Đánh giá tổ chức bộ máy kiểm toán nội bộ trong các Doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam

Mục lục Trang Lời nói đầu 2 Những lý luận chung về KTNB và thực trạng tổ chức KTNB trong các DNNN ở Việt Nam hiện nay 4 I- Những vấn đề lý luận chung về KTNB 4 1. KTNB và vai trò của KTNB trong các doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường 4 2. Vị trí, nhiệm vụ, quyền hạn và nội dung hoạt động của KTNB 5 3. Mô hình, nguyên tắc và nhiệm vụ tổ chức KTNB 7 II- Thực trạng của việc tổ chức KTNB trong các DNNN ở Việt Nam hiện nay 11 1. Sự cần thiết của KTNB trong các DNNN ở Việt Nam hi

doc29 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1542 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Đánh giá tổ chức bộ máy kiểm toán nội bộ trong các Doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ện nay 11 2. Đánh giá sự phát triển KTNB trong các DNNN ở Việt Nam hiện nay 13 3. Những khó khăn chính trong việc tổ chức bộ máy KTNB trong các DNNN ở Việt Nam hiện nay 15 III- Một số giải pháp trong việc giải quyết khó khăn trong việc hình thành KTNB trong các DNNN ở Việt Nam hiện nay 19 1. Hoàn thiện về mặt chính sách 19 2. Hỗ trợ về mặt đào tạo và các điều kiện khác để nâng cao và phát triển đội ngũ KTVNB 21 3. Về chính sách vật chất và phương tiện kỹ thuật 21 4. Về tổ chức bộ máy KTNB 22 IV- Một số kiến nghị rút ra từ thực tế 23 1. Mô hình tổ chức 23 2. Về cơ cấu bộ phận KTNB ở các tổng công ty, các doanh nghiệp có quy mô lớn 24 3. Hướng nghiên cứu mới 24 Kết luận 26 Tài liệu tham khảo 27 Lời nói đầu Theo thời gian, cùng với sự phát triển và tiến bộ của xã hội, cơ chế thị trường ra đời làm cho các hoạt động tài chính và sở hữu ngày càng trở nên đa dạng và phức tạp, chức năng kiểm tra kế toán không đáp ứng được nhu cầu của người sử dụng thông tin. Chính vì thế, kiểm toán ra đời như một đòi hỏi khách quan để đáp ứng nhu cầu đó. Càng ngày, kiểm toán càng trở nên có vai trò quan trọng và càng phát triển, khẳng định là một môn khoa học, một lĩnh vực nghiên cứu riêng. Cơ chế thị trường cạnh tranh gay gắt đòi hỏi các doanh nghiệp phải nỗ lực vươn lên từ chính bản thân mình, các nhà quản trị phải có những quyết định và phương pháp quản lý đúng đắn để đảm bảo cho việc kinh doanh có hiệu quả. Cũng từ đó, kiểm toán nội bộ (KTNB ) ra đời như một nhu cầu tất yếu, cần thiết để giúp cho các nhà quản trị có đầy đủ thông tin chính xác về tình hình hoạt động của doanh nghiệp mình, về các báo cáo tài chính được lập để làm cơ sở cho việc quản trị doanh nghiệp. ở Việt Nam hiện nay, KTNB có một vai trò hết sức to lớn trong đánh giá tính chính xác của các báo cáo tài chính, kiểm toán tuân thủ hoạt động trong doanh nghiệp, tạo niềm tin cho những người sử dụng thông tin và là cơ sở để ra các quyết định của nhà quản trị. Tuy nhiên, KTNB là lĩnh vực rất mới mẻ ở Việt Nam, việc tổ chức KTNB trong các DNNN có một ý nghĩa rất to lớn đối với việc nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp và nhất là trong quá trình cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước hiện nay. Do còn mới mẻ nên việc tổ chức bộ máy KTNB trong các DNNN ở Việt Nam hiện nay vẫn còn có nhiều vấn đề khó khăn. Đề tài với chủ đề: "Đánh giá tổ chức bộ máy KTNB trong các doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam " sẽ giúp ta nhìn nhận rõ hơn về thực trạng của việc tổ chức bộ máy KTNB trong các DNNN ở Việt Nam hiện nay cũng như đề cập tới một số kiến nghị và giải pháp để giải quyết những khó khăn đó. Đề tài được chia làm 2 phần: Phần I: những vấn đề lý luận chung về KTNB và thực trạng tổ chức KTNB trong các DNNN ở nước ta hiện nay. Phần II: một số kiến nghị và giải pháp tổ chức bộ máy KTNB trong các DNNN ở Việt Nam hiện nay. Em xin chân thành cảm ơn cô giáo - giảng viên: Bùi Minh Hải đã hướng dẫn tận tình và giúp đỡ em hoàn thành đề tài này. Em xin chân thành cảm ơn! Hà Nội, tháng 10 năm 2001. Sinh viên thực hiện: Phạm Thái Sơn Phần I Những vấn đề lý luận chung về kiểm toán nội bộ và thực trạng tổ chức kiểm toán nội bộ trong các DNNN ở nước ta hiện nay. I- Những vấn đề lý luận chung về KTNB. 1. KTNB và vai trò của KTNB trong các doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường. a) Kiểm toán nội bộ là gì? Lịch sử phát triển hoạt động kiểm toán ở các nước có nền kinh tế thị trường cho thấy KTNB là một nghề nghiệp mới mẻ. Tuy lúc đầu KTNB mang tính chất không chuyên, không tồn tại ở các doanh nghiệp hoặc được coi như một phần của kiểm toán độc lập, nhưng về sau nó đã trở thành một nghề có tính chuyên nghiệp. Một cách cơ bản có thể hiểu KTNB là một bộ phận được lập ra trong một đơn vị, thực hiện chức năng kiểm tra, giám sát để giúp các nhà quản lý cấp cao trong đơn vị đó gia tăng được quyền lực của mình nhằm quán xuyến đựoc các hoạt động đã và đang diễn ra trong đơn vị, bao gồm: những quy tắc đặt ra có được tuân thủ không? Tài sản có được toàn vẹn không? Cán bộ, CNV làm việc có hiệu quả không? Các quy định hiện hành có phù hợp khi điều kiện thay đổi? Đánh giá tính chính xác của các báo cáo tài chính...... Như vậy, KTNB hình thành và phát triển xuất phát từ nhu cầu quản lý của bản thân doanh nghiệp. KTNB thực hiện chức năng đánh giá một cách độc lập và khách quan cơ cấu kiểm soát nội bộ của doanh nghiệp. Phạm vi của KTNB bao gồm tất cả các mặt hoạt động của của doanh nghiệp và ở tất cả các cấp quản lý khác nhau. KTNB xem xét, đánh giá và báo cáo về thực trạng của hệ thống kiểm soát nội bộ, đưa ra những phân tích, kiến nghị, tư vấn mang tính chất chuyên nghiệp để lãnh đạo doanh nghiệp có cơ sở tin cậy trong việc quản lý thành công các hoạt động của doanh nghiệp. b) Vai trò và ý nghĩa của KTNB trong các doanh nghiệp. Mỗi doanh nghiệp có một hệ thống kiểm soát nội bộ là điều kiện cần thiết và lý tưởng để Ban Giám đốc và Hội đồng Quản trị chỉ đạo, quản lý kinh doanh một cách có hiệu quả, cũng như mang lại sự đảm bảo chắc chắn, tin cậy và hiệu quả cho các quyết định và chế độ quản lý. KTNB là một bộ phận cơ bản và quan trọng trong hệ thống kiểm soát nội bộ, vì thế KTNB có một ý nghĩa rất quan trọng và tồn tại như một nhu cầu cần có của doanh nghiệp. Trong nền kinh tế thị trường cạnh tranh ác liệt hiện nay, đối tác kinh doanh được mở rộng với sự cạnh tranh của các luật chơi trên thị trường. Trong điều kiện các báo cáo tài chính của doanh nghiệp chỉ có ý nghĩa công khai với các đối tượng bên ngoài khi có xác nhận của kiểm toán độc lập thì KTNB cũng ý nghĩa và cần thiết đối với người quản lý và điều hành doanh nghiệp, cũng như đối với tổ chức kiểm toán độc lập khi xem xét và kiểm toán báo cáo tài chính của doanh nghiệp. Xuất phát từ mục tiêu của KTNB là nhằm củng cố cơ cấu kiểm soát nội bộ, thúc đẩy việc sử dụng tiết kiệm và có hiệu quả các nguồn lực của doanh nghiệp, ta thấy việc tổ chức bộ máy KTNB trong các doanh nghiệp trong điều kiện thị trường hiện nay là hết sức cần thiết và có ý nghĩa to lớn trong công tác quản trị doanh nghiệp. 2. Vị trí, nhiệm vụ, quyền hạn và nội dung hoạt động của KTNB. Trước hết cần phải khẳng định rằng KTNB là nhu cầu tự thân của các doanh nghiệp, chính vì thế phạm vi của KTNB là rất linh hoạt và tùy thuộc vào quy mô, cơ cấu của doanh nghiệp cũng như nhu cầu quản lý đơn vị, do vậy KTNB trong các doanh nghiệp khác nhau là khác nhau và phù hợp với từng hoàn cảnh cụ thể của doanh nghiệp. a) Chức năng và vị trí của KTNB: KTNB hình thành do nhu cầu quản lý nên chức năng của nó cũng trải qua quá trình phát triển từ thấp tới cao cùng với khoa học quản lý kinh tế, trình độ và kinh nghiệm quản lý của các nhà lãnh đạo doanh nghiệp. Mặc dù theo kinh nghiệm của các nước có nền kinh tế thị trường phát triển, chức năng của KTNB hiện đại là đánh giá độc lập hệ thống kiểm soát nội bộ, nhưng chức năng truyền thống của KTNB là xem xét , đánh giá độ tin cậy, thống nhất của các thông tin tài chính, đánh giá việc sử dụng tiết kiệm, hữu hiệu vốn và tài sản của doanh nghiệp. Chính vì thế, việc quy định chức năng, nhiệm vụ cho KTNB cần phải xem xét phù hợp với điều kiện cụ thể của từng quốc gia, từng khu vực kinh tế, từng ngành và từng đơn vị. Về vị trí của KTNB: Trong sơ đồ quản lý doanh nghiệp, trách nhiệm và nhiệm vụ càng lớn thì vị trí càng cao. Do tính chất đặc thù của hoạt động kiểm toán, đảm bảo tính khách quan trong công việc, bộ phận KTNB cần được tổ chức độc lập với các bộ phận quản lý và điều hành kinh doanh trong doanh nghiệp và chịu sự chỉ đạo trực tiếp của ( Tổng ) Giám đốc hoặc HĐQT của doanh nghiệp. b) Nhiệm vụ của KTNB: Về cơ bản, nhiệm vụ của KTNB bao gồm các nhiệm vụ sau: - Kiểm tra tính hợp pháp, hợp lệ của các chứng từ, tài liệu, số liệu kế toán, việc chấp hành chế độ, thể lệ kế toán tài chính của nhà nước. - Kiểm tra và xác nhận mức độ trung thực, hợp lý của các báo cáo quyết toán do kế toán và các bộ phận khác trong doanh nghiệp lập ra. - Kiểm tra xác nhận giá trị vốn góp của doanh nghiệp và các đối tác tham gia liên doanh với doanh nghiệp. Kiểm tra xác nhận tính trung thực, hợp lý, đầy đủ của số liệu kế toán và báo cáo quyết toán của đơn vị liên doanh. - Kiểm tra tính hiệu quả và tính pháp lý của hệ thống kiểm soát nội bộ trong đó có hệ thống kế toán. Giám sát sự hoạt động và tham gia hoàn thiện chúng. - Kiểm tra tính hiệu quả và tính pháp lý của quy chế kiểm soát nội bộ, đồng thời có kiến nghị hoàn thiện các quy chế này. - Thông qua việc thực hiện các nhiệm vụ trên KTNB có trách nhiệm hướng dẫn nghiệp vụ cho cán bộ kế toán và các cán bộ nghiệp vụ khác có liên quan, đề xuất các quyết định quản lý, xử lý về tài chính và các nội dung xử lý khác. c) Quyền hạn của KTNB: Do đặc trưng của KTNB là thực hiện các nhiệm vụ chủ yếu nêu trên, cho nên KTNB có những quyền hạn riêng để đảm bảo mục đích hoạt động. KTNB có quyền: - KTNB độc lập với các bộ phận khác trong doanh nghiệp, độc lập về chuyên môn nghiệp vụ trong phạm vi khuôn khổ pháp luật và các chuẩn mực, phương pháp nghiệp vụ chuyên môn. - Có quyền yêu cầu các bộ phận và các cá nhân có liên quan cung cấp đầy đủ, kịp thời các tài liệu về kế toán, tài chính và các tài liệu khác có liên quan tới nội dung được kiểm toán. - Có quyền đối chiếu xác minh các thông tin kinh tế có liên quan tới đối tượng được kiểm toán ở trong và ngoài doanh nghiệp. - Có quyền kiến nghị với chủ thể được kiểm toán có biện pháp sửa chữa sai phạm và có quyền ghi kiến nghị của mình vào báo cáo kiểm toán. - Đề xuất với lãnh đạo doanh nghiệp những kiến nghị và biện pháp về quản lý. Đó là một số quyền hạn cơ bản của KTNB, bên cạnh đó tùy thuộc vào từng doanh nghiệp, từng điều kiện mà KTNB có thể có thêm các quyền khác. d) Nội dung hoạt động của KTNB: Hoạt động của KTNB trong doanh nghiệp thực hiện một số nội dung chủ yếu sau: - Rà soát lại hệ thống kế toán và các quy chế kiểm soát nội bộ có liên quan, giám sát sự hoạt động của các hệ thống này cũng như tham gia hoàn thiện chúng. - Kiểm tra các thông tin tác nghiệp, thông tin tài chính, bao gồm việc soát xét lại các phương tiện đã sử dụng để xác định, tính toán, phân loại và báo cáo những thông tin này, kiểm tra chi tiết các nghiệp vụ, các số dư và các bước công việc. - Kiểm tra tính hiệu quả, sự tiết kiệm và hiệu suất của các hoạt động, kể cả các quy định không có tính chất tài chính của doanh nghiệp. Như vậy, lĩnh vực hoạt động của KTNB bao gồm cả kiểm toán tài chính và kiểm toán nghiệp vụ trong doanh nghiệp. 3. Mô hình, nguyên tắc và nhiệm vụ tổ chức KTNB. a) Mô hình tổ chức: Từ những vai trò của KTNB trong doanh nghiệp thì việc tổ chức KTNB trong doanh nghiệp là cần thiết để nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp. Tuy nhiên, tùy theo quy mô của doanh nghiệp mà tổ chức bộ máy kiểm toán cho phù hợp. Bộ phận KTNB trong các doanh nghiệp nhà nước nên được tổ chức như thế nào ? Về vấn đề này, có 2 loại quan điểm khác nhau: Quan điểm thứ nhất: Bộ phận KTNB trực thuộc HĐQT mà trực tiếp là chịu sự chỉ đạo của Ban kiểm soát. Có như vậy bộ phận KTNB mới phát huy được tính độc lập, kết quả KTNB mới có tính khách quan, khắc phục tình trạng " vừa đá bóng vừa thổi còi". Mô hình 1: Mô hình bộ máy KTNB theo quan điểm này như sau Hội đồng Quản trị. Các bộ phận khác Ban Giám đốc Ban kiểm soát Quan hệ trực thuộc Quan hệ kiểm tra Luồng thông tin phản hồi Cán bộ quản lý cấp trung gian Bộ phận KTNB Cán bộ quản lý cấp DN Mô hình trên được coi là mô hình lý tưởng, nó bảo đảm điều kiện về tính độc lập của KTNB nhưng không có tính thực tế. Đó là vì HĐQT và Ban kiểm soát không trực tiếp điều hành và quản lý doanh nghiệp, hơn nữa, HĐQT ở Tổng Công ty nhà nước hiện nay còn nhiều thành viên kiêm chức nên không đảm bảo được tính độc lập đặt ra. Quan điểm thứ hai: Bộ phận KTNB nên đặt trực thuộc Tổng Công ty (Giám đốc) của doanh nghiệp. Quan điểm này dựa trên cơ sở KTNB là một bộ phận quan trọng của doanh nghiệp, đặt tại doanh nghiệp, tiếp cận thường xuyên, liên tục với mọi hoạt động của doanh nghiệp, đánh giá kệ thống kiểm soát nội bộ và phát hiện kịp thời những sai sót, sơ hở, những điểm yếu để báo cáo kịp thời cho lãnh đạo để có các kiện pháp khắc phục, hoàn thiện. Để đạt được mục tiêu, vai trò của KTNB cần phải đặt KTNB trực thuộc cấp lãnh đạo cao nhất điều hành hoạt động của doanh nghiệp. Mô hình 2: ktnb trực thuộc Tổng Công ty (giám đốc) của dn Cán bộ quản lý cấp DN Bộ phận KTNB Cán bộ quản lý cấp trung gian Hội đồng Quản trị ( HĐQT ) Tổng Công ty ( Giám đốc) Quan hệ trực thuộc. Quan hệ kiểm tra. Luồng thông tin phản hồi. Cách tổ chức theo mô hình này phù hợp với điều kiện thực tiễn của các DNNN trong giai đoạn hiện nay. Tuy nhiên để KTNB thực sự có hiệu quả thì người đứng đầu bộ phận KTNB phải được quyền tự do báo cáo kết quả kiểm toán với Ban kiểm soát của HĐQT (nếu doanh nghiệp có HĐQT). Như vậy qua việc phân tích những chức năng, đặc điểm của KTNB thì việc hình thành KTNB trong các doanh nghiệp trong điều kiện nền kinh tế thị trường phát triển đa chiều, cạnh tranh gay gắt là một điều cần thiết để nâng cao tính hoạt động có hiệu quả của các doanh nghiệp, chỉ ra các vấn đề, các hướng để hoàn thiện hệ thống chính sách, hệ thống kế toán trong doanh nghiệp, đồng thời tùy theo mỗi nhu cầu tự thân, mỗi điều kiện hoàn cảnh của các doanh nghiệp mà có cơ cấu tổ chức KTNB cho phù hợp, đảm bảo tính hiệu quả của bộ phận này trong quá trình kiểm toán và kiến nghị chiến lược cho các nhà quản trị trong quá trình lãnh đạo doanh nghiệp ở cả tầm vĩ mô và vi mô. b) Nguyên tắc, nhiệm vụ của tổ chức bộ máy KTNB. Bộ máy kiểm toán bao gồm con người và các phương tiện chứa đựng các yếu tố cấu thành của kiểm toán để thực hiện chức năng của kiểm toán. Tổ chức bộ máy kiểm toán chính là việc tạo ra các mối liên hệ giữa các yếu tố cấu thành kiểm toán, giữa các phân hệ trong hệ thống kiểm toán và chín giữa bản thân của hệ thống kiểm toán với các yếu tố khác trong môi trường hoạt động của kiểm toán. Chính từ việc tổ chức bộ máy kiểm toán mà các mối liên hệ được duy trì đảm bảo cho hệ thống thực hiện tốt chức năng xác minh và bày tỏ ý kiến. Tổ chức bộ máy KTNB phải đảm bảo: - Tính khoa học: Tổ chức bộ máy KTNB phải phù hợp với nguyên lý chung của lý thuyết kiểm toán. Tùy theo đặc điểm tổ chức của doanh nghiệp là tổ chức theo phương pháp chức năng hay trực tuyến tham mưu mà đưa ra mô hình tổ chức bộ máy KTNB cho phù hợp. - Tính nghệ thuật: Tổ chức bộ máy KTNB phải chú ý tới nhân tố con người. Trong sơ đồ tổ chức bộ máy kiểm toán cần phải phân công rõ ràng chức năng và nhiệm vụ của mỗi ktv nhằm đạt hiệu quả và hiệu suất cao. - Phải đảm đủ về số lượng nhân viên trong bộ phận kiểm toán cũng là một vấn đề quan trọng. Số lượng nhân viên kiểm toán có thể được xác định qua công thức sau: Số lượng nhân viên KTNB = Trong đó: ai: Thời gian cần thiết để tiến hành kiểm toán một hoạt động hoặc một bộ phần của doanh nghiệp bao gồm cả thời gian kiểm toán dự tính, thời gian đi lại nếu có. t: Tần suất kiểm toán các bộ phận hoặc các hoạt động tương ứng/năm. b: Thời gian dự kiến phát sinh cho các hoạt động đào tạo, nghỉ phép, hội họp.. k: Thời gian làm việc trung bình của một KTV/năm. n: Tổng số bộ phận hoặc hoạt động cần được kiểm toán. - Điều quan trọng trong tổ chức KTNB là phải xác định quy mô của doanh nghiệp: Doanh nghiệp có thực sự cần bộ máy KTNB hay không, quy mô của doanh nghiệp như thế thì bộ máy KTNB nên có quy mô như thế nào thì thích hợp...... - Tùy theo cơ cấu của doanh nghiệp như thế nào mà tổ chức KTNB cho phù hợp sao cho đem lại hiệu quả cao nhất, tốn chi phí ít nhất. - Tổ chức bộ máy KTNB phải quán triệt nguyên tắc tập trung dân chủ: Tập trung dân chủ thích ứng với từng bộ phận kiểm toán. - Hệ thống bộ máy KTNB bao gồm các mối liên hệ trong và ngoài khác nhau và phải phù hợp với nguyên lý chung của lý thuyết tổ chức và quy luật biện chứng về mối liên hệ. Để tổ chức bộ máy KTNB thì cần phải thực hiện các nhiệm vụ sau: - Phải xác định kiểu mô hình tổ chức phù hợp với đặc điểm, cơ cấu tổ chức của doanh nghiệp. - Xác định kiểu liên hệ trong từng mô hình. - Xây dựng mối liên hệ giữa các yếu tố cơ bản cấu thành nên hệ thống KTNB với KTV. Đó là những nguyên tắc và nhiệm vụ cần phải tuân thủ khi tiến hành tổ chức bộ máy KTNB. II- thực trạng của việc tổ chức KTNB trong các DNNN ở Việt Nam hiện nay. Xuất phát từ những lý luận chung về KTNB, từ vai trò và ý nghĩa của KTNB đối với sự phát triển của doanh nghiệp chúng ta đi tìm hiểu về thực trạng KTNB trong các DNNN ở Việt Nam hiện nay, những khó khăn trong việc hình thành KTNB, những tồn tại trong việc tổ chức KTNB hiện nay. 1. Sự cần thiết của KTNB trong các DNNN ở Việt Nam hiện nay: KTNB là hoạt động trong phạm vi doanh nghiệp, do người của doanh nghiệp thực hiện để phục vụ cho các yêu cầu quản lý sản xuất kinh doanh và quản lý tài chính của bản thân doanh nghiệp. Với mục tiêu như vậy, đặc biệt là trong cơ chế quản lý tài chính kiện nay - doanh nghiệp được quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm về kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh, tài chính đến mức cao nhất - thì KTNB càng là một đòi hỏi cấp bách với tất cả các DNNN. Theo Nghị định số 59/NĐ-CP ngày 03/10/1996 của Chính phủ, từ năm 1997 cơ quan quản lý tài chính các cấp sẽ không tiến hành kiểm tra phê duyệt quyết toán sản xuất kinh doanh hàng năm của các DNNN. Các DNNN phải công khai báo cáo tài chính và chịu trách nhiệm về các số liệu, chỉ tiêu đã công bố. Đây là một quy định nhằm nâng cao tính chủ động, tự chủ, tự chịu trách nhiệm cho các DNNN nhưng đồng thời cũng gây không ít khó khăn, lúng túng cho họ. Từ trước năm 1997, sau khi quyết toán năm được duyệt, lãnh đạo doanh nghiệp hoàn toàn yên tâm về kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, về các mặt hoạt động và giải pháp tài chính trong năm vì đã được các cơ quan có thẩm quyền của Nhà nước xác nhận. Mọi sai sót, vi phạm của doanh nghiệp cũng đã được giải quyết hoặc xóa bỏ thông qua việc duyệt quyết toán. Chính vì vậy, trong điều kiện không còn kiểm tra phê duyệt quyết toán hàng năm, KTNB với chức năng kiểm tra, xác nhận tính trung thực và hợp lý, hợp pháp của các thông tin trong báo cáo tài chính sẽ giúp cho lãnh đạo doanh nghiệp bớt lúng túng, yên tâm hơn khi ký các báo cáo tài chính và công khai báo cáo tài chính theo cơ chế về quản lý tài chính DNNN. ở Việt Nam hiện nay, mô hình HĐQT ở các Tổng công ty được thành lập theo Nghị định 90/CP và 91/CP có khác so với các nước. Trong mỗi Tổng công ty nhà nước có Ban kiểm soát trực thuộc HĐQT, ngoài các thành viên chuyên trách, HĐQT còn có một số thành viên kiêm nhiệm. Trong Ban kiểm soát, ngoài Trưởng Ban kiểm soát, phần lớn các ủy viên là các thành viên kiêm nhiệm, có thành viên không thuộc Tổng công ty. Với bộ máy như vậy, Ban kiểm soát khó lòng thực hiện các nhiệm vụ và trách nhiệm theo quy định của nhà nước mới được ban hành theo điều lệ mẫu của Tổng công ty nhà nước. Vì vậy, ở các DNNN mà trước hết là các Tổng công ty cần thiết phải tổ chức bộ phận KTNB để giúp chủ doanh nghiệp điều hành và quản lý mọi mặt hoạt động có hiệu quả. Đó là một nhu cầu cần thiết và nên làm vì sự phát triển của doanh nghiệp. Đối với nước ta hiện nay đang tiến hành quá trình cổ phần hóa các DNNN, việc cổ phần hóa sẽ thúc đẩy các doanh nghiệp phải luôn luôn cố gắng vươn lên để đứng vững trên thị trường, hơn nữa các cổ đông đòi hỏi phải biết thông tin chính xác về tình hình hoạt động của doanh nghiệp để chia sẻ các lợi ích và rủi ro cũng như tham gia quản lý doanh nghiệp, do vậy KTNB lại càng cần thiết hơn bao giờ hết đối với các DNNN đang tiến hành cổ phần hóa, và nó không thể thiếu đối với các doanh nghiệp đã chuyển đổi sang hình thức cổ phần. Nước ta đang phát triển và mở rộng hoạt động của thị trường chứng khoán, thông tin tài chính của doanh nghiệp là hết sức cần thiết và có ý nghĩa quan trọng đối với những người tham gia thị trường, theo đó, KTNB cung cấp thông tin và kiến nghị các biện pháp quản lý về doanh nghiệp sẽ tạo niềm tin cho các cổ đông và giúp cho doanh nghiệp quản lý tốt, có các biện pháp để phát triển sản xuất kinh doanh. Như vậy, xét tình hình hiện nay, việc tổ chức bộ máy KTNB trong các DNNN ở Việt Nam hiện nay là một nhu cầu cần thiết để đảm bảo cho các doanh nghiệp hoạt động tốt, và là cơ sở để doanh nghiệp cạnh tranh, tồn tại vững trên thị trường. 2. Đánh giá sự phát triển KTNB trong các DNNN ở Việt Nam hiện nay: Như đã nói ở trên, KTNB có một vai trò và vị trí đặc biệt trong doanh nghiệp, tuy nhiên chúng ta còn hiểu biết quá ít về lĩnh vực này so với KTNN và KTĐL. Trên thực tế, chúng ta chưa có một công trình, một đề tài nào nghiên cứu một cách có hệ thống và sâu sắc về KTNB, trong điều kiện đó, vướng mắc về nhận thức là lẽ đương nhiên, việc triển khai hoạt động KTNB ở các doanh nghiệp lại càng lúng túng. ở Việt Nam đã xuất hiện những nhu cầu và điều kiện cần thiết cho việc thiết lập hệ thống KTNB trong các đơn vị kinh tế lớn như các Tổng công ty 90, 91; các Bộ, ngành, địa phương trong phạm vi cả nước. Tuy nhiên, đây mới chỉ là giai đoạn đầu của việc hình thành một hệ thống KTNB trong hầu hết các doanh nghiệp, chính vì thế KTNB mới hình thành được rất ít, còn chập chững, tập trung chủ yếu ở các Tổng công ty, các doanh nghiệp có quy mô lớn. Hơn nữa, KTNB bước đầu còn gặp nhiều khó khăn, lúng túng trong việc tổ chức và hoạt động, bộ phận KTNB còn quá mỏng manh so với cả một khối lượng công việc khổng lồ. Chúng ta có thể lấy ví dụ về hoạt động KTNB trong các Tổng công ty tiêu biểu: Xin lấy mô hình KTNB của Tổng công ty xây dựng Sông Đà và Tổng công ty xăng dầu Việt Nam (Petrolimex): Tổng công ty xây dựng Sông Đà là một doanh nghiệp có quy mô tầm trung bình trong số những tổng công ty 90 của Nhà nước, hình thành và hoạt động hơn 30 năm qua với nhiều công trình xây dựng lớn. Xác định đúng đắn sự cần thiết của KTNB đối với sự phát triển của Tổng công ty, ngày 1/1/1998 phòng KTNB Tổng công ty chính thức ra đời. Giai đoạn đầu, phòng KTNB gồm 5 cán bộ KTV có trình độ chuyên môn sau đại học chuyên ngành tài chính kế toán và trình độ đại học, có nhiều năm thực tế công tác trong lĩnh vực kiểm tra kiểm soát nội bộ hoặc trong lĩnh vực tài chính của Tổng công ty. Vừa xây dựng vừa hoạt động, trong năm 1998 kiểm toán Tổng công ty xây dựng Sông Đà đã hoàn thành một khối lượng công việc đáng kể. Tại các doanh nghiệp thành viên của Tổng công ty tuy còn đang hoàn thiện về công tác tổ chức nhưng 100% đơn vị đã bổ nhiệm được KTV hoặc thành lập tổ KTNB. Tuy nhiên, chỉ một số đơn vị sớm tuyển chọn bổ nhiệm được KTV đủ năng lực và ổn định tổ chức thì phát huy được tác dụng bước đầu, có đóng góp vào công tác chấn chỉnh quản lý tại doanh nghiệp. Sau khi Bộ Tài chính ban hành Thông tư số 171/TT-BTC, phần lớn KTNB tại các doanh nghiệp thành viên trong hệ thống KTNB Tổng công ty vẫn chưa thực sự đi vào hoạt động. Có nhiều lý do nhưng nguyên chính là sự khó khăn về tuyển chọn và điều động cán bộ. Để hoạt động KTNB đi vào nền nếp, hiện nay Dự thảo quy chế KTNB của Tổng công ty đang được hoàn thiện khâu cuối cùng. Petrolimex là một trong những doanh nghiệp đặc biệt của Nhà nước, doanh số và luân chuyển vốn hàng năm rất lớn, mạng lưới kinh doanh rộng khắp. Tháng 2/1999 Phòng KTNB Tổng công ty ra đời và đi vào hoạt động. Qua một quá trình hoạt động, do khối lượng công việc là rất lớn và do tính ưu thế của KTĐL trong lĩnh vực này, phòng KTNB Tổng công ty đã đề xuất phương án tiến tới thuê kiểm toán độc lập thực hiện kiểm toán báo cáo tài chính hàng năm, KTNB chỉ phối hợp hỗ trợ và học hỏi kinh nghiệm. Theo đề xuất, nhiệm vụ chính của KTNB là kiểm toán hoạt động và kiểm toán tính tuân thủ, điều này phù hợp với lực lượng kiểm toán trong nội bộ, đồng thời giảm chi phí đáng kể so với thuê kiểm toán độc lập hoàn toàn. Như vậy có thể thấy rằng hiện nay hệ thống KTNB ở Việt Nam chưa phát triển mà đang trong giai đoạn đầu hình thành, lực lượng KTV còn quá ít, hệ thống chính sách, quy chế về KTNB chưa được xây dựng và hoàn thiện, chưa đáp ứng được nhu cầu kiểm toán của doanh nghiệp, hiệu quả hoạt động chưa cao, còn nhiều lúng túng, khó khăn trong quá trình hình thành và hoạt động. Hiện nay Nhà nước cũng đang khuyến khích các DNNN hình thành bộ phận KTNB trong doanh nghiệp. Theo điều 36, chương V - Nghị định 59/CP ngày 3/10/1996 quy định: "Doanh nghiệp tự tổ chức KTNB báo cáo tài chính của mình hoặc thuê kiểm toán độc lập nếu thấy cần thiết" chính là nhằm tạo cho DNNN cơ hội lựa chọn việc có nên tổ chức bộ phận KTNB trong doanh nghiệp hay không. Mặt khác, giữa thực trạng phát triển KTNB trong các DNNN ở Việt Nam hiện nay và nhu cầu đòi hỏi của Nhà nước về khía cạnh pháp lý còn có một số mâu thuẫn: Theo Điểm 3, Mục I - Thông tư 73 TC/TCDN ngày 12/11/1996 của Bộ Tài chính: "...báo cáo tài chính được coi là hợp pháp, hợp lệ khi có đủ chữ ký của người lập, người kiểm toán, Kế toán trưởng, giám đốc và đóng dấu của doanh nghiệp", trong điều kiện hiện nay khi mà lực lượng cán bộ kiểm toán và hệ thống KTNB chưa phát triển và hoàn thiện, chưa đáp ứng được nhu cầu kiểm toán ở tất cả các DNNN thì việc quy định như trên là chưa thỏa đáng. Như vậy xét về thực trạng phát triển KTNB trong các DNNN ở Việt Nam thì chúng ta thấy rõ ràng KTNB mới đang trong giai đoạn hình thành và phát triển, mới đang thí điểm ở một số Tổng công ty, các doanh nghiệp có quy mô lớn, việc hình thành KTNB còn gặp rất nhiều khó khăn, lúng túng, tuy nhiên phát triển hệ thống KTNB trong các DNNN ở nước ta trong điều kiện nền kinh tế thị trường là tất yếu cần thiết và tất sẽ phát triển, vì sự tồn tại, sự phát triển của DNNN trong cơ chế thị trường cạnh tranh gay gắt. 3. Những khó khăn chính trong việc tổ chức bộ máy KTNB trong các DNNN ở Việt Nam hiện nay. a) Về mặt pháp lý: Tại Việt Nam, khái niệm KTNB mới chính thức xuất hiện kể từ khi Chính phủ ban hành Nghị định số 59/CP ( 3/10/1996 ) về: “Quy chế quản lý tài chính và hạch toán kinh doanh đối với các DNNN”. Theo đó, các báo tài chính của các DNNN buộc phải được kiểm toán bởi các KTVĐL hoặc các KTVNB. Trên cơ sở Nghị định 59/CP này, Bộ Tài chính đã ban hành QĐ số 832TC/QĐ/CĐKT (28/10/1997) về quy chế kiểm toán nội bộ và Thông tư sô 52/1998-TT/BTC (16/04/1998) hướng dẫn thực hiện quy chế này nhằm đưa ra những quy chế về kiểm toán nội bộ và tổ chức thực hiện công việc thành lập bộ máy KTNB tại các DNNN. Với các Quyết định và Thông tư này thì việc tổ chức bộ máy KTNB tại các DNNN là yêu cầu bắt buộc. Xét về khía cạnh pháp lý thì mọi DNNN phải lập bộ phận KTNB và nó có thể thay thế cho KTĐL, tuy nhiên KTNB phụ thuộc rất lớn vào người lãnh đạo cao nhất trong doanh nghiệp, cho nên tính độc lập của KTNB chưa cao và kém hiệu quả. Mặt khác bộ phận KTNB tuy độc lập với các bộ phận khác trong doanh nghiệp nhưng vẫn là một bộ phận của doanh nghiệp nên không thể hoàn toàn độc lập với doanh nghiệp. Vì vậy báo cáo kiểm toán nội bộ được doanh nghiệp rất tin tưởng nhưng lại ít có giá trị pháp lý. Chính điều này làm cho các doanh nghiệp không tích cực trong việc thành lập bộ phận KTNB trong doanh nghiệp mình vì phải bỏ chi phí ra thành lập, mà hiệu quả đem lại chưa cao, chưa tạo được niềm tin cho những người sử dụng thông tin về báo cáo tài chính do KTNB thực hiện kiểm toán. Đồng thời, trong quá trình thực hiện Nghị định 59/CP và QĐ số 832 TC/QĐ/CĐKT (28/10/1997) và Thông tư số 52/1998-TT- BTC(16/ 04/1998) đã nảy sinh những vướng mắc rằng có những doanh nghiệp với quy mô hoạt động nhỏ, lĩnh vực hoạt động đặc thù và đội ngũ kế toán viên đủ mạnh, không nhất thiết phải thiết lập bộ máy KTNB. Đối với các DNNN có quy mô nhỏ, lãnh đạo doanh nghiệp có thể kiểm tra chặt chẽ mọi hoạt động thì việc thành lập một bộ phận KTNB ở những doanh nghiệp này là hoàn toàn không cần thiết và hạn chế khi thành lập là không có cán bộ làm công tác này. Như đã nói ở trên, nhu cầu thiết lập bộ phận KTNB là nhu cầu tự thân của doanh nghiệp, nhiều trường hợp lợi ích từ việc thành bộ phận KTNB nhỏ hơn so với chi phí bỏ ra nên sự bắt buộc đối với toàn bộ các DNNN phải thiết lập bộ phận KTNB là không hợp lý. Chính vì thế, Bộ Tài chính tiếp tục ra Thông tư số 171/1998 - TT - BTC (22/12/1998) nhằm thay thế Thông tư số 52 /1998 - TT - BTC (16/04/1998). Theo đó, việc tổ chức bộ máy KTNB là không bắt buộc đối với các DNNN mà phải tùy theo quy mô sản xuất kinh doanh, địa bàn hoạt động, trình độ của đội ngũ cán bộ kế toán... mà tổ chức bộ máy KTNB cho phù hợp hoặc không cần tổ chức bộ máy KTNB. Các DNNN đã tổ chức bộ máy KTNB theo quy định tại Thông tư số 52/1998-TT-BTC thì tùy theo tình hình của doanh nghiệp có thể tiếp tục duy trì và hoạt động hoặc tổ chức lại theo quy định ở Thông tư này. Theo đánh giá của các chuyên gia nghiên cứu về kế toán và kiểm toán, Quy chế KTNB hiện hành đã có được các nội dung cơ bản về loại hình KTNB, tạo cơ sở để các doanh nghiệp xây dựng bộ máy KTNB của mình. Tuy nhiên, ngoài những nội dung đã được sửa đổi, bổ sung tại Thông tư số 171 cho thấy còn một số điểm gây lúng túng cho các doanh nghiệp, cụ thể : “ Doanh nghiệp phải thường xuyên tổ chức KTNB nhằm đánh giá về chất lượng và độ tin cậy của thông tin kinh tế - tài chính.....” (Điều 3), “....báo cáo tài chính hàng năm của doanh nghiệp phải có báo cáo KTNB đính kèm” (Điều 7), “ các doanh nghiệp phải tổ chức bộ máy KTNB như hướng dẫn tại Thông tư 171 thì không thể thực hiện được Điều 3. Nếu hiểu rằng Điều 3 chỉ quy định đối với các doanh nghiệp có tổ chức KTNB thì các doanh nghiệp không tổ chức bộ máy KTNB thực hiện Điều 7 như thế nào? Trong khi đó, tại Thông tư 171, ngoài một vài nội dung sửa đổi bổ sung như đã nêu trên tại điểm 2, phần 1 thông tư quy định: “ Phạm vi, nhiệm vụ của KTNB, nội dung trình tự, phương pháp KTNB và các nội dung khác được thực hiện theo quy định tại Quy chế về KTNB . Với quy định như vậy xin được hiểu là, ngoài các nội dung gồm hủy bỏ Thông tư 52 và những điểm sửa đổi bổ sung đã được quy định cụ thể tại Thông tư 171, mọi quy định khác ( điều 3, 7 và 16 ) tại Quy chế KTNB vẫn còn nguyên hiệu lực. Như vậy phải chăng giữa hai văn bản chưa có được sự thống nhất, gây lúng túng cho các doanh nghiệp một cách không cần thiết? Như vậy một hệ thống chính chưa toàn diện, triệt để lại hay thay đổi khiến cho các DNNN lúng túng trong việc thành lập bộ phận KTNB, các doanh ng._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc35129.doc
Tài liệu liên quan