Đánh giá hoạt động thu hút nguồn vốn tư nhân đầu tư vào cơ sở hạ tầng nước ta trong những năm qua

Lời mở đầu Một nền kinh tế phát triển và bền vững đòi hỏi phải có một kết cấu hạ tầng mạnh và hiện đại. Cơ sở hạ tầng phải đi trước một bước để tạo tiền đề, làm động lực phát triển kinh tế xã hội và an ninh – quốc phòng, nhất là mạng lưới giao thông đường bộ. Các công trình cơ sở hạ tầng mang tính xã hội hoá cao, có nhiều đặc tính của hàng hoá công cộng. Tuy nhiên, cơ sở hạ tầng và hàng hoá công cộng về cơ bản do chính phủ cấp, chính phủ là người đứng ra bỏ vốn đầu tư xây dựng mà chủ yếu là vốn

doc37 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1502 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Đánh giá hoạt động thu hút nguồn vốn tư nhân đầu tư vào cơ sở hạ tầng nước ta trong những năm qua, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
từ ngân sách, vốn tư nhân thì rất ít. Vốn đầu tư vào các công trình này thường rất lớn, thời gian thu hồi vốn chậm, thậm trí rất khó thu hồi vốn. Vốn ngân sách nước thì còn phải chi cho nhiều hoạt động kinh tế - xã hội khác để đảm bảo phát triển bền vững. Chính vì vậy, vốn ngân sách không thể đáp ứng đủ cho đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng. Điều đó cho thấy sự cần thiết phải thu hút các nguồn tài trợ khác cho hoạt động này, và khi tính đến việc thu hút nguồn vốn cho hoạt động đầu tư không thể không lưu ý đến nguồn vốn nhàn rỗi từ khu vực tư nhân. Đó là lý do em chọn đề tài: “Đánh giá hoạt động thu hút nguồn vốn tư nhân đầu tư vào cơ sở hạ tầng nước ta trong những năm qua”. Kết cấu bài viết bao gồm những nội dung chính sau: Chương 1: Lý luận chung Chương 2: Đánh giá hoạt động thu hút nguồn vốn tư nhân cho đầu tư vào cơ sở hạ tầng của Việt Nam trong những năm qua Chương 3: Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động thu hút vốn đầu tư tư nhân đầu tư xây dựng CSHT Em xin chân thành cảm ơn TS. Trần Mai Hương đã giúp đỡ em hoàn thành đề án này. Trong quá trình nghiên cứu khó có thể tránh khỏi những thiếu sót, kính mong nhận được sự đóng góp ý kiến của thầy cô và các bạn. Mục lục Phụ lục những cụm từ viết tắt & Tài liệu tham khảo Từ viết tắt: GDP: Tổng sản phẩm quốc nội XDCB: Xây dựng cơ bản PTBV: Phát triển bền vững XĐGN: Xoá đói giảm nghèo PPP: Mô hình hợp tác nhà nước – tư nhân BOT: Hợp đồng xây dựng – kinh doanh - chuyển giao BTO: Hợp đồng xây dựng – chuyển giao – kinh doanh BT: Hợp đồng xây dựng - chuyển giao CSHT: Cơ sở hạ tầng KTTN: Kinh tế tư nhân KVKTTNTN: Khu vực kinh tế tư nhân trong nước DNTN: Doanh nghiệp tư nhân DNVVNVN: Doanh nghiệp vừa và nhỏ Việt Nam Tài liệu tham khảo Giáo trình kinh tế đầu tư www.gso.gov.vn www.mpi.gov.vn www.moc.gov.vn www.dddn.com.vn www.doanhnghieptre.vn Đánh giá hoạt động thu hút nguồn vốn tư nhân đầu tư vào cơ sở hạ tầng nước ta trong những năm qua Lý luận chung Vị trí & vai trò của kinh tế tư nhân đối với tăng trưởng và phát triển kinh tế Khái niệm Kinh tế tư nhân là hình thức kinh tế tự nhiên của quá trình phát triển xã hội, tồn tại và phát triển ngoài ý muốn chủ quan của những nhà chính trị cho dù họ đại diện cho bất kỳ lực lượng xã hội nào, hoặc nhân danh ai, hoặc với mục đích nhân đạo hay cao cả đến đâu chăng nữa. Chừng nào con người còn cần đến kinh tế tư nhân như là một phương tiện hữu hiệu để xây dựng và kiến tạo cuộc sống của mình và đồng loại, thì kinh tế tư nhân còn tồn tại như một hành trang của con người trong tiến trình đi tới tương lai. Vị trí Kinh tế tư nhân không chỉ có tiếng nói quyết định đến sức mạnh kinh tế của hầu hết các quốc gia mà còn trở thành một lực lượng kinh tế có ý nghĩa chính trị toàn cầu. Phát triển khu vực kinh tế tư nhân cũng có nghĩa là bảo tồn tính đa dạng phong phú của đời sống kinh tế, xem nó như là nguồn gốc của mọi sự phát triển. Ngày nay sở hữu tư nhân đã phát triển lên một trình độ mới về chất, quy mô sở hữu của nhiều Cty ngày càng đồ sộ và nhiều Cty tạo ra lượng tài sản có giá trị lớn hơn cả GDP của một số quốc gia. Cùng với quá trình phát triển kinh tế, nhân loại càng ngày càng sáng tạo ra nhiều loại hình sở hữu mới. Ngoài sở hữu tài sản hữu hình, người ta không chỉ sở hữu những tài sản vô hình như các nhãn hiệu hàng hóa, bí quyết công nghệ mà còn sở hữu cả không gian ảo trên mạng Internet và tài sản ảo là những bit thông tin đang tràn ngập trên mạng thông tin toàn cầu. Nền kinh tế mà nước ta đã lựa chọn là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Theo đó, nếu không có kinh tế nhà nước sẽ không có định hướng xã hội chủ nghĩa, nhưng nếu không có kinh tế tư nhân, cũng sẽ không có kinh tế thị trường. Chính vì thế mà phát triển kinh tế nhiều thành phần nói chung và phát triển kinh tế tư nhân nói riêng là một trong những nội dung quan trọng của đường lối đổi mới kinh tế của Đảng ta. Trước đổi mới, kinh tế tư nhân chủ yếu giới hạn trong khu vực hộ kinh doanh cá thể, hoạt động chủ yếu ở thị trường tự do, tức là khu vực không chính thức. Cho đến năm 1990, nếu số hộ công-thương nghiệp kinh doanh cá thể mới có khoảng 840 nghìn; thì đến năm 2006 đã có trên 3 triệu hộ. Doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế tư nhân trước năm 1991 hầu như không có, nếu có thì chủ yếu hoạt động ở thị trường ngầm, không được chấp nhận chính thức. Từ sau khi có Luật Công ty (năm 1990), số doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế tư nhân mới chính thức ra đời và chỉ thực sự tăng lên nhanh chóng từ sau khi có Luật Doanh nghiệp, sau 5 năm thi hành, số doanh nghiệp đăng ký mới đã đạt gần 110 nghìn, cao gấp hơn 2,4 lần so với thời kỳ 1991 - 1999. Khái niệm & đặc điểm của vốn đầu tư Khái niệm vốn đầu tư Vốn đầu tư là tiền tích luỹ của xã hội, của các đơn vị sản xuất kinh doanh, dịch vụ, là tiền tiết kiệm của dân và vốn huy động từ các nguồn khác nhau như liên doanh, liên kết hoặc tài trợ của nước ngoài... nhằm để : tái sản xuất, các tài sản cố định để duy trì hoạt động của các cơ sở vật chất kỹ thuật hiện có, để đổi mới và bổ sung các cơ sở vật chất kỹ thuật cho nền kinh tế, cho các ngành hoặc các cơ sở kinh doanh dịch vụ, cũng như thực hiện các chi phí cần thiết tạo điều kiện cho sự bắt đầu hoạt động của các cơ sở vật chất kỹ thuật mới được bổ sung hoặc mới được đổi mới. Đặc điểm về vốn đầu tư Thứ nhất, đầu tư được coi là yếu tố khởi đầu cơ bản của sự phát triển và sinh lời. Tuy nhiên, có nhiều yếu tố tạo nên tăng trưởng và sinh lời, trong đó có yếu tố đầu tư. Nhưng để bắt đầu một quá trình sản xuất hoặc tái mở rộng quá trình này, trước hết phải có vốn đầu tư. Nhờ sự chuyển hoá vốn đầu tư thành vốn kinh doanh tiến hành hoạt động, từ đó tăng trưởng và sinh lời. Trong các yếu tố tạo ra sự tăng trưởng và sinh lời này vốn đầu tư được coi là một trong những yếu tố cơ bản. Đặc điểm này không chỉ nói lên vai trò quan trọng của đầu tư trong việc phát triển kinh tế mà còn chỉ ra động lực quan trọng kích thích các nhà đầu tư nhằm mục đích sinh lời. Tuy nhiên, động lực này thường vấp phải những lực cản bởi một số đặc điểm khác. Thứ hai, đầu tư đỏi hỏi một khối lượng vốn lớn, khối lượng vốn đầu tư lớn thường là tất yếu khách quan nhằm tạo ra những điều kiện vật chất kỹ thuật cần thiết đảm bảo cho tăng trưởng và phát triển kinh tế như: Xây dựng một hệ thống cơ sở hạ tầng, xây dựng các cơ sở công nghiệp luyện kim, chế tạo máy, công nghiệp hoá dầu, công nghiệp lưng thực thực phẩm, ngành điện năng... Vì sử dụng một khối lượng vốn khổng lồ, nên nếu sử dụng vốn kém hiệu quả sẽ gây nhiều phương hại đến sự phát triển kinh tế xã hội. Đặc biệt, sử dụng vốn đầu tư nước ngoài với khối lượng vốn lớn và kém hiệu quả thì gánh nợ nước ngoài ngày càng chồng chất vì không có khả năng trả nợ, tình hình tài chính khó khăn sẽ dẫn đến khủng hoảng tài chính tiền tệ. Các cơn lốc khủng hoảng tài chính tiền tệ ở Mêhicô và các nước Đông nam á vừa qua là những điển hình về tình trạng này. Thứ ba, quá trình đầu tư XDCB phải trải qua một quá trình lao động rất dài mới có thể đưa vào sử dụng được, thời gian hoàn vốn vì sản phẩm XDCB mang tính đặc biệt và tổng hợp. Sản xuất không theo một dây truyền hàng loạt mà mỗi công trình, dự án có kiểu cách, tính chất khác nhau lại phụ thuộc vào nhiều yếu tố điều kiện tự nhiên, địa điểm hoạt động thay đổi liên tục và phân tán, thời gian khai thác và sử dụng thường là 10 năm, 20 năm, 50 năm hoặc lâu hơn tuỳ thuộc vào tính chất dự án. Bản chất của nguồn vốn đầu tư Xét về bản chất, nguồn hình thành vốn đầu tư chính là phần tiết kiệm hay tích luỹ mà nền kinh tế có thể huy động được để đưa vào quá trình tái sản xuất xã hội. Điều này được cả kinh tế học cổ điển, kinh tế chính trị học Mác - Lênin và kinh tế học hiện đại chứng minh. Trong tác phẩm “Của cải của dân tộc” (1776), Adam Smith, một đại diện điển hình của trường phái kinh tế học cổ điển đã cho rằng: “Tiết kiệm là nguyên nhân trực tiếp gia tăng vốn. Lao động tạo ra sản phẩm để tích luỹ cho quá trình tiết kiệm. Nhưng dù có tạo ra bao nhiêu chăng nữa, nhưng không có tiết kiệm thì vốn không bao giờ tăng lên”. Sang thế kỷ XIX, khi nghiên cứu về cân đối kinh tế, về các mối quan hệ giữa các khu vực của nền sản xuất xã hội, về các vấn đề trực tiếp liên quan đến tích luỹ, C. Mác đã chứng minh rằng: Trong một nền kinh tế hai khu vực, khu vực I sản xuất tư liệu sản xuất và khu vực II sản xuất tư liệu tiêu dùng. Cơ cấu tổng giá trị của từng khu vực đều bao gồm (c + v + m) trong đó (c) là phần tiêu hao vật chất, (v + m) là phần giá trị mới tạo ra. Khi đó, điều kiện để đảm bảo tái sản xuất mở rộng không ngừng thì nền sản xuất xã hội phải đảm bảo (v + m) của khu vực I lớn hơn tiêu hao vật chất (c) của khu vực II. Tức là: (v + m)I > cII Hay nói cách khác: (c + v + m)I > cII + cI Điều này có nghĩa rằng, tư liệu sản xuất được tạo ra ở khu vực I không chỉ bồi hoàn tiêu hao vật chất của toàn bộ nền kinh tế (của cả hai khu vực) mà còn phải dư thừa để đầu tư làm tăng quy mô tư liệu sản xuất trong quá trình sản xuất tiếp theo. Đối với khu vực II, yêu cầu phải đảm bảo: (c+v+m)II < (v+m)I + (v+m)2 Có nghĩa là toàn bộ giá trị mới của cả hai khu vực phải lớn hơn giá trị sản phẩm sản xuất ra của khu vực II. Chỉ khi điều kiện này được thỏa mãn, nền kinh tế mới có thể dành một phần để tái sản xuất mở rộng. Từ đó quy mô vốn đầu tư cũng sẽ gia tăng. Như vậy để đảm bảo gia tăng nguồn lực cho sản xuất, gia tăng quy mô đầu tư, một mặt phải tăng cường sản xuất tư liệu sản xuất ở khu vực I, đồng thời phải sử dụng tiết kiệm tư liệu sản xuất ở cả hai khu vực. Mặt khác phải tăng cường sản xuất tư liệu tiêu dùng ở khu vực II, thực hành tiết kiệm tư liệu tiêu dùng ở cả hai khu vực. Với phân tích như trên, chúng ta thấy rằng theo quan điểm của C.Mác, con đường cơ bản và quan trọng về lâu dài để tái sản xuất mở rộng là phát triển sản xuất và thực hành tiết kiệm ở trong sản xuất và tiêu dùng. Hay nói cách khác, nguồn lực cho đầu tư tái sản xuất mở rộng chỉ có thể được đáp ứng do sự gia tăng sản xuất và tích luỹ của nền kinh tế. Quan điểm về bản chất của nguồn vốn đầu tư lại tiếp tục được các nhà kinh tế học hiện đại chứng minh. Trong tác phẩm nổi tiếng “Lý thuyết tổng quan về việc làm, lãi suất và tiền tệ” của mình, Jonh Maynard Keynes đã chứng minh được rằng: Đầu tư chính bằng phần thu nhập mà không được chuyển vào tiêu dùng. Đồng thời ông cũng chỉ ra rằng, tiết kiệm chính là phần dôi ra của thu nhập so với tiêu dùng. Tức là: Thu nhập = Tiêu dùng + Đầu tư Tiết kiệm = Thu nhập – Tiêu dùng Như vậy: Đầu tư = Tiết kiệm (I) (S) Theo Keynes, sự cân bằng giữa tiết kiệm và đầu tư xuất phát từ tính song phương của các giao dịch giữa một bên là nhà sản xuất và bên kia là người tiêu dùng. Thu nhập chính là mức chênh lệch giữa doanh thu từ bán hàng hoá hoặc cung ứng dịch vụ và tổng chi phí. Nhưng toàn bộ sản phẩm sản xuất ra phải được bán cho người tiêu dùng hoặc cho các nhà sản xuất khác. Mặt khác đầu tư hiện hành chính bằng phần tăng thêm năng lực sản xuất mới trong kỳ. Vì vậy, xét về tổng thể phần dôi ra của thu nhập so với tiêu dùng mà người ta gọi là tiết kiệm không thể khác với phần gia tăng năng lực sản xuất mà người ta gọi là đầu tư. Nguồn vốn từ khu vực tư nhân Nguồn vốn từ khu vực tư nhân bao gồm phần tiết kiệm của dân cư, phần tích luỹ của các doanh nghiệp dân doanh, các hợp tác xã. Theo đánh giá sơ bộ, khu vực kinh tế ngoài Nhà nước vẫn sở hữu một lượng vốn tiềm năng rất lớn mà chưa được huy động triệt để. Cùng với sự phát triển kinh tế của đất nước, một bộ phận không nhỏ trong dân cư có tiềm năng về vốn do có nguồn thu nhập gia tăng hay do tích luỹ truyền thống. Nhìn tổng quan nguồn vốn tiềm năng trong dân cư không phải là nhỏ, tồn tại dưới dạng vàng, ngoại tệ, tiền mặt … nguồn vốn này xấp xỉ bằng 80% tổng nguồn vốn huy động của toàn bộ hệ thống ngân hàng. Vốn của dân cư phụ thuộc vào thu nhập và chi tiêu của các hộ gia đình. Khái niệm và đặc điểm của cơ sở hạ tầng kỹ thuật Khái niệm Cơ sở hạ tầng là tổ hợp các công trình vật chất kỹ thuật có chức năng phục vụ trực tiếp dịch vụ sn xuất đời sống của dân cư, được bố trí trên một phạm vi lãnh thổ nhất định. Khi lực lượng sản xuất chưa phát triển quá trình tiến hành các hoạt động chỉ là sự kết hợp giản đơn giữa 3 yếu tố đó là lao động, đối tượng lao động và tư liệu lao động chưa có sự tham gia của cơ sở hạ tầng. Nhưng khi lực lượng sản xuất đã phát triển đến trình độ cao thì để sản xuất có hiệu quả cần có sự tham gia của cơ sở hạ tầng. Cơ sở hạ tầng kỹ thuật được phát triển mạnh mẽ gắn liền với cuộc cách mạng công nghiệp từ thế kỷ 17 đến thế kỷ 19. Bên cạnh đó, chính vì sự phát triển mạnh mẽ của cơ sở hạ tầng kỹ thuật mà nó thúc đẩy sự phát triển của cơ sở hạ tầng xã hội từ cuối thế kỷ 19 đến đầu thế kỷ 20. Hiện nay, chúng ta đang tiến hành phát triển cơ sở hạ tầng ở giai đoạn 3. Giai đoạn vừa phát triển cơ sở hạ tầng kỹ thuật vừa phát triển cơ sở hạ tầng xã hội. Như vậy, khi khoa học kỹ thuật ngày càng được nâng cao thì cơ sở hạ tầng càng phát triển. Phân loại Căn cứ vào chức năng, tính chất và đặc điểm người ta chia các công trình cơ sở hạ tầng thành 3 loại - Cơ sở hạ tầng kỹ thuật. - Cơ sở hạ tầng xã hội. - Cơ sở hạ tầng môi trường Cơ sở hạ tầng kỹ thuật là các công trình phục vụ cho sản xuất và đời sống bao gồm: các công trình thiết bị chuyển tiếp và cung cấp năng lượng, mạng lưới giao thông, cấp thoát nước, thông tin liên lạc. Cơ sở hạ tầng xã hội bao gồm các cồn trình phục vụ cho các địa điểm dân cư như nhà văn hoá, bệnh viện, trường học, nhà ở và các hoạt động dịch vụ công cộng khác. Các công trình này thường gắn với các địa điểm dân cư làm cơ sở góp phần ổn định, nâng cao đời sống dân cư trên vùng lãnh thổ. Cơ sở hạ tầng môi trường là toàn bộ hệ thống vật chất kỹ thuật phục vụ cho việc bảo về, giữ gìn và bo vệ môi trường sinh thái của đất nước và môi trường sống của con người. Hệ thống này bao gồm các công trình phòng chống thiên tai, các công trình bảo vệ đất đai, vùng biển và các nguồn tài nguyên thiên nhiên. Đặc điểm Hệ thống cơ sở hạ tầng có nhiều đặc điểm riêng biệt khác với hệ thống kinh tế xã hội khác. Đứng dưới góc độ đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng cần xem xét các đặc điểm sau: - Bản thân hệ thống cơ sở hạ tầng là một tập hợp các cồn trình xây dựng có vốn đầu tư lớn, thời gian thu hồi vốn dài thường là thông qua các hoạt động kinh tế khác để thu hồi vốn. Trong cơ chế thị trường hiện nay, đồng vốn luôn vận động một cách năng động và chịu sự chi phối của lợi nhuận, nơi nào có lợi nhuận cao, thời gian thu hồi vốn nhanh thì sẽ được đầu tư nhiều và ngược lại. Vì thế, lĩnh vực kinh doanh cơ sở hạ tầng kỹ thuật thường được các nhà đầu tư ít quan tâm hơn là dịch vụ kinh doanh buôn bán khác. - Các công trình cơ sở hạ tầng mang tính xã hội hoá cao, có nhiều đặc tính của hàng hoá công cộng. Tuy nhiên, cơ sở hạ tầng thì không chỉ có sự tham gia của chính phủ mà còn có sự đóng góp của khu vực tư nhân, còn hàng hoá công cộng về cơ bản do chính phủ cấp, chính phủ là người đứng ra bỏ vốn đầu tư xây dựng mà chủ yếu là vốn từ ngân sách, tư nhân thì rất ít, đầu tư thì các công trình này thường có vốn đầu tư lớn, thời gian thu hồi vốn chậm, thậm trí rất khó thu hồi vốn. - Hệ thống các công trình cơ sở hạ tầng kỹ thuật mang tính kỹ thuật cao, quy mô lớn nó không chỉ đáp ứng nhu cầu cuộc sống, sản xuất, dịch vụ, đời sống con người... trong hiện tại và cả trong tương lai. Mặt khác thời gian tồn tại của các công trình cơ sở hạ tầng trên lãnh thổ là rất lâu dài. Vì thế những sai lầm trong bố trí địa điểm, áp dụng công nghệ sẽ đều phải trả giá rất đắt. Do đó, yêu cầu khi xây dựng cơ sở hạ tầng bên cạnh việc áp dụng những thành tựu tiến bộ của khoa học kỹ thuật, phải căn cứ vào quy hoạch phát triển vùng và dự kiến được những biến động trong tương lai. - Các công trình cơ sở hạ tầng trên phạm vị lãnh thổ có chức năng phục vụ sản xuất và đời sống. Tuy vậy, nếu xét về bản chất kết quả hoạt động của các cơ sở hạ tầng lại là từ dịch vụ chứ không phải là sản xuất vật chất cụ thể chẳng hạn dịch vụ bưu chính viễn thông, giáo dục đào tạo đây chính là điểm điểm phân biệt giữa cơ cở hạ tầng với các ngành sản xuất vật chất khác. Vai trò của cơ sở hạ tầng đối với tăng trưởng & phát triển kinh tế Một nền kinh tế phát triển và bền vững đòi hỏi phải có một kết cấu hạ tầng mạnh và hiện đại. Cơ sở hạ tầng phải đi trước một bước để tạo tiền đề, làm động lực phát triển kinh tế xã hội và an ninh – quốc phòng, nhất là mạng lưới giao thông đường bộ. Đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng chủ yếu, mà trước hết là xây dựng đường giao thông, thực hiện phương châm “giao thông đi trước một bước”. Cần xây dựng hệ thống đường giao thông liên hoàn, kết nối các hệ thống hương lộ, huyện lộ, tỉnh lộ với các trục quốc lộ đi qua khu vực dân cư nghèo. Đây là những kinh nghiệm, bài học được rút ra từ những thành công của công tác XĐGN ở các nước đang phát triển trong khu vực cũng như ở những nước phát triển trên thế giới trong nhiều năm qua. Có hệ thống giao thông đồng bộ, sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho sự giao lưu kinh tế, thương mại, trao đổi hàng hoá giữa cộng đồng dân cư vùng nghèo nông thôn miền núi với dân cư vùng giàu thành thị. Từ đó cũng tạo điều kiện dễ dàng cung cấp các dịch vụ văn hoá, y tế, giáo dục, thông tin liên lạc đối với dân cư vùng nghèo, vùng khó khăn. Tiếp theo việc đầu tư xây dựng hệ thống đường giao thông là đầu tư xây dựng một số cơ sở hạ tầng quan trọng khác như: cơ sở y tế khám chữa bệnh; cơ sở giáo dục dạy nghề; hệ thống cung cấp điện, nước sinh hoạt, các công trình thuỷ lợi, phục vụ sản xuất cho cộng đồng dân cư các vùng nghèo. Cơ sở hạ tầng và công nghệ là những nhân tố quan trọng của sự PTBV và XĐGN. Những nghiên cứu ở cấp vĩ mô cho thấy cứ 1% tăng trưởng về cơ sở hạ tầng thì sẽ có được 1% tăng trưởng GDP. Các cấp độ và chủng loại cơ sở hạ tầng khác nhau thì cũng có nhũng tác động khác nhau đến tăng trưởng kinh tế và XĐGN. Đầu tư vào xây dựng cơ sở hạ tầng chỉ được coi là cần nhưng chưa đủ. Để XĐGN được một cách bền vững, thì ngoài đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng, còn cần phải thực hiện và hỗ trợ cải cách để cho các cơ sở hạ tầng ở tất cả các cấp được quản lý tốt, phát huy tính hiệu quả cao. Cơ sở hạ tầng có ảnh hưởng rất lớn đến sự phát triển của toàn bộ nền kinh tế, nó là cầu nối liên kết giữa các ngành, các vùng lãnh thổ cũng như các quốc gia với nhau. Sẽ không có một hoạt động kinh tế nào diễn ra thuân lợi và đạt hiệu quả cao nếu như hệ thống cơ sở hạ tầng yếu kém. Cụ thể như: Hệ thống giao thông đường bộ, hàng không, đường sông, đường biển yếu kém sẽ gây cản trở rất lớn đến việc vận chuyển nguyên vật liệu phục vụ sản xuất, và cũng gây ảnh hưởng tương tự đối với việc buôn bán hàng hoá, chuyển giao công nghệ; Hệ thống thông tin liên lạc kém phát triển sẽ làm chậm trễ mọi hoạt động kinh tế. Ngoài ra, một quốc gia có một hệ thống cơ sở hạ tầng mạnh và hiện đại sẽ góp phần thúc đẩy quan hệ đối ngoại, giao lưu buôn bán với các quốc gia trên thế giới, góp phần tăng trưởng kinh tế đất nước. Có được hệ thống cơ sở hạ tầng đồng bộ, hiện đại sẽ có tác dụng thu hút các nguồn vốn đầu tư từ nước ngoài vào các lĩnh vực kinh tế cửa đất nước cũng như vào chính bản thân cơ sở hạ tầng. Từ những lý luận trên chúng ta có thể thấy rõ được vai trò, tầm quan trọng của hệ thống cơ sở hạ tầng tới tăng trưởng và phát triển kinh tế. Vì vậy, việc đầu tư phát triển hệ thống cơ sở hạ tầng ngày càng hiện đại, đồng bộ là một nhiệm vụ hàng đầu trong công cuộc phát triển kinh tế đất nước. Sự cần thiết phải huy động nguồn vốn tư nhân cho hoạt động đầu tư phát triển hệ thống cơ sở hạ tầng Như chúng ta đã biết, bất cứ một hoạt động đầu tư nào muốn tiến hành đều phải có vốn. Đặc biệt là hoạt động đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng thì khối lượng vốn cần cho nó lại càng lớn. Nhận biết được tầm quan trọng của việc xây dựng cơ sở hạ tầng nên Đảng và nhà nước ta đã dành những khoản đầu tư không nhỏ cho hoạt động đầu tư này. Chính vì dành nhiều nguồn lực cho việc xây dựng cơ sở hạ tầng nên nguồn vốn dành cho các mục tiêu phát triển khác đã bị hạn chế. Vấn đề đặt ra ở đây là tìm những nguồn tài trợ mới tiếp sức cho ngân sách nhà nước thực hiện đầu tư vào lĩnh vực này. Để đạt được mục tiêu trở thành quốc gia công nghiệp hoá và hiện đại hoá trong 20 năm đầu của thế kỷ 21, Việt Nam phải hoàn tất củng cố hệ thống cơ sở hạ tầng. Điều này yêu cầu một nguồn vốn khổng lồ, bao gồm quỹ Nhà nước và vốn từ các cá nhân cả trong nước và nước ngoài, cũng như sự hợp tác chặt chẽ giữa Nhà nước và cá nhân trong việc phát triển hệ thống cơ sở hạ tầng quốc gia nói chung và cơ sở hạ tầng giao thông nói riêng. Đầu tư vào cơ sở hạ tầng là lĩnh vực khó thu hồi vốn, quá trình thực hiện một dự án cơ sở hạ tầng lại phức tạp vô cùng. Chẳng hạn như khi quy hoạch tuyến đường giao thông được công bố, sẽ có một số nhà đầu tư khác "ăn theo", hay chuyện có nhiều người đổ xô mua đất dọc theo tuyến đường, gây khó khăn trong việc giải tỏa đền bù, làm nản lòng nhà đầu tư. Ngoài nguồn vốn qua các kênh nhà nước như ngân sách, thu phí cầu đường, phụ thu xăng dầu, cần quan tâm thu hút nguồn vốn từ các doanh nghiệp, tổ chức kinh tế, cá nhân trong và ngoài nước, bằng các hình thức phát hành cổ phiếu, trái phiếu công trình, trái phiếu chính phủ, các hình thức đầu tư như BOT, BTO, BT; huy động tiền tiết kiệm và tích luỹ nội bộ trong nước để đầu tư xây dựng các tuyến đường bộ thông qua ngân hàng; nguồn vốn từ đổi đất lấy công trình hoặc sử dụng một phần vốn trong các dự án của các ngành để xây dựng các tuyến đường trong khu công nghiệp, chế xuất. Kêu gọi và thu hút nguồn vốn ODA... Nguồn vốn nước ngoài cho hoạt động đầu tư cơ sở hạ tầng ở nước ta ngày càng có chiều hướng gia tăng. Đó là một thành công trong công tác thu hút vốn đầu tư nước ngoài của Đảng và nhà nước. Nhưng cũng chính Đảng và nhà nước cũng nhận định đây không phải là nguồn vốn thực sự tốt cho đầu tư phát triển nói chung và cho đầu tư cơ sở hạ tầng nói riêng nếu như chúng ta sử dụng nó một cách không hợp lý. Sử dụng một cách không hiệu quả nguồn vốn này không những bị thất thoát, lãng phí các nguồn lực mà còn để lại những khoản nợ khổng lồ cho những nền kinh tế, mà người gánh chịu không ai khác chính là các thế hệ nối tiếp của đất nước. Do đó cần tập chung khai thác, thu hút các nguồn vốn trong nước, đặc biệt là nguồn vốn từ khu vực tư nhân để đầu tư vào cơ sở hạ tầng. Thành phần tư nhân tham gia đầu tư vào cơ sở hạ tầng sẽ giải phóng được một nguồn lực đáng kể để Nhà nước có đủ khả năng tập trung vào những lĩnh vực ưu tiên khác nhằm duy trì sự tăng trưởng kinh tế nói chung. Thu hút thành phần kinh tế ngoài Nhà nước, đặc biệt là khu vực kinh tế tư nhân đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng sẽ góp phần quan trọng trong việc quản lý hiệu quả nguồn vốn của các dự án đầu tư, hạn chế tối đa việc không đáp ứng được nhu cầu đầu tư của ngân sách Nhà nước, đồng thời hạn chế được nạn tham nhũng trong hoạt động đầu tư. Khu vực kinh tế tư nhân, đặ biệt là các doanh nghiệp tư nhân thường có quy mô vừa và nhỏ. Nên ưu thế của chúng là hoạt động một cách linh hoạt, nhạy bén với sự biến động của môi trường xung quanh. Mặt khác, do vốn đầu tư là do chính cá nhân hay tổ chức mình bỏ ra đầu tư nên họ sẽ kiểm soát và sử dụng đồng vốn một cách hiệu quả hơn nhiều lần so với các doanh nghiệp quốc doanh. Không có một nước nào, nhất là các nước chậm phát triển, ngân sách quốc gia có thể đáp ứng đủ để phát triển hạ tầng theo kịp sự phát triển kinh tế. Mô hình hợp tác nhà nước - tư nhân (PPP) đã ra đời và nhiều nước ứng dụng thành công trong hơn 20 năm qua. Việt Nam là một nước thiếu vốn trầm trọng cho phát triển hạ tầng thì việc áp dụng cơ chế này càng trở nên cần thiết. Các hình thức đầu tư trực tiếp nên khuyến khích: Hợp tác nhà nước - tư nhân (PPP) là việc nhà nước và tư nhân cùng thực hiện một dự án lợi ích công thông qua một thỏa thuận nhằm chia sẻ nhiệm vụ và rủi ro. Theo thỏa thuận này, nhà nước thiết lập các tiêu chuẩn về cung cấp dịch vụ, còn tư nhân được khuyến khích thực hiện các dịch vụ này bằng cơ chế thanh toán theo chất lượng dịch vụ. PPP cũng góp phần khắc phục những nhược điểm về đầu tư của Chính phủ như thiếu minh bạch trong đấu thầu, quá trình thực hiện dự án thường bị kéo dài, bảo dưỡng công trình không chuyên nghiệp, thiếu kinh phí dẫn đến mau xuống cấp, hiệu quả sử dụng thấp gây lãng phí cho ngân sách... Trong khi đó, khi tham gia dự án, nhà đầu tư tư nhân sẽ chịu trách nhiệm hoàn toàn từ khâu thiết kế đến xây dựng, vận hành, bảo dưỡng công trình, đảm bảo việc sử dụng hiệu quả nhất. Hết hạn hợp đồng, công trình vẫn phải đảm bảo chất lượng tốt theo các điều khoản đã ký trước khi giao lại cho Chính phủ. Chúng ta cũng nên khuyến khích các nhà đầu tư tư nhân thông qua hình thức đầu tư BOT (xây dựng - sở hữu - chuyển giao) hoặc góp vốn trực tiếp. Với các nhà đầu tư tư nhân có năng lực tài chính nhỏ hơn có thể đầu tư vào hạ tầng cơ sở nông thôn. Việc đầu tư này cần quy hoạch cụ thể và mang tính dài hạn của nhà nước cũng như từng địa phương. BOT là viết tắt của Hợp đồng xây dựng – kinh doanh - chuyển giao. Đây là hình thức đầu tư được ký kết giữa cơ quan nhà nước có thẩm quyền và nhà đầu tư để xây dựng, kinh doanh công trình kết cấu hạ tầng trong một thời hạn nhất dịnh; hết thời hạn, nhà đầu tư chuyển giao không bồi hoàn công trình đó cho nhà nước Việt Nam. Hợp đồng BTO là viết tắt của Hợp đồng xây dựng – chuyển giao – kinh doanh. Đây là hình thức đầu tư được ký giữa cơ quan nhà nước có thẩm quyền và nhà đầu tư để xây dựng công trình kết cấu hạ tầng; sau khi xây dựng xong, nhà đầu tư chuyển giao công trình đó cho Nhà nước Việt Nam; Chính phủ giành cho nhà đầu tư quyền kinh doanh công trình đó trong một thời hạn nhất định để thu hồi vốn đầu tư và lợi nhuận. Hợp đồng BT là viết tắt của Hợp đồng kinh doanh - chuyển giao. Đây là hình thức đầu tư được ký giữa cơ quan nhà nước có thẩm quyền và nhà đầu tư để xây dựng công trình kết cấu hạ tầng; sau khi xây dựng xong, nhà đầu tư chuyển giao công trình đó cho Nhà nước Việt Nam; Chính phủ tạo điều kiện cho nhà đầu tư thực hiện dự án khác để thu hồi vốn đầu tư và lợi nhuận hoặc thanh toán cho nhà đầu tư theo thỏa thuận trong hợp đồng BT. -----------------------------------*&*-------------------------------------- Trong những năm qua, công tác thu hút vốn đầu tư tư nhân vào hoạt động đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng ngày càng được quan tâm. Và đã đạt được những thành công đáng ghi nhận, nhưng bên cạnh đó vẫn còn tồn tại rất nhiều những bất hợp lý cần được khắc phục. Để thấy rõ được điều đó chúng ta tiếp tục nghiên cứu đến chương 2 của đề tài. Trong chương này đề cập đến thực trạng của hoạt động thu hút vốn đầu tư tư nhân vào cơ sở hạ tầng và những đánh giá về những thực trạng đó. Đánh giá hoạt động thu hút nguồn vốn tư nhân đầu tư vào CSHT tại Việt Nam trong những năm qua Khu vực kinh tế tư nhân đóng góp phần không nhỏ vào GDP Khu vực kinh tế tư nhân có vai trò quan trọng trong nền kinh tế nước ta. Khu vực kinh tế tư nhân năm 2005 đã chiếm 38,5% GDP, cao gấp 5,4 lần tỷ trọng 7,11% của khu vực kinh tế tập thể, cao gấp hơn 2,5 lần tỷ trọng 15,17% của khu vực có vốn đầu tư nước ngoài và đạt xấp xỉ với tỷ trọng 39,22% của khu vực kinh tế nhà nước. Riêng tỷ trọng trong GDP của các doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế tư nhân nhìn chung đã tăng lên qua các năm: nếu năm 2000 mới chiếm 7,31%, thì năm 2005 là 8,91%. Đáng lưu ý, tốc độ tăng trưởng GDP do các doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế tư nhân luôn luôn cao hơn gấp rưỡi, gấp đôi tốc độ tăng chung cũng như cao hơn tốc độ tăng của các khu vực khác. Khu vực kinh tế tư nhân chiểm tỷ trọng cao trong tổng số lao động đang làm việc (88,8%), cao hơn rất nhiều so với tỷ trọng 9,7% của khu vực Nhà nước. Trong tổng số lao động làm việc ở khu vực doanh nghiệp (5175 nghìn lao động), thì doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế tư nhân chiếm 42,9%, cao hơn tỷ trọng 39,9% của khu vực doanh nghiệp Nhà nước. Khu vực này cũng đã chiếm gần 1/3 tổng vốn đầu tư toàn xã hội. Không những thế, khu vực kinh tế tư nhân còn là nơi cung cấp nguồn vốn đầu tư rất lớn cho hoạt động đầu tư phát triển. Như phần lý luận trên đã đề cập, nguồn gốc của đầu tư chỉ có thể lấy ra từ tiết kiệm cho nên tiết kiệm tư nhân là một trong những nhân tố hết sức quan trọng trong việc tạo ra nguồn vốn cho hoạt động đầu tư phát triển. Vốn đầu tư của khu vực kinh tế tư nhân chiếm một tỷ trọng khá lớn trong tổng vốn đầu tư của nền kinh tế. Theo số liệu bảng sau: Vốn đầu tư phân theo thành phần kinh tế Năm Tổng số Chia ra Kinh tế Nhà nước Kinh tế tư nhân Khu vực có vốn ĐTNH 1995 72447 30447 20000 22000 1996 87394 42894 21800 22700 1997 108370 53570 24500 30300 1998 117134 65034 27800 24300 1999 131171 76958 31542 22671 2000 151183 89417 34594 27172 2001 170496 101973 38512 30011 2002 200145 114738 50612 34795 2003 239246 126558 74388 38300 2004 290927 139831 109754 41342 2005 343135 161635 130398 51102 2006 404712 185102 154006 65604 Sơ bộ 2007 521700 208100 184300 129300 Cơ cấu(%) 1995 100.0 42.0 27.6 30.4 1996 100.0 49.1 24.9 26.0 1997 100.0 49.4 22.6 28.0 1998 100.0 55.5 23.7 20.8 1999 100.0 58.7 24.0 17.3 2000 100.0 59.1 22.9 18.0 2001 100.0 59.8 22.6 17.6 2002 100.0 57.3 25.3 17.4 2003 100.0 52.9 31.1 16.0 2004 100.0 48.1 37.7 14.2 2005 100.0 47.1 38.0 14.9 2006 100.0 45.7 38.1 16.2 Sơ bộ 2007 100.0 39.9 35.3 24.8 (Nguồn: Tổng cục thống kê Việt Nam) Qua bảng số liệu trên chúng ta có thể thấy được nguồn vốn đầu tư tư nhấn chiếm tới 1/3 khối lượng vốn cho đầu tư phát triển. Và có xu hướng ngày càng gia tăng. Cũng trên số liệu trên chúng ta có thể khẳng định nguồn vốn của khu vực tư nhân ngày càng chiếm vai trò quan trọng đối với tăng trưởng và phát triển kinh tế. Với khối lượng vốn đầu tư đạt 184300 tỷ đồng (năm 2007), chiếm tỷ trọng 35.3% so với tổng vốn đầu tư của nền kinh tế. Trong khi đó vốn đầu tư của kinh tế nhà nước và kinh tế có vốn nước ngoài lần lượt là 208100 tỷ đồng; 129300 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng lần lượt là 39.9% ; 24.8%. Sự tiến bộ trong cơ chế, chính sách khuyến khích của nhà nước Từ trước tới nay Việt Nam chủ yếu dựa vào nguồn vốn Nhà nước và một phần._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc24987.doc