Đánh giá tình hình triển khai thực hiện thuế giá trị gia tăng ở Việt Nam

Phần I: lời mở đầu Thuế là nguồn thu ổn định của Nhà nước, là công cụ phân phối thu nhập quốc dân, thực hiện điều tiết vĩ mô nền kinh tế và là công cụ bảo vệ kinh tế trong nước, cạnh tranh với nước ngoài. Từ năm 1999 trở về trước, chúng ta đã sử dụng thành công cơ chế thuế cũ, tuy nhiên trong tình hình mới , do xu hướng toàn cầu hoá chung của thế giới, cơ chế thuế hiện hành ở Việt Nam đã lộ rõ một số mặt bất cập, dẫn đến khó khăn về quản lý, điều hành thuế và thất thu Ngân sách quốc gia. Vì v

doc24 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1252 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Đánh giá tình hình triển khai thực hiện thuế giá trị gia tăng ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ậy việc áp dụng một số luật thuế mới trong giai đoạn này là hết sức cần thiết. Trong đó thuế giá trị gia tăng (GTGT) đã có những đóng góp quan trọng cho tiến trình cải cách chính sách thuế của Nhà nước. Trên thế giới, thuế GTGT (hay còn gọi là VAT) đã có lịch sử lâu đời (bắt đầu xuất hiện năm 1917) và qua quá trình kiểm nghiệm ở nhiều nước trên thế giới, nó đã thể hiện được tính ưu việt của mình so với các loại thuế tương đương. Mặc dù vậy một số nước cũng đã áp dụng không thành công thuế GTGT do chưa chuẩn bị kỹ cơ sở hạ tầng cho một có chế thuế mới cũng như do chưa nắm bắt rõ bản chất loại thuế này. Chính vì vậy mục đích của Tiểu luận Luật này là tìm hiểu bản chất của thuế GTGT, đánh giá tình hình thực hiện ở Việt Nam trong những năm vừa qua và đề xuất những biện pháp xử lý thuế trong thời gian tới nhằm hoàn thiện hơn nữa hệ thống thuế ở Việt Nam. Phần II. Những vấn đề chung về thuế giá trị gia tăng I/ Thuế giá trị gia tăng (GTGT). 1./ Khái niệm. Thuế GTGT là thuế tính trên khoản giá trị tăng thêm của hàng hoá, dịch vụ phát sinh trong quá trình từ sản xuất, lưu thông đến tiêu dùng. 2/ Tại sao lại chọn thuế GTGT. Thuế GTGT ra đời là một chu cầu tất yếu đối với nền kinh tế khi cơ cấu thuế cũ không còn đáp ứng được nhu cầu trong tình hình mới. Nói chung các yêu cầu đó có thế chia thành bốn dạng sau: Thứ nhất: Thuế doanh thu hiện hành không đáp ứng được yêu cầu thu và quản lý, có nhiều bất hợp lý (như trùng lặp, quá phức tạp gây tâm lý nặng nề, hiệu quả không cao). Thứ hai: Do quá trình toàn cầu hoá đang diễn ra mạnh mẽ trên thế giới, yêu cầu mở rộng lưu thông hàng hoá giữa các nước đòi hỏi bãi bỏ, giảm thuế ở cửa khẩu đối với xuất nhập khẩu hàng hoá là rất quan trọng, nó giúp kích thích các nghành sản xuất dịch vụ trong nước, khuyến khích xuất khẩu những tiềm lực quốc gia và góp phần thúc đẩy những mặt hàng thiết yếu. Trong xu thế hiện nay, không thể tồn tại nền kinh tế đóng, hoặc gần như đóng do những rào cản thuế quan bất hợp lý. Thuế GTGT ra đời đã phần nào đáp ứng được những yêu cầu trên. Thứ ba: Tạo nguồn thu cho Ngân sách Nhà nước và có điều kiện thu hẹp các loại thuế khác. Đa số các cơ chế thuế hiện hành của các nước khi chưa áp dụng thuế GTGT đều cồng kềnh, phức tạp và có nhiều sự chồng chéo, điều đó gây khó khăn cho việc quản lý thuế của Nhà nước (như tính thuế, thu thuế, giải quyết các trường hợp quá hạn thuế, miễn thuế..) cũng như việc kinh doanh của người dân. Tình trạng này dễ dàng gây ra tâm lý ngại thuế, tránh thuế làm thất thu cho Ngân sách một khoản không nhỏ. Để giải quyết các vấn đề trên cần phải có một cơ chế thuế mới phù hợp và rõ ràng đối với tất cả mọi người, và thuế GTGT là một giải pháp. Thứ tư: Sự phát triển của kinh tế đòi hỏi sửa đổi hệ thống thuế cho phù hợp. Chúng ta đã biết rằng mỗi một thời kỳ phát triển kinh tế cần phải có một hệ thống chính sách quản lý cho phù hợp, không có một cơ chế nào dúng cho mọi lúc mọi nơi. Vấn đề quản lý thuế cũng không nằm ngoài quy luật ấy. Như vậy thuế GTGT ra đời trước hết để đáp ứng tình hình mới, sau một thời gian được áp dụng và kiểm nghiệm, thuế GTGT được đại đa số các nước trên thế giới thừa nhận về những ưu điểm nổi bật của nó ở các mặt sau: Khắc phục được một số mặt hạn chế của thuế doanh thu hiện hành. Có khả năng mang lại nguồn thu lớn cho Ngân sách Nhà nước. Kinh nghiệm của các nước: Indonexia, Newzeland, Bồ Đào Nha và Tuinidi đã chứng minh rõ điều này. Đại đa số các nước áp dụng thuế GTGT, khoản thu từ số thuế này thường đảm bảo từ 12% đến 30% tổng số thu của Ngân sách Nhà nước (tương đương khoảng 5% đến 10% tổng sản phẩm quốc dân). Tính trung lập: Với điều kiện số lượng đối tượng được miễn hạn chế và sự vận dụng thuế suất 0% chỉ hạn chế đối với hoạt động xuất khẩu, GTGT là một thứ thuế trung lập và không dẫn đến bất kỳ một sự méo mó nào. Điều này thể hiện tính ưu việt của thuế GTGT so với các loại thuế được nó thay thế. Tính đơn giản: Tính đơn giản của thuế GTGT bắt nguồn từ cơ chế đánh thuế và khấu trừ thuế của nó. Đối tượng nộp thuế GTGT sẽ thu số GTGT khi bán hàng và khấu trừ số thuế GTGT đã nộp khi mua vật tư, hàng hoá đầu vào, số chênh lệch còn lại nộp vào Ngân sách Nhà nước. (Việc tính thuế căn cứ vào các hoá đơn bán hàng và mua hàng). II. Nội dung chủ yếu của thuế GTGT. 1./ Xác định phạm vi áp dụng. Về đối tượng chịu thuế: GTGT là loại thuế đánh vào sử dụng, có nghĩa là đánh vào người tiêu dùng, người nộp thuế là người kinh doanh, người chịu thuế là người tiêu dùng trực tiếp và gián tiếp nộp thuế thông qua người kinh doanh. Đối tượng nộp thuế: Tất cả các thể nhân và các pháp nhân có cung cấp hoặc nhập khẩu hàng hoá và dịch vụ trong phạm vi lãnh thổ quốc gia. 2./ Các hình thức tính thuế GTGT. ở các nước đã thực hiện GTGT hiện nay áp dụng một trong hai phương pháp khấu trừ theo hoá đơn và phương pháp tính chênh lệch theo báo cáo kế toán. a./ Phương pháp khấu trừ theo hoá đơn: Đây là phương pháp được hầu hết các nước áp dụng do: Tính thuế dựa vào hoá đơn đảm bảo xác định thuế có cơ sở để kiểm tra thuế. Có thể áp dụng chính sách thuế với nhiều thuế suất (nếu thu thuế theo chênh lệch chỉ có thể áp dụng một thuế suất). Có thể tính GTGT thu thuế theo thời gian ấn định một tháng, hai tháng hay một quí. b./ Phương pháp thu GTGT trên chênh lệch theo báo cáo kế toán: Phương pháp này xác định thuế phải dựa trên số liệu báo cáo kế toán của đơn vị áp dụng phương pháp này sẽ có những vấn đề sau: Thứ nhất: Các xí nghiệp coi GTGT chỉ là thuế bổ xung đánh vào lợi nhuận, còn các nhân viên của họ thì coi đó là lại thêm một thứ thuế nữa đánh vào quĩ tiền lương. Thứ hai: Báo cáo chỉ kêt thúc một lần trong năm, vậy là tất cả các khoản thanh toán GTGT phải dựa vào kết toán năm. Thứ ba: Khó kiểm tra thuế phải nộp từng kỳ so với phương pháp sử dụng hoá đơn và không có cơ sở để tiến hành các cuộc kiểm tra chéo thuế giữa đơn vị mua và bán. 3./ Quản lý GTGT. Đăng ký thuế: Các đối tượng nộp thuế phải thực hiện nghĩa vụ đầu tiên là đăng ký thuế tại cơ quan thuế địa phưong nơi đặt cơ quan điều hành thường trú của mình theo mẫu thống nhất do cơ quan thuế cung cấp. Một số nước sử dụng mã số đăng ký thuế cũ (thuế doanh thu) và thêm vào đuôi của dãy số đăng ký một số bổ xung để chỉ rõ là số đăng ký GTGT. Riêng Nhật Bản không sử dụng hệ thống mã hoá số đăng ký trong công tác quản lý GTGT. Nộp thuế: Đa số các nước áp dụng GTGT thực hiện nộp thuế theo cơ chế tự kê khai tính và nộp thuế theo mẫu in sẵn do cơ quan thực hiện cung cấp. Nộp tờ khai và thanh toán thuế theo định kỳ hàng tháng, quí (tuỳ theo chế độ nộp thuế qui định cho từng loại đối tượng). Việc thoái thuế: Phần lớn được giao cho cơ quan thu thuế, trong trường hợp số thuế được khấu trừ lớn (xuất khẩu hàng hoá hoặc mua sắm tài sản giá trị lớn, đối tượng kinh doanh có quyền kê khai đề nghị cơ quan thuế thoái trả số tiền đã trả khâu trước. Cơ quan thuế kiểm tra và thoái trả tiền thuế đã trả ngay một lần hoặc thoái trả dần trong một thời gian tuỳ theo qui định của từng nước và khả năng ngân sách mỗi nước. Theo cách này cơ quan thuế thường có một tài khoản thu GTGT và sử dụng nguồn thu để thoái thuế, khoản còn lại nộp vào Ngân sách Nhà nước. Việc khấu trừ thuế GTGT: Các nước áp dụng khấu trừ theo hoá đơn đầu vào và cho khấu trừ toàn bộ số phát sinh từng kỳ, khi tính thuế GTGT phải nộp. Hầu hết các nước cho áp dụng khấu trừ thuế đầu vào của tài sản cố định nhằm khuyến khích đầu tư, cũng có nước không cho áp dụng như Trung Quốc. Phần III: Sự cần thiết phải áp dụng thuế GTGT I./ những tồn tại của hệ thống thuế hiện hành. Trong quá trình thực hiện, hệ thống chính sách thuế hiện hành đã được sửa đổi, bổ xung nhiều lần đáp ứng yếu cầu của tình hình thực tế. Nhưng cho đến nay, nền kinh tế nước ta đã có những bước phát triển theo cơ chế thị trường, khu vực kinh tế Nhà nước được sắp xếp tổ chức lại, bước đầu hoạt động có hiệu quả; khu vực kinh tế ngoài quốc doanh phát triển đa dạng dưới nhiều hình thức, các xí nghiệp hoạt động theo Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam ngày càng tăng. Chính trong bối cảnh này, hệ thống chính sác thuế đã bộc lộ những khuyếm khuyết về các mặt: Chưa bao quát hết các nguồn thu đã, đang và sẽ phát sinh trong nền kinh tế thị trường như: lãi cổ phần, lãi tiền gửi, thu nhập từ chuyển nhượng cổ phần, thu nhập từ chuyển nhượng tài sản; chưa bao quát hết các hoạt động dich vụ. Trong mỗi loại thuế phải cùng một lúc vừa thực hiện mụctiêu bảo đảm nguồn thu cho Ngân sách Nhà nước và thực hiện mục tiêu nhiều chính sách khác, do đó, làm cho nội dung chính sách thuế phức tạp, gây khó khăn trong quá trình thực hiện cả đối với cán bộ thuế cũng như đối tượng nộp thuế. Về mặt kỹ thuật, hệ thống thuế hiện hành cũng như trong từng sắc thuế còn quá phức tạp, trùng lặp, nhất là thuế doanh thu, nên hiệu quả chưa cao, còn gây tâm lí chồng chéo nặng nề. Trong chính sách còn có những điểm chưa phù hợp với thông lệ quốc tế, do đó, có thêt trở thành những cản trở trong quá trình mở rộng quan hệ hợp tác kinh tế với các nước trong khu vực và trên thế giới (đặc biệt là chính sách thuế trong việc thu hút đầu tư nước ngoài cũng như trong nước. II./ Sự cần thiết phải áp dụng thuế GTGT ở Việt Nam. Hiện nay nền kinh tế Việt Nam đang trong quá trình chuyển sang cơ chế thị trường có sự điều tiết của Nhà nước. Hoạt động cà vận hành của thị trường chưa thật linh hoạt, nhiều doanh nghiệp có trình độ công nghệ, kỹ thuật cũng như trình độ quản lý thấp, năng suất lao động thấp, khả năng cạnh tranh kém, chưa thích nghi và điều chỉnh nhanh nhạy để phù hợp với chính sách kinh tế mới. Vì vậy việc áp dụng thuế GTGT trong giai đoạn này là hết sức cần thiết. Thuế GTGT có những ưu điểm nổi bật có thể khắc phục được phần nào khó khăn khi thực hiện luật thuế cũ: Thứ nhất: Thuế GTGT có thể khắc phục được nhược điểm của thuế doanh thu là không thu trùng lắp thuế nên có tác động tích cực đối với sản xuất dịch vụ. Đồng thời việc thực hiện thuế GTGT và thuế thu nhập doanh nghiệpcòn đòi hỏi các doanh nghiệp của tất cả các thành phần kinh tế phải tăng cường quản lý như: ghi chép ban đầu, mở sổ sách kế toán và mua, bán hàng hoá có hoá đơn chứng từ, đổi mới công nghệ, nâng cao chất lượng sản phẩm để đủ sức cạnh tranh trong tình hình mới. Về lưu thông hàng hoá, tuy trong bối cảnh nền kinh tế giảm phát kéo dài, nhưng vì thuế GTGT chỉ điều tiết trong phần giá trị tăng thêm của hàng hoá, dịch vụ nên sẽ thúc đẩy việc lưư thông hàng hoá thuận lợi. Thứ hai: Thuế GTGT sẽ khuến khích đầu tư trong nước, mở rộng quy mô sản xuất, kinh doanh, đổi mới công nghệ hiện đại. Thuế GTGT không đánh vào hoạt động đầu tư tài sản cố định, toàn bộ số thuế GTGT phải trả lại khi mua sắm tài sản cố định sẽ được Nhà nước cho khấu trừ hoặc hoàn lại cho doanh nghiệp. Đồng thởitong quá trình trực hiện, Chính phủ còn có những biện pháp khuyến khích thêm như đối với những công trình, hạng mục công trình đã hoàn thành bàn giao. Năm 1998 sang năm 1999 mới thanh toán thì được nộp thuế theo mức thuế như cũ. Từ 01/09/1999 đã giảm 50% mức thuế GTGT cho xây dựng, lắp đặt. Nhờ đó số vốn đầu tư sẽ tăng lên. Thứ ba: Thuế GTGT sẽ góp phần khuyến khích xuất khẩu, mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm hàng hoá, kích thích phát triển sản xuất kinh doanh hàng hoá xuất khẩu, giải quyết nhu cầu ngày càng tăng của xã hội. Luật thuế GTGT qui định hàng hoá xuất khẩu được hưởng thuế xuất 0% và được hoàn thuế GTGT đầu vào nên đã khuyến khích xuất khẩu và tạo điều kiện để hàng hoá Việt Nam có thể cạnh tranh về giá cả so với hàng hoá tương tự của các nước trên thị trường quốc tế. Thứ tư: Việc thực hiện thuế GTGT đối với hàng hoá nhập khẩu sẽ góp phần bảo hộ hàng hoá sản xuất trong nước. Kết hợp với cơ chế điều hành xuất nhập khẩu hàng hoá năm 1999, thuế GTGT sẽ góp phần hạn chế tiêu dùng, nhất là hàng tiêu dùng cao cấp từ nước ngoài, thực hiện tiết kiệm cho sản xuất. Đối với vật tư, nguyên vật liệu nhập khẩu vẫn thực hiện thu thuế GTGT khi hàng nhập về, nhưng đã có xem xét điều chỉnh giảm thuế nhập khẩu để ổn định sản xuất trong nước. Thư năm: Thuế GTGT còn góp phần cơ cấu lại nền kinh tế từ sản xuất thay thế nhập khẩu chuyển mạnh sang sản xuất hướng xuất khẩu. Thuế GTGT sẽ khuyến khích việc sản xuất, xuất khẩu những mặt hàng nước ta có thế mạnh như nông sản, lâm sản, thuỷ sản... bằng các qui định cụ thể như không thu thuế GTGT đối với hàng do người sản xuất bán ra, cho khấu trừ thuế GTGT đầu vào đối với các cơ sở chế biến, thương mại mua các mặt hàng, hoàn thuế đầu vào cho các cơ sở xuất khẩu các mặt hàng này nếu có hoá đơn GTGT đầu vào... Thứ sáu: Thuế GTGT không làm tăng giá cả hàng hoá. Bản chất thuế GTGT không làm tăng giá vì nó thay thế thuế doanh thu đã được kết cấu vào trong giá. Điều này cũng đòi hỏi các Bộ, Nghành địa phương phải có biện pháp quản lý hướng dẫn kịp thời và đúng đắn việc thực hiện thuế GTGT. Tránh tình trạng một số doanh nghiệp hay hộ kinh doanh chưa hiểu rõ, có thể sẽ cộng thêm thuế vào giá cũ để bán làm giá cả hàng hoá tăng thêm. III. Đánh giá tình hình triển khai thực hiện thuế GTGT ở Việt Nam. Thực hiện chương trình cải cách thuế bước II, Quốc hội đã thông qua hai luật thuế mới: Luật thuế Giá trị gia tăng (thuế gián thu), Luật thuế thu nhập (thuế trực thu) và sửa đổi bổ xung Luật thuế tiêu thụ đặc biệt: Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu. Đồng thời sửa đổi, bổ xung các luật thuế có liên quan như: Luật Nhân sách, Luật khuyến khích đầu tư trong nước...để thực hiện đồng bộ các luật thuế mới. Với nhận thức rằng việc triển khai thực hiện các Luật thuế mới được thi hành từ 01/01/1999, có tác động nhiều mặt đến tình hình kinh tế xã hội, nên thời gian đầu không tránh khỏi những khó khăn và lại càng khó khăn hơn khi kinh tế nước ta đang bị ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ trong khu vực, thiên tai lại liên tiếp sảy ra. Ba yêu cầu phải đạt được khi thực hiện triển khai các luật thuế mới: Bảo đảm công bằng về quyền lợi và nghĩa vụ của các doanh nghiệp, các hộ kinh doanh trong nền kinh tế, giúp các doanh nghiệp ổn định được hoạt động sản xuất, kinh doanh, tăng cường hạch toán kinh tế, nâng cao năng lực quản lý, nâng cao cao khả năng cạnh tranh trong nước, trên thị trường quốc tế. Bảo đảm không ảnh hưởng lơn đến kế hoạch thu của Ngân sách Trung ương trong những năm đầu thực hiẹen. Tạo điều kiện để Ngân sách địa phương ổn định nguồn thu, nâng dần tỷ lệ các địa phương cân đối Ngân sách và có đóng góp cho Ngân sách Trung ương. Bảo đảm ổn định thị trường trong nước, tránh gây ra những biến động mạnh về giá cả, đặc biệt là giá vật tư, hàng hoá quan trọng dùng cho sản xuất và tiêu dùng thiết yếu để ổn định sản xuất và không ảnh hưởng đến đời sống nhân dân. Nghị quyết số 18/1998/QH10 ngày 25/11/1988: "Chính phủ cần tập chung chỉ đạo thực hiện các luật thuế mới, nhất là luật thuế GTGT. Để chủ động giải quyết kịp thời những khó khăn cho các doanh nghiệp khi thực hiện Luật thuế GTGT nhằm ổn đinhj và phát triển sản xuất, kinh doanh. Quốc hội cho phép Chính phủ trong thời gian đầu thực hiện được áp dụng quy định tại Điều 28 Luật thuế GTGT để giảm thuế đối với hoạt động thương mại, dịch vụ du lịch, ăn uống, và không khống chế mức giảm tối đa 50% số thuế GTGT phải nộp. Sau một thời gian thực hiện, Chính phủ trình UBTVQH sửa đổi bổ sung các mức thuế suấttheo qui định tại Điều 8 của Luật thuế GTGT và báo cáo Quốc hội trong kỳ họp gần nhất. IV/ những yếu tố thúc đẩy việc triển khai thực hiện thuế GTGT đạt được những kết quả trên. Chính phủ, Ban chi đạo triển khai các luật thuế mới của Chính phủ, các Bộ, các Ngành, các địa phương đã bám sát sự chỉ đạo của Trung ương Đảng, của Bộ chính trị, Quốc hội, của UBTVQH để tổ chức triển khai thực hiện các luật thuế mới. Trong quá trình triển khai Ban chỉ đạo của Chính phủ, các Bộ, các địa phương đã bám sát cơ sở sản xuất kinh doanh, phát hiện những khó khăn vướng mắc trong quá trình thực hiện các luật thuế mới, nghiên cứu, đề xuất những giải phấp nhằm tháo gỡ khó khăn cho các doanh nghiệp như: bổ xung vào danh mục hàng hoá, dịch vụ không thuộc diện chịu thuế GTGT: máy bay, giàn khoan, tàu biển, thuê phim nhựa, phim video, sách báo, tạp chí nhập khẩu... Điều chỉnh giảm mức thuế suất cho 18 nhóm hàng hoá, dịch vụ ... Mở rộng việc khấu trừ đầu vào đối với phế liệu, đá, cát sỏi mua của người tự khai thác, hàng chịu thuế TTĐb mua của cơ sở sản xuất và các hàng hoá khac nếu có hoá đơn bán hàng, giảm thuế nhập khẩu cho các mặt hàng là nguyên liệu nhập khẩu phục vụ sản xuất trong nước. Xử lý thuế đối với công trình xây dựng cơ bản hoàn thành năm 1999... Các ban chỉ đạo đã quản lý tốt thị trường, giá cả, đặc biệt là trong thời gian đầu áp dụng các luật thuế mới. Một số Ban chỉ đạo các Bộ, địa phwong hoạt động tương đối tốt như: Ban chỉ đạo thuộc Bộ công nghiệp, Bộ xây dựng, Bộ thương mại, Ban vật giá Chính phủ, Bộ nông nghiệp và phát triển nông thôn, Ban chỉ đạo thành phố Hồ Chí Minh, Hà Tĩnh, Nghệ An, Quảng Bình, Hải Dương, Hải Phòng, Thừa Thiên Huế, Đà Nẵng, Đồng Nai, Cần Thơ. Công tác tuyên truyền, phổ biến luật về thuế, tập huấn nghiệp vụ có nhiều tiến bộ hơn so với các đợt triển khai các luật thuế trước đây. Ban Tư tưởng văn hoá Trung ương và các địa phương đã phối hợp chỉ đạo tốt công tác tuyên truyền, các đài báo Trung ương và địa phương đã phối hợp khá chặt chẽ với cơ quan thuế, để đẩy mạnh tuyên truyền giải thích các luật thuế mơi, phản ánh kịp thời những gương điển hình thực hiện tốt các luật thuế mới cũng như những khó khăn vướng mắc trong việc thực hiện các luật thuế mới. Các cơ sở kinh doanh và mọi tầp lớp nhân dân đều hưởng ứng và đồng tình thực hiện các luật thuế mới do nhận thức được các luật thuế mới tiến bộ hơn và có nhiều ưu điểm hơn các luật thuế cũ. Có quyết tâm cao trong thực hiện luật thuế mới. Đồng thời phản ánh kịp thời những nhược điểm và vướng mắc để Chính phủ kịp thời điều chỉnh, chỉ đạo thực hiện. Sự phấn đấu nỗ lực của ngành Thuế quan và ngành Hải Quan từ việc chuẩn bị triển khai đến việc tổ chức thực hiện các luật thuế mới, cụ thê: Đã triển khai việc cấp mã số cho 1.105.560 đơn vị doanh nghiệp có vố đầu tư nước ngoài là 2.461 đơn vị. Công ty trách nhiệm hữu hạn, Công ty cổ phần, doanh nghiệp tư nhân là 36,680 đơn vị. Hợp tác xã. 15.970 đơn vị. Hộ cá thể là 1.024.456 hộ. Qua việc cấp mã số đã nắm chắc được số lượng đối tượng nộp thuế. In và cung cấp đủ hoá đơn, chứng từ cho các doanh nghiệp. Đến ngày31/12/1999 số lượng hoá hơn đã phát hành là 1.456.300 quyển (tương ứng với 73.065.000 số hoá đơn). Trong đó, có 1.061.300 quyển hoá đơn GTGT và 404.000 quyển hoá đơn bán hàng thông thường. Ngoài ra còn có cho phép gần 1.000 Tổng công ty, công ty tự in hoá đơn để sử dụng riêng. Đã cải tiến qui trình kê khai nộp thuế theo hướng nâng cao trách nhiệm của doanh nghiệp trong việc tự tính thuế, tự kê khai thuế và nộp thuế theo thông báo thuế. Thực tế cho thấy, các doanh nghiệp thực hiện chế độ tự kê khai và tính nộp thuế tương đối đầy đủ, đúng hạn. Đến nay, chỉ còn khoảng 2 đến 3% số đối tượng nộp thuế theo phương pháp kê khai là chưa nộp tờ khai, cơ quan thuế phải ấn định số thuế phải nộp hàng tháng. Đã sắp xếp lại tổ chức bộ máy quản lý thuế ở Cục thuế, Cục Hải Quan, Chi cục thuế, để đáp ứng được yêu cầu của quản lý thu theo các luật thuế mới. Đã từng bước trang bị máy tính để hiện đại hoá công tác quản lý thuế. Đến nay, cơ bản đã trang bị xong số lượng máy tính cần thiết cho công tác quản lý thuế ở các cục thuế. V./ Một số vướng mắc chính trong quá trình thực hiện. Vào thời điểm giao thời của sự thay đổi luật thuế: Sự vận động của nền kinh tế thị trường tất yếu đòi hỏi sự cận động của hệ thống chính sách thuế đẻe đảm bảo sự phù hợp của hệ thống thuế và lấp đi những kẽ hở để đối tượng nộp thuế lợi dụng, tuy nhiên chính thời điểm thay đổi của một chính sách thuế đôi khi tạo ra những kẽ hở mới cho cacs đối tượng nộp thuế lách qua. Vào thời điểm gần đây, khi luật thuế GTGT ra đời với thuế suất đầu ra tương đối cao thay vì cho hàng loạt các hoạt động có thuế suất thấp (1% đến 2%..) tại thời điểm 1/1/1999. Chính vì lý do này, hàng loạt các công trình xây dựng cơ bản, các công ty sản xuất kinh doanh ... đều cố gáng bằng cách này hay cách khác tăng khối lượng công trình hoàn thành bàn giao, tăng cường xác nhận các hợp đồng mua bán hoặc xuất hoá đơn bán hàng để có thể tránh được thuế GTGT với một mưcs thuế xuất đầu ra cao hơn rất nhiều. Những biểu hiện đó, ngoài việc làm ảnha hưởng lớn đến số thu của Nhà nước, còn làm giảm tính pháp lý, tínhcông bằng của hệ thống thuế. Sự thay đổi của hệ thống luật thuế là tất yếu đối với một nước có nền kinh tê đang phát triển và thường xuyên biến động. Tuy nhiên trên cơ sở biểu hiện này để có thể nghiên cứu, xây dựng một hệ thống chính sách sao cho những tác động xấu của chúng là nhỏ nhất đối với nền kinh tế. Đồng thời với việc ban hành một sự thay đổi của luật thuế, Bộ tài chính, Tổng cục thuế phải nghiên cứu cà đưa ra các phương án cụ thể để hạn chế tối đa việc lợi dụng sự thay đôỉ này. Ví dụ tại thời điểm 1/1/1999, khi luật thuế GTGT bắt đầu có hiệu lực, Bộ tài chính có thể qui định tất cả các doanh nghiệp tổng kiểm tra kê kho vật liệu, kho thành phẩm có sự giám sát của cơ quan tài chính, tổng kiểm kê toàn bộ hoá đơn chứng từ do Bộ tài chính ban hành tại thời điểm 1/1/1999, tất cả các việc đó phải tiến hành đồng bộ, hàng loạt và tức thời. Khi đó sẽ hạn chế được một phần lớn thất tháo trong quá trình này. Thuế suất thuế GTGT khá cao. Theo nhận định của nhiều chuyên gia kinh tế, thuế suất thuế GTGT 10% tính cho các mặt hàng thông thường cho tiêu dùng là khá cao, làm giảm sức mua, tiêu thụ sản phẩm hàng hoá gặp nhiều khó khăn. Một minh chứng cho thấy thuế suất thuế GTGT cao, đó là có trên 100 mặt hàng có thuế suất thuế GTGT cao hơn thuế suất thuế doanh thu và Nhà nước đã nhiều lần phải điều chỉnh giảm thuế. Mặc dù theo lý luận thuế GTGT do người tiêu dùng trả, không gây ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp, nhưng nếu thuế suất cao, giá thanh toán của hàng hoá, dịch vụ sẽ cao, người tiêu dùng khó chấp nhận, tiêu thụ sẽ gặp khó khăn, các doanh nghiệp muốn bán được hàng buộc phải hạ giá bán và bị thua lỗ. Để tránh bị thua lỗ, các doanh nghiệp phải thu hẹp sản xuất. Thuế GTGT làm đảo lộn mức thuế phải nộp. Thuế GTGT được thiết kế với mức thu tương đương thuế doanh thu với mụ tiêu ổn định quan hệ phân phôí giữa Nhà nước với nền kinh tế xét trên tổng thể, nhưng thực tế có làm đảo lộn mức thuế phải nộp của các ngành khác nhau. Có ngành thuế phải nộp tăng gấp bội so với thuế doanh thu, có ngành lại thấp hơn nhiều. Tương quan phân phối giữa các ngành bị đảo lộn vướng mắc phát sinh không chỉ liên quan đến lỗ lãi mà còn liên quan đến vấn đề mới. Thuế GTGT gây nhiều khó khăn cho doanh nghiệp về vốn. Qui định phải nộp thuế GTGT đối với những mặt hàng nhập kho nhưng chưa bán làm cho một số doanh nghiệp khó khăn trong vấn đề vốn. Đặc biệt với những doanh nghiệp với số vốn ít thì qui định này làm cho họ thật sự điêu đứng. Nhiều doanh nghiệp hoạt động chủ yếu bằng vốn vay này khi áp dụng luật thuế GTGT phải vay thêm vốn để nộp cho phần thuế đầu vào, gánh nặng thiếu vốn đã nặng nay lại càng nặng thêm cho du sau này se được khấu trừ thuế hay hoàn thuế. Trường hợp các doanh nghiệp bán hàng đại lý khi chuyển hàng cho đai lý phải nộp ngay thuế GTGT, trong khi đó phải chỉ khi nào đại lý bán được hàng mới thu được thuế GTGT từ người mua. Như vậy vốn của doanh nghiệp bị chiếm dụng một cách bất hợp lý. Tốc độ hoàn thuế cho doanh nghiệp còn chậm. Quá trình thủ tục xin hoàn thuế khá rắc rối, mất nhiều thời gian và công sức của ác doanh nghiệp. Để được hoàn thuế, các doanh nghiệp phải nộp hồ sơ và toàn bộ hoá đơn, chứng từ lên cơ quan thuế rồi chờ nhân viên thuế xuống đơn vị kiểm tra, đối chiếu hoá đơn thực hiện băng phương pháp thủ công, kéo dài thời gian kiểm tra làm chậm việc hoàn thuế, bên cạnh đó còn nhiều hiện tượng tiêu cực khác cũng gây thêm khó khăn cho doanh nghiệp. Tình trạng gian lận thuế ngày càng trở nên nguy hiểm hơn. Hiện nay hoá đơn bất hợp pháp đa dạng và phong phú chưa từng có và trở thành hàng hoá được mua bán công khai. Vấn đề này đã làm đau đầu cơ quan thuế hơn bao giờ hết. Trước đây khi thực hiện thuế doanh thu sử dụng hoá đơn giả, chỉ có thể ăn gian thuế trên số hàng bán ra, còn bây giờ, với hoá đơn giả, Nhà nước không những không thu được đồng nào mà ngược lại còn phải chi thêm để hoàn thuế. Bên cạnh đó, việc sử dụng hoá đơn bất hợp pháp tạo ra sự cạnh tranh không lành mạnh giưa các doanh nghiệp. Doanh nghiệp nào không trốn thuế được sẽ mất dần sức cạnh tranh, những cơ sở trốn thuế sẽ có điều kiện hạ giá thành sản phẩm để cạnh tranh. Hậu quả là những doanh nghiệp làm ăn chân chính bị thua thiệt, sân chơi giữa các doanh nghiệp trở nên bất bình đẳng. Nếu tình trạng này không được ngăn chặn và xử lý kịp thời sẽ làm cho nguồn Ngân sách bị thâm hụt một khoản rất lớn và tác động tiêu cực đến nền kinh tế nước ta, làm giảm hiệu lực của luật thuế. Về việc khấu trừ thuế GTGT và xét giảm thuế GTGT. Cách tính thuế đầu vào được khấu trừ trong trường hợp kinh doanh hàng hoá chịu thuế GTGT còn nhiều phức tạp. Những qui định về khấu trừ khống và xét giảm thuế GTGT còn thiếu chặt chẽ, rườm rà, mang tính chắp vá. Về hai phương pháp tính thuế và hai loại hoá đơn. Thực tế nền kinh tế nước ta có khoảng 4 vạn doanh nghiệp có khá nhiều tổ chức hạch toán và gần 1,6 triệu hộ chủ yếu lá sản xuất kinh doanh nhỏ. Cho nên khi thực hiện thuế GTGT đã đáp ứng hai phương pháp tính thuế cà hai loại hoá đơn, áp dụng phương pháp khấu trừ và hoá đơn GTGT đối với các doanh nghiệp đủ điều kiện hạch toán kế toán và áp dụng phương pháp trực tiếp thêm GTGT cà sử dụng hoá đơn thông thường đối với các hộ kinh doanh nhỏ. Việc áp dụng đồng thời hai cách tính thuế GTGT và hai loại hoá đơn trong điều kiện nền kinh tế nước ta hiện nay là cần thiết, song trên thực tế lại nảy sinh những bất cập gây trở ngại cho các doanh nghiệp và các hộ kinh doanh. Các doanh nghiệp thực hiện theo phương pháp khấu trừ thuế không được khấu trừ đầu vào khi mua hàng hoá, dịch vụ của các đơn vị tính thuế theo phương pháp trực tiếp, gây mất công bằng trong các thành phần kinh tế, hoặc nảy ra tình trạng chống thuế. Ngoài ra, những bất cập trong kế toán thuế GTGT, trong chế độ hoá đơn, chứng từ đối với hàng hoá lưu thông trên thị trường... cũng gây nhiều khó khăn cho công tác thu của ngành thuế và cho các hộ kinh doanh nhỏ. Xử lý thuế GTGT đối với hàng nhập khẩu. Trong hơn 6 tháng đầu năm, thuế suất hàng nhập khẩu, nhất là đối với nguyên, nhiên, vật liệu quá cao. Việc áp mã thuế thiếu chính xác, thời gian nộp thuế quá ngắn. Vấn đề hoàn thuế còn chậm và phức tạp trong kiểm tra hoá đơn. Do vậy nhiều doanh nghiệp phải chịu thêm lãi suất ngân hàng từ số tiền vay nộp thuế trước nhưng chậm được trả lại. Song mặt khác, chính nhiều doanh nghiệp cũng chưa nghiêm túc kê khai và hoàn thành các thủ tục cần thiết, dẫn đến tình trạng châm trễ trong việc hoàn thuế. Vướng mắc về thủ tục. Trong Nghị quyết 90/1999_UBTVQH khoá IX qui định vật tư xây dựng loại trong nước chưa sản xuất được nhập khẩu để chế tạo tài sản cố định của doanh nghiệp không phải chịu thuế GTGT. Hoặc điều 4 luật thuế GTGT qui định không thu thuế GTGT đối với dây truyền thiết bị toàn bộ, đồng bộ. Đến nay vẫn chưa có hướng dẫn để thực hiện. Thí dụ: Phụ tùng, phụ kiện đi kèm, vật tư xây dựng cấu thành nên thiết bị có được hưởng tiêu chuẩn không thu thuế GTGT như máy móc, thiết bị, phương tiện vận tải hay không thì đến nay vẫn chưa làm rõ. Chưa nhất quán trong thực hiện nguyên tắc. Do phải xử lý những bất cập, chưa phù hợp với thực tê, để đảm bảo cho sản xuất kinh doanh bình thường, Chính phủ, Bộ tài chính đã phải giảm 50% thuế GTGT cho một số mặt hàng, mở rộng thêm một số đối tượng không chịu thuế GTGT... Tất cả những xử lý theo hướng "vướng đâu gỡ đấy" đã làm cho biểu thuế suất biến dạng di so với thiết kế ban đàu. Từ 3 mức thuế suất đến nay không còn là 3 mà đã trở thanh 4 đến 5 mức thuế suất. Trên thực tế gây nên sự bất hợp lý mới cho sự cạnh tranh bình đẳng của doanh nghiệp. Tạo ra hai sân chơi khác nhau trong nền kinh tế. Hiện nay thuế GTGT được tính theo hai phương pháp là phương pháp trực tiếp và phương pháp khấu trừ. Khi các đơn vị thực hiện theo phương pháp khấu trừ cung ứng hàng hoá, dịch vụ cho các đơn vị thực hiện theo phương pháp trực tiếp thi những đơn vị này không được khấu trừ, trong khi trong giá trị hàng hoá đã có phần thuế GTGT nên đã làm cho thuế đánh chồng chéo lên thuế. Ngược lại, khi các đơn vị thực hiện theo phương pháp trực tiếp có quan hệ giao dịch cung ứng dịch vụ, hàng hoá cho các đơn vị thực hiện thuế theo phương pháp khấu trừ thuế GTGT, thực chất đơn vị nhận phải trả phần thuế GTGT chìm trong giá bán mà đơn vị trực tiếp đã nộp. Từ cách thực hiện như trên ta thấy hiện đang tồn tại hai sân chơi khác nhau mà mỗi sân chơi chỉ chơi theo một hình, chính vì vậy đang hình thành hai xu hướng là một số đơn vị đang nộp thuế theo phương pháp khấu trừ chuyển sang nộp theo phương pháp trực tiếp và ngược lại, tuỳ thuộc vào chiến lược khách hàng của họ và dĩ nhiên là ngành thuế khó lòng giải quyết ngay đưọc. Hơn nữa, trong thực tế thu thuế tính thưo phương pháp trực tiếp rất khó chính xác, nên vẫn chủ yếu tính theo phương pháp khoán (đối với hộ nhỏ) như thuế doanh thu trước đay, chính điều này đã gây không ít lúng túng, khó khăn cho thưong nghiệp quốc doanh một khi họ phải cạnh tranh trực tiếp với các hộ buon ban tính thuế theo phương pháp trực tiếp. Quản lý sử dụng hoá đơn chứng từ còn chưa tốt. Tuy đại bộ phận doanh nghiệp đã chấp hoá đơnàh tốt chế độ hoá đơn, in và sử dụng hoá đơn giả, mua đi bán lại hoá đơn, viết không đúng doanh số trên hoá đơn để trốn thuế và chiếm đoạt tiền của Nhà nước trong khâu thoái thuế. VI. Các biện pháp xử lý vướng mắc và phương hướng sắp tới. Về phương pháp tính thuế GTGT. Các văn bản về thuế GTGT ở nước ta đưa ra hai phương pháp tính thuế là phương pháp khấu trừ thuế áp dụng đối với các doanh nghiệp được thành lập và hoạt động theo luật doanh nghiệp Nhà nước, luật đầu tư nước ngoài, luật công ty, luật hợp tác xã và những hộ kinh doanh lớn, chấp hành tốt chế độ kế toán, hoá đơn chứng từ. Phương pháp tính thuế trực tiếp trên thuế GTGT áp dụng chủ yếu đối với hộ kinh doanh._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docLVV511.doc
Tài liệu liên quan