Đánh giá về hoạt động quản lý ngoại hối của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam và những kiến nghị

Lời mở đầu Trong điều kiện hiện nay, khi mà quá trình hội nhập quốc tế đang diễn ra và bao trùm lên tất cả các lĩnh vực của đời sống như hoạt động sản xuất kinh doanh, đời sống văn hoá, chính trị... thì hợp tác quốc tế, đầu tư nước ngoài ở nước ta ngày càng được mở rộng nhằm phát huy lợi thế so sánh của mình. Trong đó, một nhân tố quan trọng không thể thiếu được là hoạt động ngoại hối. Hoạt động này có liên quan chặt chẽ đến nền kinh tế quốc tế và là cơ sở để nền kinh tế nước ta hội nhập được

doc18 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1584 | Lượt tải: 1download
Tóm tắt tài liệu Đánh giá về hoạt động quản lý ngoại hối của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam và những kiến nghị, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
với nền kinh tế thế giới. Vì thế, hoạt động ngoại hối là mối quan tâm đặc biệt của chính phủ nước ta trong thời kì hiện nay. Do việc quản lý ngoại hối liên quan trực tiếp đến rất nhiều hoạt động kinh tế khác nhau đồng thời chịu ảnh hưởng của các nhân tố trong nước cũng như quốc tế nên NHTƯ phải có những chính sách và biện pháp để điều chỉnh ngoại hối luôn ở trạng thái ổn định. Với chính sách đổi mới được Đảng và Nhà nước ta ban hành vào năm 1986, hệ thống Ngân hàng Việt Nam (NHNN VN) - cơ quan quản lý Nhà nước trên lĩnh vực tiền tệ, tín dụng và ngân hàng đã có những bước chuyển biến đáng kể, đặc biệt trong lĩnh vực quản lý ngoại hối. Chính vì lý do đó nên em đã chọn đề tài: “Đánh giá về hoạt động quản lý ngoại hối của NHNN Việt Nam và những kiến nghị” để làm tiểu luận. Do kiến thức và thời gian có hạn nên nên bài viết của em không tránh khỏi những thiếu sót, em rất mong nhận được sự góp ý của các thầy cô! Em xin chân thành cảm ơn! Sinh viên Đặng Uyên Thủy Minh. Nội dung Chương I: KháI quát về quản lý ngoạI hối. I - Khái niệm. Ngoại hối là tiền nước ngoài, vàng tiêu chuẩn quốc tế, các giấy tờ có giá và các công cụ thanh toán bằng tiền nước ngoài và là phương tiện thiết yếu trong quan hệ kinh tế, văn hóa... giữa các quốc gia. Quản lý ngoại hối là việc Nhà nước áp dụng các chính sách, biện pháp tác động vào quá trình nhập, xuất ngoại hối (đặc biệt là ngoại tệ) và việc sử dụng ngoại hối theo những mục tiêu nhất định. II - Mục đích của việc quản lý ngoại hối. Điều 30 pháp lệnh NHNN VN năm 1990, điều 38 luật NHNH VN năm 1997 và mới đây là Nghị định 52/2003/NĐ-CP của Chính phủ đều qui định về việc Nhà nước giao cho NHNN VN quản lý ngoại hối và việc quản lý ngoại hối nhằm mục đích sau: 1. Điều tiết tỷ giá thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia. NHTƯ sử dụng mọi biện pháp để tập trung nguồn ngoại hối (đặc biệt là ngoại tệ) vào tay mình, nhờ đó, Nhà nước có điều kiện để sử dụng nó phục vụ cho các nhu cầu phát triển kinh tế và hoạt động đối ngoại. Đồng thời sử dụng chính sách ngoại hối như một công cụ có hiệu lực để thực hiện chính sách tiền tệ, bằng cách thông qua việc mua bán ngoại hối trên thị trường để can thiệp vào tỷ giá khi cần thiết nhằm ổn định giá trị đối ngoại của đồng tiền, tác động vào lượng tiền cung ứng. 2. Bảo tồn quỹ dự trữ ngoại hối Nhà nước. NHTƯ là cơ quan quản lý tài sản quốc gia nên phải quản lý dự trữ ngoại hối Nhà nước nhưng không chỉ bảo quản mà còn biết cách sử dụng dự trữ đó để phục vụ cho việc đầu tư và phát triển kinh tế và phải luôn đảm bảo an toàn không bị ảnh hưởng rủi ro về tỷ giá ngoại tệ trên thị trường quốc tế.Vì vậy NHTƯ phải mua, bán, chuyển đổi đồng tiền để phát triển, chống thất thoát, sói mòn quỹ dự trữ ngoại hối của Nhà nước, bảo vệ độc lập chủ quyền về tiền tệ. NHTƯ thông qua các chính sách biện pháp của mình để can thiệp trên thị trường ngoại hối để đạt được mục tiêu đặt ra của NHTƯ hoặc là những mục tiêu kinh tế xã hội mà Nhà nước đặt ra. 3. Cải thiện cán cân thanh toán quốc tế. Cán cân thanh toán của một nước phản ánh đầy đủ những xu hướng cung, cầu về ngoại tệ trong các giao dịch quốc tế nên nó tác động lớn đến tỷ giá hối đoái của đồng tiền. Khi cán cân thanh toán bội thu, lượng ngoại tệ chảy vào trong nước dẫn đến khả năng cung về ngoại tệ cao hơn so với nhu cầu làm tỷ giá có chiều hướng giảm xuống. Khi cán cân thanh toán bội chi, lượng ngoại tệ chảy ra nước ngoài, lúc này tỷ giá có chiều hướng tăng lên. Nếu ở hai trường hợp này không có sự can thiệp của NHTƯ thì tỷ giá sẽ biến động theo lượng cung cầu ngoại tệ trên thị trường. III - Cơ chế quản lý ngoại hối. 1. Cơ chế tự do ngoại hối. Thực hiện cơ chế này nghĩa là ngoại hối được tự do lưu thông trên thị trường. Lúc này trạng thái cân bằng của ngoại hối là do thị trường quyết định, hoàn toàn không có sự can thiệp của Nhà nước, do vậy tỷ giá - giá cả ngoại hối sẽ phù hợp với sức mua của đồng tiền trên thị trường. Tỷ giá thả nổi dẫn đến lãi suất, luồng vốn vào và ra hoàn toàn do thị trường chi phối. 2. Cơ chế quản lý. 2.1 - Cơ chế Nhà nước thực hiện quản lý hoàn toàn. Theo cơ chế này thì Nhà nước được độc quyền về ngoại thương và ngoại hối. Tỷ giá được hình thành do Nhà nước quy định trên cơ sở áp đặt các luồng tiền ra vào. Lúc này thì các tổ chức tham gia vào hoạt động ngoại thương đều phải chấp hành đúng theo các quy định mà Nhà nước đưa ra. Nếu như việc kinh doanh xuất nhập khẩu bị lỗ do tỉ giá thì Nhà nước sẽ cấp bù, còn nếu có lãi thì phải nộp cho Nhà nước. Cơ chế này thích hợp với nền kinh tế kế hoach hoá tập trung. 2.2 - Cơ chế quản lý có điều tiết. Ta thấy, việc Nhà nước áp đặt một chế độ tỷ giá là không phù hợp với nền kinh tế thị trường như hiện nay. Từ đó thấy ngay được hạn chế của việc quản lý hoàn toàn. Để khắc phục được hạn chế này thì Nhà nước đã tiến hành điều tiết nhưng gắn với thị trường và chỉ điều tiết trong một phạm vi nào đó để phát huy những mặt tích cực và hạn chế những mặt tiêu cực của thị trường, tạo diều kiện cho kinh tế trong nước phát triển ổn định, ngăn chặn ảnh hưởng từ bên ngoài. Chương II - Hoạt động quản lý ngoại hối của nhtư thời gian qua. I. Vai trò của NHTƯ trên thị trường ngoại hối. Hầu hết các chính sách của NHTƯ đều tác động tới tỷ giá và NHTƯ khi thực hiện các chính sách đều phải xét tới những tác động của chúng đối với tỷ giá hối đoái. Các NHTƯ có thể tác động vào tỷ giá nhằm gây ảnh hưởng đến nền kinh tế hoặc có thể can thiệp vào thị trường hối đoái để ngăn chặn đồng tiền nước họ sao cho không đi quá xa theo một hướng nào. Vai trò của NHTƯ được thể hiện ở những mặt cụ thể như sau: 1. Nếu có sự lo ngại nền kinh tế bị ảnh hưởng của các biến động đột ngột trong giá trị đồng nội tệ, NHTƯ có thể cố gắng làm giảm bớt các biến động tỉ giá theo cách nhìn có lợi của mình. Điều này có thể giúp cho chu kỳ kinh doanh ít thay đổi làm giảm bớt sự lo lắng trong các thị trường tài chính và những hoạt động đầu cơ, từ đó ngăn chặn giá trị của một đồng tiền bị rơi tự do. 2. Thiết lập các biên độ tỷ giá hối đoái ẩn nhằm điều chỉnh hướng biến động của thị trường. Một số NHTƯ nỗ lực duy trì giá đồng nội tệ trong vòng các biên độ không chính thức bằng cách can thiệp để không xảy ra tình trạng giá trị đồng nội tệ tụt dưới một mức chuẩn nào đó. Tuy nhiên ngay cả khi có các giới hạn ẩn thì những giới hạn này cũng được điều chỉnh qua thời gian bởi vì đồng nội tệ mạnh hay yếu đều có thể ảnh hưởng đến nền kinh tế đất nước. Đồng nội tệ yếu có thể làm giảm mức thất nghiệp, có thể kích thích nền kinh tế nhưng lại đẩy tỷ lệ lạm phát cao hơn. Còn đồng nội tệ mạnh có thể khuyến khích người tiêu dùng và các doanh nghiệp trong nước mua hàng hoá từ các nước khác do hàng hoá ngoại quốc hấp dẫn hơn về giá cả. Lúc này sức cạnh tranh của hàng hoá nước ngoài tăng lên buộc các nhà sản xuất nội địa phải giảm giá hàng. Vì vậy giá trị lý tưởng của một đồng tiền tuỳ thuộc vào quan điểm của nước đó cụ thể là quan điểm của các nhà quản lý có liên quan đến những quyết định này. 3. Trong một số trường hợp cụ thể, NHTƯ có thể can thiệp cô lập giá trị của một đồng tiền khỏi một xáo trộn tạm thời. II - Hoạt động quản lý ngoại hối của NHNN VN thời gian qua. 1. Giai đoạn trước khi ban hành luật ngân hàng. Trong thời kì kinh tế kế hoạch hóa tập trung, Nhà nước nắm độc quyền về ngoại thương và ngoại hối; quyền thu, chi ngoại tệ do Nhà nước quyết định; chỉ có các doanh nghiệp quốc doanh mới được phép tham gia xuất nhập khẩu hàng hóa theo tỉ giá ấn định từ trước. Tuy nhiên, chế độ một tỉ giá như thế này không phản ánh được mối quan hệ cung - cầu ngoại hối trên thị trường. Vì thế mà từ năm 1989, Nhà nước ta đã thực hiện một số thay đổi trong quan hệ kinh tế đối ngoại và trong chính sách tỉ giá. Tháng 3/1989, Nhà nước ta đã áp dụng chế độ tỉ giá được điều chỉnh thường xuyên gần sát với tỉ giá thị trường. Ngay sau đó, NHNN VN thành lập hai trung tâm giao dịch hối đoái ở TP Hồ Chí Minh và Hà Nội để làm thí điểm cho việc chuẩn bị thành lập thị trường hối đoái trong cả nước. Nhờ đó, tỉ giá hối đoái dần dần phản ánh được thực tiễn của quan hệ cung - cầu trên thị trường, góp phần ổn định VNĐ, tạo điều kiện cho sự ổn định của môi trường kinh tế và phục vụ tốt cho các hoạt động kinh tế đối ngoại. 2. Sau khi ban hành Bộ luật ngân hàng. NHTƯ thực hiện việc quản lý ngoại hối thông qua việc điều hành thị trường ngoại hối, đưa ra các quy chế hoạt động, quy định về tỉ giá, quản lý trạng thái ngoại tệ, biên lập cán cân thanh toán, kiểm tra việc xuất nhập khẩu ngoại hối... ở đây chúng ta sẽ xét đến hai vấn đề nổi cộm và quan trọng nhất đó là vấn đề tỉ giá và việc quản lý trạng thái ngoại tệ. 2.1 - Tỉ giá. Ngày nay, tỷ giá trở thành một vũ khí lợi hại trong cuộc chiến tranh thương mại hết sức khốc liệt trên thế giới, nhất là giữa Nhật – Mỹ – Tây Âu. ở Việt Nam, từ khi chuyển sang cơ chế thị trường, mở cửa hội nhập với nền kinh tế thế giới, tỷ giá cũng là một vấn đề hết sức nóng bỏng và được nhiều người quan tâm. Chính sách tỷ giá đã được Nhà nước ta sử dụng như một công cụ quản lý kinh tế vĩ mô. Nếu không có quyết sách về tỷ giá kịp thời, phù hợp sẽ gây ảnh hưởng tiêu cực, kìm hãm quá trình đầu tư trong nước, làm thâm hụt cán cân thương mại và khó có thể thực hiện thành công những mục tiêu và nhiệm vụ của sự nghiệp công nghiêp hoá hiện đại hóa đất nước. Do các dao động tỷ giá ảnh hưởng đến lãi suất nên nó cũng ảnh hưởng đến giá chứng khoán được mua bán trên các thị trường. Tác động cụ thể tuỳ thuộc vào loại chứng khoán được mua hoặc bán, đặc biệt ảnh hưởng đến giá cổ phiếu và trái phiếu : - Tác động đối với giá cổ phiếu : Cổ phiếu của các doanh nghiệp nội địa có thể bị ảnh hưởng bởi việc các nhà đầu tư nước ngoài sử dụng cổ phiếu như một phương tiện để kiếm lời từ đầu cơ tiền tệ. Bằng cách này, các nhà đầu tư nước ngoài có thể mua cổ phiếu nội địa khi đồng bản tệ yếu rồi bán các cổ phiếu này khi đồng bản tệ mạnh. Như vậy mức cầu của nước ngoài đối với bất kỳ một cổ phiếu nội địa nào đó có thể cao hơn khi đồng nội tệ được dự kiến tăng giá. - Tác động đối với giá trái phiếu : Đồng nội tệ yếu rất có thể sẽ làm tăng dự đoán về lạm phát, lãi suất thị trường lên cao hơn và mức cầu các nguồn vốn vay giảm. Lãi suất thị trường tăng làm cho lợi tức từ các trái phiếu hiện hữu tăng, trái phiếu giảm giá. Những người nắm giữ trái phiếu dự đoán đồng nội tê giảm giá sẽ không muốn giữ trái phiếu, vì giá trị thị trường của trái phiếu giảm làm cho lãi suất tăng, các nhà đầu tư sẽ yêu cầu một tỷ suất sinh lời cao hơn để bù đắp rủi ro do lạm phát. Vì thế, trong thời gian qua, NHTƯ đã điều hành tỷ giá theo hướng hình thành mức tỷ giá phản ánh cung cầu ngoại tệ trên thị trường, khuyến khích xuất khẩu để đẩy mạnh tăng trưởng kinh tế, theo dõi sát sao diễn biến tỷ giá hàng ngày để có biện pháp can thiệp, giữ cho tỷ giá vận động theo tín hiệu thị trường, nhưng không có biến động lớn vượt quá tầm kiểm soát trong việc điều hành chính sách tiền tệ. Trong 4 tháng đầu năm 2001, tỷ giá biến động ổn định. Từ tháng 5/2001, tỷ giá có xu hướng tăng, mức tăng tỷ giá bình quân trên thị trường ngoại tệ liên ngân hàng 6 tháng đầu năm là 2.2% so với cuối năm 2000, tỷ giá trên thị tường tự do tăng khoảng 2.8%. Từ đầu tháng 7 đến cuối tháng 9/2001, tỷ giá trên thị trường ngoại tệ liên ngân hàng biến động khoảng 2% và trên thị trường tự do biến động khoảng 2.1%. Việc điều hành các công cụ của chính sách tiền tệ trong thời gian qua như: tăng dự trữ bắt buộc bằng ngoại tệ lên 8%, rồi 12% và 15%; tự do hoá lãi suất cho vay ngoại tệ; giảm tỷ lệ kết hối bằng ngoại tệ của các doanh nghiệp từ 50% xuống còn 30%; giảm tỷ lệ lãi suất tiền gửi ngoại tệ của các pháp nhân; chủ động can thiệp tăng tỷ giá; thu hẹp biên độ mua bán ngoại tệ của các Ngân hàng thương mại (NHTM)... chỉ hạn chế được tốc độ dịch chuyển từ ngoại tệ sang nội tệ. Do tỷ giá liên tục tăng lên, nhất là trong 3 tháng 5, 6 và 7/2001, mỗi ngày tăng từ 3-7 đồng/USD, tổng cộng tới gần 4%. Trong 7 tháng, NHTƯ tiếp tục tăng dự trữ bắt buộc tới 15% làm tăng chi phí vốn đầu vào, do đó các NHTM cũng liên tục giảm lãi suất huy động ngoại tệ xuống còn 2.6- 2.8%/ năm cho kỳ hạn 12 tháng, so với mức 5.8- 6.0%/năm trước đó. Vì lí do tỉ giá liên tục tăng cao như vậy nên NHTƯ quy định biên độ giao dịch mua bán ngoại tệ có kỳ hạn hẹp lại làm cho các ngân hàng và các doanh nghiệp phải tìm mọi cách mua bán với nhau ngoài biên độ. Điển hình là từ 17/7/2001, NHTƯ quy định ngiệp vụ mua bán ngoại tệ theo nghiệp vụ hoán đổi (swap) với các NHTM. NHTM mang ngoại tệ bán cho NHTƯ để nhận ngay được tiền vốn VNĐ để cho vay. Sau một thời gian xác định 7, 15, 30 hoặc 90 ngày sẽ mua số ngoại tệ đó trên cơ số tỷ giá xác định và một tỷ lệ gia tăng là : 0.8%; 0.85%; 1.7% tương ứng với các kỳ hạn nói trên. Tất cả các NHTM đều cho rằng tỷ lệ gia tăng trên là quá cao, làm nản lòng họ trong nỗ lực cố gắng để nhận vốn nội tệ của NHTƯ để cho vay. Vì thế, mới đây NHTƯ đã giảm tỷ lệ nói trên với các tỷ lệ tương ứng lần lượt là 0.3%; 0.4%; 0.5%; 1%. Năm 2002, tỷ giá tăng thấp nằm ngoài dự kiến của nhiều người. Bởi vì từ đầu năm 2002 mức dự đoán tỷ giá tăng thấp cũng là bằng năm 2001 tức tăng từ 3.5%-4% lên trên 15.550 đ/USD. Nhưng đến giữa tháng 12/2002 chỉ xoay quanh mức 15.100-15.400 đ/USD. Năm 2003, tỷ giá cũng biến động nhẹ: 15.398đ/USD. Tháng 6/2003, tỷ giá bình quân liên ngân hàng là 15.524đ/USD, tăng khoảng 5 đ/USD so với tháng trước, có thời điểm còn cao hơn mức giá phổ biến trên thị trường tự do. 2.2 - Quản lý trạng thái ngoại tệ. a) Lãi suất. Do được tự do hoá từ tháng 6/2001 nên lãi suất ngoại tệ ở nước ta luôn theo sát lãi suất trên thị trường quốc tế. Lãi suất tiền gửi USD của các NHTM hoàn toàn phụ thuộc vào lãi suất của FED và lãi suất SIBOR, và lãi suất huy động USD ở nước ta đang có khoảng cách rất xa so với lãi suất tiền gửi USD. Trước năm 2002, lo ngại trước dư luận về tình trạng đô la hoá, NHNN đã tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc lên tới 15% để buộc các NHTM phải giảm lãi suất huy động USD, sau đó tỷ lệ này giảm xuống, hiện nay còn 8% nhưng vẫn khá cao chưa hoàn toàn tạo điều kiện thuận lợi cho các NHTM tăng lãi suất huy động vốn USD, hấp dẫn người gửi USD vào các ngân hàng. Riêng lãi suất tiền gửi ngoại tệ của các pháp nhân tại các tổ chức tín dụng, NHNN vẫn khống chế ở mức thấp nhằm hạn chế việc găm giữ đô la trong tài khoản và hạn chế đô la trong điều kiện tỷ lệ kết hối 80% giảm xuống 50% và hiện nay còn 30%. Do đó lãi suất USD ở nước ta giảm mạnh theo xu hướng thị trường quốc tế. Năm 2002, mức phổ biến đối với tiền gửi không kỳ hạn là 1-1.2%/năm; kỳ hạn 3 tháng: 1.5-2%/năm; kỳ hạn 6 tháng: 2.2-2.5%/năm; kỳ hạn 12 tháng: 2.6-3.0%/năm. Lãi suất cho vay ngắn hạn: 5.5-6%/năm; trung, dài hạn: 6.05-6.5%/năm. Kể từ 16/6/2003, lãi suất tiền gửi USD không kì hạn của các tổ chức tín dụng, Kho bạc nhà nước tại NHNN giảm từ 1,35%/năm xuống còn 1,25%/năm. Diễn biến lãi suất USD ở nước ta cho thấy đã chịu ảnh hưởng trực tiếp của thị trường quốc tế, nhất là tác động của 9 lần giảm lãi suất của cục dự trữ liên bang Mỹ, đồng thời chịu ảnh hưởng bởi việc NHNN Việt Nam điều chỉnh tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc bằng ngoại tệ. Theo một quan chức của NHNN thì việc giảm lãi suất là phù hợp với xu hướng lãi suất đồng USD đang đứng ở mức thấp trên thị trường thế giới. Dự báo khả năng lãi suất USD còn có thể tiếp tục giảm trong thời gian tới. b) Việc quản lý ngoại tệ. Nhờ có những diễn biến trên thị trường tiền tệ trong năm 2002 như lãi suất đồng VN tăng, nhập siêu tăng cao ước tính tới 2.53 tỷ USD, nên thị trường ngoại tệ tương đối ổn định, lãi suất USD và EURO ở mức thấp. Các luồng ngoại tệ tiền mặt chuyển vào Việt Nam tăng cao, trong cả năm đạt 2.2 tỷ USD. Ngoài ra còn các nguồn ngoại tệ tiền mặt do người Việt Nam đi công tác nước ngoài theo các dự án mang về, người nước ngoài làm việc tại Việt Nam. Do đó mặc dù nhập siêu lớn nhưng do nguồn ngoại tệ tiền mặt tăng cao, cộng với những diến biễn trái chiều về lãi suất làm hạn chế tình trạng đầu cơ ngoại tệ và sự dịch chuyển tiền tệ theo chiều hướng ngược lại trước đây: từ USD sang VNĐ. Trong năm 2002, chỉ riêng trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh, chi nhánh NHNN đã cấp phép cho 197 bàn uỷ nhiệm thu đổi ngoại tệ, xác nhận 71 bàn thu đổi trực tiếp, nâng tổng số bàn hiện đang hoạt động thu ở đây lên 392 bàn với doanh số thu đổi đạt hơn 902 triệu USD . Tại Hà Nội có 250 bàn thu đổi ngoại tệ được phép hoạt động với doanh số thu đổi trong năm đạt 210 triệu USD, tăng 17.5% so với năm trước. Trong đó có 110 bàn đại lý thu đổi được trên 40 triệu USD và 140 bàn thu đổi của các NHTM đạt doanh số 170 triệu USD, tăng 30.7% so với năm trước. Đồng thời chi nhánh NHNN ở Hà Nội cũng cấp 1200 giấy phép chuyển ngoại tệ ra nước ngoài cho người cư trú là công dân Việt Nam với doanh số 15 triệu USD. Điều này đã chứng tỏ dân chúng và ngay cả khách du lịch cũng tìm đến đổi ngoại tệ tại các bàn thu đổi hợp pháp ngày càng tăng lên. Trong 2 năm qua, tổng dự trữ ngoại hối quốc gia tăng nhanh, quỹ dự trữ ngoại hối năm 2002 là 4414 triệu USD tăng 19.84% so với năm 2001. Đây là kết quả của chính sách nới lỏng tiền tệ một cách thận trọng của NHNN. Theo ước tính của IMF, đến năm 2006 VN cần 6341 triệu USD để cân bằng cán cân thanh toán của mình. Chương III : Những vấn đề tồn tại và kiến nghị. I - Những tồn tại cần khắc phục. Mặc dù năm 2002 và nửa đầu năm 2003, NHNN đã đạt được rất nhiều thành công trong công tác quản lý ngoại hối nhưng bên cạnh đó vẫn không tránh khỏi một số hạn chế. Đó là: - Chưa có những biện pháp, cơ chế chính sách để thu hút vốn đầu tư nước ngoài, chưa có giải pháp để luồng ngoại tệ từ nước ngoài chảy về nước ta tăng lên. - Tỉ lệ cho vay bằng ngoại tệ thấp. - Hệ thống văn bản chính sách về quản lý ngoại hối vẫn chưa rõ ràng, có hiệu lực chưa cao. Một số văn bản không cập nhật, không đáp ứng được yêu cầu của thị trường... II - kiến nghị. 1. Thiết lập cơ chế điều hành tỷ giá hợp lý. Hiện nay, cơ chế tỉ giá đang được NHNN áp dụng để điều hành chính sách tiền tệ là cơ chế tỷ giá thả nổi có điều tiết. Khi sử dụng chính sách này, NHNN có thuận lợi là có thể kiểm soát được sự biến động thất thường của tỷ giá nhưng lại gặp phải khó khăn là tỷ giá không phản ánh đúng quan hệ cung cầu ngoại tệ trên thị trường làm cho hoạt động kinh doanh ngoại tệ của ngân hàng không linh hoạt và kém hiệu quả. Trong tương lai NHNN cần thay đổi cơ chế điều hành tỷ giá theo hướng gắn liền với các quy luật của nền kinh tế thị trường. Nói cách khác, NHNN cần mở rộng biên độ xác định tỷ giá kinh doanh, xoá bỏ dần sự can thiệp trực tiếp mang tính hành chính lên tỷ giá như: kết hối, khống chế tỷ giá kỳ hạn, hoán đổi tiền tệ... tiến đến thực hiện cơ chế thả nổi, trong đó NHNN chỉ có thể tác động gián tiếp đến tỷ giá thông qua hoạt động mua bán ngoại tệ trên thị trường ngoại tệ liên ngân hàng. Tỷ giá được điều chỉnh linh hoạt hơn sẽ khuyến khích kiểm soát nhập khẩu trên cơ sở an toàn, tạo điều kiện tiếp tục hướng công tác điều hành tỷ giá theo đúng quy luật cung cầu của thị trường . 2. Tiếp tục đổi mới bộ máy quản lý. Một số nghị định ban hành năm 1998, 1999 là giai đoạn sau khi khủng hoảng tài chính tiền tệ khu vực nay không còn phù hợp với xu hướng phát triển nền kinh tế khu vực và thế giới. Yêu cầu cần phải minh bạch hoá chính sách và cải cách hành chính đang đặt ra phải có một văn bản pháp lý ở cấp cao hơn (Luật hoặc pháp lệnh về ngoại hối). Thêm vào đó, việc Chính phủ quy định lại cơ cấu, chức năng của NHNN đã tạo điều kiện cho NHNN mở rộng thẩm quyền của mình trong lĩnh vực hoạt động kinh doanh ngân hàng. Chính vì thế mà NHNN nên sử dụng triệt để lợi thế của mình đối với một công tác trọng yếu như công tác quản lý ngoại hối. Để thực hiện điều này, NHTƯ cần tiếp tục hoàn chỉnh hệ thống văn bản chính sách về quản lý ngoại hối theo một số yêu cầu cụ thể; phân công công việc cho các chi nhánh, phòng ban thật cụ thể, rõ ràng, nhằm tránh khỏi sự chồng chéo nhau khi giải quyết công việc; đổi mới trong quy trình làm việc sao cho tiết kiệm được chi phí và thời gian một cách có hiệu quả nhất. Năm nay, NHNN đang nghiên cứu và cho áp dụng thêm một số công cụ của thị trường như Quyền chọn và hoàn thiện các công cụ đã có gồm giao dịch kỳ hạn và giao dịch hoán đổi cho phù hợp với thông lệ quốc tế là một việc làm đáng mừng và cần phải phát triển hơn nữa. 3. NHNN là người mua bán cuối cùng. Trong thị trường ngoại tệ liên ngân hàng rất dễ xảy ra sự mất cân đối trong giao dịch. Nếu thừa ngoại tệ thì tất cả các ngân hàng thành viên đặt lệnh bán. Nếu thiếu ngoại tệ, mọi ngân hàng đều đặt lệnh mua. Đúng ra NHNN phải can thiệp thông qua hoạt động mua bán ngoại tệ nhưng NHNN lại không thực hiện được nhiệm vụ này. Điều đó làm cho niềm tin của các ngân hàng thành viên vào thị trường giảm dần, dẫn đến việc các NHTM trực tiếp kinh doanh với nhau không thông qua thị trường. hậu quả là không chỉ tồn quỹ ngoại hối bị giảm bớt mà còn làm suy yếu vai trò điều tiết của NHNN. Vì vậy, để thực hiện tốt chức năng điều tiết thị trường, trước hết NHNN phải sẵn sàng thoả mãn mọi nhu cầu hợp lý của thị trường, ngược lại theo tác động hai chiều của giao dịch, NHNN có thể mua được ngoại tệ từ các NHTM. Hiển nhiên vấn đề này chỉ được thực hiện khi NHNN xây dựng cơ chế tỷ giá thích hợp, quản lý tốt tài khoản tiền gửi ngoại tệ, quỹ dự trữ ngoại hối dồi dào. 4. Về nghiệp vụ kinh doanh tiền tệ. a) Giao dịch của nghiệp vụ giao ngay. Thường thì giao dịch giao ngay được thực hiện trong vòng hai ngày làm việc sau ngày đàm phán. Nên để khuyến khích các NHTM mua bán ngoại tệ thì NHNN cần đẩy nhanh tốc độ thị trường bằng cách nối mạng thanh toán bù trừ liên ngân hàng cho tất cả các định chế được phép kinh doanh ngoại tệ. Nếu thời gian xử lý chứng từ được giảm bớt, các NHTM không chỉ tiết kiệm được thời gian mà còn tận dụng được nhiều cơ hội kinh doanh. b) Đề nghị ký quỹ trong các giao dịch hối đoái kỳ hạn. Bản chất của hợp đồng kỳ hạn là một giao dịch song phương giữa người mua và bán kỳ hạn nên việc thực hiện hợp đồng phụ thuộc rất nhiều vào thiện chí và tình hình tài chính của hai bên đối tác. Nếu tỷ giá biến động gây bất lợi một khoản lỗ vượt quá khả năng tài chính của một bên thì sẽ dẫn đến không thể thực hiện hợp đồng. Mặt khác các giao dịch kỳ hạn không thể chuyển nhượng và thanh lý trước hạn để hạn chế rủi ro như hợp đồng tương lai, do vậy ngân hàng phải yêu cầu khách hàng ký quỹ với một tỷ lệ nhất định, có thể là từ 1- 2% giá trị hợp đồng. Nếu tỷ giá biến động có lợi cho khách hàng thì tỷ lệ ký quỹ không thay đổi. Còn nếu tỷ giá biến động bất lợi cho khách hàng, khách hàng bị lỗ đến một mức độ nhất định thì ngân hàng yêu cầu khách hàng bổ sung tiền ký quỹ. Số tiền ký quỹ sẽ bảo đảm an toàn giúp các bên thực hiện tốt hợp đồng. c) Nghiệp vụ tương lai và quyền chọn tiền tệ. Do nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan mà hiện nay NHNN còn dè dặt với nghiệp vụ này. Trong tương lai, khi nền kinh tế Việt Nam hội nhập với nền kinh tế thế giới, NHNN nên cho phép các NHTM từng bước tiếp cận với nghiệp vụ này vì nó vừa làm đa dạng và sinh động thị trường hối đoái, vừa cung cấp thêm công cụ kiểm soát việc phòng ngừa rủi ro ở mức độ cao hơn cho kinh tế. 5. Gia tăng quỹ dự trữ ngoại hối quốc gia. Một điều kiện không thể thiếu trong việc xây dựng khả năng chuyển đổi cho bản tệ là nguồn dự trữ ngoại hối của quốc gia phải dồi dào nên: Một là : NHNN tiếp tục đưa thêm tiền ra lưu thông để thu gom ngoại tệ làm tăng quỹ dự trữ ngoại hối, phối hợp với BTC trong việc quản lý và sử dụng hiệu quả nguồn ngoại tệ do bán dầu thô - mặt hàng xuất khẩu chiến lược của quốc gia; tăng cường các biện pháp kinh tế khuyến khích các tổ chức, cá nhân bán ngoại tệ cho NHTM. Hai là: Về việc đánh giá tồn quỹ ngoại hối. Hiện nay, quỹ dự trữ ngoại hối được vận động theo tuần nhập khẩu, nói cách khác, nguồn ngoại hối dự trữ chỉ dừng lại ở mức sẵn sàng thoả mãn các nhu cầu ngoại tệ để cân bằng cán cân thương mại. Điều này chỉ phù hợp khi Việt Nam ở thực trạng thường xuyên thâm hụt cán cân thương mại và dịch vụ. Từ đó, trong tương lai NHNN phải thay đổi cách tính nguồn ngoại tệ dự trữ bằng cách cộng thêm khoản dự phòng phát sinh từ cán cân vốn, đồng thời gia tăng nguồn ngoại hối cho mục tiêu ổn định tỷ giá khi thị trường tài chính trong nước và quốc tế biến động. 6. Giảm tỉ lệ kết hối. Xoá bỏ hết các hạn chế trong giao dịch vãng lai vào đầu năm và đưa tỷ lệ kết hối bằng không vào cuối năm. Trong tự do hoá giao dịch vãng lai, đến nay chỉ còn việc đánh thuế chuyển lợi nhuận ra nước ngoài và nội dung này Bộ tài chính đang trình Quốc hội xem xét. Việc giảm tỷ lệ kết hối từ 80% (1998) xuống 50% ( 2000) và 40% (2001), 30% (2002) không gây những đột biến lớn trên thị trường ngoại tệ, do đó việc giảm tỷ lệ kết hối có thể thực hiện được. 7. Phát triển công nghệ thông tin ngân hàng. Tiếp tục đẩy mạnh việc ứng dụng công nghệ tin học trong quản lý bằng việc xây dựng hệ cơ sở dữ liệu về ngoại hối nhằm đưa ra những cảnh báo sớm về quan hệ cung cầu ngoại tệ trên thị trường qua đó tham mưu cho Chính phủ điều hành tỷ giá và quản lý dự trữ ngoại hối Nhà nước cho phù hợp. Đồng thời, trang bị thêm các loại máy móc thiết bị hiện đại nhằm nâng cao chất lượng cho các dịch vụ của ngân hàng cũng là một việc làm cấp thiết. Kết luận Xu thế hội nhập và toàn cầu hóa đã mang lại những cơ hội trong lớn cho nền kinh tế thế giới và cho mỗi quốc gia tham gia quá trình hội nhập. Việt Nam nhờ các chính sách mở cửa mà quan hệ thông thương với nước ngoài tăng lên (khoảng 155 nước trên thế giới), đặc biệt khi nước ta đang trong quá trình xúc tiến gia nhập vào các tổ chức quốc tế như WTO, AFTA,... như hiện nay. Điều đó tạo điều kiện cho các giao dịch quốc tế tăng. Chính phủ Việt Nam với việc ban hành một loạt các chính sách quản lý ngoại hối trên cơ sở những nỗ lực rất lớn trong việc hệ thống hóa và khởi thảo của NHNN Việt Nam, bên cạnh việc từng bước thiết lập trật tự trong các giao dịch ngoại hối và công tác quản lý Nhà nước về hoạt động ngoại hối phù hợp với chính sách mới, chấm dứt được tình trạng các văn bản về quản lý ngoại hối chồng chéo nhau. Tuy nhiên, một số văn bản qui định tạm thời mang tính chất tình thế tuy đã lỗi thời nhưng vẫn tồn tại và có hiệu lực trong một thời gian dài, gây ra không ít khó khăn cho các TCTD trong viêc thực hiện các cơ chế, qui chế về hoạt động ngoại hối, đặc biệt là việc ban hành các văn bản hướng dẫn còn có nhiều thiếu sót nên việc thực hiện các chính sách còn gặp nhiều khó khăn. Việc quản lý ngoại hối một cách chặt chẽ và linh hoạt với những sự thay đổi bất ngờ trên thị trường tiền tệ thế giới là việc làm quan trọng không thể coi nhẹ trong việc thực thi chính sách tiền tệ quốc gia. Một đất nước trên thị trường lưu thông nhiều loai ngoại tệ nhất là ngoại tệ mạnh sẽ làm suy yếu, giảm sức mua của tiền tệ trong nước, nguy hại hơn là làm giảm lòng tin của dân chúng, gây tâm lý cho người tiêu dùng né tránh, đùn đẩy tiền bản sứ, đề cao cất giữ tiền nước ngoài. Một nền lưu thông tiền tệ mất tính độc lập, tự chủ, bị lệ thuộc vào tiền nước ngoài như vậy sẽ dẫn đến lưu thông tiền tệ trong nước bị rối loạn, lạm phát tăng, sức mua đồng tiền bị giảm sút, ảnh hưởng trực tiếp đến sản xuất, lưu thông hàng hoá và đời sống xã hội. Thông qua việc phân tích thực trạng quản lý ngoại hối thời gian qua cho phép ta có thêm được những nhận xét và có cái nhìn mới về hoạt động quản lý ngoại hối để từ đó tìm ra phương hướng hoạt động cho thời gian tới Như vậy, quản lý ngoại hối và điều tiết tỷ giá một cách mẫn cảm, linh hoạt, kịp thời là nhân tố quan trọng trong việc nâng cao hiệu quả hoạt động của nền kinh tế, đưa nền kinh tế nước ta nhanh chóng hội nhập với thị trường khu vực và thế giới, tạo cơ sở dọn đường cho nền kinh tế cất cánh một cách năng động và bền vững nhằm đạt được những mục tiêu phát triển kinh tế xã hội của đất nước trong giai đoạn hiện nay. Một lần nữa em xin chân thành cảm ơn các thầy cô đã truyền đạt cho em những kiến thức ban đầu để làm nền tảng cho nghiệp vụ chuyên môn sau này. -------*&*------- Danh mục tài liệu tham khảo 1. Giáo trình Ngân hàng Trung ương - Học viện Ngân hàng - 2003. 2. Thời báo Ngân hàng năm 2001, 2002 và các số 41, 45, 46, 47, 49, 50 năm 2003. 3. Báo Diễn đàn doanh nghiệp số 16, 47 năm 2003. 4. Tạp chí Ngân hàng số tháng 6/2003. Mục lục Trang ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc35465.doc
Tài liệu liên quan