Đánh giá tác động của dồn điền đổi thửa đất nông nghiệp đến sản xuất của nông hộ tại huyện Việt Yên - Tỉnh Bắc Giang

1. Mở đầu 1.1 Tính cấp thiết của đề tài Đất đai là loại tài nguyên vô cùng quý giá, trong sản xuất nông nghiệp ruộng đất là tư liệu sản xuất rất quan trọng và đặc biệt không gì thay thế được. Hiệu quả ruộng đất của hộ sử dụng đất đai đang là vấn đề mang tính cấp bách và lâu dài của nước ta. Hiện nay đất đai đang là vấn đề mang tính kinh tế và xã hội hết sức nhạy cảm nên trong việc quản lý sử dụng đất đai luôn phát sinh những vấn đề hết sức phức tạp. Trong quá trình đổi mới hội nhập kinh tế

doc113 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1857 | Lượt tải: 2download
Tóm tắt tài liệu Đánh giá tác động của dồn điền đổi thửa đất nông nghiệp đến sản xuất của nông hộ tại huyện Việt Yên - Tỉnh Bắc Giang, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Đảng ta xác định công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn là một trong những nội dung cơ bản của công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước. Chủ trương của Đảng và nhà nước ta là tạo điều kiện thuận lợi để nông dân thực hiện đầy đủ đúng pháp luật các quyền về sử dụng đất đai, khuyến khích nông dân thực hiện “dồn điền, đổi thửa” trên cơ sở tự nguyện, nông dân được sử dụng giá trị quyền sử dụng đất để góp cổ phần tham gia phát triển sản xuất, phục vụ tốt cho công cuộc cơ khí hoá nông nghiệp cho mỗi địa phương. Việc dồn điền đổi thửa đã tạo ra bộ mặt nông thôn có nhiều thay đổi. Nước ta trở thành nước xuất khẩu gạo đứng thứ hai trên thế giới với 4-5 triệu tấn/năm. Tuy nhiên vấn đề ruộng đất đang bộc lộ những tồn tại những nảy sinh mới cản trở sự phát triển. Đó là tình trạng đất đai manh mún, phân tán đã hạn chế việc áp dụng tiến bộ kỹ thuật, cơ giới hoá, thuỷ lợi, đầu tư... dẫn đến năng suất lao động và năng suất đất đai thấp. Thấy được những hạn chế đó nhiều hộ đã tự đổi ruộng cho nhau, có hộ đã đi mua, đi thuê và đấu thầu của hộ khác để ruộng của hộ minh rộng hơn. Việc tập trung ruộng đất giúp người sản xuất thuận tiện hơn trong đầu tư cho sản xuất nông nghiệp. Vì vậy chuyển đổi ruộng đất, chống mang mún phân tán, tạo ra ô thửa lớn là việc làm cần thiết, tạo tiền đề cho thực hiện sự nghiệp CNH- HĐH nông thôn. Nhận biết rõ được những hạn chế đó nhiều địa phương đã thực hiện phong trào khuyến khích các hộ nông dân dồn đổi ruộng ô thửa nhỏ thành ruộng ô thửa lớn dưới sự chỉ đạo, lãnh đạo của Đảng uỷ, UBND các cấp. Những địa phương đi đầu trong phong trào này có thể kể đến như: Thanh Hoá, Hà Tây, Hà Nam, Bắc Ninh,... cho đến nay, phong trào dồn điền đổi thửa đã và đang diễn ra mạnh mẽ trong cả nước và được ủng hộ đồng tình của đông đảo các hộ dân. Hưởng ứng phong trào chung của cả nước, của tỉnh Bắc Giang, huyện Việt Yên đã tiến hành dồn điền, đổi thửa, phân bố lại ruộng đất của hộ sao cho hợp lý, tạo điều kiện thuận lợi cho hộ sử dụng các nguồn lực có hiệu quả nhất; tạo động lực thúc đẩy nhanh công nghiệp hoá hiện đại hoá nông thôn, thúc đẩy kinh tế nông nghiệp phát triển. Để hiểu rõ hơn về những tác động của việc dồn điền đổi thửa tới việc sản xuất nông nghiệp trong cả nước nói chung và sản xuất nông nghiệp ở huyện Việt Yên nói riêng chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài: “Đánh giá tác động của dồn điền đổi thửa đất nông nghiệp đến sản xuất của nông hộ tại huyện Việt Yên - tỉnh Bắc Giang” 1.2 Mục tiêu nghiên cứu 1.2.1 Mục tiêu chung Đánh giá tác động của dồn điền, đổi thửa ở hộ nông dân và phát hiện những vấn đề nảy sinh trong thực tiễn, từ đó đề xuất khuyến nghị về chính sách liên quan đến đất đai góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng đất canh tác, làm tăng thu nhập cho hộ nông dân. 1.2.2 Mục tiêu cụ thể - Góp phần hệ thống hoá những vấn đề lý luận và thực tiễn về tập trung ruộng đất tác động đến sản xuất nông nghiệp. - Đánh giá tác động của dồn điền đổi thửa đất nông nghiệp đến sản xuất nông nghiệp và quyết định sản xuất của nông hộ. - Đề xuất khuyến nghị và những giải pháp chủ yếu liên quan đến vấn đề tập trung ruộng đất nhằm thúc đẩy phát triển sản xuất trong nông hộ. 1.3 Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 1.3.1 Đối tượng nghiên cứu Nghiên cứu ảnh hưởng của dồn điền đổi thửa và những tác động của nó đến sản xuất nông nghiệp ở các hộ nông dân. 1.3.2 Phạm vi nghiên cứu - Phạm vi nội dung: Đánh giá tác động của dồn điền đổi thửa đến quyết định sản xuất và sản xuất nông nghiệp của hộ nông dân. - Không gian: Đề tài tiến hành nghiên cứu trên địa bàn huyện Việt Yên, tỉnh Bắc Giang và đi sâu cụ thể vào một số xã điển hình. - Thời gian: Tiến hành nghiên cứu về tình hình dồn điền đổi thửa của huyện Việt Yên từ năm 2002 đến nay, trong đó tình hình đất đai của nhóm hộ trước và sau dồn điền đổi thửa. Thời gian thực hiện đề tài: Từ tháng 12/2007 đến tháng 06/2008. 2. Cơ sở lý luận và thực tiễn 2.1 Khái niệm và vai trò của đất đai 2.1.1 Khái niệm về đất đai Đã có rất nhiều công trình khoa học nghiên cứu về đất đai xuất hiện với nhiều khái niệm khác nhau, đứng trên nhiều giác độ nghiên cứu khác nhau. Luật đất đai năm 1993 và sửa đổi bổ sung năm 2003 của nước Cộng Hoà Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam có ghi: “Đất đai là tài nguyên vô cùng quý giá, là tư liệu sản xuất đặc biệt, là thành phần quan trọng của môi trường sống, là địa bàn phân bố dân cư, xây dựng kinh tế văn hoá xã hội, an ninh quốc phòng. Trải qua nhiều thế hệ, nhân dân ta đã tốn bao công sức, xương máu tạo lập, bảo vệ được vốn đất đai như hiện nay”. 2.1.2 Vai trò của đất đai Đất nông nghiệp thường được coi là ruộng đất, là đất đai được sử dụng vào trong các ngành trồng trọt, chăn nuôi, nuôi trồng thuỷ sản và phục vụ cho mục đích thí nghiệm phục vụ sản xuất nông nghiệp. Trên thực tế người ta thường đưa đất có khả năng nông nghiệp tức diện tích chưa được sử dụng vào mục đích sản xuất nông nghiệp mà không cần đầu tư cải tạo lớn, đất sử dụng vào nông nghiệp của mỗi nước mỗi khu vực phụ thuộc vào các thuộc tính tương đối ổn định của sinh quyển bên trên, bên trong và bên dưới nó. Trong sản xuất nông nghiệp, ruộng đất có vai trò hết sức quan trọng. Bởi vì nó là nguồn lực, là cơ sở tự nhiên để tạo ra các sản phẩm nông nghiệp. Đất đai tham gia hầu hết vào các quá trình sản xuất của xã hội, nhưng tuỳ thuộc vào từng ngành cụ thể mà vai trò của đất đai có sự khác nhau. Trong công nghiệp, thương mại, giao thông đất đai là cơ sở, nền móng để trên đó xây dựng nhà cửa, cửa hàng, mạng lưới giao thông, thì ngược lại trong nông nghiệp ruộng đất tham gia với tư cách là yếu tố tích cực của sản xuất, là tư liệu sản xuất chủ yếu không thể thay thế được [5]. Ruộng đất là sản phẩm của tự nhiên, có trước lao động, nó xuất hiện và tồn tại ngoài ý muốn của con người vì thế ruộng đất là tài sản của quốc gia. Trong nông nghiệp, ruộng đất vừa là đối tượng lao động vừa là tư liệu lao động. Ruộng đất là đối tượng lao động khi con người sử dụng công cụ lao động tác động vào đất làm cho đất thay đổi hình dạng. Ruộng đất là tư liệu lao động, khi con người sử dụng công cụ lao động tác động lên đất thông qua thuộc tính lý học, hoá học, sinh học của đất. Sự kết hợp giữa đối tượng lao động và tư liệu lao động đã làm cho ruộng đất trở thành tư liệu sản xuất trong nông nghiệp. Không những vậy nó còn là tư liệu sản xuất chủ yếu, tư liệu sản xuất đặc biệt, tư liệu sản xuất không thể thay thế được. Như vậy, đất đai là thành phần quan trọng của môi trường sống, là địa bàn nơi dân cư sinh sống, xây dựng các cơ sở kinh tế, văn hoá xã hội. Đối với cây trồng đất đai không chỉ là môi trường sống mà còn là nơi cung cấp các chất dinh dưỡng. Vì vậy năng suất cây trồng phụ thuộc rất nhiều vào đất đai, sử dụng đầy đủ và hiệu quả sẽ làm tăng thu nhập, ổn định kinh tế chính trị xã hội. 2.2 Khái niệm về tập trung ruộng đất và tác động 2.2.1 Một số vấn đề về tập trung ruộng đất Khi nghiên cứu về “tích luỹ tư bản”, một khái niệm trong lý luận của chủ nghĩa Mác- Lênin cho rằng: tích luỹ tư bản là đầu tư tăng thêm vào tư bản đã có, làm cho tổng số tư bản tăng lên. Quá trình làm cho quy mô tư bản tăng lên được thực hiện bằng hai phương thức tích tụ tư bản và tập trung tư bản. “Tích tụ tư bản là làm cho quy mô tư bản xã hội tăng lên nhờ có tích luỹ tư bản cá biệt”. “Tập trung tư bản là hợp nhất một số tư bản cá biệt đã có thành một tư bản lớn hơn, thông qua việc các nhà tư bản thôn tính nhau hay liên doanh, liên kết với nhau” [1]. Hai phương thức này đều làm tăng quy mô tư bản, chúng có liên quan chặt chẽ với nhau, tạo điều kiện và thúc đẩy nhau. Như vậy, tập trung đất đai trong nông nghiệp là phương thức làm tăng quy mô diện tích của thửa đất và chủ thể sử dụng đất thông qua các hoạt động dẫn tới tập trung ruộng đất như: chuyển đổi, chuyển nhượng, thuê đất, thuê lại đất, thừa kế, thế chấp... Hay nói cách khác, tập trung ruộng đất là việc sát nhập hoặc hợp nhất ruộng đất của những chủ sở hữu khác nhau vào một chủ sở hữu hoặc hình thành một chủ sở hữu mới có quy mô ruộng đất lớn hơn. Tập trung ruộng đất diễn ra theo hai con đường: một là hợp nhất ruộng đất của các chủ sở hữu cá biệt nhỏ hơn thành một chủ sở hữu cá biệt khác lớn hơn. Con đường này được thực hiện thông qua việc xây dựng HTX sản xuất nông nghiệp ở nước ta trước đây. Hai là, con đường sát nhập ruộng đất của các chủ sở hữu nhỏ cá biệt để tạo ra quy mô lớn hơn. Con đường này được thực hiện thông qua biện pháp tước đoạt hoặc chuyển nhượng mua bán ruộng đất. Con đường này diễn ra mạnh mẽ ở các nước tư bản. Việc tập trung ruộng đất vào tay chủ sở hữu mới tạo ra kết quả hai mặt là: Một mặt làm cho một bộ phận nông dân trở thành không có ruộng đất, buộc họ phải đi làm thuê hoặc rời quê hương tìm kế sinh nhai. Mặt khác, tạo cho chủ đất có điều kiện áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật đầu tư thâm canh tăng năng suất cây trồng, chuyển một bộ phận lao động nông nghiệp sang các kinh tế ngành khác, mà trước hết là công nghiệp. ở nước ta, việc tập trung ruộng đất diễn ra do một số nguyên nhân sau: - Một số hộ làm ăn khá giả, có vốn, có trình độ kỹ thuật và quản lý kinh doanh muốn có thêm đất đai để sản xuất. - Một số hộ do yếu kém trong hoạt động sản xuất kinh doanh, làm ăn không hiệu quả, không đảm bảo được cuộc sống trên ruộng đất được giao nên chuyển nhượng, cho thuê để đáp ứng yêu cầu trước mắt hoặc chuyển sang để làm các ngành nghề khác. Mặt khác, trong luật đất đai hiện hành của nước ta đã và đang tạo ra hành lang pháp lý cho quá trình tập trung đất đai trong sản xuất nông nghiệp. Đó chính là việc xác định chế độ sử dụng đất: - Chủ thể sử dụng đất: là những tổ chức, hộ gia đình, cá nhân được Nhà nước giao đất hoặc cho thuê đất để sử dụng. - Khách thể của quyền sử dụng đất: là một vùng nhất định mà Nhà nước giao cho các chủ thể sử dụng đất. - Chuyển đổi quyền sử dụng đất: là việc ''đổi đất lấy đất'' giữa các chủ thể sử dụng đất được Nhà nước giao đất để sử dụng nhằm mục đích chủ yếu là tổ chức lại sản xuất cho phù hợp, khắc phục tình trạng đất đai manh mún, phân tán như hiện nay. - Cho thuê đất: là một dạng chuyển nhượng quyền sử dụng đất có thời hạn, bên thuê đất phải trả cho bên cho thuê đất một khoản tiền nhất định để được quyền sử dụng. - Thế chấp quyền sử dụng đất: là hoạt động trong quan hệ tín dụng, từ đó các chủ thể sử dụng đất thế chấp tài sản thuộc sở hữu của mình gắn liền với đất thuê lại tổ chức tín dụng để vay vốn sản xuất kinh doanh theo quy định của pháp luật. - Cho thuê lại đất: là một dạng của chuyển nhượng lại quyền sử dụng đất khi người đi thuê cho người thuê lại. * Thị trường đất đai trong nông nghiệp Trong nền kinh tế thị trường, các yếu tố của quá trình sản xuất đều trở nên có giá. Vì vậy, đất đai với tư cách là một yếu tố quan trọng của quá trình sản xuất, thì nó có giá là điều hiển nhiên. Như vậy, trong điều kiện của kinh tế thị trường, đất đai trở thành đối tượng của sự mua bán, chuyển nhượng, cầm cố, thuê mướn. Nghị định số 181/2004/NĐ-CP ngày 29 tháng 11 năm 2004 của Chính phủ đã quy định các chủ thể sử dụng đất có thể chuyển đổi, thế chấp, góp vốn bằng giá trị quyền sử dụng đất. Trong nông nghiệp đất đai là tư liệu sản xuất chủ yếu, đặc biệt, là một trong các yếu tố đầu vào của quá trình sản xuất. Trên thị trường, nó là loại hàng hoá đặc biệt. ở nước ta, đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước thống nhất quản lý, vì vậy việc mua bán, chuyển nhượng quyền sử dụng đất. Vì thế đất đai là hàng hoá, do vậy nó cũng phải tuân theo quy luật cung- cầu như những hàng hoá khác. 2.2.2 Tác động của dồn điền, đổi thửa đến quyết định sản xuất và sản xuất nông nghiệp của nông hộ Dồn điền đổi thửa phát huy được tính tự chủ của đơn vị kinh tế hộ nông dân trong việc ra các quyết định trong việc sản xuất nông nghiệp. Đó chính là sự tăng quy mô sản xuất, đầu tư lao động, vật tư, tiền vốn và áp dụng các thành tự khoa học kỹ thuật để làm tăng giá trị sử dụng đất, thâm canh tăng vụ để nâng cao hiệu quả sự đất, tăng năng suất... Khi dồn điền đổi thửa tiến hành sẽ có các ô thửa lớn, diện tích được tập trung lai thành vùng, các hộ dân có điều kiện bố trí cơ cấu sản xuất, cơ cấu thời vụ, ứng dụng các thành tựu khoa học kỹ thuật tiên tiến vào đồng ruộng, tăng năng suất và chất lượng, hiệu quả ngày công lao động cao, đưa nền nông nghiệp nước ta thành một nền nông nghiệp sản xuất hàng hoá tập trung, quy mô gắn với công nghiệp chế biến và có khả năng cạnh tranh trên thị trường quốc tế. Dồn điền, đổi thửa đã làm thay đổi cách nghĩ, cánh làm, tập quán trước đây của người nông dân quen canh tác trên thửa đất nhỏ, chần chừ, do dự, ỷ lại không muốn đầu tư thâm canh. Khi có ô thửa ruộng lớn, thì nếp nghĩ của họ thay đổi cho phù hợp với tiến trình của công nghiệp hoá nông nghiệp. Hộ nông dân có vốn sẽ đầu tư cơ giới hoá các khâu trong sản xuất, góp phần giải phòng sức lao động [8]. Dồn điền đổi thửa là điều kiện tốt cho việc phân bổ lại lực lượng lao động trong nông nghiệp và nông thôn theo hướng tăng tỷ lệ lao động trong công nghiệp ngành nghề, dịch vụ nông thôn và giảm tỷ lệ lao động nông nghiệp thuần tuý. Đồng thời còn là điều kiện tốt cho việc phát triển và hiện đại hoá ngành nghề; thủ công - mỹ nghệ, công nghiệp trong nông thôn (củng cố, phát huy ngành nghề truyền thống, phát triển ngành nghề mới. Dồn điền đổi thửa là điều kiện tốt cho các loại hình HTX kinh tế, dịch vụ phát triển. 2.3 Các mối quan hệ trong quá trình sử dụng ruộng đất Ruộng đất vừa là tư liệu sản xuất đặc biệt vừa là tư liệu sản xuất chủ yếu của sản xuất nông nghiệp. Đất đai với tư cách là ruộng đất đang hoạt động trong lĩnh vực sản xuất nông nghiệp vừa là sản phẩm của tự nhiên vừa là sản phẩm của xã hội. Vì vậy các quan hệ ruộng đất được biểu hiện trên nhiều phương diện, tự nhiên, kinh tế, xã hội: - Quan hệ ruộng đất về mặt kinh tế là quan hệ được xem xét trên khía cạnh kinh tế. Trên khía cạnh này đất đai nói chung và ruộng đất nói riêng được xem xét ở mục đích sử dụng chúng. Mục đích khác nhau, trong những điều kiện khác nhau ruộng đất sẽ được sử dụng với những mục đích khác nhau vì vậy sẽ cho hiệu quả và kết quả khác nhau. - Quan hệ sở hữu về ruộng đất là một trong những quan hệ cơ bản nhất của con người trong sản xuất, đặc biệt là trong sản xuất nông nghiệp. Xét về mặt xã hội, quan hệ sở hữu ruộng đất là sự biểu hiện tập trung nhất của quan hệ ruộng đất, là nhân tố có tính quyết định tới quan hệ đất đai về mặt tự nhiên và kinh tế. Trong mỗi thời đại lịch sử, có thể có những chế độ sở hữu đất đai khác nhau cùng tồn tại [5]. Trong nông nghiệp sự hình thành các quan hệ sở hữu do đặc điểm của ngành chi phối. Nó yêu cầu các quan hệ ruộng đất phải đạt mục đích sử dụng đầy đủ hợp lý và có hiệu quả. Vì vậy các quan hệ ruộng đất mà thực chất là các quan hệ ruộng đất của Nhà nước với các tập thể, cá nhân trong sử dụng, giữa các cá nhân với tập thể sử dụng ruộng đất với nhau phải được xác lập một cách hợp lý. Để xây dựng mối quan hệ này thì phải thông qua việc phân tích đúng đắn quyền năng của mỗi bên đối với ruộng đất. Một chế độ sở hữu hợp lí là chế độ xác lập vai trò, quyền năng tối cao của Nhà nước với các quyền năng cụ thể của các chủ thể sản xuất kinh doanh. ở nước ta, "đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước thống nhất quản lý''. Luật đất đai và các văn bản dưới luật cho phép các chủ thể sử dụng đất có quyền chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại, thừa kế quyền sử dụng đất, thế chấp, góp vốn bằng giá trị quyền sử dụng ruộng đất. Thực hiện các quyền trên tạo ra sự vận động của sở hữu về quyền sử dụng đất đối với ruộng đất. Trong kinh tế thị trường, các quan hệ được biểu hiện thông qua quan hệ giá trị. Ruộng đất với tư cách là tư liệu sản xuất vừa vận động theo quy luật chung cuả kinh tế thị trường vừa mang tính đặc thù xét trên phương diện kinh tế - xã hội. - Với tư cách là một yếu tố của tự nhiên, sản phẩm của tự nhiên, vì vậy đất đai có quan hệ chặt chẽ với các yếu tố tự nhiên như: thời tiết, khí hậu,... và chịu sự chi phối của chúng. Vì vậy quan hệ ruộng đất về mặt tự nhiên là quan hệ liên quan đến sự hình thành, phát triển các yếu tố cấu thành chất lượng ruộng đất, đến khả năng khai thác ruộng đất 2.4 Thực trạng manh mún đất đai và hậu quả 2.4.1 Tình trạng đất đai manh mún ở một số nước trên thế giới và kinh nghiệm khắc phục ở Trung Quốc: Vào những năm cuối của thập kỷ 70, Trung Quốc đã tiến hành công cuộc cải cách kinh tế mà trước tiên là cuộc cải cách nông thôn, xoá bỏ chế độ sở hữu tập thể, vì vậy mà loại hình kinh tế HTX không còn mà thay vào đó là hình thức khoán đến hộ, theo đó đất đai từ sở hữu HTX chuyển thành sở hữu của thôn còn quyền sử dụng đất được giao cho hộ. Cuộc cải cách này đã tạo ra động lực mới cho sự phát triển nông nghiệp. Người nông dân được quyền tự chủ trong quản lý, sử dụng và lựa chọn phương án sử dụng đất, Vì vậy nông nghiệp Trung Quốc đã có bước phát triển kỳ diệu. Tuy nhiên đến năm 1990 thì tốc độ phát triển của nông nghiệp Trung Quốc lại giảm, điều này do hình thức khoán đến hộ không còn phát huy tác dụng và bắt đầu bộc lộ những hạn chế. Điều này do có sự xuất hiện của thửa ruộng nhỏ và manh mún khi giao chia cho từng hộ gia đình. Quá trình giao chia coi “chủ nghĩa bình quân và công bằng” như là nguyên tắc bất di bất dịch. Tuy nhiên do dân số đông và diện tích hạn chế nên diện tích đất cấp cho mỗi hộ gia đình là rất nhỏ, manh mún và rải rác ở khắp nơi trong làng, điều này được minh chứng qua bảng 2.1. Như vậy, vào giữa những năm 80 thì phương thức khoán đến hộ đã bộc lộ những hạn chế và cản trở đối với phát triển sản xuất nông nghiệp. Chính vì vậy Chính phủ Trung Quốc đã bắt đầu thực hiện công cuộc cải cách nông thôn bằng việc xây dựng các mô hình thử nghiệm theo quy mô huyện, từ đó sẽ tổng kết, đúc rút vào lựa chọn mô hình thành công nhất để nhân rộng. Bảng 2.1 Diện tích và số thửa ruộng của mỗi hộ nông dân Trung Quốc Năm Diện tích canh tác/ hộ (ha) Số thửa ruộng/hộ Diện tích trung bình/thửa(ha) 1986 0,446 5,85 0,08 1988 0,466 5,67 0,078 1990 0,420 5,52 0,076 1998 0,470 3,02 0,18 (Nguồn: Bộ nông nghiệp Trung Quốc, 2000) Trong các mô hình thử nghiệm, thì mô hình được coi là thành công nhất là ở huyện Pindu và đã được nhân rộng trên quy mô toàn quốc. Theo mô hình này, hay mô hình ''hệ thống hai loại đất'' chia diện tích đất canh tác của thôn thành hai phần: một phần đất sản xuất lương thực, phần còn lại được sử dụng cho ký hợp đồng. Sản xuất lương thực để đảm bảo nhu cầu lương thực của hộ gia đình còn đất hợp đồng để làm kinh tế. Như vậy, từ những năm 1978 Trung Quốc đã tiến hành cải cách theo thể chế kinh tế nông thôn, thực hiện hình thức kinh doanh khoán sản lượng đến từng hộ nông dân thực chất là khoán ruộng đất, thực hiện công việc thiết kế lại đồng ruộng thông qua dồn đổi ruộng giữa các hộ, bước đầu “mềm hoá” hình thức chuyển đổi nông nghiệp trong nông thôn, đồng thời cho phép hộ nông dân được quyền góp cổ phần bằng ruông đất vào các tổ chức sản xuất kinh doanh nông nghiệp trên cơ sở chế độ cổ phần. Hiện nay Trung Quốc mỗi hộ có khoảng 0,5 ha chia làm 3-4 mảnh, các hộ đang tiến hành đổi ruộng cho nhau để có ruộng liền khoảnh. * ở Nhật Bản: Trước năm 1960, mỗi hộ nông dân Nhật Bản có nhiều thửa ruộng với diện tích bình quân từ 500m2 - 1000 m2. Nhật Bản đã nhận thấy được những hạn chế do tình trạng manh mún, phân tán đất đai trong sản xuất nông nghiệp, sản xuất nông nghiệp chủ yếu sử dụng lao động thủ công và sức kéo gia súc. Thu nhập giữa lao động nông nghiệp và lao động của các ngành khác có sự chênh lệnh đáng kể. Để chấn hưng nông nghiệp, năm 1961 Chính phủ Nhật Bản đã ban hành luật cơ bản về nông nghiệp với ba mục tiêu là: rộng, chắc chắn và sâu. Để đạt được mục tiêu đặt ra, Nhật Bản đã tiến hành chuyển đổi ruộng đất từ các thửa nhỏ ở xa nhau thành những ô thửa ruộng có quy mô lớn, trong việc chuyển đổi thì đứng trên ba giác độ: cùng giá trị, cùng vị trí và cùng diện tích, trong đó giá trị là yếu tố chính. Yêu cầu một thửa ruộng sau khi chuyển đổi phải đạt diện tích tối thiểu 3000 m2 nhưng phải tiếp giáp với mương, máng, đường giao thông. Quá trình chuyển đổi này kéo dài từ 5- 6 năm, hình thức thực hiện chuyển đổi là do tổ hợp cộng đồng nông nghiệp từ 15 hộ trở lên đứng ra xin phép và Uỷ ban nông nghiệp cấp tỉnh có quyền cho phép. Kết quả của quá trình chuyển đổi này là mỗi hộ bình quân có 1,8 thửa trên hộ. Việc chuyển đổi xử lý đất nông nghiệp đã làm tăng năng suất của máy móc nông nghiệp, tăng sức sản xuất của đất đai, làm tăng năng suất lao động của nông dân, tạo điều kiện phát triển hàng hoá để nâng cao sức cạnh tranh của nông nghiệp. Hiện nay việc chuyển đổi xử lý ruộng đất được tiếp tục khuyếch trương lên, diện tích mỗi thửa là 10.000 m2 - 20.000m2. * ở Mỹ: Tuy tỷ trọng giá trị sản lượng các sản phẩm nông nghiệp trong tổng sản phẩm quốc dân không đáng kể (khoảng 2%) nhưng Chính phủ Mỹ vẫn rất quan tâm đến sản xuất nông nghiệp. Chính phủ cấp đất cho hộ và đồng thời cho phép mua bán hoặc thuê đất để hình thành trang trại. Sản phẩm nông nghiệp chủ yếu do 2,2 triệu trang trại sản xuất ra, trong đó có trang trại gia đình (có quy mô 180-200 ha) chiếm gần 90%. Do quy mô các trang trại loại này nhỏ nên chỉ chiếm khoảng 65% diện tích canh tác, các trang trại liên doanh và hợp doanh chiếm hơn 10%, có quy mô bình quân khoảng 800-900ha. Có khoảng 20% nông trại đã sử dụng máy tính hiện đại để lập chương trình phát triển sản xuất cho ngành trồng trọt và chăn nuôi. Việc tích tụ và tập trung ruộng đất để đi vào công nghiệp hoá và tạo ra ưu thế cạnh tranh về chất lượng nông sản và giá thành ở nước Mỹ. 2.4.2 Tình hình manh mún ruộng đất ở Việt Nam Luật Đất đai năm 1999 và được sửa đổi bổ sung năm 2003 đã thực hiện công bằng xã hội, sau đó là Nghị Định 64/CP của Chính phủ ngày 27/09/1993 và gần đây là về việc giao đất nông nghiệp cho hộ gia đình, cá nhân sử dụng ổn định lâu dài vào mục đích sản xuất nông nghiệp; theo phương châm có tốt, có xấu, có xa, có gần,... Điều này đã làm cho số thửa ruộng tăng lên đáng kể. Số thửa sau khi giao đất theo Nghị Định 64/CP ở một số địa phương đã tăng lên gấp 2 lần so với khi thực hiện khoán theo Chỉ thị 100/CT-TW. Bảng 2.2 Mức độ manh mún ruộng đất ở các vùng trong cả nước TT Vùng Tổng số thửa/hộ Diện tích bình quân (m2)/ thửa Trung bình Cá biệt Đất lúa Đất rau 1 Trung du miền núi Bắc bộ 10-20 25 150-300 100-150 2 Đồng bằng sông Hồng 7 25 300-400 100-150 3 Duyên hải bắc trung bộ 7-10 30 300-500 200-300 4 Duyên hải Nam trung bộ 5-10 30 300-1000 200-1000 5 Tây nguyên 5 25 200-500 1000-5000 6 Đồng Nam bộ 4 15 1000-3000 1000-5000 7 Đồng bằng sông cửu long 3 10 3000-5000 500-1000 (Nguồn Bộ Tài nguyên và Môi trường, 2003) Theo số liệu Bộ Tài nguyên và Môi trường thì cả nước hiện có khoảng 7.843 ha đất nông nghiệp chia thành 75 triệu mảnh cho 10.824 nghìn hộ. Tính trung bình cả nước, một hộ sử dụng 0,72ha đất nông nghiệp và diện tích mỗi mảnh là một 1.045m2. Nhưng nếu chỉ xét riêng khu vực miền Bắc thường từ 13-25 thửa, ngay trên một số đồng một hộ cũng có nhiều thửa. Có thể nói đó là một thách thức lớn đối với sản xuất nông nghiệp, đặc biệt là theo hướng sản xuất hàng hoá [3]. Kết quả điều tra của Viện quy hoạch và thiết kế nông nghiệp cũng đã phản ánh rõ mức độ manh mún đất nông nghiệp ở 7 tỉnh thuộc vùng đồng bằng sông Hồng. Qua bảng ta thấy tỉnh Nam Định có tổng số thửa trung bình nhỏ nhất là 5,7 thửa/hộ có thể thấy tỉnh Nam Định diện tích đất nông nghiệp khác đồng đều về chất đất, diện tích các thửa tương đối cao 288 m2/thửa. Trong khi ở tỉnh Hải Dương trung bình là 11 thửa/hộ và diện tích trung bình 252 m2/thửa. Bảng 2.3 Mức độ manh mún ruộng đất ở một số tỉnh vùng ĐBSH TT Tỉnh Tổng số thửa/hộ Diện tích bình quân m2/thửa ít nhất Nhiều nhất Trung bình Nhỏ nhất Lớn nhất Trung bình 1 Hà Tây 3 29 9,5 20 700 216 2 Hải Phòng 5 18 7 20 1736 253 3 Hải Dương 9 17 11 10 2461 252 4 Vĩnh Phúc 7,1 47 9 10 5868 228 5 Nam Định 3,1 19 5,7 10 1000 288 6 Hà Nam 7 37 8,2 14 1265 296 7 Ninh Bình 3,3 24 8 5 4224 305 (Nguồn: Kết quả điều tra của Viện Quy hoạch và Thiết kế nông nghiệp, năm 2002) 2.4.3 Nguyên nhân của tình trạng manh mún ruộng đất ở Việt Nam Nguyên nhân đầu tiên, quan trọng nhất dẫn đến tình trạng manh mún ruộng đất ở Việt Nam phải kể đến là sự phức tạp trong địa hình, địa mạo đất đai ở mỗi địa phương và một độ dân số. Do được khai phá từ rất sớm, ruộng đất của các làng, xã đã bị các đê phân cắt thành ô thửa có địa hình cao thấp khác nhau. Mỗi làng, mỗi xã đều có ruộng cao, ruộng thấp khác nhau và ruộng vàn khá phức tạp. Nguyên nhân thứ 2 là chế độ thừa kế bằng cách chia đều ruộng đất cho tất cả con cái, ở Việt Nam ruộng đất của bố mẹ thường chia đều cho tất cả các con cái sau khi tách từ ở chung ra ở riêng. Nguyên nhân thứ 3 phải kể đến tâm lý tiểu nông của các hộ sản xuất nhỏ. Nhìn chung do quy mô sản xuất nhỏ lẻ, các hộ nông dân ngại đứng trước mỗi thay đổi, nhất là những thay đổi liên quan đến ruộng đất. Kết quả điều tra của trung tâm Khoa học xã hội và Nhân văn Quốc gia năm 2001 cho thất ở đồng bằng có đến 86,5% số hộ được hỏi không muốn điều chỉnh lại ruộng đất cho phù hợp với sản xuất. Và nguyên nhân cuối cùng mà hầu như tất cả những ai quan tâm đến sự manh mún ruộng đất đều nhất trí, đó là nguyên nhân liên quan đến phương pháp chia ruộng bình quân theo nguyên tắc có tốt, có xấu, có xa, có gần, có thấp, có cao khi thực hiện Nghị định 64/CP của Chính phủ về giao quyền sử dụng đất nông nghiệp ổn định lâu dài cho hộ nông dân. Việc chia nhỏ các ruộng để có sự công bằng giữa các hộ đã góp phần không nhỏ làm tăng tình trạng manh mún ruộng đất ở Việt Nam. 2.5 Các chủ trương chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước liên quan đến tập trung ruộng đất - Nghị quyết 06 của Bộ chính trị, tháng 11/1999 đã xác định “về tích tụ ruộng đất, việc chuyển nhượng quyền sử dụng, tích tụ và tập trung ruộng đất là hiện tượng sẽ diễn ra trong trong quá trình phát triển nông nghiệp lên sản xuất hàng hoá lớn. Việc tích tụ và tập trung ruộng đất phải được kiểm soát, quản lý chặt chẽ của Nhà nước”. - Đai hội lần thứ VII- 6/1991 đã xác định: đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước thống nhất quản lý và giao cho nông dân quyền sử dụng lâu dài''. - Hội nghị trung ương 2 khoá VII tháng 3/1992: “Quyết định việc chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, thế chấp, thừa kế quyền sử dụng đất phải được pháp luật quy định cụ thể theo hướng khuyến khích nông dân an tâm đấu tư kinh doanh nâng cao hiệu quả sử dụng đất, tạo điều kiện từng bước tích tụ ruộng đất trong giới hạn hợp lý để phát triển sản xuất hàng hoá, đi đôi với mở rộng phân công lao động và phân bố lao động gắn với quá trình. Quy định rõ các điều kiện cho phép chuyển nhượng quyền sử dụng đất, ngăn chặn tình trạng người sống bằng nghề nông không còn ruộng đất, người mua quyền sử dụng ruộng đất không phải để sản xuất mà là để buôn bán ruộng đất, phát canh thu tô. Mức tập trung đất và một số hộ cũng phải qui định giới hạn tối đa tuỳ theo vùng và loại đất”. Từ những chủ trương và chính sách của Đảng, Nhà nước đã thể chế hoá bằng những văn bản pháp luật cụ thể: - Hiến pháp năm 1992 đã công bố “Đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước thống nhất quản lý toàn bộ đất đai theo qui hoạch và pháp luật”. - Tại điều I của luật đất đai 2003, đã qui định “Đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước thống nhất quản lý”. Nhà nước giao đất cho (các tổ chức kinh tế, cơ quan Nhà nước, chính trị,xã hội,đơn vị lực lượng vũ trang), hộ gia đình và cá nhân sử dụng đất lâu dài. Ngoài ra, Nhà nước còn cho các tổ chức, hộ gia đình và cá nhân thuê đất. Nghi định 64/CP của Chính phủ ban hành ngày 27/9/1993 “về việc giao đất cho hộ gia đình, cá nhân sử dụng ổn định lâu dài vào mục đích sản xuất nông nghiệp trong đó đã qui định rõ các nguyên tắc giao đất, đối tượng được giao đất, thời hạn giao đất và hạn mức đất dược giao cho các tổ chức, hộ gia đình, cá nhân”. Trong chương II của bộ luật dân sự về “Hợp đồng chuyển đổi quyền sử dụng” từ điều 699 đến điều 704 đã qui định rõ về việc thực hiện chuyển đổi quyền sử dụng đất như: - Hợp đồng chuyển quyền sử dụng đất; điều kiện chuyển đổi quyền sử dụng đất; hình thức chuyển đổi quyền sử dụng đất; quyền và nghĩa vụ của các bên chuyển đổi quyền sử dụng đất. - Điều 102, Nghị định 181/2004/NĐ-CP của Chính phủ, ngày 29/10/2004 về việc hướng dẫn thi hành luật đất đai năm 2003 “ Hộ gia đình, cá nhân sử dụng đất nông nghiệp do Nhà nước giao đất hoặc chuyển đổi, nhận chuển nhượng, nhận thừa kế, được tặng cho quyền sử dụng đất hợp pháp từ người khác thì được chuyển đổi quyền sử dụng đất nông nghiệp đó cho hộ gia đình, cá nhân khác trong cùng xã, phường, thị trấn để thuận lợi cho sản xuất nông nghiệp. Hộ gia đình, cá nhân chuyển đổi quyền sử dụng đất nông nghiệp theo chủ trương chung về “dồn điền đổi thửa” thì không phải nộp thuế thu nhập từ việc chuyền quyền sử dụng đất, lệ phí trước bạ, lệ phí địa chính. Như vậy có thể nói, chủ trương, chính sách của Đảng và Pháp luật của Nhà nước về việc chuyển đổi ruộng đất thực hiện “dồn điền đổi thửa” trong nông nghiệp đã tạo ra hành lang pháp lý thuận lợi cho việc tích tụ và tập trung đất đai. Tuy nhiên, văn bản pháp luật ban hành chậm. Bên cạnh đó Chính phủ chưa có văn bản hướng dẫn, chỉ đạo cụ thể đối với các tỉnh, thành phố để hướng dẫn nông dân thực hiện chuyển đổi ruộng đất, thực hiện dồn điền đổi thửa mà để các tỉnh thành phố thấy cần thiết thì triển khai. 2.6 Những ảnh hưởng do tình trạng manh mún ruộng đất gây ra đối với sản xuất nông nghiệp Quy mô ruộng đất manh mún gây khó khăn cho quá trình sản xuất. Hạn chế khả năng áp dụng cơ giới hoá nông nghiệp, áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật, thực hiện thâm canh tăng vụ và chuyển dịch cơ cấu cây trồng. Từ đó dẫn đến không giảm được chi phí lao động đầu vào. Mảnh ruộng quá nhỏ khiến nông dẫn ít nghĩ đến việc đầu tư các tiến bộ khoa học kỹ thuật để tăng năng suất. Theo họ, có đầu tư tiến bộ khoa học kỹ thuật năng suất có thể tăng nhưng trên diện tích quá nhỏ thì sản lượng tăng không đáng kể. Mảnh ruộng nhỏ, nhiều mảnh lại phân tán điều này làm tăng rất nhiều công thăm đồng, vận chuyển phân bón và thu hoạch, mặt khác nông dân không muốn trồng cây hàng hoá do phải tăng công ._.bảo vệ. Nhiều mảnh ruộng dẫn tới lãng phí đất canh tác do phải làm nhiều bờ ngăn. Tính trung bình vùng ĐBSH mất khoảng 2,4 - 4% đất canh tác dùng để đắp bờ vùng, bờ thửa. Ô thửa của các hộ năm phân tán, xen kẽ giữa các ô thửa của hộ khác, gây khó khăn lớn cho việc tưới tiêu, do ở thời điểm này hộ cần tưới nhiều, trong khi hộ khác lại cần tiêu nước. Đây cũng là một trong những nguyên nhân chính hạn chế khả năng tự chủ của các hộ trong việc chuyển đổi cơ cấu cây trồng sang những loại hàng hoá có hiệu quả kinh tế cao hơn, hoặc phù hợp với điều kiện canh tác của mình hơn. Gây sự phức tạp tốn kém trong công tác quản lý ruộng đất, xây dựng hồ sơ địa chính (chi tăng từ 35%-50% nếu như ruộng đất vẫn còn manh mún), dễ phát sinh tiêu cực trong quản lý đất đai. Hạn chế các quyền sử dụng đất của hộ nông dân và không phù hợp với sản xuất hàng hoá. Công tác quy hoạch lại đồng ruộng (giao thông, thuỷ lợi, cải tạo đất,...) bị hạn chế, không thực hiện được toàn diện triệt để [9]. Sau hộ nghị chuyên đề về chuyển đổi ruộng đất do Tổng cục Địa chính tổ chức lần 1 vào tháng 7/1997 tại Hà Nội, tổ chức lần 2 tại Hà Tây vào tháng 8/1998 cho đến nay các các tỉnh đã có phong trào chuyển đổi ruộng đất, dồn điền đổi thửa ngày càng phát triển sâu rộng hơn. Có thể thấy được những ảnh hưởng của việc dồn điền đổi thửa như ở Hải Dương, đã tác động tích cực đối với nhiều mặt trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội địa phương. Đây là điều kiện để hợp tác kinh tế nảy nở: từ mô hình tổ hợp tác, mô hình doanh nghiệp nông nghiệp đến hợp tác kinh tế vùng, tiểu vùng. Từ đó đẩy hoạt động chuyển giao công nghệ, hỗ trợ đầu tư và xúc tiến thị trường tiêu thụ cho sản xuất nông sản hàng hoá. Sau dồn điền, đổi thửa các vùng chuyên canh lớn hình thành đồng thời với tăng cường hợp tác vùng sẽ hạn chế được nhiều cơ sở chế biến ra đời không gắn với vùng nguyên liệu và ngược lại [2]. 2.7 Một số công trình nghiên cứu có liên quan * PGS.TS. Nguyễn Văn Khánh (2001), Biến đổi cơ cấu ruộng đất và kinh tế nông nghiệp ở vùng châu thổ sông Hồng trong thời kỳ đổi mới, đã đưa ra kết luận: Cần tiếp tục hoàn thiện chính sách ruộng đất. Tích cực chuyển đổi và thực hiện tập trung hoá ruộng đất nhằm khắc phục tình trạng manh mún về ruộng đất, tạo điều kiện áp dụng cơ giới hoá, thuỷ lợi hoá và hiện đại hoá vào gieo trồng, chăm sóc và thu hoạch nhằm nâng cao hiệu quả trong sản xuất nông nghiệp. * Ths. Bùi Quang Dũng (2002), Nghiên cứu thực trạng và ảnh hướng của quá trình tập trung ruộng đất đến phát triển nông nghiệp tại huyện Thạch Thất, tỉnh Hà Tây, đã đưa ra kết luận: Tập trung ruộng đất là một yêu cầu khách quan. Phát triển nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hoá tập trung quy mô lớn đòi hỏi phải có quá trình tập trung ruộng đất. Tập trung ruộng đất tạo điều kiện thuận lợi trong việc áp dụng tiến bộ KHKT mới vào sản xuất nhằm tăng năng suất cây trồng, vật nuôi thúc đẩy nhanh quá trình CNH - HĐH nông nghiệp nông thôn. * PCG.TS. Đỗ Kim Chung trong bài viết: Thực trạng thị trường chuyển nhượng và cho thuê đất đai trong nông nghiệp, đã đi đến kết luận: Thị trường chuyển nhượng và cho thuê đất đai hiện nay còn gặp nhiều khó khăn, một mặt do nhận thức của nông dân với thị trường còn hạn chế mua bán đất bị cấm trong nhiều năm nên thuật ngữ này ít được dùng trong đời sống xã hội, vì vậy có hoạt động nào liên quan bán đất ít nhiều họ cũng cảm thấy hoạt động đó nằm ngoài vòng pháp luật. Mặt khác, một số hộ còn chưa an tâm về quyền sử dụng đất, ở một số nơi việc cấp giấy chứng nhận cho hộ nông dân còn chậm. Như vậy, cần khẳng định rằng tập trung ruộng đất là yêu cầu khách quan nhằm khắc phục những hạn chế do tình trạng manh mún đất đai gây nên. Tuy nhiên, vấn đề tập trung ruộng đất hiện nay đã có những ảnh hưởng nhất định đến việc sản xuất nông nghiệp. Với đặc điểm kinh tế xã hộ có những đặc trưng riêng nên cần thiết phải nghiên cứu việc tác động của dồn điền ở huyện Việt Yên, tỉnh Bắc Giang đến việc sản xuất của nông hộ để tìm ra những giải pháp phù hợp nhằm thúc đẩy phát triển kinh tế nông nghiệp nông thôn. 3. đặc điểm địa bàn và phương pháp nghiên cứu 3.1 Đặc điểm địa bàn nghiên cứu 3.1.1 Đặc điểm tự nhiên * Vị trí địa lý Việt Yên là huyện Trung Du nằm ở phía Tây - Nam tỉnh Bắc Giang, cách thủ đô Hà Nội 40 km về phía Bắc theo quốc lộ 1, có tổng diện tích tự nhiên 171,35 km2. Việt Yên là một trong các huyện có diện tích tự nhiên hẹp nhưng mật độ dân số lại đứng thứ ba trong toàn tỉnh, với 19 đơn vị hành chính trong đó có 2 thị trấn, 17 xã. So với các huyện khác, Việt Yên có vị trí tương đối thuận lợi, trung tâm huyện cách thị xã Bắc Giang 12 km, phía Bắc giáp với huyện Tân Yên, phía Nam giáp với thị xã Bắc Giang, phía tây giáp với huyện Yên Phong (Bắc Ninh) và huyện Hiệp Hòa. Huyện Việt Yên có đường quốc lộ 1A, quốc lộ 37 và tuyến đường sắt Hà Nội - Lạng Sơn - Trung Quốc chạy qua thuận lợi cho việc giao lưu buôn bán và phát triển thương mại với các trung tâm kinh tế lớn của miền Bắc, đặc biệt vị trí thuận lợi cho việc hình thành khu công nghiệp Đình Trám, Vân Trung trung tâm của tỉnh đang được xây dựng. * Đặc điểm địa hình Địa hình huyện Việt Yên không đồng đều, được chia làm 3 dạng chính: Địa hình đồi núi thấp thuộc các xã phía Bắc và phía Nam của huyện có độ cao từ 6m - 120m; Địa hình đồng bằng có lượn sóng tập trung ở phía Đông đường quốc lộ 1A; Địa hình đồng bằng bằng phẳng chiếm diện tích lớn một số xã nằm giữa huyện. Độ nghiêng của địa hình theo hướng Bắc xuống Nam và sang hướng Đông Nam. * Khí hậu thuỷ văn Huyện Việt Yên chịu ảnh hưởng của khí hậu nhiệt đới gió mùa, nhiệt độ bình quân qua các năm từ 230 C đến 240C, nhiệt độ lạnh dần từ mùa thu sang mùa đông đến mùa xuân (từ tháng 10 đến tháng 3) sau đó nóng vào những tháng mùa hè (Từ tháng 4 đến tháng 8), có tháng nhiệt độ trung bình đến 300c. - Về nhiệt độ: Nhiệt độ trung bình của huyện khoảng 230c, nhiệt độ cao nhất 36,30c vào tháng 6 - 7 và nhiệt độ thấp nhất 7,50c vào các tháng 1 - 2. Số giờ nắng trong năm từ 1.300 - 1750, lượng bức xạ: 110kcal/cm3. - Chế độ mưa: Lượng mưa phân bố không đồng đều, tập trung chủ yếu vào mùa mưa chiếm 91,6% lượng mưa cả năm, còn mùa khô mưa ít, lượng mưa trung bình khoảng 1.700mm. Độ ẩm trung bình đạt 83,2%. - Trong mùa mưa từ tháng 7 - 8 thường có bão lụt xuất hiện mức nước Sông Cầu năm cao nhất là 10,5m, nhiều vùng bị úng ngập gây ra những thiệt hại về người và của. Bảng 3.1 Đặc điểm thời tiết khí hậu của huyện Việt Yên Chỉ tiêu ĐV 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 Cả năm Nhiệt độ C0 17 18 20 26 28 29 30 29 27 25 22 19 23 Lượng mưa TB mm 25 11 150 125 114 217 339 364 82 110 30 34 1.700 Độ ẩm % 81 81 87 89 83 84 85 85 83 83 77 81 83,2 Số giờ nắng h 77 60 47 98 103 179 108 166 228 142 103 169 1540 (Nguồn: Trung tâm khí tượng Bắc Giang, 2007) Với điều kiện khí hậu như trên của huyện rất thuận lợi cho cây trồng vật nuôi sinh trưởng và phát triển. Song ở đây cũng cần lưu ý một số tháng gió rét, hạn hán hay lũ lụt để có những biện pháp phòng chống kịp thời đảm bảo an toàn cho sản xuất. 3.1.2 Đặc điểm kinh tế xã hội * Đặc điểm đất đai của huyện Đất đai là yếu tố quan trọng không thể thiếu được trong đời sống sản xuất của con người, nó vừa là đối tượng sản xuất vừa là tư liệu sản xuất. Nó tác động rất lớn đến sản xuất, đặc biệt là yếu tố quan trọng với công tác khuyến nông trong việc chọn lựa các vùng đất cho phù hợp với các giống cây trồng. Diện tích đất tự nhiện của huyện là 17.156,62 ha. Qua bảng 3.2 cho thấy, so với năm 2005 và năm 2006 thì năm 2007 bình quân diện tích đất nông nghiệp giảm 3,5% với diện tích cụ thể là 714,83 ha (năm 2007 so với năm 2005). Bình quân đất nông nghiệp năm đạt 0,138 ha/người giảm 0,005 ha so với năm 2005. Nguyên nhân là do đưa đất nông nghiệp sang đất thổ cư và đất chuyên dùng xây dựng khu công nghiệp và các công trình giao thông thuỷ lợi. Diện tích đất chuyên dùng và thổ cư tăng lên qua các năm là do quy hoạch sản xuất, sự gia tăng về dân số dẫn đến gia tăng nhu cầu về đất và nhà ở. Năm 2007 đất chuyên dùng là 2.752,34 chiếm 16,06%, tốc độ bình quân qua 3 năm tăng 1,67%, đất thổ cư là 1.194,16 ha chiếm 6,97%, tốc độ bình quân 3 năm tăng 5,75%. Tóm lại, tài nguyên đất ở Vệt Yên đa dạng, thích nghi nhiều loại cây trồng như lúa, hoa mầu, cây công nghiệp ngắn ngày, lâm nghiệp. Tuy nhiên độ phì đất: kali, lân, khoáng ở một số diện tích còn nghèo, cần những biện pháp cải tạo, chuyển đổi cơ cấu cây trồng, tăng cường đầu tư theo chiều sâu sẽ đem lại hiệu quả kinh tế cao. * Tình hình dân số và lao động của huyện Dân số và lao động là nhân tố chủ lực điều tiết quá trình sản xuất và quyết định kết quả của quá trình sản xuất. Do đó, trình độ của con người quyết định rất lớn đến hiệu quả của quá trình sản xuất. Tình hình dân số và lạo động của huyện Việt Yên thể hiện qua bảng 3.2. Bảng 3.2 Tình hình biến động đất đai, dân số và kết quả sản xuất kinh doanh của huyện Việt Yên (2005 – 2007) Chỉ tiêu ĐVT Năm 2005 Năm 2006 Năm 2007 Tốc độ phát triển (%) Số lượng Cơ cấu (%) Số lượng Cơ cấu (%) Số lượng Cơ cấu (%) 06/05 07/06 BQ I.Tổng diện tích đất tự nhiên Ha 17.156,62 100,00 17.156,62 100,00 17.156,62 100 100 100 100 1.Đất Nông nghiệp Ha 10.387,13 60,54 9.881,63 57,60 9.672,30 56,38 95,13 97,88 96,50 DT đất NN/hộ NN ha/hộ 0,324 0,310 0,305 DT đất NN/Lđ NN ha/lđ 0,143 0,139 0,138 II.Tổng số hộ Hộ 37.440 100,00 38.385 100,00 39.024 100 102,52 101,66 102,09 1.Hộ nông nghiệp Hộ 32.034 85,56 31.862 83,01 31.758 81,38 99,46 99,67 99,57 III.Tổng số nhân khẩu Người 160.475 100,00 162.313 100,00 164.075 100 101,15 101,09 101,12 1. Trong độ tuổi lao động Người 80.355 50,07 80.060 49,32 80.425 49,02 99,63 100,46 100,04 IV. Tổng số lao động Lao động 80.355 100,00 80.060 100,00 80.425 100 99,63 100,46 100,04 1.lao động nông nghiệp Lao động 72.786 90,58 70.965 88,64 70.090 87,15 97,50 98,77 98,13 2.lao động CN - TTCN Lao động 7.569 9,42 9.095 11,36 10.335 12,85 120,15 113,63 116,85 V. Tổng giá trị sản xuất Tr. đồng 1.251.071 100,00 1.452.118 100,00 1.850.037 100 116,07 127,40 121,60 1. Ngành Nông nghiệp Tr. đồng 473.227 37,83 521.250 35,90 596.365 32,24 110,15 114,41 112,26 2. Ngành CN – XD Tr. đồng 497.644 39,78 601.284 41,41 833.672 45,06 120,83 138,65 129,43 3. Ngành TM - DV Tr. đồng 280.200 22,40 329.584 22,70 420.000 22,70 117,62 127,43 122,43 (Nguồn: Phòng thống kê huyện Việt Yên) Qua bảng 3.2 cho thấy, ở Việt Yên tốc độ phát triển bình quân dân số qua 3 năm tăng 1,12%. Cùng với việc gia tăng về dân số thì số hộ cũng tăng tốc độ bình quân 3 năm tăng 2,09%. Số hộ nông nghiệp là 31.758 hộ chiếm 81,38%, số hộ phi nông nghiệp là 7.266 hộ chiếm 18,62%. Do tăng số hộ lên, nên số hộ trong các ngành nghề cũng tăng nhưng số hộ nông nghiệp giảm bình quân 0,43%, trong khi đó các hộ phi nông nghiệp tăng mạnh 15,93%. Năm 2007 toàn huyện có tổng số 80.425 lao động, trong đó lao động nông nghiệp là 70.090 lao động chiếm 87,15%, còn lại là lao động ngành nghề khác. Tốc độ lao động tăng các ngành nghề khác khá cao, đặc biệt là CN - TTCN tăng bình quân 3 năm là 12,26%. Điều dễ nhận thấy là trong tình trạng đất canh tác có xu hướng ngày càng giảm đi thì người lao động cần phải tìm cho mình một công việc khác ngoài nông nghiệp nếu hộ muốn nâng cao thu nhập. Đây là một xu hướng tốt trong việc phân công lại lao động, chuyển đổi cơ cấu nông nghiệp nông thôn, nhưng cũng là một thách thức lớn đối với các cấp, các ngành và toàn xã hội trong việc tạo công ăn việc làm nâng cao thu nhập và đời sống của cư dân nông thôn. * Tình hình cơ sở hạ tầng Sau nhiều năm tích luỹ, cộng với sự hỗ trợ của Trung ương, của tỉnh, huyện đã xây dựng được một số cơ sở vật chất đáng kể để khắc phục sản xuất và đời sống, góp phần thúc đẩy kinh tế phát triển. Tuy nhiên số cơ sở có hiện nay còn ít so với yêu cầu phát triển, nhiều cơ sở đã lạc hậu, hư hỏng gây cản trở cho phát triển sản xuất. - Về giao thông vận tải: Mạng lưới đường bộ gồm 32 km đường Quốc lộ, 16 km đường tỉnh lộ, 60 km đường liên xã, 166 km đường liên thôn. Tất cả các xã - thị trấn đều có đường nhựa về đến xã - thị trấn. Ngoài đường bộ, trên địa bàn huyện còn có tuyến đường sắt chạy qua 9,0 km và một nhà ga, góp phần giao lưu đi lại của nhân dân trong huyện với các khu vực trong và ngoài tỉnh. Trên địa bàn huyện còn có hệ thống đường thuỷ với 21km sông Cầu và 19 km ngòi Sim, thuận tiện cho việc vận chuyển hàng hóa từ phía Đông của huyện lên miền thượng lưu của Sông Cầu và ngược lại. - Về thuỷ lợi: Tính đến nay, huyện đã xây dựng được hệ thống đê sông bao quanh phía Đông huyện (đê Tả Cầu) dài 21 km, đã hạn chế tối đa lũ lụt do nước sông dâng lên, nhưng vẫn phải tu bổ gia cố thêm. Huyện có hai nguồn nước phục vụ sản xuất là: 1 nguồn nước tự chảy; 2 nguồn nước động lực. Hiện nay có 73 trạm bơm gồm 165 máy bơm các loại với tổng công suất 4.710 kw. Cùng với hệ thống kênh chính và kênh cấp I (dài 36 km) chảy qua huyện và kênh cấp II trong huyện (dài 166 km). Ngoài ra còn có 3 hồ chứa nước nhỏ. Tổng diện tích tưới được khoảng 6.000 ha và tiêu được 2.120 ha. Nhưng thực trạng các công trình hầu hết đã bị xuống cấp, hư hỏng nên khả năng phục vụ bị hạn chế, chỉ đạt khoảng 60 - 80% công suất thiết kế. Vì vậy đòi hỏi phải được đầu tư sửa chữa nâng cấp. - Công trình phúc lợi công cộng: Hệ thống công trình phúc lợi công cộng ngày càng được cải thiện nâng cấp. Hệ thống trường học đã đảm bảo cho việc phổ cập giáo dục trên địa bàn toàn huyện. Các cơ sở y tế, văn hoá phần lớn đã đáp ứng được nhu cầu khám, chữa bệnh và cung cấp thông tin cho người dân. * Kết quả phát triển kinh tế - xã hội của huyện Mặc dù, huyện đang trong giai đoạn chuyển dịch cơ cấu kinh tế, giảm dần tỷ trọng ngành nông nghiệp. Tuy nhiên qua bảng 3.2 ta thấy kinh tế nông nghiệp vẫn chiếm một vị trí quan trọng trong hệ thống kinh tế của huyện. Mặc dù diện tích đất canh tác có chiều hướng giảm dần so do quá trình đô thị hoá, hình thành các khu công nghiệp nhưng năng lực sản xuất và tiềm năng vẫn được phát huy, cơ sở hạ tầng ngày càng được chú trọng, những thành tựu khoa học được ứng dụng rộng rãi vào sản xuất. Việc đầu tư thâm canh được thực hiện nên năng suất cây trồng, vật nuôi ngày càng tăng. Qua bảng 3.2, năm 2007 tổng giá trị sản xuất của huyện đạt 1.850.037 triệu đồng, tăng 27,4% so với năm 2006, bình quân 3 năm tăng 21,6%, trong đó nông nghiệp chiếm 32,24%. Những năm gần đây do hình thành các khu công nghiệp mới, nên giá trị ngành công nghiệp - xây dựng chiếm một tỷ trọng lớn, năm 2007 chiếm 45,06% tăng so với năm 2006 là 38,65%. Như vậy, với các chỉ tiêu trên cho thấy cơ cấu kinh tế của huyện đang có xu hướng phát triển tốt theo hướng CNH - HĐH, và ngành nông nghiệp cũng đã phát triển triển theo hướng hàng hoá. Có được kết quả này là do việc mở rộng về cơ cấu cây trồng, vật nuôi, thay đổi mùa vụ theo hướng tăng tỷ lệ cây con lai, tạo mô hình chuyên môn hoá cao. 3.2 Phương pháp nghiên cứu 3.2.1 Phương pháp chọn điểm nghiên cứu Để thấy được những ảnh hưởng, tác động từ dồn điền, đổi thửa đến sản xuất nông nghiệp của nông hộ chúng tôi tiến hành điều tra trên địa bàn 3 xã: Đó là các xã Minh Đức; Hương Mai và Nghĩa Trung. Trong đó Minh Đức, Nghĩa Trung đã tiến hành dồn đổi đa phần diện tích đất nông nghiệp, xã Hương Mai chỉ tiến hành dồn đổi trên một diện tích nhất định. Bảng 3.3 Số hộ được lựa chọn ở các xã điều tra ĐVT: hộ Xã Thuần nông Hộ Kiêm Hộ NN-DV Tổng cộng Minh Đức 19 14 5 38 Nghĩa Trung 16 18 8 42 Hương Mai 8 7 5 20 Cộng 43 39 18 100 (Tổng hợp số liệu điều tra) Nội dung điều tra: Sử dụng phiếu điều tra kinh tế hộ nông dân gồm 8 phần chính: Tình hình chung của hộ, tình hình đất đai của hộ, sự tham gia của hộ vào quá trình dồn điền đổi thửa, tình hình sử dụng đất của hộ, diện tích năng suất của 1 loại cây trồng, việc sử dụng giống cây trồng vật nuôi mới vào sản xuất, đầu tư máy móc, chi phí đầu tư của hộ/1đv diện tích, công thức luân canh. 3.2.2 Phương pháp thu thập thông tin, số liệu * Tài liệu thứ cấp Tìm đọc, trực tiếp xin số liệu thông qua các tài liệu sẵn có như: Báo cáo tổng kết về dồn điền của huyện Việt Yên, các chính sách định hướng, các báo, tạp chí, văn bản của tỉnh, huyện, niêm giám thống kê của huyện trong năm 2005-2007. Thu thập số liệu sẵn có qua các báo cáo về kinh tế - xã hội của huyện, thông tin về đất đai của huyện. * Tài liệu sơ cấp Tiến hành điều tra 100 hộ của 3 xã trong huyện, trong mỗi xã chúng tôi kết hợp với cán bộ địa phương để phân loại hộ theo các nhóm: Thuần nông, kiêm ngành nghề, chuyên ngành nghề dịch vụ. Số liệu được thu thập thông qua sử dụng phương pháo PRA, điều tra qua phỏng bằng phiếu điều tra hộ nông dân. Các thông tin được thu thập liên quan đến tình hình thực tế sản xuất của hộ nông dân như: tình hình sử dụng đất trong sản xuất nông nghiệp, tình hình đầu tư cho phí cho sản xuất, tình hình chuyển đổi cơ cấu cây trồng, những định hướng của hộ sau khi thực hiện dồn điền đổi thửa,... Ngoài ra còn sử dụng phương pháp PRA để phỏng vấn thu thập thông qua một số cán bộ chủ chốt tham gia thực hiện, chỉ đạo chương trình dồn điền đổi thửa (Trưởng phòng TNMT, chủ tịch xã, cán bộ Địa chính...) 3.2.3 Phương pháp xử lý thông tin số liệu và phân tích - Phương pháp xử lý số liệu: Các số liệu thu thập được xử lý bằng các phần mềm ứng dụng trên máy vi tính như Excell. - Phương pháp thống kê mô tả: Sử dụng các số tuyệt đối, số tương đố, số bình quân, để tính toán chỉ tiêu cần nghiên cứu như loại đất, quy mô loại đất, kết quả sản xuất để suy rộng ra toàn bộ tổng thể nghiên cứu. - Phương pháp thống kê so sánh: Thông qua việc so sánh các thông tin cùng loại của một số chỉ tiêu kinh tế để thấy được kết quả của công tác dồn điền đổi thửa tác động đến việc ra quyết định sản xuất của hộ và ảnh hướng kết quả sản xuất của hộ. So sánh các tiêu thức nghiên cứu, các nhóm hộ ở các vùng khác nhau trước và sau chuyển đổi, như: chỉ tiêu năng suất, các khoản chi phí, thu nhập hỗn hợp, kết quả sản xuất. 3.2.4 Các chỉ tiêu phân tích * Hệ thống chỉ tiêu thể hiện kết quả công tác dồn điền điền đổi thửa - Diện tích đất nông nghiệp bình quân/ hộ. - Diện tích đất nông nghiệp bình quân/ khẩu. - Số thửa bình quân/ hộ - Diện tích bình quân/ thửa - Diện tích đất bình quân/lao động Các số liệu được so sánh trước và sau khi thực hiện dồn điền đổi thửa, giữa các nhóm hộ. * Hệ thống chỉ tiêu thể hiện tác động của dồn điền đổi thửa đến quyết định sản xuất của nông hộ. - Tỷ lệ áp dụng máy móc vào sản xuất - Tỷ lệ thay đổi giống cây trồng - Tỷ lệ hộ thay đổi cơ cấu cây trồng - Tỷ lệ thay đổi mức đầu tư Các số liệu được so sánh trước và sau khi thực hiện dồn điền đổi thửa, giữa các nhóm hộ. * Các chỉ tiêu thể hiện tác động của dồn điền đổi thửa đến sản xuất nông nghiệp của nông hộ - Chỉ tiêu tổng giá trị sản xuất (GO): là toàn bộ của cải vật chất và dịch vụ được tạo ra trong một thời kỳ nhất định, thường là một năm. - Năng suất cây trồng. - Thu nhập hỗn hợp (MI): Là phần thu nhập thuần tuý của người sản xuất. Thu nhập hỗn hợp là phần đảm bảo cho đời sống và tích lỹ cho người sản xuất. - Chi phí trung gian/đơn vị diện tích - Giá trị sản xuất/1 công lao động Các số liệu được so sánh trước và sau khi thực hiện dồn điền đổi thửa, giữa các nhóm hộ. 4. Kết quả nghiên cứu và thảo luận 4.1 Tình hình dồn điền đổi thửa tại huyện Việt Yên 4.1.1 Các thông tin chung về công tác dồn điền đổi thửa ở huyện * Thực trạng đất đai của huyện sau khi giao đất lâu dài theo Nghị định 64/CP năm 1993 Sau khi thấy việc canh tác tập thể không còn phù hợp, mặt khác đã xuất hiện tình trạng giao đất đến nông dân ở một số địa phương như ở Hải Phòng, Vĩnh Phúc...đã cho kết quả cao trong sản xuất nông nghiệp. Không những tăng về năng suất, sản lượng mà còn làm cho người nông dân có trách nhiệm với đồng ruộng hơn rất nhiều. Việc thờ ơ với ruộng đất ở những nơi này không còn nữa mà thay vào đó người nông dân đã ra sức khai thác và cải tạo, đầu tư thâm canh sao cho mảnh đất của mình có được hiệu quả cao nhất. Trước thực tế đó Đảng và Nhà nước thấy rằng cần thiết phải thay đổi mối quan hệ về ruộng đất người nông dân. Năm 1993 Luật Đất đai ra đời và Nghị định số 64/CP của Chính phủ ban hành hướng dẫn cụ thể việc thực hiện giao đất lâu dài cho người dân. Thực hiện chủ trượng chính sách của Đảng và Nhà nước, huyện Việt Yên tiến hành giao đất ổn định lâu dài cho hộ nông dân, trên cơ sở có gần, có xa, có tốt, có xấu, có thấp có cao để đảm bảo tính công bằng theo Luật Đất đai năm 1993 quy định. Sau khi thực hiện việc giao đất lâu dài cho hộ nông dân, huyện Việt Yên đạt kết quả thể hiện qua bảng 4.1. Bảng 4.1 Thực trạng ruộng đất của huyện sau khi giao đất năm 1993 Chỉ tiêu ĐVT Số lượng Cơ cấu 1. Tổng quỹ đất nông nghiệp ha 13.540,5 100,0 - Đất giao cho hộ nông dân ha 12.727,9 94,0 - Đất công ích dự phòng ha 812,6 6,0 2. Số hộ được giao đất hộ 34.512,0 98,4 3. Số khẩu được giao đất khẩu 154.704,0 98,8 4. Tổng số thửa thửa 500.424,0 5. Một số chỉ tiêu bình quân - BQ số thửa/hộ thửa/hộ 14,5 -BQ diện tích/thửa m2/thửa 263,0 - BQ diện tích đất NN/khẩu m2/khẩu 850,7 - BQ diện tích đất NN/hộ m2/hộ 3.813,6 (Nguồn: Tổng hợp số liệu điều tra) Tổng quỹ đát nông nghiệp 13.540,5 ha. Đất nông nghiệp giao cho hộ nông dân là 12.727,9 ha (chiếm 94,0%). Đất công ích dục phòng 812,6 ha chiếm 6,0% đất nông nghiệp, quỹ đất công ích dự phòng được giao cho hộ nông dân, tổ chức đoàn thể ở địa phương đấu thầu. Qua bảng 4.1 ta thấy, số hộ được giao đất ở định lâu dài 34.512 hộ chiếm 98,4 hộ trong huyện, bình quân mỗi hộ có 14,5 thửa ruộng. Số khẩu trong huyện được giao ổn định lâu dài theo Nghị định số 64/CP là 154.704 khẩu, chiếm 98,8% dân số toàn huyện. Bình quân diện tích đất nông nghiệp được giao/khẩu là 850,7 m2/khẩu. Sau khi giao, tổng số thửa toàn huyện là 500.424 thửa và bình quân diện tích mỗi thửa là 263,0 m2/thửa. Luật Đất đai năm 1993 và Nghị định 64/CP ra đời tạo ra bước ngoặt lớn trong sản xuất nông nghiệp, năng suất và sản lượng lương thực tăng lên rất mạnh, nông dân được tự do lựa chọn sản xuất. Đây thực sự là một cuộc cách mạng lớn trong nông nghiệp, sức lao động được giải phóng, người lao động hăng say trong sản xuất. Người nông dân sau khi được giao nhận ruộng đất đã tập trung sản xuất sao cho khai thác tốt nhất điều kiện đất đai cũng như điều kiện của gia đình. Mặc dù hiệu quả trong sản xuất của hộ tăng lên trông thấy những hộ cũng gặp phải nhiều khó khăn trong việc mở rộng quy mô, phát triển sản xuất, đặc biệt là việc chuyển dịch cơ cấu cây trồng, áp dụng cơ giới hoá vào sản xuất. Qua thực tế triển khai thực hiện, tổng kết lại cho thấy trong quá trình quản lý và sử dụng đất đai còn một số tồn tại cơ bản sau: - Đó là việc giao ruộng đất ổn định, lâu dài cho các hộ nông dân trên một mặt bằng chưa có quy hoạch tổng thể về sử dụng đất, nhất là việc quy hoạch vùng sản xuất, quy hoạch đường canh nông và đường tưới tiêu tới mặt ruộng, quy hoạch về cải tạo đất, san ghềnh, lấp trũng. Như vậy là có ảnh hưởng tới quá trình sử dụng ruộng đất theo hướng lâu dài và ổn định. - Tình trạng phổ biến là ruộng đất được giao manh mún, tản mạn, có hộ phải canh tác tới 31 thửa ở 31 vị trí khác nhau, có thửa diện tích chỉ có 20-30 m2, có thửa còn dài vài chục mét nhưng chiều ngang thì chỉ đủ một hàng bừa. Trên ruộng màu thì diện tích bờ chiếm mất rất nhiều diện tích ruộng, giữa hộ nọ với hộ kia bị xáo trộn, lẫn lộn, hàng vụ phải thực hiện đo đạc lại rất mất thời gian. Do vậy, tình trạng này gây tốn nhiều công sức, hạn chế cải tạo đất, hạn chế đưa cơ giới vào sản xuất. - Quá trình giao ruộng như trên chưa gắn với quá trình đổi mới HTX nông nghiệp. Trách nhiệm của HTX dịch vụ đến đâu còn chưa phân định rõ ràng... Thấy được những bất lợi do ruộng manh mún, phân tán gây ra, nhiều hộ dân đã tự đổi ruộng cho nhau để có được những ô thửa lớn, thuận lợi cho sản xuất hơn. Hình thức tự nguyện đổi ruộng diễn ra ngày càng mạnh nhưng chưa thành hệ thống. Trước thực trạng đó, Đảng và Nhà nước phát động phong trào “dồn điền đổi thửa” trên phạm vi cả nước để thuận tiện cho việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn và hoàn thiện hơn việc bố trí cây trồng vật nuôi cho phù hợp để đất đai ngày một sử dụng có hiệu quả hơn. * Mục đích và nguyên tắc của dồn điền đổi thửa - Mục đích của dồn điền đổi thửa đất nông nghiệp là việc dồn ghép các ô thửa nhỏ thành những ô thửa lớn hơn nhằm hạn chế, khắc phục tình trạng manh mún ruộng đất. Tạo điều kiện đưa tiến bộ kỹ thuật vào sản xuất, đẩy mạnh việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hoá, phát triển kinh tế hộ và kinh tế trang trại, giảm chi phí sản xuất, tăng thu nhập trên đơn vị diện tích góp phần nâng cao đời sống cho người nông dân. Tạo điều kiện để quy hoạch sử dụng đất, nâng cao đời sống cho người nông dân. Tạo điều kiện để quy hoạch lại đồng ruộng thành những vùng sản xuất tập trung, hình thành các vùng chuyên canh lớn. Dồn điền đổi thửa tạo điều kiện cho công tác quản lý và theo dõi biến động đất đai chặt chẽ đi vào nề nếp, giúp cho công tác quản lý và chỉ đạo sản xuất thuận lợi và đạt hiệu quả cao. - Dồn điền đổi thửa là công việc hệ trọng, liên quan đến các hộ nông dân, tác động đến tâm lý, tập quán canh tác, lợi ích của người dân; Đồi hỏi phải có sự lãnh đạo, chỉ đạo tập trung, thống nhất cao của cấp uỷ và chính quyền các cấp, sự phối hợp tham gia thực hiện tích cực của các đoàn thể chính trị - xã hội. Trong quá trình thực hiện không làm ảnh hưởng đến thời vụ sản xuất, bảo đảm sự công bằng, dân chủ, hợp lý trong nông dân, nông thôn. - Dồn điền đổi thửa là việc định lại vị trí, kính thước thửa ruộng trong tổng diện tích đất nông nghiệp đã giao cho mỗi hộ nông dân. Song đây là một quá trình khó khăn, phức tạp, liên quan đến nhiều vấn đề, đặc biệt trong đó đụng chạm đến lợi ích của chính người dân. Do vậy, dồn điền đổi thửa phải tuân theo những nguyên tắc nhất định sau: + Việc chuyển đổi ruộng đất phải dựa trên nhu cầu của người nông dân với sự hỗ trợ giúp đỡ của Đảng, nhà nước; đảm bảo tính dân chủ, công khai, tự nguyện, cùng có lợi; ổn định tình hình kinh tế, chính trị, xã hội ở nông thôn; phù hợp với pháp luật hiện hành và xu thế vận động của đất đai. + Giữ nguyên số hộ, số khẩu, diện tích ở địa phương tại thời điểm đã giao ruộng đất khi thực hiện Nghị định 64/CP của Chính phủ và quyết định giao ruộng đất của tỉnh, thành phố; giữ nguyên loại đất, hạng đất và mức thuế suất sử dụng đất nông nghiệp. + Phương án dồn điền đổi thửa phải được lập theo đơn vị hành chính cấp xã, trong đó lấy đơn vị thôn, xóm, cụm dân cư làm đơn vị chuyển đổi. 4.1.2 Kết quả dồn điền đổi thửa ở huyện Việt Yên Giống như các địa phương khác trong tỉnh, Việt Yên cũng thực hiện giao đất lâu dài cho hộ nông dân trước khi thực hiện Nghị Định 64/CP ngày 27/9/1993. Bình quân mỗi hộ có đến 12,4 thửa, trong khi đó mức bình quân chung của ĐBSH là 7 thửa, cao hơn 5,4 thửa; diện tích thửa nhỏ nhất là 72m2 và lớn nhất là 700m2, gấp gần 10 lần. Như vậy, huyện Việt Yên là một trong mhững huyện của tỉnh có mức độ manh mún cao nhất. Sau chuyển đổi bình quân số thửa/hộ còn 6 giảm 51,6% số thửa. Tìm hiểu về kết quả dồn điền đổi thửa tại 19 xã, thị trấn trong huyện cho thấy kết quả dồn điền đổi thửa có sự khác biệt đáng kể giữa các xã là TT Bích Động, Vân Hà, Minh Đức và Vân Trung sau chuyển đổi chỉ còn dưới 4 thửa trên hộ, trong khi đó vẫn còn 9 xã bình quân trên 5 thửa. Tuy nhiên, xét một cách tổng thể, bình quân số thửa trên một hộ giảm đáng kể, từ 12,4 thửa xuống 6,0 thửa, tương ứng giảm 51,6%. Sau chuyển đổi kết quả cho thấy: trong tổng số 13.578 hộ thực hiện có 1.338 hộ nhận trên 10 thửa, chiếm 9,9%; 3.570 hộ nhận từ 6-9 thửa, chiếm 26,3%; 5.680 hộ nhận 3-5 thửa, chiếm 41,8 % và 2.990 hộ nhận 1-2 thửa, chiếm 22,0% Do nhận thức được cái lợi nhiều mặt của dồn điền đổi thửa nên nhiều thôn, nhiều xã tiếp tục vận động dồn điền đổi thửa thành những ô ruộng lớn hơn. Điển hình là xã Minh Đức, Tự Lạn, Việt Tiến sau khi dồn điền đổi thửa mỗi hộ có 3-5 thửa. Điều đặc biệt là hiện nay có gần 650 số hộ nhận 2 thửa đang có nguyện vọng tiếp tục dồn điền đổi thửa thành 1 thửa và đặc biệt hơn nữa là người dân trong huyện đã không còn phân biệt tốt, xấu, xa, gần. Nguyện vọng tiếp tục dồn điền đổi thửa đang diễn ra phổ biến ở các địa phương trong huyện Việt Yên. Kết quả dồn điền đổi thửa đã tạo ra những thửa lớn, ít phân tán nên đã khắc phục được những manh mún đất đai tạo ra, thuận lợi cho cơ giới hoá một số khâu làm đất, giảm công đi lại, có điều kiện áp dụng khoa học công nghệ kỹ thuật nên năng suất cây trồng tăng từ 15-20kg/ha/năm. Đặc biệt trong quá trình tiến hành dồn điền đổi thửa nhiều địa phương đã tạo cơ hội cho nhiều hộ có vốn, có sức lao động, có kỹ thuật nhận ruộng một thửa cộng thêm một phần diện tích trong quỹ đất ngân sách xã (5%), các hộ này đã và đang phát triển theo hướng sản suất hàng hoá, nâng cao hiệu quả kinh tế trên một đơn vị diện tích đất, nhiều hộ đã mạnh dạn đầu tư cơ sở hạ tầng tập trung vào các mô hình trang trại nhỏ, kết hợp chăn nuôi, nuôi trồng thuỷ sản đạt hiệu quả kinh tế cao. Sau hơn 4 năm thực hiện Kế hoạch số 08-KH/HU ngày 14/11/2003 của Huyện uỷ về việc vận động nhân dân chuyển đổi ruộng đất từ ô thửa nhỏ thành ô thửa lớn. Đến nay, 13/19 xã, thị trấn trên toàn huyện đã tiến hành việc chuyển đổi ruộng đất. Các quỹ đất được bố trí lại tương đối phù hợp, gọn vùng, gọn cánh, thuận lợi cho sản xuất, quản lý ruộng đất, giảm được bờ vùng bờ thửa tăng diện tích đất canh tác. Hệ thống giao thông thuỷ lợi được quy hoạch thuận lợi hơn cho sản xuất. Các ô thửa lớn chủ hộ chủ động đầu tư thâm canh nâng cao năng suất cây trồng vật nuôi sản xuất nông sản hàng hoá. Một số xã trong huyện đã chủ động vận động nhân dân trong huyện tiếp tục dồn điền đổi thửa. Bảng 4.2 Tổng hợp kết quả thực hiện dồn điền đổi thửa ở huyện Việt Yên TT Tên xã Số hộ thực hiện Phân nhóm % hộ theo số thửa Số thửa trước CĐ Số thửa sau CĐ Số xứ đồng Tỷ lệ giảm số thửa/hộ (%) Số hộ 1-2 thửa Số ._.đất có hiệu quả hơn. Dồn điền đổi thửa đã tạo nên sự thay đổi trong kinh tế hộ nông dân, thu nhập của hộ nông dân tăng lên đáng kể, mức tiêu dùng của hộ nông dân tăng lên, ngành nghề dịch vụ phát triển. Đời sống được nâng lên, việc đầu tư cho giáo dục cũng được chú trọng hơn, con em đủ tuổi đủ tuổi đều được đến trường, chiếm 100%. Mặt khác khi đưa cơ giới hoá vào sản xuất đã giải phóng phần nào sức lao động, lao động ngoài tuổi đang đi học có thời gian đến trường nhiều hơn, lao động trong tuổi vừa hết học được bố trí cho đi học nghề hoặc thi vào những trường cao đẳng, đại học. Ngoài ra dồn điền đổi thửa còn có tác động đến môi trường sống nông nghiệp nông thôn. Việc quy hoạch lại đồng ruộng đã làm cho người dân tăng mức đầu tư một cách hợp lý trong đó chú trọng việc cải tạo phục hồi đất. Lượng phân chuống được bón nhiều hơn, lượng thuốc BVTV giảm xuống. Nhiều hộ đã xây nhà ở ngay trên đất canh tác để tiện cho việc đầu tư chăm sóc, tận dụng sản phẩm đã tạo nên cảnh quan môi trường trong sạch, đẹp hơn. Cùng với các chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước, dồn điền đổi thửa thực sự là cuộc cách mạng lớn về ruộng đất, thay đổi tư duy của người dân trong sản xuất nông nghiệp, nó đã tác dộng đến quyết định sản xuất của các hộ dân chuyển dần nền nông nghiệp sản xuất tự cấp, tự túc sang sản xuất theo hướng hàng hoá, góp phần không nhỏ trong việc nâng cao chất lượng đời sống của người nông dân, từng bước cải thiện bộ mặt kinh tế nông nghiệp, nông thôn. 4.4 Định hướng và giải pháp 4.4.1 Định hướng Tập trung ruộng đất là một yêu cầu khách quan của sự phát triển vì để tiến đến nền nông nghiệp sản xuất hàng hoá lớn chúng ta không thể tiến hàng sản xuất theo quy mô ruộng đất nhỏ lẻ mà đất đai cần phải được tập trung lại với quy mô diện tích đủ lớn để hộ nông dân có thể tập trung đầu tư, áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật, cơ giới hoá các khâu sản xuất...hình thành nên nhiều trang trại sản xuất. Do đó việc dồn điền đổi thửa các diện tích đất manh mún đang là điều mà Đảng và Nhà nước ta quan tâm, để đưa nền nông nghiệp của nước nhà hội nhập cùng thế giới. Cũng như nhiều địa phương khác tỉnh Bắc Giang đã có nhiều tiến bộ trong công cuộc dồn điền đổi thửa bằng việc triển khai các văn bản, các Nghị định của Nhà nước. Trong các năm tới cần: - Duy trì hướng phát triển hợp tác hoá trong các hộ nông dân - Khuyến khích các hộ nông dân sử dụng đất tập trung theo hướng đẩy mạnh thâm canh trên toàn bộ diện tích gieo trồng, xây dựng các mô hình phát triển nông nghiệp hành hoá. - Tạo điều kiện cho các doanh nghiệp đầu tư vào lĩnh vực nông nghiệp, thu hút các lao động nhàn rỗi trong nông thôn. - Trong những năm tới, tiếp tục đẩy nhanh dồn điền đổi thửa ở các xã trong huyện góp phần thúc đẩy sản xuất nông nghiệp ở địa phương. 4.4.2 Một số giải pháp chủ yếu Xuất phát từ những nguyên nhân dẫn đến manh mún đất đai, để đưa ra những giải pháp tác động phù hợp, bên cạnh đó là từ những tác động tiêu cực của tình trạng manh mún đất đai để đưa ra những giải pháp hạn chế những tác động tiêu cực của nó. Để đưa ra những giải pháp phù hợp với các hộ sau khi chuyển đổi nhằm hạn chế ảnh hướng đến sản xuất nông nghiệp, tiến dần sang sản xuất theo hướng hàng hoá. Qua kết quả nghiên cứu, dựa trên những cơ sở lý luận chung về tập trung đất đai và tình hình cụ thể của huyện, định hướng, tham khảo một số tài liệu và tiếp thu những ý kiến đóng góp của những người có liên quan đề tài, chúng tôi đưa ra một số giải pháp cụ thể: 4.4.2.1 Tạo hành lang pháp lý để tiếp tục khuyến khích thực hiện dồn điền đổi thửa Tạo hành lang pháp lý cho việc thực hiện dồn điền đổi thửa, chính là tạo môi trường thuận lợi, thúc đẩy nhanh quá trình dồn điền đổi thửa. Tuy nhiên trên thực tế việc thực hiện đã thực sự tạo ra hành lang pháp lý tạo ra điều kiện thuận lợi cho việc dồn điền đổi thửa hay chưa? Trên thực tế đã có khá nhiều văn bản thực hiện những chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước về đất đai và được thực thực thể hiện bằng các văn bản luật của Nhà nước quy định về quyền lợi nghĩa vụ của các tổ chức và cá nhân sử dụng đất về: hạn điền, tích tụ tập trung đất đai trong nông nghiệp,...đặc biệt là sự ra đời của Bộ Luật Đất Đai đã tạo điều kiện để người nông dân yên tâm đầu tư vào sản xuất. Trong số các văn bản nói trên có chỉ thị số 10 năm 1998 của thủ tướng Chính phủ về việc tiếp tục tuyên truyền, công vận động các chủ thể sử dụng đất, chuyển dổi, dồn ghép ruộng đất đi đôi với đẩy nhanh tốc độ cấp giấy chứng nhận sử dụng đất và ngay mới đây là nghị quyết Trung ương V đề cập đến việc vận động nông dân dồn điền đổi thửa. Tuy nhiên chưa có một văn bản pháp lý nào thể chủ trương dồn điền đổi thửa kèm theo đó là những hướng dẫn cụ thể cho các tỉnh về nội dung, cách thức khắc phục tình trạng manh mún đất đai, mà là do nhận thức của các địa phương về những hạn chế của tình trạng manh mún đất đai sau khi thực hiện Nghị Định 64/CP về giao đất lâu dài cho cá nhân và tập thể sử dụng, các lãnh đạo ở các địa phương đã chủ động tổ chức triển khai công tác dồn điền đổi thửa, trong đó có tỉnh Hà Tây. Như vậy để quá trình này được thực hiện cần có sự nhất quán về chủ trương và phải được thể hiện bằng Nghị Quyết của cấp ủy, theo đó chủ trương này phải được thể hiện bằng kế hoạch, quyết dịnh hoặc hướng dẫn các tổ chức thực hiện. Tuy nhiên một vấn đề dặt ra là hành lang pháp lý do cơ quan nào ban hành, Bộ Tài nguyên và Môi trường hay Bộ Nông nghiệp và Phát Triển Nông thôn thực hiện hoặc phải do Chính phủ. Lý giải về vấn đề này đa số ý kiến đều cho rằng một khi có Nghị Quyết thì Đảng viên, cán bộ phải thực hiện một cách nghiêm túc, đồng thời họ phải tổ chức, động viên quần chúng nhân dân thực hiện. Kết quả khảo sát ở các địa phương đã triển khai công việc trên cho thấy, nếu hành lang pháp lý do cơ quan cấp tỉnh hoặc huyện ban hành thì triển khai gặp rất nhiều khó khăn, một số ý kiến cho rằng địa phương tự đặt ra để làm phiền hà nên không muốn thực hiện hoặc tìm cách gây khó khăn cho quá trình thực hiện. Như vậy ngoài Đảng và Nhà nước phải có chủ trương chính sách được thể hiện bằng các văn bản cụ thể hướng dẫn thi hành, thì việc thực hiện dồn điền đổi thửa ở các huyện phải có sự lãnh đạo tập trung của cấp uỷ Đảng, sự chỉ đạo sát sao của chính quyền các cấp, thực hiện đúng nguyên tắc Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý và nhân dân làm chủ. Sự lãnh đạo của Đảng tập trung vào công tác tư tưởng làm cho cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân thấy được lợi ích cơ bản của công tác chuyển đổi ruộng đất đặt lợi ích chung lên lợi ích cá nhân. Chính quyền các cấp, đặc biệt là chính quyền cấp xã xác định rõ mục tiêu cần đạt được của chuyển đổi, bám chắc mục tiêu đó để vận động, lãnh đạo toàn dân, có biện pháp cụ thể, tỷ mỷ, đồng thời phải linh hoạt, sáng tạo xử lý nhanh gọn nhữnh phát sinh hợp lý. 4.4.2.2 Phát huy vai trò tích cực làm chủ của nhân dân Phát huy vai trò làm chủ của nhân dân, thực hiện công khai, dân chủ, dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra từ khâu xây dựng phương án đến khâu triển khai thực hiện. Từ chi bộ đảng viên phải thống nhất ý chí trước. Từng thôn, tổ phải tổ chức cho các hộ học tập chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về quyền lợi và nghĩa vụ của người sử dụng đất. Chính quyền hướng dẫn cho các hộ trao đổi thảo luận công khai từ diện tích, hạng đất, quy mô đất, từng vùng, từng loại đất cụ thể, cách thức chuyển đổi để mọi người nhận thức được đúng lợi ích và tính cấp thiết của chuyển đổi ruộng đất. Dựa vào ý kiến thảo luận dân chủ của nhân dân, chính quyền xã, thôn xây dựng phương án phù hợp pháp lý và thuận lòng dân. Để dân biết, dân bàn đảm bảo công bằng xã hội. Cán bộ đảng viên nhận ruộng bình đẳng như dân. 4.4.2.3 Thực hiện quy hoạch sử dụng đất đai gắn với tổ chức lại sản xuất theo hướng sản xuất hàng hóa Quy hoạch sử dụng đất được coi là giải pháp quan trọng vì trên thực tế phần lớn các địa phương chỉ quy hoạch đến năm 2005. Nhiều địa phương có quy hoạch thì chỉ là sơ bộ thiếu chi tiết, chưa xác định được các quỹ đất sử dụng cho các mục đích khác nhau, chẳng hạn đất cho giao thông,xây dựng cơ bản, thủy lợi nội đồng... Khi tiến hành dồn điền đổi thửa phải tính toán nhu cầu cụ thể sử dụng cho giao thông, thủy lợi, quỹ đất công ích 5%... Các địa phương đã chuyển đổi thành công đều phải xây dựng quy hoạch sử dụng đất chi tiết cho dài hạn căn cứ vào điều kiện cụ thể của địa phương mình cũng như quy hoạch chung của tỉnh, của nước nhiều khi nơi đã có quy hoạch đã tổ chức triển khai xây dựng hệ thống giao thông, thủy lợi nội đồng bằng công sức của dân và có sự hỗ trợ về tài chính của Nhà nước như Huyện, thực hiện chủ trương Nhà nước và nhân dân cùng làm. Đây là cơ sở để tiến hành tổ chức lại sản xuất trên đồng ruộng. Tuy nhiên, nếu chỉ dừng lại ở việc quy hoạch thì chưa đủ mà cần kết hợp giữa quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất với việc tổ chức lại sản xuất. Quá trình tổ chức lại sản xuất bao gồm nhiều vấn đề, trong đó tổ chức lại sản xuất trên đồng ruộng là quan trọng nhất, tổ chức lại sản xuất trên đồng ruộng nhằm nâng cao hiệu quả kinh tế. Để đạt được mục tiêu công tác quy hoạch này thì phải gắn với việc xây dựng phương án chuyển dịch cơ cấu cây trồng, theo đó tạo lập vùng chuyên canh sản xuất tập trung. Qua kinh nghiệm của một số địa phương cho thấy cùng với việc quy hoạch vùng chuyên canh là chuyển đổi ruộng đất, thu hút và tạo điều kiện cho các hộ nông dân có vốn, kỹ thuật và lao động canh tác trong vùng này, nhằm phát huy tối đa tiềm năng đất đai, vốn và những lợi thế về lao động, kỹ thuật của từng hộ. Điều này rất dễ thấy ở nhiều vùng, trước chuyển đổi những mảnh ruộng xấu sản xuất bấp bênh thì sau khi thực hiện dồn điền đổi thửa tạo ra những mảnh đất có hiệu quả kinh tế cao như một số vùng chiêm trũng của Huyện sau khi dồn điền đổi thửa quy mô thửa lớn đã mạnh dạn đầu tư chuyển sang thả cá và có hiệu quả kinh tế cao hơn nhiều so với cây lúa mà trước kia thường mất mùa hay năng suất thấp. Bên cạnh đó việc thực hiện quy hoạch sử dụng đất của xã, huyện thì quy hoạch sử dụng đất phải gắn với cải tạo các vùng đất có vấn đề, xây dựng lại đồng ruộng, tiến hành kiến thiết đồng ruộng và trên cơ sở đó để sắp xếp bố trí ruộng đất cho từng hộ sử dụng đảm bảo dồng bộ để thực hiện thâm canh, canh tác nhằm tăng năng suất. Thứ nhất, là tiến hành kiến thiết quy hoạch đồng ruộng, gồm các bước sau: - Quy hoạch cho được một hệ thống giao thông nội đồng hợp lý để phục vụ tốt cho từng hộ sử dụng đất (đến từng ô, thửa của từng hộ), tạo điều kiện thuận lợi cho chăm sóc, bón phân và thu hoạch. Quy hoạch một hệ thống kênh mương thủy lợi nội đồng hoàn chỉnh tưới tiêu chủ động, trên nguyên tắc là ruộng của từng chủ sử dụng đều có cống lấy nước vào ruộng của mình, không để như tình trạng như trước khi dồn điền đổi thửa với nhiều ô thửa nhỏ khi lấy nước vào rất khó vừa lãng phí mà lại không hiệu quả, do ô thì đường ô thì trũng, để có nước thì mỗi hộ phải đi lấy nước vào ô nhà mình. Như vậy sau khi thực hiện dồn điền đổi thửa kết hợp với kênh mương được thiết kế một cách hợp lý đã khắc phục được những hạn chế đó. Nước là một yếu tố rất quan trọng, các cụ thường nói ''nhất nước, nhì phân''. Ngày nay khoa học hiện đại nhưng vai trò của nước không đổi, nhưng vận dụng khoa học để sử dụng nước một cách tiết kiệm và có hiệu quả lại là một vấn đề quan trọng, nó đảm bảo cho nông nghiệp phát triển bền vững. - Bố trí thửa ruộng hợp lý đảm bảo yêu cầu giao thông thủy lợi, có thể thực hiện cơ giới hóa các khâu sản xuất, máy móc có thể đi vào, tiện chăm sóc và thu hoạch. - Quy hoạch để xác định cho nhu cầu sử dụng đất, xây dựng cơ sở hạ tầng, xây dựng khu dân cư, nhằm xây dựng nông thôn mới theo hướng công nghiệp hóa hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn. Thứ hai, là thực hiện dồn điền đổi thửa trên cơ sở quy hoạch kiến thiết đồng ruộng đã được xác định để bố trí, sắp xếp ruộng đất cho từng hộ sử dụng theo hướng: trước đây một hộ có nhiều thửa, diện tích thửa nhỏ, nhiều loại ở nhiều xứ đồng xa nhau. Nay bố trí một hộ chỉ dồn vào một hoặc hai thửa lớn, theo hướng này thì thửa ruộng của từng hộ cần bố trí như sau: - Mỗi thửa ruộng đều phải có cống lấy nước vào ruộng chủ động, không để nước chảy tràn từ hộ này sang hộ kia. - Mỗi thửa ruộng đủ lớn có thể thực hiện bằng cơ giới hóa để làm đất, thu hoạch, vận chuyển dễ dàng. Như vậy để công tác quy hoạch sử dụng đất đạt hiệu quả cao thì phương án quy hoạch phải có tính khả thi và khoa học, để đảm bảo được diều này thì cần phải có sự phối hợp giữa chính quyền địa phương và các cơ quan chuyên môn về nội dung và phương pháp tiến hành, dựa vào cơ sở dự báo về phát triển kinh tế xã hội của địa phương làm cơ sở cho quy hoạch và thiết kế sử dụng đất chi tiết, dài hạn 4.4.2.4 Thực hiện tuyên truyền, giáo dục và vận động người dân tham gia Dồn điền đổi thửa là một công việc khó khăn, phức tạp có rất nhiều nhân tố ảnh hưởng tới tiến độ thực hiện, triển khai, trong đó phải kể đến nhận thức của người dân, một đặc điểm của nông dân Việt Nam là tính bảo thủ, trình độ văn hóa còn thấp vì vậy người dân còn chưa nhận thức hết được vai trò ý nghĩa của công tác dồn điền đổi thửa, chính điều này đã gây ra một khó khăn không nhỏ cho công tác dồn điền đổi thửa vì vậy để tháo gỡ điều này thì phải làm tốt công tác tuyên truyền, giáo dục và vận động nông dân để mọi người hiểu chủ trương và chính sách của Đảng, thấy được ý nghĩa của việc dồn điền đổi thửa, để làm được điều này thì bản thân các cán bộ ở xã, thôn phải hiểu và thông suốt trước sau đó vận động và tuyên truyền, giáo dục người dân. Ngoài ra chỉ ra cho người nông dân thấy hiệu quả của công tác dồn điền đổi thửa ở một số địa phương thành công, vì nếu thấy nơi nào đó làm thành công thì người dân sẽ làm theo ngay, đây là một tâm lý chung của người nông dân. Như vậy cùng với các công việc khác thì phải kết hợp với công tác tuyên truyền, vận động, giáo dục quần chúng thấy được sự cản trở của tình trạng đất đai manh mún phân tán đất đai đối với sản xuất nông nghiệp và ý nghĩa to lớn của việc thực hiện dồn điền đổi thửa, từ đó làm cho người dân hiểu và tự nguyện tham gia đông đảo. Để có thể vận động, giáo dục và tuyên truyền để người dân biết và làm theo thì trước hết phải tạo cho người dân có lòng tin, qua thực tế cho thấy có rất nhiều nguyên nhân cản trở công tác tư tưởng này, gây mất lòng tin. - ở nhiều nơi đã hoàn thành hồ sơ địa chính và cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất lâu dài, vì vậy người nông dân coi sử dụng đất là ổn định, lâu dài không muốn chuyển đổi. - Nhiều người dân không tin vào tiến trình dồn điền đổi thửa, do việc thực hiện nó chưa đảm bảo tính công bằng, dân chủ thực sự giữa những người sử dụng đất với nhau và giữa những người sử dụng đất với Nhà nước, đặc biệt là những người trực tiếp tham gia tổ chức triển khai ở địa phương. Chủ trương trong Nghị định 64/CPlà rất đúng đắn, phù hợp với lòng dân nhưng khi thực hiện triển khai thì lại làm sai lệch, không đúng, làm mất lòng tin của người dân. Một bộ phận cán bộ, Đảng viên ở một số địa phương tự ý giao cho mình, họ hàng, người thân ruộng tốt, ruộng gần. Ngoài ra một số cán bộ còn có hiện tượng con số sử dụng diện tích thực tế và trên sổ sách khác nhau, sử dụng đất tốt nhưng lại đóng thuế đất xấu. Như vậy tình trạng này đã và đang xảy ra ở một số địa phương trong Huyện, gây mất đoàn kết trong cộng đồng mà quan trọng hơn là mất đi lòng tin của người dân. Người làm cán bộ mà không công tâm mà lại tư hữu, thiên vị, thì người dân mất lòng tin là điều dễ nhận thấy. Như vậy để đảm bảo chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước được thực hiện đúng thì phải có sự kiểm tra đôn đôc, giám sát trong quá trình triển khai. - Một số bộ phận hộ nông dân, do khi chia đất theo kiểu bốc phiếu, vì vậy đã nhận được những mảnh đất màu mỡ, tiện đường giao thông, thuận lợi cho sản xuất cũng không muốn dồn điền đổi thửa. Vì họ sợ sau khi thực hiện dồn điền đổi thửa thì họ không có được mảnh đất có nhiều thuận lợi như trước nữa. Do vậy mà phải tăng cường công tác tư tưởng, tuyên truyền, vận động người dân là rất quan trọng trong trường hợp này. Để làm tốt công tác này thì phải tổ chức các hội nghị tại thôn để vận động và thuyết người sử dụng đất thấy được cái lợi nhiều mặt của chủ trương đúng đắn này, cần phải áp dụng nhiều phương pháp tuyên truyền, vận động bằng nhiều hình thức khác nhau đảm bảo tính thiết thực và phù hợp. Bên cạnh đó trong nội bộ của. Đảng phải thảo luận kỹ, từ chính quyền địa phương đến người dân về chủ trương, các bước tiến hành, nội dung phương pháp tiến hành, quy hoạch chi tiết và phương án dồn điền đổi thửa để mọi người dân hiểu và nắm vững đi đến thống nhất dưới sự lãnh đạo của các cấp Đảng uỷ, quản lý của chính quyền và sự tham gia đông đảo của quần chúng sao cho đảm bảo phương châm Nhà nước và nhân dân cùng làm, thực hiện nguyên tắc: “dân biết, dân bàn, dân kiểm tra’’. 4.4.2.5 Giải pháp về tài chính Quá trình thực hiện dồn điền đổi thửa trải qua nhiều bước, nó tuỳ thuộc vào cách làm ở từng địa phương, ở những nơi mà nông dân tự nguyện đổi cho nhau thì tiến trình thực hiện rất chậm. Để triển khai tốt công tác này thì phải có sự kết hợp giữa chính quyền địa phương và người dân, chính quyền đứng ra chỉ đạo kết hợp với sự tự nguyện tham gia của người dân thì công tác này sẽ nhanh chóng hơn. Trên thực tế thì các địa phương triển khai tốt đều phải tổ chức chặt chẽ từ thống nhất chủ trương, xây dựng kế hoạch triển khai và thực hiện lãnh đạo các cấp, theo đó triển khai đến tận người dân còn phải qua nhiều bước: hội họp, xác đinh diện tích, đo đặc, lập bản đồ, hoàn thiện hồ sơ địa chính và cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Tất cả các bước công việc đó đều phải đòi hỏi có một nguồn kinh phí cần thiết, qua thực tế ở các địa phương thì trung bình mỗi xã đã chi phí hết 40-50 triệu đồng và đều thực hiện theo phưng pháp Nhà nước và nhân dân cùng làm. Theo phương châm Nhà nước và nhân dân cùng làm thì phần kinh phí do nhân dân đóng góp gồm: kinh phí hội họp, kinh phí đo đạc, cắm mốc để chia cho từng hộ gia đình và xây dựng phương án cho từng hộ nông dân đóng góp theo đầu sào là từ 1,5-2 kg thóc. Để đảm bảo tính khách quan trung thực sử dụng khoản kinh phí này thì mỗi trưởng thôn chịu trách nhiệm thu, điều hành toàn bộ kinh phí và cuối cùng phải thông qua hội nghị của thôn. Bên cạnh đó là phần kinh phí của Nhà nước để thực hiện các việc sau: Lập bản đồ; Rà soát xây dựng quy hoạch sử dụng đất lâu dài; Hoàn thiện hồ sơ địa chính và cấp lại giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho hộ nông dân Mặt khác khi chuyển lên sản xuất với quy mô lớn hơn thì hầu hết các hộ nông dân đều thiếu vốn cho sản xuất, nhất là những vùng chuyển sang nuôi cá kết hợp. Việc đầu tư xây dựng các dự án nuôi trồng thuỷ sản, áp dụng những tiến bộ khoa học kỹ thuật, mua các giống mới... đòi hỏi một lượng vốn lớn, trong khi đó lãi suất ngân hàng ngày một cao. Do vậy cần có sự hỗ trợ bước đầu của Nhà nước về kinh phí trong quá trình dồn diền đổi thửa cũng như các chương trình, chính sách về tín dụng phù hợp để thúc đẩy sản xuất phát triển. 4.4.2.6 Giải pháp về khuyến nông Các hoạt động khuyến nông hiện nay chủ yếu tập trung vào việc tuyên truyền, phổ cập, hướng dẫn các kỹ thuật canh tác thích hợp cho các hộ nông dân, xây dựng những mô hình mầu về kỹ thuật canh tác với mục đích phổ biến nhân rộng, đưa các giống mới vào sản xuất...Qua thực tế điều tra cho thấy có hơn 90% ý kiến hộ nông dân là cần được phổ biến kiến thức về trồng cây gì, con gì, mở rộng sản xuất như thế nào cho phù hợp, song khi tiến hành dồn đổi ruộng đất thì ở địa phương có rất ít chương trình phổ biến, tập huấn, hướng dẫn về kỹ thuật chọn giống, gieo trồng, chăm sóc và thu hoạch, cũng như việc hội thảo giúp người nông dân nhân thức rõ hơn về việc định hướng cho phát triển sản xuất nông nghiệp phù hợp. Do vậy, cần có sự tăng cường về khuyến nông bằng cách: + Tổ chức những cuộc hội thảo gắn với việc định hướng phát triển nông nghiệp theo hướng hàng hoá. + Mở các lớp đào tạo, tập huấn ngắn và dài hạn cho các cán bộ khuyến nông nhất là khuyến nông viên cơ sở. + Tổ chức chuyển giao các tiến bộ khoa học kỹ thuật mới cho các hộ nông dân mạnh dạn đầu tư vào sản xuất, giúp nông dân về kiến thức, cho các hộ đi thăm quan những mô hình kinh tế làm ăn giỏi để học tập, trao đổi kinh nghiệm.... 4.4.2.7 Giải pháp về thị trường Sản xuất hàng hoá phải gắn liền với thị trường tiêu thụ, sản phấp đầu ra tiêu thụ được và tiêu thụ một cách dễ dàng thì số lượng đầu vào sẽ tăng lên. Do vậy, việc mở rộng hoạt động xúc tiến thương mai để giúp các địa phương, các hộ nông dân chủ động tiêu thụ sản phẩm làm ra với giá bán hợp lý là rất cần thiết sau khi các hộ đã dần chuyển đổi sang hướng sản xuất hàng hoá. + Thúc đẩy nhiều doanh nghiệp, HTX đứng ra tổ chức sản xuất và tiêu thụ sản phẩm cho nông dân, tạo ra mối quan hệ 4 nhà. + Xây dựng các chợ đầu mối thu mua sản phẩm nông sản tạo sự thuận tiện cho người dân. + Triển khai tích cực Quyết định số 80/2002/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về chính sách khuyến khích tiêu thụ nông sản hàng hoá thông qua hợp đồng. Đồng thời Nhà nước cần có thêm chính sách hỗ trợ đảm bảo cho người nông dân trong việc tiêu thụ hàng nông sản để các bên tuân thủ nghiêm các cam kết đã ký. 5. Kết luận và khuyến nghị 5.1 Kết luận 1/ Luận văn đã hệ thống hoá và phân tích những vấn đề về lý luận và thực tiễn của dồn điền đổi thửa, nhằm xem xét tác động của nó đến sản xuất nông nghiệp của hộ nông dân nói riêng và phát triển nông nghiệp của huyện nói chung. 2/ Luận văn được đã nêu bật được những hạn chế cho tình trạng manh mún ruộng đất gây ra đối với sản xuất nông nghiệp. Dồn điền đổi thửa là một chủ trương lớn nhằm giao ruộng đất ổn định lâu dài cho người nông dân; tạo điều kiện cho họ yên tâm đầu tư thâm canh sản xuất chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp nông thôn. 3/ Luận văn đã đánh giá tác động của dồn điền đổi thửa đến sản xuất của nông hộ của huyện Việt Yên. Qua phân tích tình hình kinh tế của hộ nông dân trước và sau dồn điền đổi thửa ta thấy được sự tác động của việc dồn điền đổi thửa đến việc ra các quyết định trong sản xuất nông nghiệp như: quyết định trong việc lựa chọn các giống cây trồng mới, áp dụng cơ giới hoá, mức đầu tư chi phí/đơn vị diện tích giảm làm tăng năng suất, tỷ trọng hàng hoá tăng. Sau quá trình dồn điền điền đổi thửa cơ cấu kinh tế của hộ đã chuyển dần từ việc sản xuất nhỏ lẻ, tự cung tự cấp sang sản xuất theo hướng hàng hoá, hình thành nên nhiều mô hình kinh tế trang trại, nông nghiệp đã và đang hình thành phát triển theo hướng hàng hoá và theo hướng tập trung chuyên canh. Đồng thời mang lại những kết quả trực tiếp (quy mô đất đai bình quân tăng lên, số thửa của các hộ giảm đi đáng kể, diện tích đất canh tác tăng lên do giảm được diện tích bờ vùng, bờ thửa, diện tích kênh mương tưới tiêu, đồng ruộng được quy hoạch gọn gàng, được công lao động và còn có những tác động dán tiếp đến kinh tế, xã hội và môi trường. Đề tài đã khuyến nghị một số giải pháp giải quyết một số vấn đề tồn tại của quá trình dồn điền đổi thửa nhằm thúc đẩy phát triển sản xuất nông nghiệp của huyện trong thời gian tới. 5.2 Khuyến nghị 5.2.1 Đối với nhà nước Dồn điền đổi thửa là công việc còn rất mới, phức tạp và liên quân đến nhiều vấn đề nhưng có ý nghĩa to lớn đến việc sản xuất của nông hộ. Do vậy, cần có sự lãnh đạo của Đảng và chính quyền các cấp, sự phối kết hợp giữa các ngành, đoàn thể nhằm tạo sự thống nhất cao. Qua những kết quả tích cực bước đầu cần tiếp tục có những biện pháp rút ra bài học kinh nghiệm ở mỗi vùng, mỗi địa phương để có những đổi mới, bổ sung về cơ chế chính sách cho phù hợp nhằm khuyến khích mở rộng sản xuất. Cần tuyên truyền sâu rộng về luật Đất đai và các văn bản dưới luật, cũng như việc tuyên truyền mục đích, ý nghĩa của dồn điền đổi thửa cho các hộ nông dân để nâng cao nhận thức của họ từ đó quá trình dồn điền đổi thửa được dễ dàng thuận lợi. Chính quyền địa phương cùng nhân dân cố gắng hoàn thiện hệ thống giao thông, thuỷ lợi nội đồng theo đúng quy hoạch đã đề ra để có thể đưa máy móc, tiến bộ khoa học kỹ thuật vào trong sản xuất nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất nông nghiệp, phát huy được những ưu điểm mà dồn điền đổi thửa đã mang lại. Tiếp tục hoàn thiện quy hoạch đồng ruộng theo phương án chuyển đổi ruộng đất, như quy hoạch đường giao thông, thuỷ lợi nội đồng, quy hoạch vùng sản xuất...từ đó từng bước chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu cây trồng, vật nuôi ở địa phương. Bên cạnh đó cần kết hợp với các tổ chức trung gian như khuyến nông, tín dụng, các hội đoàn thể để hộ trợ nông dân về vốn, kỹ thuật, đầu ra... tạo điều kiện thuận lợi cho các hộ nông dân mạnh dạn đầu tư, chuyển hướng sản xuất. Đồng thời đảm bảo công bằng giữa những người sử dụng đất với nhau và với Nhà nước. Để có sự công bằng đó phải giải quyết nhiều vấn đề mà trước hết là xác định chính xác quỹ đất nông nghiệp, diện tích lô đất bằng những phương pháp mới. 5.2.2 Các đối với hộ nông dân Các hộ nông dân cần tích cực hơn nữa trong việc tham gia vào các phong trào ở địa phương, tránh tình trạng gây rào cản, cản trở việc tham gia của người khác. Thực hiện nghiêm túc mọi chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước. Đối với các hộ có hướng chuyển hướng sang nuôi trồng thuỷ sản cần tập trung kết hợp với một số giống con khác có hiệu quả kinh tế cao, thâm canh trồng mầu và cấy lúa cho năng suất cao. Tài liệu tham khảo Bộ Nông nghiệp và PTNT – Vụ chính sách, Chính sách đất đai ở nông thôn, Nhà xuất bản Nông nghiệo, Hà Nội. Bộ Tài nguyên và Môi trường (2003), Báo cáo kết quả công tác dồn điền đổi thửa của đoàn kiểm tra tình hình thực tế và chỉ đạo các địa phương, Hà Nội. Bộ Tài nguyên và Môi trường (2003), Báo cáo chuyển đổi ruộng đất nông nghiệp khắc phục tình trạng manh mún, phân tán trong sử dụng đất, Hà Nội. Bộ Tài nguyên và Môi trường (2003), Hướng dẫn việc dồn điền, đổi thửa trong sản xuất nông nghiệp, Hà Nội. Đỗ Kim Chung (1999), Thị trường chuyển nhượng và cho thuê đất đai trong Nông nghiệp ở Việt Nam, NXB Nông nghiệp, Hà Nội. Đỗ Kim Chung (2005), Dự án phát triển nông thôn, NXB Nông nghiệp, Hà Nội. Chính phủ nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (1993), Nghị định số 64/CP Bùi Quang Dũng (2002), Nghiên cứu thực trạng và ảnh hưởng của quá trình tập trung ruộng đất đến phát triển nông nghiệp tại huyện Thạch Thất, tỉnh Hà Tây, Luận văn Thạc sỹ, Đại học Nông nghiệp1, Hà Nội. Lê Quang Huyền (2002), Vấn đề ruộng đất ở Việt Nam, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội. Phạm Vân Đình, Đỗ Kim Chung và cộng sự (1997), Kinh tế nông nghiệp, NXB Nông nghiệp, Hà Nội. Anh Thơ (2007), Tích tụ ruộng đất, hướng đi tất yếu, Website: htttp://www.kinhtenongthon.com.vn Nguyễn Hữu Ngoan, Tô Dũng Tiến (2005). Giáo trình Thống kê Nông nghiệp, NXB Nông nghiệp, Hà Nội. UBND huyện Việt Yên (2006), Niên giám Thống kê huyện Việt Yên năm 2005, NXB Thống kê, Hà Nội. UBND huyện Việt Yên (2007), Niên giám Thống kê huyện Việt Yên năm 2006, NXB Thống kê, Hà Nội. UBND huyện Việt Yên (2005), Báo cáo công tác dồn điền đổi thửa ở huyện Việt Yên, Bắc Giang. UBND huyện Việt Yên (2006), Báo cáo đánh giá kết quả thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế xã hội năm 2005 và nhiệm vụ kinh tế xã hội năm 2006. Bắc Giang. UBND huyện Việt Yên (2007), Báo cáo đánh giá kết quả thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế xã hội năm 2006 và nhiệm vụ kinh tế xã hội năm 2007. Bắc Giang. UBND huyện Việt Yên (2008), Báo cáo đánh giá kết quả thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế xã hội năm 2007 và nhiệm vụ kinh tế xã hội năm 2008. Bắc Giang. Phụ lục Hình ảnh 1 Cánh đồng trước khi dồn điền đổi thửa Hình ảnh 2 Mô hình lúa chất lượng cao Hình ảnh 3 Cánh đồng trồng dưa chuột xuất khẩu Hình ảnh 4 Mô hình chuyển đổi ruộng trũng sang chăn nuôi thuỷ sản Bộ giáo dục và đào tạo Trường đại học Nông nghiệp hà nội ---------------  linh Đánh giá tác động của dồn điền đổi thửa đất nông nghiệp đến sản xuất của nông hộ tại huyện Việt Yên - tỉnh Bắc Giang luận văn thạc sĩ nông nghiệp Chuyên ngành : Kinh tế nông nghiệp Mã số : 60.31.10 Người hướng dẫn khoa học: ts. Hà nội - 2008 Lời cam đoan Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu và kết quả trình bày trong luận văn là trung thực và chưa từng được ai công bố trong bất cứ công trình nào khác. Tôi xin cam đoan rằng mọi sự giúp đỡ cho việc thực hiện luận văn này đã được cám ơn và các thông tin trích dẫn trong luận văn đều đã được chỉ rõ nguồn gốc. Hà Nội, ngày tháng 10 năm 2008 Người cam đoan Linh Lời cảm ơn Mục lục Lời cam đoan i Lời cảm ơn ii Mục lục iii Danh mục các chữ viết tắt v Danh mục bảng vi Danh mục biểu đồ viii Danh mục các chữ viết tắt danh mục bảng 2.1 Diện tích và số thửa ruộng của mỗi hộ nông dân Trung Quốc 11 2.2 Mức độ manh mún ruộng đất ở các vùng trong cả nước 14 2.3 Mức độ manh mún ruộng đất ở một số tỉnh vùng ĐBSH 15 3.1 Đặc điểm thời tiết khí hậu của huyện Việt Yên 22 3.3 Số hộ được lựa chọn ở các xã điều tra 27 4.1 Thực trạng ruộng đất của huyện sau khi giao đất năm 1993 32 4.2 Tổng hợp kết quả thực hiện dồn điền đổi thửa ở huyện Việt Yên 37 4.3 Sự thay đổi đất canh tác của huyện sau khi dồn điền đổi thửa 39 4.4 Các khâu cơ giới hóa trong nông nghiệp của huyện 40 4.5 Tình hình dồn điền đổi thửa ở các xã điều tra 42 4.6 Một số kết quả của dồn điển đổi thửa ở các xã điều tra 44 4.7 Những thông tin chung về nhóm hộ điều tra 47 4.8 Diện tích các loại bình quân của nhóm hộ điều tra 50 4.9 Sự tham gia của các hộ điều tra trong quá trình dồn điền đổi thửa 54 4.10 Tình hình sử dụng đất nông nghiệp của nhóm hộ điều tra trước và sau dồn đổi 56 4.11 Sự thay đổi cơ cấu các loại đất nông nghiệp trước và sau dồn đổi ở các nhóm hộ điều tra 59 4.12 Sự thay đổi diện tích đất canh tác của nhóm hộ điều tra 61 4.13 Sự thay đổi cơ cấu cây trồng sau dồn điền đổi thửa 64 4.14 Quyết định đầu tư máy móc sau khi dồn điền đổi thửa 66 4.15 Tác động về mức cơ giới hoá sau đồn điền đổi thửa năm 2007 67 4.16 Mức độ đầu tư, chi phí của các hộ trên 1 sào lúa trước và sau dồn điền đổi thửa 69 4.17 Kết quả giá trị sản xuất của ngành trồng trọt của nhóm hộ điều tra 71 4.18 Giá trị và cơ cấu sản xuất của các nhóm hộ điều tra năm 2007 72 4.19 Tình hình cơ cấu lao động của nhóm hộ điều tra trước và sau khi dồn đổi 74 ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docLuan_van_Linh1.doc
Tài liệu liên quan