Đánh giá thực trạng đàn bò vàng, nghiên cứu ảnh hưởng của việc sử dụng bò đực giống 7/8 máu sind và bổ sung thức ăn tinh tới tỷ lệ sống, sinh trưởng của đàn bê lai tại huyện chợ đồn tỉnh Bắc Kạn

Tài liệu Đánh giá thực trạng đàn bò vàng, nghiên cứu ảnh hưởng của việc sử dụng bò đực giống 7/8 máu sind và bổ sung thức ăn tinh tới tỷ lệ sống, sinh trưởng của đàn bê lai tại huyện chợ đồn tỉnh Bắc Kạn: ... Ebook Đánh giá thực trạng đàn bò vàng, nghiên cứu ảnh hưởng của việc sử dụng bò đực giống 7/8 máu sind và bổ sung thức ăn tinh tới tỷ lệ sống, sinh trưởng của đàn bê lai tại huyện chợ đồn tỉnh Bắc Kạn

pdf103 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 2007 | Lượt tải: 1download
Tóm tắt tài liệu Đánh giá thực trạng đàn bò vàng, nghiên cứu ảnh hưởng của việc sử dụng bò đực giống 7/8 máu sind và bổ sung thức ăn tinh tới tỷ lệ sống, sinh trưởng của đàn bê lai tại huyện chợ đồn tỉnh Bắc Kạn, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 1 ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƢỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM ------------  ------------ VŨ TRÍ QUÂN ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG ĐÀN BÒ VÀNG, NGHIÊN CỨU ẢNH HƯỞNG CỦA VIỆC SỬ DỤNG BÒ ĐỰC GIỐNG 7/8 MÁU SIND VÀ BỔ SUNG THỨC ĂN TINH TỚI TỶ LỆ SỐNG, SINH TRƯỞNG CỦA ĐÀN BÊ LAI TẠI HUYỆN CHỢ ĐỒN TỈNH BẮC KẠN LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC NÔNG NGHIỆP THÁI NGUYÊN – 2007 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 2 ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƢỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM ------------  ------------ VŨ TRÍ QUÂN ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG ĐÀN BÒ VÀNG, NGHIÊN CỨU ẢNH HƯỞNG CỦA VIỆC SỬ DỤNG BÒ ĐỰC GIỐNG 7/8 MÁU SIND VÀ BỔ SUNG THỨC ĂN TINH TỚI TỶ LỆ SỐNG, SINH TRƯỞNG CỦA ĐÀN BÊ LAI TẠI HUYỆN CHỢ ĐỒN TỈNH BẮC KẠN Chuyên ngành : CHĂN NUÔI ĐỘNG VẬT NÔNG NGHIỆP Mã số : 60. 62. 40 LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC NÔNG NGHIỆP NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC : 1. TS. Trần Trang Nhung 2. TS. Hoàng Toàn Thắng THÁI NGUYÊN – 2007 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 3 Lời cam đoan Tôi xin cam đoan rằng, những số liệu đã được sử dụng trong bản luận văn này là hoàn toàn trung thực và chưa hề sử dụng cho bảo vệ một học vị nào. Moị sự giúp đỡ cho việc hoàn thành luận văn đều đã được cảm ơn. Các thông tin, tài liệu trình bày trong luận văn này đã được ghi rõ nguồn gốc. Tác giả Vũ Trí Quân Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 4 Lời cảm ơn Luận văn này của chúng tôi đã đề cập đến đánh giá thực trạng đàn bò vàng, nghiên cứu ảnh hưởng của việc sử dụng bò đực giống 7/8 máu Sind và bổ sung thức ăn tinh đến tỷ lệ sống, sinh trưởng của đàn bê lai tại huyện Chợ Đồn tỉnh Bắc Kạn. Trong quá trình tiến hành đề tài và hoàn chỉnh luận văn, chúng tôi nhận được sự giúp đỡ rất nhiều của các cơ quan, tổ chức, cá nhân. Nhân dịp hoàn thành bản luận văn này, chúng tôi xin trân trọng cảm ơn sự tạo điều kiện, giúp đỡ của Đảng uỷ, Ban giám hiệu, Khoa sau Đại học, Phòng Đào tạo- Khoa học và Hợp tác quốc tế, các thầy cô giáo khoa Chăn nuôi - Thú y Trường ĐH Nông Lâm Thái Nguyên. Tôi xin trân trọng cảm ơn sự giúp đỡ tận tình của hai thầy cô giáo hướng dẫn: TS Trần Trang Nhung, TS Hoàng Toàn Thắng. Tôi xin chân thành cảm ơn tới Sở Công Nghiệp – Khoa học & Công nghệ, Sở Nông nghiệp và PTNT tỉnh Bắc Kạn, Trung tâm ứng dụng tiến bộ Khoa học & Công nghệ, Trung tâm nước sinh hoạt và Vệ sinh môi trường nông thôn tỉnh Bắc Kạn. Tôi xin bày tỏ lòng cảm ơn chân thành tới UBND huyện Chợ Đồn, Phòng Nông lâm nghiệp, Phòng Thống kê, Trạm Thú y, UBND các xã của huyện Chợ Đồn. Nhân dịp này tôi cũng xin chân thành cảm ơn gia đình và bè bạn gần xa đã tạo điều kiện, khuyến khích, động viên giúp đỡ tôi hoàn thành chuyên đề nghiên cứu. Tôi xin trân trọng gửi tới các thầy cô giáo, các vị trong Hội đồng chấm luận văn lời cảm ơn chân thành và lời chúc tốt đẹp nhất. Thái Nguyên ngày 4 tháng 11 năm 2007 Tác giả Vũ Trí Quân Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 5 MỤC LỤC Nội dung Trang MỞ ĐẦU 1. Đặt vấn đề. 1 2. Mục tiêu của đề tài 3 CHƢƠNG I – TỔNG QUAN TÀI LIỆU 1.1. Cơ sở lý luận 4 1.1.1. Cơ sở khoa học của ưu thế lai 4 1.1.2. Sự di truyền các tính trạng năng suất 6 1.1.3. Cơ sở khoa học của sự sinh trưởng 8 1.1.4. Các yếu tố ảnh hưởng đến khả năng sinh trưởng 12 1.1.5. Nguồn thức ăn nuôi bò 16 1.1.6. Cơ sở khoa học để bổ sung thức ăn tinh cho bê từ 6 đến 10 tháng tuổi 21 1.2. Tình hình nghiên cứu trong và ngoài nước 23 1.2.1. Tình hình nghiên cứu ở nước ngoài 23 1.2.2. Tình hình nghiên cứu ở trong nước 24 1.3. Giới thiệu về bò đực giống 7/8 máu Sind 31 1.4. Khái quát về điều kiện tự nhiên và kinh tế xã hội huyện Chợ Đồn 32 CHƢƠNG II – NỘI DUNG VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 2.1. Địa điểm, thời gian và đối tượng nghiên cứu 34 2.2. Nội dung nghiên cứu 34 2.3. Phương pháp nghiên cứu 34 2.4. Các chỉ chỉ tiêu nghiên cứu và phương pháp xác định 40 2.5. Phương pháp xử lý số liệu 43 CHƢƠNG III- KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN 3.1. Kết quả điều tra, đánh giá hiện trạng đàn bò địa phương 45 3.1.1. Tình hình phát triển chăn nuôi bò của các xã điều tra 45 3.1.2. Khả năng sinh trưởng của đàn bò Chợ Đồn 50 3.2. Kết quả nghiên cứu ảnh hưởng của việc sử dụng đực giống F3 (7/8 máu Sind) tới tỷ lệ sống và sinh trưởng của bê lai 58 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 6 3.2.1. Tỷ lệ nuôi sống của bê Lai Sind và bê địa phương 58 3.2.2. Sinh trưởng tích luỹ của bê Lai Sind và bê địa phương 60 3.2.3. Sinh trưởng tuyệt đối và tương đối của bê Lai Sind và bê ĐP 65 3.2.4. Kích thước một số chiều đo của bê Lai Sind và bê địa phương 69 3.3. Kết quả nghiên cứu ảnh hưởng của biện pháp bổ sung thức ăn tinh để nuôi bê Lai Sind sau cai sữa từ 6 đến 10 tháng tuổi 71 3.3.1. Tỷ lệ nuôi sống của bê Lai Sind thí nghiệm 71 3.3.2. Sinh trưởng tích lũy của bê Lai Sind thí nghiệm 72 3.3.3. Sinh trưởng tuyệt đối của bê Lai Sind thí nghiệm 74 3.3.4. Kết quả sinh trưởng tương đối của bê Lai Sind thí nghiệm 76 3.3.5. Kích thước một số chiều đo của đàn bê Lai Sind thí nghiệm 77 3.3.6. Sơ bộ hạch toán chi phí thức ăn cho bê thí nghiệm 79 KẾT LUẬN, TỒN TẠI VÀ ĐỀ NGHỊ I. Kết luận 82 II. Tồn tại 83 III. Đề nghị 84 Tài liệu tham khảo 85 Phụ lục 90 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 7 DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT Cs: Cộng sự CV: Cao vây CTV: Cộng tác viên DD: Dinh dưỡng DTC: Dài thân chéo ĐC: Đối chứng P: Khối lượng TA: Thức ăn TN: Thí nghiệm TT: Tháng tuổi TL: Tỷ lệ VCK: Vật chất khô VO: Vòng ống VN: Vòng ngực UBND: Uỷ ban nhân dân NLTĐ: Năng lượng trao đổi LS: Lai Sind ĐP: Địa phương SS: Sơ sinh Pr Protein ĐVTA Đơn vị thức ăn VSV Vi sinh vật Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 8 DANH MỤC CÁC BẢNG, BIỂU STT Tên bảng Trang Bảng 1.1 Thành phần hoá học một số cỏ tự nhiên và cỏ trồng 18 Bảng 1.2. Thành phần của 2 loại tảng liếm 29 Bảng 2.1 Nhu cầu dinh dưỡng của bê nuôi thịt ở giai đoạn 6-10 tháng tuổi và có mức tăng trọng là 500 gr/ngày 38 Bảng 2.2 Lượng thức ăn dinh dưỡng hàng ngày bê được cung cấp 39 Bảng 2.3 Công thức phối trộn và thành phần dinh dưỡng thức ăn hỗn hợp bổ sung cho bê thí nghiệm 40 Bảng 2.4 Dinh dưỡng cho bê thí nghiệm sau khi đã bổ sung thức ăn tinh hỗn hợp so với lô đối chứng và nhu cầu ăn 40 Bảng 3.1 Số lượng, phân bố và biến động của đàn bò 4 xã điều tra qua 3 năm gần đây 46 Bảng 3.2 Cơ cấu đàn bò ở các xã điều tra 47 Bảng 3.3 Quy mô đàn bò chăn nuôi trong nông hộ tại các xã điều tra 49 Bảng 3.4 Sinh trưởng tích luỹ của bò vàng địa phương từ sơ sinh đến 36 tháng tuổi (kg) 50 Bảng 3.5 Sinh trưởng tuyệt đối và tương đối của bò vàng qua các giai đoạn 53 Bảng 3.6 Kích thước một số chiều đo chính của bò vàng (cm) 56 Bảng 3.7 Tỷ lệ nuôi sống của bê Lai Sind và bê địa phương 59 Bảng 3.8 Sinh trưởng tích luỹ của nhóm bê Lai Sind và bê ĐP(kg) 60 Bảng 3.9 So sánh khối lượng của bê Lai Sind với bê địa phương 62 Bảng 3.10 So sánh sinh trưởng tích luỹ của bê Lai Sind huyện Chợ Đồn với bê lai F1 (Bố Red Sindhi x mẹ đp) của các địa phương khác (kg) 64 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 9 Bảng 3.11 Sinh trưởng tuyệt đối của của bê Lai Sind và bê địa phương (gr/con/ngày) 65 Bảng 3.12 Sinh trưởng tương đối của bê Lai Sind và bê địa phương (%) 68 Bảng 3.13 Một số chiều đo của bê địa phương và bê Lai Sind 69 Bảng 3.14 Tỷ lệ nuôi sống của bê qua các tháng thí nghiệm 71 Bảng 3.15 Sinh trưởng tích lũy của bê Lai Sind qua các tháng thí nghiệm (kg) 72 Bảng 3.16 Sinh trưởng tuyệt đối của bê Lai Sind qua các tháng thí nghiệm (g/con/ngày). 74 Bảng 3.17 Sinh trưởng tương đối của bê Lai Sind thí nghiệm và đối chứng(%/) 76 Bảng 3.18 Kích thước một số chiều đo của đàn bê Lai Sind qua các tháng thí nghiệm (cm). 78 Bảng 3.19 Hạch toán chi phí thức ăn tinh bổ sung của bê thí nghiệm. 82 DANH MỤC CÁC SƠ ĐỒ Sơ đồ thí nghiệm 1 Nghiên cứu ảnh hưởng của việc sử dụng bò đực giống 7/8 máu Sind tới tỷ lệ sống và sinh trưởng của bê lai từ sơ sinh đến 12 tháng tuổi 36 Sơ đồ thí nghiệm 2 Nghiên cứu ảnh hưởng của việc bổ sung thức ăn tinh tới tỷ lệ sống và sinh trưởng của đàn bê lai từ 6 đến 10 tháng tuổi 37 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 10 DANH MỤC CÁC ĐỒ THỊ Đồ thị 3.1 Sinh trưởng tích luỹ của bò vàng địa phương từ ss đến 36 tháng tuổi 52 Đồ thị 3.2 Sinh trưởng tương đối của bò vàng (%) 55 Đồ thị 3.3 Sinh trưởng tích luỹ của bê địa phương và bê Lai Sind 63 Đồ thị 3.4 Sinh trưởng tương đối của bê Lai Sind và bê địa phương (%) 68 Đồ thị 3.5 Đồ thị sinh trưởng tính lũy của đàn bê Lai Sind qua các tháng thí nghiệm 73 Đồ thị 3.6 Sinh trưởng tương đối của bê Lai Sind qua các tháng thí nghiệm 77 DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ VÀ ẢNH Biểu đồ 3.1 Sinh trưởng tuyệt đối của bò vàng tại các xã điều tra 54 Biểu đồ 3.2 Sinh trưởng tuyệt đối của bê Lai Sind và bê địa phương 67 Biểu đồ 3.3 Sinh trưởng tuyệt đối của bê Lai Sind thí nghiệm 75 Phụ lục Một số ảnh minh hoạ của đề tài 92 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 1 MỞ ĐẦU 1. ĐẶT VẤN ĐỀ Bò là một loại gia súc có nhiều ưu thế, được nuôi ở hầu hết các vùng địa lý, vùng sinh thái khác nhau trên thế giới. Là động vật nhai lại nên bò có khả năng sử dụng các loại thức ăn xanh, thức ăn thô rẻ tiền chứa nhiều xơ như: Cỏ khô, rơm rạ, thân cây ngô và các phế phụ phẩm nông, công nghiệp mà con người và các loại vật nuôi khác không sử dụng được để chuyển hóa thành các sản phẩm có giá trị dinh dưỡng và giá trị thương mại cao như: Thịt, sữa... đồng thời còn cung cấp sức kéo cho sản xuất nông nghiệp. Năm 2006 thế giới thu được 657 triệu tấn sữa, trong đó có tới 80- 90% là sữa bò (Số liêụ của FAO tại trang web: www.vinanet.com.vn, ngày 10/10/2007)[12]; Sản lượng thịt bò thế giới năm 2006 đạt 53,8 triệu tấn (số liệu của Bộ Nông nghiệp Mỹ tại trang web: www.xttm.agroviet.gov.vn, ngày 7/5/2007)[3]. Đây là một trong những nguồn thực phẩm quan trọng đối với đời sống con người. Chăn nuôi bò có khả năng đem lại hiệu quả kinh tế cao do chi phí thức ăn thấp, công lao động chủ yếu là trẻ em, người già. Bò cũng là loài gia súc chịu kham khổ tốt, dễ nuôi và ít bệnh tật. Ngoài ra chăn nuôi bò còn cung cấp khối lượng phân hữu cơ đáng kể cho trồng trọt, đồng thời cung cấp nguyên liệu (da, lông, sừng, móng...) cho công nghiệp chế biến và sản xuất hàng tiêu dùng. Vì lẽ đó, chăn nuôi bò cần được quan tâm phát triển nhằm mang lại lợi ích kinh tế. Việt Nam với 3/4 diện tích là đồi núi và vị trí địa lý nằm trong khu vực nhiệt đới nên quanh năm cây cỏ xanh tốt, có nhiều thuận lợi cho việc phát triển chăn nuôi đại gia súc, hơn nữa lại có nguồn phế phụ phẩm nông nghiệp đáng kể là điều kiện thuận lợi để phát triển và mở rộng quy mô đàn gia súc ăn cỏ, đặc biệt là đàn bò. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 2 Năm 2004 tổng đàn bò của cả nước là 4,91 triệu con, năm 2005 tăng lên 5,54 triệu con, tốc độ tăng đàn là 12,85 %; Sản lượng thịt trâu bò năm 2004 là 177,24 ngàn tấn đến năm 2005 tăng lên 201,96 ngàn tấn, tốc độ phát triển đạt 13,94% (Báo cáo của Cục Chăn nuôi, tháng 6-2006) [6]. Bắc Kạn là một tỉnh nghèo nằm ở miền núi phía bắc có ngành công nghiệp kém phát triển, sản xuất nông lâm nghiệp được xác định là thế mạnh kinh tế của tỉnh, trong đó chăn nuôi trâu bò được ưu tiên phát triển, với mục tiêu là: “Phấn đấu đưa đàn trâu bò của tỉnh từ 121.000 con lên 300.000 con vào năm 2010” đã được đưa vào Nghị quyết của Hội đồng nhân dân tỉnh. Thực hiện Nghị quyết của tỉnh, huyện Chợ Đồn đã có nhiều cố gắng để phát triển đàn bò địa phương, các dự án khoa học đã được triển khai, kỹ thuật chăn nuôi bò bán thâm canh được chuyển giao tới các hộ gia đình chăn nuôi bò ở huyện. Trong đó, bò đực giống Lai Sind được đưa vào để “Sind hóa” đàn bò địa phương, các giống cỏ năng suất cao được đưa vào trồng để cung cấp thức ăn xanh tại chỗ cho bò, kỹ thuật chăn nuôi bò được tập huấn cho nông dân. Để cung cấp thêm các thông tin tham khảo trong công tác nghiên cứu khoa học và tổng kết các mục tiêu của dự án, củng cố bài học thành công và có các căn cứ triển khai mở rộng dự án sang các huyện thị khác trong tỉnh, thực hiện thành công chủ trương của tỉnh trong việc chỉ đạo thực hiện đề án phát triển đàn bò. Chúng tôi tiến hành đề tài khoa học: "Đánh giá thực trạng đàn bò vàng, nghiên cứu ảnh hưởng của việc sử dụng bò đực giống 7/8 máu Sind và bổ sung thức ăn tinh tới tỷ lệ sống, sinh trưởng của đàn bê lai tại huyện Chợ Đồn tỉnh Bắc Kạn " Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 3 2. MỤC TIÊU CỦA ĐỀ TÀI: - Nắm bắt được thực trạng phát triển và tốc độ sinh trưởng của đàn bò vàng địa phương. - Đánh giá được ảnh hưởng của việc sử dụng bò đực giống 7/8 máu Sind đến tỷ lệ sống và sinh trưởng của đàn bê Lai Sind. - Đánh giá được ảnh hưởng của việc bổ sung thức ăn tinh tới tỷ lệ sống và sinh trưởng của đàn bê Lai Sind. - Rút ra bài học thực tế khuyến cáo phát triển chăn nuôi bò trong các địa phương khác của tỉnh. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 4 Chương I TỔNG QUAN TÀI LIỆU 1.1. CƠ SỞ LÝ LUẬN 1.1.1. Cơ sở khoa học của ƣu thế lai Ưu thế lai là hiện tượng tăng thêm sinh lực ở đời con do sự giao phối giữa cá thể đực, cái khác loài, giống, dòng cũng như khác nhau về mặt di truyền, điều kiện sống và nuôi dưỡng, kết quả là đời con cho sức sinh trưởng, sức sản xuất và sức đề kháng cao hơn bố mẹ. Danh từ ưu thế lai (Heterosis) được dùng trong khoa học từ năm 1914 theo đề nghị của nhà di truyền học người Mỹ I.Shull. Theo Falconer, 1990, ưu thế lai là sự khác biệt giữa giá trị tính trạng của con lai so với bố mẹ, thường vượt lên trung bình của cả bố và mẹ (Trần Đình Miên, 1975) [15] X mẹ + X bố X con lai > ------------------------ 2 Thế hệ bố, mẹ càng khác nhau thì ưu thế lai càng cao. Nếu gọi ưu thế lai là H, ta có công thức tính ưu thế lai: X F1 – X bố mẹ H (%) = ----------------------- x 100. X bố mẹ Trong đó: - X F1 Là bình quân giá trị đời con. - X bố mẹ là bình quân giá trị tính trạng đời bố mẹ. Người ta thường sử dụng ưu thế lai để thay đổi đặc điểm di truyền của các giống vật nuôi đã có hoặc tạo một giống khác, thường được lợi Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 5 nhuận cao hơn trong chăn nuôi. Vì vậy, khi lai giữa các giống khác nhau, thường xảy ra sự thay đổi về di truyền dẫn tới những thay đổi về thể hình, sinh lý con lai. Để nâng cao một bước về sức sản xuất của đàn bò địa phương, đồng thời xây dựng đàn bò nền phục vụ cho công tác lai tạo nâng cao sức sản xuất thịt, sữa; Các công trình nghiên cứu cho thấy phương hướng cải tạo đàn bò địa phương bằng con đường "Sind hóa" là hoàn toàn phù hợp và hiệu quả nhất. Ngoài sự kết hợp chung, các gen còn có khả năng kết hợp đặc biệt. Khả năng kết hợp chung thường là do hoạt động của gen trội, gen siêu trội, sự át gen có ảnh hưởng của sinh thái môi trường và có sự tương quan giữa môi trường và di truyền. Còn khả năng đặc biệt là do đặc tính của dòng, của cá thể được chọn lọc đã có từ trước. Bản chất của ưu thế lai trong di truyền học cho đến nay vẫn đang được tiếp tục nghiên cứu. Để giải thích hiện tượng ưu thế lai (Nguyễn Văn Thiện, Nguyễn Khánh Quắc, 1997) [21] các nhà nghiên cứu đã đưa ra 3 giả thuyết, trong đó có hai giả thuyết chính đó là: Thuyết gen trội và thuyết gen siêu trội. Thường gọi tắt là thuyết trội và siêu trội - Thuyết gen trội: Những tính trạng như sức sống, khả năng sinh sản, sinh trưởng… nói chung là các tính trạng số lượng được nhiều gen điều khiển, cho nên rất hiếm có tổ hợp gen đồng hợp tử. Thế hệ con được tạo ra do lai giữa hai cá thể sẽ biểu hiện tất cả các gen trội. Trong đó một nửa thuộc gen trội đồng hợp tử của bố và mẹ và một nửa thuộc gen trội dị hợp tử. Khi thế hệ bố, mẹ có nguồn gốc xa nhau về huyết thống, thì số gen trội khác nhau tăng lên, đó là cơ sở dẫn tới ưu thế lai. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 6 Ví dụ: Đời bố mẹ AAbbCCdd x aaBBccDD Số lô cút mang gen trội 2 2 Đời con AaBbCcDd Số lô cút mang gen trội 4 Trong trường hợp này tất cả các gen lặn đều bị lấn át. - Thuyết siêu trội: Hiệu quả của một cặp gen lặn ở trạng thái dị hợp tử thường khác với hiệu quả của từng alen biểu hiện trong trạng thái đồng hợp tử. Cho nên cá thể có tính trạng ở trạng thái dị hợp tử sẽ vượt bất kỳ cá thể có tính trạng ở dạng nào khác. Hiện tượng này có thể do ở cơ thể dị hợp tử, sự tương tác giữa các alen dẫn đến hiệu quả tác động lên kiểu hình. Trong phần lớn các trường hợp alen trội thắng thế, nhưng trong nhiều trường hợp không phải như vậy và tính trạng thắng thế lại thuộc về bên không trội. Nếu cả 2 lôcút Aa và Bb tương tác với nhau không trên cùng một locut sẽ có 4 cặp Ab. Do đó trạng thái hoạt động của dị hợp tử sẽ tăng lên. Kết hợp cả 2 giả thuyết trên là quan niệm cho rằng: Thay đổi về trạng thái của các hoạt động hoá sinh của hệ thống enzym trong cơ thể tạo nên ưu thế lai. Đó chính là dị hợp tử của cơ thể mới và cũng chính là nguyên nhân làm tăng khả năng sản xuất của con lai trong điều kiện được nuôi dưỡng thoả đáng. 1.1.2. Sự di truyền các tính trạng năng suất Trong di truyền học động vật có hai loại tính trạng, đó là: Tính trạng số lượng (Quantitative Character) và tính trạng chất lượng. Trong chăn nuôi các tính trạng số lượng quyết định năng suất của vật nuôi, nên người ta đặc biệt Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 7 quan tâm tới các tính trạng này (Nguyễn Văn Thiện, Nguyễn Khánh Quắc, 1998) [22]. Tính trạng số lượng (Quantitative Character) là những tính trạng do nhiều gen quy định. Giá trị kiểu hình (Phenotyp -P) của cá thể do giá trị kiểu gen (Genotype - G) và sai lệch môi trường (Environment - E) tạo nên. Nói cách khác: Cấu trúc di truyền quy định tiềm năng về năng suất của vật nuôi và ngoại cảnh là điều kiện thể hiện tiềm năng đó. Mối quan hệ này được biểu hiện như sau: Kiểu hình = Kiểu di truyền + Ngoại cảnh P = G + E Giá trị kiểu gen G = A + D + I Trong đó: + A : Là sự đóng góp của từng gen vào tính trạng (Giá trị cộng gộp - additive value ) cố định không thay đổi, có thể di truyền được và là cơ sở di truyền của việc chọn giống. + D: Tính trội (Dominance) là sự sai lệch tương tác giữa hai gen trên cùng một lôcut + I: Át gen là sự sai lệch tương tác giữa các gen ở các lôcut khác nhau. D và I còn được gọi là những sai lệch không cộng gộp, chúng không cố định. - Sai lệch môi trường : E = EG+ES Trong đó: + EG là môi trường chung (General Environment) ảnh hưởng tới tất cả các con vật trong quần thể như: Khí hậu, thời tiết, khả năng cung cấp thức ăn… + ES: Là môi trường riêng, môi trường đặc biệt (Special Environment) ảnh hưởng đến cá thể con vật. Do đó giá trị kiểu hình của con vật sẽ là: Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 8 P = A + D + I + EG + ES Từ công thức trên cho thấy: Muốn cải tiến nâng cao giá trị kiểu hình P (Phenotype) thì phải cải tiến các yếu tố cấu thành. Có thể tác động về mặt di truyền theo các phương thức tác động vào A bằng cách chọn lọc, vào hiệu ứng (D) và Át gen (I) bằng cách giao phối tạp giao. Khi các giá trị A + D + I được nâng lên thì tiến bộ di truyền được cải thiện, thông qua công tác lai tạo và chọn lọc. Môi trường E cũng là yếu tố tác động mạnh mẽ đến năng suất vật nuôi. Các giá trị EG +ES được cải thiện thông qua việc cải thiện các điều kiện chăm sóc, nuôi dưỡng và quản lý. Tính trạng số lượng thường thay đổi liên tục dưới tác động của môi trường. Để đánh giá tính trạng số lượng, người ta sử dụng các tham số thống kê. Mỗi tính trạng số lượng đều có một mức độ tập trung nhất định được biểu thị bằng số trung bình )(X và mức độ biến dị nào đó được biểu thị bằng độ lệch chuẩn Sx hoặc hệ số biến dị (CV%) 1.1.3. Cơ sở khoa học của sự sinh trƣởng. 1.1.3.1. Khái niệm về quá trình sinh trưởng và phát dục Sinh trưởng là một trong những tính trạng di truyền số lượng của vật nuôi và chịu tác động của ngoại cảnh. Trong công tác nhân giống vật nuôi, tính trạng này luôn được nghiên cứu. Sinh trưởng là quá trình tích luỹ các chất hữu cơ thông qua đồng hoá và dị hoá. Sự sinh trưởng làm tăng kích thước các chiều, tăng khối lượng của các bộ phận và toàn bộ cơ thể của con vật. Nói cách khác đó là sự tích luỹ dần dần các chất mà chủ yếu là protein trong cơ thể. Tốc độ sinh trưởng và cách thức tổng hợp protein là do các gen trong cơ thể điều khiển. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 9 Như vậy sự tăng về khối lượng là một trong những chỉ tiêu tăng trưởng của cơ thể. Tuy nhiên một số trường hợp sự tăng khối lượng không phải là tăng trưởng đó là sự tích luỹ mỡ hoặc nước mà không có sự phát triển của mô cơ. Theo Gartner, 1922, quá trình sinh trưởng được xem là kết quả của sự phân chia tế bào, làm tăng thể tích của tế bào để tạo nên sự sống (Lê Quang Nghiệp, 1984) [16]. Sự sinh trưởng được bắt đầu từ khi trứng được thụ tinh để hình thành hợp tử cho đến khi cơ thể trưởng thành. Nghiên cứu sự sinh trưởng không thể không nói đến sự phát dục. Đó là một quá trình thay đổi về chất, tức là tăng thêm và hoàn chỉnh dần về chức năng các bộ phận của cơ thể vật nuôi. Theo Somangaozen, 1935, giữa sinh trưởng và phát dục của cơ quan này hay cơ quan khác, có sự tương quan và phụ thuộc lẫn nhau. Hiện tượng này không phải bao giờ cũng chỉ ở phạm vi bộ phận mà còn đối với toàn bộ cơ thể. Nó được thực hiện qua trao đổi chất và luôn thay đổi. Quá trình này mang tính giai đoạn, được biểu hiện dưới nhiều hình thức khác nhau, do nhiều yếu tố tác động như phân hoá, trao đổi chất, dinh dưỡng … (Lê Quang Nghiệp, 1984) [16]. Sinh trưởng và phát dục của gia súc là hai mặt của một quá trình phát triển cơ thể vật nuôi. Nói cách khác, phát triển là kết quả của các quá trình sinh trưởng, phát dục dưới dạng động thái mà cơ sở vật chất của nó là sự tăng khối lượng, thể tích cùng với sự thay đổi sâu sắc về chức năng các bộ phận trong cơ thể. Như vậy quá trình sinh trưởng và phát dục là quá trình thay đổi về số lượng và chất lượng liên tục của cơ thể vật nuôi. Tuy nhiên xét trong phạm vi toàn cơ thể không phải lúc nào hai mặt sinh trưởng và phát dục cũng song song với nhau mà có thời kỳ sinh trưởng mạnh hay phát dục mạnh hơn. Sinh Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 10 trưởng có thể phát sinh từ phát dục và ngược lại sinh trưởng tạo điều kiện cho phát dục tiếp tục hoàn chỉnh (Trần Đình Miên, 1975) [15] 1.1.3.2. Những quy luật chung về sinh trưởng và phát dục Quá trình phát triển của gia súc thường tuân theo những quy luật nhất định. Trong chăn nuôi, muốn đánh giá đúng đắn sự phát triển của vật nuôi, cần nắm được những quy luật chung về sinh trưởng và phát dục cũng như nhu cầu của cơ thể đang phát triển và những ảnh hưởng của ngoại cảnh đối với quá trình này. Sinh trưởng và phát dục của vật nuôi thường tuân theo các quy luật chung, đó là: Sinh trưởng phát dục theo giai đoạn, sinh trưởng phát dục không đồng đều và sinh trưởng phát dục theo nhịp điệu (Nguyễn Văn Bình và Trần Văn Tường, 2004) [2]. + Quy luật sinh trưởng phát dục theo giai đoạn: Quá trình phát triển của vật nuôi được phân chia thành 2 giai đoạn. Đó là giai đoạn phát triển trong bào thai và giai đoạn phát triển ngoài bào thai. Giai đoạn phát triển ngoài bào thai được chia làm 2 thời kỳ, là thời kỳ bú sữa và thời kỳ sau cai sữa. Sự tăng trưởng của cơ thể non trong giai đoạn bào thai chịu ảnh hưởng rất lớn của môi trường dinh dưỡng trong cơ thể mẹ. Khi cơ thể gia súc non được sinh ra đó là thời kỳ tiếp theo của giai đoạn bào thai, thì sự sinh trưởng phụ thuộc vào tính di truyền của đời trước nhiều hơn. + Quy luật phát triển không đồng đều của vật nuôi cho thấy nhịp độ phát triển của cơ thể và từng bộ phận qua các thời kỳ có những đặc điểm khác nhau. + Qui luật phát triển theo nhịp điệu: Sự sinh trưởng phát dục của sinh vật nói chung và gia súc nói riêng không phải là tuyến tính. Fedolop đã theo dõi sự tăng trưởng của bò trong điều kiện nuôi dưỡng ổn định cho thấy sự tăng trọng thường theo chu kỳ và mỗi chu kỳ khoảng 12 ngày. Các hiện tượng Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 11 khác trong cơ thể cũng diễn ra theo nhịp điệu như: Chu kỳ động dục, sự đồng hoá, dị hoá của cơ thể….. Khi nắm được các quy luật sinh trưởng và phát dục của vật nuôi sẽ giúp chúng ta điều khiển 2 yếu tố di truyền và ngoại cảnh. Hai yếu tố này có mối liên hệ chặt chẽ và biểu hiện rõ rệt trong suốt quá trình sinh trưởng phát dục của vật nuôi. Trên cơ sở đó chúng ta chủ động điều chỉnh các điều kiện cho phù hợp với sự sinh trưởng của từng loại vật nuôi nhằm đạt được mục đích, đem lại hiệu quả kinh tế cao trong chăn nuôi. 1.1.3.3. Phương pháp xác định khả năng sinh trưởng của bò Trong thực tế chăn nuôi, để biết được khả năng sinh trưởng của vật nuôi người ta thường dùng phương pháp cân và đo các chiều đo trên cơ thể vật nuôi. Thông qua các số liệu cân, đo người ta xác định được tốc độ sinh trưởng của vật nuôi. Để đánh giá khả năng sinh trưởng của vật nuôi người ta căn cứ vào các chỉ tiêu sau: - Sinh trưởng tích luỹ (sự thay đổi về khối lượng kích thước các bộ phận và toàn bộ cơ thể vật nuôi theo thời gian) - Sinh trưởng tuyệt đối (tăng khối lượng trong 1 đơn vị thời gian, thường được tính bằng gam/ngày) - Sinh trưởng tương đối (mức tăng, giảm khối lượng tính bằng %). Để dễ nhận biết và so sánh khả năng sinh trưởng của vật nuôi người ta thường biểu diễn bằng đồ thị và biểu đồ tăng trưởng. Việc đánh giá sự phát triển của vật nuôi qua xác định kích thước các chiều đo cũng là một nội dung quan trọng, đặc biệt trong việc đánh giá con giống theo hướng sản xuất của chúng. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 12 1.1.4. Các yếu tố ảnh hƣởng tới khả năng sinh trƣởng Khi nghiên cứu về quá trình sinh trưởng của vật nuôi, người ta thấy quá trình này chịu sự tác động của hai yếu tố chính đó là: - Đặc điểm di truyền của giống - Môi trường nuôi dưỡng và chọn lọc giống. Theo nhận xét của Ewald Sasimonski (1987) [36] khối lượng của động vật phụ thuộc vào bản chất di truyền của loài, giống, tuổi, phụ thuộc vào tính biệt, yêu cầu thức ăn và thời tiết khí hậu. Yếu tố ảnh hưởng đầu tiên, chủ yếu trực tiếp tới khả năng sinh trưởng của con vật là yếu tố di truyền. Thực tế cho thấy rằng: Các giống bò khác nhau có khả năng sinh trưởng khác nhau. Những giống bò thịt như: Hereford, Santagertrudis có tốc độ sinh trưởng nhanh, đạt 1.000 - 1.200 g/ngày. Trong khi đó các giống kiêm dụng thịt, sữa như Zebu, Red Sindhi, Browrn Swiss chỉ đạt tăng trọng 600 - 800 gam/ngày. Khi so sánh giữa bò Russian Black Pied (RBP) với bò lai Holstein Friesian (HF + RBP), các tác giả Ertuer. N.M; Koltosova I.Yu (1984) [37] đã đánh giá : Bò lai (HF + RBP) đã nặng hơn rõ rệt so với bò RBP ở 3,6,12 và 18 tháng tuổi. Sự khác nhau trung bình là 11,2; 14,3; 17,5 và 21,6 kg. So sánh năng suất sinh trưởng của các giống thuần Charolais, Holstein Friesian, Mentbeliard; Aberdeen - Angus với con lai giữa bò cái Adma với chúng, Saint Martin. G, Mesine. O và cộng sự (1991) [51] đã thấy có sự khác nhau giữa giống thuần và giống lai, giữa con đực và con cái. Khối lượng sơ sinh là 24,8 0,6 và 30,4  1,1kg đối với con đực 23,20,6 và 30,90,09 kg ở con cái. Tăng khối lượng gam/ngày là 47022 và 663176 gam ở con đực; 45318 và 66944 gam ở con cái. So sánh khả năng sinh trưởng của bò F1 khi cho bò lai Zebu với bò Brown Swiss, Charolais, Chianina, Indobrazinlian, Limousine, Simmental dưới các điều kiện, quản lý thay đổi, các tác giả Montano. M, Martiner. G, Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 13 Reynoso (1990) [44] đã cho biết: Sinh trưởng của bò chịu sự ảnh hưởng của nhiều yếu tố. Bò lai giữa Charolais và Chianina có khối lượng sơ sinh cao hơn 4% so với những con lai khác. Dashdamirov. K.SH (1991) [34] khi nghiên cứu bò đực Aberdeen Angus (AA), F1 Cuban Zebu (CZ) x (AA)và F2 CZ x AA đã thu được kết quả tương ứng là: Khối lượng sơ sinh trung bình là 29,9; 31,3 và 30,0 kg. Khối lượng 6 tháng tuổi là 207,9; 281,6 và 293,8 kg. Khối lượng 18 tháng tuổi là 405; 446,2 và 451,2kg. Như vậy giữa các nhóm có sự sai khác rõ rệt. Sung. Y.Y, Wang. K.C và cộng sự (1988) [53] nghiên cứu về năng suất của các giống bò Red Sindhi (RS) Santa Gertrudis (SG) và con lai của chúng với bò Taiwan Yellow cho thấy: Khối lượng sơ sinh, khối lượng cai sữa và khối lượng lúc 1 tuổi ở bò SG (27,6; 130,7 và 177,7kg) cao hơn rõ rệt so với những con bò khác. Tốc độ sinh trưởng của bò Red Sindhi nói chung là thấp. Planas. T (1983) [49] khi nghiên cứu về năng suất sinh trưởng của 1.300 bê Zebu sinh ở Cu Ba vào những năm 1978-1980 đã cho biết: Hệ số di truyền về khối lượng sơ sinh 3, 6, 9 và 12 tháng tuổi tương ứng là: 0,440,14; 0,160,07; 0,160,06; 0,110,25 và 0,160,06. Kentamies. H (1983) [40] đã tính được hệ số di truyền về tốc độ tăng trọng/ngày của bò Finnish Ayrsline và bò Finnish Friesian tương ứng là: 0,390,1 và 0,770,25. Theo Abasa. K.P, Wilcox C.J và Oson. T.A (1989) [31] khi nghiên cứu trên 1.401 bò Gobra thì hệ số di truyền về khối lượng sơ sinh, khối lượng cai sữa, 12 và 18 tháng tuổi tương ứng là 0,14; 0,34; 0,33 và 0,15. Burrow. H.M, Serfert. G.W và Hetzel. O.J.S (1991) [42] nghiên cứu trên bò Zebu, Bos Taurus và bò Zebu x Bos Taurus ở vùng nhiệt đới đã tính được hệ số di truyền về khối lượng sơ sinh, khối lượng cai sữa và lúc 18 tháng tuổi của các giống tương ứng là 0,46 ; 0.21 và 0,22. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 14 Sinh trưởng và phát triển của bò ngoài yếu tố di truyền còn phụ thuộc vào những yếu tố khác như: Thức ăn và mức độ dinh dưỡng, các điều kiện tự nhiên như khí hậu, thời tiết, nhiệt độ, ẩm độ, ánh sáng… Trong đó thức ăn, mức độ dinh dưỡng là yếu tố ảnh hưởng trực tiếp đến năng suất sinh trưởng. Những thiếu thốn về dinh dưỡng, đặc biệt trong giai đoạn bào thai đã ảnh hưởng lớn đến sự hình thành cơ thể con vật, làm._. cho chơ thể phát triển không hoàn chỉnh. Tình trạng này kéo dài cho đến khi con vật trưởng thành và thường được gọi là tình trạng phát triển suy yếu trong bào thai (Embryonalisme) và suy yếu ngoài bào thai (Ifantilisme). Có thể nói thức ăn và dinh dưỡng đã ảnh hưởng trực tiếp đến năng suất sinh trưởng của con vật. Khi thức ăn được cung cấp đầy đủ, cân đối về thành phần dinh dưỡng thì con vật tăng trọng nhanh, giảm tiêu tốn thức ăn / 1 kg tăng trọng. Qua nghiên cứu thực tế cho thấy bò ở vùng ôn đới sinh trưởng, phát triển tốt hơn ở vùng nhiệt đới. Theo kết quả nghiên cứu của Johnson (1958-1961) [38] về khả năng tăng trọng của bò cho thấy: ở vùng khí hậu nóng bò sinh trưởng chậm hơn so với bò ở vùng ôn đới có nhiệt độ trung bình 100C Kết quả nghiên cứu tương tự, khi nuôi bò đực Hereford Angus trong điều kiện nóng ở Imperian valley (Mendel 1971, Johnson. H.D, Roman Ponce. H, trích dẫn, 1994 [43] Strees nóng làm giảm sinh nhiệt nội sinh, giảm thu nhận thức ăn cũng như đòi hỏi tăng sinh nhiệt và thay đổi tình trạng Hormore, giảm năng lực đạt được của bò đối với khả năng di truyền của chúng về mặt sinh trưởng. Nhiệt độ môi trường cao luôn ảnh hưởng đến sinh trưởng và phát triển của bào thai. Những bò cái chửa trong điều kiện đó đã đẻ bê có khối lượng sơ sinh nhỏ hơn rõ rệt (Johnson H.D trích dẫn 1994) [39] Chu kỳ chiếu sáng cũng có ảnh hưởng rõ rệt tới tốc độ sinh trưởng của bò. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 15 Ở Michigal. U.S.A, Peters và CS (1978) đã làm thí nghiệm trên bê Holstein với phương pháp thay đổi độ chiếu sáng trong mùa đông. Cùng với thí nghiệm ở Michigal. U.S.A, Sorensen. T.M (1984) [42] đã thử nghiệm trên bê có khối lượng sống dưới 360 kg, cho thấy ánh sáng ảnh hưởng đển tăng trưởng của bê, còn đối với bò đã trưởng thành sự thay đổi về cường độ chiếu sáng và thời gian chiếu sáng ít ảnh hưởng đến khả năng sinh trưởng. Nghiên cứu khả năng sinh trưởng của bò tơ Boule, Zebu, Adama và Boule x Adama, các tác giả Poivery. F.P Menissien F và cộng sự (1988) [47] đã đánh giá sinh trưởng của bò trên 3 - 4 tháng tuổi phụ thuộc vào tính chất mùa vụ. Khi nghiên cứu về mùa vụ trên bò cái Gobra Zebu, tác giả Abassa. K.P (1987) [30] đã nhận xét : Mùa vụ có ảnh hưởng đến tỷ lệ sinh sản của bò và khối lượng sơ sinh cũng như mức độ tăng trưởng của bê. Những bò cái sinh ra từ tháng 10 đến tháng 3 có khối lượng trưởng thành nhỏ hơn so với những bê sinh ra từ tháng 4 đến tháng 9. Ảnh hưởng của tính biệt và thiến tới tốc độ sinh trưởng của bò cũng khá rõ rệt. Nhiều nghiên cứu của Newmans, Deland. M và cộng sự (1988) [46] về hiệu quả phối giống của bò Hereford với đực Sahiwal, Charolais, Simmental, Jersey đã cho thấy: So với những con cái, con đực có khối lượng sơ sinh cao hơn 2kg, nặng hơn 15kg khi cai sữa và tăng trọng cao hơn 66 gam/ngày. Bê lai với các giống Châu Âu có khả năng sản xuất cao hơn khi cho lai với giống Zebu. Khi nghiên cứu về năng suất sinh trưởng và khả năng sản xuất thịt của các giống bò Finnish Ayrsline (FA), Finish Friesian (FF) , Finish (F) Charolais và Hereford, tác giả Kentamies. H (1983) [40] đã nhận xét: Bò Charolais có khả năng tăng trọng cao nhất và tỷ lệ thịt xẻ cao hơn bò F1, Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 16 FF và FA. Tính biệt cũng ảnh hưởng rõ rệt đến tốc độ sinh trưởng và chất lượng thịt. Dalatte. J.T, Ougan. H và cộng sự (1986) [35] nghiên cứu cho thấy tính biệt cũng có ảnh hưởng đến tốc độ sinh trưởng của bò. Thí nghiệm ảnh hưởng của tính biệt đến năng suất sinh trưởng của bò Zebu trên các giống Arah, Fuleni đã nhận xét: Sự khác biệt giữa các giống là rõ rệt, tăng trọng/ngày bị ảnh hưởng bởi tuổi và tính biệt. Sử dụng các loại kích tố sinh trưởng cũng là một yếu tố ảnh hưởng tới tốc độ tăng trưởng của con vật. Ngoài ra các yếu tố như bệnh tật, loại hình thần kinh, chăm sóc, quản lý đều có những ảnh hưởng nhất định tới khả năng sinh trưởng của vật nuôi. Johnson. H.D và Roman. Ponce. H (1994) [39] đã kết luận: Sinh trưởng của vật nuôi phụ thuộc vào dinh dưỡng, khí hậu, tình hình dịch bệnh…. Các tác giả Mwandotto. B.A.J Carles. HB, Cartwraight. T.C (1998) [45] đã nhận thấy: Giống, mùa vụ, tháng đẻ, tính biệt, tuổi cai sữa, thời tiết, khí hậu, lượng mưa tổng số và tuổi đẻ của đàn bò mẹ đã ảnh hưởng tới khối lượng cai sữa. Những bê sinh trong các tháng từ tháng 7 đến tháng 12 nặng hơn 12kg so với những bê sinh trong các tháng từ tháng 1 đến tháng 6, do ảnh hưởng của các yếu tố môi trường sống, nhiệt độ, ẩm độ và thức ăn. 1.1.5. Nguồn thức ăn nuôi bò Nước ta không có nhiều đồng cỏ mênh mông để chăn thả những đàn bò lớn, nhưng chúng ta có các loại cỏ tự nhiên mọc nhiều ở vùng trung du, miền núi. Ở đồng bằng, cỏ mọc nhiều trên các bãi ven sông, dọc bờ đê, đường đi và xen trong những ruộng hoa màu. Đó là nguồn thức ăn đầy tiềm năng cho bò. Hơn nữa nước ta thuộc vùng nhiệt đới có tiềm năng vô tận về năng lượng mặt trời và đây là nền tảng cho sự phát triển cây thức ăn cho trâu bò trong tương lai. Biến đổi tiềm năng năng lượng đó trên các hệ thống canh tác có năng suất Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 17 sinh khối cao sẽ tạo ra bước nhảy vọt trong sản xuất lương thực và thức ăn chăn nuôi. Trong những năm gần đây để phát triển chăn nuôi, thức ăn công nghiệp đã phát triển mạnh mẽ, trong tổng số thức ăn công nghiệp có khoảng 60% là giành cho lợn, 35% là cho gia cầm, 2% thức ăn cho bò và 3% cho các loại khác. Thức ăn động vật nhai lại hầu hết vẫn là thức ăn tự nhiên hoặc lấy từ các sản phẩm phụ nông nghiệp. 1.1.5.1. Thức ăn xanh Nước ta thuộc vùng nhiệt đới có tập đoàn cây cỏ đa dạng, một khối lượng khổng lồ về sản phẩm phụ cây trồng, đây là những lợi thế cho việc phát triển chăn nuôi gia súc nhai lại. Song điều đáng lo ngại hiện nay là diện tích cỏ tự nhiên đang bị thu hẹp dần, thay thế vào đó là diện tích canh tác nông nghiệp. Thức ăn xanh ở nước ta mặc dù phong phú, song lại tập trung chủ yếu vào mùa mưa, mùa khô thiếu nghiêm trọng. Vấn đề này khiến chúng ta nghĩ đến việc nghiên cứu các loại cỏ cao sản có thể phát triển ở vụ đông và dự trữ, bổ sung thức ăn cho bò. Thức ăn xanh cho bò bao gồm: Cỏ tự nhiên, cỏ trồng, thân cây ngô, lá mía, dây lang, ngọn lá một số cây bụi và cây lấy gỗ. Bò có thể tiêu hoá 70% chất hữu cơ trong thức ăn xanh. Thức ăn xanh chứa hầu hết các chất dinh dưỡng cần thiết cho bò. Nó cung cấp một lượng chất thô đáng kể, trong đó chứa nhiều protein dễ tiêu, giàu vitamin và các khoáng đa lượng, vi lượng. Thành phần dinh dưỡng của thức ăn xanh phụ thuộc vào giống cây trồng, điều kiện khí hậu, đất đai trình độ canh tác và giai đoạn sinh trưởng của chúng. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 18 Bảng 1.1. Thành phần hoá học một số cỏ tự nhiên và cỏ trồng (%) Giống cỏ Vật chất khô Protein thô Mỡ thô Xơ thô Dẫn suất k. đạm Khoáng tổng số Cỏ tự nhiên đồng bằng Nam bộ 19,02 2,35 0,44 5,48 8,87 1,87 Cỏ tự nhiên đồng bằng Bắc bộ 24,30 2,80 0,60 6,80 11,10 3,00 Cỏ tự nhiên trung du Bắc bộ 21,52 1,86 0,38 5,25 12,54 1,49 Cỏ tự nhiên miền núi Bắc bộ 25,26 2,50 0,60 8,00 12,30 2,20 Cỏ Voi 60 ngày 20,84 1,93 0,67 7,86 9,04 1,30 Cỏ Ghinê 23,30 2,47 0,51 7,30 10,62 2,40 Cỏ Pangola 25,34 1,79 0,50 8,59 12,84 1,52 Viện Chăn nuôi, 2001[29] Cỏ hoà thảo nước ta có hàm lượng dinh dưỡng khá cao. Trong 1kg chất khô của nó chứa hàm lượng protein thô trung bình là 75-145g, hàm lượng xơ 269-373g, không thua kém giá trị trung bình của các loại cỏ nhiệt đới. Tuy nhiên, khoáng đa lượng và vi lượng trong cỏ hòa thảo của ta thấp, đặc biệt nghèo can xi (4,7g/kg chất khô) và phốt pho (2,6g/kg chất khô). Nhận thấy vấn đề khó khăn trong chăn nuôi gia súc nhai lại (bò sữa, bò thịt, trâu...) chính là vấn đề thức ăn, đặc biệt là vụ đông, nhiều tỉnh đã có những dự án nhằm đưa giống cỏ cao sản, thích nghi được trong vụ đông cho các hộ chăn nuôi như : Bắc Kạn, Tuyên Quang, Thái Nguyên, Cao Bằng, Lạng Sơn, Lâm Đồng, TP Hồ Chí Minh... Các giống chủ yếu là: - Cỏ Voi (Pennisetum purpureum). - Cỏ Ghine (Panicum maximum). - Cỏ Pangola (Digitaria decumbens). - Goatemala (Tripsacumlaxum)… Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 19 Với sự phát triển mạnh mẽ của bò thịt, bò sữa, trâu nên đã đến lúc chúng ta phải đưa việc phát triển trồng cây thức ăn cho gia súc vào chiến lược canh tác các cây trồng ở nước ta. Hiện nay, nước ta chưa có nhiều giống cây họ đậu làm thức ăn xanh cho bò, đáng chú ý hơn là cỏ Stylo và cây Keo dậu. Cành non, lá và hạt Keo dậu chứa glucozide mimosine có thể gây rụng lông trâu bò, làm giảm thể trọng. Trong dạ cỏ gia súc nhai lại, mimosine bị thuỷ phân thành 3-4 dihydroxy - piridine không gây độc cho gia súc (Nguyễn Thiện, Lê Hoà Bình, 1994) [20]. Tuy vậy trâu, bò, chỉ nên sử dụng dưới 30% lá Keo dậu trong khẩu phần. Ngoài ra, nhiều loại lá cây bụi, lá một số cây lấy gỗ cũng là nguồn thức ăn xanh đáng kể cho bò, nhất là ở các vùng trung du, miền núi. 1.1.5.2. Thức ăn từ sản phẩm phụ cây trồng. Nước ta có một lượng sản phẩm phụ cây trồng rất phong phú, đây là những thức ăn thuộc loại nghèo dinh dưỡng. Trước hết là rơm, nếu tính tỷ lệ rơm/hạt lúa là 0,8/1 thì nước ta hàng năm có 25 triệu tấn rơm, có thể được dùng để chăn nuôi trâu bò (Orskov, 2001) [18]. Rơm có hàm lượng protein thô thấp (20-30g) và hàm lượng xơ cao (320-350g)/1kg chất khô, xơ trong rơm bị Lignin hoá khó tiêu. Như vậy cần phải nghiên cứu áp dụng những phương pháp chế biến khác nhau, nhằm nâng cao chất lượng rơm làm cho gia súc ăn và tiêu hoá tốt hơn, tránh lãng phí nguồn rơm khổng lồ mà ngành trồng trọt đã cung ứng cho ngành chăn nuôi chúng ta. Cây ngô già hiện nay cũng là nguồn thức ăn thô quan trọng, đặc biệt là vụ thu đông. Cứ 1kg thân cây ngô đã thu bắp trung bình có 600-700 g chất khô, 60-70 g protein thô, 280-300 g xơ thô, ước tính hàng năm cây ngô già sau thu bắp có khoảng 3 triệu tấn (Lê Viết Ly, 2001) [14]. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 20 Ngọn sắn tươi với năng suất 2.500 - 3.000 kg/ha còn lại sau khi thu hoạch củ (Dương Thanh Liêm và cs, 1997) [41] là nguồn bổ sung protein thực vật đáng kể cho gia súc. Tuy nhiên nguồn thức ăn này ít được sử dụng trong thực tế. Ngoài ra, thân lá lạc, dây khoai lang, cây đỗ tương, ngọn và lá mía cũng là nguồn thức ăn tốt cho gia súc nhai lại. Tóm lại, vấn đề sử dụng các sản phẩm phụ trên còn ít trong thực tế, cốt lõi vấn là phương pháp bảo quản, chế biến và khuyến cáo cho người chăn nuôi sử dụng. 1.1.5.3. Thức ăn củ quả Thức ăn củ quả thường có ở nước ta là củ khoai lang, củ sắn, quả bí đỏ..., trâu, bò ăn loại thức ăn này có hiệu quả tốt trong thời kỳ nuôi vỗ béo và cho sữa. Sắn củ là nguồn hydratcabon rẻ tiền dùng làm thức ăn cho gia súc, nó cung cấp năng lượng cho VSV tiêu hoá xơ trong dạ cỏ (Poungchompa và CS, 2000) [48]. Trung bình 1 kg chất khô của sắn củ có 22-28 g protein; 3-4 g chất béo và 650g tinh bột. Trong sắn có độc tố HCN do men Linamarinaza hoạt hoá chất xyanoglucozit trong tế bào sinh ra và có thể gây ngộ độc cho gia súc. Sắn lát phơi khô dưới ánh nắng tự nhiên, làm hàm lượng độc tố giảm chỉ còn lại không đáng kể, là thức ăn an toàn cho gia súc nhai lại (Phạm Sỹ Tiệp, 1999) [26]. Nếu lá sắn thu hoạch như một sản phẩm phụ khi thu hoạch củ, khối lượng chất thô xanh tương đương 30% năng suất củ (Ravindran, 1992) [50]. Do vậy, lá sắn là nguồn bổ sung protein có nhiều tiềm năng cho gia súc nhai lại ở những vùng nhiệt đới. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 21 1.1.5.4. Thức ăn là phụ phẩm công nghiệp Đây là nguồn thức ăn quan trọng ảnh hưởng lớn tới hiệu quả chăn nuôi. Các sản phẩm phụ công nghiệp chế biến bao gồm: Cám gạo, cám ngô, bã mía, bã bia, khô dầu, rỉ mật... đóng góp một khối lượng lớn thức ăn cho chăn nuôi noíư chung và chăn nuôi trâu bò nói riêng. Các tác giả Preston and Leng, 1991 [19] đã kết luận: Ngọn lá, bã mía và rỉ mật có được sau thu hoạch và sản xuất đường là nguồn thức ăn quan trọng cho gia súc nhai lại. Theo Bùi Văn Chính và CS, 2000 [33] mỗi năm nước ta có khoảng 1,5 triệu tấn phụ phẩm từ cây mía, một nguồn thức ăn thô nhiều đường nên được khai thác để nuôi trâu bò. Tóm lại, hàng ngày bò ăn nhiều thức ăn, tương ứng với khối lượng cơ thể to lớn của nó. Thức ăn của bò, rất phong phú và ít bị áp lực cạnh tranh với thức ăn của người và gia súc khác. 1.1.6. Cơ sở khoa học để bổ sung thức ăn tinh cho bê từ 6 đến 10 tháng tuổi Bò có ưu điểm là trong hệ thống tiêu hoá có hệ vi sinh vật dạ cỏ phong phú, nên có thể tiêu hoá chất khô, đặc biệt là xơ cao hơn các loại gia súc khác. Bò có thể tận dụng được nhiều loại cỏ, lá cây và phế phụ phẩm nông nghiệp của trồng trọt mà các gia súc khác không sử dụng được. Nguồn thức ăn chính của bò nước ta là cỏ và nguồn phụ phẩm nông nghiệp. Chúng có hàm lượng xơ cao, protein thấp, lượng ăn vào nhiều nhưng tỷ lệ tiêu hoá thấp do đó năng suất thịt của bò thấp thường dưới mức tiềm năng. Vì thế cần phải bổ sung thêm protein và năng lượng cho chúng thông qua thức ăn tinh hỗn hợp, việc bổ sung này lại càng quan trọng đối với bê sau cai sữa từ 6 đến 10 tháng tuổi bởi vì lúc này bê bị cắt đứt nguồn thức ăn giàu dinh dưỡng từ sữa mẹ, trong khi yêu cầu về sinh trưởng của bê ở giai đoạn này lại rất cao. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 22 Thức ăn tinh được bổ sung sẽ giải quyết 2 vấn đề: Thứ nhất là cung cấp năng lượng cho các vi sinh vật trong dạ cỏ phát triển mạnh nhằm tăng tỷ lệ tiêu hoá thức ăn, đặc biệt là chất xơ và thứ 2 là cung cấp dinh dưỡng trực tiếp cho bê. Khi bổ sung các loại thức ăn như cám, tấm, ngô…. sẽ cung cấp năng lượng cho hệ vi sinh vật hoạt động, do đó hệ vi sinh vật dạ cỏ sẽ phát triển tăng lên, trong đó có nhiều vi khuẩn có khả năng tiêu hoá xơ nên sẽ tăng tiêu hoá chất xơ hơn. Vi khuẩn và thảo phúc trùng cũng sẽ phân giải tinh bột thành polysaccarit, glycozen và amilopectin. Những đường đa này sẽ được lên men tạo thành các a xít béo bay hơi trong dạ cỏ - nguồn cung cấp năng lượng và các thành phần cấu tạo nên cơ thể bò. Ngoài ra khi vi sinh vật phát triển mạnh sau đó khi chết đi, nó cũng là nguồn protein đáng kể cung cấp cho cơ thể bê. Hệ vi sinh vật trong dạ cỏ của bò rất phong phú, số lượng và thành phần vi khuẩn trong dạ cỏ có ý nghĩa quan trọng trong quá trình tiêu hoá của bò. Có nhiều yếu tố ảnh hưởng đến tỷ lệ và thành phần vi khuẩn, trong đó khẩu phần ăn là yếu tố quan trọng nhất. Khi ta cho bò ăn một khẩu phần ăn nào đó thì có một số loại vi khuẩn phát triển nhanh ngược lại sự phát triển của một nhóm vi khuẩn khác lại bị hạn chế và ảnh hưởng không tốt đến các nhóm khác nữa. Như vậy muốn bổ sung thức ăn tinh cho bò cần phải dựa vào nhu cầu ăn của bò giai đoạn này, tránh làm mất cân đối hệ vi sinh vật trong dạ cỏ ảnh hưởng không tốt cho tiêu hoá thức ăn thô của bò. Căn cứ các cơ sở khoa học trên cho nên để giải quyết vấn đề năng lượng và protein thiếu hụt đáp ứng yêu cầu sinh trưởng của bê trong giai đoạn 6-10 TT, chúng tôi sử dụng biện pháp bổ sung thức ăn tinh hỗn hợp cho bê, công thức phối trộn được tính toán từ việc khảo sát lượng thức ăn Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 23 mà bê được cung cấp hàng ngày, với nguyên tắc là tận dụng các vật liệu rẻ tiền và sẵn có tại địa phương như: Cám gạo, bột ngô, đậu tương… 1.2. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU TRONG VÀ NGOÀI NƢỚC 1.2.1. Tình hình nghiên cứu ở nƣớc ngoài 1.2.1.1. Những nghiên cứu về việc lai giống bò để tăng năng suất thịt Theo Lê Viết Ly, 1995 [13] nước Anh là nước đi đầu về cải tiến và lai tạo giống bò thịt. Từ thế kỷ XVIII việc lai tạo giống bò để đạt ưu thế lai đã được chú ý. Đầu thế kỷ XVIII các giống bò đen như Aberdeen Angus và Welkblack xuất hiện cùng với giống bò đỏ Hereford và đến cuối thế kỷ XIX thì bò Shorthorn đã chiếm ưu thế. Đây là giống bò thịt cao sản nổi tiếng của nước Anh, có khả năng tăng trọng từ 750 - 1.000 g/ con/ ngày. Tỷ lệ thịt xẻ đạt 65-68 %. Bằng cách lai ba giống bò thịt Shorthorn, Zebu, Hereford, trong đó máu bò Zebu chiếm 3/8 đã tạo ra giống bò thịt Santa Gertrudis ở miền Nam nước Mỹ. Bò có khả năng chịu đựng với khí hậu nóng và kham khổ, tỷ lệ thịt xẻ đạt 63 65 %. Bò đực thiến vỗ béo đạt khối lượng khoảng 1.000kg, tỷ lệ thịt xẻ đạt 71,9 %. Ở Pháp người ta đã tạo ra giống bò Chairolais có tầm vóc lớn, sức sản xuất thịt cao, tỷ lệ thịt xẻ đạt 60 - 65%, thịt mềm, thơm ngon. Shimada. K; Izarike. Y, Suduki. O và Kosugigama. M (1989) [52] đã xác định được hệ số di truyền ở bò lai hướng thịt là 0,82 về khối lượng trưởng thành. 1.2.1.2 Kết quả nghiên cứu về thức ăn, nuôi dưỡng để tăng sinh trưởng và năng suất bò thịt Bên cạnh vấn đề lai tạo giống các nhà khoa học chăn nuôi cũng quan tâm đến nguồn thức ăn và chế độ nuôi dưỡng đối với bò thịt. Neumauh, Weiher, Nicola, Robekamp, 1990 (Vũ Văn Nội, 1994) [17] đã dùng 11 con bò đực Charolais, 14 con bò Chianina, 13 con bò Simmental, Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 24 11 con bò Piedmont và 14 con bò Limousin nuôi với khẩu phần chứa 70% thức ăn thô. Tác giả cho thấy cũng chế độ nuôi dưỡng mức độ tăng trọng và khối lượng của chúng có sự sai khác nhau giữa các phẩm giống, như tăng trọng hàng ngày từ 150 đến 520 ngày tuổi tương ứng 1189 g; 1024 g; 1127 g; 972 g; 1025 g. Khối lượng lúc giết thịt là : 624 kg; 579 kg; 612 kg; 559 kg; và 563 kg; Tỷ lệ thịt xẻ đạt tương ứng là 61,4 %; 62,5 %; 59,7 %; 63,4 %; và 61,7 %. Để nâng cao hiệu quả trong chăn nuôi bò thịt và áp dụng trong các gia đình nông dân ở các nước đang phát triển, các nhà khoa học chăn nuôi đã nghiên cứu việc sử dụng các phế phụ phẩm nông nghiệp làm thức ăn cho bò. Frands Dolberg và Peter Finlayson, 1990 (Vũ Văn Nội) [17] đã tiến hành ủ rơm để nuôi bò thịt ở Trung Quốc, theo dự án FAO (1990-1992). Tác giả cũng sử dụng protein thoát qua dạ cỏ để nâng cao khả năng hấp thu protein (khô dầu bông) đã cho kết quả tăng trọng từ 608 g ± 198 – 173 g ± 90 so với 1027 con bò của 312 gia đình trong 12 làng tại 4 vùng Huaiyang, Shanshiu, Beixiang, Ding Xing. 1.2.2. Tình hình nghiên cứu trong nƣớc 1.2.2.1. Đặc điểm của bò vàng Giống bò vàng của nước ta hiện nay được hình thành từ nhiều giống bò có nguồn gốc từ các nước lân cận, nhưng chủ yếu là từ 2 giống bò có nguồn gốc từ ấn Độ và Trung Quốc, qua tạp giao nhiều đời đã tạo thành giống bò vàng Việt Nam. Trải qua quá trình chọn lọc tự nhiên nhiều năm, đến nay giống bò vàng Việt Nam hoàn toàn thích nghi với khí hậu nóng ẩm, chịu đựng kham khổ cao, khả năng chống đỡ bệnh tật khá. Ngay trong điều kiện nuôi dưỡng kém, thức ăn xanh khan hiếm, giống bò vàng Việt Nam vẫn phát triển và tồn tại (Vũ Văn Nội, 1994) [17] Đàn bò vàng Việt Nam hiện nay gồm nhiều nhóm bò ở các vùng khác nhau. Tuy có cùng đặc điểm chung của giống, nhưng mỗi nhóm vẫn có đặc Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 25 điểm riêng về tính trạng năng suất và khả năng sinh sản. Phần lớn giống bò Việt Nam có lông màu vàng, một số có màu đen hoặc lang trắng và có tầm vóc nhỏ. Nguyễn Văn Thưởng và cộng sự (1985) [27] đã điều tra, khảo sát đàn bò trong phạm vi cả nước cho biết : Bò cái sinh sản của ta chân thấp (cao vây khoảng từ 100 - 104,2 cm); mình ngắn (dài thân chéo là 111,1 - 115,9 cm); ngực lép (rộng ngực 27-33 cm) khối lượng bình quân đại trà là 140-160 kg. ở các địa phương khác nhau có sự sai khác đáng kể về khối lượng bình quân như: Bò Lạng Sơn (186 kg); bò Thanh Hoá (200 kg) bò Nghệ An, bò Phú Khánh (206 kg), bò Nghĩa Bình (189 kg), bò Sông Bé (219 kg), bò Biên Hoà (243 kg), bò Đồng Nai (260 kg). Về khả năng sinh sản và cho thịt, các tác giả cho biết: Tuổi phối giống lần đầu ở bò vàng Nghĩa Bình trung bình là 27 tháng; bò vàng Phú Khánh là 35 tháng; bò vàng Đông Nam Bộ là 36 tháng. Tuổi đẻ lứa đầu tương ứng là 36,44 và 45 tháng. Sản lượng sữa đạt 300-400 kg/chu kỳ. Tỷ lệ thịt xẻ bình quân đạt trên dưới 45%. Khối lượng bò đực giống địa phương cũng nhỏ khoảng 210 – 280 kg. Kích thước các chiều đo của bò đực so với đàn bò cái sinh sản không có sự chênh lệch đáng kể. Do đó, nếu dùng đực nội phối giống với bò cái nội, không thể cải tạo, nâng cao tầm vóc và khối lượng đàn bò vàng của ta được. Lê Quang Nghiệp (1984) [16] nghiên cứu về sinh trưởng và sinh sản của bò vàng Thanh Hoá cho biết: Bê cái sơ sinh có khối lượng bình quân 14,150,27 kg; 6 tháng tuổi; 60,180,75 kg; 12 tháng tuổi 97,080,17 kg, 24 tháng tuổi 167,071,05 kg và 36 tháng tuổi đạt 181,871,53 kg. Bê đực có khối lượng tương ứng là 15,56; 63,9; 100,25; 183,01 và 217,08 kg. Bò cái có tuổi đẻ lứa đầu bình quân là 28,030,46 tháng. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 26 Phạm Huy Thuỵ (1996) [24] cho biết khả năng sinh trưởng và sinh sản của bò vàng ở huỵên Thanh Hoà - Vĩnh Phú như sau: Bê cái có khối lượng sơ sinh bình quân 15,1 kg; 6 tháng tuổi đạt 61,5 kg; 12 tháng tuổi 98,6 kg; 18 tháng 148,3 kg; 24 tháng 172,1kg và 36 tháng là 195,4 kg. Các số liệu tương ứng ở bê đực là 16,5; 65,4; 102,6; 150,1; 185,4 và 221,7 kg. Thực tế cho thấy do đàn bò vàng của ta có ngoại hình xấu, tầm vóc quá nhỏ, nên nếu cho phối thẳng với bò đực ngoại để có đàn bò lai lấy thịt, sữa thì năng suất vẫn chưa đạt như mong muốn và hiệu quả kinh tế chưa cao. Chính vì vậy đối với đàn bò nước ta, trước hết phải dùng bò đực Zebu giống Red Sindhi hoặc Sahiwal cho lai cải tạo để nâng dần tầm vóc, khối lượng và khả năng sản xuất của chúng. Ngoài ra thông qua chọn lọc, chúng ta chọn ra đàn bò cái lai làm nền cho việc lai tạo tiếp theo với các giống bò chuyên dùng thịt, sữa. 1.2.2.2. Đặc điểm giống bò Red Sindhi Bò Red Sindhi là giống bò thuộc nhóm bò Zebu Ấn Độ (Bos Indicus) có nguồn gốc từ vùng Karachi, Hyderabad ở Pakistan, bang Sind và một số vùng phía Tây Ấn Độ. Bò Red Sindhi có đặc điểm sau: Đặc điểm ngoại hình: Bò có lông ngắn mềm, có màu đỏ sẫm, một số con có màu vàng và có một số ít có một vài đám trắng. Bò đực có màu lông sẫm hơn ở cổ, đùi, mí mắt, yếm và càng lớn thì những chỗ này càng chuyển thành màu sẫm đen. Bò Red Sindhi có trán rộng, gồ, tai to và hơi rủ xuống, yếm to trễ, rốn to hơi sệ xuống, mông nở và dốc, đuôi dài, bốn chân khoẻ, thân hơi ngắn, âm hộ có nhiều nếp nhăn. Theo Nguyễn Văn Thưởng và cộng sự, 1985 [27], bò Red Sindhi có tầm vóc và khối lượng lớn hơn hẳn bò vàng Việt Nam. Bò đực có khối lượng 400- Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 27 450 kg (bình quân 415 kg), bò cái 300 - 350 kg (bình quân 323 kg  12,8 kg). Sản lượng sữa 1.400 - 2.100 kg/chu kỳ, tỷ lệ mỡ sữa 5%. Theo Vũ Chí Cương (1990) [5] bò Red Sindhi có sức cày tốt, sức sản xuất thịt khá cao. Tỷ lệ thịt xẻ 48-50%, phẩm chất thịt ngon, tuổi giết mổ sớm hơn bò địa phương. Nhiều tác giả cho biết: Ngay từ thời kỳ Pháp thuộc, vào khoảng những năm 20 của thế kỷ XX một số kiều dân Ấn Độ đã nhập vào Việt Nam giống bò Red Sindhi (thường gọi là bò Sind). Trong những năm 1985 - 1987 được sự viện trợ của chính phủ Mông Cổ, nước ta đã nhập một số bò Red Sindhi từ Pakistan về nuôi thích nghi, nhân giống thuần chủng tại nông trường hữu nghị Việt Nam - Mông Cổ và Trung tâm tinh đông viên Moncada để cung cấp nguồn giống phục vụ cho việc thực hiện chương trình "Sind hoá" cải tạo đàn bò Việt Nam 1.2.2.3. Một số kết quả của việc lai tạo giữa bò Red Sindhi với bò vàng Việt Nam Một số bò Red Sindhi được nhập vào nước ta từ năm 1923 ( Do bác sỹ S.Chein ) nhằm khai thác sữa và cải tạo đàn bò vàng Việt Nam. Sau đó bò Red Sindhi được các kiều dân Ấn Độ tiếp tục nhập thêm vào Việt Nam nhằm khai thác sữa cung cấp cho nhu cầu đời sống của các thành phố lớn. Qua nhiều năm nuôi tại Việt Nam bò Red Sindhi đã tạp giao với bò vàng Việt Nam tạo ra nhóm bò lai gọi là bò Lai Sind. Kết quả nghiên cứu của Nguyễn Văn Thưởng, Trần Doãn Hối, Vũ Văn Nội và cộng tác viên, 1985 [27] cho biết: Bò Lai Sind có nhiều ưu điểm về khả năng sản xuất so với bò vàng Việt Nam. Đồng thời với các tính trạng năng suất, tính thích nghi thể hiện rõ qua khả năng sinh trưởng và sinh sản. Bò cái Lai Sind cao hơn bò vàng địa phương khoảng 8,6 - 8,7%, dài mình hơn khoảng 4,8 - 4,9%; Khối lượng lớn hơn 35 - 40%. Bò đực Lai Sind cũng Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 28 có kích thước các chiều đo và khối lượng hơn hẳn bò đực nội; Tất cả các chiều đo đều tăng từ 14 - 22% so với đực nội. Đặc biệt về khối lượng bò Lai Sind trưởng thành đạt trên 400 kg, trong khi đó bò đực nội trưởng thành đạt bình quân 250 kg. Rõ ràng để cải tạo đàn bò địa phương cần phải dùng bò đực Red Sindhi. Dùng đực Red Sindhi cho lai với bò vàng Việt Nam không chỉ nâng cao tầm vóc, khối lượng mà còn nâng cao khả năng sản xuất; Sản lượng sữa tăng gấp 2 lần, tỷ lệ thịt xẻ tăng 5%, sức kéo cũng tăng rõ rệt. Trong nghiên cứu cũng như thực tế dùng bò đực Red Sindhi để lai tạo với đàn bò địa phương ở một số tỉnh những năm qua cho thấy vai trò quan trọng của giống bò Red Sindhi trong việc cải tạo đàn bò vàng Việt Nam. 1.2.2.4. Một số kết quả nghiên cứu về khả năng sinh trưởng của bò Red Sindhi tại Việt Nam Tác giả Nguyễn Văn Bình, (1996) [1] nghiên cứu trên 172 bê cái Red Sindhi tại nông trường hữu nghị Việt Nam - Mông Cổ cho biết: Bê cái Red Sindhi có khối lượng sơ sinh đạt trung bình 17,870,29 kg; Lúc 6 tháng tuổi đạt 83,81  2,76 kg). Sinh trưởng tuyệt đối ở giai đoạn sơ sinh đến 6 tháng tuổi đạt trung bình 377g/con/ngày, ở giai đoạn 9, 12, 18, 24 và 36 tháng tuổi, có khối lượng trung bình đạt tương ứng là 103,38; 122,67; 139,33; 144,85 và 185,09 kg. Tốc độ sinh trưởng tuyệt đối bình quân ở giai đoạn 6 đến 36 tháng tuổi là 112,26 g/con/ngày. Nghiên cứu trên 204 bê đực Red Sindhi, tác giả cho biết: Bê đực có khối lượng sơ sinh bình quân đạt 19,53 kg, lúc 6 tháng tuổi đạt 95,60 kg, thấp hơn so với chỉ tiêu của phẩm giống (tương ứng là 24 và 120 kg). Sinh trưởng tuyệt đối trung bình ở thời kỳ bú sữa là 422,5g/con/ngày. Lúc 9, 12, 18, 24 và 36 tháng tuổi, khối lượng trung bình đạt tương ứng là:114,24; 122,14, 156,55; 23,87 và 398,80 kg. Cũng ở giai đoạn này sinh trưởng tuyệt đối đạt bình quân 287,49 g/con/ngày. Tác giả cho rằng mức dinh Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 29 dưỡng kém đã ảnh hưởng đến khả năng sinh trưởng của bê, làm cho các chỉ tiêu sinh trưởng đạt được thấp hơn so với phẩm giống. 1.2.2.5. Kết quả nghiên cứu về tỷ lệ nuôi sống của bò Red Sindhi nuôi tại Việt Nam Kết quả nghiên cứu tại Nông trường hữu nghị Việt Nam -Mông Cổ của tác giả Nguyễn Văn Bình [1] cho biết: Tỷ lệ nuôi sống của bê trong giai đoạn bú sữa là 95,56 % đối với những bò mẹ 3 năm tuổi, 96,67% đối với những bò mẹ 4 năm tuổi và ở những bò mẹ 5 tuổi, tỷ lệ này là 97,53%. 1.2.2.6. Những nghiên cứu trong nước về thức ăn dinh dưỡng đối với bò thịt Bên cạnh biện pháp lai giống các nhà khoa học chăn nuôi cũng quan tâm đến thức ăn và chế độ nuôi dưỡng để nâng cao khả năng sản suất đối với bò thịt. Lê Viết Ly và Cs, 1995 [13] đã thí nghiệm bổ sung thức ăn cho bò lai hướng thịt tại Hà Tam – Gia Lai và An Nhơn -Bình Định là sử dụng rơm ủ u rê 4 % và 2 loại tảng liếm urê rỉ mật MUB có thành phần dinh dưỡng ở bảng 1.2 Bảng 1.2. Thành phần của 2 loại tảng liếm Nguyên liệu Đơn vị MUBI MUBII U rê % 10 10 Rỉ mật % 40 35 Ciment % 10 10 Cám gạo % 35 24 Nacl % 5 1 Bột cá % 0 20 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 30 Ở mỗi địa điểm 15 bê thịt đồng đều về tuổi, tính biệt, giống, khối lượng được phân vào 3 lô, mỗi lô 5 con. Kết quả 2 thí nghiệm sau 3 tháng cho thấy: Bê F1 hướng thịt (gồm Red Sindhi, Charolais, Limousine, Hereford, Simmental, Santa Gertrudis) nuôi chăn thả quảng canh tăng trọng thấp 0,21 đến 0,24 kg/ con/ ngày, nếu được ăn bổ sung thêm rơm ủ u rê + tảng liếm MUB tăng trọng sẽ tốt hơn 0,386 đến 0,429 kg/ con/ ngày (Hà Tam) và 0,342- 0,402 kg/ con/ ngày (Bình Định) vượt hơn 60 % so với chăn thả quảng canh. Tác giả Trần Doãn Hối, Nguyễn Đức Tặng, (1963 - 1979) [10] xác định được mức tăng trọng và thức ăn tiêu tốn qua từng giai đoạn của bò lai Sind: Bê đực Lai Sind 6 tháng tuổi đạt khối lượng 114kg, tăng trọng 504 gam/ngày; 9 tháng đạt 163,1kg tăng trọng 545 gam/ngày. Bê cái Lai Sind 6 tháng tuổi đạt khối lượng 89,1kg; tăng trọng 394 gam/con/ngày; 9 tháng đạt 127 kg, tăng trọng 421 gam/con/ngày. Về phát dục: Bò đực 24 tháng đạt 91% khối lượng trưởng thành và có khả năng giao phối, bò cái 24 tháng đạt 83% khối lượng trưởng thành. Tuổi đẻ lứa đầu của bò cái Lai Sind là 34 - 35 tháng. Để nuôi một bê đến 6 tháng tuổi cần 250 ĐVTA cho con cái và 300 ĐVTA cho con đực. Nuôi bê đến 24 tháng tuổi tiêu tốn đến 2006 ĐVTA với con cái, 2217 ĐVTA với con đực. Lượng thức ăn tiêu tốn để tăng 1 kg khối lượng tăng dần theo tháng tuổi, riêng giai đoạn 18 - 24 tháng có giảm. Lượng đạm cần cho bê ở giai đoạn 6 tháng tuổi phải đảm bảo 110 gam, ở giai đoạn từ 9 - 12 tháng tuổi cần 80 gam, giai đoạn 12 - 24 tháng tuổi cần 70 gam/ĐVTA. Tóm lại: Qua một số thông tin nghiên cứu trong và ngoài nước đã cho thấy rất nhiều tác giả trong nước và ngoài nước quan tâm nghiên cứu về đặc điểm di truyền của các giống bò, khả năng sinh trưởng và tiến hành lai tạo, tạo ra các giống bò có năng suất cao. Những kết quả đó là cơ sở cho việc định hướng chương trình “Sind hoá” cải tạo đàn bò trên phạm vi cả nước. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 31 1.3. Giới thiệu về bò đực giống 7/8 máu Sind Bò đực 7/8 Sind là bò đực Lai Sind có tỷ lệ 7 phần máu bò Red Sindhi và 1 phần máu bò vàng nên chúng có những ưu điểm của bò Lai Sind: - Ngoại hình: Bò đực 7/8 m._. + Giai đoạn 12 tháng tuổi bê đực có kích thước các chiều đo như sau: VN: 117,40 cm; DTC: 104,80 cm; CV: 104,20 cm; VO:13,40 cm. Bê cái với các chiều đo tương ứng là: VN: 114,40; DTC: 99,40 cm; CV: 101,60 cm; VO: 13,10 cm. Như vậy ở giai đoạn này giữa bê đực và bê cái có sự chênh lệch khá rõ về các chiều như: VN, DTC, CV. - Đối với nhóm bê địa phương. + Giai đoạn 3 tháng tuổi bê đực có kích thước các chiều như sau: Vòng ngực (VN): 82,50 cm; dài thân chéo (DTC): 71,50 cm; cao vây (CV): 71,33 cm; vòng ống (VO): 9,08 cm. Bê cái với các chiều đo tương ứng là: VN: 80,43 cm; DTC: 67,43 cm; CV: 67,29 cm; VO:8,71cm. Ở giai đoạn này kích thước các chiều đo giữa bê đực và bê cái có sự chênh lệch ở DTC và CV. + Giai đoạn 12 tháng tuổi bê đực có kích thước các chiều đo như sau: VN: 108,80 cm; DTC: 95,00 cm; CV: 96,60 cm; VO: 13,3 cm. Bê cái với các chiều đo tương ứng là: VN: 105,00; DTC: 93,17 cm; CV: 95,17cm; VO: 12,92 cm. Như vậy ở giai đoạn này giữa bê đực và bê cái có sự chênh lệch không đáng kể về kích thước các chiều đo. Từ thí nghiệm về ảnh hưởng của bò đực giống 7/8 máu Sind đến tỷ lệ sống và sinh trưởng của bê lai chúng tôi rút ra nhận xét: Biện pháp lai giống có tác dụng nâng cao sinh trưởng của đời con sinh ra so với bê địa phương thuần một cách rõ ràng, do tiềm năng di truyền về sinh trưởng được đổi mới. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 71 3.3. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU ẢNH HƢỞNG CỦA BIỆN PHÁP BỔ SUNG THỨC ĂN TINH ĐỂ NUÔI BÊ LAI SAU CAI SỮA TỪ 6 ĐẾN 10 THÁNG TUỔI Qua nghiên cứu về ảnh hưởng của bổ sung thức ăn tinh trong khẩu phần bê lai giai đoạn từ 6 đến 10 tháng tuổi chúng tôi thu được kết quả như sau: 3.3.1. Tỉ lệ nuôi sống của bê Lai Sind qua các tháng thí nghiệm Để đánh giá được tỷ lệ nuôi sống của đàn bê Lai Sind chúng tôi tiến hành theo dõi thường xuyên tại các hộ dân, kết quả được thể hiện ở bảng 3.14 Bảng 3.14: Tỷ lệ nuôi sống của bê qua các tháng thí nghiệm Tháng thí nghiệm Bê thí nghiệm Bê đối chứng Số con còn sống (con) Tỷ lệ nuôi sống (%) Số con còn sống (con) Tỷ lệ nuôi sống (%) Bắt đầu TN 10 100 10 100 1 10 100 10 100 2 10 100 10 100 3 10 100 10 100 4 10 100 10 100 Kết quả bảng 3.14 cho thấy: Tỷ lệ nuôi sống của bê Lai Sind đạt 100% ở các tháng thí nghiệm (1, 2, 3, 4 tháng thí nghiệm) ở cả 2 lô thí nghiệm và đối chứng. Nguyên nhân có thể là bê qua giai đoạn bú sữa đã quen dần với điều kiện sống và ưu thế lai được phát huy làm sức sống của bê lai tốt lên, ngoài ra các nông dân cũng đã nâng cao được kỹ thuật chăn nuôi bò, đặc biệt được các sinh viên, học viên thực tập hướng dẫn, giúp đỡ chăm sóc, nuôi dưỡng đàn bò thí nghiệm của các gia đình do vậy tỷ lệ nuôi sống của bê Lai Sind đạt cao. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 72 3.3.2. Sinh trƣởng tích luỹ của bê Lai Sind qua các tháng thí nghiệm Để so sánh được sự tăng khối lượng của bê Lai Sind giữa 2 lô TN và ĐC chúng tôi đã tiến hành cân, đo khối lượng bê thí nghiệm qua từng tháng, kết quả thu được ở bảng 3.15. Bảng 3.15: Sinh trƣởng tích luỹ của bê Lai Sind qua Các tháng thí nghiệm (kg) Tháng TN Đối chứng (n = 10) Thí nghiệm (n = 10) So sánh thí nghiệm/ đối chứng x X m Cv (%) x X m Cv (%) Chênh lệch (%) Bắt đầu TN 82,50  1,80 6,54 81,80  1,80 6,60 0,70 0,85 1 91,10* 1,83 6,02 95,10* 1,91 6,02 4,00 4,39 2 99,20*  1,86 5,62 109,20* 2,00 5,49 10,00 10,08 3 107,00* 1,88 5,27 123,00* 2,15 5,24 16,00 14,95 4 114,00* 2,04 5,36 136,70* 2,36 5,17 22,70 19,91 Ghi chú: Dấu *: Thể hiện sự sai khác thống kê giữa các lô với P <0,001. Qua bảng 3.15 chúng tôi thấy khối lượng trung bình của bê khi bắt đầu thí nghiệm ở cả 2 lô là gần tương đương nhau. Sau khi bắt đầu bổ sung thức ăn tinh trong khẩu phần, do lô thí nghiệm, ngoài việc được cung cấp thức ăn thô xanh đã đáp ứng nhu cầu dinh dưỡng cho bê sinh trưởng, vì vậy khối lượng của bê ở lô thí nghiệm đã bắt đầu cho kết quả tăng trọng cao hơn lô đối chứng 4,0 kg ở tháng thí nghiệm thứ nhất (với khối lượng cơ thể là 95,1 kg so với đối chứng 91,1 kg). Tới khi kết thúc 2 tháng thí nghiệm, bê lai thí nghiệm đã quen với thức ăn bổ sung và cho kết quả tăng trọng rất tốt đạt 109,2 kg, cao hơn so với đối chứng (99,2 kg) tới 10,0 kg. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 73 Tiếp tục bổ sung thức ăn tinh cho tới khi kết thúc thí nghiệm (ở tháng thứ 4), đàn bê Lai Sind lô thí nghiệm đã đạt tới 136,7 kg trong khi lô đối chứng chỉ đạt 114,0 kg, thấp hơn lô thí nghiệm tới 22,7kg. Kết quả tính toán thống kê cho thấy: Lô thí nghiệm khi được bổ sung thức ăn tinh đã làm tăng khối lượng nhiều hơn một cách rất rõ rệt so với lô đối chứng với P <0,001 (độ tin cậy tới 99,9%). Bổ sung thức ăn tinh có ảnh hưởng rất rõ rệt đến khả năng tăng trọng của bê Lai Sind sau cai sữa. Ngoài sự vượt trội về khối lượng thì bê Lai Sind được bổ sung thức ăn tinh còn có sự thay đổi về ngoại hình, đó là sự phát triển cân đối, lông mịn và bóng mượt. Sinh trưởng tính lũy của bê qua các tháng thí nghiệm được thể hiện qua đồ thị 3.5. 0 20 40 60 80 100 120 140 160 B¾t ®Çu TN 1T 2T 3T 4T Th¸ng thÝ nghiÖm K hè i l •î ng (k g/ co n) ThÝ nghiÖm §èi chøng Đồ thị 3.5. Sinh trƣởng tính lũy của đàn bê qua các tháng thí nghiệm Qua đồ thị 3.5. cho ta thấy đường biểu diễn sinh trưởng tính lũy của bê thí nghiệm luôn luôn nằm phía trên đường biểu diễn sinh trưởng tính lũy của bê đối chứng. Càng về sau 2 đường cách xa nhau chứng tỏ sự chênh lệch về Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 74 khối lượng giữa lô thí nghiệm và lô đối chứng tăng dần theo tháng tuổi thí nghiệm. 3.3.3. Sinh trƣởng tuyệt đối của bê Lai Sind qua các tháng thí nghiệm Sinh trưởng tuyệt đối biểu hiện tăng lên về khối lượng trong một khoảng thời gian giữa 2 lần khảo sát. Trên cơ sở số liệu theo dõi tăng trọng qua các tháng thí nghiệm, chúng tôi xác định được tốc độ tuyệt đối ở bảng 3.16. Bảng 3.16. Sinh trƣởng tuyệt đối của bê Lai Sind qua các tháng thí nghiệm Tháng thí nghiệm Lô thí nghiệm (g/con/ngày) Lô đối chứng (g/con/ngày) 1 443,3 286,7 2 470,0 273,3 3 460,0 256,7 4 456,7 233,3 TB 457,5 262,5 Qua bảng 3.16 cho ta thấy rằng: Nhìn chung tốc độ sinh trưởng tuyệt đối của bê đối chứng qua các tháng thí nghiệm giảm dần nhưng sự chênh lệch về tốc độ tăng trọng của bê thí nghiệm và bê đối chứng qua các tháng tuổi thí nghiệm lại tăng dần. - Tháng thí nghiệm thứ nhất: Khi bắt đầu bổ sung thức ăn tinh cho bê thí nghiệm tốc độ sinh trưởng tuyệt đối của bê thí nghiệm là 443,30 g/con/ngày tăng 286,70 g/con/ngày. Lô thí nghiệm đã bắt đầu tăng hơn với lô đối chứng không bổ sung thêm thức ăn trong khẩu phần. Chênh lệch là 156,6 g. - Tháng thí nghiệm thứ 2: Tốc độ sinh trưởng tuyệt đối của bê thí nghiệm tăng cao nhất. Lúc này bê đã quen với thức ăn bổ sung, lô thí nghiệm đạt 470,00g/con/ngày so với lô đối chứng chỉ đạt 273,30 g/con/ngày. Chênh lệch là 196,7 g. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 75 - Tháng thí nghiệm thứ 3: Tốc độ sinh trưởng tuyệt đối của bê thí nghiệm và đối chứng bắt đầu có xu hướng giảm dần. Lô thí nghiệm đạt 460,00g/con/ngày so với lô đối chứng chỉ đạt 256,70 g/con/ngày. Chênh lệch là 203,3 g. - Kết thúc thí nghiệm (tháng thí nghiệm thứ tư): Bê thí nghiệm có tốc độ sinh trưởng tuyệt đối tiếp tục giảm, chỉ đạt 456,70 g/con/ngày, trong khi lô đối chứng là 233,3 g/con/ngày, lô thí nghiệm cao hơn đối chứng 233,4 g/con/ngày. - Tính chung cho cả giai đoạn thí nghiệm: Sinh trưởng tuyệt đối của bê thí nghiệm là 457,5 g/con/ngày so với bê đối chứng 262,5 g/con/ngày. Chênh lệch 195,0 g/con/ngày Nếu mô tả tốc độ sinh trưởng tuyệt đối của bê Lai Sind thí nghiệm và đối chứng qua biểu đồ ta có: 443.3 470.0 460.0 456.7 457.5 286.7 273.3 256.7 233.3 262.5 0.0 50.0 100.0 150.0 2 0.0 250.0 300.0 350.0 400.0 450.0 500.0 1T 2T 3T 4T TB Th¸ng thÝ nghiÖm K hè i l •î ng (g /co n/ ng µy ) ThÝ nghiÖm §èi chøng Biểu đồ 3.3. Sinh trƣởng tuyệt đối của bê Lai Sind thí nghiệm Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 76 Qua biểu đồ 3.3 ta thấy tốc độ sinh trưởng của bê Lai Sind chỉ tăng ở tháng đầu thí nghiệm và tăng lớn nhất ở tháng thứ 2, sau đó có xu hướng giảm dần theo tuổi. Nhưng sự chệnh lệch về trọng lượng giữa lô thí nghiệm và đối chứng thì lại tăng dần theo tháng thí nghiệm. 3.3.4. Sinh trƣởng tƣơng đối của bê thí nghiệm và bê đối chứng Qua tính toán chúng tôi có kết quả sinh trưởng tương đối cuả bê thí nghiệm ở bảng 3.17. Bảng 3.17: Sinh trƣởng tƣơng đối của bê Lai Sind thí nghiệm và đối chứng (%/) Tháng thí nghiệm Lô thí nghiệm (%) Lô đối chứng (%) 1 15,04 9,91 2 13,80 8,61 3 11,89 7,46 4 10,55 6,33 Qua bảng 3.17 ta thấy: Tốc độ sinh trưởng tương đối của bê Lai Sind giảm dần theo tuổi và cường độ sinh trưởng tương đối của bê thí nghiệm lớn hơn bê đối chứng cụ thể: - Tháng thí nghiệm thứ nhất: Bê thí nghiệm tăng 15,04%; bê đối chứng là 9,91% - Tháng thí nghiệm 2: Bê thí nghiệm tăng 13,8%; bê đối chứng là 8,61% - Tháng thí nghiệm 3: Bê thí nghiệm tăng 11,89%; bê đối chứng là 7,46% - Tháng thí nghiệm 4: Bê thí nghiệm tăng 10,55%; bê đối chứng là 6,33% Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 77 0.00 2.00 4.00 6.00 8.00 10.00 12.00 14.00 16.00 1T 2T 3T 4T Tháng thí nghiệm R (% ) Thí nghiệm Đối chứng Đồ thị 3.6: Sinh trƣởng tƣơng đối của bê Lai Sind thí nghiệm và đối chứng qua các tháng thí nghiệm (%) Qua đồ thị 3.6 ta thấy tốc độ sinh trưởng tương đối của bê Lai Sind giảm dần qua các tháng tuổi. Tốc độ sinh trưởng chậm nhất ở giai đoạn cuối của thí nghiệm là giai đoạn tháng thí nghiệm thứ 4, lô thí nghiệm là 10,55% so với giai đoạn 6 - 7 tháng tuổi tốc độ sinh trưởng tương đối cao nhất là 15,04%. Lô đối chứng là 6,33% so với giai đoạn tháng thí nghiệm thứ 4, tốc độ sinh trưởng tương đối cao nhất là 9,91%. Nhìn chung tốc độ sinh trưởng của bê thí nghiệm cao hơn tốc độ sinh trưởng của bê đối chứng ở các giai đoạn thí nghiệm. 3.3.5. Kích thƣớc một số chiều đo của đàn bê Lai Sind qua các tháng thí nghiệm (cm) Qua khảo sát một số chiều đo của bê Lai Sind qua các tháng thí nghiệm chúng tôi thu được kết quả ở bảng 3.18. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 78 Bảng 3.18: Kích thƣớc một số chiều đo của đàn bê Lai Sind qua các tháng thí nghiệm (cm) Chỉ tiêu Tháng TN Lô thí nghiệm (n = 10) Lô đối chứng (n = 10) Vòng ngực x X m Cv (%) x X m Cv (%) Bắt đầu TN 101,4 0,91 2,68 101,0  0,91 2,70 1 106,9  0,91 2,55 104,4  0,89 2,56 2 113,3  0,93 2,46 107,6  0,92 2,56 3 118,3  0,90 2,28 110,4  1,00 2,73 4 122,4  0,96 2,35 112,8  0,91 2,42 Dài thân chéo Bắt đầu TN 85,9  0,78 2,71 86,6  1,43 4,96 1 90,1  0,68 2,28 89,5  1,56 5,22 2 92,1  0,75 2,44 91,8  1,51 4,95 3 95,1  0,93 2,93 94,0  1,59 5,08 4 97,7  1,05 3,22 95,9  1,59 4,98 Cao vây Bắt đầu TN 84,3  0,70 2,50 83,6  0,55 1,97 1 88,1  0,76 2,59 86,6  0,62 2,14 2 91,0  0,75 2,48 88,8  0,57 1,92 3 93,6  0,83 2,67 91,1  0,63 2,08 4 96,3  0,94 2,94 93,5  0,67 2,14 Vòng ống Bắt đầu TN 10,67  0,21 5,95 10,80  0,14 3,90 1 11,17  0,21 5,68 11,1  0,15 4,14 2 11,72  0,22 5,76 11,55  0,15 3,79 3 12,33  0,26 6,28 11,95  0,17 4,16 4 12,94  0,32 7,39 12,30  0,16 3,93 Qua bảng 3.18 chúng tôi thấy kích thước các chiều đo của bê thí nghiệm và bê đối chứng đều tăng dần lên qua các tháng thí nghiệm và cùng một giai đoạn tháng thí nghiệm thì bê thí nghiệm có kích thước các chiều đo lớn hơn bê đối chứng. Sự chênh lệch thể hiện rõ nhất là tháng thứ 4 (tháng kết thúc thí nghiệm). Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 79 * Vòng ngực: - Lúc bắt đầu thí nghiệm: Lô thí nghiệm là 101,4 cm còn lô đối chứng là 101,0 cm. - Sau 4 tháng thí nghiệm: Sự chênh lệch của giữa đối chứng và lô thí nghiệm là lớn nhất, lô thí nghiệm là 122,4 cm còn lô đối chứng là 112,8 cm. * Dài thân chéo: - Lúc bắt đầu thí nghiệm: Lô thí nghiệm là 85,9 cm còn lô đối chứng là 86,6 cm. - Ở tháng thí nghiệm thứ 4: Số đo dài thân chéo của bê thí nghiệm là 97,7 cm còn bê đối chứng là 95,9 cm. * Cao vây: - Lúc bắt đầu thí nghiệm: Lô thí nghiệm là 84,3 cm còn lô đối chứng là 83,6 cm. - Ở tháng thí nghiệm thứ 4 chiều cao của bê đạt cao nhất trong các tháng thí nghiệm, lô thí nghiệm là 96,3 cm, lô đối chứng là 93,5 cm. * Vòng ống: Kích thước vòng ống của bê cũng tăng dần theo tuổi và giữa bê thí nghiệm và bê đối chứng cũng có sự chênh lệch về kích thứơc và vòng ống nhưng không đáng kể. Tóm lại khi được bổ sung thức ăn tinh và trong khẩu phần, do đáp ứng được nhu cầu dinh dưỡng hàng ngày cho đàn bê. Vì vậy đã làm tăng tốc độ sinh trưởng của bê thí nghiệm cao hơn đối chứng cả về chiều dài, chiều rộng, chiều cao và bộ xương to hơn, chắc khoẻ hơn. 3.3.6. Hạch toán chi phí thức ăn bổ sung cho bê thí nghiệm Tiêu tốn và chi phí thức ăn/kg tăng khối lượng trong chăn nuôi thức ăn chiếm 70 - 75% tổng giá trị sản phẩm, vì vậy việc nghiên cứu làm giảm tiêu tốn thức ăn/kg tăng khối lượng là điều cần thiết và là mục tiêu của nhà chăn nuôi. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 80 Trong thí nghiệm chúng tôi đã tiến hành theo dõi thức ăn tiêu tốn trong cả giai đoạn thí nghiệm kết quả thu được qua bảng 3.19. Bảng 3.19: Hạch toán chi phí thức ăn bổ sung cho bê thí nghiệm Số TT Chỉ tiêu theo dõi ĐVT Lô đối chứng Lô thí nghiệm 1 Số bê sống đến cuối kỳ thí nghiệm con/lô 10 10 2 Khối lượng bê tăng - Khối lượng đầu kỳ thí nghiệm - Khối lượng cuối kỳ thí nghiệm - Khối lượng bê tăng/lô kg/con kg/con kg/lô 82,5 114,0 315,0 81,8 136,7 549,0 3 Chi phí thức ăn tinh - Tổng lượng thức ăn tinh/lô - Đơn giá 1kg TA - Tổng chi thức ăn tính kg/lô đ/kg đ/lô - - - 960 3.556 3.414.000. 4 Chi phí thức ăn tinh/kg TT đ/kg 6.218 5 Hạch toán thu - chi - Tổng thu (25.000 đ/kg bê hơi) - Tổng chi - Thu - chi So sánh đ/lô đ/lô đ/lô đ/lô % 7.875.000 - 7.875.000 - 100 13.725.000 3.414.000 10.311.000 2.436.000 132,52 Qua bảng 3.19: cho thấy: với tăng khối lượng của bê qua 4 tháng thí nghiệm ở lô đối chứng đạt 315, /lô, lô thí nghiệm đạt 549,0 kg/lô với tỷ lệ thức ăn tinh trên thô của lô thí nghiệm hết 3.414.000.đ/lô. Chúng tôi tính được chi phí thức ăn tinh ở lô thí nghiệm hết 6.218.đ/kg tăng trọng. Nếu tạm tính giá 1kg bê thịt hơi tại địa phương là 25.000.đ, thì lô đối chứng không bổ sung thêm thức ăn tinh, bê tăng trọng chậm chỉ thu được 7.875.000.đ/lô. Trong khi thí nghiệm tăng trọng tốt, đã thu được 13.725.000.đ/lô. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 81 Nếu trừ chi phí thức ăn, lô thí nghiệm cao hơn đối chứng tới 2.436.000.đ, tương đương với tăng 32,52% giá trị . Qua 4 tháng thực hiện thí nghiệm bổ sung thức ăn tinh trong khẩu phần cho bê Lai Sind từ 6 - 10 tháng tuổi. Đàn bê Lai Sind thí nghiệm ngoài việc chăn thả, bổ sung cỏ thì còn được bổ sung thêm thức ăn tinh vào khẩu phần, lượng thức ăn bổ sung đã cung cấp đầy đủ dinh dưỡng cần thiết để bê sinh trưởng và phát triển nên hiệu quả kinh tế đạt được là tương đối rõ ràng với mức lãi tạm tính sơ bộ là 2.436.000đ/lô (243.600.đ/con/4 tháng). Thí nghiệm được thực hiện ngay tại các hộ chăn nuôi nên đã là bằng chứng thực tế để cho người dân nhận thức được hiệu quả của việc bổ sung thức ăn tinh cho bê sẽ tăng thêm thu nhập trong chăn nuôi, trong khi tất cả các gia đình đều có khả năng áp dụng với việc tận dụng nguồn thức ăn sẵn có tại địa phương như: Ngô, khoai, sắn... làm thức ăn bổ sung. Kết quả nghiên cứu này cần được tuyên truyền rộng rãi cho bà con chăn nuôi bò trong huyện Chợ Đồn nói riêng và các vùng khác nói chung thực hiện để đem lại hiệu quả kinh tế cao hơn trong chăn nuôi. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 82 KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ I. KẾT LUẬN Qua quá trình nghiên cứu đánh giá thực trạng đàn bò địa phương, nghiên cứu ảnh hưởng của việc sử dụng bò đực giống 7/8 máu Sind và bổ sung thức ăn tinh tới tỷ lệ nuôi sống và khả năng sinh trưởng của đàn bê lai Sind tại huyện Chợ Đồn tỉnh Bắc Kạn. Chúng tôi rút ra một số kết luận sau: 1- Đánh giá thực trạng đàn bò vàng của huyện Chợ Đồn. - Đàn bò của có tốc độ tăng đàn nhanh trong những năm gần đây, nhất là năm 2006 (tăng 102,1 % so với năm 2005). Xu hướng này phù hợp với chiến lược phát triển đàn trâu bò của huyện. - Cơ cấu của đàn bò có tỷ lệ đực cái chênh lệch khá lớn: Bò cái chiếm tỷ lệ nhiều hơn hẳn bò đực, đặc biệt tỷ lệ cái sinh sản là 41,09 % và đực giống là 2,42 %. Tỷ lệ này sẽ thuận lợi cho việc tăng nhanh về số lượng cho đàn bò. - Số bò được nuôi/ hộ bình quân khá cao: 3,99 bò/hộ, trong đó: Tỷ lệ số hộ nuôi từ 4 bò trở lên chiếm 40,55%. Kết quả nghiên cứu này đã phản ánh được rằng các dự án đã triển khai việc trồng cỏ giải quyết vấn đề thức ăn thô xanh thiếu hụt khi bãi chăn thả bị thu hẹp vì thế quy mô số bò trên hộ khá cao. - Khả năng sinh trưởng: Tầm vóc và tốc độ tăng trọng của đàn bò còn thấp so với các địa phương khác (lúc 36 tháng tuổi bò đực có khối lượng 206,2 kg, bò cái 178,2 kg), do vậy việc “Sind hoá” đàn bò vàng địa phương là hết sức cần thiết. 2- Ảnh hƣởng của việc sử dụng bò đực giống 7/8 máu Sind tới tỷ lệ sống và sinh trƣởng của bê Lai Sind từ SS-12 TT Qua theo dõi một số chỉ tiêu cho thấy: - Tỷ lệ nuôi sống bê Lai Sind (93,33%) cao hơn bê địa phương (73,33 %). Điều này cho thấy bê Lai Sind sinh ra ở Chợ Đồn có thể thích nghi tốt với điều kiện sống của địa phương. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 83 - Khả năng sinh trưởng của bê Lai Sind lớn hơn bê địa phương ở giai đoạn từ sơ sinh đến 12 tháng tuổi: + Bê đực Lai Sind có khối lượng cơ thể lớn hơn bê đực địa phương từ 3,5 kg/con (ở giai đoạn sơ sinh) đến 29,9 kg/con (ở giai đoạn 12 tháng tuổi). + Bê cái Lai Sind cũng có khối lượng cơ thể lớn hơn bê cái địa phương từ 3,9 kg/con (ở giai đoạn sơ sinh) đến 25,7 kg/con (ở giai đoạn 12 tháng tuổi). - Ở cùng độ tuổi thì bê đực có kích thước các chiều đo và tầm vóc lớn hơn bê cái và bê Lai Sind có kích thước lớn hơn bê địa phương: 3- Ảnh hƣởng của biện pháp bổ sung thức ăn tinh tới tỷ lệ sống và sinh trƣởng của đàn bê Lai Sind từ 6-10TT - Tỉ lệ sống của đàn bê thí nghiệm và bê đối chứng đều đạt cao (100%). - Bê thí nghiệm được bổ sung thức ăn tinh sinh trưởng nhanh hơn đàn bê đối chứng. Khối lượng bê thí nghiệm lúc 10 tháng tuổi trung bình 136,7 kg/con và bê đối chứng là 114,0 kg/con. Chệnh lệch 22,7 kg tương đương 19,91% - Kích thước các chiều đo của đàn bê thí nghiệm cao hơn đàn bê đối chứng. - Qua 4 tháng thí nghiệm bổ sung thức ăn tinh cho bê lai hiệu quả kinh tế đạt được là rất rõ ràng với mức lãi tạm tính sơ bộ là 2.436.000.đ/lô. II. TỒN TẠI Mặc dù chuyên đề nghiên cứu đã có những kết quả bước đầu, song với số lượng gia súc nghiên cứu chưa nhiều, môi trường thí nghiệm có nhiều yếu tố tác động đến kết quả thí nghiệm, nên thí nghiệm cần được lặp lại với số lượng bê lớn hơn, kiểm soát môi trường thí nghiệm chặt chẽ hơn để từ đó có thể đưa ra những kết quả chính xác hơn và xây dựng được một quy trình bổ sung thức ăn tinh hoàn chỉnh cho chăn nuôi bò địa phương. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 84 III. ĐỀ NGHỊ - Tiếp tục dùng bò đực giống 7/8 máu Sind để cải tạo đàn bò vàng của huyện Chợ Đồn và mở rộng ra các địa phương khác trong tỉnh nhằm từng bước cải tạo đàn bò địa phương để nâng cao tầm vóc và khả năng tăng trọng, từ đó nâng cao hiệu quả kinh tế. - Cần chọn lọc đàn bò cái nền để giao phối với bò đực giống 7/8 máu Sind nhằm nâng cao chất lượng đàn bê sinh ra, phát huy được ưu thế lai ở đời con. - Tuyên truyền, phổ biến cho bà con lợi ích của việc bổ sung thức ăn tinh cho bò bằng việc tận dụng nguồn thức ăn sẵn có như ngô, khoai, sắn, cám gạo…để chăn nuôi bò đạt kết quả cao hơn. - Trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên và các tổ chức khoa học khác tiếp tục giúp đỡ tỉnh Bắc Kạn trong việc áp dụng các biện pháp khoa học kỹ thuật nhằm đẩy mạnh phát triển đàn trâu bò của tỉnh góp phần xoá đói giảm nghèo và vươn lên làm giàu cho người dân địa phương./. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 85 TÀI LIỆU THAM KHẢO I. TÀI LIỆU TIẾNG VIỆT 1. Nguyễn Văn Bình (1996), Nghiên cứu một số đặc điểm về khả năng sinh sản và sinh trưởng của bò Red Sindhi nuôi tại Nông trường hữu nghị Việt Nam- Mông Cổ, Ba Vì - Hà Tây, Luận án phó tiến sĩ khoa học nông nghiệp. 2. Nguyễn Văn Bình, Trần Văn Tƣờng (2004), Giáo trình Chăn nuôi trâu bò, NXBNN, Hà Nội. 3. Bộ Nông nghiệp Mỹ (ngày 7 tháng 5 năm 2007), Thông tin từ trang web 4. Lê Xuân Cƣơng, Phạm Hồ Hải, Đặng Phƣớc Chung (1993), Đánh giá đặc điểm sinh sản và sức sản xuất thịt của bò địa phương và bò lai Sind nuôi tại miền nam Việt Nam, kết quả nghiên cứu kỹ thuật chăn nuôi bò thịt 1985 -1990, NXB Nông nghiệp, Hà Nội. 5. Vũ Chí Cƣơng (1990), Một số giống bò thịt nổi tiếng thế giới, Thông tin KHKT chăn nuôi, Bình Định. 6. Cục Chăn nuôi (Tháng 6/2006), Báo cáo tình hình chăn nuôi giai đoạn 2001-2005 và phương hướng phát triển thời kỳ 2006-2015. 7. Nông Thị Ga (1998), Điều tra khả năng sinh trưởng và sinh sản của bò nội địa phương tại huyện Thông Nông -Cao Bằng, Luận án Thạc Sỹ KHNN. 8. Trịnh Hữu Hùng, Hoàng văn Tiến, Bùi Đức Lũng, Nguyễn Tấn Anh, Lê Viết Ly, Lê Văn Thọ (1995), Sinh lý gia súc. Giáo trình cao học Nông nghiệp, NXB Nông nghiệp, Hà Nội. 9. Nguyễn Duy Hoan (2004), Bài giảng môn phương pháp luận nghiên cứu khoa học (Tài liệu dành cho Cao hoc, NCS), Thái Nguyên. 10. Trần Doãn Hối, Nguyễn Đức Tặng (1979), Khả năng tăng trọng và lượng thức ăn tiêu tốn của bê Lai Sind từ sơ sinh đến 24 tháng tuổi, Kết quả nghiên cứu KHKT 1963 - 1979, Viện Chăn nuôi, trang 146 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 86 11. Phạm Gia Huỳnh (1997), Theo dõi khả năng sinh trưởng và sinh sản của con lai F1 giữa bò đực Red Sindhi với bò cái địa phương, Luận văn Thạc Sỹ KHNN. 12. FAO (10/10/2007), Trang web:http:// www.Vinanet.com.vn. 13. Lê Viết Ly (1995), Nuôi bò thịt và những kết quả nghiên cứu bước đầu ở Việt Nam, NXB Nông nghiệp, Hà Nội. 14. Lê Viết Ly (2001), Phát triển chăn nuôi trên lợi thế Nông nghiệp nhiệt đới, Hội thảo về dinh dưỡng và gia súc nhai lại, Hội Chăn nuôi Việt Nam, Chương trình Link (BC) và Viện Chăn nuôi, Hà Nội ngày 9- 10/1/2001, trang 11-17. 15. Trần Đình Miên (1975), Chọn giống và nhân giống gia súc ( Giáo trình dành cho các trường Đại học Nông Nghiệp). NXB Nông thôn, trang 17. 16. Lê Quang Nghiệp (1984), Một số đặc điểm sinh trưởng chung của bò vàng Thanh Hoá và kết quả lai với bò Zebu, Luận án PTSKHNN. 17. Vũ Văn Nội (1994), Nghiên cứu khả năng sản xuất thịt của bò Lai Sind, bò lai kinh tế hướng thịt trên nền bò Lai Sind ở một số tỉnh miền trung, Luận án phó tiến sĩ khoa học nông nghiệp. 18. Orskov. E.R (2001), Phát triển nông thôn và quản lý tài nguyên bền vững tại Việt Nam, Hội thảo về dinh dưỡng và gia súc nhai lại, (9-10/1/2001), Hội Chăn nuôi Việt Nam, Chương trình Link, Viện Chăn nuôi, Hà Nội, trang 3-4. 19. Preston. T.R and Leng. R.A (1991), Các hệ thống chăn nuôi gia súc nhai lại dựa trên nguồn tài nguyên sẵn có nhiệt đới và á nhiệt đới, Người dịch: Lê Viết Ly, Lê Ngọc Dương, Nguyễn Viết Hải, Nguyễn Tiến Vởn, Lê Đức Ngoan, Đàm Văn Tiện, NXB Nông nghiệp, Hà Nội, trang 24. 20. Nguyễn Văn Thiện, Lê Hoà Bình (1994), Thức ăn cho gia súc nhai lại kỹ thuật trồng và sử dụng, NXB Nông nghiệp, Hà Nội, trang 52. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 87 21. Nguyễn Văn Thiện, Nguyễn Khánh Quắc (1997), Giống vật nuôi (Giáo trình cao học nông nghiệp), NXB Nông nghiệp. 22. Nguyễn Văn Thiện, Nguyễn Khánh Quắc (1998), Di truyền học động vật (Giáo trình cao học nông nghiệp), NXB Nông nghiệp, Hà Nội. 23. Nguyễn Văn Thiện, Nguyễn Khánh Quắc, Nguyễn Duy Hoan (2002), Phương pháp nghiên cứu trong chăn nuôi, NXB Nông Nghiệp. 24. Phạm Huy Thụy (1996), Kết quả nghiên cứu bước đầu về khả năng sinh trưởng, sinh sản của bò vàng trung du Vĩnh Phú, Kết quả nghiên cứu KHKT chăn nuôi, Viện Chăn nuôi Quốc gia, NXB Nông nghiệp, Hà Nội, trang 125. 25. Lƣu Xuân Thủy (2000), Điều tra khả năng sinh trưởng và sinh sản của bò Lai Sind tại huyện Lập Thạch tỉnh Vĩnh Phúc, Luận văn thạc sỹ KHNN. 26. Phạm Sỹ Tiệp (1999), Nghiên cứu giá trị dinh dưỡng một số giống sắn ở trung du và miền núi phía bắc, ảnh hưởng của phương pháp chế biến đến thành phần hoá học của củ, lá và khả năng sử dụng bột sắn để vỗ béo lợn F1 (ĐB x MC), tóm tắt luận án tiến sĩ nông nghiệp, Hà Nội. 27. Nguyễn Văn Thƣởng, Trần Doãn Hối, Trần Trọng Thêm, Lê Trọng Lạp và CS (1985), Kết quả nghiên cứu cải tạo giống bò nội theo hướng khai thác sữa. Tuyển tập các công trình nghiên cứu chăn nuôi (1969 - 1984), NXB Nông nghiệp, Hà Nội. 28. Nguyễn Văn Thƣởng, Trần Doãn Hối, Vũ Văn Nội và CS (1985), Kết quả nghiên cứu dùng bò đực Zebu giống Red Sindhi lai cải tạo đàn bò vàng Việt Nam, Tuyển tập các công trình nghiên cứu chăn nuôi (1969 - 1984), NXB Nông nghiệp, Hà Nội, trang 78. 29.Viện chăn nuôi Quốc Gia (2001), Thành phần và giá trị dinh dưỡng thức ăn gia súc, gia cầm Việt Nam, NXB Nông nghiệp, Hà Nội. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 88 II. TÀI LIỆU NƢỚC NGOÀI 30. Abassa. K.P (1987), Analysis of growth parameters of Gobra Zebu females in Senega,. 31. Abassa. K.P; Wilcox. C; Johnson. T.A (1989), Genetic aspects of growth in Gobra Zebu cattle. 32. Burrow. H.M; seifer. G.W; Hetzel. D.T.S (1991), Consequences of selection for weaning weight in Zebu, Bostaurus and Zebu x Bostaurus cattle in the tropics. 33.Bui Van Chinh, Le Viet Ly, Nguyen Huu Tao, Nguyen Van Hai and Tran Bich Ngoc (2000), Study on processing, storing and using sugar cane leaves as Ruminant feed, Proceeding of National seminar- Workshop on sustainable livestock production on local feed resources, Ho Chi Minh city, Viet Nam, Jan 18-20, trang 146-151. 34. Dashdamirov. K.SH (1991), Carass quality of Zebu. Crossbreed. 35. Dalatte. J.T; Ougan. H; Theander .S..S (1986), Effects of age, sex and breed an the finishing performance of Zebu fed on rice by products in North Cameroon. 36. Ewald Sasimonski (1987), Animal breeding and production on outline. 37. Ertuer. N.M; Koltosova. I.Yu (1984), Age changes in Crossbreed (Holstein – Friesian x Black Pied) and Black Pied calves. 38. Johnson (1958 – 1961), World animal science. 49. Johnson. H.D and Roman Ponce. H (1994), World animal science. 40. Kentamies. H (1983), Genetical and environmental factors affecting slaughter traits in beef production experiments in field. 41. Duong thanh liem, Ngo Van Man, Nguyen phuc Loc, Nguyen Van Hao and Bui Xuan An (1997), Cassava leafmeal in the animal feeding, Viet Nam Cassava workshop, institute of sientific agriculture of south. 42. Michigal. USA; Sorensen. T.M (1984), Photo periodic effection growth and feed consumption of young bulls. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 89 43. Mendel (1971), Johnson H.D and Roman Ponce (1984), World animal science. 44. Montano. M; Matinez. G; reynoso. O (1990), Comparision of BosTaurus and India – Brazil breeds in topcrossing with Zebu cows for growth characteristies. 45. Mwandotto. B.A.J; Carles. H.B; Cartwraight. T.C (1998), Weaning and 18 month weight of Boran, east African shorthorw Zebu and Sahiwal breeds or crosses in Kenya. 46. Newman. S; Deland. M; Wirthensohn. M (1988), Lifetime productivity of F1 cows from seven beef breeds progeny growth. 47. Poivery. J.P; Menissien. F (1988), Growth variability among calves and young cattle from sedentary herd in the Northern Irbry coast. 48. Poungchompa. O; Wanapat. M; Wachirapakoru. C and Notaso. N (2000), Effect of Ruminal infusion of starch urea (cassadro) solution in swamp buffalo fed on urea treated rice straw, Animal science congress of the Asian-Australasian association of animal production, july 2-7, Sydney Australia, P 11-13. 49. Planas. T (1983), Performance of Zebu herd in Cuba. Perweaning and postweaning growth. 50. Ravindran. V (1992), Preparation of cassava leaf products and their use as animal feed, in “Roots, Tubers, platains and Bananas in animal feeding” (Editors: A.W Speedy and P.L Pugliese )FAO animal production and health publication 95, Rome, P 111-126. 51. Saint Martin. G; Messine. O, Mbal. D.A; Planchenault. D (1991), Crossing Adamawa cows in the Cameroon with Bos taurus improver bulls preweaning growth. 52. Shimada. K; Izarike. Y (1989), Effects of breed calf age, sex, parity and toriseason on behaviour. 53. Sung. Y.Y. Wang. K.C (1988), High grate beef production from exotic and crossbred cattle in Taiwan. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 90 PhÇn phô lôc Mét sè h×nh ¶nh minh ho¹ cña ®Ò tµi ¶nh 1: Quy m« ®µn bß trong n«ng hé cña huyÖn Chî §ån ¶nh 2: Cá Voi trång t¹i huyÖn Chî §ån Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 91 ¶nh 3: Bß ®ùc gièng 7/8 m¸u Sind phèi gièng cho bß c¸i ®Þa ph•¬ng ¶nh 4: Bª Lai Sind sinh ra t¹i huyÖn Chî §ån Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 92 ¶nh 5: §o c¸c chiÒu cña bß ¶nh 6: KiÓm tra khèi l•îng bª thÝ nghiÖm b»ng ph•¬ng ph¸p c©n ¶nh 7: Kh¶o s¸t l•îng thøc ¨n hµng ngµy cña bª thÝ nghiÖm Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 93 ¶nh 8: H•íng dÉn sinh viªn thùc tËp vµ n«ng d©n c¸ch bæ sung thøc ¨n tinh cho bª thÝ nghiÖm ¶nh 9: Bª thÝ nghiÖm ®ang ¨n thøc ¨n tinh bæ sung ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfLA9396.pdf
Tài liệu liên quan