Đầu tư FDI của Mỹ vào Việt Nam

Đầu tư FDI của Mỹ vào Việt Nam I/ Khái quát về tình hình đầu tư ra nước ngoài của Mỹ: Việc đầu tư ra nước ngoài của Mỹ nhằm mục tiêu khai thác thị trường nước ngoài để thu lợi nhuận, gia tăng khả năng cạnh tranh, chuyển giao công nghệ ra nước ngoài và thực hiện các mục tiêu của chính sách đối ngoại. Dòng FDI của Mỹ ra nước ngoài chủ yếu hướng vào các nước phát triển, chiếm 70- 75% tổng số vốn đầu tư ra nước ngoài. Phần còn lại chủ yếu đầu tư vào các nước đang phát triển. Trong số các hoạt

doc59 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1507 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Đầu tư FDI của Mỹ vào Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
động đầu tư ra nước ngoài trong lĩnh vực sản xuất- chế tạo, lắp ráp các sản phẩm điện tử, ô tô, các thiết bị công nghiệp nặng, chế biến thực phẩm, dịch vụ tài chính - ngân hàng, du lịch - khách sạn, nghiên cứu - phát triển, tư vấn, vận tải....hoạt động đầu tư ra nước ngoài trong ngành sản xuất chế tạo của Mỹ có những nét đặc thù sau: + Lượng vốn đầu tư của Mỹ chiếm 22% trong tổng số đầu tư của các nước công nghiệp sang các nước đang phát triển. + Lượng vốn đầu tư này chủ yếu tập trung vào khu vực Châu Mỹ La Tinh (60%), Đông á (30%), hai nước Brazil và Mêhicô chiếm một nửa số vốn đầu tư trực tiếp của Mỹ vào các nước đang phát triển. Các nhà đầu tư Mỹ thường áp dụng hai loại hình chiến lược đầu tư chủ yếu khi tiến hành đầu tư ra nước ngoài trong lĩnh vực này: Chiến lựơc 1: Thường được áp dụng là chiến lựơc khai thác thị trường nội địa để đáp ứng nhu cầu trong nước, vượt qua các hàng raò bảo hộ và tận dụng các khuyến khích của chính phủ. Loại hình chiến lựơc này thường được áp dụng ở các nước như Achentina, Brazil, Mêhicô dưới dạng thay thế nhập khẩu chủ yếu đối với ô tô và phương tiện vận tải. Chiến lược 2: Thực hiện dưới dạng hướng về xuất khẩu: Các nhà đầu tư của Mỹ sẽ thực hiện việc khai thác các nguồn lực trong nước về nguyên liệu, nhân công có giá rẻ để sản xuất hoặc lắp ráp các sản phẩm và xuất khẩu ra nước ngoài. Loại hình này thường được áp dụng đối với việc chế tạo, lắp ráp các mặt hàng điện tử và công việc này thường đựoc thực hiện ở Malayxia, Thái lan, những nền kinh tế của các nước Công nghiệp mới (Nies) được coi là những đối tác quan trọng trong chiến lược hợp tác đầu tư của Mỹ. Hoạt động đầu tư ra nước ngoài của các công ty Mỹ thường nhận được chính sách hỗ trợ trực tiếp hoặc gián tiếp của chính phủ thông qua tổ chức OPIC, các Hiệp định thương mại song phương khuyến khích, bảo hộ đầu tư, Các hiệp định đa phương về bảo đảm đầu tư (MIGA) áp dụng cho từng khu vực thị trường theo định hướng của chính phủ. Chẳng hạn, trong qúa trình xúc tiến thương mại, chính phủ Mỹ thường xuyên thông báo các cơ hội kinh doanh cho các doanh nghiệp của nước mình, đồng thời cũng công bố một số lượng lớn các dữ liệu thị trường chung và riêng, rất chi tiết, tiện sử dụng cho những người phân tích thị trường.... II/ Mối quan hệ hợp tác Việt- Mỹ: Sau nhiều cơ hội để thiết lập và phát triển quan hệ hai nước bị bỏ lỡ, chỉ đến đầu những năm 90 của thế kỷ 20, quá trình bình thường hoá quan hệ Việt Nam-Hoa Kỳ mới được đẩy mạnh để năm 1995, hai nước chính thức lập quan hệ ngoại giao. Đây cũng là một quá trình khó khăn, đòi hỏi nhiều công sức và nỗ lực rất cao của Chính phủ và nhân dân hai nước. Tuy nhiên, những nỗ lực đó đã tạo được nền tảng vững chắc cho quan hệ giữa hai nước. Việt Nam và Hoa Kỳ đã chính thức thiết lập quan hệ giữa hai quốc gia có chủ quyền dựa trên cơ sở tôn trọng lẫn nhau, bình đẳng và hợp tác cùng có lợi. Điều này cũng thể hiện nguyện vọng chung của nhân dân hai nước từ rất lâu là muốn xây dựng mối quan hệ hợp tác và hữu nghị giữa hai dân tộc. Việc bình thường hóa quan hệ hai nước đã đem lại lợi ích to lớn cho cả hai dân tộc Việt Nam và Hoa Kỳ. Trong một thập kỷ qua, chính phủ và nhân dân hai nước đã có những nỗ lực to lớn, cùng làm được nhiều việc để vượt qua những di sản nặng nề của cuộc chiến tranh, khắc phục những khác biệt và xây dựng lòng tin để tạo ra những bước tiến dài và vững chắc trong quan hệ hai nước. Giá trị thương mại hai chiều giữa Hoa Kỳ và Việt Nam trong 9 tháng đầu năm 2002 tăng 91,43% so với cùng kỳ năm 2001 - Đó là một trong những kết quả của Hiệp định Thương mại Việt - Mỹ (BTA). 5 ngày nữa là tròn một năm BTA có hiệu lực (11/12/2001). Kim ngạch xuất khẩu hàng Việt Nam vào Hoa Kỳ cả năm 2001 đạt hơn 1 tỷ USD. Nhưng chỉ trong 9 tháng đầu năm nay, con số này đã là gần 1,6 tỷ USD. Nếu tính tỷ lệ cùng kỳ của hai năm (9 tháng), kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam đã đạt vận tốc kỷ lục 113%, vượt xa cả dự đoán của Ngân hàng Thế giới (WB). Những mặt hàng tăng trưởng mạnh nhất là dệt may, thủy sản... Nhập khẩu vào Việt Nam từ Mỹ cũng đạt những kết quả khả quan. 9 tháng năm 2002, tổng kim ngạch nhập khẩu hàng Mỹ vào Việt Nam là 343,48 triệu USD, con số này cùng kỳ năm 2001 chỉ đạt gần 264 triệu USD. Những mặt hàng chiếm tỷ trọng chủ yếu là bông, phân bón, phụ liệu ngành giày dép, nguyên liệu chế biến thực phẩm... Đầu tư trực tiếp từ Hoa Kỳ vào Việt Nam cũng có những tiến bộ đáng kể. Số dự án của doanh nghiệp (DN) Mỹ hiện còn hiệu lực là khoảng 144 dự án. Chưa kể 1,15 tỷ USD mà các DN Mỹ đầu tư vào Việt Nam thông qua nước thứ ba (Singapore, Hà Lan...), các dự án đầu tư trực tiếp (FDI) của Mỹ tại Việt Nam có tổng trị giá lên đến trên 1 tỷ USD. Riêng trong 10 tháng, Hoa Kỳ đã có thêm 20 dự án mới, tổng vốn đăng ký khoảng 50 triệu USD, trở thành nước đứng thứ 6 về vốn đầu tư vào Việt Nam năm 2002. Không những thế, ngày càng có nhiều doanh nhân Hoa Kỳ đang mong muốn hợp tác làm ăn với Việt Nam. Như ông Raymond F. Burghardt, Đại sứ Hoa Kỳ tại Việt Nam đã khẳng định tại cuộc họp báo sáng nay (6/12) do Đại sứ quán Mỹ tại Việt Nam tổ chức, ''BTA đánh dấu một bước ngoặt trong quan hệ kinh tế giữa hai nước, dỡ bỏ phần lớn những rào cản tồn tại trong nhiều năm...''Việt Nam rất cố gắng trong tiến trình thực thi BTA...'' Đó là nhận xét chung của nhiều chuyên gia Hoa Kỳ và Việt Nam. Chính phủ Việt Nam không ngừng nỗ lực cải thiện môi trường đầu tư, khiến sức hấp dẫn ngày càng cao hơn trong mắt các quốc gia đối tác. Việt Nam có nhiều thành tựu trong việc tự do hóa thương mại và mở cửa các lĩnh vực trước đây bị hạn chế, nhằm thực hiện lộ trình BTA. Kết quả đó đã được thế giới công nhận. Mặt khác, Hoa Kỳ cũng dành cho Việt Nam sự giúp đỡ cần thiết để thực thi có hiệu quả Hiệp định Thương mại song phương. Dự án STAR-Việt Nam do Cơ quan Phát triển quốc tế Mỹ (USAID) tài trợ đã thực hiện nhiều chương trình trợ giúp kỹ thuật nhằm hỗ trợ Việt Nam thực hiện BTA. Hàng loạt hội thảo về sở hữu trí tuệ, bưu chính viễn thông, thương mại điện tử, ban hành và thi hành luật... mà STAR-Việt Nam tổ chức trong gần một năm qua, góp phần cải thiện nhận thức của các nhà quản lý và DN Việt Nam về quy định của BTA trong những lĩnh vực đó. Quan trọng hơn, họ đã hiểu rõ hơn tầm quan trọng của việc thực hiện BTA đối với quá trình hội nhập của Việt Nam vào nền kinh tế quốc tế, nhất là việc gia nhập WTO, bởi BTA và một số quy định của GATT/WTO có nhiều điểm tương đồng. Hoa Kỳ cũng dành cho Việt Nam những khoản tài trợ để phát triển lĩnh vực y tế, giáo dục, kỹ thuật, công nghệ cao... Chính phủ Mỹ giúp Việt Nam đào tạo sinh viên, thạc sỹ, tiến sỹ tại Mỹ và ngay tại Việt Nam. ''Đây sẽ là một trong những chương trình trợ giúp tốt nhất mà Mỹ dành cho một nước khác trên thế giới'', đại diện Đại sứ quán Hoa Kỳ khẳng định như vậy tại cuộc họp báo sáng nay. DN Việt Nam tận dụng tối đa cơ hội xúc tiến thương mại Trước khi BTA có hiệu lực, nhiều thương nhân Việt Nam từng cố gắng thâm nhập thị trường Mỹ. Một năm trở lại đây, hoạt động này thực sự trở nên sôi động. Từ tháng 6/2002, việc xúc tiến thành lập một trung tâm xúc tiến thương mại tại Mỹ đã được tiến hành. Nhiều đoàn DN của các thành phố lớn như Hà Nội, TP.HCM không ngần ngại đầu tư kinh phí đi khảo sát tại chỗ thị trường tiềm năng này. Chính phủ Việt Nam cũng tích cực hỗ trợ kinh phí xúc tiến thương mại cho các DA. Sau thời điểm thiết lập quan hệ ngoại giao ngày 12/7/1995, cả Việt Nam và Mỹ đều rất nỗ lực mở rộng và phát triển hợp tác trong nhiều lĩnh vực.Một năm trước khi cấm vận được bãi bỏ, VN chỉ nhập khẩu từ Mỹ (bằng đường tắt - qua nước thứ 3) cỡ 7 triệu USD, và chưa xuất khẩu gì qua Mỹ trong năm 1993 cả. Ngay năm sau, 1994, hàng VN xuất khẩu qua Mỹ đã đạt 50,5 triệu USD, rồi từ hiệp định thương mại Việt Mỹ (BTA) con số này đã tăng rất nhanh từ 1 tỷ 053 triệu USD (2003) đến 5 tỷ 276 triệu USD năm 2004. Như vậy VN đã vượt các bạn hàng lâu đời của Mỹ, như Tây Ban Nha, Achentina… Nhập khẩu từ Mỹ vào VN cũng tăng nhanh (bình quân cỡ 1 tỷ USD mỗi năm), và đã đạt tới 1 tỷ 764 triệu USD năm 2004. Như vậy thương mại song phuơng Việt Mỹ đã vượt quá 7 tỷ USD năm 2004, và ước luợng là sẽ đạt 8 tỷ USD năm 2005 Đầu tư trực tiếp (FDI) của Mỹ vào VN Tổng số đầu tư trực tiếp của Mỹ vào VN (kể từ ngày bỏ cấm vận) là khoảng 2 tỷ 600 triệu USD (riêng lãnh vực dầu lửa đã nhận được gần 1 tỷ USD, theo nguồn tin của ông Michael Marine, Đại sứ Mỹ ở VN), và có thể chia ra như sau: • 730 triệu USD được đầu tư trực tiếp từ Mỹ • 1 tỷ 900 triệu được đầu tư qua các công ty «con» (ở nước thứ 3) của các Tổng công ty lớn của Mỹ, như Nike (Đài Loan), hay Pepsi Cola (Singapore). Trong thực tế, Mỹ là nước đầu tư lớn nhất vào VN năm 2004, với 531 triệu USD (theo Đại sứ M.Marine), chiếm 19% tổng giá trị đầu tư của tất cả các nước ngoài vào VN. Viện trợ kinh tế của Mỹ cho VN Báo cáo do Cơ quan nghiên cứu của Quốc hội Mỹ cho biết, tổng số viện trợ của Mỹ cho VN (có cả các chương trình USAID - Cơ quan hỗ trợ Phát triển quốc tế của Mỹ) từ sau khi bỏ cấm vận đến tài khóa 2003 đã đạt tới 40 triệu USD. Riêng USAID đã tăng từ 2 triệu USD năm 1996, lên 12,5 triệu USD năm 2003, lùi xuống11 triệu năm 2004, nhưng sẽ được tăng lên tới 13 triệu USD năm 2005. Các khỏan viện trợ lớn của Mỹ thường được dùng phòng chống HIV/AIDS, chăm sóc trẻ em, trao đổi giáo dục, trợ giúp thực phẩm, hỗ trợ thực hiện BTA. Những năm gần đây, quan hệ hai nước có những bước phát triển mới trên nhiều lĩnh vực và đang ở vào giai đoạn tốt nhất từ trước tới nay. Hai bên đã thiết lập được các kênh đối thoại mang tính xây dựng và thẳng thắn giữa các cấp, các ngành, các tổ chức nhân dân, tổ chức xã hội... trong đó có nhiều đoàn quan chức cấp cao của chính quyền, quốc hội, kinh tế, thương mại... của hai nước đã thăm viếng lẫn nhau, như đoàn Tổng thống Clinton, Bộ trưởng Quốc phòng Cohen, Cố vấn An ninh Quốc gia, các Bộ trưởng Ngoại giao... Về phía Việt Nam, các Phó Thủ tướng, Bộ trưởng Ngoại giao, Bộ trưởng Quốc phòng... cũng đã sang thăm Hoa Kỳ. Ngoài ra, lãnh đạo cấp cao hai nước cũng có các tiếp xúc thường xuyên tại một số diễn đàn quốc tế và khu vực. Đến nay, lãnh đạo hai nước đã nhất trí cùng xây dựng quan hệ ổn định, lâu dài giữa hai nước. Quan hệ kinh tế-thương mại là lĩnh vực phát triển nhanh đầy ấn tượng trong quan hệ Việt Nam-Hoa Kỳ. Hiệp định Thương mại song phương năm 2001 đã mở ra cơ hội to lớn cho các nhà doanh nghiệp hai nước. Nếu như kim ngạch thương mại hai chiều năm 2001 chỉ đạt gần 1,4 tỷ USD thì năm 2003 là 5,85 tỷ, năm 2004 là 6,4 tỷ USD, trong đó xuất khẩu của Việt Nam là nhằm tạo nền móng vững chắc cho quan hệ kinh tế lâu dài và cùng có lợi giữa hai nước. Hai bên cũng đã ký kết nhiều hiệp định, thỏa thuận về kinh tế như Hiệp định Dệt may, Hàng không, nâng cao năng lực cạnh tranh.... và hiện đang tích cực trao đổi tiến tới ký kết một số hiệp định, thỏa thuận khác như Hiệp định khung về hợp tác kinh tế, kỹ thuật, Hiệp định hợp tác vận tải biển, Bản ghi nhớ hợp tác nông nghiệp... Du lịch của Hoa Kỳ vào Việt Nam hàng năm tăng nhanh, tạo điều kiện tốt hơn cho quan hệ kinh tế, thương mại, đầu tư và du lịch giữa hai nước. Đến tháng 11/2004 đạt 247.221 lượt khách, tăng 27,7% so với cùng kỳ năm 2003 và Hoa Kỳ đã trở thành nước thứ 2 (sau Trung Quốc) về số lượng khách du lịch vào Việt Nam. Đường bay thẳng giữa Hoa Kỳ và Việt Nam vừa được nối lại sau 30 năm gián đoạn. Quan hệ hợp tác trên các lĩnh vực khác như khoa học-kỹ thuật, giáo dục-đào tạo, y tế, lao động, văn hóa, nhân đạo cũng có những bước tiến tích cực. Hai bên đã thỏa thuận và ký văn bản về những nguyên tắc hợp tác thực thi Quỹ giáo dục dành cho Việt Nam. Nhiều dự án và chương trình về y tế và chăm sóc sức khỏe đã được nỗ lực xây dựng và có hiệu quả như chương trình 15 triệu USD phòng chống HIV/AIDS (2004), hợp tác phòng chống dịch bệnh SARS, dự án Giáo dục vệ sinh và dinh dưỡng học đường. Hợp tác giữa hai nước trong việc giải quyết các vấn đề nhân đạo do chiến tranh để lại ngày càng được tăng cường, bắt đầu với sự hợp tác đầy thiện chí và ngày càng có hiệu quả của Việt Nam với Hoa Kỳ trong việc tìm kiếm quân nhân mất tích trong chiến tranh mà Hoa Kỳ coi như "mẫu mực". Phía Hoa Kỳ cũng đã có những biện pháp đáp ứng nhu cầu nhân đạo của Việt Nam trong việc khắc phục những hậu quả chiến tranh. Quan hệ quốc phòng giữa hai nước cũng dần được đi vào bình thường hóa. Đáp lại chuyến thăm Việt Nam của Bộ trưởng Quốc phòng Hoa Kỳ Williams Cohen, lần đầu tiên trong lịch sử quan hệ hai nước, Bộ trưởng Quốc phòng Phạm Văn Trà đã dẫn đầu đoàn đại biểu quân sự cấp cao Việt Nam thăm Hoa Kỳ tháng 11/2003. Tiếp sau đó, tàu chiến Hoa Kỳ USS Vandegrift FFG 48 đã ghé thăm cảng Thành phố Hồ Chí Minh, tàu USS Curtis Wilbur thăm cảng Đà Nẵng và gần đây là tàu USS Gary FFG 51 thăm cảng Thành phố Hồ Chí Minh. Hai nước đã và đang tích cực hợp tác trong lĩnh vực chia sẻ thông tin chống khủng bố. Điều này cho thấy quan hệ giữa Việt Nam và Hoa Kỳ đã bước vào giai đoạn phát triển ngày càng toàn diện, làm cơ sở quan trọng cho hai nước xây dựng quan hệ lâu dài. Bên cạnh những bước phát triển trong thời gian qua, giữa hai nước cũng có những bất đồng về vấn đề dân chủ, nhân quyền, tôn giáo… Đây cũng là điều dễ hiểu trong quan hệ giữa hai quốc gia có sự khác biệt về lịch sử, văn hóa, chế độ chính trị, trình độ phát triển như Việt Nam và Hoa Kỳ. Thời gian là yếu tố cần thiết nhưng điều quan trọng nhất là hai bên cần nhìn thẳng vào thực tế, lấy lợi ích của nhân dân hai nước làm trọng, không để các khác biệt đó cản trở quan hệ hai nước và cũng nỗ lực giải quyết thông qua đối thoại và thương lượng. Tuy chặng đường trước mắt còn khó khăn, nhưng sự phát triển của quan hệ hai nước trong mười năm qua cho thấy đã đến lúc quan hệ hai nước cần được mở rộng và tăng cường hơn nữa theo hướng ổn định lâu dài vì lợi ích không chỉ của nhân dân hai nước mà còn vì hòa bình, hợp tác và phát triển trong khu vực và trên thế giới. Với những gì mà Chính phủ và nhân dân hai nước đã tạo dựng được trong 10 năm qua và nỗ lực chung của hai nước, chúng ta hoàn toàn có khả năng thực hiện được mục tiêu này. Hướng tới tương lai: Theo BTA thì liên hệ thương mại bình thường (NTR - Normal Trade Relations) Mỹ - Việt phải được triển hạn hàng năm cho đến khi VN vào được WTO, trừ khi Mỹ thỏa thuận cho VN được hưởng NTR vĩnh viễn (thành PNTR=Permanent Normal Trade Relations).Đây là 1 trong những đề tài quan trọng VN cần thảo luận với Mỹ, nếu VN ước lượng chưa vào được WTO trong ngắn, hoặc trung hạn, vì VN cần 1 PNTR để tiếp tục xuất khẩu qua Mỹ (ước lượng từ 5,7 tỷ - 6 tỷ USD cho năm 2005: Riêng trong 3 tháng đầu năm 2005 đã đạt 1,5 tỷ USD, tăng 36,5% so với cùng kỳ 2004) và VN cũng nhập khẩu từ Mỹ tới 200 triệu USD trong quý 1 năm 2005. Dĩ nhiên còn nhiều đề tài kinh tế quan trọng khác để thương lượng với Mỹ vào dịp này, như việc thành lập 1 Hội đồng cao cấp Hợp tác Kinh Tế (Senior Executive Advisory Council) bao gồm đại diện Việt - Mỹ của tất cả các ngành công nghiệp hỗ trợ Hợp tác và Đầu tư Mỹ trong tương lai ở VN. Dự án thành lập một Hội đồng cao cấp vì sự Phát triển Hợp tác Kinh tế Việt Pháp cũng đã được Tổng-thống Pháp Chirac đề ra vào dịp tiếp đón đoàn của Tổng Bí thư Nông Đức Mạnh viếng thăm Pháp vào đầu tháng 6.2005. Ngoài ra, trong cuộc Hội thảo Quan hệ Việt - Mỹ ngày 04.06.2005 ở Hà Nội, ông Peter Peterson, nguyên Đại sứ Mỹ đầu tiên ở VN, khi nói cảm tưởng về chuyến đi Mỹ của Thủ tướng Phan Văn Khải, ông cũng đã: «hy vọng là Thủ tướng CSVN cũng sẽ phát biểu vào dịp viếng thăm, về những người Mỹ dòng dõi VN, mặc dầu một số người này chưa tin tưởng vào quan hệ giữa 2 nước Việt - Mỹ, nhưng còn nhiều người khác có ngày sẽ trở Từ sự hợp tác ban đầu còn nhỏ lẻ, bó hẹp trong vấn đề nhân đạo, mối quan hệ đã mở rộng sang các lĩnh vực chính trị, kinh tế, giáo dục, y tế, khoa học-công nghệ, và cả những lĩnh vực chưa từng có trong lịch sử quan hệ hai nước như tiếp xúc quốc phòng, hợp tác chống khủng bố, ma túy, tội phạm xuyên quốc gia... Trong quan hệ hai nước, hợp tác kinh tế, thương mại luôn là lĩnh vực trọng tâm và cũng là lĩnh vực đạt nhiều kết quả tích cực nhất. Hiệp định Thương mại Việt - Mỹ được ký kết vào tháng 7/2000 và có hiệu lực vào tháng 12/2001 đã tạo cơ sở pháp lý quan trọng cho việc thúc đẩy quan hệ hợp tác kinh tế - thương mại và đầu tư. Kim ngạch buôn bán hai chiều năm 2005 đạt 8,7 tỷ USD, tăng gấp 5 lần năm 2001 (1,5 tỷ USD) và chỉ 1 năm sau đó đã đạt 9,7 tỷ USD. Hiện Hoa Kỳ là thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam. Đầu tư của Hoa Kỳ vào Việt Nam đến tháng 4/2007 đạt hơn 2,3 tỷ USD, xếp thứ 8 trong số các quốc gia và vùng lãnh thổ nước ngoài đầu tư vào Việt Nam (nếu tính cả đầu tư qua nước thứ 3 đạt khoảng 4,3 tỷ USD). Hiện có hơn 1.000 doanh nghiệp Hoa Kỳ đang hoạt động tại Việt Nam. Hai bên cũng từng bước thúc đẩy hợp tác về các vấn đề nhân đạo sau chiến tranh. Việt Nam đã và đang hợp tác chặt chẽ với Hoa Kỳ trong việc giải quyết vấn đề tìm kiếm người Mỹ mất tích trong chiến tranh. Đến nay, hai nước đã tiến hành 89 đợt tìm kiếm hỗn hợp và phía Việt Nam đã trao cho Mỹ hơn 850 bộ hài cốt. Phía Hoa Kỳ cũng đang từng bước hợp tác với Việt Nam trong việc giải quyết các vấn đề hậu quả chiến tranh ở Việt Nam như cung cấp các thông tin liên quan tới việc tìm kiếm người Việt Nam bị mất tích trong chiến tranh, tổ chức hội nghị về nghiên cứu hậu quả chất độc da cam, thực hiện các chương trình rà phá bom mìn, trồng cây xanh, trợ giúp nạn nhân. Việc giải quyết hậu quả chất độc da cam cũng đã có những tiến triển bước đầu. Ngày 25/5/2007, Quốc hội Hoa Kỳ đã thông qua khoản chi 3 triệu USD hỗ trợ bảo vệ môi trường và chăm sóc sức khỏe tại Việt Nam. Ngoài ra, hai bên cũng đang thúc đẩy hợp tác trong các lĩnh vực giáo dục-đào tạo, y tế, và lao động. Trong chuyến thăm Việt Nam gần đây của Tổng thống Mỹ George Bush vào tháng 11/2006, hai bên đã ra tuyên bố chung trong đó khẳng định quyết tâm bảo đảm cho quan hệ song phương ổn định, xây dựng, có nền tảng rộng lớn và được tiến hành trên cơ sở bình đẳng về chủ quyền và cùng có lợi. Hoạt động thương mại hai chiều cũng như đầu tư của Mỹ vào Việt Nam được cho là sẽ còn tăng mạnh vì Tổng thống Mỹ George Bush đã ký ban hành đạo luật thiết lập Quy chế Quan hệ thương mại bình thường vĩnh viễn (PNTR) với Việt Nam hồi tháng 12 năm ngoái và sau đó Việt Nam đã chính thức trở thành thành viên Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO). Những dấu mốc quan trọng trong quan hệ Việt Nam-Hoa Kỳ - Ngày 29/9/1990: Ngoại trưởng Mỹ J. Baker và Phó Thủ tướng kiêm Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Cơ Thạch lần đầu tiên gặp nhau để bàn về quan hệ hai nước tại New York. - Ngày 9/4/1991: Mỹ đưa ra "Bản lộ trình" 4 bước về bình thường hoá quan hệ với Việt Nam. - Ngày 21/11/1991: Thứ trưởng ngoại giao Lê Mai và Trợ lý Ngoại trưởng Mỹ về Đông Á-Thái Bình Dương R. Solomon đàm phán lần đầu tiên về bình thường hoá quan hệ hai nước tại New York. - Ngày 3/2/1994: Tổng thống Mỹ W. Clinton tuyên bố bỏ hoàn toàn cấm vận và lập Cơ quan liên lạc giữa hai nước. - Ngày 26/5/1994: Việt Nam và Mỹ đạt thoả thuận mở cơ quan liên lạc ở thủ đô hai nước. - Tháng 2/1995: Việt Nam và Mỹ mở Cơ quan Liên lạc tại Washington, D.C. và Hà Nội. - Ngày 11/7/1995 : Tổng thống Mỹ W. Clinton tuyên bố bình thường hoá quan hệ ngoại giao với Việt Nam. Ngày 12/7, Thủ tướng Việt Nam Võ Văn Kiệt tuyên bố thiết lập quan hệ ngoại giao với Mỹ. - Tháng 8/1995: Việt Nam và Mỹ khai trương Đại sứ quán tại Oasinhtơn và Hà Nội. Ngoại trưởng Mỹ W. Christopher lần đầu tiên thăm Việt Nam. - Tháng 4/1997: Bộ trưởng Tài chính Mỹ Rubin thăm Việt Nam, ký thoả thuận về xử lý nợ của chính quyền Sài gòn với Bộ trưởng Tài chính Nguyễn Sinh Hùng. Việt Nam cử Tuỳ viên quân sự đầu tiên tại Hoa Kỳ. - Ngày 27/6/1997: Ngoại trưởng Mỹ Albright thăm Việt Nam và ký Hiệp định về thiết lập quan hệ quyền tác giả với Ngoại trưởng Nguyễn Mạnh Cầm. - Ngày 12/5/1997 : Việt Nam và Mỹ trao đổi Đại sứ đầu tiên. - Tháng 11/1997 : Tại cuộc họp cấp cao APEC tại Canada, Mỹ ủng hộ Việt Nam vào APEC. - Ngày 11/3/1998 : Tổng thống Mỹ W. Clinton lần đầu tiên tuyên bố miễn áp dụng Đạo luật bổ sung Jackson-Vanik đối với Việt Nam. Sau đó, hàng năm Tổng thống Mỹ ra quyết định gia hạn miễn áp dụng Điều luật bổ sung Jackson-Vanik đối với Việt Nam. - Tháng 3/1998: Hai bên chính thức ký Hiệp định cho phép Cơ quan Đầu tư Tư nhân Hải ngoại Hoa kỳ (OPIC) hoạt động ở Việt Nam. - Ngày 30/9-2/10/1998 : Phó Thủ tướng kiêm Bộ trưởng Ngoại giao Việt Nam Nguyễn Mạnh Cầm lần đầu tiên thăm chính thức Mỹ. - Tháng 10/1998 : Thứ trưởng Bộ Quốc phòng Việt Nam Trần Hanh lần đầu tiên thăm chính thức Mỹ. - Ngày 29/7/1999: Cuộc trao đổi chính trị lần đầu tiên giữa hai Bộ Ngoại giao diễn ra ở Hà Nội. Đến năm 2004, đã diễn ra 4 vòng đối thoại chính trị. - Ngày 6-7/9/1999 : Ngoại trưởng Mỹ Albright thăm Việt Nam. - Ngày 12-13/9/1999: Nhân dự Hội nghị Cấp cao APEC tại Auckland, New Zealand, Thủ tướng Phan Văn Khải và Tổng thống Clinton đã có các cuộc tiếp xúc riêng trao đổi một số vấn đề trong quan hệ song phương - Ngày 9/12/1999: Ngân hàng Nhà nước Việt Nam và Ngân hàng Xuất Nhập khẩu Hoa Kỳ (EXIMBANK) chính thức ký Hiệp định Bảo lãnh khung và Hiệp định Khuyến khích dự án đầu tư - Ngày 13-15/3/2000: Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ William Cohen lần đầu tiên thăm chính thức Việt Nam. - Ngày 14/7/2000: Bộ trưởng Thương mại Vũ Khoan và đại diện thương mại Mỹ Barshefsky ký Hiệp định Thương mại song phương Mỹ-Việt tại Washington, D.C. - Ngày 6/9/2000: Nhân dự Hội nghị Thiên niên kỷ của Liên Hợp Quốc tại New York (Mỹ), Chủ tịch nước Trần Đức Lương đã có cuộc gặp với Tổng thống Clinton, và đã chính thức mời Tổng thống Clinton thăm Việt Nam vào thời gian thuận tiện cho hai bên. - Ngày 16-19/11/2000: Tổng thống Mỹ Clinton thăm chính thức Việt Nam. Trong dịp này, hai bên ký Hiệp định về hợp tác khoa học-công nghệ và Bản ghi nhớ về hợp tác lao động và chứng kiến lễ ký 12 Thư Thoả thuận về đầu tư, buôn bán. - Ngày 5-6/12/2000: Chủ tịch Cơ quan đầu tư tư nhân hải ngoại (OPIC) G. Munnoz thăm Việt Nam, cam kết dành 200 triệu USD bảo hiểm đặc biệt để hỗ trợ cho các công ty Mỹ muốn đầu tư vào Việt Nam. - Ngày 22/6-2/7/2001: Trong dịp dự khóa họp về HIV/AIDS của Liên Hợp Quốc tại New York, Phó Thủ tướng Phạm Gia Khiêm thăm làm việc tại Hoa Kỳ trao đổi về hợp tác khoa học, công nghệ và giáo dục giữa hai nước. - Ngày 24-26/7/2001: Ngoại trưởng Hoa Kỳ Colin Powell lần đầu tiên thăm Việt Nam nhân dịp dự ARF 8 và PMC tại Hà Nội. - Ngày 9-14/12/2001: Phó Thủ tướng Thường trực Nguyễn Tấn Dũng thăm làm việc tại Hoa Kỳ, chứng kiến Lễ phê chuẩn Hiệp định Thương mại Việt Nam-Hoa Kỳ (có hiệu lực ngày 10/12/2001). - Ngày 12-22/6/2002: Phó Thủ tướng Nguyễn Mạnh Cầm thăm làm việc tại Hoa Kỳ, chứng kiến Lễ ký Tuyên bố về Hợp tác giữa Bộ Kế hoạch & Đầu tư và Bang Texas và Bản ghi nhớ về Chương trình hỗ trợ kỹ thuật để thực hiện Hiệp định Thương mại Việt Nam-Hoa Kỳ. - Ngày 6-12/9/2002: Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Dy Niên thăm làm việc tại Hoa Kỳ nhằm thúc đẩy quan hệ hai nước. - Ngày 9/9/2002: Lần đầu tiên Chính phủ 2 nước ký MOU về chương trình dự phòng và chăm sóc HIV/AIDS tại Việt Nam từ 2003-2008 trị giá khoảng 20 triệu USD. - Ngày 8-22/7/2003: Đoàn Quỹ Giáo dục Việt Nam (VEF) của Mỹ vào Việt Nam triển khai Quỹ VEF, trao 22 học bổng đầu tiên cho sinh viên Việt Nam sang đào tạo tại Mỹ theo Đạo luật "Quỹ Giáo dục Việt Nam" (có tổng số tiền là 145 triệu USD trong 18 năm). - Ngày 17/7/2003: Hiệp định dệt may Việt Nam-Hoa Kỳ được ký chính thức tại Hà Nội (ký tắt tại Washington, D.C. ngày 25/4/2003). - Ngày 23/7/2003: ITC tuyên bố Việt Nam bán phá giá cá tra, ba sa vào thị trường Hoa Kỳ và áp thuế bán phá giá đối với philê cá tra, basa của Việt Nam. - Ngày 9-12/11/2003: Bộ trưởng Quốc phòng Phạm Văn Trà thăm Mỹ - Ngày 19-21/11/2003: Tàu hải quân Mỹ lần đầu tiên thăm hữu nghị cảng Sài Gòn. - Ngày 3-12/12/2003: Phó Thủ tướng Vũ Khoan chính thức thăm làm việc tại Mỹ, chứng kiến Lễ ký 5 văn bản, trong đó có Hiệp định hợp tác về Hàng không, Thoả thuận hợp tác phòng chống ma tuý. - Ngày 8-12/2/2004: Đô đốc Thomas Fargo, Tư lệnh Bộ Tư lệnh Thái Bình Dương Mỹ thăm Việt Nam. - Ngày 22-30/4/2004: Phó Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Phúc Thanh thăm Mỹ, tham dự lễ ra mắt của "Nhóm nghị sỹ Mỹ vì quan hệ Mỹ-Việt" (28/4/2004). - Ngày 23/6/2004: Tổng thống Mỹ chọn Việt Nam vào danh sách 15 nước được ưu tiên nhận viện trợ trong khuôn khổ Kế hoạch cứu trợ AIDS khẩn cấp (quốc gia duy nhất ở châu Á) giai đoạn 2004-2008. - Ngày 15/9/2004: Bộ Ngoại giao Mỹ ra báo cáo về tình hình tự do tôn giáo thế giới, trong đó xếp Việt Nam vào danh sách các nước đặc biệt quan tâm về tự do tôn giáo. - Ngày 20-21/11/2004: Hội nghị cấp cao APEC 12 tại Santiago (Chilê). Chủ tịch nước Trần Đức Lương tiếp xúc song phương với Tổng thống Mỹ George Bush bên lề hội nghị. - Ngày 10/12/2004: Chuyến bay trực tiếp đầu tiên từ Mỹ đến Việt Nam sau 1975. - Ngày 10-14/1/2005: Đoàn Thượng nghị sĩ Akaka (Hawaii) và Hạ nghị sĩ Issa (California) tham dự Diễn đàn Nghị viện Châu Á-Thái Bình Dương lần thứ 13 tại Hạ Long (10-13/1). - Ngày 29/3-1/4/2005: Tàu hải quân Mỹ thăm cảng Sài Gòn./. - Từ 19 đến 22/6/2005, Thủ tướng Phan Văn Khải thăm Mỹ. Hai bên đã ra Tuyên bố chung khẳng định mong muốn xây dựng quan hệ hữu nghị, hợp tác nhiều mặt, ổn định, lâu dài. - Từ 17 đến 20/11/2006: Tổng thống George W.Bush thăm chính thức Việt Nam nhân dịp tham dự Hội nghị APEC. III/ TÌNH HÌNH FDI CỦA MĨ VÀO VIỆT NAM: A/ Khái quát tình hình FDI của Mĩ vào VN trong thời gian qua: 1/ Những mốc quan trọng trong quan hệ Việt – Mĩ : 1.1. Từ 1988 đến trước ngày 3/2/1994 (Mỹ bỏ lệnh cấm vận với Việt Nam). Ngay từ 1988, năm đầu tiên luật ĐTNN tại Việt Nam có hiệu lực, các công ty nổi tiếng như: IBM, Ford, General Electronic, Boeing, Mobile, Chryles... đã có đại diện tại Việt Nam để thăm dò thị trường, tìm kiếm cơ hội hợp tác đầu tư, tạo dựng cơ hội để có thể triển khai sau khi lệnh cấm vận được dỡ bỏ. Cũng trong năm này, ghi nhận dự án đầu tư đầu tiên của Mỹ vào Việt Nam, đó là công ty TháI Bình Glass Inamel J/V với số vốn đầu tư khiêm tốn là 280.000USD. Sang năm 1989, có thêm hai dự án nữa của Mỹ vào Việt Nam với số vốn đầu tư gấp 6 lần dự án đầu tiên. Tuy nhiên, cả giai đoạn 1988- 1993, chỉ có 7 dự án của Mỹ đầu tư vào Việt Nam với tổng số vốn đăng ký là 3,3 triệu USD. Sở dĩ FDI cuả Mỹ vào Việt Nam giai đoạn này còn thấp vì: - Hậu quả nặng nề từ cuộc chiến tranh Mỹ Việt Nam vẫn còn ảnh hưởng đến lòng tự tôn của dân tộc Mỹ. - Chính phủ Mỹ chưa cung cấp cho các công ty Mỹ tại Việt Nam những định chế bảo hiểm công ty đầu tư tư nhân hải ngoại (OPIC), và nguồn đầu tư từ ngân hàng xuất nhập khẩu (EXIMBANK) của Mỹ, do đó, các nhà đầu tư Mỹ chưa an tâm đầu tư, các nhà xuất gặp khó khăn trong việc cạnh tranh với các nứơc khác. - Việt Nam chưa bình thường hoá quan hệ với Mỹ và vẫn chịu lệnh cấm vận của Mỹ. Nhưng với thiện chí và mong muốn “là bạn với tất cả các nước trên thế giới”, Việt Nam đã nỗ lực trong quá trình xúc tiến bình thường hoá quan hệ với Mỹ: Năm 1986: hai nước Việt- Mỹ bắt đầu các hoạt động chung trong việc tìm kiếm thi hài quân nhân Mỹ. Năm 1989, với việc rút quân ra khỏi Campuchia, cùng với những cố gắng tìm cách gia nhập các tổ chức trong khu vực, Việt Nam đã đưa ra thông điệp rõ ràng rằng phía Việt Nam có thiện ý đóng vai trò tích cực trong việc giữ gìn an ninh khu vực và tự do hoá thương mại. Tới năm 1993, tổng thống Mỹ cho phép quỹ tiền tệ quốc tế IMF cho Việt Nam vay khoản vay đầu tiên của Việt Nam từ một tổ chức tài chính quốc tế từ năm 1975 và cho phép các công ty Mỹ tham gia các dự án phát triển do các tổ chức quốc tế tài trợ. 1.2. Ngày 3/2/1994 Mỹ tuyên bố bỏ hoàn toàn cấm vận với Việt Nam. Tổng thống Mỹ bãi bỏ lệnh cấm vận kinh tế và cho phép các công ty Mỹ xuất khẩu sang Việt Nam cũng như tìm kiếm các cơ hội kinh doanh khả thi taị Việt Nam, quyết định naỳ ngay sau đó đã được Hạ Viện Mỹ thông qua. Sau hai giờ tuyên bố bãi bỏ lệnh cấm vận, hãng hàng không Mỹ đã thông báo các chuyến bay tới Việt Nam. Một tuần sau, hãng Pepsi đã có mặt tại thị trường này, ngay sau đó hãng Coke (đối thủ của Pepsi ) cũng nhảy vào và bắt đầu nói tới “ cuộc chiến tranh mới ở Việt Nam”. Chủ tịch văn phòng thương mại và công nghiệp Mỹ tại Hồng Kông đã đánh giá thị trường Việt Nam đâỳ triển vọng: với 71 triệu người, nguồn khoáng sản tự nhiên phong phú (đặc biệt là dầu mỏ), tốc độ tăng GDP hàng năm cao, kiềm chế lạm phát, tỷ lệ người biết chữ cao (88% dân số), giá cả lao động thấp.... Một chuyên gia tư vấn của Mỹ ở Việt Nam cũng nhận định Việt Nam sẽ là một thị trường đầy hứa hẹn cho hàng hoá của Mỹ, nhất là các hàng dược phẩm và hàng tiêu dùng. Đầu tư trực tiếp của Mỹ vào Việt Nam đến năm 1994 đã có 22 dự án dược cấp giấy phép với tổng số vốn 267 triệu USD và đến cuối năm 1994 đã tăng lên 270 triệu USD với 28 dự án. Trong lĩnh vực thương mại cũng có sự biến đôỉ mạnh mẽ: Cho đến trước năm 1994 hầu như chưa có tấn hàng nào của Việt Nam được vào thị trường Mỹ theo con đường chính ngạch, có chăng chỉ là thông qua nước thứ ba. Sau khi huỷ bỏ lệnh cấm vận, hàng Việt Nam mới thâm nhập chính thức được vào thị trường rộng lớn của Mỹ. 1.3. Ngày 11/7/1995 Mỹ tuyên bố bình thường hóa quan hệ ngoại giao với Việt Nam. Giữa năm 1995, tổng số dự án đầu tư của Mỹ vào Việt Nam đã lên tới 36 dự án với số vốn là 555 triệu USD. Năm 1995 cũng là năm đạt mức đầu tư cao, kỷ lục cả về số dự án lẫn số vốn đầu tư và quy mô dự án, chiếm 33,65% tổng vốn đầu tư, 20,88% số dự án đầu tư với quy mô dự án bình quân đạt 20,94 triệu USD/dự án, đạt mức cao nhất của Mỹ từ 1988 đến thời điểm đó. Như vậy trong giai đoạn (1991- 1995), Mỹ đã có 64 dự án với số vốn là 760 triệu USD. 1.4. Ngày 11/3/1998 Hoa Kỳ miễn áp dụng đạo luật bổ sung Jackson – Vanik đối với Việt Nam. Việt Nam gia nhập diễn đàn hợp tác kinh tế Châu á- Thái Bình Dương (APEC). Để tạo điều kiện thuận lợi cho các công ty Mỹ làm ăn tại Việt Nam dưới sự bảo trợ của ngân hàng xuất nhập khẩu (EXIMBANK) và OPIC, tháng 3/1998, tổng thống Mỹ đã ký lệnh bãi bỏ tu chính án Jackson - Vanic đối với Việt Nam. Mặc dù vào tháng 6/1998, lệnh bãi bỏ này vẫn chưa được Quốc hội Mỹ thông qua, nhưng nó vẫn được gia hạn thêm từng năm vào các năm 1999, 2000, 2001 vì số ph._.iếu chống từ Quốc hội không đủ 2/3. Đồng thời phía Mỹ cũng bãi bỏ một số điều luật liên quan đến hoạt động của cơ quan Viện trợ phát triển quốc tế Mỹ (USAID), nhằm thúc đẩy quan hệ kinh tế với Việt Nam lên một bước mới. Việc bãi bỏ này cũng là điều kiện cần có để Việt Nam được hưởng quy chế “tối huệ quốc” của Mỹ. Thêm vào đó là sự có mặt của bà bộ trưởng Madelein Albright vào tháng 6/1998 ở Việt Nam, của phó thủ tướng kiêm bộ trưởng ngoại giao Nguyễn Mạnh Cầm ở Washington vào tháng 8/1998 càng làm cho quan hệ kinh tế giữa hai nước có cơ sở vững chắc hơn để phát triển. Chỉ tính riêng năm 1998, Hoa kỳ có 15 dự án đầu tư vào Việt Nam với tổng vốn đầu tư 306,955 triệu USD, quy mô trung bình mỗi dự án là 20,46 triệu USD. 1.5. Ngày 14/7/2000 ký hiệp định thương mại Việt Nam – Hoa Kỳ tại thủ đô Washington. Trong những năm qua, cùng với việc xây dựng và từng bước hoàn thiện hệ thống pháp luật, chính sách về đầu tư trực tiếp nước ngoài, Việt Nam đã ký kết hiệp định song phương về khuyến khích và bảo hộ đầu tư với 75 nước và vùng lãnh thổ (tính đến hết 8/2007-số liệu của Bộ kế hoạch và đầu tư), đã tham gia công ước về bảo đảm đầu tư đa biên (MIGA) và hiệp định khung về khu vực đầu tư ASEAN. Đặc biệt, bằng việc ký kết hiệp định về quan hệ thương mại với Hợp chủng quốc Hoa Kỳ vào tháng 7 năm 2000, Việt Nam đã cam kết thực hiện tiêu chuẩn quốc tế về đầu tư ở phạm vi và mức độ cao nhất so với các điều ước trước đó. Tính đến 9/2000 số dự án đầu tư của Mỹ vào Việt Nam đã tăng lên 121 dự án trị giá 1,4 tỷ USD. Trừ các dự án bị giải thể hoặc hết hạn ở thời điểm đó, Mỹ có khoảng 100 dự án FDI ở Việt Nam còn hiệu lực, với vốn đăng ký đạt 1 tỷ USD. Sau 5 năm thực hiện Hiệp định Thương mại Việt - Mỹ (BTA). Các nhà đầu tư Mỹ đã có 305 dự án đầu tư trực tiếp còn hiệu lực với số vốn đăng ký khoảng 2,112 tỷ USD, vốn thực hiện ước đạt 730 triệu USD. Như vậy, các nhà đầu tư Mỹ đã chiếm 36,2% số vốn đăng ký và đứng thứ 9/75 quốc gia và vùng lãnh thổ có đầu tư vào Việt Nam. Riêng 9 tháng đầu năm 2006, nếu tính cả dự án Intel đầu tư 605 triệu USD đầu tư qua chi nhánh Hồng Kông thì vốn đầu tư Mỹ tại Việt Nam đạt trên 1 tỷ USD, đứng đầu trong 37 nước và vùng lãnh thổ có đầu tư vào Việt Nam trong 9 tháng năm 2006. Theo số liệu thống kê, các nhà đầu tư Mỹ đã đầu tư vào Việt Nam qua nước thứ ba vào khoảng 74 dự án có tổng số vốn đầu tư 2,4 tỷ USD. Như vậy, nếu tính cả đầu tư qua nước thứ ba thì Mỹ đầu tư vào Việt Nam 372 dự án với tổng số vốn đầu tư trên 4,4 tỷ USD, đứng thứ 5/75 quốc gia và vùng lãnh thổ có đầu tư trực tiếp vào Việt Nam. 2/ Hiệp định thương mại Việt – Mỹ (BTA). Cơ hội và thách thức đối với Việt Nam: 2.1. Khái quát hiệp định thương mại Việt – Mỹ. Đây là hiệp định mang tính tổng thể, nó không chỉ đề cập đến thương mại hàng hoá (chương I) mà bao trùm cả thương mại dịch vụ (chương II); quan hệ đầu tư (chương IV); Bản quyền-tài sản trí tuệ (chương III); Các quy định về xúc tiến thương mại (chương V); Các vấn đề về minh bạch hoá trong chính sách (chương VI). Đây là Hiệp định có thời giam đàm phán lâu nhất (trải qua 11 vòng đàm phán trong suốt 4 năm, từ 9/1996 đến 7/2000) và phức tạp nhất (gồm 72 điều) trong lịch sử Việt Nam, là Hiệp định đầu tiên mà chúng ta đàm phán theo các tiêu chuẩn của WTO, do đó bao gồm cả những cam kết và lộ trình thực hiện cụ thể. Mặc dù chỉ là một nội dung trong Hiệp định thương mại song chương phát triển quan hệ đầu tư (chương IV) có nội dung tương tự như một hiệp thương mại song phương hoàn chỉnh về khuyến khích và bảo hộ đầu tư giữa 2 nước. Theo đó 2 bên cam kết các vấn đề sau: + Nguyên tắc khuyến khích và bảo hộ đầu tư. + Cam kết cụ thể về đối xử quốc gia và đối xử tối huệ quốc. + Các quy định về bảo hộ và tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động đầu tư; minh bạch hoá pháp luật, chính sách về đầu tư nước ngoài bằng cách công bố công khai và nhanh chóng các luật, các quy định và thủ tục hành chính liên quan đến đầu tư; không áp đặt các yêu cầu đối với chuyển giao công nghệ, quy trình sản xuất... Như vậy, các cam kết về đầu tư trong Hiệp định đã được xây dựng với mục tiêu tổng thể là tạo môi trường đầu tư, kinh doanh thông thoáng và thuận lợi hơn nữa cho thu hút đầu tư trực tiếp của Mỹ vào Việt Nam. 2.2.Cơ hội và thách thức đối với nền kinh tế Việt Nam. 2.2.1.Cơ hội. Hiệp định Thương mại khi áp dụng, Mỹ sẽ áp dụng thuế suất phù hợp với quy định của WTO (ước tính thuế nhập khẩu trung bình của hàng hoá Việt Nam vào Mỹ sẽ giảm từ 40% xuống còn 4%), loại bỏ các hàng rào phi thuế quan, các hạn chế định lượng và mở đường cho hàng hoá Việt Nam thâm nhập và cạnh tranh bình đẳng trên thị trường Mỹ. Về phía mình, Việt Nam cam kết sẽ loại bỏ các rào cản phi thuế quan, giảm mức thuế đối với hàng hoá nhập khẩu từ Mỹ vào Việt Nam và do đó sẽ tạo điều kiện cho người tiêu dùng Việt Nam mua hàng hoá của Mỹ với giá rẻ hơn. Các điều khoản ưu đãi đầu tư và việc cho phép các công ty góp vốn liên doanh tham gia rộng hơn các hoạt động xuất nhập khẩu sẽ thúc đẩy đầu tư và các hoạt động kinh doanh của Mỹ ở Việt Nam. Hiệp định Thương mại không những thúc đẩy tăng trưởng xuất khẩu Việt Nam vào một trong những thị trường lớn nhất thế giới, mà còn tạo thêm động lực cho tăng trưởng kinh tế của Việt Nam. Những lợi ích của Hiệp định Thương mại song phương đối với Việt Nam bao gồm: Thứ nhất, tăng hiệu quả của nền kinh tế. Việc tự do hoá thương mại và các thành phần kinh tế tham gia rộng rãi hơn nữa trong hoạt động ngoại thương sẽ làm cho các ngành hàng hay doanh nghiệp có lợi thế so sánh và khả năng cạnh tranh trong thương mại với Mỹ có cơ hội để phát triển. Những ngành hàng hoặc doanh nghiệp có khả năng cạnh tranh yếu và trước đây được bảo hộ trong các hoạt động xuất nhập khẩu sẽ gặp khó khăn và có thể suy giảm, để có thể tồn tại và phát triển trong môi trường cạnh tranh các đối tượng này phải áp dụng các biện pháp tăng năng xuất và chất lượng, giảm giá thành, đổi mới công nghệ và công tác quản lý và có động lực nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh. Xét trên tổng thể nền kinh tế, việc thi hành các cam kết trong Hiệp định Thương mại, trong một chừng mực nào đó, sẽ có những tác động theo hướng phát huy lợi thế so sánh, tăng hiệu quả đầu tư của nền kinh tế. Các nguồn lực khan hiếm của xã hội sẽ được phân phối lại hợp lý hơn và phản ánh đúng hơn tín hiệu của thị trường theo hướng phát triển các ngành hàng có lợi thế cạnh tranh dẫn đến hiệu quả của tổng thể nền kinh tế được nâng lên. Thứ hai, cải thiện khả năng của các mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam sang Mỹ. Đối với các ngành xuất khẩu trước đây phải chịu mức thuế nhập khẩu cao, khó khăn thâm nhập thị trường Mỹ nay sẽ có cơ hội để phát triển. Bên cạnh đó, việc cho phép các công ty của Mỹ được đầu tư và tham gia hoạt động thương mại của một số ngành hàng Việt Nam sẽ tạo điều kiện thúc đẩy các ngành hàng này phát triển hơn trong tương lai. Trong số các ngành hàng xuất khẩu của Việt Nam có dệt may, quần áo, công nghiệp nhẹ và một số mặ hàng nông sản sẽ thu được lợi nhiều nhất do thuế nhập khẩu vào thị trường Mỹ giảm mạnh. Sự phát triển của các ngành hàng xuất khẩu trên sẽ làm xuất hiện những ngành hàng mới và kéo theo các hiệu ứng tạo công ăn việc làm, tăng thu nhập cho một bộ phận lớn dân cư. Cơ hội xuất khẩu sang thị trường Mỹ là rất lớn. Năm 1999 giá trị kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang thị trường Mỹ chỉ đạt 601 triệu USD/năm, thấp hơn rất nhiều so với các nước trong khu vực mà Mỹ đã áp dụng quy chế quan hệ bình thường và là thành viên của WTO. Kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang Mỹ chỉ bằng 1/35 của Malaixia và 1/23 của Thái Lan Đáng lưu ý là do một lượng hàng xuất khẩu của Việt Nam xuất khẩu sang Mỹ phải qua nước thứ ba, chủ yếu là Singapore nên số liệu của Việt Nam và Mỹ về xuất khẩu của Việt Nam sang thị trường Mỹ chênh lệch khá lớn. Khi hiệp định thương mại được thực hiện, do giảm xuất khẩu hàng hoá qua trung gian nên xuất khẩu của Việt Nam sang Mỹ sẽ có cơ hội tăng mạnh hơn nữa. Có ý kiến cho rằng năm 1999 "giá trị kim ngạch nhập khẩu của Mỹ là 1227 tỷ USD trong đó Việt Nam đóng góp 600 triệu USD, do đó dù Việt Nam xuất khẩu sang Mỹ tới 1 tỷ USD thì cũng chỉ như muối bỏ bể". . Còn nếu xét về cơ cấu xuất nhập khẩu sang thị trường Mỹ trong tổng xuất nhập khẩu cũng rất nhỏ bé. Trong suốt giai đoạn 1994-1999, xuất khẩu sang thị trường Mỹ chỉ chiếm 4-5% tổng giá trị kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam và nhập khẩu từ Mỹ chỉ đạt 2,4% tổng giá trị kim ngạch nhập khẩu của Việt Nam. Trong khi đó các tỷ lệ này của Thái Lan là 17,4% và 10,3% và Malaixia là 19,4% và 11,9%. So với các thị trường có mức thu nhập và tiêu dùng bình quân đầu người tương đương, hiện nay thị trường Mỹ chỉ chiếm 4,8% giá trị kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam so với các nước châu Âu là 24% và Nhật Bản là 28,7% Hình 2: Tỷ trọng xuất nhập khẩu sang Mỹ trong tổng kim ngạch xuất nhập khẩu của một số nước Đông Nam á và Trung Quốc năm 1997(% Bảng 1: Giá trị kim ngạch xuất nhập khẩu của một số nước trong khu vực với Mỹ năm 1999 (triệu USD) Thái Lan Inđônêxia Malaixia Philipin Việt Nam 14324 9514 21429 12380 601 4984 1939 9079 7226 277 Nguồn: Bộ thương mại Mỹ Nguồn: Tính toán từ các nguồn của Bộ Thương mại Mỹ và Báo cáo Phát triển Con người 2000. Thứ ba, hiệp định thương mại sẽ mở đường cho Việt Nam gia nhập WTO và từng bước hội nhập vào nền kinh tế thế giới. Khi đã ký kết Hiệp định Thương mại với Mỹ thì tiến trình gia nhập WTO sẽ trở nên dễ dàng hơn do các điều lệ và quy định của Mỹ gần với khuôn khổ của WTO. Thêm nữa, Mỹ có vai trò rất quan trọng trong hoạt động của tổ chức này nên ký được hiệp định song phương với Mỹ sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho tiến trình gia nhập WTO của Việt Nam. Thứ tư, tạo điều kiện để Việt Nam tiếp nhận công nghệ và kinh nghiệm quản lý tiên tiến. Một trong những kênh quan trọng của chuyển giao công nghệ và kinh nghiệm quản lý là thông qua đầu tư trực tiếp. Thông qua Hiệp định Thương mại Việt-Mỹ, các doanh nghiệp sản xuất và kinh doanh trên đất Việt Nam sẽ tiếp cận thị trường Mỹ được dễ dàng hơn, do đó Việt Nam không những sẽ tăng thu hút được đầu tư của Mỹ mà còn của các nước khác nhằm khai thác thị trường Mỹ. 2.2.2.Thách thức. Tuy nhiên bên cạnh những lợi ích đem lại, việc Hiệp định Thương mại Việt Mỹ cũng sẽ tạo ra những thách thức lớn đối với Việt Nam. Các doanh nghiệp trước đây được hưởng lợi từ sự bảo hộ của một nền kinh tế đóng thì nay sẽ gặp khó khăn và các doanh nghiệp chịu thiệt thòi từ sự bảo hộ trước đây sẽ có cơ hội mở rộng và phát triển. Những thách thức mà các doanh nghiệp Việt Nam phải đối mặt gồm có: Thứ nhất, các doanh nghiệp sản xuất và kinh doanh trong nước sẽ phải đối mặt với sức ép cạnh tranh lớn hơn. Hiệp định Thương mại sẽ mở cửa cho hàng hoá của Mỹ vào thị trường Việt Nam, giá một số hàng hoá nhập khẩu từ Mỹ sẽ trở nên rẻ hơn và khả năng cạnh tranh của các mặt hàng này sẽ tăng lên so với các sản phẩm nội địa cùng loại. Số lượng các doanh nghiệp của Mỹ và các nước khác đầu tư vào thị trường Việt Nam sẽ tăng lên nhằm xuất khẩu sang thị trường Mỹ hay khai thác thị trường nội địa, do đó sẽ gây áp lực lên các doanh nghiệp sản xuất trong nước. Không những trong lĩnh vực sản xuất mà cả trong lĩnh vực thương mại sức ép cạnh tranh cũng tăng. Hoạt động xuất nhập khẩu một số mặt hàng trước đây chủ yếu do một số doanh nghiệp thực hiện, thì nay các doanh nghiệp có vốn đầu tư của Mỹ hay doanh nghiệp tư nhân sẽ được phép tham gia. Nếu không có sự chuẩn bị cần thiết, các doanh nghiệp này sẽ gặp phải nhiều khó khăn trong cạnh tranh. Thứ hai, các doanh nghiệp xuất khẩu sẽ phải đối mặt với sự cạnh tranh của các đối thủ trên thị trường Mỹ . Mặc dù các doanh nghiệp Việt Nam sẽ tiếp cận với thị trường Mỹ dễ dàng hơn so với trước đây, tuy nhiên cũng phải đối mặt với cạnh tranh gay gắt từ phía các nước châu á khác như Inđônêxia, Malaixia, Thái Lan vốn đã có chỗ đứng trên thị trường Mỹ trước Việt Nam rất lâu. Ngoài ra việc Trung Quốc vừa ký Hiệp định Thương mại với Mỹ năm 1999, và có nhiều khả năng gia nhập WTO trong năm 2001 cũng sẽ là một thách thức đối với các doanh nghiệp Việt Nam bởi Trung Quốc và Việt Nam có nhiều mặt hàng xuất khẩu tương đồng và có trình độ công nghệ tương đương. Thứ ba, các quy định về luật pháp và hải quan Muốn xuất khẩu hàng hoá sang Mỹ các doanh nghiệp phải tìm hiểu những quy định về thương mại và hải quan vốn rất phức tạp của Mỹ. Luật pháp Mỹ quy định tất cả mọi vấn đề có liên quan đến việc nhập khẩu hàng hoá từ nước ngoài vào đều thuộc thẩm quyền của chính phủ liên bang. Bộ Thương mại, Văn phòng đại diện thương mại, ủy ban thương mại quốc tế và cụ thể nhất là Hải quan Mỹ là những cơ quan có trách nhiệm đối với vấn đề này. Ngoài các thủ tục hải quan còn có các quy định thương mại liên quan đến luật như chống độc quyền, chống bán phá giá, trách nhiệm sản phẩm, thương mại thống nhất... Thư tư, tiêu chuẩn kỹ thuật và vệ sinh dịch tễ và các yếu tố khác. Mỹ đưa ra các tiêu chuẩn về vệ sinh dịch tễ nhằm bảo đảm an toàn và vệ sinh cho người tiêu dùng, tuy nhiên đôi khi những điều kiện này lại trở thành các rào cản vô hình đối với hàng hoá nhập khẩu vào Mỹ, đặc biệt đối với các nước đang phát triển. Ngoài ra, lợi thế giá cả của hàng hoá Việt Nam do thuế nhập khẩu vào Mỹ giảm không đồng nghĩa với việc xuất khẩu sẽ tăng lên nhanh chóng. Với một thị trường có mức thu nhập cao như Mỹ thì ngoài giá cả còn có các yếu tố khác cũng rất quan trọng như thị hiếu, thẩm mĩ, xu hướng, thói quen tiêu dùng...do đó các doanh nghiệp Việt Nam cần nghiên cứu kỹ lưỡng các vấn đề trên để có thể áp dụng hiệu quả trong các hoạt động phát triển thị trường. 2.3.Tác động của BTA đến hoạt động đầu tư của Hoa Kỳ vào Việt Nam. Hiệp định thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ chính thức có hiệu lực ngày 10 tháng 12 năm 2001 đã đưa quan hệ hợp tác thương mại Việt Nam -Hoa Kỳ lên một bước mới. Khi Hiệp định có hiệu lực, Hoa Kỳ áp dụng quy chế Tối huệ quốc (MFN) đối với Việt Nam. Sau khi được hưởng quy chế này, thuế suất cho hàng xuất khẩu từ Việt Nam sang Hoa Kỳ giảm trung bình từ 40% xuống còn 4%. Điều này cũng có nghĩa là Hiệp định đã mở cửa thị trường khổng lồ Hoa Kỳ cho các nhà xuất khẩu Việt Nam trên cơ sở cạnh tranh bình đẳng với các nước khác. Ngoài ra, theo Hiệp định thương mại, Việt Nam cam kết thực hiện theo lộ trình trong vòng 10 năm các thay đổi về luật pháp, chính sách, quy định và cải cách hành chính, chủ yếu theo các tiêu chuẩn của Tổ chức Thương mại Thế giới WTO và các thông lệ quốc tế. Các cam kết toàn diện trong Hiệp định thương mại của hai quốc gia sẽ không chỉ thúc đẩy thương mại hai chiều giữa hai nước mà còn tăng thêm tính hấp dẫn của môi trường đầu tư tại Việt Nam đối với các nhà đầu tư Hoa Kỳ. Trên thực tế sau hơn 4 năm thực thi Hiệp định thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ, cho tới 30/6/2006 tổng vốn đầu tư của Hoa Kỳ vào Việt Nam (kể cả qua nước thứ 3) mới chỉ là 4,042 tỷ USD. Khoản đầu tư này còn quá nhỏ, chỉ chiếm gần 0,72% tổng đầu tư của Hoa Kỳ vào Đông Nam Á. Nguyên nhân chủ yếu của hiện tượng này xuất phát từ quy mô thị trường của Việt Nam còn nhỏ, chưa đáp ứng được đòi hỏi của các nhà đầu tư Hoa Kỳ. Các nhà đầu tư còn chờ thị trường Việt Nam mở cửa khu vực dịch vụ và một số lĩnh vực khác theo lộ trình gia nhập WTO, đặc biệt là trong lĩnh vực tài chính - tiền tệ và ngân hàng. Mặt khác môi trường kinh doanh ở Việt Nam là điều khiến các nhà đầu tư Hoa Kỳ còn ngần ngại, bởi họ rất quan tâm đến các chính sách đầu tư của Việt Nam có minh bạch và nhất quán hay không. Tuy nhiên, cho dù vì lý do gì đi nữa thì thực tế đầu tư thấp của Hoa Kỳ ở Việt Nam cũng khiến cho cả hai nước đều chịu thiệt thòi, bởi Hoa Kỳ là nước có công nghệ nguồn, có tiềm lực tài chính mạnh, có nhiều tập đoàn kinh tế xuyên quốc gia hàng đầu thế giới. Các dự án đầu tư của họ thường lớn gấp nhiều lần so với các đối tác từ các nước khác và thường tập trung vào mảng công nghệ cao - là lĩnh vực mà nước ta đang có nhu cầu lớn. Bảng số liệu thống kê về đầu tư của Hoa Kỳ trước và sau khi có Hiệp định thương mại đã phần nào phản ánh tác động của Hiệp định thương mại tới đầu tư của Hoa Kỳ vào Việt Nam (Xem Bảng 1). Bảng 1: FDI đăng ký của Hoa Kỳ vào Việt Nam Năm FDI đăng ký vào Việt Nam (Triệu USD) FDI của Hoa Kỳ vào Việt Nam Kể cả qua nước thứ 3 FDI của Hoa Kỳ vào Việt Nam Không kể qua nước thứ 3 Số lượng Dự án Vốn đăng ký ban đầu (Triệu USD) Vốn đăng ký hiện nay (Triệu USD) Tỷ trọng trong tổng vốn đăng ký (%) Số lượng Dự án Vốn đăng ký ban đầu (Triệu USD) Vốn đăng ký hiện nay (Triệu USD) Tỷ trọng trong tổng vốn đăng ký (%) A B C D E F=E/B G H I K=I/B 88-98 41229 142 1807 2425 97 1141 1322 1999 2282 21 143 139,2 6,1 18 100 96 4,2 2000 2629 21 115 120,3 4,6 16 81 86 3,3 2001 3226 29 160 215,7 6,7 28 120 151 4,7 Trung bình (99-2001) 2712 24 139 158 6 21 100 111 4,1 2002 2739 45 426 612,4 22,4 40 164 217 7,9 2003 3112 33 72 104,1 3,3 27 58 90 2,9 2004 4222 35 129 137,9 3,3 31 69 78 1,8 2005 6840 66 307 307,0 4,5 61 262 263 3,8 1-6/2006 2467 26 1051 1050,9 42,6 24 41 444 18,0 Trung bình (2002-6/06) 3876 41 397 442,46 15,2 36.6 118,8 218,4 6,9 Tổng 68746 418 4210 2425 7,4 342 2036 2747 4,0 Nguồn: Bộ Kế hoạch và Đầu tư, năm 2006. Số liệu trong bảng này bao gồm cả các dự án đã giải thể và hết hạn. Nhìn vào Bảng 1. ta thấy, trung bình 3 năm trước HĐTM (1999-2001), mỗi năm lượng vốn FDI đăng ký hiện thời của Hoa Kỳ không kể qua nước thứ 3 là 111 triệu USD/năm. Sau HĐTM (2002-6/2006) con số này đã tăng lên 2 lần, lên 218 triệu USD. Vốn đầu tư đăng ký của Hoa Kỳ thông qua nước thứ 3 còn tăng cao hơn, tăng gần 3 lần, từ 158 triệu USD/năm trong 3 năm trước HĐTM lên 442,6 triệu USD sau HĐTM. Có thể thấy đầu tư của Hoa Kỳ tăng đáng kể sau khi Hiệp định có hiệu lực, đầu tư của Hoa Kỳ vào Việt Nam tăng mạnh đặc biệt từ năm 2003 và đến nay. Trong khoảng thời gian trước khi Hiệp định có hiệu lực (từ năm 1996 - 2001), vốn thực hiện của Hoa Kỳ là rất nhỏ. Nhưng từ năm 2001 đến nay, đầu tư thực hiện của Hoa Kỳ bắt đầu tăng nhanh. (Xem Bảng 2). Bảng 2: FDI thực hiện của Hoa Kỳ trước và sau Hiệp định Thương mại Năm Tổng vốn FDI thực hiện vào Việt Nam (Triệu USD) Vốn đầu tư thực hiện của Hoa Kỳ kể cả qua nước thứ ba (Triệu USD) Vốn đầu tư thực hiện của Hoa Kỳ không kể qua nước thứ ba (Triệu USD) Tỷ trọng vốn đầu tư thực hiện của Hoa Kỳ (%) A B C D E=C/B 1996 2.923 220 75 7,5 1997 3.218 266 133 8,3 1998 2.375 271 89 11,4 1999 2.537 274 53 10,8 2000 2.420 196 62 8,1 2001 2.450 258 93 10,5 Trung bình (1996-2001) 2.654 248 84 9,3 2002 2.591 169 61 6,5 2003 2.650 449 136 16,9 2004 2.850 531 162 18,6 2005 và 6 tháng 2006 5.035 1.007 261 20,0 Trung bình (2002-2006) 2.994 479 109 16,4 Tổng 29.049 3.641 991 12,5 Nguồn : Bộ Kế hoạch và Đầu tư, năm 2006. Số liệu trong bảng này bao gồm cả các dự án đã hết hạn và giải thể. Qua số liệu Bảng 2 ta thấy vốn đầu tư trực tiếp thực hiện của Hoa Kỳ kể cả qua nước thứ 3 tăng trưởng cao và đều sau HĐTM, tăng 6,5% năm 2002 lên 20% trong năm 2005 và nửa đầu năm 2006. Tỷ trọng vốn đầu tư trực tiếp của Hoa Kỳ kể cả qua nước thứ 3 tăng từ 9,3%/năm trước HĐTM lên 16,4% sau HĐTM. Trong khi đó vốn đầu tư thực hiện của Hoa Kỳ không kể qua nước thứ 3 giảm trong năm 2004 và tăng trong năm 2004 và đầu năm 2006. Và đặc biệt trong 6 tháng dầu năm 2006, vốn đầu tư của Hoa Kỳ vào Việt Nam thông qua nước thứ 3 tăng một cách đột biến, đó là do khoản đầu tư với số vốn 605 triệu USD của Intel vào Việt Nam để xây dựng nhà máy sản xuất vi mạch tại TP Hồ Chí Minh. Dự án này được ghi nhận là từ Hồng Kông vì đây là dự án do chi nhánh Intel ở Hồng Kông thực hiện. Dự án đầu tư của Intel vào Việt Nam là một ví dụ điển hình về việc một dự án lớn của Hoa Kỳ có thể thay đổi tình hình đầu tư tại Việt Nam. Như vậy, các số liệu thống kê về đầu tư của Hoa Kỳ vào Việt Nam qua các năm kể từ khi Hiệp định Thương mại được ký kết giữa hai nước có hiệu lực đã đưa ra một bức tranh sáng sủa về lượng vốn đầu tư của các nhà đầu tư Hoa Kỳ vào Việt Nam và rõ ràng là các nhà đầu tư Hoa Kỳ đã có phản ứng rất tích cực đối với Hiệp định Thương mại này. B/ Thực trạng FDI của Mĩ vào VN : Theo số liệu của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, tính đến 30/6/2006, đầu tư của Hoa Kỳ vào Việt Nam kể cả đầu tư qua nước thứ 3 đã có 347 dự án với số vốn đăng ký lên đến trên 4 tỷ USD, đứng vị trí dẫn đầu trong số các nước và vùng lãnh thổ về FDI vào Việt Nam.Tuy nhiên, hoạt động đầu tư của Mĩ vào Việt Nam luôn có sự biến động lớn. Vốn FDI đăng ký hiện thời của Hoa Kỳ 1998 1999 2000 2001 2002 2003 2004 2005 1-6/2006 Không qua nước thứ ba 127 96 86 151 217 90 78 263 444 Qua nước thứ ba 208 139 120 216 612 104 138 307 1051 Nguồn: Bộ Kế hoạch và Đầu tư, năm 2006. Số liệu này bao gồm cả các dự án giải thể và hết hạn. Nếu so với nhiều đối tác đầu tư khác thì tình hình góp vốn của Hoa Kỳ, tình hình thực hiện vốn đã đăng ký và tình hình thực hiện vốn pháp định đã đăng ký của Hoa Kỳ đã có bước thay đổi đáng kể. So với năm 2002, Hoa Kỳ chỉ đứng thứ 9 trong tổng vốn đầu tư thực hiện của nước ngoài vào Việt Nam, đến năm 2004, đầu tư của Hoa Kỳ đã ở vị trí dẫn đầu. Điều này chứng tỏ đầu tư của Hoa Kỳ vào Việt Nam đã tăng trưởng mạnh lên rất nhiều kể từ khi Hiệp định thương mại có hiệu lực so với đầu tư của các nước khác. Bảng 3: Vốn đầu tư thực hiện của nước ngoài vào Việt Nam (không kể đầu tư qua nước thứ 3) STT Các nước và lãnh thổ 2000 2001 2002 2003 2004 1 Hoa Kỳ 196 258 169 449 531 2 Hà Lan 79 339 403 350 483 3 Hàn Quốc 142 125 154 203 421 4 Nhật Bản 454 367 422 515 350 5 Singapo 294 235 221 300 328 6 Đài Loan 361 269 208 298 235 7 Pháp 76 137 109 169 152 8 Hồng Kông 195 87 118 76 145 9 Thái Lan 35 54 77 67 76 10 Môrixơ 45 85 39 94 62 11 Trung Quốc 26 27 49 31 51 12 Nga 216 169 175 74 46 13 Quần đảo Cayman 18 30 40 39 46 14 Quần đảo Virginia 123 108 113 46 45 15 Australia 24 14 24 30 41 16 Các nước khác 265 311 390 226 206 Nguồn: Bộ Kế hoạch và Đầu tư, năm 2005. Trong tổng vốn đầu tư của Hoa Kỳ vào Việt Nam thì vốn đầu tư qua nước thứ 3 chiếm tỷ trọng lớn. Qua Bảng 4, ta có thể thấy chi nhánh của các công ty Hoa Kỳ đầu tư vào Việt Nam từ các nước thứ 3 thường là những nước có chế độ thuế thông thoáng và các nước được các công ty đa quốc gia đặt trụ sở trung tâm trong khu vực như Singapo, Hồng Kông. Sở dĩ có nhiều các công ty của Hoa Kỳ đầu tư vào Việt Nam thông qua nước thứ 3 là do chính sách thuế của Hoa Kỳ khuyến khích các công ty đa quốc gia tái đầu tư lợi nhuận thu được ở nước ngoài. Mặt khác, việc quản lý hoạt động đầu tư ở Việt Nam bởi các trung tâm khu vực sẽ thuận tiện hơn so với việc quản lý từ trụ sở chính tại Hoa Kỳ, đặc biệt khi dự án đầu tư này là nhỏ. Bảng 4: Nước thứ 3 từ đó các công ty con của Hoa Kỳ vào Việt Nam STT Nước Số dự án Vốn đăng ký Vốn thực hiện 1 Mauritius 1 65 801 2 Singapo 19 788 739 3 Hà Lan 6 229 686 4 Miến Điện 4 107 140 5 Hồng Kông 11 750 126 6 Đảo Cayman 2 58 46 7 Hàn Quốc 1 22 32 8 British Virgin Islands 12 123 25 9 Anh 2 31 20 10 Ukraina 1 16 12 11 Saint Kitts & Nevis 1 40 12 12 Đài Loan 5 13 8 13 Thái Lan 1 0 1 14 Thụy Sỹ 2 60 1 15 Bahamas 1 8 1 16 Canada 1 0 0 17 Đảo Cook 2 55 0 18 Australia 1 1 0 19 Nhật Bản 1 0 0 Nguồn: Bộ Kế hoạch và Đầu tư, năm 2006. 1/ Cơ cấu đầu tư trực tiếp của Mỹ vào Việt Nam: 1.1.Theo ngành nghề: Cơ cấu FDI theo ngành nghề phản ánh chiến lược phát triển kinh tế của đất nước, phản ánh mức độ phù hợp giữa đầu tư và yêu cầu cân đối các ngành trong nền kinh tế. Từ khi Hoa Kỳ bỏ lệnh cấm vận Việt Nam, đặc biệt là từ sau khi Hiệp định Thương mại song phương Việt Nam - Hoa Kỳ có hiệu lực tới nay, các dự án đầu tư của Hoa Kỳ vào Việt Nam được thực hiện trên nhiều lĩnh vực nhưng với mức độ khác nhau ở mỗi ngành khác nhau, cụ thể là: Bảng 5: Vốn đầu tư của Mỹ theo ngành (Dự án còn hiệu lực, tính đến 30/6/2006) STT Ngành Kể cả qua nước thứ 3 Không kể qua nước thứ 3 Số dự án Vốn đăng ký (Triệu USD) Vốn thực hiện (Triệu USD) Số dự án Vốn đăng ký (Triệu USD) Vốn thực hiện (Triệu USD) I Công nghiệp và xây dựng 199 2.757 2.845 170 1.063 564 1 Sản xuất 185 2.424 1.182 161 901 317 2 Khai khoáng 11 285 1.636 8 161 247 3 SX, phân phối điện, gas và nước 3 48 27 1 1 4 Xây dựng 3 7 4 3 7 4 II Nông-Lâm-Ngư nghiệp 13 140 68 12 122 63 5 Nông và lâm nghiệp 11 128 56 10 110 51 6 Ngư nghiệp 2 12 12 2 12 12 III Dịch vụ 135 1.145 370 107 807 153 7 Đào tạo 5 6 4 5 6 4 8 Bất động sản và tư vấn 88 358 138 71 223 48 9 Khách sạn và du lịch 8 500 71 5 416 4 10 D/vụ cá nhân, XH và cộng đồng 1 0 1 0 11 Bán lẻ và sửa chữa 3 5 2 0 12 Tài chính 10 122 87 7 95 42 13 Vận tải, kho bãi và thông tin 9 59 57 8 43 45 14 Văn hóa và thể thao 5 33 4 3 12 2 15 Y tế 3 55 5 2 5 4 Tổng cộng 347 4.042 3.281 289 1.994 777 Chênh lệch FDI bởi các công ty con ở nước ngoài của Mỹ 58 2.048 2.504 Nguồn: Bộ Kế hoạch và Đầu tư Qua Bảng 5 ta thấy phần lớn đầu tư của Hoa Kỳ được thực hiện bởi các công ty con của Hoa Kỳ tại nước ngoài. Đầu tư được thực hiện bởi các công ty con của Hoa Kỳ ở nước ngoài vào Việt Nam chiếm 50,7% vốn đăng k‎ và 76,3% vốn thực hiện trong tổng đầu tư của Hoa Kỳ vào Việt Nam. Vốn đầu tư của Hoa Kỳ tập trung chủ yếu vào các ngành công nghiệp. Đầu tư vào các ngành này chiếm tỷ trọng lớn nhất cả về số lượng dự án lẫn tổng vốn đầu tư. Các dự án của Hoa Kỳ đầu tư vào công nghiệp và xây dựng (gồm xây dựng, sản xuất và khai khoáng bao gồm cả đầu khí), chiếm 86,8% tổng vốn đầu tư thực hiện của Hoa Kỳ kể cả qua nước thứ 3 và 73,1% vốn đầu tư thực hiện không bao gồm đầu tư qua nước thứ 3. Đầu tư vào dịch vụ chiếm 11,2% vốn đầu tư thực hiện của Hoa Kỳ kể cả qua nước thứ 3 và 19,2% vốn đầu tư thực hiện không bao gồm qua nước thứ 3. Đầu tư vào nông lâm nghiệp chỉ chiếm 2,1% vốn thực hiện của Hoa Kỳ kể cả qua nước thứ 3 và 8,1% vốn đầu tư thực hiện không kể qua nước thứ 3. Tỷ trọng vốn đầu tư của Hoa Kỳ vào ngành công nghiệp cao hơn nhiều so với chỉ số tương ứng của tổng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam. Điển hình Hoa Kỳ đầu tư vào ngành này là dự án sản xuất lắp ráp ô tô Ford với số vốn đăng ký là l02,6 triệu USD, dự án công ty sản xuất xà phòng, kem đánh răng Colgate Palmolive là 40 triệu USD,... Riêng trong ngành công nghiệp thì đầu tư của Hoa Kỳ nhiều nhất là vào ngành công nghiệp nặng với 100 dự án chiếm khoảng 1/3 số dự án đầu tư của Hoa Kỳ vào Việt Nam, với tổng số vốn đầu tư lên tới gần 632 triệu USD. Các công ty Hoa Kỳ đầu tư vào Việt Nam như Microsoft, IBM, Hewlett-Parckard, APC, Oracle,...trong lĩnh vực tin học; hãng hàng không Boeing và Airburs trong công nghiệp hàng không; Chrysler, Ford trong công nghiệp chế tạo ô tô, P&G trong công nghiệp hoá chất, Pepsi và Coca Cola trong lĩnh vực nước giải khát… đã trở nên khá quen thuộc đối với những đối tác đầu tư ở Việt Nam. Các nhà đầu tư Hoa Kỳ cũng khá quan tâm tới ngành công nghiệp dầu khí. Tuy chỉ có 6 dự án nhưng số vốn đầu tư lên tới 123,8 triệu USD. Lý giải cho điều này, có thể nói Hoa Kỳ là một nước có nhu cầu khá lớn về dầu khí, Hoa Kỳ phải nhập khẩu từ bên ngoài khoảng 50% số lượng dầu tiêu thụ. Trong khi đó dầu khí vốn là thế mạnh xuất khẩu của Việt Nam trong nhiều năm qua nhưng lượng dầu khí mà Hoa Kỳ nhập khẩu từ Việt Nam lại không đáng kể. Do đó, dầu khí cũng là một lĩnh vực mà các nhà đầu tư Hoa Kỳ rất quan tâm. Tiếp đến là các ngành công nghiệp nhẹ với 46 dự án, tổng vốn đầu tư gần 100 triệu USD. Các dự án đầu tư vào lĩnh vực dịch vụ (tài chính, ngân hàng, văn phòng cho thuê, dịch vụ phần mềm, y tế, giáo dục,...) với tổng vốn đầu tư đạt 366 triệu USD.Văn hoá - Y tế - Giáo dục cũng là một lĩnh vực được các nhà đầu tư Hoa Kỳ quan tâm; tài chính, ngân hàng với tổng vốn đầu tư 122 triệu USD, chiếm 3% tổng vốn đầu tư. Tuy tỷ trọng nhỏ nhưng nông, lâm nghiệp cũng là lĩnh vực được các nhà đầu tư Hoa Kỳ chú ý hơn các nhà đầu tư khác với 28 dự án, tổng vốn đầu tư đạt hơn 140 triệu USD (chiếm 3,5% vốn đăng ký kể cả đầu tư qua nước thứ 3). Tóm lại, nếu phân theo giá trị dự án thì đầu tư lớn nhất của Hoa Kỳ vào Việt Nam là các ngành như xe hơi, hoá mỹ phẩm, nước giải khát, khai thác dầu khí, chế biến nông sản,... Còn nếu phân theo số dự án thì Hoa Kỳ đầu tư nhiều nhất vào các ngành như sản phẩm điện tử cơ khí ô tô, chế biến thực phẩm, vật liệu xây dựng, dầu khí, hoá chất, dược phẩm,... Khác với các nhà đầu tư khác như Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan,... đầu tư của Hoa Kỳ vào Việt Nam phần lớn thường tập trung trong các ngành công nghệ kỹ thuật cao như điện tử, tin học, dịch vụ máy bay, chế tạo ô tô, dầu khí, xây dựng cơ sở hạ tầng. Các ngành dịch vụ đòi hỏi chi phí cao như mỹ phẩm, nước giải khát, và các ngành sử dụng nhiều vốn như hoá chất, giao thông vận tải. Tuy số dự án không nhiều nhưng quy mô một dự án thường khá lớn. Mặc dù đã có một số chuyển biến tích cực theo hướng phù hợp với chiến lược phát triển kinh tế - xã hội nhưng nhìn chung cơ cấu đầu tư trực tiếp của Hoa Kỳ theo ngành thời gian qua vẫn còn nhiều điểm chưa hợp lý, như: Các nhà đầu tư Hoa Kỳ luôn muốn thu hồi vốn nhanh và có lợi nhuận cao nên thường tập trung vào những ngành đáp ứng được yêu cầu này; Các ngành chế biến nông sản và thực phẩm là thế mạnh của Việt Nam song rất ít dự án và vốn đầu tư cho một dự án thường nhỏ; Các lĩnh vực cần thiết như văn hoá, giáo dục, y tế,... cũng chưa thu hút được nhiều các dự án đầu t._.g giữa các doanh nghiệp hoạt động cùng ngành. Mặt khác, các doanh nghiệp ĐTNN cũng tạo động lực cạnh tranh của các doanh nghiệp trong nước nhằm thích ứng trong bối cảnh toàn cầu hóa. - ĐTNN đóng góp đáng kể vào NSNN và các cân đối vĩ mô: Cùng với sự phát triển các doanh nghiệp có vốn ĐTNN tại Việt Nam, mức đóng góp của khu vực kinh tế có vốn ĐTNN vào ngân sách ngày càng tăng. Thời kỳ 1996-2000, không kể thu từ dầu thô, các doanh nghiệp ĐTNN đã nộp ngân sách đạt 1,49 tỷ USD, gấp 4,5 lần 5 năm trước. Trong 5 năm 2001-2005, thu ngân sách trong khối doanh nghiệp ĐTNN đạt hơn 3,6 tỷ USD, tăng bình quân 24%/năm. Riêng 2 năm 2006 và 2007 khu vực kinh tế có vốn ĐTNN đã nộp ngân sách đạt trên 3 tỷ USD, gấp đôi thời kỳ 1996-2000 và bằng 83% thời kỳ 2001-2005. ĐTNN tác động tích cực đến các cân đối lớn của nền kinh tế như cân đối ngân sách, cải thiện cán cân vãng lai, cán cân thanh toán quốc tế thông qua việc chuyển vốn vào Việt Nam và mở rộng nguồn thu ngoại tệ gián tiếp qua khách quốc tế, tiền thuê đất, tiền mua máy móc và nguyên, vật liệu... - ĐTNN góp phần giúp Việt Nam hội nhập sâu rộng vào đời sống kinh tế quốc tế: Tốc độ tăng kim ngạch xuất khẩu của khu vực ĐTNN tăng nhanh, cao hơn mức bình quân chung của cả nước, đóng góp quan trọng vào việc gia tăng kim ngạch xuất khẩu của cả nước. Thời kỳ 1996-2000, xuất khẩu của khu vực ĐTNN đạt 10,6 tỷ USD (không kể dầu thô), tăng hơn 8 lần so với 5 năm trước, chiếm 23% kim ngạch xuất khẩu cả nước; năm 2000 chiếm 25%, năm 2003 chiếm 31%; tính cả dầu thô thì tỷ trọng này đạt khoảng 54% năm 2004 và chiếm trên 55% trong các năm 2005, 2006 và 2007. ĐTNN chiếm một tỷ trọng cao trong xuất khẩu một số sản phẩm: 100% dầu khí, 84% hàng điện tử, máy tính và linh kiện, 42% sản phẩm da giày, 35% hàng may mặc… Thông qua mạng lưới tiêu thụ của các tập đoàn xuyên quốc gia, nhiều sản phẩm sản xuất tại Việt Nam đã tiếp cận được với các thị trường trên thế giới. Trong lĩnh vực khách sạn và du lịch, ĐTNN đã tạo ra nhiều khách sạn cao cấp đạt tiêu chuẩn quốc tế 4, 5 sao cũng như các khu du lịch, nghỉ dưỡng đáp ứng nhu cầu khách du lịch quốc tế, góp phần gia tăng nhanh chóng xuất khẩu tại chỗ. Bên cạnh đó, ĐTNN còn góp phần đưa nền kinh tế nước ta từng bước hội nhập với kinh tế thế giới, đặc biệt trong lĩnh vực tài chính, ngân hàng. Về mặt xã hội: - ĐTNN góp phần quan trọng trong việc tạo việc làm, tăng năng suất lao động, cải thiện nguồn nhân lực: Đến nay, khu vực có vốn ĐTNN đã tạo ra việc làm cho trên 1,2 triệu lao động trực tiếp và hàng triệu lao động gián tiếp khác theo kết quả điều tra của WB cứ 1 lao động trực tiếp sẽ tạo việc làm cho từ 2-3 lao động gián tiếp phục vụ trong khu vực dịch vụ và xây dựng, góp phần nâng cao phúc lợi xã hội, cải thiện đời sống một bộ phận trong cộng đồng dân cư, đưa mức GDP đầu người tăng lên hàng năm. Thông qua sự tham gia trực tiếp vào hoạt động của các doanh nghiệp có vốn ĐTNN, Việt Nam đã từng bước hình thành đội ngũ cán bộ quản lý, công nhân kỹ thuật có trình độ cao, có tay nghề, từng bước tiếp cận được với khoa học, kỹ thuật, công nghệ cao và có tác phong công nghiệp hiên đại, có kỷ luật lao động tốt, học hỏi được các phương thức, kinh nghiệm quản lý tiên tiến. Hoạt động của các doanh nghiệp có vốn ĐTNN tại Việt Nam cũng đã thúc đẩy các doanh nghiệp trong nước không ngừng đổi mới công nghệ, phương thức quản lý để nâng cao hơn chất lượng, sức cạnh tranh của sản phẩm và dịch vụ trên thị trường trong nước và quốc tế. Đặc biệt, một số chuyên gia Việt Nam làm việc tại các doanh nghiệp có vốn ĐTNN đã dần thay thế các chuyên gia nước ngoài trong đảm nhiệm các vị trí quản lý doanh nghiệp cũng như điều khiển các quy trình công nghệ hiện đại. - ĐTNN góp phần mở rộng quan hệ đối ngoại, chủ động hội nhập kinh tế với khu vực và thế giới: ĐTNN đã góp phần quan trọng trong việc xóa bỏ cấm vận của Hoa Kỳ đối với Việt Nam, tạo điều kiện mở rộng quan hệ kinh tế quốc tế theo hướng đa phương hóa và đa dạng hóa, thúc đẩy Việt Nam chủ động hội nhập kinh tế khu vực và thế giới, đẩy nhanh tiến trình tự do hoá thương mại và đầu tư. Đến nay, Việt Nam là thành viên chính thức của ASEAN, APEC, ASEM và WTO. Nước ta cũng đã ký kết 51 Hiệp định khuyến khích và bảo hộ đầu tư, trong đó có Hiệp định thương mại Việt Nam-Hoa Kỳ (BTA), Hiệp định tự do hoá, khuyến khích và bảo hộ đầu tư với Nhật Bản. Thông qua tiếng nói và sự ủng hộ của các nhà đầu tư nước ngoài, hình ảnh và vị thế của Việt Nam không ngừng được cải thiện. Về mặt môi trường: Theo kết quả điều tra năm 2002 (của Viện Quản lý kinh tế trung ương), đa số các doanh nghiệp có vốn ĐTNN tuân thủ các tiêu chuẩn môi trường Việt Nam và có kết quả môi trường tốt hơn so với số đông các doanh nghiệp trong nước (có 77% doanh nghiệp có kết quả về các thông số gây ô nhiễm môi trường thấp hơn tiêu chuẩn cho phép của Việt Nam). Đáng chú ý là 60% doanh nghiệp ĐTNN trong lĩnh vực chế biến thực phẩm đã lắp đặt thiết bị xử lý nước thải đúng tiêu chuẩn (so sánh với tỷ lệ 10% của các doanh nghiệp trong nước). Không có doanh nghiệp ĐTNN nào được điều tra vi phạm tiêu chuẩn môi trường Việt Nam. 3.2. Mặt hạn chế: Tuy đạt được những kết quả quan trọng nêu trên, nhưng hoạt động ĐTNN tại Việt Nam còn những mặt hạn chế như sau: - Sự mất cân đối về ngành nghề, vùng lãnh thổ: Mục đích cao nhất của các nhà đầu tư là lợi nhuận. Do đó những lĩnh vực, ngành, dự án có tỷ suất lợi nhuận cao đều được các nhà đầu tư quan tâm, còn những dự án, lĩnh vực mặc dù rất cần thiết cho dân sinh, nhưng không đưa lại lợi nhuận thỏa đáng thì không thu hút được đầu tư nước ngoài. Các nhà ĐTNN trong khi lựa chọn địa điểm để triển khai dự án đầu tư thường tập trung vào những nơi có kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội thuận lợi, do đó các thành phố lớn, những địa phương có cảng biển, cảng hàng không, các tỉnh đồng bằng là nơi tập trung nhiều dự án ĐTNN nhất. Trong khi đó, các tỉnh miềm núi, vùng sâu, vùng xa, những địa phương cần được đẩy nhanh tốc độ phát triển kinh tế, mặc dù chính phủ và chính quyền địa phương có những ưu đãi cao hơn nhưng không được các nhà đầu tư quan tâm. Tình trạng đó đã dẫn đến một nghịch lý, những địa phương có trình độ phát triển cao thì thu hút được ĐTNN nhiều, do đó tốc độ tăng trưởng kinh tế vượt quá tốc độ tăng trưởng trung bình của cả nước. Trong khi đó, những vùng có trình độ kém phát triển thì có ít dự án ĐTNN, tốc độ tăng trưởng kinh tế vẫn thấp. Đối với các ngành nghề cũng xảy ra tình trạng tương tự, các nhà ĐTNN chỉ đầu tư vào các ngành có khả năng sinh lợi cao, rủi ro thấp, còn các ngành, lĩnh vực có khả năng sinh lời thấp, rủi ro cao không được sự quan tâm của các nhà ĐTNN. - Tranh chấp lao động trong khu vực có vốn đầu tư nước ngoài chưa được giải quyết kịp thời. Các tranh chấp lao động là khó tránh, đặc biệt trong những thời điểm doanh nghiệp mới bắt đầu hoạt động, hoặc khi doanh nghiệp gặp khó khăn về sản xuất kinh doanh. Nhìn chung người chủ thường trả công cho người lao động thấp hơn cái mà họ đáng được hưởng, không thỏa đánh với nhu cầu của người lao động. Điều đó dẫn đến mâu thuẫn giữa chủ sử dụng lao động và người lao động, dẫn đến tình trạng đình công bãi công làm thiệt hại cho doanh nghiệp. ĐTNN ở nước ta đã thu hút được hàng nghìn doanh nghiệp của các nước và vũng lãnh thổ khắp thế giới. Điều đó cho thấy tính hấp dẫn của môi trường đầu tư ở Việt Nam, đồng thời cũng thể hiện tính đa dạng của các nền văn hóa trong quan hệ giữa người sử dụng lao động và người lao động trong các doanh nghiệp ĐTNN. - Sự yếu kém trong chuyển giao công nghệ Nhìn chung công nghệ được sử dụng trong các doanh nghiệp ĐTNN thường cao hơn mặt bằng công nghệ cùng ngành và cùng loại sản phẩm tại nước ta. Tuy vậy, một số trường hợp các nhà ĐTNN đã lợi dụng sơ hở của pháp luật Việt Nam, cũng như sự yếu kém trong kiểm tra giám sát tại các cửa khẩu nên đã nhập vào Việt Nam một số máy móc thiết bị có công nghệ lạc hậu thậm chí là những phế thải của các nước khác. Tính phổ biến của việc nhập máy móc thiết bị là giá cả đươc ghi trong hóa đơn thường cao hơn giá trung bình của thị trường thế giới. Nhờ vậy một số nhà ĐTNN có thể lợi dụng để khai tăng tỷ lệ góp vốn trong các liên doanh với Việt Nam. Việc chuyển giao công nghệ từ nước ngoài vào Việt Nam được thực hiện thông qua các hợp đồng và được cơ quan quản lý nhà nước về khoa học công nghệ chuẩn y. Tuy vậy, đây là một hoạt đông cực kỳ khó khăn đối với các nước tiếp nhận đầu tư nói chung, kể cả Việt Nam, bởi khó có thể đánh giá chính xác giá trị thực của từng loại công nghệ trong những ngành khác nhau, đặc biệt trong những ngành công nghệ cao. Do vậy, thường phải thông qua thương lượng theo hình thức mặc cả đến khi hai bên có thể chấp nhận được, thì ký kết hợp đồng chuyển giao công nghệ. B/ Nguyên nhân,bài học kinh nghiệm và các giải pháp chủ yếu : 1/ Nguyên nhân của những thành tựu và hạn chế của khu vực ĐTNN: 1.1. Nguyên nhân của những thành tựu: - Trước hết đó là đường lối đổi mới đúng đắn của Đảng cùng những cố gắng và tiến bộ trong công tác quản lý của Nhà nước đã phát huy được nhân tố có ý nghĩa quyết định là ý chí kiên cường, tính năng động, sáng tạo và sự nỗ lực phấn đấu của các cấp, các ngành. - Nước ta duy trì được ổn định chính trị xã hội, an ninh được đảm bảo, được đánh giá là địa bàn đầu tư an toàn, đồng thời kiên trì thực hiện đường lối đổi mới, đa phương hoá, đa dạng hoá quan hệ kinh tế đối ngoại, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, tạo hình ảnh tích cực đối với các nhà đầu tư. Nền kinh tế tăng trưởng cao, thu hút sự quan tâm của các nhà đầu tư quốc tế, nhất là về khả năng mở rộng dung lượng thị trường trong nước của trên 80 triệu dân. - Công tác chỉ đạo điều hành của Chính phủ, của các Bộ, ngành và chính quyền địa phương đã tích cực, chủ động hơn (đẩy nhanh lộ trình áp dụng cơ chế một giá, hỗ trợ nhà đầu tư giảm chi phí sản xuất, tiếp tục thực hiện việc cải cách hành chính, quan tâm hơn tới việc tháo gỡ khó khăn cho việc triển khai dự án). - Công tác vận động xúc tiến đầu tư ngày càng được cải tiến, tiến hành ở nhiều ngành, nhiều cấp, ở trong nước và nước ngoài dưới hình thức đa dạng, kết hợp với các chuyến thăm, làm việc cấp cao của lãnh đạo Đảng, Nhà nước, gắn với việc quảng bá rộng rãi hình ảnh Việt Nam và vận động đầu tư - xúc tiến thương mại và du lịch. Chính vì vậy, mà hiệu quả đã được nâng dần với kết quả minh chứng là nhiều nhà đầu tư nước ngoài đã vào tìm kiếm cơ hội đầu tư và ký kết số lượng lớn dự án quy mô lớn, mở đầu cho làn sóng đầu tư mới lần 2 vào Việt Nam, kể từ năm 1987 đến nay. 1.2. Về nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế. - Tư duy kinh tế chậm đổi mới. Chưa tạo lập đồng bộ các loại thị trường theo nguyên tắc thị trường. Nhận thức về chung về ĐTNN đều thống nhất như các chủ trương, pháp luật của Đảng và Nhà nước là coi ĐTNN là một bộ phận cấu thành hữu cơ của nền kinh tế, được khuyến khích phát triển lâu dài, bình đẳng với các thành phần kinh tế khác. Tuy nhiên, thực tế xử lý các vấn đề cụ thể ở nhiều Bộ, ngành và địa phương vẫn còn phân biệt rất khác nhau giữa đầu tư trong nước và ĐTNN, chưa thực sự coi ĐTNN là thành phần kinh tế của Việt Nam. Điều đó thể hiện ngay từ khâu quy hoạch sản phẩm, phân bổ các nguồn lực phát triển kinh tế (lao động, đất đai, vốn…) cũng chưa thực sự cho phép ĐTNN tham gia. Việc xử lý tranh chấp kinh tế giữa các bên cũng thiên về bảo vệ quyền lợi cho phía Việt Nam. Trong những thời điểm khó khăn, ta tranh thủ vốn ĐTNN nhưng khi điều kiện thuận lợi lại có xu hướng không khuyến khích ĐTNN mà để trong nước tự làm; những biểu hiện này có tác động làm nản lòng nhà ĐTNN. - Hệ thống luật pháp, chính sách về đầu tư tuy đã được sửa đổi, bổ sung nhưng vẫn chưa đồng bộ, thiếu nhất quán. Một số Bộ, ngành chậm ban hành các thông tư hướng dẫn các nghị định của Chính phủ. - Môi trường đầu tư-kinh doanh nước ta tuy được cải thiện nhưng tiến bộ đạt được còn chậm hơn so với các nước trong khu vực, trong khi cạnh tranh thu hút vốn ĐTNN tiếp tục diễn ra ngày càng gay gắt. - Định hướng chiến lược thu hút vốn ĐTNN hướng chủ yếu vào lĩnh vực công nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu nhưng sự liên kết, phối hợp giữa các doanh nghiệp ĐTNN với doanh nghiệp trong nước còn yếu nên giá trị gia tăng trong một số sản phẩm xuất khẩu (hàng điện tử dân dụng, dệt may) còn thấp. Nhiều tập đoàn công nghiệp định hướng xuất khẩu đầu tư tại Việt Nam buộc phải nhập khẩu phần lớn nguyên liệu đầu vào vì thiếu nguồn cung cấp ngay tại Việt Nam. - Công tác quy hoạch còn có những bất hợp lý, nhất là quy hoạch ngành còn nặng về xu hướng bảo hộ sả n xuất trong nước, chưa kịp thời điều chỉnh để phù hợp với các cam kết quốc tế. -Nước ta có xuất phát điểm của nền kinh tế thấp, quy mô nền kinh tế nhỏ bé; kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội yếu kém; các ngành công nghiệp bổ trợ chưa phát triển; trình độ công nghệ và năng suất lao động thấp, chi phí sản xuất cao. Chính sách, biện pháp để khuyến khích huy động tốt nguồn lực trong nước và ngoài nước vào phát triển kinh tế, xã hội còn nhiều hạn chế. - Sự phối hợp trong quản lý hoạt động ĐTNN giữa các Bộ, ngành, địa phương chưa chặt chẽ. Đánh giá tình hình ĐTNN vẫn nặng về số lượng, chưa coi trọng về chất lượng, còn bệnh thành tích trong cơ quan quản lý các cấp. - Tổ chức bộ máy, công tác cán bộ và cải cách hành chính chưa đáp ứng yêu cầu phát triển trong tình hình mới. Năng lực của một bộ phận cán bộ, công chức làm công tác kinh tế đối ngoại còn hạn chế về chuyên môn, ngoại ngữ, không loại trừ một số yếu kém về phẩm chất, đạo đức, gây phiền hà cho doanh nghiệp, làm ảnh hưởng xấu đến môI trường đầu tư-kinh doanh. 2/ Bài học kinh nghiệm: Từ thực tiễn 20 năm hoạt động ĐTNN tại Việt Nam cũng như kinh nghiệm của một số nước trong khu vực có thể rút ra một số bài học sau: Một là, cần thống nhất nhận thức và có cách nhìn nhạy bén về kinh tế, chính trị, nắm bắt thời cơ, thuận lợi, thấy rõ được những khó khăn, thách thức từ bên trong cũng như bên ngoài để kịp thời đề ra được chủ trương, đường lối đúng đắn, tập trung lực lượng, giải quyết dứt điểm các vấn đề nảy sinh. Chủ trương, đường lối khi đã đề ra phải được quán triệt thông suốt, đầy đủ từ trung ương đến địa phương và phải được cụ thể hóa kịp thời, tạo ra sự thống nhất và quyết tâm cao trong việc tổ chức thực hiện để đảm bảo thành công. Hai là, các chủ trương, phương hướng lớn phải được nhanh chóng thể chế hóa thành pháp luật, cơ chế, chính sách một cách đồng bộ, tạo đủ hành lang pháp lý cho việc thực hiện. Pháp luật và văn bản liên quan về ĐTNN phải minh bạch, rõ ràng và phù hợp với thông lệ quốc tế có chú ý tới điều kiện và hoàn cảnh cụ thể của nước ta. Cơ chế, chính sách phải đồng bộ thể hiện tính khuyến khích và canh tranh cao so với các nước trong khu vực, có tính tới quy luật cạnh tranh và xu hướng tự do hóa trong thu hút đầu tư phù hợp với tiến trình hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế thế giới, đồng thời tạo điều kiện, khuyến khích sự chủ động, sáng tạo của người thực hiện. Ba là, công tác chỉ đạo, điều hành phải thông suốt, thống nhất, có nền nếp, kỷ cương trong bộ máy công quyền, tạo niềm tin và độ tin cậy đối với nhà đầu tư, đặc biệt đối với người đứng đầu. Phải luôn luôn hướng về nhà đầu tư và doanh nghiệp để nhanh chóng tháo gỡ khó khăn, vướng mắc, tạo thuận lợi cho hoạt động đầu tư. Mọi thủ tục hành chính phục vụ cho hoạt động đầu tư phải đơn giản, gọn nhẹ, không làm tăng chi phí, không gây phiều hà, sách nhiễu cho nhà đầu tư. Bốn là, công tác cán bộ cần luôn được xem trọng để có kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng thường xuyên, liên tục nhằm xây dựng tổ chức bộ máy, đội ngũ cán bộ làm công tác kinh tế đối ngoại không những tinh thông nghiệp vụ, am hiểu về kinh tế đối ngoại, mà còn trong sạch về phẩm chất, đạo đức, vì đây là cầu nối giữa nhà đầu tư với nước chủ nhà, là nguyên nhân của mọi nguyên nhân thành công hay thất bại. Năm là, tùy điều kiện và hoàn cảnh cụ thể, các cơ quan quản lý đầu tư các cấp chủ động vận dụng, tổ chức triển khai, giám sát và đánh giá việc thực hiện các nghị quyết, chủ trương, chính sách, pháp luật nhà nước về đầu tư sao cho hiệu quả, đảm bảo hài hòa mối quan hệ giữa nhà đầu tư, nhà quản lý, giữa lợi ích của nhà nước với lợi ích của nhà đầu tư trong quá trình phát triển kinh tế-xã hội bền vững trên địa bàn và trên cả nước. 3/ Các giải pháp chủ yếu: Để triển khai thực hiện việc thu hút và sử dụng hiệu quả vốn ĐTNN trong giai đoạn 2006- 2010 và một số năm về sau, Chính phủ sẽ chỉ đạo thực hiện các giải pháp sau : Nhóm giải pháp về quy hoạch: Đẩy nhanh tiến độ xây dựng và phê duyệt các quy hoạch còn thiếu; rà soát để định kỳ bổ sung, điều chỉnh các quy hoạch đã lạc hậu nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho nhà đầu tư trong việc xác định và xây dựng dự án. Quán triệt và thực hiện thống nhất các quy định mới của Luật Đầu tư trong công tác quy hoạch, đảm bảo việc xây dựng các quy hoạch ngành, lĩnh vực, sản phẩm phù hợp với các cam kết quốc tế. Hoàn chỉnh quy hoạch sử dụng đất, công bố rộng rãi quy hoạch, tạo điều kiện để đẩy nhanh tiến độ giải phóng mặt bằng cho các dự án đầu tư. Nhóm giải pháp về luật pháp, chính sách: Tiếp tục rà soát pháp luật, chính sách để sửa đổi hoặc loại bỏ các điều kiện áp dụng ưu đãi đầu tư không phù hợp với cam kết của Việt Nam với WTO và có giải pháp đảm bảo quyền lợi của nhà đầu tư liên quan. Xây dựng văn bản hướng dẫn các địa phương và doanh nghiệp về lộ trình cam kết mở cửa đầu tư nước ngoài làm cơ sở xem xét cấp giấy chứng nhận đầu tư. Theo dõi, giám sát việc thi hành pháp luật về đầu tư và doanh nghiệp để kịp thời phát hiện và xử lý các vướng mắc phát sinh. Khẩn trương ban hành các văn bản hướng dẫn các luật mới, nhất là các luật mới được Quốc hội thông qua trong năm 2006 có liên quan đến đầu tư, kinh doanh. Ban hành các ưu đãi khuyến khích đầu tư đối với các dự án xây dựng các công trình phúc lợi (nhà ở, bệnh viện, trường học, văn hoá, thể thao) cho người lao động làm việc trong các khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao, khu kinh tế, đảm bảo sự tương thích với các luật pháp hiện hành. Nghiên cứu, đề xuất chính sách vận động, thu hút đầu tư đối với các tập đoàn đa quốc gia cũng như có chính sách riêng đối với từng tập đoàn và mỗi nước thành viên EU, Hoa Kỳ. Chấn chỉnh tình trạng ban hành và áp dụng các ưu đãi, hỗ trợ đầu tư trái với quy định của pháp luật. Tăng cường tập huấn, phổ biến nội dung và lộ trình thực hiện các cam kết quốc tế của Việt Nam. Nhóm giải pháp về xúc tiến đầu tư: - Các Bộ, ngành và Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh tiếp tục rà soát, cập nhật bổ sung danh mục kêu gọi đầu tư phù hợp với nhu cầu đầu tư phát triển và quy hoạch phát triển ngành, địa phương. - Triển khai nhanh việc thành lập bộ phận XTĐT tại một số địa bàn trọng điểm. Xây dựng quy chế phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan xúc tiến đầu tư, xúc tiến thương mại và xúc tiến du lịch các cấp, bao gồm cả trong nước lẫn đại diện ở nước ngoài nhằm tạo sự đồng bộ và phối hợp nâng cao hiệu quả giữa các hoạt động này. Đồng thời, thực hiện tốt Chương trình xúc tiến đầu tư quốc gia giai đoạn 2007-2010 để đảm bảo kinh phí cho vận động thu hút vốn ĐTNN nhằm đẩy mạnh tuyên truyền, quảng bá hình ảnh Việt Nam, kết hợp chặt chẽ các chuyến công tác của lãnh đạo cấp cao Đảng và Nhà nước với các hoạt động xúc tiến đầu tư-thương mại-du lịch. - Tổ chức hiệu quả các cuộc hội thảo ở trong nước và nước ngoài. Nâng cấp trang thông tin điện tử về ĐTNN cập nhật và chất lượng tài liệu xúc tiến đầu tư bằng một số ngôn ngữ đáp ứng nhu cầu của số đông nhà đầu tư (tiếng Anh, tiếng Nhật, tiếng Trung, tiếng Hàn, tiếng Nga) - Tăng cường các đoàn vận động đầu tư theo phương thức làm việc trực tiếp với các tập đoàn lớn, tại các địa bàn trọng điểm (Nhật Bản, Mỹ và EU) để kêu gọi đầu tư vào các dự án lớn, quan trọng. Chủ động tiếp cận và hỗ trợ các nhà đầu tư tiềm năng có nhu cầu đầu tư vào Việt Nam. Nhóm giải pháp về cải thiện cơ sở hạ tầng: - Tiến hành tổng rà soát, điểu chỉnh, phê duyệt và công bố các quy hoạch về kết cấu hạ tầng đến năm 2020 làm cơ sở thu hút đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng. Tăng cường công tác quy hoạch, thực thi các quy hoạch cũng như thu hút đầu tư vào các công trình giao thông, năng lượng. - Tranh thủ tối đa các nguồn lực để đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng, đặc biệt là nguồn vốn ngoài ngân sách nhà nước; ưu tiên các lĩnh vực cấp, thoát nước, vệ sinh môi trường (xử lý chất thải rắn, nước thải.v.v.); hệ thống đường bộ cao tốc, trước hết là tuyến Bắc-Nam, hai hành lang kinh tế Việt Nam-Trung Quốc; nâng cao chất lượng dịch vụ đường sắt, trước hết là đường sắt cao tốc Bắc-Nam, đường sắt hai hành lang kinh tế Việt Nam-Trung Quốc, đường sắt nối các cụm cảng biển lớn, các mỏ khoáng sản lớn với hệ thống đường sắt quốc gia, đường sắt nội đô thành phố Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh.v.v. Trước mắt tập trung chỉ đạo, giải quyết tốt việc cung cấp điện, trong mọi trường hợp không để xảy ra tình trạng thiếu điện đối với các cơ sở sản xuất. Tăng cường nghiên cứu xây dựng chính sách và giải pháp khuyến khích sản xuất và sử dụng điện từ và các loại năng lượng mới như sức gió, thủy triều, nhiệt năng từ mặt trời. - Khẩn trương xây dựng và ban hành cơ chế khuyến khích các thành phần kinh tế ngoài nhà nước tham gia phát triển các công trình kết cấu hạ tầng trong đó có các công trình giao thông, cảng biển, các nhà máy điện độc lập. - Mở rộng hình thức cho thuê cảng biển, mở rộng đối tượng cho phép đầu tư dịch vụ cảng biển, đặc biệt dịch vụ hậu cần (logistic) để tăng cường năng lực cạnh tranh của hệ thống cảng biển Việt Nam; kêu gọi vốn đầu tư các cảng lớn của các khu vực kinh tế như hệ thống cảng Hiệp Phước-Thị Vải, Lạch Huyện.v.v. - Tập trung thu hút vốn đầu tư vào một số dự án thuộc lĩnh vực bưu chính-viễn thông và công nghệ thông tin để phát triển các dịch vụ mới và phát triển hạ tầng mạng. - Đẩy mạnh đầu tư vào các lĩnh vực (văn hóa-y tế-giáo dục, bưu chính-viễn thông, hàng hải, hàng không) đã cam kết khi gia nhập WTO. Xem xét việc ban hành một số giải pháp mở cửa sớm hơn mức độ cam kết đối với một số lĩnh vực dịch vụ mà nước ta có nhu cầu, Nhóm giải pháp về lao động, tiền lương: - Đẩy nhanh việc triển khai kế hoạch tổng thể về đào tạo nhằm nâng tỷ lệ lao động qua đào tạo lên 40% vào năm 2010. Theo đó, ngoài việc nâng cấp đầu tư hệ thống các trường đào tạo nghề hiện có lên ngang tầm khu vực và thế giới, sẽ phát triển thêm các trường đào tạo nghề và trung tâm đào tạo từ các nguồn vốn khác nhau. - Nghiên cứu điều chỉnh chuyển dịch cơ cấu lao động theo tốc độ chuyển dịch cơ cấu kinh tế. - Thực hiện các giải pháp nhằm đưa Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Lao động vào thực tế cuộc sống để ngăn ngừa tình trạng đình công bất hợp pháp, lành mạnh hóa quan hệ lao động theo tinh thần của Bộ luật Lao động, bao gồm: - Tiếp tục hoàn thiện luật pháp, chính sách về lao động, tiền lương phù hợp trong tình hình mới; tăng cường công tác kiểm tra, giám sát việc chấp hành pháp luật về lao động đối với người sử dụng lao động nhằm đảm bảo điều kiện làm việc và đời sống cho người lao động. - Nâng cao hiểu biết pháp luật về lao động thông qua phổ biến, tuyên truyền và giáo dục pháp luật cho người lao động, người sử dụng lao động trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài để đảm bảo chính sách, pháp luật về lao động và tiền lương được thực hiện đầy đủ, nghiêm túc. Nhóm giải pháp về cải cách hành chính: - Thực hiện tốt việc phân cấp quản lý nhà nước đối với ĐTNN, đặc biệt trong việc phê duyệt, cấp Giấy chứng nhận đầu tư, quản lý tốt các dự án ĐTNN, gắn với việc tăng cường hợp tác, hỗ trợ, phối hợp hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát việc thi hành pháp luật về đầu tư. - Nâng cao trình độ của đội ngũ cán bộ, công chức nhằm đảm bảo thực hiện nhiệm vụ theo quy định tại Luật Đầu tư và quy định mới về phân cấp quản lý đầu tư nước ngoài. - Đơn giản hóa và công khai quy trình, thủ tục hành chính đối với đầu tư nước ngoài, thực hiện cơ chế "một cửa" trong việc giải quyết thủ tục đầu tư. Đảm bảo sự thống nhất, các quy trình, thủ tục tại các địa phương, đồng thời, phù hợp với điều kiện cụ thể. - Xử lý dứt điểm, kịp thời các vấn đề vướng mắc trong quá trình cấp phép, điều chỉnh Giấy chứng nhận đầu tư . - Tăng cường cơ chế phối hợp quản lý đầu tư nước ngoài giữa Trung ương và địa phương và giữa các Bộ, ngành liên quan. Một số giải pháp khác: - Trong các giải pháp nêu trên cần phải tính đến yếu tố vùng, miền cho các định hướng ưu tiên, đặc thù.. phù hợp thực tế để dần thu hẹp khoảng cách giữa các vùng, miền trong thu hút ĐTNN phục vụ phát triển kinh tế-xã hội trên địa bàn nói riêng và cả nước nói chung. - Tiếp tục nâng cao hiệu quả việc chống tham nhũng, tiêu cực và tình trạng nhũng nhiễu đối với nhà đầu tư. Đề cao tinh thần trách nhiệm cá nhân trong xử lý công việc, thực hành tiết kiệm, chống lãng phí ở các cơ quan quản lý nhà nước. V/ TRIỂN VỌNG ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI TẠI VIỆT NAM TRONG THỜI GIAN TỚI : Chủ trương tăng cường thu hút và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (ĐTNN) được thể hiện trong các văn kiện của Đảng, Nhà nước và tiếp tục được khẳng định tại Đại hội Đảng toàn quốc lần X.Mục tiêu và định hướng thu hút ĐTNN giai đoạn tới được xác định như sau: 1/ Mục tiêu Chương trình thu hút ĐTNN 2006-2010 : Các chỉ tiêu chủ yếu về ĐTNN giai đoạn 2006-2010 cần đạt được là: - Vốn ĐTNN thực hiện: đạt khoảng 24 - 25 tỷ USD (tăng 70-75% so với giai đoạn 2001-2005) chiếm khoảng 17,8% tổng vốn đầu tư toàn xã hội. - Vốn đăng ký bao gồm cả vốn FDI đăng ký cấp mới và tăng vốn đạt khoảng 55 tỷ USD (tăng hơn 2 lần so với giai đoạn 2001–2005), trong đó vốn cấp mới đạt 41 tỷ USD và vốn bổ sung đạt khoảng 14 tỷ USD. Bình quân mỗi năm đạt khoảng 11 tỷ USD. - Doanh thu: khoảng 163,4 tỷ USD - Xuất - nhập khẩu: xuất khẩu đạt khoảng 93,3 tỷ USD (không kể dầu thô); nhập khẩu đạt 103,tỷ USD. - Nộp ngân sách nhà nước: đạt khoảng 8,4 tỷ USD. - Cơ cấu vốn thực hiện theo ngành: vốn FDI thực hiện trong ngành công nghiệp chiếm khoảng 60%, nông-lâm-ngư nghiệp khoảng 5% và dịch vụ khoảng 35%. - Chú trọng thu hút đầu tư từ các nước G7 có công nghệ cao, đảm bảo phát triển bền vững. 2/ Định hướng thu hút vốn đầu tư trong một số ngành: (1) Ngành Công nghiệp-Xây dựng: - Các ngành đặc biệt khuyến khích đầu tư gồm công nghệ thông tin, điện tử, vi điện tử, công nghệ sinh học…; chú trọng công nghệ nguồn từ các nước công nghiệp phát triển như Hoa Kỳ, EU, Nhật Bản; hết sức coi trọng thu hút FDI gắn với nghiên cứu phát triển và chuyển giao công nghệ. - Công nghiệp phụ trợ: Khuyến khích thu hút FDI vào ngành công nghiệp phụ trợ nhằm giảm chi phí đầu vào về nguyên-phụ liệu của các ngành công nghiệp, góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh của sản phẩm sản xuất trong nước. Để thúc đẩy phát triển ngành công nghiệp phụ trợ, cần tạo điều kiện để các dự án sản xuất lắp ráp các sản phẩm công nghiệp nhanh chóng mở rộng quy mô và thị trường tiêu thụ. (2) Ngành Dịch vụ: - Ngành dịch vụ còn dư địa lớn để đầu tư phát triển góp phần quan trọng trong nâng cao tốc độ tăng trưởng kinh tế. Từng bước mở cửa các lĩnh vực dịch vụ theo các cam kết quốc tế, tạo động lực thúc đẩy các ngành kinh tế khác phát triển như dịch vụ ngân hàng, tài chính; dịch vụ vận tải, bưu chính-viễn thông, y tế, văn hoá, giáo dục, đào tạo và các lĩnh vực dịch vụ khác. Với định hướng trên, tiến hành xem xét, giảm bớt các lĩnh vực, ngành nghề kinh doanh có điều kiện đối với ĐTNN có tính tới các yếu tố hội nhập và toàn cầu hóa theo lộ trình “mở cửa”; tạo bước đột phá trong thu hút ĐTNN bằng việc xem xét đẩy sớm lộ trình mở cửa đối với một số lĩnh vực dịch vụ, khuyến khích sự tham gia của khu vực tư nhân vào phát triển hạ tầng. Cụ thể là: - Khuyến khích mạnh vốn ĐTNN vào các ngành du lịch, y tế, giáo dục-đào tạo. Mở cửa theo lộ trình các lĩnh vực dịch vụ “nhạy cảm” như ngân hàng, tài chính, vận tải, viễn thông, bán buôn và bán lẻ và văn hoá. - Khuyến khích ĐTNN tham gia xây dựng cơ sở hạ tầng kỹ thuật bằng các phương thức thích hợp gồm BOT, BT để xây dựng cảng biển, cảng hàng không, đường cao tốc, đường sắt, viễn thông, cấp nước, thoát nước… nhằm góp phần nâng cấp hệ thống kết cấu hạ tầng kỹ thuật đáp ứng được yêu cầu tăng trưởng nhanh của nền kinh tế. (3) Ngành Nông-Lâm-Ngư nghiệp: Theo Luật Đầu tư năm 2005, nuôi trồng, chế biến nông, lâm thuỷ sản, làm muối; sản xuất giống nhân tạo, giống cây trồng và giống vật nuôi mới là một trong những lĩnh vực được hưởng ưu đãi đầu tư. Phù hợp chiến lược phát triển ngành, thu hút ĐTNN định hướng theo ngành hàng, sản phẩm chủ yếu như sau: - Về trồng trọt và chế biến nông sản, ĐTNN tập trung vào các dự án xây dựng các vùng trồng và chế biến nông sản xuất khẩu như lúa gạo, cây lương thực, rau quả, cà phê, cao su, chè... theo hướng thâm canh, nâng cao chất lượng, hạ giá thành sản phẩm, đổi mới thiết bị các xưởng chế biến. - Về chăn nuôi và chế biến sản phẩm chăn nuôi, ĐTNN tập trung thu hút vào các dự án sản xuất giống lợn, bò và gia cầm có chất lượng cao tại các vùng có điều kiện thuận lợi về lao động, đất đai, đảm bảo vệ sinh môi trường khi phát triển chăn nuôi với quy mô lớn, đồng thời tiếp tục thu hút đầu tư sản xuất thức ăn gia súc có chất lượng cao. - Về trồng rừng - chế biến gỗ, ĐTNN tập trung vào các dự án sản xuất giống cây có chất lượng, năng suất cao nhằm đáp ứng nhu cầu trồng rừng nguyên liệu phục vụ chế biến gỗ, lâm sản. 3/ Định hướng thu hút vốn đầu tư theo vùng: Trong thời gian tới, dự báo vốn ĐTNN vẫn sẽ tập trung chủ yếu vào những địa phương có điều kiện thuận lợi về địa lý-tự nhiên, nhất là các vùng kinh tế trọng điểm. Để tăng cường thu hút ĐTNN tại những vùng có điều kiện kinh tế xã hội còn khó khăn, thu hẹp dần khoảng cách về trình độ phát triển giữa các vùng, bên cạnh những ưu đãi của đối với ĐTNN tại các vùng đó đòi hỏi phải tăng cường đầu tư xây dựng nhanh cơ sở hạ tầng kỹ thuật, đường giao thông, điện, nước ở các vùng kinh tế khó khăn bằng nguồn vốn nhà nước, vốn ODA và nguồn vốn tư nhân. Tập trung thu hút đầu tư, lấp đầy các KCN-KCX-KCNC, khu kinh tế đã được Chính phủ phê duyệt góp phần đẩy nhanh việc thu hẹp khoảng cách phát triển giữa các vùng. Tận dụng những khu vực đất trống, đồi trọc, ít giá trị nông nghiệp để phát triển KCN, xây dựng nhà máy, hạn chế xây dựng KCN-KCX-KCNC trên đất canh tác nông nghiệp truyền thống. ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc6071.doc
Tài liệu liên quan