Đánh giá quá trình hoạt động của các Công ty chứng khoán ở Việt Nam những năm qua và định hướng phát triển trong thời gian tới

Lời mở đầu Trong những năm gần đây với sự đổi mới trong quản lí kinh tế, thị trường chứng khoán đã ra đời và bước đầu đạt được những thành công nhất định. Góp phần làm nên thành công đó một yếu tố không thể thiếu là sự có mặt của chủ thê tham gia kinh doanh trên thị trường chứng khoán. Mục tiêu hình thành thị trường chứng khoán là thu hút vốn đầu tư dài hạn để phát triển kinh tế và tạo ra tính thanh khoản cho các loại chứng khoán. Do vậy, việc thúc đẩy thị trường chứng khoán hoạt động một các

doc35 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1448 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Đánh giá quá trình hoạt động của các Công ty chứng khoán ở Việt Nam những năm qua và định hướng phát triển trong thời gian tới, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
h có trật tự, công bằng và hiệu quả cần phải có sự ra đời và hoạt động của các Công ty chứng khoán. ở Việt Nam, hoạt động thị trường chứng khoán cũng như hoạt động của các Công ty chứng khoán tính đến nay đã tròn 3 năm. Một thời điểm thích hợp để chúng ta nhìn nhận những kết quả bước đầu đạt được so với mục tiêu đặt ra trong giai đoạn hoạt động ban đầu. Đồng thời rút ra những kinh nghiệm còn thiếu sót, yếu kém và đề ra phương hướng, giải pháp tiếp tục phát triển thị trường chứng khoán cho các bước tiếp theo trong thời gian tới. Để hiểu rõ hơn về các vấn đề trên, em đã đi sâu tìm hiểu hoạt động của thị trường chứng khoán và mạnh dạn lựa chọn đề tài: Đánh giá quá trình hoạt động của các Công ty chứng khoán ở Việt Nam những năm qua và định hướng phát triển trong thời gian tới. làm bài đề án môn học . Bài đề án gồm 3 chương: Chương I: Khái quát chung về thị trường chứng khoán và Công ty chứng khoán ở Việt Nam. Chương II: Thực trạng hoạt động và phát triển Công ty chứng khoán ở Việt Nam trong những năm qua. Chương III: Một số giải pháp kiến nghị nhằm khắc phục nhũng tồn tại ảnh hưởng tới quá trình hoạt động và phát triển ở hầu hết các Công ty chứng khoán trong thời gian qua. Thị trường chứng khoán cũng như hoạt động của các Công ty chứng khoán là một vấn đề còn rất mới mẻ đối với em nên do khả năng trình độ và kinh nghiệm thực tế có hạn, bài viết không tránh khỏi có những thiếu sót. Em rất mong nhận được những ý kiến đóng góp của thầy cô và các bạn để bài viết hoàn thiện hơn. Chương I Khái quát chung về thị trường chứng khoán và Công ty chứng khoán ở Việt Nam. I. Sơ lược về lịch sử hoạt động và phát triển thị trường chứng khoán Thị trường chứng khoán ban đầu hình thành và phát triển một cách rất tự phát và sơ khai, xuất phát từ một nhu cầu đơn lẻ từ buổi ban đầu. Vào giữa thế kỉ XV tại những thành phố trung tâm buôn bán ở Phương Tây, các thương gia thường tụ tập tại các quán cà phê để trao đổi mua bán các vật phẩm hàng hoá… Lúc đầu chỉ một nhóm nhỏ, sau đó tăng dần và hình thành một khu chợ riêng. Cuối thế kỉ XV để thuận tiện hơn cho việc buôn bán, khu chợ trở thành “ thị trường” với việc thống nhất các qui ước và dần dần các qui ước này được sửa đổi và hoàn chỉnh thành những qui tắc có giá trị bắt buộc chung cho mọi thành viên tham gia “thị trường”. Sự phát triển thị trường ngày càng mạnh mẽ cả về lượng và chất với số thành viên tham gia đông đảo và những nội dung khác nhau. Do đó nó được phân ra thành nhiều thị trường khác nhau như: thị trường giao dịch hàng hoá, thị trường hối đoái, thị trường giao dịch các hợp đồng tương lai và thị trường chứng khoán… tạo thuận lợi cho giao dịch của người tham gia trong đó. Các phương thức giao dịch ban đầu được diễn ra ngoài trời với những kí hiệu giao dịch bằng tay và có thư kí nhận lệnh của khách hàng. Cho đến năm 1921 sở giao dịch chứng khoán chính thức được thành lập. Ngày nay, cùng với sự phát triển của công nghệ, khoa học kỹ thuật các phương thức giao dịch tại các sở giao dịch chứng khoán cũng đã được cải tiến theo tốc độ và khối lượng yêu cầu nhằm đem lại hiệu quả và chất lượng cho giao dịch. Các sở giao dịch dần dần sử dụng máy vi tính để truyền các lệnh đặt hàng và chuyển dần từ giai đoạn thủ công kết hợp với máy vi tính sang sử dụng hoàn toàn hệ thống giao dịch điện tử. Cho đến nay, các nước trên thế giới đã có khoảng trên 160 sở giao dịch chứng khoán phân tán trên khắp các châu lục, bao gồm cả các nước phát triển trong khu vực Đông Nam á vào những năm 1960- 1970 và những nước như: Balan, Hungary, Séc, Nga, Trung Quốc vào những năm đầu 1990. Thị trường chứng khoán phát triển ở mức có thể nói là không thể thiếu trong đời sống khinh tế của những nước theo cơ chế thị trường và nhất là những nước đang phát triển cần thu hút luồng vốn dài hạn cho nền kinh tế quốc dân. II. Tổng quan về Công ty chứng khoán và Công ty chứng khoán ở Việt Nam Lịch sử hình thành và phát triển của thị trường chứng khoán trên thế giới cho thấy thời tiền sử của thị trường chứng khoán các nhà môi giới hoạt động cá nhân độc lập với nhau. Sau này cùng với sự phát triển của thị trường chứng khoán, chức năng và qui mô hoạt động giao dịch của các nhà môi giới tăng lên đòi hỏi sự ra đời của các Công ty chứng khoán, đó là sự tập hợp có tổ chức của các nhà môi giới riêng lẻ. Mô hình tổ chức Công ty chứng khoán Định nghĩa về Công ty chứng khoán Có nhiều định nghĩa về Công ty chứng khoán. ở Việt nam các công ty chứng khoán là các công ty cổ phần, công ty TNHH được thành lập hợp pháp tại Việt Nam và được uỷ ban chứng khoán cấp giấy phép thực hiện một hoặc một số loại hình kinh doanh chứng khoán. Trong lịch sử và trên thực tế, các công ty chứng khoán có nhiều loại hình tổ chức, hoạt động của Công ty rất đa dạng, phức tạp khác hẳn với các doanh nghiệp sản xuất hay thương mại thông thường. Do đó, mô hình tổ chức kinh doanh của công ty chứng khoán ở mỗi nước đều có những đặc điểm riêng tuỳ theo đặc điểm của hệ thống tổ chức và sự cân nhắc lợi hại của những người làm công tác quản lí nhà nước. Hiện nay trên thế giới có hai mô hình phổ biến về công ty chứng khoán: - Mô hình công ty chuyên doanh chứng khoán: Theo mô hình này, hoạt động kinh doanh chứng khoán sẽ do các công ty chứng khoán độc lập, chuyên môn hoá trong lĩnh vực chứng khoán đảm nhận, các ngân hàng không được tham gia vào kinh doanh chứng khoán. Mô hình này được áp dụng ở nhiều nước như: Mĩ, Nhật, Hàn Quốc, Canada… - Mô hình công ty đa năng: + Công ty đa năng một phần: Các ngân hàng muốn tham gia kinh doanh chứng khoán phải thành lập công ty con kinh doanh độc lập. + Công ty đa năng hoàn toàn: Các ngân hàng thương mại được phép kinh doanh tổng hợp (chứng khoán, bảo hiểm, tiền tệ). * ở Việt Nam: Về lâu dài nên đi theo mô hình công ty đa năng vì đây là xu thế chung của các nước đang hướng tới. Tuy nhiên, trong thời gian hiện nay việc lựa chọn mô hình công ty chứng khoán ở nước ta cần được căn cứ vào các điều kiện hiện tại của nền kinh tế và khả năng phát triển trong tương lai. Sơ đồ phương thức tổ chức của công ty chứng khoán ở nước ta Sở giao dịch Văn phòng đại diện công ty chứng khoán Đơn đặt hàng Văn phòng đại diện công ty chứng khoán Văn phòng đại diện công ty chứng khoán Công ty chứng khoán Kết quả giao dịch Lệnh thu (lệnh chi) Hệ thống thương lượng đấu giá Đại diện công ty chứng khoán Tổng hợp đơn đặt hàng Người tiết kiệm Người đầu tư Quĩ đầu tư Doanh nghiệp Quĩ tương hỗ Kho bạc NN Chính quyền Địa phương Cơ cấu tổ chức của Công ty chứng khoán: Với những mức độ phát triển khác nhau của thị trường chứng khoán, cơ cấu tổ chức của Công ty chứng khoán cũng khác nhau để đáp ứng những nhu cầu riêng của Công ty. Tuy nhiên chúng đều có đặc điểm chung là hệ thống các phòng ban chức năng được chia ra làm hai khối tương ứng với hai khối công việc mà công ty chứng khoán đảm nhận: - Khối I (front office): Do một phó giám đốc trực tiếp phụ trách các giao dịch mua bán kinh doanh chứng khoán, nói chung là có liên hệ với khách hàng. Khối này đem lại thu nhập cho công ty bằng cách đáp ứng nhu cầu của khách hàng và tạo ra các sản phẩm phù hợp với các nhu cầu đó. Sơ đồ 1 Phó giám đốc điều hành khối I Phòng môi giới Phòng bảo lãnh phát hành Phòng tư vấn đầu tư Phòng quản lý quỹ đầu tư Phòng tự doanh (kinh doanh) Phòng tư vấn tài chính công ty Phòng thanh toán và lưu giữ chứng khoán Phòng quản lí thu nhập chứng khoán Phòng uỷ quyền Phòng cho vay chứng khoán - Khối II (back office): Khối này cũng do một phó giám đốc phụ trách, thực hiện công việc yểm trợ cho khối I. Bất kỳ nghiệp vụ nào ở khối I đềi cần sự trợ giúp của các phòng ban thuộc khối II. Sơ đồ 2 Phó giám đốc điều hành khối II Phòng kí quỹ (quản lí tài khoản) vay mua Phòng hành chính và tổ chức Phòng thông tin và phân tích chứng khoán Phòng ngân quỹ Phòng nghiên cứu và phát triển Phòng kế toán Phòng hạch toán tín dụng Phòng kế hoạch kinh doanh Phòng phát triển sản phẩm mới Phòng máy tính và tin học Phòng pháp chế Ngoài sự phân biệt rõ ràng hai khối như vậy, công ty chứng khoán còn có thể có thêm một số phòng ban như: phòng cấp vốn, phòng tín dụng… Đối với những công ty lớn còn có thêm chi nhánh văn phòng ở các địa phương hoặc các nước khác nhau. Vai trò của Công ty chứng khoán: Khi thực hiện các hoạt động của mình, các công ty chứng khoán cũng tạo ra sản phẩm vì họ là đại lí hay uỷ thác trong quá trình mua bán chứng khoán, dịch vụ tư vấn đầu tư cho các cá nhân đầu tư, công ty và cả chính phủ. - Vai trò huy động vốn: Các công ty chứng khoán là trung gian tài chính có vai trò huy động vốn tức họ là kênh chuyển vốn từ nơi dư thừa sang nơi có nhu cầu sử dụng vốn. Thực hiện vai trò này thông qua các hoạt động về nghiệp vụ ngân hàng đầu tư và môi giới chứng khoán. - Vai trò xác định giá cả chứng khoán: Thông qua sở giao dịch chứng khoán, thị trường OTC, các công ty chứng khoán cung cấp một cơ chế giá cả nhằm giúp nhà đầu tư có được sự đánh giá đúng thực tế và chính xác về giá trị khoản đầu tư của mình. - Vai trò thực hiện tính thanh khoản của thị trường chứng khoán: Các công ty chứng khoán thực hiện cơ chếchuyển đổi này, từ đó giúp nhà đầu tư thực hiện mong muốn chuyển tiền mặt thành chứng khoán và ngược lại một cách ít thiệt hại nhất. - Thúc đẩy vòng quay của chứng khoán: Các công ty chứng khoán cũng là người tạo ra sản phẩm bằng cách cung cấp cho khách hàng các cách đầu tư khác nhau. Qua đó, họ góp phần làm tăng vong quay của chứng khoán qua việc chú ý đến nhu cầu của người đầu tư, cải tiến các công cụ tài chính của mình làm cho chúng phù hợp với nhu cầu của khách hàng. - Dịch vụ tư vấn tài chính: Các công ty chứng khoán với dịch vụ tổng hợp không chỉ thực hiện lệnh của khách hàng mà còn tham gia vào nhiều dịch vụ tư vấn, cung cấp các thông tin đa dạng, nghiên cứu thị trường cho các công ty cổ phần và cá nhân đầu tư. - Các sản phẩm đầu tư: Các sản phẩm đầu tư hiện nay phát triển rất mạnh do yếu tố dung lượng thị trường và biến động thị trường ngày càng lớn, nhận thức rõ ràng hơn của khách hàng đối với thị trường chứng khoán, sự nỗ lực trong tiếp thị của các công ty chứng khoán. Thành lập Công ty chứng khoán: Trước khi thành lập, các sáng lập viên cần xác định rõ công ty chứng khoán tương lai thuộc loại hình sở hữu nào. Vì nó quyết định cách thức huy động vốn, quản lí điều hành của công ty. Các sáng lập viên phải đáp ứng được các tiêu chuẩn và điều kiện do luật pháp qui định, nó là cơ sở để các cơ qua quản lí thị trường chứng khoán cấp giấy phép thành lập cho công ty. Các tiêu chuẩn bao gồm: - Có phương án hoạt động kinh doanh chứng khoán phù hợp với ngành chứng khoán. - Có cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ tốt cho việc kinh doanh chứng khoán. - Yêu cầu về vốn điều lệ: Côg ty xin giấy phép phải đạt mức vốn điều lệ tối thiểu do luật định theo từng loại nghiệp vụ. * Tại Việt Nam: Mức vốn pháp định được phân theo từng loại hình kinh doanh: Nghiệp vụ môi giới: 3 tỷ đồng; tự doanh: 12 tỷ đồng; quản lí danh mục đầu tư: 3 tỷ đồng; bảo lãnh phát hành: 22 tỷ đồng; tư vấn đầu tư chứng khoán: 3 tỷ đồng. - Yêu cầu về nhân sự: Cá nhân được cấp giấy phép hành nghề kinh doanh chứng khoán trong công ty chứng khoán phải có đủ năng lực pháp lí và năng lực hành vi dân sự; có đủ các chứng chỉ đào tạo và chuyên môn cần thiết, không bị truy cứu trách nhiệm hình sự, nộp lệ phí đầy đủ… Người đại diện cho công ty chứng khoán phải có đủ trình độ chuyên môn, được Uỷ ban chứng khoán cấp giấy phép hành nghề. * Tại Việt Nam: Các công ty chứng khoán hiện nay được thành lập và hoạt động theo nghị định số 48/1998/NĐ-CP ngày 11/7/1998 của chính phủ về chứng khoán và thị trường chứng khoán. Quyết định số 04/1998/QĐ- UBCK ngày 13/10/1998 của chủ tịch Uỷ ban chứng khoán nhà nước về việc ban hành qui chế tổ chức và hoạt động của công ty chứng khoán. Theo đó, toàn bộ quá trình thành lập, hoạt động… của công ty chứng khoán được qui định rõ ràng về mặt luật pháp và những qui định sẽ thay đổi tuỳ theo tình hình hoạt động thực tế của thị trường. 3. Hoạt động tài chính của Công ty chứng khoán 3.1 Chế độ tài chính: Cơ cấu vốn của các Công ty chứng khoán là tuỳ thuộc vào luật định của từng nước và đặc điểm của Công ty chứng khoán. Công ty phải mở và quản lí tài khoản của khách hàng tách biệt với nhau. Công ty cũng không được phép tiết lộ tình hình về tài khoản của khách hàng cho người khác biết. Công ty phải xác định được vốn khả dụng và tổng vốn nợ đã điều chỉnh theo qui định của luật pháp. Các qui định về sử dụng vốn của Công ty phải tuân thủ theo đúng qui định. * Tại Việt Nam: Theo quyết định số 04/1998/QĐ- UBCK 3 ngày 13/10/1998, Công ty chứng khoán không được sử dụng quá 50% vốn điều lệ để mua sắm trang thiết bị và tài sản cố định; không được đầu tư quá 20% tổng số chứng khoán đang lưu hành của một công ty niêm yết; không được đầu tư quá 15% tổng số chứng khoán đang lưu hành của một công ty không niêm yết; không được bảo lãnh phát hành chứng khoán vượt quá 4 lần hiện sốgiữa giá trị TSLĐ và tổng số nợ ngắn hạn của công ty chứng khoán. Công ty cũng phải trích 5% lãi ròng hàng năm lập quĩ bổ sung vốn lưu động cho đến khi bằng 10% vốn lưu động. Công ty chứng khoán phải thực hiện chế độ kế toán theo qui định của pháp luật ở mỗi nước và phải có xác nhận các báo cáo tài chính của một công ty kiểm toán độc lập. Công ty chứng khoán phải tuân thủ nghiêm chỉnh qui định của UBCK về chế độ báo cáo thường kì và bất thường theo yêu cầu của UBCK. 3.2 Thu nhập và chi phí: Nói chung, Công ty chứng khoán có tiền lương và tiền lãi là hai khoản chi phí lớn nhất, lãi đi vay chiếm khoảng 80% tổng thu nhập. Các công ty cũng phụ thuộc nhiều vào hoa hồng môi giới: 80-90% tổng số hoa hồng. Còn bảo lãnh chứng khoán và mua bán tuy có qui mô rất lớn song không có đóng góp nhiều vào thu nhập, mặt khác có độ rủi ro cao. * Tại Việt Nam: theo thông tư số 01/2000/TT-UBCK ngày 17/4/2000 của UBCK nhà nước về hướng dẫn tạm thời chế độ thu phí đối với khách hàng của công ty chứng khoán, công ty được phép thu phí bảo lãnh phát hành tối đa không vượt quá 3% tổng giá trị bảo lãnh phát hành chi phí môi giới đối với cổ phiếu; chứng chỉ quĩ đầu tư tối đa không vượt quá 0,75% trị giá giao dịch; đối với trái phiếu tối đa không quá 0,5% trị giá giao dịch; phí tư vấn đầu tư và cung cấp thông tin là theo thoả thuận giữa khách hàng và công ty; phí quản lí danh mục đầu tư tối đa không quá 2% /năm/giá trị vốn uỷ thác bình quân; phí quản lí quĩ đầu tư tối đa không quá 2%năm/ giá trị tài sản quĩ bình quân năm; phí dịch vụ bảo quản, giám sát tài sản của quĩ đầu tư được thu theo hợp đồng giá sát bảo quản tài sản giữa công ty và khách hàng; phí đại diện người sở hữu trái phiếu tối đa không quá 0,1% tổng giá trị trái phiếu phát hành. Các mức này được thay đổi tuỳ theo tình hình hoạt động thực tế của thị trường. Các nghiệp vụ Công ty chứng khoán: Công ty chứng khoán hoạt động theo nguyên tắc bắt buộc như: Giao dịch trung thực và công bằng vì lợi ích của khách hàng; kinh doanh có kĩ năng, có tinh thần trách nhiệm; Ưu tiên thực hiện lệnh của khách hàng trước khi thực hiện lệnh của Công ty; Đảo bảo nguồn tài chính trong cam kết chứng khoán với khách hàng. Nghiệp vụ kinh doanh chứng khoán của Công ty chứng khoán: Giao dịch chứng khoán theo uỷ thác (môi giới) (in commission) Giao dịch theo uỷ thác là các hoạt động mua bán chứng khoán theo hợp đồng uỷ thác giao dịch của khách hàng: - Quyết định mua bán là do khách hàng đưa ra và Công ty chứng khoán phải thực hiện theo lệnh đó. - Công ty chứng khoán đứng tên mình thực hiện các giao dịch theo lệnh của khách hàng. - Việc hạch toán các giao dịch phải được thực hiện trên các khoản thuộc sở hữu của khách hàng. - Công ty chứng khoán chỉ được thu phí dịch vụ theo thoả thuận trong hợp đồng uỷ thác giao dịch. Để đảm bảo quyền lợi cho khách hàng uỷ thác, tạo cơ sở pháp lí cho việc xử lí các tranh chấp về giá trị thực thi hợp đồng và tạo thuận lợi cho các hoạt động tự giao dịch của công ty chứng khoán, pháp luật các nước có qui định như sau: “ Các hợp đồng giao dịch chứng khoán được niêm yết của khách hàng phải được đưa vào giao dịch trên sở (trung tâm) giao dịch chứng khoán, ngoại trừ khách hàng có chỉ thị bàng văn bản”. * Tại Việt Nam: Theo nghị định số 48/1998/NĐ-CP ngày 11/7/1998 của chính phủ: nghiệp vụ môi giới chúng khoán là hoạt động trung gian hoặc đại diện mua, bán chứng khoán cho khách hàng để hưởng hoa hồng. Theo nguyên tắc uỷ thác, công ty chứng khoán phải: - Tuân thủ tuyệt đối quy định của khách hàng uỷ thác được ghi cụ thể trên các lệnh giao dịch. - Công ty chứng khoán phải hoàn toàn chịu trách nhiệm do sai phạm hay sai sót của mình. - Khi các giao dịch được thực hiện (tức khi được khớp giá trên sở- trung tâm giao dịch- công ty chứng khoán phải thông báo ngay cho khách hàng và chuyển ngay chứng khoán sang sở hữu của khách hàng (mua). - Công ty chứng khoán phải chịu hoàn toàn trách nhiệm trước khách hàng uỷ thác về trách nhiệm thực thi (hoàn tất) các giao dịch đối tác thứ ba. Nghiệp vụ tự doanh chứng khoán (in property): Giao dịch tự doanh là các giao dịch bằng chính nguồn kinh doanh của Công ty chứng khoán nhằm phục vụ mục đích đầu tư kinh doanh thu lợi của chính mình. * Tại Việt Nam: Theo nghị định số 48/1998/NĐ-CP ngày 11/7/1998 của chính phủ thì nghiệp vụ tự doanh là công ty chứng khoán mua và bán chứng khoán cho chính mình. Giao dịch tự doanh được thực hiện theo phương thức giao dịch trực tiếp hay giao dịch gián tiếp: - Giao dịch trực tiếp là giao dịch “ trao tay” giữa khách hàng và Công ty chứng khoán theo giá thoả thuận thị trường (giao dịch tại quầy). Các đối tác giao dịch có thể là cá nhân tổ chức (chủ yếu là công ty chứng khoán). Thời gian giao dịch thường được thực hiện trong và ngoài giờ giao dịch của sở (trung tâm) giao dịch (kể cả ban đêm và ngày nghỉ). Chứng khoán giao dịch rất đa dạng chủ yếu là chứng khoán không niêm yết, chứng khoán mới phát hành. Hoạt động giao dịch này không chịu sự giám sát của sở (trung tâm) giao dịch nhưng chịu sự giảm sát của thanh tra nhà nước về chứng khoán. - Giao dịch gián tiếp: Là các giao dịch mà Công ty chứng khoán không thể thực hiện được bằng các giao dịch trực tiếp để đảm bảo an toàn khi thị giá có biến động lớn và đôi khi có thể vì mức độ can thiệp vào giá thị trường. Các giao dịch chứng khoán phát sinh: Chứng khoán phát sinh là các chứng từ nhận các quyền lợi bổ sung phát sinh từ chứng khoán. - Quyền ưu tiên mua cổ phiếu mới (quyền đặt mua hay chứng quyền): Quyền đặt mua là một loại chứng khoán phát sinh hoặc là một chứng chỉ xác nhận quyền sở hữu một phần giá trị cổ phiếu “đang chờ nhận”. Quyền đặt mua nhằm bù đắp thiệt hại của các cổ đông cũ khi công ty chứng khoán phát hành cổ phiêú mới. Do đó các quyền đặt mua cũng có giá trị của nó đó là giá trị nội tại của các quyền đật mua. - Trái phiếu chuyển đổi: Đó là loại chứng khoán nợ với những đặc tính phát hành thông thường nhưng có thêm quy định về quyền chuyển đổi- Không được phép huỷ ngang thành cổ phiếu của công ty phát hành trong một thời hạn được quy định. - Trái phiếu kèm quyền lựa chọn mua cổ phiếu: Trái phiếu kèm quyền lựa chọn mua cổ phiếu cũng có đặc tính như trái phiếu thông thường nhưng nó khác ở chỗ: đi kèm tờ trái phiếu này còn có các phiếu quyền lựa chọn mua cổ phiếu. - Quyền lựa chọn và giao dịch quyền lựa chọn: Quyền giao dịch là một căn cứ cho phép người nắm giữ nó được mua hoặc bán số cổ phiếu của công ty theo giá giao dịch (thoả thuận trước) và trong thời hạn được qui định trên quyền lựa chọn. Các chứng khoán được giao dịch theo các quyền lựa chọn được mua bán trên sàn giao dịch. Nghiệp vụ bảo lãnh phát hành Với đội ngũ chuyên gia giỏi về chứng khoán, am hiểu thị trường, có tiềm lực tài chính, các công ty chứng khoán hoạt động rất mạnh mẽ về nghiệp vụ bảo lãnh phát hành. Đây là hoạt động hỗ trợ cho công ty phát hành hay chủ sở hữu chứng khoán trong việc phân phối chứng khoán thông qua thoả thuận mua chứng khoán và để bán lại. * Tại Việt Nam: Theo nghị định số 48/1998/QĐ-CP ngày 11/7/1998 thì các công ty chứng khoán ở Việt Nam được thực hiện nghiệp vụ bảo lãnh phát hành và nghiệp vụ này được thực hiện trên thị trường sơ cấp. Hoạt động bảo lãnh phát hành gồm: - Nghiên cứu và tư vấn cho tổ chức phát hành về các thủ tục và phương pháp phát hành, cơ cấu giá… - Thoả thuận với các nhà bảo lãnh khác trong việc tiếp thị phân phối chào bán chứng khoán. - Quản lí pháp luật và thanh toán chứng khoán. - Thực hiện các công việc hỗ trợ cho thị trường và dịch vụ sau khi phát hành. - Đại lí phân phối chứng khoán. Qua hoạt động bảo lãnh phát hành, các công ty chứng khoán thu về hoa hồng bảo lãnh. Hoa hồng này có thể là cố định, có thể tuỳ ý của từng công ty chứng khoán. Các nghiệp vụ phụ trợ của Công ty chứng khoán: - Hoạt động tín dụng (giao dịch mua bán chịu): Khách hàng có ý định mua bán chứng khoán nhưng không có đủ tiền để tham gia thị trường, công ty chứng khoán sẽ mua bán chứng khoán qua thị trường giao dịch mua bán chịu. - Quỹ quản lí trái phiếu: Sản phẩm của quỹ quản lí trái phiếu là trái phiếu công ty có bảo đảm, trái phiếu giao dịch… - Giao dịch trái phiếu theo hợp đồng chuộc lại trái phiếu: Hợp đồng chuộc lại trái phiếu từ vòng đầu tư tại một thời điểm trong tương lai sẽ được hai bên kí kết tại thời điểm giao dịch hiện tại. - Kí gửi đầu tư trái phiếu số lượng nhỏ để tiết kiệm thuế: Người đầu tư phải giữ trái phiếu trong một thời gian từ 1 năm đến hết hạn. Loại kí gửi này có ưu điểm lớn về thuế và điều kiện mở tài khoản đơn giản. Ngoài ra Công ty chứng khoán còn có nhiều hoạt động khác mang tính đặc biệt như huy động vốn ngắn hạn. Hiện nay, luật chứng khoán ở nhiều nước cho phép các công ty chứng khoán có thể thực hiện một, hai hay tất cả các nghiệp vụ kinh doanh chứng khoán. Số vốn điều lệ của công ty chứng khoán phải tối thiểu bằng số vốn điều lệ với mỗi nghiệp vụ chứng khoán mà công ty được phép kinh doanh. Tại Việt Nam, nghị định 48/1998/NĐ-CP ngày 11/7/1998 đã qiu định về loại hình kinh doanh, mức vốn pháp định tuỳ theo từng loại hình kinh doanh của công ty chứng khoán, điều kiện kinh doanh của công ty. Đây là văn bản pháp lí quan trọng, tạo cơ sở để tiến hành các nghiệp vụ kinh doanh chứng khoán của các công ty. Chương II Thực trạng hoạt động và phát triển Công ty chứng khoán ở Việt Nam trong những năm qua. Quá trình hoạt động và phát triển của công ty chứng khoán Những năm qua, Việt Nam chúng ta chưa có loại hình công ty chứng khoán. Việc phát hành các trái phiếu, cổ phiếu, trái phiếu công ty và cổ phiếu của các công ty cổ phần vẫn được thực hiện trên thị trường. Các chứng khoán này được phát hành trên thị trường sơ cấp phần lớn không thông qua các tổ chức bảo lãnh, mà được bán lẻ trực tiếp ra công chúng. Các chứng khoán này rất khó chuyển nhượng vì chúng ta chưa có các công ty chứng khoán, sẽ không có tổ chức tư vấn và bảo lãnh cho việc phát hành, đồng thời cũng không có một số ngân hàng thương mại đứng ra làm nghiệp vụ chứng khoán cho công tái và các giấy towf có giá. Tuy nhiên, nghiệp vụ này không được thực hiện thường xuyên và gặp phải nhiều vướng mắc vì luật các tổ chức tín dụng không cho phép ngân hàng thương mại kinh doanh chứng khoán. Do đó việc thành lập công ty chứng khoán là một đòi hỏi tất yếu trong việc xác định thị trường chứng khoán ở Việt Nam. Thực tế cho thấy, qua từng năm chính thức đi vào hoạt động (tính đến cuối tháng 7/2003), thị trường chứng khoán Việt nam đã đạt được những thành công nhất định tương ứng với từng giai đoạn. - Giai đoạn 1: Công ty chứng khoán một năm lớn lên cùng thị trường. - Giai đoạn 2: Bước sang năm thứ hai hoạt động công ty chứng khoán đã bắt nhịp và hoàn thiện. - Giai đoạn 3: Công ty chứng khoán sau ba năm hoạt động và phát triển. Giai đoạn 1: Công ty chứng khoán một năm lớn lên cùng thị trường Kể từ ngày cấp giấy phép hoạt động kinh doanh chứng khoán cho hai công ty chứng khoán đầu tiên ở Việt nam là Công ty cổ phần chứng khoán Bảo Việt và Công ty TNHH chứng khoán Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam, tính đến năm 2000 UBCK Nhà nước đã cấp giấy phép thêm cho 6 Công ty chứng khoán. Đó là: Công ty cổ phần chứng khoán Sài Gòn, Công ty cổ phần chứng khoán Đệ Nhất, Công ty TNHH chứng khoán Thăng Long, Công ty TNHH chứng khoán ACBS, Công ty TNHH chứng khoán Ngân hàng công thương Việt nam và công ty TNHH chứng khoán Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt nam. Hoạt động của công ty chứng khoán: Công ty chứng khoán là khâu trung gian và là chiếc cầu nối giữa người đầu tư và các hoạt động của thị trường chứng khoán. Ngoài những chứng từ đào tạo của UBCK Nhà nước mang tính chất phổ cập cho công chúng, các Công ty chứng khoán trong thời gian đầu này đã có những đóng góp rất quan trọng trong việc giới thiệu cho công chúng đầu tư hiểu biết rõ hơn về bản chất và sự vận hành của thị trường chứng khoán. Điều này được thể hiện rất rõ qua sự tham gia của đông đảo các nhà đầu tư Việt Nam vào thị trường chứng khoán. Vào tháng 7/2000 khi thị trường chứng khoán Việt nam chính thức đi vào hoạt động, số lượng tài khoản của nhà đầu tư mở tại các Công ty chứng khoán mới chỉ đạt khoảng hơn 1800 tài khoản và số lượng tài khoản này đã tăng lên liên tục trong những tháng tiếp theo. Năm 2001 tổng số tài khoản đã tăng lên hơn 5800 tài khoản (tăng khoảng hơn 3 lần), trong số đó có nhiều tài khoản chưa thực hiện được giao dịch. Số lượng cổ phiếu và trái phiếu được lưu ký tại các Công ty chứng khoán cũng tăng lên rõ rệt. Tính đến thời điểm này, tổng số cổ phiếu được lưu ký tại các Công ty chứng khoán vào khoảng 14 triệu cổ phiếu, chiếm 44% số lượng cổ phiếu niêm yết. Tổng số trái phiếu niêm yết trên thị trường được lưu ký tại các Công ty chứng khoán tính đến thời điểm này tăng lên nhiều, đạt khoảng 11,3 triệu (tăng 117% so với tổng số trá phiếu được lưu ký trong tháng 8/2000). Nghiệp vụ kinh doanh chứng khoán của Công ty chứng khoán: Ngay thời gian mới đi vào hoạt động có 6 Công ty được cấp giấy phép thực hiện cả 5 loại hình kinh doanh chứng khoán. Nghiệp vụ môi giới: Tính đến năm 2000, các Công ty chứng khoán rất chú trọng đến nghiệp vụ này. Tổng giá trị giao dịch của các công ty chứng khoán đã có những biến động qua các tháng theo xu hướng ngày càng tăng. Điều này đã chứng tỏ được các công ty chứng khoán đã tìm đúng cách để thu hút nhà đầu tư và đã đi đúng hướng của mình. Tổng giá trị giao dịch của các công ty chứng khoán thấp nhất là trong tháng 8/2000 đạt gần 25 tỉ đồng và cao nhất là tháng 6/2001 đạt trên 346 tỉ đồng. Tổng chi phí môi giới mà các công ty chứng khoán đã thu được tăng lên đáng kể. Đồ thị: Đơn vị: triệu đồng Đơn vị: nghìn đồng Nghiệp vụ tự doanh: Trong số 8 công ty chứng khoán, chỉ có 6 công ty đăng kí được phép thực hiện nghiệp vụ tự doanh. Nhìn chung nghiệp vụ tự doanh của các công ty chứng khoán tính đến thời điểm này chưa chiếm tỉ trọng lớn trong hoạt động của các công ty chứng khoán, giá trị chứng khoán tự doanh của các công ty chứng khoán luôn thay đổi theo các tháng. Kể từ khi khai thác trong hoạt động đến nay tỉ trọng tự doanh cổ phiếu niêm yết của các công ty thường chiếm phần lớn (trên 75% trong tổng số trị giá tự doanh của công ty). Trong tháng 5 tình hình có diễn biến ngược lại, trị giá tự doanh trái phiếu chiếm khoảng 72% trong tổng giá trị tự doanh của các công ty chứng khoán. Bên cạnh đó có một số công ty chứng khoán đã thực hiện nghiệp vụ này đối với cổ phiếu chưa niêm yết. Nghiệp vụ quản lí danh mục đầu tư: Tính tại thời điểm này có hai công ty chứng khoán đã triển khai nghiệp vụ quản lí danh mục đầu tư trong tổng số 7 công ty được cấp phép nghiệp vụ quản lí danh mục đầu tư. Tổng trị giá giao dịch của nghiệp vụ này cũng không đáng kể trong tổng số các nghiệp vụ mà công ty đã triển khai. Trong giai đoạn này (2000-2001) lượng hàng hoá còn quá ít, chênh lệch giữa cung và cầu còn lớn, trong khi các công ty chứng khoán lại ưu tiên lệnh của khách hàng trước…Tuy nhiên, việc triển khai quản lí danh mục đầu tư trong giai đoạn này cũng là những bước đi hết sức cần thiết cho việc thực hành phân tích và dự đoán sự biến động thị trường của các công ty chứng khoán. Nghiệp vụ tư vấn đầu tư: Đây là một trong những nghiệp vụ được triển khai rất phổ biến của các công ty chứng khoán trong thời gian qua. Hầu hết các công ty chứng khoán đã thực hiện tiếp xúc và tư vấn đầu tư cho các cá nhân và tổ chức kinh tế. Tuy nhiên để thu hút được khách hàng, các công ty chứng khoán hầu hết thực hiện tư vấn miễn phí cho khách hàng. Bên cạnh đó, các công ty cũng đã tư vấn cho các doanh nghiệp về khả năng tham gia vào thị trường chứng khoán của doanh nghiệp. Đây cũng là một nhân tố rất tích cực để giúp các doanh nghiệp mạnh dạn tham gia vào thị trường chứng khoán tạo sự phát triển của thị trường trong tương lai. Nghiệp vụ bảo lãnh phát hành: Việc triển khai nghiệp vụ bảo lãnh phát hành của các công ty chứng khoán gặp rất nhiều khó khăn. Cũng có các nguyên nhân chủ quan và khách quan ảnh hưởng trực tiếp đến nghiệp vụ này. Do đó, tính đến thời điểm này các công ty chứng khoán mới chỉ dừng lại ở bước tiếp xúc với khách hàng hoặc mới chỉ làm đại lí phát hành mà chưa có một hợp đồng bảo lãnh nào được kí kết. Tóm lại, với những nỗ lực trong hoạt động kinh doanh của các công ty chứng khoán trong thời gian này đã đóng góp một phần rất lớn vào sự phát triển của thị trường chứng khoán Việt nam. Giai đoạn 2: Bước sang năm thứ hai hoạt động công ty chứng khoán đã bắt nhịp và hoàn thiện. Trong thời gian qua có thể nói hoạt động của công ty chứng khoán bước đầu đã được đánh giá là thành công và là sự ghi nhận bước tiến quan trọng trong quá trình xây dựng đồng bộ và hoàn thiện thị trường chứng khoán Việt nam. Tính đến cuối tháng 12/2001, UBCK nhà nước đã cấp giấy phép hoạt động kinh doanh cho 8 công ty chứng khoán. Trừ công ty TNHH chứng khoán Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn mới bắt đầu đi vào hoạt động. Đánh giá hoạt động của các công ty chứng khoán: Về hoạt động môi giới chứng khoán Ngay từ khi thị trường giao dịch chứng khoán bắt đầu hoạt động, tháng 8/2000 các công ty chứng khoán chủ yếu tập trung vào việc triển khai hoạt động môi giới chứng khoán. Giao dịch môi giới chứng khoán đã tăng đáng kế qua các tháng Tính đến cuối tháng 12/2001 t._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc35478.doc