có nguồn nguyên liệu bông xơ tự nhiên là một vấn đề cấp bách đặt ra cho ngành dệt may Việt Nam 3. Tiềm năng của cây bông: Có thể nói cây bông vừa là cây trồng truyền thống, vừa là cây trồng mới ở nước ta. Là cây truyền thống bởi vì nó đã có từ lâu đời . Cho đến nay , nghề trông bông dệt vải, dệt thổ cẩm rất phổ biến trong cộng đồng các dân tộc ít người ở vùng núi các tỉnh phía Bắc, đồng bào Chăm ở Duyên Hải miền Trung và đồng bào Khơ Me ở Nam Bộ. Ngày nay khi nền công ngiệp tơ, sợi nhân tạo trên thế giới đang thống lĩnh các sản phẩm may mặc của con ngưòi thì ở các nước phát triển xu thế dùng vải mặc từ bông từ bông tự nhiên bắt đầu xuất hiện và tăng cao bởi tính ưu việt của sợi bông thiên nhiên mà các loại sợi tổng hợp không có được. Loài người văn minh lại trở về với sản phẩm may mặc truyền thống. Cây bông là cây trồng mới bởi vì dưới giác độ bông công nghiệp, lượng xơ bông sản xuất trong nước cung cấp cho ngành dệt ở nước ta còn quá ít so với tiềm năng đất đai và nhu cầu nguyên liệu. Diện tích trồng bông ở tập trung của nước ta hiện nay khoảng 15-17 ngàn ha, sản lượng bông hàng hoá trong nước chỉ chiếm khoảng 10% nhu cầu hiện tại, thị trường tiêu thụ bông trong nước rộng lớn, hiện nay đang giành cho nước ngoài. Từ sau ngày đất nước thống nhất, Đảng và Nhà Nước đã rất quan tâm đến việc phát triển cây bông. Tuy nhiên cây bông đã trải qua nhiều thăng trầm và chỉ những năm gần đây các kết quả nghiên cứu, thực nghiệm, sản xuất thử của ngành bông mới phần nào phản ánh đúng tiềm năng và hiệu quả của cây bông vải Việt Nam. Nói cây bông có tiềm năng to lớn ở nước ta bởi vì : + Cây bông vải vừa là cây dài ngày, vừa là cây hàng năm có rất nhiều ưu thế trên nhiều mặt kể cả trồng trọt, chế biến và sử dụng. Hơn nữa bông vải là cây trồng không kén đất. Các loại đất nâu, đen, sỏi cơm, đất bazan trung tính, đất xám phát triển trên đá granit, đất xám vùng bán khô hạn và đất vùng phù sa cổ có tầng dày trên dưới 1m đều có thể trồng bông. Nhờ vậy có thể tận dụng được nhiều loại đất để trồng xen, trồng gối với nhiều loại cây ngắn ngày, hoặc trồng trong các vườn cây lâu năm, dài ngày (như cà phê, cao su, điều) trong thời kì kiến thiết cơ bản. Chính vì vậy việc phát triển cây bông không tranh chấp với các cây trồng khác. + Cây bông hành năm được trồng vào vụ mưa (vụ 2) nên đã tận dụng được thời vụ gieo trồng và sử dụng đất triệt để hơn bằng phương pháp trồng gối vụ và trồng xen. Bằng cách trồng bắp lai xen đậu vụ 1, gối bông vào bắp trước khi thu hoạch 15-20 ngày, ở vụ 2 có thể xen đậu vào bông tạo nên một mô hình canh tác hợp lý, tăng thu nhập lên 2 lần so với bắp xen đậu, hoặc tăng 1,5 lần so với bắp vụ 1 và bông thuần vụ 2. +Trồng bông còn có một lợi thế nữa là tận dụng lao động nông nghiệp mùa khô ở những vùng trồng trọt nhờ nước trời. Nhờ đặc tính vừa sinh trưởng vừa ra hoa kết quả kéo dài của cây bông, vì vậy thời vụ thu hoạch bông kéo dài hơn các cây trồng khác từ 30 -50 ngày, là lúc mà lao động nông nhàn không có việc làm. Chưa kể là việc chế biến bông kéo sợi, dệt vải là những ngành nghề sử dụng lao động rất cao. Vì vậy có thể nói cây bông là cây trồng giải quyết việc làm. Vấn đề này ở một nước đông dân như nước ta cần được đặt lên hàng đầu. + Những năm gần đây do sinh thái, khí hậu toàn cầu biến đổi có nhiều bất lợi, cùng với tình trạng chặt phá rừng nên tình trạng hạn hán thường xuyên xảy ra đã gây nhiều thảm hoạ và thất thoát mùa màng, nhất là đối với cây trồng cạn. Nhờ đặc tính chịu hạn của cây bông, đặc biệt là giống bông lai ngay cả thời kì cây con. Nếu không có mưa 25- 30 ngày cây bông chỉ sinh trưởng chậm hoặc dừng sinh trưởng phát triển chứ không chết như bắp, đậu. Khi mùa mưa trở lại cây bông tiếp tục ra hoa, kết trái và vẫn cho năng suất. Chính vì vậy việc đưa cây bông vào cơ cấu cây trồng được coi là một biện pháp chống hạn hiệu quả. + Các kết quả nghiên cứu và chuyển giao các tiến bộ kỹ thuật của ngành bông vào sản xuất trong những năm gần đây đã giải quyết hai vấn đề hết sức quan trọng, tạo tiền đề vững chắc để phát triển mạnh mẽ bông vải. + Cây bông là cây trồng tạo ra nguyên liệu thay thế nhập khẩu cho nên có thể coi việc trồng bông là tạo ra ngoại tệ từ nội bộ kinh tế. Nếu cứ trồng bông 1 ha thì với năng suất bình thường như hiện nay thì thu hồi bông xơ 750 USD và từ hạt bông 100 USD. + Cây bông là là cây trồng có giá trị sử dụng cao: Ngoài xơ bông là sản phẩm chính để dệt vải, bông vệ sinh, y tế…., dầu từ hạt bông là sản phẩm có giá trị dinh dưỡng và có nhiều ưu thế trong chế biến thực phẩm tốt hơn các dầu thực vật khác (nhờ có nhiệt độ sôi cao hơn) và được rất ưa chuộng ở một số thị trường trên thế giới : Nhật Bản, Malaixia, Lào,…Khô dầu bông là sản phẩm làm thức ăn tinh cho gia súc, gia cầm có hàm lượng protein cao (47%), đặc biệt đối với bò sữa có hiệu suất năng suất sữa so với thức ăn khác 1,5 lần. Ngoài ra thân cây bông và vỏ hạt bông có hàm lượng cellulo cao có thể làm giấy, tấm cách nhiệt, ván hoặc làm chất đốt. Như vậy có thể nói đất nước ta có thể trồng được bông và tiến tới tự túc nguyên liệu dệt trong nước. Việc trồng bông đem lại lợi ích rất nhiều mặt. Tuy nhiên hiện nay cây bông còn chưa được chú ý quan tâm của các ngành, các cấp và các địa phương. Để đạt được mục tiêu phát triển bông đến năm 2010 mà Chính Phủ đã đề ra, cần thiết phải quy hoạch vùng nguyên liệu, các chính sách đầu tư cơ sở hạ tầng cho sản xuất, chế biến gắn với nguồn nguyên liệu, cũng như tăng cường công tác khuyến nông, hỗ trợ công tác nghiên cứu khoa học và chuyển giao các tiến bộ khoa học kỹ thuật trong những bước đi ban đầu nhằm đưa cây bông hội nhập vào cơ cấu cây trồng nông nghiệp ngày nay. PhầnII: Những nhân tố ảnh hưởng đến ngành trồng bông Ngành trồng bông là 1 ngành sản xuất cây công nghiệp chịu ảnh hưởng của nhiều nhân tố khác nhau bao gồm : nhân tố khách quan , nhân tố chủ quan ; nhân tố tự nhiên , nhân tố con người …nhưng trong điều kiện ngành bông nước ta hiện nay, có thể chia ra làm 2 nhân tố chủ yếu sau: 1. Nhân tố trong sản xuất: 1.1. Điều kiện tự nhiên: Cây bông là cây có nguồn gốc vùng nhiệt đới, do vậy nó đòi hỏi cao về nhiệt độ. Cây bông sinh trưởng và phát triển bình thường trong điều kiện nhiệt độ từ 25-30 độ C; ở nhiệt độ dưới 25 độ C sự phát triển của cây bông chậm lại và nhiệt độ dưới 17 độ C cây bông bị cằn lại. Nhiệt độ từ 37-40 độ C cây bông ngừng phát triển. Trong trường hợp nhiệt độ cao hơn mức bình thường, ở giai đoạn đầu của chu kì sinh trưởng và phát triển (trước giai đoạn nụ) thì thúc đẩy cây bông sinh trưởng, phát triển nhanh hơn. Nếu ở giai đoạn hoa rộ thì làm giảm khả năng hấp thụ phấn, làm rụng đài hoa nhiều, đặc biệt khi nhiệt độ trên 40 độ C hạt phấn hoàn toàn mất khả năng thụ phấn. Nhiệt độ cao ảnh hưởng xấu đến sự hút dinh dưỡng của cây bông, làm giảm tỷ lệ xơ bông, chiều dài xơ. Để hoàn thành một quá trình sinh trưởng và phát triển của cây bông từ khi mọc đến khi quả nở cần phải có một lượng nhiệt hữu hiệu trung bình từ 1450 độ C đến 1650 độ C. - ánh sáng: Cây bông rất ưa ánh sáng, trong điều kiện thiếu ánh sáng cây bông phát triển chậm và cây vống lên. Nếu trong giai đoạn nụ hoa và hình thành quả mà cây bị thiếu ánh sáng thì đài và quả non sẽ bị rụng nhiều. Thời gian chiếu sáng trong ngày có ảnh hưởng mạnh đến sự phát triển của cây bông. Cây bông đòi hỏi đêm dài ngày ngắn. Trong điều kiện ngày dài, cây bông phát triển chậm, bước vào giai đoạn sinh thực muộn (chậm hình thành nụ và nở hoa). Ttrong điều kiện ngày ngắn cây bông phát triển nhanh hơn, nhanh chống bước vào giai đoạn sinh thực. - Nước: Cây bông là cây chịu hạn khá tốt, tuy nhiên để cho cây bông sinh trưởng phát triển bình thường cho năng suất cao, phẩm chất xơ tốt thì phải có một chế độ nước thích hợp với từng thời kì của cây bông: Giai đoạn cây con (trước khi ra nụ)khi diện tích quang hợp ít,cây bông cần ít nước (1 ha cần bình quân 10-12m3 nước).Giai đoạn nụ, đặc biệt là giai đoạn hoa nhu cầu về nước của cây bông tăng lên mạnh, để phục vụ cho nhu cầu hình thành nụ, hoa, quả(giai đoạn nụ cần 30-35m3/ha; hoa 90-100m3/ha). Đến giai đoạn nở quả nhu cầu về nước của cây bông lại giảm xuống 30-40m3/ha. Cả vụ cây bông cần 5.000-8.000m3 nước/ha. - Đất và dinh dưỡng: Cây bông trồng được trên các loại đất có thành phần cơ giới trung bình, tơ xốp có độ mùn từ trung bình trở lên,có pHkcl>5, pH thích hợp nhất cho cây bông là 6,5-7,5.Nếu bông trồng trên đất chua(pH từ 4,5-5) và đất mặn năng suất bông rất thấp, đất có pHkcl<4,5 không trồng được bông. Cây bông cho năng suất cao khi đất có đầy đủ dinh dưỡng cho cây sinh trưởng và phát triển. Dựa vào từng loại đất giầu hay nghèo dinh dưỡng mà con người phải cung cấp thêm vào trong đất một lượng dinh dưỡng nhất định phục vụ cho nhu cầu của cây qua từng giai đoạn thì mới có cơ hội thu được năng suất bông cao. Ngoài phân bón đa lượng NPK cung cấp qua bộ rễ, cây bông còn có nhu cầu lớn về phân vi lượng bổ sung qua rễ hoặc lá. + Phân đạm: Phân đạm là vật chất cây bông cần để sinh trưởng, phát triển, đồng thời đạm là thành phần cấu tạo nên các chất protein, diệp lục tố, acid, nucleotit, các loại men. Nếu cung cấp đạm đầy đủ sẽ có tác dụng làm tăng diện tích lá, làm tăng hàm lượng protein trong thịt lá, tăng tổng hợp diệp lục, đồng thời các hoạt động sinh lý khác mạnh lên, rễ, thân, lá cây bông sinh trưởng tốt, phát dục nhanh, thời kì đậu quả hữu hiệu. Ngoài ra còn làm cho chiều dài xơ tăng lên, hàm lượng protein và hàm lượng dầu trong hạt cao. Ngược lại, nếu thiếu đạm, cây bông sẽ sinh trưởng chậm, cây mọc thấp, bé, phiến lá nhỏ màu nhạt, số cành quả ít, rụng đài nhiều, tàn lụi sớm, quả bé và nhẹ. Nhưng nếu thừa đạm thì cây sinh trưởng quá mạnh, phiến lá to và mỏng, lóng dài cây bông cao lớn, ruộng bông rậm rạp, thiếu ánh sáng, nụ ít và bé, rụng đài nhiều, chín muộn, quả nhỏ và nhẹ, dễ bị thối khi bị mưa nhiều cuối vụ. Mặt khác lá rậm rạp sâu bệnh phát triển nhiều. +Phân lân : Là nguyên tố cấu tạo nên protein, acid amin và ATP cung cấp năng lượng cây, có tác dụng lớn trong sinh trưởng, phát dục của cây, nó làm tăng khả năng vận chuyển các chất dinh dưỡng trong cây. Thúc đẩy quá trình phát triển của bộ rễ ở giai đoạn cây con. ở thời kì 45 – 50 ngày sau khi gieo , lân thúc đẩy nhanh sinh trưởng dinh dưỡng sang sinh trưởng sinh thực, làm cho cây bông sớm ra nụ, hoa. ở thời kì sau, lân xúc tiến hạt bông mau chín, tăng hàm lưọng dầu trong hạt, tăng khối lượng quả. Tăng khẳ năng chống chịu bệnh, chống rét, chống phèn, mặn cho cây trồng. Từ những đặc điểm đó ta có thể khẳng định các tỉnh phía Nam có nhiều vùng đất đai sinh thái khí hậu thích hợp trồng bông vào mùa mưa và thu hoạch vào đầu mùa khô. Đó là : -Vùng Đông Nam Bộ : Đồng Nai, Bà Rịa Vũng Tàu, Bình Phước, vùng này có khoảng 70.000- 100.000 ha đất nâu, đen, đỏ bazan có nguồn gốc feralit, Trừ những vùng trồng cây cao su, cà phê và các loại đất chua có pH<4,5 còn lại đất đang trồng cây bắp, đậu vụ 1, có thể trồng bông vụ 2 có tiềm năng, năng suất cao. - Vùng Duyên HảI Nam Trung Bộ gồm Bình Thuận, Ninh Thuận, Khánh Hoà và Phú Yên. Trong đó đặc biệt là Bình Thuậngồm có Đưc Linh, Tánh Linh, Hàm Tân, Hàm Thuận Bắc và BắcBình có thể quy hoạch 20.000-30.000 ha. Ơ vùng này còn có thể trồng bông có nước tưới, thâm canh cao có năng suất 2- 3 tấn/ha, nhờ sử dụng nguồn nước của các công trình thuỷ lợi. - Vùng Tây Nguyên gồm Đắc Lắc và Gia Lai được đánh giá là vùn có tiềm năng phát triển bông, có thể phát triển với quy mô 20.000- 30.000 ha trong 5 năm tới. - ở các tỉnh phía Nam và các vùng nói trên có thể quy hoạch trồng từ 180- 200 ngàn ha bông, đủ cung cấp nguyên liệu cho ngành dệt trong nước, thay thế nhập khẩu. 1.2.ứng dụng khoa học công nghệ trong sản xuất: - Về công tác nghiên cứu giống: Giống bông có tác động trực tiếp đến năng suất và sản lượng bông. Cần kết hợp các phương pháp chọ tạo giống truyền thống với việc dẩy mạnh úng dụng công nghệ sinh học hiện đại để tạo giống và sản xuất hạt giống, đặc biệt là chuyển gien kháng sâu bệnh và điều kiện ngoại cảnh bất lợi. Viện nghiên cứu và phát triển cây bông cần tăng cường hơn nữa các nghiên cứu tạo giống lai và phương pháp sản xuất hạt lai sử dụng tính bất dục đực nhặm hạ giá thành hạt giống, tạo điều kiện giảm chi phí cho nông dân. Việc sử dụng giống bông kháng sâu, kháng cỏ VN15, VN02.2 đã làm cho năng suất cây bông tăng từ 10-11 tạ/ha lên 18-20 tạ/ha, chỉ sau 2-3 năm áp dụng, tạo ra thế tương quan mới cho cây bông về lợi thế so sánh. - Công tác nghiên cứu quản lý dịch hại. Hiện nay, với sự áp dụng thành công quy trình phòng trừ tổng hợp (IPM), số lần phun thuốc sâu chỉ còn từ 1-2 lần/vụ nhưng vẫn đạt nhưng vẫn đạt năng suất cao. Tuy nhiên phát triển hàng trăm ngàn ha bông thì vấn đề phòng trừ sâu bệnh phải được đặt ra và có biện pháp cụ thể. Nguyên lí chung là duy trì sự cân bằng tự nhiên, phat huy khả năng chống chịu sâu bệnh bằng các giống bông và sự hỗ trợ có hiệu quả của các giống bông thiên địch…Nhưng áp dụng cho từng vùng, từng vụ phải linh hoạt. Thành công của IPM là nhờ một phần quan trọng vào sự hiểu biết và kỹ năng thực hành của nông dân cũng như cán bộ khuyến nông. 1.3.Vốn và người nông dân: Trong mọi lĩnh vực sản xuất thì người lao động là nhân tố quan trọng nhất,và trong ngành trồng bông thì người nông dân là nhân tố sống còn ảnh hưởng trực tiếp đến ngành bông . Đầu tư cho nông dân sản xuất là một biện pháp nhằm mở rộng diện tích và nâng cao năng suất cây trồng. Người dân Việt Nam trồng bông từ rất lâu nhưng chủ yếu là sản xuất nhỏ lẻ theo lối tự cung tự cấp cho các khung dệt thủ công truyền thống. Muốn quy hoạch vùng nguyên liệu cần phải có chính sách cho nông dân vay vốn với những ưu đãi nhất định. Nông dân là những người có nguồn vốn eo hẹp. Nếu có chính sách đầu tư cho nông dân thì diện tích tích trồng bông sẽ tăng lên rất nhanh. Ngược lại, chỉ cần một biến động nhỏ trong chính sách đầu tư cũng sẽ làm người nông dân lo lắng, thu hẹp diện tích trồng bông. Công ty bông Việt Nam là đơn vị đầu tư, tổ chức sản xuất và thu mua chế biến khoảng 95% lượng bông cả nước nhưng vốn đầu tư chỉ có 7,5 tỷ đồng, không đủ để sản xuất 50% hạt giống, nên không thể cho nông dân vay đầu tư sản xuất được. Người nông dân khó vay vốn vì sự then trọng quá mức của ngân hàng nên họ chỉ trông chờ vào nguồn tiền của công ty, mà công ty cũng phải đi vay vốn của ngân hàng thương mại. Bởi vậy chính sách lãi suất của ngân hàng có ảnh hưởng đến việc phát triển cây bông . 2. Ngành dệt may: Dệt may chính là đầu ra chủ yếu cho ngành bông ,ảnh hưởng trực tiếp đến ngành bông . Hiện nay khi mà ngành dệt may đang bao tiêu toàn bộ cho ngành bông và sản xuất bông không đủ đáp ứng cho dệt may trong nước thì yêu cầu cấp thiết là mở rông diện tích trồng bông và nâng cao năng suất của cây bông . Đó chính là bài toán đặt ra cho cả 2 ngành . Ta sẽ phân tích một số nét sơ lược về ngành dệt may của nước ta để có cái nhìn tổng quát về nó. 2.1. Vai trò và đặc điểm của ngành dệt may: Dệt may là ngành có truyền thống lâu đời của nước ta.Ra đời cách đây hàng nghìn năm,dệt may liên tục phát triển,vươn lên trở thành một trong hai ngành hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam,đem lại lợi nhuận cao,đóng góp to lớn vào ngân sách quốc gia.Trong những năm gần đây,ngành dệt may Việt Nam đã có bước phát triển đáng kể với tốc độ xấp xỉ 20%/năm,góp phần quan trọng vào sự phát triển của nền kinh tế đất nước.Đến hết năm 2005,toàn ngành có khoảng 2000 doanh nghiệp,với khoảng 2 triệu lao động, chỉ chiếm 10% lực lượng lao động nhưng đã chiếm 32% giá trị sản xuất khẩu công nghiệp và 23,6%kim ngạch xuất khẩu toàn ngành.Năm 2006,kim ngạch xuất khẩu ngành dệt may ước đạt 5,8 tỉ USD,tăng khoảng 20% so với năm 2005.Mục tiêu năm 2007 đề ra là xuất khẩu 7 tỉ USD. Thành quả trên đây là hệ quả tất yếu từ việc các doanh nghiệp dệt may Việt Nam đã biết tận dụng lợi thế,nắm bắt cơ hội,lấy đó làm tiền đề,động lực cho sự phát triển của ngành. Việt Nam là một nước nông nghiệp với nhiều chủng loại cây cho xơ-nguyên liệu chính phục vụ cho ngành dệt may-như bông,lanh,gai,đay và tơ tằm vô cùng dồi dào và phong phú.Đây thực sự là nguồn nguyên liệu quý báu,tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của ngành công nghiệp dệt,làm tiền đề vững chắc cho sự phát triển của ngành may.Điều này càng có giá trị hơn khi thị hiếu của người tiêu dùng ngày càng nghiêng về những sản phẩm sử dụng nguyên liệu có nguồn gốc từ thiên nhiên. Thêm vào đó,so với các nước trong ASEAN-đối thủ chính của các doanh nghiệp dệt may Việt Nam-ngành dệt may nước ta có lợi thế về nguồn nhân công giá rẻ,khéo léo và có khả năng tiếp thu nhanh công nghệ tiên tiến.Theo đánh giá của các chuyên gia ngành dệt may thế giới,hiện nay,giá công lao động trong ngành dệt may Việt Nam chỉ khoảng 0,24 USD/h,trong khi đó của Inđônêxia là 0,32USD/h, Malaixia là 1,13U/hUSD, Thái lan là 1,18USD/h và Xingapo là 3,16USD/h…. Trong suốt gần 100 năm phát triển, ngành dệt may Việt Nam đã từng bước tạo dựng cho mình một chỗ đứng vững chắc trên thị trường thế giới và là sản phẩm ưa chuộng của người tiêu dùng tại nhiều thị trường khó tính như Nhật Bản EU,Canada….Điều này có thể chứng minh bằng những ghi nhận thực tế. Theo đó, trong thời kì Pháp thuộc, các nghệ nhân may ở Hà Nội có thể sánh cùng thời trang Paris như áo đầm-Lucie tailleur, veston-complet-Tân Tân, chemise-pyjama-Bùi Huy Nhượng…Trong giai đoạn 1945-1975, hàng năm, Việt Nam đã xuất khẩu hàng trăm triệu sản phẩm may mặc sang các nước Đông Âu dưới dạng vỏ chăn, áo gối, quần áo bảo hộ lao động, áo choàng y tế…theo hiệp định hàng đổi hàng được kí kết giữa Chính Phủ hai nước. Đặc biệt trong 20 năm đổi mới, hàng dệt may Việt Nam đã chinh phục thị trường EU, Mỹ, châu á bằng rất nhiều chủng loại hàng khác nhau với kim ngạch hàng năm lên tới hàng tỉ USD. 2.2.Khó khăn và thách thức của ngành dệt may Việt Nam. Thách thức đầu tiên mà các doanh nghiệp dệt may Việt Nam gặp phải là tình trạng thiếu nguồn nguyên liệu sản xuất.Hiện nay, nguồn nguyên liệu này chỉ đáp ứng được từ 10-30% nhu cầu của các doanh nghiệp trong nước, phần còn lại đều do các đối tác nước ngoài cung cấp. Đây được xem là hậu quả tất yếu tất yếu của việc lệ thuộc quá nhiều vào các phía đối tác trong việc cung cấp nguyên phụ liệu. Đặc biệt là bông xơ-nguyên liệu chủ yếu của ngành dệt. Bên cạnh đó, các phụ liệu cho ngành may như vải, dây khoá, cúc áo,…đều không đáp ứng được yêu cầu của các doanh nghiệp may xuất khẩu.Vì thế các doanh nghiệp dệt may Việt Nam đang ngày càng bị động và lệ thuộc vào nguồn nguyên liệu nước ngoài. Bên cạnh đó,một điều dễ nhận thấy là các doanh nghiệp dệt may đang hoạt động dưới hình thức may gia công.Theo đó, phía đối tác nước ngoài sẽ chịu trách nhiệm thực hiện toàn bộ các công việc từ lo nguyên vật liệu đến tiếp thị sản phẩm.Dĩ nhiên, với hình thức này, lợi nhuận mà các doanh nghiệp Việt Nam thu được sau mỗi một hợp đồng là rấ thấp - đúng nghĩa người đi làm thuê. Do lựa chọn hình thức gia công theo các đơn đặt hàng nên việc tích luỹ lợi nhuận, tái đầu tư đổi mới trang thiết bị, công nghệ kỹ thuật gặp nhiều khó khăn.Vì thế, trình độ trang thiết bị và công nghệ ngành dệt may còn lạc hậu. Nguồn lao động cũng là một khó khăn mà hiện nay ngành dệt may đang phảI đối mặt. Lao động trong ngành dệt may chủ yếu đào tạo theo hình thức một kèm một.Số lượng công nhân có tay nghề cao tại các doanh nghiệp còn thấp, số cán bộ kỹ thuật đúng với thực tiễn lại càng khan hiếm hơn.Trong khi, các cơ sở đào tạo lại chưa đáp ứng được yêu cầu của các doanh nghiệp. Một điểm yếu khá lớn của các doanh nghiệp dệt may Việt Nam là mẫu mã không đa dạng, nghèo nàn, chưa có sự t._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docM0762.doc
Tài liệu liên quan