Đánh giá hiệu quả sử dụng các công cụ chính sách tiền tệ của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam trong thập kỷ 90 và những năm đầu thế kỷ 21

Lời mở đầu Năm mười năm đã trôi qua, một chặng đường lịch sử đã đánh dấu những bước thăng trầm trong quá trình hình thành, phát triển của NHNN Việt Nam. Năm mươi năm, quãng thời gian là dìa so với một con ngưòi nhưng với một sự vật hiện tượng được khẳng định là trường tồn mãi mãi thì có lẽ nó chỉ giống như một hạt cát trong sa mạc mà thôi. thật vậy ngân hàng giống như mạch máu của nền kinh tế, nếu xã hội loài người còn tồn tại thì nền kinh tế sẽ luôn vận động và phát triển thì ngân hàng và nhữn

doc36 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1801 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Đánh giá hiệu quả sử dụng các công cụ chính sách tiền tệ của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam trong thập kỷ 90 và những năm đầu thế kỷ 21, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
g vấn đề về tiền tệ – tài chính luôn là bạn đồng hành với những bí ẩn của chính nó. Có một quy luật tưởng chừng như đã quá bình thường đó là con người muốn tồn tại, con người muốn ngày càng đẹp hơn chỉ có một cách duy nhất đó là con người phải lao động. Con người muốn “ lao đông ” được theo đúng nghĩa của nó, con người cần có công cụ lao động. Ban đầu là công cụ bằng đá, rồi bằng đồng, bằng sắt rồi tiến tới các công cụ có hơi thở của con người nhiều hơn là máy móc thiết bị từ đơn giản đến tiên tiến hiện đại hơn. Có người đã từng ví ngân hàng nói chung và NHTW nói riêng cũng giống như một con người. Nó cũng ra đời tồn tại và sẽ có lúc lụi tàn chăng? Đã là một con người- NHTWphải chăng cũng sẽ luôn đặt ra cho mình một câu hỏi “ Họ phải làm gì để cho mình tồn tại ngày càng đẹp hơn ?”. Thật vậy họ cũng phải lao động cho riêng họ. Con người có búa, có quốc xẻng, có máy móc thiết bị thì NHTW có các công cụ với đặc thù riêng, nó cũng có thời gian để ra đời, phát huy tác dụng rồi cũng có lúc bị thải hồi. NHTW đã sử dụng công cụ là dự trữ bắt buộc, lãi suất tái chiết khấu, hạn mức tín dụng và nghiệp vụ thị trường mở. Như vậy công cụ của chính sách tiền tệ là vô cùng quan trọng. Miskin từng ví công cụ chính sách tiền tệ giống như bệ phóng tên lửa còn chính sách tiền tệ là con tàu vũ trụ, mục tiêu chính sách tiền tệ là cái đích cụ thể mà con tàu cần tiến tới; con tàu vũ trụ không thể tiến tới đích nếu như không có bệ phóng tên lửa. Trở lại thực tiễn trong xu hướng toàn cầu hoá, quốc tế hoá nhất là trong lĩnh vực tài chính tiền tệ, Việt Nam tham gia vào quá trình này là một tất yếu . Tuy nhiên những diễn biến phức tạp, thất thường khó lường gần đây của nền kinh tế mở thì việc phải nắm chắc trong tay công cụ của chính sách tiền tệ để điều tiết tiền tệ – tài chính là vô cùng cấp bách và cần thiết. Để có thể nắm chắc được công cụ chính sách tiền tệ chúng ta cần có một cái nhìn tổng thể. Chúng ta cần có được những kinh nghiệm nhờ đúc rút từ quá khứ, chúng ta cần ứng dụng những kinh nghiệm ấy vào hiện tại và chúng ta cần đi tới tương lai từ cái nền vững chắc là quá khứ và hiện tại hôn nay. Bởi lẽ đó việc nghiên cứu công cụ chính sách tiền tệ là vô cùng cần thiết và cấp bách. Đề tài: “Đánh giá hiệu quả sử dụng các công cụ chính sách tiền tệ của NHNN Việt Nam trong thập kỷ 90 và những năm đầu thế kỷ 21” Xuất phát từ nhu cầu thực tiễn trên kết hợp với kiến thức tiếp thu được qua môn học em đã chon đề tài trên để làm tiểu luận. qua đề tài này em đã cố gắng đưa ra nhận xét chung nhất về điều hành công cụ chính sách tiền tệ ỏ nước ta, trên cơ sở đó kiến nghị một số định hướng điều hành chính sách tiền tệ trong thời gian tới. Do tính chất và quy mô rộng lớn của vấn đề nên đề tài chỉ tập chung nghiên cứu thực trạng và giải pháp mà không đi sâu vào các vấn đề khác như lựa chon chế độ tỷ giá, lựa chọn mục tiêu cho chính sách tiền tệ, hay khi đề cập đến tỷ giá chỉ nói đến VND/USD mà không nói đến VND/DME, VND/JPY.. Chỉ nghiên cứu các công cụ mà hiện tại chúng ta đang sử dụng như lãi suất, tỷ giá, nghiệp vụ thị trường mở mà không đề cập đến những công cụ chúng ta không còn sử dụng đến như hạn mức tín dụng. Kết cấu của đề tài được chia làm ba phần: Phần I: Lý luận chung về chính sách tiền tệ và công cụ của chính sách tiền tệ Phần II: Thực trạng sử dụng công cụ chính sách tiền tệ của NHNN Việt Nam những năm 90 trở lại đây. Phần III: Những giải pháp để hoàn thiện việc điều hành công cụ chính sách tiền tệ ở Việt Nam. Với thời gian và trình độ còn hạn hẹp nên bài tiểu luận không tránh khỏi thiếu xót, em rất mong nhận được sự đóng góp của các thày cô. Em xin chân thành cảm ơn! Hà nội ngày 10/9/2002 Sinh viên Nguyễn thị thuỷ Phần I: Những cơ sở lý luận về chính sách tiền tệ & công cụ chính sách tiền tệ I.Chính sách tiền tệ và mục tiêu đặt ra cho chính sách tiền tệ 1. Chính sách tiền tệ 1.1. Khái niệm: Ngày nay các nhà kinh tế học đều thống nhất một quan điểm cho rằng tiền là một phương tiện trao đổi, qua đó người ta mua và bán hầu hết mọi thứ. Nhiều đồ vật khác nhau đã được dùng làm tiền tệ qua các thời đại, nhưng ngày nay chủ yếu là thời đại của tiền giấy và tiền qua (NH) ngân hàng, là những thứ không có giá trị bản thân nó. Đối với kinh tế vĩ mô, tiền tệ ngày càng tỏ rõ là công cụ quản lý kinh tế vĩ mô sắc bén và có hiệu quả. Trên cơ sở lợi dụng cơ chế thị trường để tác động vào các mục tiêu cơ bản của kinh tế vĩ mô: sản lượng giá cả và công việc làm. Với kinh tế vi mô thì tiền tệ là thứ dàu bôi trơn cho cỗ máy tái sản xuất mở rộng của từng doanh nghiệp hoạt động trôi chảy từ khâu dự trữ đến khâu tiêu dùng. Như vậy, vai trò của tiền tệ là vô cùng quan trọng, do đó cần phải nắm lấy tiền thông qua việc nắm lấy các (NH) với tác động của chính sách tiền tệ. Và từ đó chính sách tiền tệ ra đời. Vậy chính sách tiền tệ là gì ? Có rất nhiều quan niệm khác nhau về chính sách tiền tệ. Theo giáo trình “lý thuyết tiền tệ và ngân hàng” (HVNH-NXB thống kê -2001 trang 318): “Chính sách tiền tệ là một trong những chính sách kinh tế vĩ mô mà trong đó NHTW thông qua công cụ của mình thực hiện kiểm soát và điều tiết khối lượng tiền cung ứng (hoặc lãi suất) căn cứ vào nhu cầu tiền tệ nền kinh tế nhằm đạt được mục tiêu về giá cả, sản lượng và công ăn việc làm”. Còn theo luật NH Nhà nước Việt Nam tháng 2/1997 ghi: “Chính sách tiền tệ quốc gia là một bộ phận của chính sách kinh tế tài chính của Nhà nước nhằm ổn định giá trị đồng tiền, kìm chế lạm phát, góp phần thúc đẩy kinh tế, bảo vệ an ninh quốc phòng, nâng cao đời sống nhân dân”. Từ các định nghĩa có thể thấy được bản chất của chính sách tiền tệ, nó chính là hành vi của NHTW làm cho lượng tiền cung ứng biến động để đạt được các mục tiêu kinh tế vĩ mô. Chính sách tiền tệ trong một khoảng thời gian nào đó của một quốc gia có thể được xác định theo một trong hai hướng: Chính sách tiền tệ mở rộng: là chính sách tăng tiền cung ứng vào lưu thông, dẫn đến trong lưu thông thừa tiền. Trong trường hợp khi nền kinh tế có dấu hiệu của sự suy thoái, NHTW sẽ có hoạch định theo hướng chính sách mở rộng tiền tệ nhằm khuyến khích đầu tư, mở rộng sản xuất tạo ra công ăn việc làm cho người lao động. Chính sách tiền tệ thắt chặt: là chính sách thu hẹp lượng tiền cung ứng dẫn đến trong lưu thông khan hiếm tiền. Trong trường hợp nền kinh tế có dấu hiệu lạm phát gia tăng, thì NHTW sẽ hoạch định chính sách thắt chặt nhằm hạn chế đầu tư, kìm hãm sự phát triển quá mức của nền kinh tế. 2. Vai trò của Ngân hàng trung ương trong quá trình kiểm soát lượng tiền NHTW là chủ thể phát hành tiền TW(MB) thông qua 2 kênh cơ bản sau: Phát hành qua chủ thể là Ngân hàng trung gian (NHTG) Phát hành qua chủ thể phi NH Tiền TW tồn tại ở 2 bộ phận: MB = C + R Trong đó: C: Tiền mặt lưu thông ngoài NH R: Dự trữ Mặt khác, sau khi phát hành MB thì có các nghiệp vụ phát sinh: NHTW cho vay các chủ thể là NHTG, việc này làm tăng cơ số tiền vay chiết khấu (DL). NHTW mua vào kim khí quý, ngoại tệ trên thị trường ngoại hối hoặc mua vào tín phiếu kho bạc… trên thị trường mở, việc này làm tăng cơ số tiền tệ không vay (MBn). Do đó MB thể hiện ở 2 bộ phận: MB = MBn + DL Trong đó: MBn: Cơ số tiền không vay DL : Tiền vay chiết khấu từ NHTW. Trong thành phần của MB, bộ phận C chính là thành phần của tiền cung ứng (MS). Bộ phận R là cơ sở cho quá trình tạo nên tiền gửi của toàn hệ thống NHTG, từ lượng dự trữ này thông qua việc cho vay bằng chuyển khoản đối với các tổ chức kinh tế và cá nhân, hệ thống NHTG tạo ra tiền gửi (D) lớn hơn gấp nhiều lần so với dự trữ của họ. Như vậy, chủ thể phi NH có được tiền gửi để thanh toán qua NH là nhờ hoạt động của hệ thống NHTG. Lượng tiền gửi này tạo nên bộ phận thứ hai của MS. Do đó MS gồm 2 bộ phận MS = C + D Ngoài ra tiền gửi tiết kiệm, động sản tài chính khác, tạo thành khối tiền mở rộng. Việc phân chia cung tiền thành các khối tiền khác nhau nhằm tạo thuận lợi cho việc thực hiện kiểm soát của NHTW. M1 = C + D M2 = M1 + T M3 = M2 + b; L = M3 + . . . . Trong đó: M1: tiền giao dịch. M2: khối tiền mở rộng. T: tiền gửi có kỳ hạn và tiền gửi tiết kiệm b: các tín phiếu, trái phiếu & giấy tờ có giá khác. Tuỳ theo quan niệm của từng nước về việc khối tiền đó ảnh hưởng trực tiếp đến các mục tiêu đã định hay không & NHTW có thể kiểm soát được hay không mà họ chọn khối tiền cho phù hợp. ở nước ta, để thuận tiện và phù hợp với thực tại ta đang chọn M2. NHTW có thể kiểm soát cơ số tiền tệ tốt hơn so với kiểm soát các khoản dự trữ, một việc làm có ý nghĩa là liên hệ lượng tiền cung ứng (M) với cơ số tiền tệ (MB) bằng một mối tương quan như sau: M = m ´ MB Biến cố m là số nhân tiền, nó cho biết lượng tiền cung ứng thay đổi bao nhiêu đối với một thay đổi đã cho của cơ số tiền tệ (MB). Số nhân này cho ta biết cơ số tiền ttệ được chuyển thành lượng tiền cung ứng với bội số nào. Bởi vì số nhân tiền luôn lớn hơn 1, nên người ta gọi cơ số tiền tệ là “tiền có quyền lực cao”. Số nhân tiền phản ánh tác dụng đối với lượng tiền cung ứng của những yếu tố ngoài cơ số tiền tệ. Quyết định của những người gửi tiền về tiền mặt, tiền gửi có thể phát séc của họ là một trong các yếu tố tác động đến số nhân tiền. Một yếu tố khác là tiền dự trữ bắt buộc do NHTW áp đặt lên hệ thống hoạt động NH. Quyết định của các NH về tiền dự trữ quá mức cũng tác động đến số nhân tiền tệ nói trên. Với cung ứng tiền M1 ta có số nhân tiền m1: Trong đó: C: tiền mặt lưu thông ngoài hệ thống NH. D: tiền gửi không kỳ hạn. rd: tỉ lệ dự trữ bắt buộc. re: dự trữ dư thừa. Với cung ứng tiền M2 ta có số nhân tiền m2: Trong đó: T: là tiền gửi có kỳ hạn. rt: tỉ lệ dự trữ bắt buộc tiền gửi có kỳ hạn. Với cung ứng tiền M3 ta có số nhân tiền m3: Trong đó: MMF: các chứng từ có giá. rm: tỉ lệ dự trữ bắt buộc với MMF Chính sự tác động của hệ số m đã dẫn đến: MS tăng hoặc giảm không chỉ riêng NHTW quyết định mà còn tuỳ thuộc vào sự lựa chọn của NHTG và những khách hàng của NH. NHTW được Nhà nước giao nhiệm vụ điều tiết và kiểm soát MS cho phù hợp với mục tiêu kinh tế vĩ mô-họ phải là người quyết định lượng tiền cung ứng. Để làm được điều đó NHTW chỉ chủ động chi phối MB. Mặt khác NHTW tăng cường kiểm soát hệ số m cụ thể là quy định tỉ lệ dự trữ bắt buộc và chủ động thay đổi nó. Từ sự phân tích trên, ta thấy rằng NHTW có thể chủ động kiểm soát được MS thông qua sự tác động vào các nhân tố, đặc biệt là MB và Rd. Các công cụ mà NHTW thường dùng để kiểm soát MS là: Hạn mức tín dụng thông qua ấn định lãi suất hoặc tỉ giá, tỉ lệ dự trữ bắt buộc, lãi suất tái chiết khấu, nghiệp vụ thị trường mở. Tuỳ thuộc vào điền kiện tài chính-tiền tệ của mỗi quốc gia và tuỳ thuộc vào mục tiêu của từng quốc gia đó mà NHTW lựa chọn công cụ tác động cho phù hợp. Mục đích của sự lựa chọn này là phải làm sao nó tác động đến lượng tiền cung ứng MS một cách có hiệu quả nhất. Nhưng thế nào là một sự lựa chọn có hiệu quả? Thông qua tìm hiểu hệ thống mục tiêu của chính sách tiền tệ, chúng ta sẽ tìm hiểu về vấn đề này. 3. Hệ thống mục tiêu của chính sách tiền tệ. Công cụ của chính sách tiền tệ Mục tiêu hành động Mục tiêu trung gian Mục tiêu cuối cùng 3.1. Mục tiêu cuối cùng 3.1.1. ổn định giá cả ổn định giá cả là mục tiêu hàng đầu và dài hạn của chính sách tiền tệ. Nó không chỉ là trách nhiệm của NHTW mà còn của các chủ thể khác. Vì vậy ổn định giá cả có phạm vi rộng. Người ta có thể đo được sự ổn định giá cả bằng mức độ lạm phát bình thường thì giá cả ổn định. Bởi vậy để thực hiện mục tiêu ổn định giá cả NHTW có nhiệm vụ ổn định giá trị đồng tiền. 3.1.2. Tăng trưởng kinh tế Chính sách tiền tệ phải đảm bảo sự tăng lên của GDP thực tế. Đó là tỉ lệ tăng trưởng có được sau khi trừ đi tỉ lệ tăng giá cùng thời kỳ. Sự tăng trưởng phải hiểu là cả về khối lượng và chất lượng. Một nền kinh tế vững mạnh với tốc độ tăng trưởng ổn định là mục tiêu của bất kỳ thời kỳ của một chính sách kinh tế vĩ mô nào. Đó là nền tảng cho mọi sự ổn định vì một nền kinh tế tăng trưởng sẽ đảm bảo các chính sách xã hội được thoả mãn, là căn cứ để ổn định tiền tệ trong nước cải thiện tình trạng cán cân thanh toán quốc tế và khẳng định vị trí của nền kinh tế trên thị trường quốc tế. 3.1.3. Công ăn việc làm cao Việc làm cao là một mục tiêu có giá trị vì hai lí do: một là trường hợp ngược lại, thất nghiệp cao gây nên nhiều đau khổ cho con người, làm tăng tệ nạn xã hội và hai là khi thất nghiệp lên cao nguồn lao động bị ngồi không, tài nguyên cũng để không dẫn đến tổng sản phẩm giảm đi. Đảm bảo công ăn việc làm đầy đủ không có nghĩa là tỉ lệ thất nghiệp bằng không. Mỗi một quốc gia cần xác định một tỉ lệ thất nghiệp cho phù hợp. Vấn đề đặt ra là tỉ lệ thất nghiệp nào là phù hợp với việc làm đầy đủ? Trong những năm 1960 các nhà kinh tế cho rằng mục tiêu hợp lí là 4%, một mức có lẽ là quá thấp bởi vì nó dẫn đến lạm phát tăng gấp. Tính toán gần đây về tỉ lệ thất nghiệp tự nhiên ấn định mức đó vào khoảng 6% nhưng vẫn chưa được nhất chí & còn bị nghi ngờ. 3.1.4. Cân bằng cán cân thanh toán quốc tế. Cán cân thanh toán quốc tế thể hiện quan hệ thu chi quốc tế của một nước với nước ngoài. Cán cân thanh toán phản ánh đầy đủ những xu hướng cung và cầu ngoại tệ trong các giao dịch quốc tế nên nó tác động đến tỉ giá hối đoái của đồng tiền. NHTW đóng vai trò điều tiết giá để thực hiện mục tiêu của chính sách kinh tế. Nếu NHTW muốn xác lập một tỷ giá ổn định nghĩa là giữ cho tỷ giá không tăng, không giảm thì NHTW hoặc là mua vào ngoại tệ từ nước ngoài chuyển vào trong nước làm cho quỹ ngoại hối sẽ tăng lên tương ứng, hoặc NHTW sẽ bán ngoại tệ ra để đáp ứng nhu cầu của thị trường khi có luồng ngoại tệ chảy ra nước ngoài, quỹ dự trữ ngoại hối giảm xuống nhanh chóng. Ngoài các mục tiêu vĩ mô trên, một số nước còn tập trung vào các mục tiêu cụ thể, tuỳ thuộc vào đặc điểm phát triển kinh tế đặc thù của họ.Chẳng hạn cục dự trữ liên bang Mĩ theo đuổi mục tiêu khác như ổn định thị trường tài chính, ổn định lãi suất, hoặc Ngân hàng Nhà nước Việt nam nhằm mục tiêu ổn định hệ thống các tổ chức tín dụng thay vì đảm bảo công ăn việc làm 3.1.5. Mối quan hệ giữa 4 mục tiêu. Lý thuyết “tứ giác ma thuật” cho rằng 4 mục tiêu nằm trên 4 đỉnh của một hình chữ nhật. Thông thường nếu khi NHTW tăng MS thì: - Thất nghiệp giảm. Lạm phát tăng. GDP tăng. Bội chi cán cân thanh toán quốc tế giảm. Khi NHTW giảm MS thì: Thu nhập tăng. Lạm phát giảm. GDP giảm. Bội chi cán cân thanh toán quốc tế tăng. Thông thường NHTW theo đuổi một mục tiêu dài hạn là ổn định giá trị tiền tệ. Còn trong ngắn hạn NHTW thường theo đuổi tất cả các mục tiêu để đảm bảo cho sự phát triển của nền kinh tế. 2.2. Mục tiêu trung gian - Mục tiêu hoạt động. NHTW đứng trước vấn đề là nó muốn đạt được mục tiêu cuối cùng. NHTW có một bộ các công cụ để sử dụng có thể ảnh hưởng gián tiếp đến các chỉ tiêu sau một thời gian (từ 6 tháng đến 2 năm). Nếu tiếp tục chờ đợi để xem kết quả về mức giá cả và việc làm sẽ ra sao trong khoảng thời gian từ 6 tháng đến 2 năm đó thì sẽ chậm để tiến hành bất kỳ sửa chữa nào trong chính sách của mình-sai lầm không thể đảo ngược lại được. Để khắc phục hạn chế này, NHTW của tất cả các nước cần xác định các chỉ tiêu cần đạt được trước khi đạt được mục tiêu cuối cùng. Các chỉ tiêu này “nhằm thắng lợi” mục tiêu cuối cùng mục tiêu trung gian. Chỉ tiêu thường được sử dụng làm mục tiêu trung gian là tổng lượng tiền tệ (M1, M2, M3) lãi suất (ngắn và dài hạn). Tuy nhiên ngay cả những chỉ tiêu này cùng không bị ảnh hưởng bởi các công cụ chính sách của NHTW. Vì vậy NHTW chọn một bộ các biến số “nhắm thẳng vào” mục tiêu trung gian gọi là chỉ tiêu hoạt động. Chỉ tiêu hoạt động bao gồm tổng dự trữ (dự trữ, dự trữ không vay, cơ số tiền tệ, cơ số không vay), lãi suất (lãi suất vốn liên NH hay lãi suất trái phiếu kho bạc). Các chỉ tiêu này làm thành mục tiêu hoạt động. II. Công cụ của chính sách tiền tệ. Như ta đã biết NHTW sử dụng các công cụ để điều tiết lượng tiền cung ứng: Hạn mức tín dụng, ấn định lãi suất hoặc tỉ giá, qui định tỉ lệ dự trữ bắt buộc, lãi suất tái chiết khấu, nghiệp vụ thị trường mở. Các công cụ này có thể chia thành công cụ trực tiếp và công cụ gián tiếp. 1. Công cụ gián tiếp. Đây là nhóm công cụ tác động trước hết vào mục tiêu hoạt động của chính sách tiền tệ, thông qua cơ chế thị trường mà tác động này được truyền đến môi trường trung gian (MTTG) là khối lượng tiền cung ứng và lãi suất. Hay nói một cách khác, công cụ gián tiếp làm thay đổi bảng cân đối tiền tệ của NHTW, thông qua lãi suất tác động vào MS. Hệ thống công cụ này gồm: 1.1 Dự trữ bắt buộc (DTBB). Như ta đã biết, DTBB tác động đến cung ứng tiền tệ bằng cách gây ra thay đổi số nhân tiền tệ. Những sự thay đổi DTBB có ảnh hưởng lớn đến cung ứng tiền tệ, bởi lẽ đó cục dự trữ liên bang Mĩ ít khi sử dụng công cụ này để kiểm soát tiền tệ. 1.1.1. Khái niệm Dự trữ bắt buộc là một số tiền, mà các ngân hàng thương mại (NHTM) buộc phải gửi tại NHTW mà không được hưởng lãi suất để thực hiện chính sách quốc gia. Tỉ lệ tiền dự trữ của NHTM so với tiền gửi huy động là tỉ lệ dự trữ bắt buộc (rd). Với rd: tỉ lệ dự trữ bắt buộc. Rd: DTBB. D: tiền gửi không kỳ hạn. 1.1.2. Cơ chế tác động. Việc thay đổi DTBB do đó mức DTBB ảnh hưởng đến lượng tiền cung ứng theo ba cách: - Khi NHTW tăng tỉ lệ DTBB thì bộ phận dự trữ dư thừa trước đây trở thành DTBB do đó dự trữ dư thừa giảm dẫn đến làm giảm khả năng cho vay của hệ thống NHTM. Kết quả là MS giảm. Khi NHTW tăng tỉ lệ DTBB lên làm giảm mức cung vốn NHTW trên thị trường liên NH. Trong điều kiện vốn khả dụng không thay đổi, sự giảm sút này làm tăng lãi suất liên NH, từ đó gây ảnh hưởng đến lãi suất dài hạn (lãi suất tăng và khối lượng tiền cung ứng (MS) giảm). Khi tỉ lệ DTBB tăng lên thì làm giảm số nhân tiền do đó lượng tiền cung ứng (MS) giảm xuống theo. Quyết định giảm tỉ lệ DTBB sẽ gây nên những ảnh hưởng ngược lại. 1.1.3. Ưu nhược điểm. Lợi thế chủ yếu của việc sử dụng DTBB để kiểm soát cung ứng tiền tệ là nó có thể tác động lên tất cả các NH như nhau và có tác động đầy quyền lực đến cung ứng tiền tệ. Tuy nhiên sự thay đổi DTBB là một công cụ đầy quyền lực, tới mức chỉ cần một phần trăm thay đổi tỉ lệ DTBB tính trên tổng số dư tiền gửi bình quân ngày, mức dự trữ sẽ thay đổi đáng kể và dẫn đến sự thay đổi theo cấp số nhân của khối lượng tiền cung ứng. Điều này làm cho công cụ DTBB trở nên thiếu linh hoạt vì sự thay đổi thường xuyên sẽ gây nên sự bất ổn định của các NH và chi phí cho sự điều chỉnh thích ứng với tỉ lệ DTBB là vô cùng tốn kém. Bởi vậy theo S.Mishkin: “Sử dụng DTBB để tiến hành những điều chỉnh rất nhỏ trong cung ứng tiền tệ cũng giống như cố gắng dùng cái búa tạ đánh con chuột con”. (Tiền tệ ngân hàng & thị trường tài chính – Mishkin) Một điều bất lợi nữa là lượng tiền dự trữ không được trả lãi thì nó tác động vào hiệu quả kinh doanh của NHTM đặc biệt là chi phí của các NH. Ngoài ra khi thay đổi DTBB nó còn gây ra hàng loạt tác động khác như làm biến động hàng loạt các NH, gây ra ảnh hưởng tâm lý đối với các hoạt động của NH… 1.2. Chính sách tái chiết khấu 1.2.1.Khái niệm Chính sách tái chiết khấu bao gồm các quy định và điều kiện cho vay của NHTW đối với NHTM. NHTW cho vay ngắn hạn trên cơ sở chiết khấu các chứng từ có giá ngắn hạn; chủ yếu là các tín phiếu kho bạc và thương phiếu. Chính sách tái chiết khấu được thực hiện thông qua cửa sổ chiết khấu. Các NHTM đi vay NHTW nhằm bù đắp hoặc bổ sung nhu cầu vốn khả dụng và hình thành nên bộ phận dự trữ đi vay. Dự trữ đi vay được trả lại cho NHTW khi đến hạn. 1.2.2.Cơ chế tác động Trong công cụ này NHTW ấn định hạn mức tái chiết khấu, lãi suất tái chiết khấu và các điều kiện cho vay tái chiết khấu. Những thay đổi này ảnh hưởng đến mục tiêu cuối cùng khi và chỉ khi NHTM có nhu cầu vay NHTW và ảnh hưởng qua cả 2 con đường khối lượng và giá cả: Hạn mức tái chiết khấu là quy định mức độ cho vay tối đa trên cơ sở lãi suất quy định, nếu hạn mức tái chiết khấu trong các NHTM sẽ vay nhiều hơn. Do đó dự trữ đi vay tăng làm tăng khả năng cho vay của NHTM. Điều này tác động đến lượng tiền cung ứng làm nó tăng lên. NHTW còn ấn định lãi suất tái chiết khấu khi sử dụng công cụ này. Lãi suất tái chiết khấu là lãi suất áp dụng để chiết khấu lại chứng từ có giá của NHTM. Hay nói một cách đơn giản hơn, đó chính là lãi suất mà NHTW áp dụng khi cho NHTM vay với đây là loại vay có đảm bảo. Khi lãi suất tái chiết khấu tăng sẽ tác động vào mặt bằng giá vốn đầu vào của NHTM, gây áp lực và lãi suất nền kinh tế sẽ tăng theo, dẫn đến thu hẹp khả năng cho vay của NHTM dẫn đến hệ số tạo tiền giảm và ngược lại. Việc tăng lãi suất tái chiết khấu cũng gây hiệu ứng thông báo, nhà kinh doanh sẽ biết tác động của NHTW thông qua chính sách tái chiết khấu tới thị trường. Người đầu tư quan sát sự thông báo lãi suất của NHTW để dự tính xu hướng thay đổi lãi suất thị trường để từ đó có sự lựa chọn cho phù hợp. 1.2.3.Ưu nhược điểm Điểm lợi quan trọng nhất của chính sách chiết khấu là NHTW có thể dùng chính sách này để thực hiện vai trò người cho vay cuối cùng của mình. Đồng thời lãi suất tái chiết khấu coi như là một tín hiệu thông báo mà NHTW công bố với thị trường, qua đó nó định hướng cho hoạt động chi tiêu của các chủ thể kinh tế. Song có ba điểm bất lợi khi sử dụng chính sách này làm cho nhiều nhà kinh tế đề xuất ý kiến rằng không nên sử dụng nó. Thứ nhất là hạn mức tín dụng không được áp dụng cho tất cả các NH tạo nên khả năng cạnh tranh không lành mạnh trong tương lai. Thứ hai là khi NHTW cứu sống một NH nào đó dẫn đến tổng cung tiền tăng trên hạn mức cho phép và như vậy rất có thể làm cho NHTW không thực hiện được mục tiêu của họ. Thứ ba, tuy rằng khả năng điều tiết một cách linh hoạt các mục tiêu trung gian, nhưng mức độ phát huy hiệu quả của công cụ này còn phụ thuộc vào mức độ phụ thuộc về vốn của NHTM, vào NHTW, vì thế nó là công cụ kém chủ động. Để khắc phục các nhược điểm này, người ta thường sử dụng kết hợp với công cụ dự trữ bắt buộc. 1.3.Nghiệp vụ thị trường mở (open Market operaions viết tắt là OMO) Được NHTW các quốc gia sử dụng như là một công cụ gián tiếp trong việc điều hành chính sách tiền tệ, thông qua làm thay đổi vốn khả dụng (hay nói cách khác là dự trữ) của hệ thống NH, từ đó gián tiếp làm thay đổi lượng tiền cơ sở theo mục tiêu của chính sách tiền tệ. Nghiệp vụ thị trường mở ra đời những năm đầu thế kỷ XX ở Mỹ và một số nước châu Âu. Ngày nay nó được NHTW ở hầu hết các quốc gia trên thế giới sử dụng như là công cụ chủ yếu để điều hành chính sách tiền tệ. 1.3.1 Khái niệm Nghiệp vụ thị trường mở là nghiệp vụ mua và bán các chứng khoán của NHTW trên thị trường mở để điều tiết khối lượng tiền cung ứng. Như vậy chủ thể tham gia trên thị trường mở là NHTW, NHTW sẽ mua hoặc bán chứng khoán ngắn hạn hoặc chứng khoán dài hạn nhưng thời hạn còn lại là ngắn. Vậy câu hỏi đặt ra là tại sao NHTW không mua bán chứng khoán với thời hạn dài hơn? Sở dĩ như vậy là vì mục đích của NHTW khi tham gia thị trường mở không phải vì mục đích kinh doanh, không vì mục tiêu lợi nhuận mà chỉ vì mục đích điều tiết lưu thông mà thôi. 1.3.2. Cơ chế tác động Việc mua trên thị trường mở làm tăng cơ số tiền tệ, do đó tăng cung ứng tiền tệ, còn việc bán trên thị trường mở thì thu hẹp cơ số tiền tệ bằng cách giảm bớt cung ứng tiền tệ. Cụ thể quá trình tác động như sau: Thứ nhất: Khi NHTW mua vào chứng khoán thì dự trữ của các NHTM tăng, do đó khả năng cho vay của NHTM cũng tăng. Từ đó tổng lượng tiền cung ứng cũng tăng lên. Thứ hai: Khi NHTW mua vào trên thị trường mở, dự trữ thừa tăng lên, trong điều kiện các yếu tố khác liên quan không đổi, lãi suất thị trường liên NH giảm xuống và do đó lãi suất thị trường giảm. Kết quả là chi phí cơ hội đối với người có vốn dư thừa và giá vốn đầu tư đối với người thiếu hụt giảm xuống làm cho nhu cầu đầu tư tiêu dùng tăng, do đó MS tăng. Thứ ba: Hoạt động thị trường mở còn ảnh hưởng đến cung cầu và do đó giá chứng khoán thuộc phạm vi can thiệp. Trong trường hợp NHTW bán chứng khoán, lượng chứng khoán tăng lên trong khi nhu cầu chứng khoán chưa tăng, làm giá cả chứng khoán giảm xuống, mức sinh lời của chúng tăng lên, lãi suất giảm đồng thời MS tăng lên tương ứng. 1.3.3. Ưu, nhược điểm Đây là công cụ điều tiết các mục tiêu trung gian có hiệu quả nhất vì nó rất linh hoạt và chủ động. Công cụ này linh hoạt ở chỗ NHTW có thể đang mua lại bán hoặc đang bán lại mua với bất kỳ khối lượng nào và ở thời gian nào. Chủ động ở chỗ NHTW có thể mua bán với bất kỳ khối lượng nào theo ý muốn bởi lẽ NHTW tự đặt giá mức sao cho nó trở nên hấp dẫn với đối tác. Tuy nhiên để có thể vận dụng được công cụ thì điều kiện quan trọng là cần phải có sự phát triền của thị trường thứ cấp nói chung và thị trường tiền tệ nói riêng. Chính vì thế mặc dù nó được đánh giá là một công cụ của chính sách tiền tệ quan trọng nhất nhưng không phải quốc gia nào cũng đạt được hiệu quả như ý muốn bởi một lẽ thị trường thứ cấp, thị trường chứng khoán tiền tệ chưa phát triển. Một trở ngại nữa khi áp dụng thị trường mở thì phải dự đoán chính xác khối lượng mua bán trong từng lần, phải dự đoán được sự biến động của các NH, có như vậy mới ổn định được lãi suất. Nhưng trong thực tế, do việc dự tính có nhiều khó khăn làm cho việc điều hành dễ dàng sai lệch, khi đó điều chỉnh và chi phí cho việc điều chỉnh là rất tốn kém. 2. Công cụ trực tiếp Công cụ trực tiếp là những công cụ khi mà sử dụng làm thay đổi bảng cân đối tiền tệ NHTM, tác động trực tiếp vào khối lượng tiền trong lưu thông. Công cụ trực tiếp được áp dụng phổ biến ở các nước trong thời kỳ hoạt động tài chính được điều tiết chặt chẽ là hạn mức tín dụng. Bên cạnh đó NHTM có thể điều tiết trực tiếp các mục tiêu trung gian thông qua việc ấn định lãi suất hoặc tỉ giá. 2.1 Hạn mức tín dụng. 2.1.1Khái niệm. Hạn mức tín dụng là qui định mức cho vay tối đa của các NH đối với nền kinh tế do NHTW chi phối. Mức cho vay tối đa được qui định cho từng NH căn cứ vào đặc điểm kinh doanh của từng NH (cơ cấu khách hàng, mức rủi ro) định hướng cơ cấu kinh tế tổng thể, nhu cầu tài trợ các đối tượng chính sách và nó phải nằm trong giới hạn của tổng dư nợ tín dụng dự tính của toàn bộ nền kinh tế trong một khoảng thời gian nhất định. 2.1.2 Cơ chế tác động. Khi sử dụng hạn mức tín dụng là khống chế dư nợ của các NHTM, từ đó nó quyết định lượng tiền cung ứng trong nền kinh tế vì mỗi khoản vay cấu thành dư nợ của các NHTW thì tương đương với nó là một nguồn vốn tiền gửi huy động, từ đó ảnh hưởng đến tỉ trọng vốn tín dụng so với lượng tiền cung ứng. Ngược lại khi NHTW giảm hạn mức tín dụng thì khả năng cho vay của các NHTM giảm do đó giảm khả năng tạo tiền và dẫn đến giảm lượng tiền cung ứng. 2.1.3 Ưu nhược điểm và điều kiện vận dụng công cụ hạn mức tín dụng. Điều kiện vận dụng: Để vận dụng hạn mức có hiệu quả thì khi đưa ra hạn mức tín dụng bao giờ cũng nhỏ hơn nhu cầu vay của nền kinh tế; dẫn đến tình trạng khan hiếm tiền, khi đó một sự thay đổi hạn mức tín dụng sẽ có tác động vào vốn trong nền kinh tế nhiều hơn. Tuy nhiên vấn đề đặt ra là hạn mức tín dụng nhỏ hơn nhu cầu vay bao nhiêu là hợp lý? Nếu hạn mức tín dụng là quá nhỏ so với nhu cầu vốn thì các NH dễ độc quyền tín dụng và ảnh hưởng đến lãi suất. Nhưng nếu hạn mức tín dụng lại lớn hơn so với yêu cầu thì sự thay đổi hạn mức tín dụng dường như là không có hiệu quả. Ưu điểm: Hạn mức tín dụng là công cụ mang tính hành chính nên NHTW chủ động thay đổi qui định hạn mức theo mong muốn để đạt được mục tiêu của chính sách tiền tệ. Mặt khác đây là công cụ tác động trực tiếp vào khối lượng tiền cung ứng nên nó tỏ ra có hiệu quả ngay tức thời. Trong trường hợp khi các công cụ gián tiếp không phát huy hiệu quả do thị trường tiền tệ chưa phát triển hoặc do mức cầu tiền tệ không nhạy cảm so với lãi suất, hay NHTW không có khả năng khống chế và kiểm soát được sự biến động của vốn khả dụng của hệ thống NHTM thì công cụ hạn mức tín dụng là cứu cánh của NHTW trong điều tiết lượng tiền cung ứng. Tuy nhiên hiệu quả điều tiết của công cụ này không cao bởi nó thiếu linh hoạt và đôi khi ngược lại chiều hướng biến động của thị trường tín dụng do đó đẩy lãi suất lên cao hoặc làm suy giảm khả năng cạnh tranh của các NHTM. 2.2 Lãi suất. 2.2.1Khái niệm về lãi suất. Khi sử dụng bất kỳ khoản tín dụng nào, người vay cũng phải trả thêm một phần giá trị ngoài phần vốn gốc ban đầu. Tỷ lệ % của phần tăng thêm này so với phần vốn ban đầu được gọi là lãi suất. Hàng hoá có giá cả, việc sử dụng vốn vay trong một thời gian cũng có giá cả của nó. Như vậy: “lãi suất là giá cả của quyền lực được sử dụng vốn vay trong một thời gian nhất định mà người sử dụng trả cho người sở hữu nó”. Lãi suất phải được trả bởi lẽ đồng tiền ngày hôm nay có giá trị lớn hơn đồng tiền nhận được trong ngày mai. Khi người cho vay chuyển nhượng quyền sử dụng vốn cho người khác nghĩa là anh ta hi sinh đi chi phí cơ hội của việc anh ta sử dụng tiền. Có thể nói lãi suất mà người cho vay nhận được tương đương với chi phí cơ hội của việc giữ tiền của anh ta. Như vậy lãi suất ảnh hưởng trực tiếp đến lợi ích cá nhân do đó nó ảnh hưởng trực tiếp đến quyết định sự lựa chọn của họ: đều cùng một lượng tiền họ có thể cất trong túi, mua sắm hoặc đầu tư hay gửi tiết kiệm. . . Xét trên phạm vi toàn xã hội thì quyết định này sẽ ảnh hưởng đến tốc độ tăng trưởng và tỷ lệ thất nghiệp của quốc gia. Do những ảnh hưởng đó, lãi suất là một trong những biến số được quản lý và theo dõi chặt chẽ trong nền kinh tế và diễn biến của nó được đưa tin hàng ngày trên các phương tiện thông tin đại chúng. 2.2.2.Cơ chế tác động Lãi suất là công cụ thực hiện mục tiêu chính sách tiền tệ quốc gia. Thông qua công cụ lãi suất, NHTW có thể thực hiện mục tiêu thắt chặt hoặc mở rộng tiền tệ, thực hiện mục tiêu kìm hãm và kiểm soát lạm phát hoặc kích thích tăng trưởng kinh tế. Khi NHTW tăng lãi suất thì nhu cầu đầu tư giảm dẫn đến cầu tín dụng giảm dẫn đến lượng tiền cung ứng giảm. Ngược lại, khi lãi suất giảm thì MS tăng lên. 2.2.3.Ưu nhược điểm Công cụ lãi suất là một công cụ của chính sách tiền tệ tác động trực tiếp mạnh mẽ đến tổng tiền cung ứng. Tuy nhiên với việc ấn định mức lãi suất thì nó làm giảm mạnh mẽ tính linh hoạt của thị trường tiền tệ. Bởi vậy xu thế hiện nay, để khắc phục hạn chế đó các quốc gia đều hướng tới tự do hoá lãi suất. 2.3.._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc35285.doc