Đánh giá chính sách tiền tệ ở Việt Nam với mục tiêu kiểm soát lạm phát và ổn định kinh tế vĩ mô trong năm 2010

MỤC LỤC LỜI MỞ ĐẦU Chính sách tiền tệ là một trong những công cụ điều tiết và quản lí kinh tế vĩ mô quan trọng của Nhà nước . Ngân hàng Trung ương sử dụng chính sách tiền tệ theo hướng thắt chặt hay mở rộng tùy vào điều kiện cụ thể nhằm ổn định giá trị đồng bản tệ, đưa sản lượng và việc làm của quốc gia lên mức mong muốn.Tuy nhiên, trong thời gian ngắn hạn có thể xảy ra sự xung đột, triệt tiêu lẫn nhau giữa các mục tiêu đó. Khi đó, tùy vào tình hình cụ thể, Ngân hàng trung ương cần xác định

doc33 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1613 | Lượt tải: 4download
Tóm tắt tài liệu Đánh giá chính sách tiền tệ ở Việt Nam với mục tiêu kiểm soát lạm phát và ổn định kinh tế vĩ mô trong năm 2010, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
mục tiêu chính cần theo đuổi, hi sinh tạm thời các mục tiêu khác. Do đó điều hành chính sách tiền tệ đòi hỏi cần có sự nhạy bén và linh hoạt để đạt được những hiệu quả tố nhất đối với nền kinh tế. Năm 2009, một năm mà chính sách tiền tệ (CSTT) đã phải đối mặt với nhiều thách thức khó lường phát sinh từ những bất cập của nền kinh tế và tác động bất lợi của khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế. Nhưng với sự điều hành linh hoạt, sự ứng phó kịp thời với những biến động của tình hình, về cơ bản CSTT đã đạt được mục tiêu của năm 2009 là kiềm chế lạm phát và hỗ trợ tăng trưởng kinh tế . Song nhìn nhận những vấn đề căn nguyên của tình hình năm 2009, việc thực thi CSTT năm 2010 sẽ tiếp tục vấp phải những khó khăn. Đặc biệt do độ trễ của chính sách tiền tện năm 2009, hệ quả của gói kích thích kinh tế, lạm phát có nguy cơ tăng cao trong năm 2010. Do đó mục tiêu của CSTT là vừa kiềm chế lạm phát vừa ổn định kinh tế vĩ mô. Mặc dù việc thực thi CSTT của NHNN đã đạt được những kết quả khả quan trong 6 tháng đầu năm, song 6 tháng cuối năm, CSTT vẫn tiếp tục phải thực hiện những bước đi thận trọng, chủ động, bởi vẫn còn nhiều thách thức ở phía trước. Đánh giá mặt tích cực, hạn chế trong việc điều hành CSTT thời gian qua , từ đó có định hướng trong việc điều hành CSTT trong 6 tháng cuối năm là hết sức cần thiết.Từ đó em chọn đề tài : “ Đánh giá chính sách tiền tệ ở Việt Nam với mục tiêu kiểm soát lạm phát và ổn định kinh tế vĩ mô trong năm 2010”. Nội dung, đối tượng nghiên cứu: Đề tài tập trung phân tích các công cụ của CSTT được sử dụng trong 6 tháng đầu năm 2010 ,những tác động của CSTT đối với nền kinh tế . Từ đó, đánh giá hiệu quả trong việc điều hành CSTT của Ngân hàng nhà nước trong 6 tháng đầu năm và định hướng trong 6 tháng cuối năm để đạt được mục tiêu kiềm chế lạm phát và ổn định kinh tế vĩ mô của năm 2010 Phương pháp nghiên cứu: Sử dụng phương pháp thống kê , phương pháp so sánh, phương pháp phân tích tổng hợp và các phương pháp kinh tế khác. Kết cấu của đề tài: Đề tài gồm hai chương: Chương 1: Chính sách tiền tệ trong nền kinh tế thị trường. Chương 2: Tình hình sử dụng các công cụ của chính sách tiền tệ với mục tiêu kiểm soát lạm phát và ổn định kinh tế vĩ mô năm 2010. Chương 1: Chính sách tiền tệ trong nền kinh tế thị trường 1.1. Khái niệm, vị trí của chính sách tiền tệ. 1.1.1 Khái niệm Chính sách tiền tệ là một bộ phận trong tổng thể hệ thống chính sách kinh tế của nhà nước để thực hiện quản lí vĩ mô với nền kinh tế, nhằm đạt được những mục tiêu kinh tế -xã hội trong từng giai đoạn nhất định. Theo nghĩa rộng, chính sách tiền tệ là chính sách điều hành toàn bộ khối lượng tiền tệ trong nền kinh tế quốc dân nhằm tác động đến bốn mục tiêu lớn của kinh tế vĩ mô, trên cơ sở đó đạt mục tiêu cơ bản là ổn định tiền tệ, giữ vững sức mua của đồng tiền, ổn định giá cả hàng hóa. Theo nghĩa thông thường, chính sách tiền tệ là chính sách quan tâm đến lượng tiền cung ứng tăng thêm trong thời kì tới ( thường là một năm ) phù hợp với mức tăng trưởng kinh tế dự kiến và chỉ số lạm phát nếu có, nhằm ổn định tiền tệ và ổn định gia cả hàng hóa. Trong một thời gian nhất định , chính sách tiền tệ của một quốc gia có thể được hoạch định theo một trong hai hướng: Chính sách tiền tệ mở rộng nhằm tăng lượng tiền cung ứng, khuyến khích đầu tư, mở rộng sản xuất kinh doanh, tạo việc làm. Trong trường hợp này, chính sách tiền tệ nhằm chống suy thoái, chống thất nghiệp. Song nó lại làm cho lạm phát tăng. Chính sách tiền tệ thát chặt nhằm giảm lượng tiền cung ứng, hạn chế đầu tư, kìm hãm sự phát triển quá đà của nền kinh tế.Trong trường hợp này chính sách tiền tệ nhằm chống lạm phát. 1.1.2. Vị trí của chính sách tiền tệ Do nền kinh tế thị trường về thực chất là một nền kinh tế tiền tệ nên trong hệ thống các công cụ điều tiết nền kinh tế vĩ mô của nhà nước thì chính sách tiền tệ là một trong những chính sách quan trọng nhất. Nó tác động trực tiếp vào lĩnh vực lưu thông tiền tệ. Nhưng nó cũng có mối quan hệ mật thiết với các chính sách kinh tế vĩ mô khác như chính sách tài khóa, chính sách thu nhập, chính sách kinh tế đối ngoại. Đối với ngân hàng trung ương, việc hoạch định và thực thi chính sách tiền tệ là hoạt động cơ bản nhất, mọi hoạt động của nó đều nhằm làm cho chính sách tiền tệ quốc gia được thực hiện có hiệu quả hơn. 1.2. Mục tiêu của chính sách tiền tệ. 1.2.1. Kiểm soát lạm phát, ổn định giá trị đồng bản tệ Thông qua chính sách tiền tệ, Ngân hàng trung ương góp phần quan trọng trong việc kiểm soát lạm phát thông qua việc thực thi chính sách tiền tệ mở rộng hay thắt chặt. Kiểm soát lạm phát trước hết ổn định giá trị đối nội của đồng tiền tức là sức mua của nó với hàng hóa và dịch vụ trong nước. Bên cạnh đó, nó còn được biểu hiện giá trị đối ngoại của đồng tiền, được đo bằng giá hối đoái thả nổi.Tuy nhiên, theo đuổi mục tiêu ổn định giá trị đồng tiền cũng không đồng nghĩa với tỷ lệ lạm phát bằng không vì như vậy nền kinh tế không thể phát triển được bởi để có một tỷ lệ lạm phát giảm xuống thì phải chấp nhận một tỷ lệ thất nghiệp tăng lên. 1.2.2. Tạo công ăn việc làm Chính sách tiền tệ mở rộng hay thu hẹp có ảnh hưởng đến iệc sử dụng có hiệu quả các nguồn lực xã hội, quy mô sản xuất kinh doanh và từ đó ảnh hưởng đến tỷ lệ thất nghiệp của nền kinh tế. Tuy nhiên, theo đuổi mục tiêu công ăn việc làm cao không đồng nghĩa với tỷ lệ thất nghiệp bằng không. Bởi vì trong thực tế một số người thất nghiệp là có lợi cho nền kinh tế. Đó là những người rời bỏ công việc hiện tại để tìm một công việc mới thích hợp hơn, hoặc để theo đuổi những mục đích khác như học tập, lao động, du lịch...Và khi họ quyết định trở lại lao động thì phải mất một thời gian nhất định để tìm một công việc mới. Mặt khác, thông thường để có một tỷ lệ thất nghiệp thấp thì thường phải chấp nhận một tỷ lệ lạm phát cao. Hai mục tiêu này triệt tiêu nhau trong quá trình thực thi chính sách tiền tệ. 1.2.3. Tăng trưởng kinh tế Mục tiêu tăng trưởng kinh tế luôn gắn liền với mục tiêu việc làm cao. Chính sách tiền tệ có thể tác động đồng thời đến hai mục tiêu này. Khi cung ứng tiền tệ tăng lên, trong ngắn hạn lãi suất tín dụng giảm xuống, sẽ khuyến khích đầu tư, mở rộng sản xuất kinh doanh, làm tăng sản lượng và tăng trưởng kinh tế. Ngược lại khi cung tiền tệ giảm, trong ngắn hạn lãi suất tăng sẽ làm hạn chế đầu tư, thu hẹp hoạt động sản xuất kinh doanh, nhà nước và doanh nghiệp sẽ cần ít lao động hơn, làm cho mức sản lượng và tăng trưởng kinh tế chậm lại. Các mục tiêu có mối quan hệ mật thiết với nhau, hỗ trợ nhau, thúc đẩy nhau. Nhưng trong ngắn hạn có thể xảy ra sự xung đột thậm chí là triệt tiêu lẫn nhau. Điều dễ nhận thấy nhất là sự mâu thuẫn giữa tỷ lệ lạm phát và tỷ lệ thất nghiệp. Nhưng có thể khẳng định mục tiêu cơ bản nhất của chính sách tiền tệ là ổn định giá trị đồng bản tệ trên cơ sở đó để ổn định và phát triển kinh tế - xã hội. Thực tiễn cho thấy với các nước phát triển theo cơ chế thị trường, chính sách tiền tệ để đạt được mục tiêu của nó cần được phối hợp với các chính sách kinh tế vĩ mô khác như chính sách tài khóa, chính sách phân phối thu nhập,... 1.3. Các công cụ của chính sách tiền tệ. 1.3.1. Nghiệp vụ thị trường mở - Khái niệm: là những hoạt động mua bán chứng khoán có giá mà chủ yếu là tín phiếu kho bạc Nhà nước do Ngân hàng trung ương thực hiện trên thị trường mở nhằm tác động đến cơ số tiền tệ, qua đó điều chỉnh lượng tiền cung ứng. - Tác động : Khi Ngân hàng trung ương mua (bán) chứng khoán sẽ làm cho cơ sở tiền tệ tăng lên ( giảm đi ), dẫn đến mức cung ứng tiền tăng lên (giảm đi). Nếu thị trường mở chỉ gồm Ngân hàng trung ương thì hoạt động này sẽ làm thay đổi lượng tiền dự trữ của các ngân hàng thương mại, nếu bao gồm cả công chúng thì nó sẽ làm thay đổi lượng tiền mặt trong lưu thông. - Ưu điểm: Ngân hàng trung ương có thể kiểm soát được hoàn toàn lượng nghiêp vụ thị trường mở. Linh hoạt và chính xác, có thể được sử dụng ở bất cứ mức đọ nào, điều chỉnh lượng tiền cung ứng ở quy mô lớn hay nhỏ. Đồng thời đảo ngược được tình thế một cách dễ dàng. Thực hiện nhanh chóng, ít tốn kém về thời gian và chi phí. - Nhược điểm: vì được thực hiện thông qua quan hệ trao đổi, mua bán nên nó còn phụ thuộc vào các chủ thể tham gia, mặt khác để công cụ này hiệu quả hơn cần có sự phát triển đồng bộ của thị trường tiền tệ và thị trường vốn. 1.3.2. Dự trữ bắt buộc. - Khái niệm: Dự trữ bắt buộc là số tiền mà các tổ chức tín dụng phải giữ lại mà không được dùng cho vay hoặc đầu tư, mức dự trữ này do Ngân hàng trung ương quy định và bằng một tỷ lệ nhất định so với tổng số tiền gửi của khách hàng tại các tổ chức tín dụng. - Tác động: Việc thay đổi dự trữ bắt buộc ảnh hưởng trực tiếp đến số nhân tiền (m=1+s/s+ER+RR) trong cơ chế tạo tiền của các ngân hàng thương mại. Mặt khác, tỷ lệ dự trữ bắt buộc ảnh hưởng đến lãi suất cho vay của hệ thống ngân hàng thương mại. Khi tăng (giảm) tỷ lệ dự trữ bắt buộc thì khả năng cho vay của các ngân hàng thương mại giảm ( tăng ), làm cho lãi suất cho vay tăng ( giảm), từ đó làm lượng tiền cung ứng giảm ( tăng ) - Ưu điểm: Đây là công cụ mang nặng tính quản lí của Nhà nước nên giúp cho Ngân hàng trung ương chủ động trong việc điều chỉnh lượng tiền cung ứng. Dự trữ bắt buộc có tác đồng rất mạnh đến lượng tiền cung ứng, chỉ cần thay đổi một lượng nhỏ tỷ lệ dự trữ bắt buộc cũng ảnh hưởng đến một lượng lớn lượng tiền cung ứng. Nhược điểm: Tính linh hoạt không cao vì tổ chức thực hiện rất chậm, phức tạp, tốn kém và có thể ảnh hưởng không tốt đến hoạt động kinh doanh của các ngân hàng thương mại. 1.3.3. Chính sách tái chiết khấu. - Khái niệm: Đây là hoạt động mà Ngân hàng trung ương thực hiện cho vay ngắn hạn đối với các ngân hàng thương mại thông qua nghiệp vụ tái chiết khấu bằng việc điều chỉnh lãi suất chiết khấu ( đối với thương phiếu) và hạn mức cho vay tái chiết khấu( cửa sổ chiết khấu ) - Cơ chế tác động: Khi ngân hàng trung ương tăng ( giảm ) lãi suất chiết khấu sẽ hạn chế ( khuyến khích ) việc các ngân hàng thương mại vay tiền tại ngân hàng trung ương, làm cho khả năng cho vay của ngân hàng thương mại giảm( tăng ). Từ đó làm cho mức cung tiền trong nền kinh tế giảm ( tăng ). Mặt khác khi Ngân hàng trung ương muốn hạn chế ngân hàng thương mại vay chiết khấu của mình thì thực hiện việc khép cửa sổ chiết khấu lại. Ở các nước có thị trường chưa phát triển ( thương phiếu chưa phổ biến làm công cụ tái chiết khấu) thì Ngân hàng trung ương còn thực hiện nghiệp vụ này thông qua việc cho vay tái cấp vốn ngắn hạn đối với các ngân hàng thương mại. - Ưu điểm: Chính sách tái chiết khấu giúp cho Ngân hàng trung ương thực hiện vai trò là người cho vay cuối cùng đối với các ngân hàng thương mại gặp khó khăn trong thanh toán, và có thể kiểm soát được hoạt động tín dụng của các ngân hàng thương mại. Đồng thời có thể tác động đến việc điều chỉnh cơ cấu đầu tư đối với nền kinh tế thông qua việc ưu đãi tín dụng đối với các lĩnh vực cụ thể. - Nhược điểm: Hiệu quả của công cụ này còn phụ thuộc vào hoạt động cho vay của các ngân hàng thương mại, mặt khác mức lãi suất chiết khấu có thể làm sai lệch thông tin về cung cầu vốn trên thị trường. 1.3.4. Quản lí hạn mức tín dụng. - Khái niệm: là việc Ngân hàng trung ương quy dịnh tổng mức dư nợ của các ngân hàng thương mại không được vượt quá một mức nào đó trong một thời gian nhất định ( thường là một năm ) để thực hiện vai trò kiểm soát mức cung tiền của mình. - Cơ chế tác động: Đây là công cụ điều chỉnh trực tiếp đối với lượng tiền cung ứng, việc quy định pháp lý khối lượng hạn mức tín dụng cho nền kinh tế có quan hệ thuận chiều với quy mô lượng tiền cung ứng theo mục tiêu của ngân hàng thương mại. - Ưu điểm: Giúp Ngân hàng trung ương điều chỉnh, kiểm soát được lượng tiền cung ứng khi các công cụ gián tiếp kém hiệu quả, đặc biệt tác động nhất thời của nó rất cao trong khi nền kinh tế đang trong giai đoạn phát triển nóng, lạm phát cao. - Nhược điểm: có thể làm triệt tiêu động lực cạnh tranh giữa các ngân hàng thương mại, làm giảm hiệu quả phân bổ nguồn vốn trong nền kinh tế, kìm hãm nhu cầu phát triển tín dụng khi phát triển kinh tế tăng lên.Từ đó có thể dẫn đến nhiều hình thức tín dụng ngoài sự kiểm soát của Ngân hàng trung ương. 1.3.5. Quản lí lãi suất. - Khái niệm: Ngân hàng trung ương đưa ra một khung lãi suất hay ấn định một trần lãi suất cho vay để hướng các ngân hàng thương mại điều chỉnh lãi suất theo hướng đó, từ đó ảnh hưởng đến quy mô tín dụng của nền kinh tế. - Cơ chế tác động: Việc điều chỉnh lãi suất theo xu hướng tăng hay giảm sẽ ảnh hưởng trực tiếp tới quy mô huy động và cho vay của ngân hàng thương mại, làm thay đổi lượng tiền cung ứng. - Ưu điểm: Giúp cho Ngân hàng trung ương thực hiện quản lí lượng tiền cung ứng theo mục tiêu của từng thời kì khi mà các công cụ gián tiếp chưa phát triển. - Nhược điểm: Làm mất tính khách quan của lãi suất trong cơ chế thị trường bởi vì thực chất lãi suất là giá cả của vốn nên nó phải được hình thành theo quan hệ cung cầu về vốn trong nền kinh tế. Mặt khác việc thay đổi quy định điều chỉnh lãi suất cũng làm cho các ngân hàng thương mại bị động, tốn kém trong hoạt động kinh doanh của mình. Chương 2: Tình hình sử dụng các công cụ của chính sách tiền tệ với mục tiêu kiểm soát lạm phát và ổn định kinh tế vĩ mô năm 2010. 2.1. Tổng quan về nền kinh tế Việt Nam năm 2009 và những thách thức của kinh tế Việt Nam 2010. 2.1.1. Tổng quan về nền kinh tế Việt Nam năm 2009. Năm 2009, trước tình hình khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế thế giới, Việt Nam đã chuyển sang mục tiêu ngăn chặn suy giảm kinh tế và giữ ổn định kinh tế vĩ mô. Kinh tế Việt Nam năm 2009 bên cạnh những thành tựu đạt được vẫn còn bộc lộ nhiều hạn chế. -Gói kích thích kinh tế. Trước những tác động tiêu cực của khủng hoảng tài chính toàn cầu và ngăn chặn suy giảm kinh tế, từ đầu năm 2009, chính phủ đã đưa ra gói kích thích kinh tế. Gói kích thích kinh tế đã triển khai được phân thành các cấu phần sau: (i) gói hỗ trợ lãi suất 4%; (ii) gói hỗ trợ tiêu dùng bao gồm miễn thuế thu nhập cá nhân và hỗ trợ người nghèo ăn Tết; (iii) gói hỗ trợ đầu tư bao gồm miễn, giảm, giãn thuế doanh thu, thuế VAT cho các doanh nghiệp và cho nông dân vay vốn không lãi suất để mua thiết bị, máy móc sản xuất công nghiệp; (iv) đầu tư công  bao gồm xây dựng kết cấu hạ tầng, nhà ở cho sinh viên và khu chung cư cho người thu nhập thấp. Trong đó, các cấu phần có tác động mạnh nhất là gói hỗ trợ lãi xuất 4% và chính sách miễn, giảm, giãn thuế cho doanh nghiệp. Các gói này giúp nhiều doanh nghiệp vay được vốn để phục hồi và duy trì sản xuất và giải quyết việc làm. Đồng thời, chúng còn góp phần quan trọng làm cho hệ thống ngân hàng cải thiện được tính thanh khoản và duy trì khả năng trả nợ của khách hàng. Tuy nhiên, việc thực hiện cơ chế hỗ trợ lãi suất cùng với việc thực hiện chính sách tài khóa mở rộng và chính sách tiền tệ nới lỏng làm cho tổng phương tiện thanh toán và tín dụng tăng ở mức cao gây nguy cơ tái lạm phát, gây đột biến trên thị trường ngoại hối, thị trường vàng, thị trường bất động sản.  - Tăng trưởng kinh tế Dưới tác động mạnh của khủng hoảng kinh tế toàn cầu, quá trình suy giảm kinh tế của Việt Nam đã không kéo dài và sự phục hồi tốc độ tăng trưởng đến nhanh. Nền kinh tế chạm đáy suy giảm tăng trưởng trong quý I/2009 sau đó liên tục cải thiên tốc độ ở các quý sau. Tốc độ tăng GDP quý II đạt 4,5%, quý III đạt 5,8% và dự đoán quý IV sẽ đạt 6,8%. Như vậy xu hướng phục hồi tăng trưởng là khá vững chắc và đạt được ngay từ trước khi các gói kích cầu được triển khai trên thực tế. Tăng trưởng GDP cả năm 2009 sẽ đạt 5,2%. Đây là một thành tựu kinh tế nổi bật trong năm 2009 nếu đặt trong bối cảnh Việt Nam là một trong số ít nền kinh tế trong khu vực và thế giới vẫn đạt mức tăng trưởng dương. - Lạm phát và giá cả Nếu như năm 2008 là năm chứng kiến một tốc độ lạm phát cao kỷ lục trong vòng hơn một thập kỷ qua thì năm 2009 lại chứng kiến một mức lạm phát ở mức dưới hai con số. Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) cả nước qua 10 tháng đầu năm chỉ tăng 4,49% so với tháng 12/2008. Đây là mức tăng chỉ số giá tiêu dùng khá thấp so với những năm gần đây và là mức tăng hợp lý, không gây ảnh hưởng lớn đến đời sống và sản xuất của người dân. Thành tựu kiềm chế lạm phát trong năm 2009 có tác động tích cực đến ổn định kinh tế - xã hội cũng như tạo thuận lợi cho việc triển khai các chính sách kích thích kinh tế nhằm thúc đẩy tăng trưởng và đảm bảo an sinh xã hội. Mặc dù xu hướng tăng của giá tiêu dùng chưa có biểu hiện rõ rệt, nhưng một số yếu tố chủ yếu có thể sẽ tác động làm tăng nguy cơ tái lạm phát cao trở lại. Đó là tăng trưởng tín dụng đang ở mức cao do thực hiện các chính sách tài chính, tiền tệ nhằm ngăn chặn suy giảm kinh tế; giá của các mặt hàng nước ta nhập khẩu với khối lượng lớn trên thị trường thế giới bắt đầu có xu hướng tăng cao do sự phục hồi của kinh tế toàn cầu, đặc biệt giá xăng dầu. Mặt khác, những nguyên nhân cơ bản gây ra lạm phát cao ở Việt Nam năm 2008 vẫn còn. Đó là sự thiếu kỷ luật tài chính trong đầu tư công và trong hoạt động của các doanh nghiệp nhà nước (DNNN) và tập đoàn lớn. Do vậy, kích cầu đầu tư thông qua nới lỏng tín dụng cho các  DNNN và tập đoàn mà thiếu sự thẩm định và giám sát thận trọng chắc chắn sẽ kích hoạt cho lạm phát trở lại. - Tỷ giá Trong nhiều năm trở lại đây, Ngân hàng nhà nước (NHNN) kiên trì chính sách ổn định đồng tiền Việt Nam so với đồng đô la Mỹ. Diễn biến tỷ giá trong năm 2009 là tương đối phức tạp. Mặc dù NHNN đã điều chỉnh nâng tỷ giá liên ngân hàng và biên độ từ + 3% lên + 5% vào tháng 4/2009, trên thị trường tự do giá ngoại tệ nhanh chóng áp sát mức 18.300 đồng/đô la Mỹ và đến tháng 11 đã lên trên 19.000 đồng/đô la Mỹ. Đặc biệt càng về cuối năm tỷ giá càng biến động và mất giá mạnh, thị trường ngoại hối luôn có biểu hiện căng thẳng, đồng thời USD tín dụng thì thừa, USD thương mại thì thiếu. Các ngân hàng không có ngoại tệ để bán cho doanh nghiệp và nếu có bán thì mức tỷ giá cũng cao hơn mức tỷ giá trần do NHNN quy định. Những bất ổn trên thị trường ngoại hối và tỷ giá hối đoái đã tiếp tục gây ra những khó khăn cho hoạt động xuất nhập khẩu. Hơn nữa, đồng tiền mất giá còn ảnh hưởng đến lạm phát trong nước do giá hàng nhập khẩu tăng mạnh. Trong bối cảnh lạm phát có xu hướng gia tăng và tính không ổn định trên thị trường tiền tệ, đòi hỏi cần phải có sự lựa chọn linh hoạt cơ chế điều hành tỷ giá để đạt được mục tiêu kiềm chế lạm phát và ổn định thị trường tiền tệ. - Xuất nhập khẩu và cán cân thương mại Năm 2009, tình hình xuất nhập khẩu khẩu của Việt Nam gặp nhiều khó khăn do khủng hoảng kinh tế toàn cầu dẫn đến sự đình trệ sản xuất và hạn chế tiêu dùng ở những nước vốn là thị trường xuất khẩu lớn của Việt Nam như Mỹ, Nhật Bản, EU...  Tổng kim ngạch xuất khẩu năm 2009 ước đạt khoảng 56,5 tỷ USD, giảm 9,9% so với năm 2008. Tổng kim ngạch nhập khẩu năm 2009 ước đạt 67,5 tỷ USD, giảm 16,4% so với năm 2008. Mặc dù cả kim ngạch xuất khẩu và kim ngạch nhập khẩu đều giảm sút, nhưng do tốc độ giảm kim ngạch xuất khẩu chậm hơn tốc độ giảm kim ngạch nhập khẩu, nên nhập siêu năm 2009 giảm xuống chỉ còn khoảng 11 tỷ USD, chiếm 16,5% tổng kim ngạch xuất khẩu. Như vậy, so với những năm gần đây cán cân thương mại đã có sự cải thiện đáng kể, thể hiện quyết tâm của chính phủ trong việc kiềm chế nhập khẩu những mặt hàng không cần thiết. Song mức nhập siêu vẫn còn cao thể hiện việc phát triển các ngành công nghiệp phụ trợ và chuyển dịch cơ cấu hàng xuất khẩu vẫn còn chậm. 2.1.2. Những thách thức của kinh tế Việt Nam năm 2010. Triển vọng kinh tế Việt Nam năm 2010 phụ thuộc vào 3 yếu tố chính: tình hình kinh tế thế giới, sức mạnh nội tại của kinh tế trong nước và sự điều hành vĩ mô của Chính phủ. Tuy nhiên bên cạnh những thời cơ, thuận lợi thì cũng đặt ra nhiều thách thức cho cả 3 yếu tố trên. Trong ngắn hạn, năm 2010 sẽ chứng kiến sự phục hồi ở những nền kinh tế lớn nhất thế giới. Hoạt động đầu tư và thương mại quốc tế sẽ được hồi phục sau khi có sự giảm sút mạnh năm 2009. Với tư cách là một nền kinh tế nhỏ có độ mở cao4, điều này tạo ra những ảnh hưởng tích cực trực tiếp lên nền kinh tế Việt Nam để có thể đạt tăng trưởng cao hơn trong năm 2010. Tuy nhiên, từ kinh nghiệm của những năm vừa qua, vấn đề đặt ra cho Việt Nam là cần phải xác định và điểu chỉnh độ mở của nền kinh tế như thế nào cho phù hợp để tránh được các cú sốc do hội nhập quốc tế mang đến. - Bất ổn kinh tế vĩ mô Đối với trong nước, những bất ổn vĩ mô trong nội tại nền kinh tế vẫn còn tồn tại và trở thành thách thức cho phát triển kinh tế năm 2010. Trước hết đó là áp lực bội chi ngân sách. Với mức bội chi cao và nếu nguồn vốn bù đắp ngân sách chủ yếu từ thị trường vốn trong nước, mặt bằng lãi suất sẽ chịu áp lực của nhu cầu vốn, mà đầu tiên là lãi suất tiền gửi ngân hàng. Cho đến nay, các đợt phát hành trái phiếu chính phủ vẫn chưa thành công do sự chênh lệch giữa lãi suất thị trường yêu cầu với lãi suất chào thầu của trái phiếu chính phủ nên các khoản vay nợ chính phủ vẫn chưa có ảnh hưởng mạnh với thị trường vốn. Điều này phản ánh phần nào tình trạng căng thẳng thanh khoản trên thị trường vốn hiện nay và cũng cảnh báo sự thiếu hụt nguồn để cân bằng ngân sách. Như vậy, chính sách kích thích kinh tế thông qua việc mở rộng chi tiêu chính phủ sẽ bị giới hạn ngay từ khâu tìm kiếm nguồn bù đắp. Trong bối cảnh thâm hụt, cơ cấu chi, hiệu quả chi và khả năng kiểm soát chi thể hiện dấu hiệu thiếu bền vững của ngân sách bởi các khoản chi tiêu của chính phủ không tạo nên nguồn thu trong tương lai và gây sức ép cho bội chi mới. - Áp lực lạm phát cao: Lạm phát không phải là là vấn đề của năm 2009, nhưng năm 2010 hoàn toàn có thể là một năm làm phát bùng lên trở lại do các nguyên nhân gây ra lạm phát bị tích lũy ngày càng nhiều trong năm 2009. Cụ thể, như các chính sách hỗ trợ lãi suất làm tăng trưởng tín dụng, nới lòng kiểm soát giá một số mặt hàng như điện, nước, xăng dầu, điều chỉnh tăng lương và có thể là cả những nỗ lực phát hành tiền mà không được công bố chính thức. Nguy cơ lạm phát càng rõ ràng hơn nếu tiếp tục thực hiện gói kích thích kinh tế trong điều kiện mà chưa có giải pháp dài hạn hơn để đảm bảo chắc chắn nguồn vốn đạt được hiệu quả sinh lời cao và có khả năng tái tạo nguồn thu trong nước. - Về các công cụ điều hành kinh tế vĩ mô Hiện nay chúng ta dựa trên 3 công cụ chính để tác động đến nền kinh tế, đó là chính sách tài khoá, chính sách tiền tệ và chính sách cán cân thanh toán.. Do đặc trưng của kinh tế Việt Nam năm 2009 là bội chi ngân sách lớn đi liền với thâm hụt thương mại, trong khi các dòng ngoại hối hỗ trợ cho sự thâm hụt này là các dòng vốn đầu tư trực tiếp, gián tiếp và kiều hối đều có khuynh hướng chững lại trong năm. Do vậy, mọi động thái chính sách trong 3 lĩnh vực chính sách trên đều có liên quan và tự tạo ra các ràng buộc lẫn nhau. Đối với chính sách tài khoá, nếu bù đắp thâm hụt ngân sách bằng biện pháp vay nợ trong nước thì sẽ gây ra áp lực tăng lãi suất. Điều này đi ngược với mục tiêu của chính sách tiền tệ là giảm dần lãi suất trong thời gian tới. Nhưng nếu bù đắp thâm hụt ngân sách bằng việc vay nợ nước ngoài thì gặp phải áp lực gia tăng nợ nước ngoài mà đã ở tỷ lệ khá cao rồi. Đối với chính sách tiền tệ, khoảng cách giữa lãi suất huy động và trần lãi suất cho vay hiện đã quá nhỏ. Do vậy, nếu bỏ lãi suất trần thì sẽ làm thắt chặt tiền tệ quá sớm và ảnh hưởng đến phục hồi kinh tế. Mặt khác, với lạm phát kỳ vọng cao trong thời gian tới, dường như không còn cơ hội cho thực hiện nới lỏng tiền tệ để kích thích kinh tế. 2.2. Mục tiêu của chính sách tiền tệ năm 2010. Những thông điệp chính đưa ra tại Hội nghị triển khai nhiệm vụ ngành ngân hàng 2010 gồm có: tăng trưởng tín dụng 25% so với 2009, bám sát diễn biến thị trường để điều hành chính sách tiền tệ linh hoạt, chủ động sao cho vừa đảm bảo tăng trưởng kinh tế, vừa ngăn ngừa lạm phát. linh hoạt, kịp thời hơn, đặc biệt sẽ có giải pháp chấn chỉnh hoạt động sàn vàng và tình trạng đô la hóa. 2.2.1.Phòng lạm phát Thống đốc Ngân hàng Nhà nước (NHNN) Nguyễn Văn Giàu thông báo, năm 2010 NHNN sẽ định hướng tổng phương tiện thanh toán và dư nợ tín dụng đối với nền kinh tế tăng khoảng 25% trong năm tới, thấp hơn so với mức 37,7% năm nay. Chỉ tiêu này được đặt ra nhằm kiểm soát mức độ lạm phát năm 2010 tiếp tục giữ ở mức một con số. Đây là bước đi phù hợp cần thiết của NHNN nhằm phòng xa căn bệnh lạm phát của nền kinh tế. Tuy nhiên, doanh nghiệp cũng không vì thế mà lo ngại năm 2010 vay tiền sẽ khó khăn. Ngoài giá trị tuyệt đối tăng do dư nợ của toàn hệ thống ngân hàng tăng mạnh trong năm 2009, con số 25% chỉ là khung định hướng chứ không phải mức áp đặt cho toàn bộ các ngân hàng. Dựa vào diễn biến thực tế từ thị trường, NHNN có thể điều chỉnh linh hoạt. 2.2.2. Chấn chỉnh sàn vàng, tình trạng đô la hóa Nhìn sang các thị trường khác, có thể thấy mức độ quá trớn của các hoạt động này tại Việt Nam. Đơn cử ở Trung Quốc, hiện chỉ có một ngân hàng được kinh doanh tài khoản vàng trong khi tại Việt Nam có tới 22 sàn vàng đang hoạt động. Tương tự là tình trạng đô la hóa tràn lan góp phần gây ra tình trạng khan hiếm ngoại tệ thanh toán. Do vậy trong năm 2010 NHNN sẽ rà soát lại các quy định hiện hành, chấn chỉnh quản lý ngoại hối, từng bước hạn chế, không để đô la hóa lan tràn lan. 2.3.Việc sử dụng các công cụ trong 6 tháng đầu năm 2010. 2.3.1 Quản lí lãi suất Ở Việt Nam, quản lí lãi suất tuy là một công cụ trực tiếp nhưng trong nhiều năm qua nó lại được xem như là một công cụ quan trọng và chủ yếu của chính sách tiền tệ. Với mục tiêu duy trì sự ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát, tăng trưởng kinh tế bền vững trong năm 2010, chủ động đối phó với diễn biến phức tạp của thị trường tài chính và kinh tế thế giới, Ngân hàng Nhà nước đã quyết định điều chỉnh lãi suất cơ bản tăng từ 7%/năm lên 8%/năm, tăng lãi suất tái cấp vốn tăng từ 7%/năm lên 8%/năm, lãi suất chiết khấu tăng từ 5%/năm lên 6%/năm áp dụng từ 1/12/2009. Vào ngày 27/04, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước (NHNN) Việt Nam đã ký Quyết định số 1011/QĐ-NHNN ngày 27/4/2010 quy định mức lãi suất cơ bản bằng đồng Việt Nam là 8%/năm và có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/5/2010. Như vậy, đây là 6 tháng liên tiếp, lãi suất cơ bản bằng đồng Việt Nam được duy trì ổn định kể từ ngày 01/12/2009. Duy trì lãi suất cơ bản cao hơn trong một thời gian dài cho thấy xu hướng thắt chặt trong việc điều hành chính sách tiền tệ của Ngân hàng nhà nước. Theo điều 474 - 476 của Bộ luật Dân lãi suất trần cho vay là 150% lãi suất cơ bản, điều này gây khó khăn cho các ngân hàng khi phải xoay xở trong một biên độ quá hẹp giữa lãi suất huy động và cho. Việc áp dụng quy định này cho toàn bộ thị trường cho vay chính thức là không hợp lý, khiến thị trường tiền tệ méo mó và không phù hợp với các cam kết của WTO về việc tăng cường tính thị trường trong hoạt động ngân hàng. Trước tình hình đó Ngân hàng nhà nước đã cho phép các NHTM thực hiện chế độ lãi suất thoả thuận với các khoản cho vay trung và dài hạn.Sau đó, Ngân hàng Nhà nước ban hành Thông tư số 12/2010/TT-NHNN hướng dẫn tổ chức tín dụng cho vay bằng VND đối với khách hàng theo lãi suất thỏa thuận. Với thông tư này, chỉ đạo của Chính phủ về việc mở cơ chế thỏa thuận lãi suất đối với các khoản vay ngắn hạn chính thức được triển khai, sau khi cơ chế trên đã được mở đối với các khoản vay trung và dài hạn trước đó. Lãi suất thương mại được nâng lên. Vào thời điểm giữa tháng 3-2010, lãi suất cho vay dao động từ 17%-20%/năm. Có nhiều ý kiến lo ngại cho rằng kịch bản của năm 2008 được tái diễn lại, một cuộc chạy đua lãi suất sẽ diễn ra giữa các ngân hàng. Tuy nhiên, với những điều chỉnh của Ngân hàng Nhà nước, cùng với động thái tích cực của lãi suất huy động vốn mới nhất cận kề trung tuần tháng 4-2010, những thay đổi rõ nét đang diễn ra. Tại các ngân hàng thương mại ghi nhận mức lãi suất huy động phổ biến dao động từ 11,5%/năm đến 11,9%/năm.Việc tăng lãi suất đồng loạt chứng tỏ các ngân hàng thực chất đang chuẩn hóa lại mức lãi suất công bố minh bạch, mặc dù trước đó có thể đã phải thực hành nhiều cách thức không chính thức để thỏa mãn mức bù rủi ro khách gửi tiền muốn (như khuyến mãi). Mặt khác, áp lực cạnh tranh để thu hút nguồn thanh khoản gia tăng, có thể do dự báo rằng khả năng NHNN can thiệp sâu để bù thanh khoản cho hệ thống sẽ giảm đi đáng kể theo những động thái chính sách tiền tệ cuối quý I/2010. Cùng với đó, mức giảm chênh lệch do xu hướng đồng thuận giảm lãi suất cho vay xuống mức 15% (từ mức cao 17-18%) và xu hướng tăng lãi suất mới chớm xuất hiện này cho thấy NHTM còn phải giải quyết bài toán tương phản giữa tăng thanh khoản và suy giảm lợi nhuận . Bỏ lãi suất cơ bản đồng nghĩa với việc NHNN mất đi một công cụ điều tiết thị trường. Hệ thống ngân hàng hai cấp tại Việt Nam ra đời ngày 23-5-1990 khi NHNN được cấu trúc lại cho phù hợp với chức năng của ngân hàng trung ương hiện đại, tách biệt với chức năng ngân hàng thương mại. Các ngân hàng trực thuộc NHNN trước đây và ngân hàng chính sách vào thời điểm đó cũng lần lượt được chuyển đổi để trở thành ngân hàng thương mại thuộc sở hữu nhà nước, gọi là ngân hàng thương mại nhà nước hay ngân hàng thương mại quốc doanh. Bốn NHTM nhà nước hình thành đầu tiên gồm: Ngân hàng Nông nghiệp Việt Nam, Ngân hàng Công Thương Việt Nam, Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam và Ngân hàng Ngoại thương. Tuy nhiên, để cả hệ thống ngân hàng chuyển sang vận hành theo cơ chế hai cấp cần nhiều thời gian hơn hẳn việc ban hành các quyết định và văn bản. Dù đã được giao quyền chủ động kinh doanh tín dụng, trong đó có quyền thỏa thuận lãi suất, nhưng các NHTM vẫn lệ thuộc rất nhiều vào ý kiến chỉ đạo từ NHNN trong việc ra quyết định cho vay và cho vay với giá nào. Thực tế này yêu cầu phải có một công cụ ít mang tính hành chính hơn, nhưng cũng không hoàn toàn là thị trường tự do để điều hành lãi suất. 2.3.2 Dự trữ bắt buộc. Ngày 18/1/2010, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam có Quyết định số 74/QĐ-NHNN điều chỉnh dự trữ bắt buộc bằng ngoại tệ đối với các tổ chức tín dụng. Theo đó, tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với tiền gửi bằng ngoại tệ áp dụng cho các tổ chức tín kể từ kỳ duy trì dự trữ bắt buộc tháng 2/2010 giảm mạnh so với mức hiện hành. Cụ thể, theo quy định mới, tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với tiền gửi không kỳ hạn ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc26916.doc
Tài liệu liên quan