Đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị tại Hà Nội: thực trạng và giải pháp

MỤC LỤC LỜI NÓI ĐẦU Trong xu thế hội nhập kinh tế như hiện nay, đặc biệt là khi Việt Nam đã ra nhập WTO thì việc phát triển cơ sở hạ tầng nói chung và cơ sở hạ tầng đô thị nói riêng một cách đồng bộ, đạt trình độ tiên tiến, tiêu chuẩn hiện đại đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế- xã hội, vừa là điều kiện vừa là một nội dung cơ bản của sự nghiệp CNH – HĐH đất nước và tạo cơ sở quan trọng cho sự nghiệp đổi mới và phát triển bền vững nền kinh tế đất nước. Nó là động lực để phát triển kinh tế, hộ

doc90 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1371 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị tại Hà Nội: thực trạng và giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
i nhập kinh tế quốc tế và rút ngắn khoảng cách với bên ngoài. Hệ thống cơ sở hạ tầng tiên tiến và đồng bộ tạo điều kiện phát triển đồng đều giữa các địa phương, các vùng lãnh thổ, làm giảm sự chênh lệch về mức sống và dân trí giữa các khu vực dân cư. Tốc độ đô thị hóa ngày càng tăng, dân số đô thị cũng tăng lên với tốc độ chóng mặt, điều này sẽ đồng nghĩa với sự gia tăng các nhu cầu. Một trong những nhu cầu đó là nhu cầu tiêu thụ nước sạch ở đô thị. Để giải quyết vấn đề trên thì yêu cầu đặt ra là đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng cấp nước. Do vậy, vấn đề về vốn để đầu tư cho cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị là rất lớn, cần phải đa dạng hóa các nguồn vốn cho việc đầu tư phát triển. Cũng là lý do vì sao em chọn đề tài : “ Đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị tại Hà Nội: thực trạng và giải pháp” Đề tài được trình bày trong 2 chương : Chương 1: Thực trạng đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị tại Hà Nội Chương 2: Một số giải pháp tăng cường đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị tại Hà Nội DANH MỤC BẢNG, BIỂU Biểu 1 : Quy mô và cơ cấu dự án đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị giai đoạn 2002- 2007 36 Biểu 2: Cơ cấu nguồn vốn đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị giai đoạn 2002 – 2007: 42 Biểu 3: Cơ cấu vốn đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị Hà Nội phân theo nội dung đầu tư giai đoạn 2002 – 2007 48 Bảng 1: Dân số Hà Nội qua các năm 23 Bảng 2 : Dự báo dân số Hà Nội đến năm 2020 24 Bảng 3: Diện tích, dân số trung bình và mật độ dân số Hà Nội 26 Bảng 4 : Nhu cầu nước đô thị phân theo khu vực địa lý 29 Bảng 5 : Tỷ lệ cấp nước 30 Bảng 6 : Vốn đầu tư cho phát triển cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị giai đoạn 2002-2007 33 Bảng 7 : Số dự án và cơ cấu dự án đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị phân theo nguồn vốn giai đoạn 2002- 2007 35 Bảng 8: Tốc độ tăng định gốc và liên hoàn của các nguồn vốn 37 đầu tư phát triển CSHT cấp nước đô thị Hà Nội giai đoạn 2002- 2007 37 Bảng 9: Cơ cấu nguồn vốn đầu tư phát triển CSHT CNĐT 40 Hà Nội giai đoạn 2002 – 2007 40 Bảng 10: Cơ cấu vốn đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị Hà Nội phân theo nội dung đầu tư giai đoạn 2002 – 2007 47 Bảng 11 : Mức tăng công suất cấp nước đô thị tăng thêm giai đoạn 2002-2007 55 Bảng 12: Kết quả cấp nước đô thị Hà Nội 57 Bảng 13 : Dự kiến nguồn vốn đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị giai đoạn 2008-2015 69 Bảng 14: Dự kiến cấp nước đô thị Hà Nội 75 CÁC CHỮ CÁI VIẾT TẮT BOO: Xây dựng – vận hành – sở hữu BOT: Xây dựng – vận hành – chuyển giao BTO: Xây dựng – chuyển giao – vận hành CNĐT: Cấp nước đô thị DNNN: Doanh nghiệp nhà nước ĐTPT: Đầu tư phát triển CSHT: Cơ sở hạ tầng ODA: Hỗ trợ phát triển chính thức SXKD: Sản xuất kinh doanh NHTG: Ngân hàng thế giới UBND: Ủy ban nhân dân NSNN: Ngân sách nhà nước NSHN: Nước sạch Hà Nội KDNSHN: Kinh doanh nước sạch Hà Nội CNH – HĐH: Công nghiệp hóa hiện đại hóa CTNVN: Cấp thoát nước Việt nam CHƯƠNG 1: THỰC TRẠNG ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN CƠ SỞ HẠ TẦNG CẤP NƯỚC ĐÔ THỊ TẠI HÀ NỘI 1.1. Cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị, vai trò và mô hình cung cấp nước đô thị điển hình: 1.1.1. Khái niệm cơ sở hạ tầng và cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị: 1.1.1.1. Cơ sở hạ tầng: Khái niệm: Cơ sở hạ tầng là tổ hợp các công trình vật chất kỹ thuật có chức năng phục vụ trực tiếp dịch vụ sản xuất đời sống của dân cư, được bố trí trên một phạm vi lãnh thổ nhất định. Chúng ta có thể thấy có hai loại ý kiến khác nhau xuất phát từ hai quan niệm theo nghĩa rộng và theo nghĩa hẹp về cơ sở hạ tầng. Theo nghĩa hẹp, cơ sở hạ tầng được hiểu là tập hợp các ngành phi sản xuất vật chất thuộc lĩnh vực lưu thông bao gồm các công trình vật chất kỹ thuật phi sản xuất và các tổ chức dịch vụ có chức năng bảo đảm những điều kiện chung cho sản xuất, phục vụ những yêu cầu phổ biến của sản xuất và đời sống xã hội, theo cách hiểu này cơ sở hạ tầng chỉ bao gồm các công trình giao thông, cấp thoát nước, cung ứng điện, hệ thống thông tin liên lạc…và các đơn vị bảo đảm duy trì các công trình này. Tuy nhiên, quan niệm cơ sở hạ tầng theo nghĩa hẹp không cho chúng ta thấy mối quan hệ hữu cơ giữa các bộ phận vốn không cùng tính chất nhưng lại có mối liên quan mật thiết với nhau trong một hệ thống thống nhất. Theo nghĩa rộng, cơ sở hạ tầng là tổng thể các công trình và nội dung hoạt động có chức năng đảm bảo những điều kiện “ bên ngoài” cho việc sản xuất và sinh hoạt của dân cư. Cơ sở hạ tầng là một phạm trù gần nghĩa với “môi trường kinh tế” bao gồm các phân hệ : Phân hệ kỹ thuật: đường, giao thông, cầu cảng, sân bay, năng lượng, bưu chính viễn thông…, phân hệ tài chính: hệ thống tài chính, tín dụng…, phân hệ thiết chế: pháp luật…, phân hệ xã hội: giáo dục, y tế…. Theo cách hiểu này thì cơ sở hạ tầng rất rộng, nó bao gồm toàn bộ khu vực dịch vụ. Theo nghĩa rộng thì cơ sở hạ tầng không có sự đồng nghĩa và lẫn lộn giữa phạm trù “ khu vực dịch vụ” hoặc là “ môi trường kinh tế” bởi cơ sở hạ tầng tạo điều kiện cho các khu vực kinh tế khác nhau phát triển. Như vậy, cơ sở hạ tầng là tổng hợp các công trình vật chất kỹ thuật có chức năng phục vụ trực tiếp cho sản xuất và đời sống của nhân dân, được bố trí trên phạm vi lãnh thổ nhất định. Các công trình vật chất kỹ thuật ở đây rất đa dạng như các công trình giao thông vận tải: đường xá, cầu cống, sân bay…; các công trình của ngành bưu chính - viễn thông: hệ thống đường cáp quang, các trạm, vệ tinh…hay các công trình của ngành điện:đường dây, nhà máy phát điện… Các công trình này có vị trí hết sức quan trọng, nó phục vụ trực tiếp và gián tiếp cho các hoạt động của xã hội. Khi lực lượng sản xuất chưa phát triển quá trình tiến hành các hoạt động chỉ là sự kết hợp giản đơn giữa 3 yếu tố đó là lao động, đối tượng lao động và tư liệu lao động chưa có sự tham gia của cơ sở hạ tầng. Nhưng khi lực lượng sản xuất đã phát triển đến trình độ cao thì để sản xuất có hiệu quả cần có sự tham gia của cơ sở hạ tầng. Cơ sở hạ tầng kỹ thuật được phát triển mạnh mẽ gắn liền với cuộc cách mạng công nghiệp từ thế kỷ 17 đến thế kỷ 19. Bên cạnh đó, chính vì sự phát triển mạnh mẽ của cơ sở hạ tầng kỹ thuật mà nó thúc đẩy sự phát triển của cơ sở hạ tầng xã hội từ cuối thế kỷ 19 đến đầu thế kỷ 20. Hiện nay, chúng ta đang tiến hành phát triển cơ sở hạ tầng ở giai đoạn 3. Giai đoạn vừa phát triển cơ sở hạ tầng kỹ thuật vừa phát triển cơ sở hạ tầng xã hội. Như vậy, khi khoa học kỹ thuật ngày càng được nâng cao thì cơ sở hạ tầng càng phát triển. Phân loại cơ sở hạ tầng Để có thể nhận biết và có biện pháp tạo lập vốn phù hợp đối với từng loại sơ sở hạ tầng nhằm tạo điều kiện huy động tối đa các nguồn lực cho phát triển cơ sở hạ tầng, có thể phân chia cơ sở hạ tầng theo nhiều tiêu thức khác nhau: * Theo tiêu thức ngành kinh tế quốc dân: Dựa vào tiêu thức phân loại này, cơ sở hạ tầng được chia thành : Cơ sở hạ tầng kinh tế : bao gồm cơ sở hạ tầng công nghiệp, nông nghiệp, giao thông vận tải, bưu chính viễn thông…; Cơ sở hạ tầng xã hội: bao gồm cơ sở hạ tầng giáo dục đào tạo, y tế, văn hoá, thể dục thể thao… Theo đó, Cơ sở hạ tầng kinh tế là cơ sở hạ tầng phục vụ lĩnh vực kinh tế, đó là hệ thống vật chất kỹ thuật cho sự phát triển của các ngành, các lĩnh vực kinh tế như cơ sở hạ tầng của ngành công nghiệp, nông nghiệp, hệ thống giao thông vận tải; mạng lưới chuyên tải và phân phối năng lượng điện; hệ thống công trình và phương tiện thông tin liên lạc, bưu điện, viễn thông, cấp thoát nước… Cơ sở hạ tầng phục vụ lĩnh vực xã hội ( Cơ sở hạ tầng xã hội) : Đó là toàn bộ hệ thống vật chất kỹ thuật phục vụ cho các hoạt động văn hoá, xã hội đảm bảo cho việc thoả mãn và nâng cao trình độ dân trí, văn hoá tinh thần cho dân cư, cho quá trình tái sản xuất sức lao động của xã hội như các cơ sở, thiết bị và công trình phục vụ giáo dục đào tạo, nghiên cứu khoa học, các cơ sỏ y tế phục vụ chăm sóc sức khỏe…nó thường gắn với đời sống của các điểm dân cư, góp phần ổn định nâng cao đời sống dân cư trên lãnh thổ Sự phân chia này chỉ là tương đối vì trên thực tế, ít loại cơ sở hạ tầng nào hoàn toàn chỉ phục vụ kinh tế mà không phục vụ hoạt động xã hội và ngược lại. Chẳng hạn như hệ thống mạng lưới điện mở rộng đến nông thôn, đến vùng sâu, vùng xa giúp cho việc phát triển sản xuất nhưng đồng thời nó còn phục vụ cho đời sống, ở những nơi có điện, người dân có thể sử dụng các phương tiện hiện đại như đài, ti vi… để tiếp cận với những thông tin văn hóa xã hôi, nâng cao trình độ dân trí. Sự phân chia này cho phép chúng ta xác định rõ vai trò, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của từng ngành cụ thể, đồng thời xác lập mối quan hệ liên kết và phối hợp đồng bộ giữa các ngành trong quá trình xây dựng kế hoạch huy động vốn đầu tư một cách cân đối và hợp lý. * Theo khu vực lãnh thổ: Cơ sở hạ tầng ở mỗi ngành , mỗi lĩnh vực hoặc liên ngành, liên lĩnh vực hợp thành một tổng thể hoạt động, phối hợp hài hòa nhằm phục vụ sự phát triển của tổng thế kinh tế - xã hội-an ninh - quốc phòng trên từng vùng và cả nước. Sự phát triển kinh tế - xã hội và cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội trên một vùng lãnh thổ có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Mà mỗi vùng lãnh thổ riêng biệt lại có cơ sở hạ tầng riêng biệt, do đó phải có cơ sở hạ tầng phù hợp. Theo tiêu thức phân loại này, Cơ sở hạ tầng được phân chia thành: Cơ sở hạ tầng đô thị và Cơ sở hạ tầng nông thôn. * Theo cấp quản lý và đối tượng quản lý Căn cứ vào tiêu chí này, Cơ sở hạ tầng được chia thành : Hệ thống cơ sở hạ tầng kinh tế xã hội do trung ương quản lý, hệ thống cơ sở hạ tầng do địa phương quản lý Hệ thống cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội do trung ương quản lý bao gồm những tài sản quan trọng, có giá trị lớn, có chiến lược quốc gia gồm : hệ thống đường quốc lộ, đường sắt, sân bay, bưu chính viễn thông, điện, các trung tâm y tế, giáo dục lớn … Hệ thống cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội do địa phương quản lý, đó là những tài sản được nhà nước giao cho địa phương quản lý như : đường giao thông liên tỉnh, các trạm bơm tưới tiêu, hệ thống cơ sở vật chất các ngành giáo dục, y tế, văn hoá xã hội của địa phương. Cách phân loại này cho phép chúng ta xác định rõ trách nhiệm của từng cấp chính quyền trong việc quản lý, khai thác và sử dụng các công trình cơ sở hạ tầng. Trên cơ sở đó để xây dựng kế hoạch huy động các nguồn vốn đầu tư theo quy hoạch, kế hoach đã đề ra. Xét ở góc độ nào thì cơ sở hạ tầng cũng là một yếu tố, một chỉ số của sự phát triển. Hiện nay, xu thế hội nhập đang diễn ta mạnh mẽ thì tầm quan trọng của cơ sở hạ tầng ngày càng tăng lên, cơ sở hạ tầng là nền tảng trong đó diễn ra các quá trình phát triển mà thiếu nó ( ví dụ như: hệ thống thông tin viễn thông hiện đại, hệ thống giao thông vận tải, văn hóa, xã hội…) thì sự phát triển khó có thể diễn ra trôi chảy. Chính vì điều đó mà việc xây dựng cơ sở hạ tầng trở thành một nội dung quyết định của sự phát triển, nó đem lại sự thay đổi lớn về điều kiện vật chất của toàn bộ sinh hoạt trong kinh tế xã hội. 1.1.1.2. Cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị: Cơ sở hạ tầng cấp nước là một bộ phận cấu thành cơ sở hạ tầng kỹ thuật bao gồm một hệ thống các công trình kiến trúc và các phương tiện vật chất kỹ thuật mang tính nền móng cho sự phát triển của cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị, có chức năng phục vụ nhu cầu nước cho sản xuất và sinh hoạt của xã hội bao gồm hệ thống ống dẫn, các trạm bơm, các nhà máy nước…cùng với các cơ sở vật chất khác phục vụ cho người dân. Xét về phạm vi lãnh thổ, nó gồm có cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị và cơ sở hạ tầng cấp nước nông thôn. Cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị là một bộ phận cấu thành nên cơ sở hạ tầng cấp nước. Nó bao gồm một hệ thống các công trình, nhà máy, đường ống, hệ thống ống dẫn, các trạm bơm…cùng những cơ sở vật chất khác ( hệ thống máy đếm nước…) phục vụ cho các đối tượng dân cư đô thị và đảm bảo cho họ được tham gia vào hệ thống cấp nước đô thị hoạt động một cách an toàn, thông suốt và liên tục. Đa dạng hóa nguồn lực cho đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị là chủ trương được triển khai dựa trên những căn cứ khoa học và khách quan. Điều đó được phân tích dựa trên những góc độ sau: Xét dưới góc độ sở hữu : Như trên đã trình bày, sản phẩm của cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị là hàng hóa công cộng. Mà hàng hóa công cộng cũng như hàng hoá thông thường, cũng có thể tách ra thành quá trình sản xuất và tiêu dùng. Tuy nhiên hàng hóa công cộng khác hàng hóa thông thường ở chỗ, hàng hóa thông thường được sản xuất để cá nhân tiêu dùng, còn hàng hóa công cộng được sản xuất ra cho cả cộng đồng sử dụng. Hàng hóa thông thường được sản xuất ra sau đó đem bán ra thị trường trao đổi nhằm kiếm lợi nhuận, phần lợi nhuận này lại được dùng để quay vòng sản xuất hay tái sản xuất mở rộng. Còn với hàng hóa công cộng, không thể bán ngay được mà để phục vụ chung cho cộng đồng. Chính vì vậy, nguồn vốn đầu tư cho cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị chủ yếu là từ nguồn tài chính công và từ sự đóng góp của xã hội hay nói cách khác là sự đa dạng hóa nguồn vốn trong phát triển cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị. Xét dưới góc độ sử dụng: Cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị có đặc điểm là được sử dụng chung, phục vụ cho sinh hoạt và sản xuất của người dân khu vực đô thị. Do vậy, dẫn đến mâu thuẫn đó là: Ai là việc khơi mào đầu tư, bỏ vốn, sửa chữa, quản lý... điều đó sẽ phức tạp nếu không giải thoát bằng một biện pháp có tính nguyên tắc đó là : cả xã hội tham gia đầu tư và cộng đồng sử dụng. Xét về khả năng huy động vốn : Trong năm 2005, trong số vốn đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị thì 30% nguồn vốn Ngân sách và gần 40% vốn ODA còn lại là một lượng lớn nguồn vốn được huy động từ các cá nhân, tổ chức và doanh nghiệp trong nước và ngoài nước, như vậy trên thực tế cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị đã thu hút được toàn xã hội tham gia. Cho dù tiếp cận theo cách nào đi chăng nữa thì cũng có thể khẳng định rằng, muốn xây dựng cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị một cách nhanh chóng thì phải có sự góp sức của cả xã hội Xét về khía cạnh công bằng trong nghĩa vụ và quyền lợi của người dân: Trong thời gian vừa qua, việc xây dựng và hưởng thụ cơ sở hạ tầng cấp nước ở hai khu vực đô thị và nông thôn có sự khác biệt rất lớn. Các cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị được xây dựng với quy mô lớn, hiện đại, ở nông thôn thì các công trình này thường có quy mô nhỏ hơn đặc biệt là các vùng miền núi. Nguồn vốn đầu tư cho phát triển cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị thường là vốn Ngân sách nhà nước, còn cơ sở hạ tầng cấp nước nông thôn thì thường được huy động từ người dân, người dân ở khu vực thành thị thường không phải đóng góp cho việc xây dựng cơ sở hạ tầng cấp nước mà họ chỉ việc đóng góp cho khối lượng nước mà mình sử dụng, người dân ở khu vực nông thôn ngoài việc đóng góp cho khối lượng nước mà mình sử dụng phải bỏ ra tiền bạc, công sức để xây dựng. Vì vậy, vấn đề đặt ra là việc huy động vốn và đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng cấp nước phải đảm bảo được sự công bằng xã hội 1.1.2. Khái niệm và vai trò của việc đầu tư phát triển cơ sở hạ cấp nước đô thị: Khái niệm về đầu tư phát triển Đầu tư là một hoạt động cơ bản tồn tại tất yếu và nó có vai trò quan trọng trong bất kì nền kinh tế xã hội nào. Nói về khái niệm đầu tư, có rất nhiều cách tiếp cận khác nhau. Theo nghĩa rộng, đầu tư là sự hy sinh các nguồn lực ở hiện tại để tiến hành các hoạt động nào đó nhằm thu về cho người đầu tư các kết quả nhất định trong tương lai lớn hơn các nguồn lực đã bỏ ra để đạt được kết quả đó. Nguồn lực đó có thể là tiền, tài nguyên thiên nhiên, sức lao động hay công nghệ. Những kết quả đó có thể là sự tăng thêm của các tài sản tài chính : tiền vốn; tài sản vật chất: nhà máy, đường sá, các của cải vật chất khác…; tài sản trí tuệ : trình độ văn hoá, chuyên môn, khoa học kỹ thuật…và nguồn nhân lực có đủ điều kiện làm việc với năng suất cao hơn cho xã hội Theo nghĩa hẹp, đầu tư chỉ bao gồm những hoạt động sử dụng các nguồn lực hiện tại nhằm đem lại cho nền kinh tế - xã hội những kết quả trong tương lai lớn hơn các nguồn lực đã sử dụng để đạt được kết quả đó. Như vậy, xét theo bản chất có thể chia hoạt động đầu tư trong nền kinh tế ra làm 3 loại : Đầu tư tài chính là hình thức đầu tư mang lại lợi nhuận trực tiếp cho người bỏ tiền ra để cho vay hay mua bán các chứng chỉ có gia mà không tạo ra tài sản mới cho nền kinh tế. Đầu tư thương mại đây là hình thức mà nhà đầu tư bỏ tiền ra để mua hàng hoá và sau đó bán với giá cao nhằm thu lợi nhuận do chênh lệch giá khi mua và khi bán. Trong đó, đầu tư phát triển tài sản vật chất là hình thức đầu tư mà các nhà đầu tư bỏ tiền và tài sản để tiến hành các hoạt động nhằm duy trì và tạo ra tài sản mới cho nền kinh tế, nâng cao năng lực sản xuất kinh doanh, góp phần tạo nên việc làm, nâng cao đời sống của mọi thành viên trong xã hội. Trong đầu tư tài sản vật chất, có đầu tư các điều kiện cơ sở vật chất, kỹ thuật, kiến trúc, thông tin, dịch vụ tài chính, tạo nền tảng cho các hoạt động kinh tế - xã hội ; đầu tư sức lao động bao gồm đầu tư công sức và đầu tư trí tuệ của người lao động. Đầu tư phát triển là một chuỗi các hoạt động chi tiêu, hao phí các nguồn lực : nguồn lực tài chính, nguồn lực vật chất đất đai, máy móc, thiết bị, nguyên nhiện vật liệu… nguồn lực lao động và trí tuệ. Phương thức tiến hành các hoạt động đầu tư : xây dựng mới, sửa chữa nhà cửa và cấu trúc hạ tầng. mua sắm máy móc thiết bị và lắp đặt…, bồi dưỡng, đào tạo nguồn nhân lực… Kết quả đầu tư : hoạt động đầu tư không chỉ mang lại lợi ích cho chủ đầu tư nói riêng : doanh thu, lợi nhuận… mà còn đem lại lợi ích cho toàn xã hội. Đầu tư được tiến hành trong hiện tại và kết quả của nó được thu về trong tương lai. Từ những khái niệm về đầu tư phát triển ở trên thì đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội là bỏ ra một lượng tiền vào việc tạo mới hay tăng 11cường cơ sở vật chất, các điều kiện kỹ thuật, phương tiện, thiết chế, tổ chức làm nền tảng cho kinh tế - xã hội phát triển. Đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị Như đã nêu ở trên, đầu tư phát triển là khái niệm rất rộng, trong phạm vi nghiên cứu của luận văn em xin tập trung đi sâu vào nghiên cứu đầu tư về vốn để tăng thêm tài sản vật chất cho phát triển cơ sở hạ tầng cấp nước. Đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị là hình thức đầu tư cho việc khôi phục, nâng cấp, bảo dưỡng hay xây dựng mới các nhà máy nước, hệ thống đường ống và năng lực cấp nước cho người dân nhằm đáp ứng nhu cầu sinh hoạt và sản xuất cho người dân ở khu vực đô thị Đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị là một hoạt đồng đầu tư phát triển của Nhà nước, của các đơn vị kinh tế tư nhân hay của các địa phương vào các công trình cấp nước Như vậy đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị bao gồm: - Đầu tư xây dựng cơ bản: là các khỏan đầu tư làm mới, mở rộng, cải tạo và nâng cấp các nhà máy nước, hệ thống đường ống… khoản đầu tư này làm tăng năng lực cấp nước cho người dân - Đầu tư (chi) thường xuyên : là đầu tư cho công tác duy trì, bảo dưỡng hệ thống cấp nước… tuy không làm gia tăng năng lực cấp nước nhưng nó giúp phục hồi năng lực đã mất do tình trạng xuống cấp của hệ thống ống dẫn… Đặc điểm của đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng cấp nước Đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng nói chung và đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị nói riêng (là ngành sản xuất đặc biệt ), do nó có những đặc điểm khác với các ngành sản xuất vật chất khác. Đó là : Đặc điểm về vốn và sử dụng vốn cho đầu tư CSHT cấp nước đô thị: So với đầu tư vào cơ sở hạ tầng khác ( Ví dụ như : hệ thống giao thông đường bộ, đường sắt… đầu tư vào hệ thống cấp nước có nhu cầu vốn không lớn song vốn thường sử dụng không tập trung. Nhu cầu vốn đầu tư cho hệ thống cấp nước tập trung chủ yêu vào các nhà máy lọc nước, các công nghệ xử lý nước, hệ thống đường dẫn…mà khi đầu tư vào đây thì có đặc điểm là vốn được đầu tư rộng khắp, từ nơi xử lý nước đến hộ tiêu dùng có một khoảng cách rất xa. Đặc điểm về hình thức đầu tư Đầu tư vào cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị ở đây đầu tư để duy trì năng lực hoạt động và nâng cao chất lượng cung cấp dịch vụ nước, đầu tư mở rộng mạng lưới cung cấp, đầu tư nâng cao năng lực hoạt động, đầu tư tạo nguồn nước đảm bảo chất lượng cung cấp nước…do vậy cần phải đa dạng hóa các hình thức đầu tư. Hiệu quả đầu tư gắn liền với hiệu quả hoạt động kinh doanh của ngành nước Nếu ngành hoạt động kinh doanh có hiệu quả, khi đó chi phí hoạt động ngành thấp, hay chi phí của các đối tượng sử dụng nước thấp cũng như lợi nhuận kinh doanh của ngành tăng, mang lại hiệu quả cho nền kinh tế Hiệu quả đầu tư ở đây còn được biểu hiện ở số lượng và chất lượng dịch vụ. Chất lượng và số lượng dịch vụ ở đây phụ thuộc vào nhiều yếu tố, có cả yếu tố chủ quan và yếu tố khách quan. Yếu tố chủ quan ở đây xuất phát từ chính doanh nghiệp cung cấp dịch vụ nước; yếu tố khách quan xuất phát từ tính đồng bộ trong công tác quy hoạch nước, thái độ của đối tượng sử dụng nước… Cơ sơ hạ tầng phát triển sẽ đảm bảo đáp ứng đủ và trên quy mô rộng cho các nhu cầu khác: Việc phát triển cơ sở hạ tầng một cách đồng bộ dựa trên cơ sở quy hoạch tổng thể, quy hoạch đô thị và cơ sở hạ tầng đô thị sẽ góp phần giảm thiểu chi phí cho người tiêu dùng cũng như chi phí cho nhà kinh doanh nước sạch. Cơ sở hạ tầng nói chung và cơ sở hạ tầng cấp nước nói riêng phát triển là yếu tố cần thiết tạo môi trường kinh doanh thuận lợi, hấp dẫn để thu hút vốn đầu tư phát triển: Cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị là điều kiện cho quá trình hình thành và phát triển đô thị. Nó là một trong những yếu tố cấu thành cơ sở hạ tầng đô thị , cung cấp những dịch vụ cơ bản, thiết yếu nhất cho các đô thị và phản ánh trình độ phát triển của từng đô thị, trình độ văn minh của đô thị Có thể nói, đối với các đô thị thì cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị còn được coi là bộ mặt của đô thị, hơn thế nữa nó còn là bộ mặt của đất nước. Do vậy chúng ta không thể không quan tâm đến cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị. Cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị là một trong những cơ sở hạ tầng rất quan trọng, đáp ứng nhu cầu cần thiết của đời sống hàng ngày, quyết định việc đảm bảo chất lượng vệ sinh môi trường sống cho người dân và góp phần tích cực phát triển và hiện đại hoá đô thị. 1.1.3. Mô hình cung cấp đô thị điển hình: Tại địa bàn tỉnh Hải Dương, công ty TNHH một thành viên KDNS Hải Dương hiện đang quản lý hạ tầng cấp nước trên địa bàn thành phố, một trong những nhiệm vụ trọng tâm của chiến lược phát triển công ty giai đoạn 2006 – 2010 là bao phủ dịch vụ cấp nước tất cả các thị trấn trong tỉnh và định hướng phát triển giai đoạn sau 2010 sẽ tiến tới cấp nước cho các thị tứ. Hiện nay, tổng công suất thiết kế của các nhà máy xử lý nước trog toàn công ty là 68.900 m³/ng. + bao gồm: - Địa bàn thành phố Hải Dương, công suất thiết kế 49.000 m³/ng.đ. + XNSX nước Cẩm Thượng (nước mặt): 35.000m³/ng.đ + XNSX nước Việt Hà (nước ngầm):14.000m³/ng.đ - Địa bàn thị trấn, thị tứ các huyện, công suất thiết kế : 19.000m³/ng.đ\ Hiện nay, công ty đang triển khai các dự án cấp nước cho 5 thị trấn còn lại của tỉnh, công suất thiết kế 8200 m³/ng.đ, gồm thị trấn Thanh Miện 1200 m³/ng.đ, Thanh Hà 1000 m³/ng.đ, Gia Lộc 2500 m³/ng.đ, Minh Tân – Phú Thứ 3500 m³/ng.đ. Trước 2003, công ty chỉ quản lý cấp nước trên địa bàn thành phố Hải Dương và thị trấn Phú Thái. Năm 2003 UBND thành phố giao cho công ty tiếp nhận các trạm nước thị trấn trong toàn tỉnh. Năm 2008, công ty lập đề án thí điểm sáp nhập trạm cấp nước xã Đồng Lạc, huyện Chí Linh do trung tâm nước sạch – VSNT Hải Dương làm chủ đầu tư. Nhìn chung công ty đã thành công trong việc tiếp nhận và quản lý, có những két quả đạt được như sau: Chất lượng nước luôn được kiểm soát đảm bảo chất lượng theo quy định, tỷ lệ thất thoát nước trung bình từ 35% giảm xuống còn 12,5%, chi phí sản xuất cho 1 m³ nước thương phẩm giảm đáng kể. Tuy nhiên để trạm cấp nước hoạt động ổn định có hiệu quả cần có lộ trình và thời gian nhất định. Hiện nay một số xí nghiệp hoạt động có hiệu quả tốt như XNKD số 1 và số 2 đã hoạch toán chi phí, trích khấu hao đầy đủ và có lãi đáng kể. Điển hình là trạm KDNS thị trấn Cẩm Giàng từ 2000 m³/ng.đ lên 4000 m³/ng.đ , năm 2009 công ty đã nâng công suất lên 7000 m³/ng.đ, Trạm Phú Thái công suất từ 1000 m³/ng.đ lên 2500 m³/ng.đ. XNKDNS số 3 và số 4 hoạt động ổn định tuy chưa có lãi nhưng cơ bản hạch toán đáp ứng chi phí sản xuất và trích khấu hao theo quy định trong một thời gian không xa các xí nghiệp này chắc chắn tự chủ trong SXKD và hạch toán sẽ có lãi. Kết quả hoạt động SXKD của 8 trạm bơm nước năm 2008 như sau: - Tổng khách hàng: 23.619 - Số lượng nước thương phẩm: 2.204.482 m³ - Tỷ lệ thất thoát nước: 12,5% - Tổng doanh thu: 10,1 tỷ đồng Đối với trạm cấp nước xã Đông Lạc: được đánh giá dù còn nhiều khó khăn về công tác huy động vốn đầu tư, những năm đầu hoạt động sản xuất kinh doanh hiệu quả còn thấp nhưng về lâu dài sẽ có hiệu quả và giúp công ty mở rộng phạm vi cấp nước để tiến tới thống nhất quản lý dự án cấp nước ở thị tứ trong tỉnh. 1.2. Sự cần thiết phải đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị: Nhu cầu nước sạch là một trong những nhu cầu cơ bản của con người, trong quá trình phát triển nhu cầu của con người như nhu cầu ăn, mặc, nhu cầu uống… Nước là một nhu cầu thiết yếu của con người. Cơ thể con người chiếm tới 70% là nước. Con người có thể sống một tuần mà không ăn nhưng không thể sống quá ba ngày nếu không có nước uống. Vì vậy nước có thể coi là yếu tố không thể thiếu cho sự tồn tại và phát triển của con người. Chỉ tiêu người dân được cung cấp nước sạch là một trong các chỉ tiêu phản ánh mức độ cải thiện chất lượng cuộc sống con người trong quá trình phát triển. Việt Nam hiện nay có 708 đô thị với dân số 21,59 triệu người ( chiếm 26,3% dân số toàn quốc). Cơ sở hạ tầng cấp nước sạch sinh hoạt có vai trò quan trọng đối với sự phát triển bền vững của thành phố Hà Nội. Trước hết để biết được vai trò của cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị, ta tìm hiểu thế nào là nước sạch cũng như vai trò của nước sạch trong đời sống và trong sản xuất. Nước sạch là nước phải trong, không có màu, không có mùi vị, không chứa các mầm bệnh và các chất độc hại. Chất lượng nước sạch sử dụng cho mục đích sinh hoạt phải đảm bảo theo quy chuẩn vệ sinh nước ăn uống do Bộ trưởng Bộ Y Tế ban hành( Theo quyết định số 1329/2002/BYT/QĐ ngày 18/04/2002 của Bộ trưởng Bộ Y Tế). Nước sạch phải đảm bảo chất lượng theo quy định trên toàn hệ thống từ sau công trình xử lý đến người trực tiếp sử dụng Trong đời sống sinh hoạt cũng như trong sản xuất, nước sạch có vai trò vô cùng quan trọng, nó đáp ứng nhu cầu số lượng và chất lượng cho sinh họat và sản xuất Nhu cầu nước sạch trong đời sống sinh hoạt: Nước là tài nguyên, là tư liệu thiết yếu cho cuộc sống con người. Không có nước thì không có sự sống. Chúng ta cần nước cho sinh hoạt, bảo vệ sức khoẻ và vệ sinh. Nước sạch có vai trò cực kì quan trọng trong đời sống của con người. Nó đáp ứng nhu cầu cơ bản của con người : ăn, uống. Trong cơ thể con người chiếm tới 70% là nước, chúng ta có thể không ăn trong một tuần nhưng không thể sống không quá ba ngày mà không có nước. Hàng ngày mỗi người cần tối thiểu 60 – 80 lít, tối đa tới 150 – 200 lít nước dùng cho sinh hoạt ; riêng lượng nước ăn uống vào cơ thể ít nhất cũng tới 1,5-2 lít mỗi ngày. Ngoài ra, nước dưới đất còn chứa 60 nguyên tố đa lượng, vi lượng rất cần thiết cho sự sống. Nhu cầu nước sạch trong sản xuất: Nước sạch không chỉ dùng trong ăn uống, sinh hoạt cho con người mà nó càn rất cần cho sản xuất nông nghiệp (đảm bảo tưới tiêu nước đi đôi với cải tạo đất lầy thụt, chua phèn, nhiễm mặn, bạc mầu, phục vụ thâm canh, tăng vụ), thuỷ sản, công nghiệp (góp phần quan trọng, bảo đảm các điều kiện để phát triển ngành công nghiệp với nhịp độ cao, mở rộng quy mô và phân bố lại các lĩnh vực sản xuất, chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng hiện đại), du lịch và các ngành kinh tế khác. Nước còn cần cho phát triển thuỷ điện và giao thông thuỷ. Xu hướng sử dụng nước sạch trong quá trình CNH – HĐH: Tốc độ đô thị hóa ngày càng tăng nhanh, theo cùng tốc độ đó thì dân cư đô thị ngày một tăng lên. Mặc dù tốc độ tăng dân số tự nhiên ở các vùng đô thị thấp hơn so với ở nông thôn nhưng tốc độ tăng dân số cơ học của các vùng đô thị lại cao hơn, do một bộ phận dân số chuyển từ các vùng nông thôn ra thành thị tìm việc làm. Do đó đòi hỏi nhu cầu về hệ thống cấp nước ngày càng cấp thiết. Thực tế cho chúng ta thấy, dân cư đô thị có nhu cầu chất lượng cao hơn những vùng khác. Sở dĩ có những điều đó là do dân cư đô thị có mức sống cao hơn so với dân cư khu vực nông thôn, do đó đòi hỏi về nước sạch cũng như mức độ sẵn sàng chi trả cho dịch vụ nước sạch của dân cư đô thị so với dân cư nông thôn cũng cao hơn. Nhu cầu tiêu thụ nước sạch trên địa bàn Hà Nội phục vụ được dự báo trên cơ sở các nhân tố dự báo về dân số, các mục tiêu như định mức tiêu thụ nước, nhu cầu nước sinh hoạt, thất thoát cơ học và các nhân tố khác. 1.2.1. Tốc độ tăng trưởng dân số của người dân Hà Nội trong những năm qua: Dân số Hà Nội năm 1990 là 2.051.900 người trong đó dân đô thị chiếm 50%. Đến năm 1995 dân số là 2.335.400 người, trong đó có 1.221.200 dân đô thị, chiếm 52,3%. Năm 1996 dân số là 2.395.900 người với số dân đô thị 1.291.600, chiếm 53,9%. Năm 1997 dân số là 2.467.200 người, dân đô thị là 1.384.200 người, chiếm 56,1%. Năm 1998 dân số là 2.539.400 người, dân đô thị là 1.477.500 người, chiếm 58,2%. Tuy nhiên tốc độ tăng dân số của Hà Nội tăng rất nhanh, ta có thể thấy tốc độ tăng dân số của Hà Nội những năm gần đây như sau: Bảng 1: Dân số Hà Nội qua các năm Năm 2005 2006 2007 Cả nước 83106.3 84155.8 85154.9 ĐB sông Hồng 18028.3 18207.9 18400.6 Thủ đô Hà Nội 3149.8 3216.7 3289.3 Nguồn: Tổng cục Thống kê (TCTK), Niên giám thống kê 2007. Năm 2005, dân số Hà Nội là 3149,8 tăng 27,66 lần so với năm 1999. Theo kết quả sơ bộ cuộc điều tra dân số, tính đến ngày 01/4/1999 dân số Hà Nội có 2.672.122 người, trong đó dân thành thị 1.538.905 người, chiếm 57,6%. Theo dự báo, đến năm 2010 dân số Hà Nội sẽ khoảng 3.350.000 người, trong đó dân đô thị chiếm gần 80%. Quy mô và tốc độ tăng nguồn nhân lực phụ thuộc vào quy mô và tốc độ tăng dân số. Năm 1990 nguồn lao động có 1.193.600 người, năm 1995 có 1.331.000 người, năm 1996 có 1.366.000 người, năm 1999 có 1.504.260 người. Dự báo nguồn._. lao động thủ đô các năm 2000, 2005, 2010 tương ứng là: 1.561.000, 1.802.500, 2.016.000 người. Trong thời gian qua, dân số Hà Nội vẫn tăng lên nhưng tăng chậm hơn mức tăng dân số của cả nước. Do mức sinh giảm, tỷ lệ số người trong độ tuổi lao động so với tổng số dân đang có xu hướng tăng lên. Dự báo dân số Hà Nội đến năm 2020 là khoảng 4,8 triệu người (bảng 1.1), trong đó số dân trong phạm vi cấp nước đô thị là 4,044 triệu người. Trong khi đó, dự báo dân số đô thị trong Điều chỉnh Quy hoạch chung năm 1998 là 2,5 triệu người và con số này cũng đã được lấy làm cơ sở cho dự báo của Quyết định số 50. Nhu cầu nước đến năm 2020 được dự báo vào khoảng 1,690 triệu m3/ngđ, cao hơn 19% so với dự báo của Quyết định số 50 là 1,419 triệu m3/ngđ. Bảng 2 : Dự báo dân số Hà Nội đến năm 2020 Đơn vị: Nghìn tỷ 2003 Dự báo đến năm 2020 Dân số Xu hướng QHTT 1998 Đề xuất TP Hà Nội 3,008 4,899 3,579 4,800 Nội thành cũ 1,053 1,390 785 950 Ba Đình 221 340 130 250 Hoàn Kiếm 175 193 130 140 Hai Bà Trưng 301 399 270 280 Đống Đa 358 458 255 280 Nội thành mới 827 1,750 1,001 1,250 Tây Hồ 102 316 120 150 Thanh Xuân 185 322 180 250 Cầu Giấy 158 335 203 250 Hoàng Mai 209 499 203 300 Long Biên 172 278 295 300 Ngoại thành 1127 1759 1793 2600 Từ Liêm 239 619 207 800 Thanh Trì 154 220 189 250 Sóc Sơn 259 309 258 350 Đông Anh 276 333 826 900 Gia Lâm 201 278 313 300 Nguồn: Bộ kế hoạch và đầu tư Hà Nội là trung tâm kinh tế - chính trị - văn hóa - khoa học kỹ thuật, là đầu mối giao lưu kinh tế của cả nước, là nơi hội tụ các cơ quan lãnh đạo của Đảng, Nhà nước, các tổ chức nghiên cứu khoa học và đào tạo đầu đàn. Hiện nay ở Hà Nội có 37 trường đại học và cao đẳng, 34 trường trung học chuyên nghiệp, 41 trường dạy nghề, 112 viện nghiên cứu chuyên ngành, ngoài ra còn có các tổ chức quốc tế, các công ty nước ngoài hoạt động trong các ngành công nghiệp tiên tiến, mũi nhọn... Đây chính là yếu tố vật chất ảnh hưởng lớn và trực tiếp đến chất lượng nguồn lao động, đến việc phân bổ, sử dụng lao động trên địa bàn Hà nội, tạo điều kiện cho Hà Nội có cơ hội hoà nhập vào quá trình phát triển năng động của các nước trong khu vực và trở thành động lực phát triển của cả nước. Vì vậy mà mật độ dân số ở Hà Nội rất cao: Bảng 3: Diện tích, dân số trung bình và mật độ dân số Hà Nội Tỉnh/ thành phố Diện tích Dân số Trung bình (người) Mật độ dân số (người/km2) Cả nước 331.211,6 85.154,9 257 ĐB sông Hồng 14.862,4 18.400,6 1.238 Thủ đô Hà Nội 921,8 3.289,3 3.568 Nguồn: Tổng cục Thống kê (TCTK), Niên giám thống kê 2007. Với vị trí là Thủ đô của cả nước, Hà Nội có điều kiện thuận lợi trong giao lưu và hợp tác quốc tế, nhanh chóng được tiếp cận với những thành tựu khoa học kỹ thuật và tinh hoa văn hoá của thế giới, đây là cơ hội lớn cho người lao động Thủ đô tiếp thu và bắt kịp với trình độ quản lý và sử dụng các công nghệ hiện đại của thế giới.  Hà Nội là vùng đất “địa linh nhân kiệt, trung tâm của đồng bằng Bắc Bộ, với lịch sử ngàn năm văn hiến, nơi hội tụ và giao thoa các giá trị truyền thống của dân tộc. Người dân Hà Nội thanh lịch, có truyền thống văn hoá lâu đời, có nhiều ngành nghề truyền thống, tiếp thu nhanh nhạy cái mới, có thể tạo ra những giá trị kinh tế và văn hoá, tinh thần cao. Mật độ dân số Hà Nội cao ảnh hưởng lớn đến việc cung cấp nước sinh hoạt cho người dân. Vậy tiêu chuẩn dùng nước và cấp nước của người dân như thế nào ? 1.2.2. Tiêu chuẩn dùng nước, cấp nước và nhu cầu dùng nước của người dân Hà Nội: + Hiện nay thành phố có 11 nhà máy nước lớn, năm 2001 nhà máy nước Cáo Đỉnh công suất 30.000m³/ng đưa vào hoạt động nâng tổng công suất nhà máy nước lên 460.000m³/ng² phục vụ các quận nội thành + Đáp ứng nhu cầu cấp ước của nhà máy nước mặt như sau: - Giai đoạn 1: Trục đường Nam Thăng Long và vành đai 3 của thành phố cấp bổ sug nước cho các quận huện nội thành (chủ yếu các quận như: Tây Hồ, Ba Đình, Cầu Giấy, Thanh Xuân, Hai Bà Trưng) và cấp cho các huyện Từ Liêm, Thanh Trì. - Giai đoạn 2: Theo vành đai 4 của thành phố cấp cho các khu vực phát triển giữa vành đai 3 và 4 thành phố khu vực phía bắc sông Hồng. Ngày 11/3/2009, tin từ Công ty Kinh doanh nước sạch Hà Nội (KDNSHN) cho hay, hiện năng lực sản xuất của công ty đã đạt chỉ tiêu cấp nước sạch cho đô thị 120 lít/người/ngày. Chủ yếu do công suất khai thác của các nhà máy tăng thêm khoảng 42.000 m3/ngày-đêm. Đây là nguồn nước khai thác từ 9 giếng Thượng Cát (xây dựng hết hơn 131 tỉ đồng, bổ sung công suất cho nhà máy nước Mai Dịch tăng từ 45.000 - 70.000 m3/ngày-đêm). Ngoài ra, nhà máy nước Gia Lâm và Bắc Thăng Long cũng được khoan bổ sung 2 giếng khác, nên từ cuối tháng 8/2008, công suất bình quân các nhà máy này cũng tăng thêm 8.000 m3. Công ty này cho biết thêm, vấn đề còn lại để 120 lít nước sạch có đến được với mỗi người dân hay không phụ thuộc vào việc cải tạo lại đường ống cũ và lắp đặt đường ống mới. Hè năm nay, việc cấp nước sạch còn phụ thuộc vào mực nước ngầm của Hà Nội. Mực nước này có xu hướng ngày càng hạ thấp (năm 2008 hạ thấp đến 1m), chưa kể năm 2009 bị nhuận 1 tháng vào đúng dịp hè, dễ có nguy cơ giảm lượng mưa, xảy ra khô hạn. Theo dự báo, các khu vực Nhật Tân, Quảng An, Phú Thượng (thuộc quận Tây Hồ); Xuân La (quận Cầu Giấy); Xuân Đỉnh, Cổ Nhuế, thị trấn Cầu Diễn (huyện Từ Liêm); một số khu vực khác thuộc các quận Đống Đa, Hai Bà Trưng, tình hình nước sẽ ổn định. Riêng khu vực Khương Trung và Khương Đình (quận Thanh Xuân) vẫn sẽ xảy ra tình trạng nước yếu. Ngoài ra, các khu tập thể cao tầng, các khu di dân và khu vực mạng lưới đường ống chưa được cải tạo sẽ được chú trọng khi cấp nước hè. Trong trường hợp có sự cố đột xuất về nước, các bệnh viện, trường học, UBND các phường có thể làm thủ tục xin cấp nước bằng xe stéc, liên hệ trực tiếp với các xí nghiệp KDNS quản lý địa bàn. Vẫn tin từ Công ty KDNSHN, đơn vị này đang lên phương án về tăng giá nước sạch, tuy nhiên chưa có kết quả cuối cùng. Việc tăng giá nước là do giá điện đã tăng thêm 8,92% từ ngày 1/3 (chi phí tiền điện chiếm khoảng 30% giá thành sản xuất nước sạch). Nhu cầu tiêu thụ : Dự báo tổng nhu cầu nước sạch năm 2010 ước tính khoảng 1,13 triệu m3/ngđ và năm 2020 là khoảng 1,69 triệu m3/ngđ. Nhu cầu tiêu thụ nước được tính toán cho ba khu vực chính là Tây Nam Hà Nội (hữu ngạn sông Hồng), Đông Nam Hà Nội (tả ngạn sông Hồng và Gia Lâm) và Bắc Hà Nội (tả ngạn sông Hồng, Đông Anh, Sóc Sơn). Trong tổng nhu cầu nước năm 2020, 67% nhu cầu nước tập trung tại Tây Nam Hà Nội, 16% tại Đông Nam Hà Nội và 17% sẽ tập trung tại Bắc Hà Nội. Bảng 4 : Nhu cầu nước đô thị phân theo khu vực địa lý đơn vị : 1000 m3/ngđ Khu vực 2003 2020 Nam Hà Nội 631 1.402,7 Bắc Hà Nội 137 287,3 Tổng số 768 1.690 Nguồn: Bộ kế hoạch và đầu tư Tỷ lệ nhu cầu người dân phía Nam Hà Nội là 80% trong năm 2003, phía bắc Hà Nội nhu cầu sử dụng nước chỉ chiếm 20%, theo địh hướng phát triên vùng và dân cư dự tính năm 2020 nhu cầu sử dụng nước phía Nam Hà Nội cao là 83% và ở phía Bắc Hà Nội có 17%. Chứng tỏ rằng trong tương lai vẫn tập trug dân cư, xí nghiệp, nhà máy ở phía Nam Hà Nội. 1.2.3. Tình hình cung cấp nước đô thị tại Hà Nội: Về nguồn nước, hiện nay nguồn nước khai thác chủ yếu là nguồn nước ngầm, một số thị xã khai thác kết hợp nguồn nước ngầm và nước mặt. Chất lượng nước một số đô thị còn chưa được đảm bảo, có khu vực chưa được khử trùng trước khi phát vào mạng phân phối. Tỷ lệ nước bị hao hụt, rò rỉ còn khá cao ảnh hưởng đến hiệu quả cấp nước. Bảng 5 : Tỷ lệ cấp nước Đơn vị : % Phân vùng 2005 2010 2015 2020 Đô thị 100 100 100 100 Ngoại thành 70 85 90 95 Nguồn: Bộ kế hoạch và đầu tư Hầu hết dân đô thị như: thành phố Hà Nội, các thị xã Hà Đông, Sơn Tây, Bắc Ninh, Hưng Yên, Vĩnh Yên, Phúc Yên đã có hệ thống cấp nước sạch tập trung. Công suất khai thác còn hạn chế so với nhu cầu sử dụng của người dân, chỉ đạt 45% dân đô thị được cấp nước sạch với tiêu chuẩn cấp nước của toàn vùng từ 80-120lít/người/ngày. Hệ thống mạng lưới đường ống chưa được phủ đầy đủ đến các khu vực dân sinh sống. Trong đó, về phát triển nguồn nước, công ty này sẽ hoàn thành dự án bãi giếng nhà máy nước Bắc Thăng Long (giai đoạn II) trong quý II/2009, nâng công suất của nhà máy này lên mức 50.000m3/ngày đêm. Đồng thời, hoàn thiện Nhà máy nước Đông Anh trong quý III bằng việc khoan 5 giếng, tăng thêm cho nhà máy 9.000m3/ngày đêm. Ngoài ra, Công ty NSHN cũng mở rộng hệ thống mạng đường ống. Ở khu vực phía Nam thành phố sẽ xây dựng hệ thống cấp nước cho xã Đông Ngạc (huyện Từ Liêm), thôn Trù 2 và tổ dân phố Phú Minh (xã Cổ Nhuế, Từ Liêm). Vẫn trong khu vực này, sẽ tiến hành cải tạo mạng lưới cấp nước khu vực đường Nguyễn Phong Sắc, Trần Quốc Hoàn và Phạm Văn Thưởng. Tại khu vực phía Bắc, công ty sẽ xây dựng hệ thống cấp nước cho các phường: Cự Khối, Giang Biên, Phúc Lợi (quận Long Biên) với khoảng 131.552m đường ống; xây dựng hệ thống cấp nước cho xã Kiêu Kỵ (huyện Gia Lâm) và các xã: Kim Chung, Đại Mạch, Võng La (huyện Đông Anh). Những dự án này sẽ được hoàn thành vào dịp cuối năm nay. Ở khu vực Tây Nam, Công ty NSHN sẽ bàn giao cho Công ty Viwaco gồm các địa bàn: Thanh Xuân, Phương Liệt, Mễ Trì, Trung Hoà - Nhân Chính, Từ Liêm để công ty này lên kế hoạch cấp nước cho 60.000 hộ dân. Ngoài ra, Công ty NSHN cũng đang lập dự án để kết nối hệ thống cấp nước giữa Hà Nội cũ và Hà Đông, cũng như việc cấp nước cho khu vực hai bên đường Láng - Hoà Lạc. Được biết, Hà Nội đang phấn đấu đưa tỉ lệ hộ dân đô thị được sử dụng nước sạch lên khoảng 97%, với mức độ dịch vụ cấp nước là 120 lít/người/ngày. Sau khi bổ sung thêm 11 giếng khoan, công suất của các nhà máy nước trên địa bàn Hà Nội đã tăng lên đáng kể, có thể cung cấp nước sạch đô thị đạt mức 120 lít/người/ngày. Phần còn lại phụ thuộc vào các đường ống dẫn triển khai xuống khu dân cư. Ngày 11/3, tin từ Công ty Kinh doanh nước sạch Hà Nội (KDNSHN) cho hay, hiện năng lực sản xuất của công ty đã đạt chỉ tiêu cấp nước sạch cho đô thị 120 lít/người/ngày. Chủ yếu do công suất khai thác của các nhà máy tăng thêm khoảng 42.000 m3/ngày-đêm. Đây là nguồn nước khai thác từ 9 giếng Thượng Cát (xây dựng hết hơn 131 tỉ đồng, bổ sung công suất cho nhà máy nước Mai Dịch tăng từ 45.000 - 70.000 m3/ngày-đêm). Ngoài ra, nhà máy nước Gia Lâm và Bắc Thăng Long cũng được khoan bổ sung 2 giếng khác, nên từ cuối tháng 8/2008, công suất bình quân các nhà máy này cũng tăng thêm 8.000 m3. Công ty này cho biết thêm, vấn đề còn lại để 120 lít nước sạch có đến được với mỗi người dân hay không phụ thuộc vào việc cải tạo lại đường ống cũ và lắp đặt đường ống mới. Hè năm nay, việc cấp nước sạch còn phụ thuộc vào mực nước ngầm của Hà Nội. Mực nước này có xu hướng ngày càng hạ thấp (năm 2008 hạ thấp đến 1m), chưa kể năm 2009 bị nhuận 1 tháng vào đúng dịp hè, dễ có nguy cơ giảm lượng mưa, xảy ra khô hạn. Theo dự báo, các khu vực Nhật Tân, Quảng An, Phú Thượng (thuộc quận Tây Hồ); Xuân La (quận Cầu Giấy); Xuân Đỉnh, Cổ Nhuế, thị trấn Cầu Diễn (huyện Từ Liêm); một số khu vực khác thuộc các quận Đống Đa, Hai Bà Trưng, tình hình nước sẽ ổn định. Riêng khu vực Khương Trung và Khương Đình (quận Thanh Xuân) vẫn sẽ xảy ra tình trạng nước yếu. Ngoài ra, các khu tập thể cao tầng, các khu di dân và khu vực mạng lưới đường ống chưa được cải tạo sẽ được chú trọng khi cấp nước hè. Trong trường hợp có sự cố đột xuất về nước, các bệnh viện, trường học, UBND các phường có thể làm thủ tục xin cấp nước bằng xe stéc, liên hệ trực tiếp với các xí nghiệp KDNS quản lý địa bàn. Vẫn tin từ Công ty KDNSHN, đơn vị này đang lên phương án về tăng giá nước sạch, tuy nhiên chưa có kết quả cuối cùng. Việc tăng giá nước là do giá điện đã tăng thêm 8,92% từ ngày 1/3 (chi phí tiền điện chiếm khoảng 30% giá thành sản xuất nước sạch). 1.3. Thực trạng đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị tại Hà Nội: 1.3.1. Tình hình thực hiện vốn đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị Để không ngừng nâng cao chất lượng và đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng về nước sạch ở đô thị, ngành kinh doanh nước sạch đô thị đã chú trọng quan tâm đặc biệt đến việc huy động tối đa các nguồn vốn đầu tư. Kết quả thu hút đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị được phản ánh ở bảng sau: Bảng 6 : Vốn đầu tư cho phát triển cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị giai đoạn 2002-2007 Đơn vị tính 2002 2003 2004 2005 2006 2007 Vốn ĐTPT CSHT Đô thị Quy mô Tỷ đồng 24498 33887 44474 55606 69500 79600 Tốc độ tăng liên hoàn % 16,78 16,33 18,73 21,82 17,46 14,53 Vốn ĐTPT CSHT Cấp nước đô thị Quy mô Tỷ đồng 2198 2631 3200 4500 3900 4600 Tốc độ tăng liên hoàn % 17,91 19,69 21,62 40,62 -13,33 17,94 Tỷ trọng vốn ĐTPT CSHTCNĐT/ vốn ĐTPT CSHTĐT % 7,76 8,97 7,76 7,19 8,09 5,61 Nguồn : Bộ kế hoạch và đầu tư Trong thời gian qua, cùng với sự phát triển của đất nước, cơ sở hạ tầng đô thị có những bước phát triển đáng kể đóng góp vào sự phát triển chung của toàn xã hội. Trong giai đoạn 2002 – 2007, nguồn vốn đầu tư vào cơ sở hạ tầng đô thị có tốc độ tăng dần qua các năm, tốc độ tăng bình quân vốn đầu tư vào phát triển cơ sở hạ tầng đô thị đạt 17,5%, năm 2002 vốn đầu tư vào đây là 24498 tỷ đồng nhưng đến năm 2007 đã lên đến 79600 tỷ đồng, tức là tăng 55102 tỷ đồng, tương ứng với tốc độ tăng thêm là 224,92%, sở dĩ nguồn vốn đầu tư vào cơ sở hạ tầng đô thị tăng nhanh là do tốc độ đô thị hóa đang diễn ra mạnh mẽ trong thời gian qua, do đó kéo theo nhu cầu về sử dụng cơ sở hạ tầng đô thị nói chung ngày càng tăng. Cải tạo đường ống cấp nước. Từ số liệu thống kê ở bảng cũng cho thấy, nhìn chung vốn đầu tư cho cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị có xu hướng tăng dần qua các năm, tốc độ tăng bình quân giai đoạn 2002-2007 về nguồn vốn cho cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị là 7,23%, so với tốc độ tăng bình quân của cơ sở hạ tầng đô thị thì tốc độ tăng này nhỏ hơn 8,27%. Năm 2004, vốn đầu tư vào cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị là 3200 tỷ đồng, so với năm 2002 tăng 1002 tỷ đồng, tương ứng với tốc độ tăng thêm là 45,58%. Năm 2005 tăng thêm 2302 tỷ đồng so với năm 2002, tăng 104,73%. Năm 2007 số vốn đầu tư cho cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị là 4600 tỷ đồng, so với năm 2002 tăng 2402 tỷ đồng, tương ứng với tốc độ tăng là 10,92%. Vốn đầu tư vào cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị năm sau so với năm trước có tốc đô tăng tương đối đều, tuy nhiên so với năm 2005 thì năm 2006 tốc độ này lại có xu hướng giảm, năm 2006, tổng vốn đầu tư vào cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị là 3900 tỷ đồng, giảm 700 tỷ đồng so với năm 2005 hay là giảm 13,33%. Nguyên nhân của tình hình này sẽ được làm rõ ở phân tích sau. 1.3.2. Tình hình thực hiện các dự án đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị tại Hà Nội: Trong năm nay, Công ty Nước sạch Hà Nội sẽ triển khai một loạt các dự án từ phát triển nguồn nước đến mở rộng hệ thống mạng đường ống trên toàn địa bàn thành phố: Bảng 7 : Số dự án và cơ cấu dự án đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị phân theo nguồn vốn giai đoạn 2002- 2007 Đơn vị Dự án nhóm A Dự án nhómB Dự án nhóm C Tổng Tổng số Dự án 81 186 429 696 Tỷ trọng % 100 100 100 100 1. Các dự án khởi công mới Dự án 36 75 179 290 Tỷ trọng % 44,44 40,32 41,72 41,67 2. Các dự án hoàn thành Dự án 26 62 150 238 Tỷ trọng % 32,1 33,33 34,97 34,2 3. Các dự án chuyển tiếp Dự án 19 49 100 168 Tỷ trọng % 23,46 26,34 23,31 24,14 Nguồn : Vụ kết cấu hạ tầng và đô thị Nhìn chung, số dự án nhóm C luôn đứng đầu cả về tổng số dự án, dự án khởi công mới, dự án hoàn thành cũng như dự án chuyển tiếp. Số các dự án hoàn thành chiếm tỷ trọng 34,2 %, đứng vị trí thứ hai. Tổng số dự án hoàn thành qua các giai đoạn 238 dự án, bằng khoảng 82% so với dự án xây dựng mới. Biểu 1 : Quy mô và cơ cấu dự án đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị giai đoạn 2002- 2007 . Dự án nhóm A có số lượng các dự án nhỏ hơn, chỉ có 81 dự án, chiếm tỷ trọng 12,09% tổng số dự án. Tổng số dự án nhóm B có số lượng 186 dự án, tương ứng với tỷ trọng 26,61% trong số tổng số dự án. Như vậy so với số dự án nhóm C và dự án nhóm A thì dự án nhóm C đứng vị trí thứ 2 về số lượng. Qua phân tích ở trên đã phần nào sơ lược thực trạng vốn đầu tư và các dự án đầu tư vào cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị hiện nay, qua đó cũng cho thấy phần nào sự đóng góp của vốn đầu tư tư nhân vào tổng số vốn đầu tư chung, vậy cụ thể thực trạng đầu tư tư nhân vào cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị như thế nào? 1.3.3. Nguồn vốn đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị tại Hà Nội: a) Tổng quan về nguồn vốn đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị : Trong những năm qua, tình hình cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị ở nước ta đã được cải thiện đáng kể. Hầu hết các thành phố, thị xã trong toàn quốc đều đã có được các dự án đầu tư cải tạo mở rộng và xây dựng mới các hệ thồng cấp nước. Kể từ năm 2000 đến nay, Việt Nam đã đầu tư xây dựng khoảng 1 tỷ USD để phát triển cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị với mức độ đầu tư khác nhau, tính tổng cộng trên toàn quốc có khoảng 240 nhà máy nước. Hầu hết các thành phố, thị xã trong toàn quốc đều đã có được các dự án đầu tư cải tạo mở rộng và xây dựng mới các hệ thống cấp nước. Các dự án cấp nước được đầu tư chủ yếu từ nguồn vốn Ngân sách nhà nước, vốn ODA, vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước, vốn từ các doanh nghiệp. Chất lượng và số lượng cấp nước được thực hiện bởi các dự án này đã đáp ứng phần nào nhu cầu nước sạch cho sản xuất và sinh hoạt của người tiêu dùng. Bảng 8: Tốc độ tăng định gốc và liên hoàn của các nguồn vốn đầu tư phát triển CSHT cấp nước đô thị Hà Nội giai đoạn 2002- 2007 Đơn vị :, % Nguồn vốn Chỉ tiêu 2002 2003 2004 2005 2006 2007 Vốn ngân sách nhà nước Tốc độ tăng Định gốc 20.33 44.21 55.56 41.84 -17.26 63,12 Liên hoàn 20.33 19.84 7.87 -8.18 -41.67 97,14 Vốn tín dụng ĐTPT của Nhà nước Tốc độ tăng Định gốc 278.26 747.83 1713.04 3717.39 4847.83 7986,95 Liên hoàn 278.26 124.14 113.85 110.55 29.61 63,44 Vốn ODA Tốc độ tăng Định gốc 0.45 7.66 20.95 29.28 27.48 2,11 Liên hoàn 0.45 7.17 12.34 6.89 -1.39 -19.9 Vốn đầu tư tư nhân Tốc độ tăng Định gốc 206.98 355.81 497.67 1411.63 730.23 702.3 Liên hoàn 206.98 48.48 31.12 152.92 -45.08 -3,36 Nguồn : Vụ kết cấu hạ tầng và đô thị _ Bộ kế hoạch và đầu tư Qua bảng số liệu trên, ta có thể rút ra nhận xét. Trong 4 năm từ năm 2001 đến năm 2004, hầu như có sự gia tăng đồng thời của các nguồn vốn đầu tư vào cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị, nhưng giai đoạn từ năm 2005 đến năm 2007 lại có sự biến động khác nhau giữa các nguồn vốn (có nguồn vốn tiếp tục tăng song có nguồn vốn lại giảm đi ), cụ thể như sau: Trong 4 năm 2001- 2004, quy mô của 4 nguồn vốn đầu tư vào cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị đều tăng, vốn ngân sách nhà nước tăng từ 423 tỷ đồng vào năm 2001 và tăng lên đến 658 tỷ đông vào năm 2004 tương ứng với tốc độ tăng là 55,56%, vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước có quy mô vốn 23 tỷ đồng ở năm 2001, đến năm 2004 thì quy mô nguồn vốn này là 878 tỷ đồng, tức là tăng 3717,39% so với năm 2001… Đến năm 2005, riêng chỉ có quy mô nguồn vốn Ngân sách nhà nước là giảm so với năm 2004, nguồn vốn này giảm từ 658 tỷ đồng vào năm 2004 xuống chỉ còn 600 tỷ đồng vào năm 2005, tương ứng với giảm 8,18% . Còn các nguồn vốn khác vẫn tiếp tục tăng, nên tổng nguồn vốn đầu tư vào cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị vẫn tiếp tục tăng. Tiếp đến năm 2006, ta thấy quy mô và tốc độ tăng của nguồn vốn đầu tư vào cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị lại giảm xuống chỉ còn 3900 tỷ đồng, tức là giảm 600 tỷ đồng so với năm 2005, tương ứng với tốc độ giảm là 13,33%. Sở dĩ trong năm 2006 quy mô và tốc độ tăng vốn có xu hướng chậm lại là do khi cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị đã đạt đến một trình độ nhất định thì vấn đề đặt ra là cơ sở hạ tầng cấp nước nông thôn vì hiện nay cở sở hạ tầng cấp nước nông thôn còn lạc hậu và thiếu thốn nhiều, trước chủ trương đa dạng hóa các nguồn vốn cho cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị thì đến năm 2005 cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị đã thu hút được nguồn vốn lớn từ tư nhân. Vì vậy sau năm 2005, với sự ra đời của một loạt các nghị định, văn bản mới thì nguồn vốn Ngân sách nhà nước và vốn ODA có sự chuyển dịch sang cơ sở hạ tầng cấp nước nông thôn. Thực tế hai nguồn vốn này chiếm tỷ trọng cao trong tổng vốn . Do đó khi hai nguồn vốn này chuyển sang cơ sở hạ tầng cấp nước nông thôn thì đó là nguyên nhân chính dẫn đến việc giảm sút về tổng nguồn vốn cho cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị . Nhưng đến năm 2007, do chính sách huy động của Nhà nước trong việc thu hút vốn đã phát huy hiệu quả, nên nguồn vốn tín dụng đầu tư phát triển tăng với quy mô và tốc độ rất cao, do đó nó đóng góp lớn vào việc tăng quy mô tổng nguồn vốn cho cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị. Việc mở rộng quy mô và gia tăng thêm tốc độ của vốn đầu tư cho phát triển cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị là do kết qủa đa dạng hóa các nguồn vốn. Tỷ trọng vốn đầu tư tư nhân trong tổng vốn đầu tư vào cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị như thế nào ta xem xét bảng sau: Bảng 9: Cơ cấu nguồn vốn đầu tư phát triển CSHT CNĐT Hà Nội giai đoạn 2002 – 2007 Đơn vị : % Năm 2002 2003 2004 2005 2006 2007 Tổng số 100 100 100 100 100 100 Vốn Ngân sách Nhà nước 23,61 23,19 20,56 13,33 8,97 15 Vốn tín dụng ĐTPT của Nhà nước 3,96 7,41 13,04 19,51 29,18 40,43 Vốn ODA 60,87 54,50 50,34 38,27 43,54 29.57 Vốn đầu tư tư nhân 12,01 14,90 16,06 28,89 18,31 15 Nguồn : Vụ kết cấu hạ tầng và đô thị _ Bộ kế hoạch và đầu tư So sánh với tốc độ tăng của nguồn vốn cho thấy, trong giai đoạn 2001- 2007, nguồn vốn tín dụng là có tốc độ tăng cao nhất. So với năm 2001, năm 2002 tốc độ tăng là 278,26%, năm 2007 tốc độ tăng là 7986,95%. Tiếp đến là đến tốc độ tăng của vốn đầu tư tư nhân. So với năm 2001, thì năm 2002 tốc độ tăng là 206,98%, đến năm 2005 tốc độ tăng còn đạt đến 1411,63%. Sau đó là đến tốc độ tăng của vốn Ngân sách nhà nước và vốn ODA. Điều này cũng phản ánh đúng chủ trương, chính sách của Nhà nước trong việc đa dạng hóa và tăng cường thu hút các nguồn vốn đầu tư ngòai Ngân sách nhà nước cho cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị . Dựa vào bảng ta thấy nguồn vốn đầu tư tư nhân vào cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị nhìn chung là tăng dần lên qua các năm, năm 2001 nguồn vốn đầu tư vào cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị còn rất thấp, mới chỉ đầu tư 86 tỷ đồng, năm 2002 tăng lên 264 tỷ đồng tức là tăng 178 tỷ đồng, tương ứng với tốc độ tăng 206,98% (so với năm 2001), và con số này liên tục tăng vào các năm 2003, năm 2004. Đến năm 2005, số vốn đầu tư tư nhân vào cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị đạt mức 1300 tỷ đồng, tức là gấp gần 15 lần so với năm 2001, và tăng 786 tỷ đồng so với năm 2004, tương ứng với mức tăng 152,925%. Sở dĩ có sự tăng nhanh vậy là do trong năm này chính sách xã hội hóa đầu tư được triển khai khá tốt, mở rộng về quy mô các kênh như phát hành trái phiếu, việc phát triển nhanh chóng của thị trường chứng khóan vì vậy đã thu hút được một nguồn lực đáng kể cho đầu tư, đã có một số dự án lớn được triển khai như dự án cấp nước của nhà máy nước Bình An, nhà máy nước Thủ Đức… Tuy nhiên, đến năm 2006, nguồn vốn đầu tư tư nhân vào cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị lại giảm, so với năm 2005 số vốn đầu tư tư nhân giảm xuống chỉ còn 714 tỷ đồng, tức là giảm 45, 08 % . Và đến năm 2007 nguồn vốn này lại giảm so với năm 2006 là 3,36%. Nguyên nhân là do việc đa dạng hóa các nguồn vốn cho đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị mới bắt đầu thực hiện, do đó có một số hạn chế trong việc thực thi. Tuy trong 2006 và năm 2007, nguồn vốn này có xu hướng giảm đi, nhưng cũng không thể khẳng định là xu hướng trong thời gian tới nguồn vốn này lại tiếp tục giảm xuống tiếp vì với những chính sách mà Chính phủ đưa ra như việc chuyển bớt đầu tư bằng vốn Ngân sách nhà nước cho cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị sang cơ sở hạ tầng cấp nước nông thôn, đồng thời sự giảm đi của nguồn vốn ODA, xu hướng nguồn vốn đầu tư tư nhân có thể sẽ tăng lên, có thể nó còn vượt xa con số 1300 tỷ đồng của năm 2005. Biểu 2: Cơ cấu nguồn vốn đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị giai đoạn 2002 – 2007: Nguồn : Vụ kết cấu hạ tâng và đô thị. Bộ kế hoạch và đầu tư Dựa vào bảng và hình trên, ta thấy nhìn chung tỷ trọng vốn đầu tư tư nhân so với tổng vốn đầu tư vào cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị có xu hướng tăng, con số này năm 2002 là 12,01%, đến năm 2004 tăng lên 16,06%, tăng thêm 4,05% và tăng cao nhất vào năm 2005, chiếm tới 28,89%. Hai năm tiếp theo ( năm 2006 và năm 2007), tỷ trọng nguồn vốn này có sự giảm sút, năm 2006 chiếm 18,3%, giảm 10,59% so với năm 2005, đến năm 2007 tỷ trọng lại giảm xuống mức 15%, so với năm 2006 thì giảm đi là 3,3%. Nguyên nhân có sự biến động đó như đã phân tích ở trên, đó là do cơ chế chính sách của Nhà nước trong việc thu hút đầu tư tư nhân còn kém hiệu quả, bên cạnh đó còn do đặc điểm hoạt động kinh doanh và đầu tư trong ngành nước . Qua bảng số liệu trên cho thấy, vốn đầu tư vào phát triển cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị là 22893 tỷ đồng, trong đó nguồn vốn ODA chiếm tỷ trọng cao nhất là 45,85 %, vốn Ngân sách Nhà nước là 20.08%, vốn tín dụng đầu tư phát triển là 17,29%, vốn đầu tư tư nhân là 16,68%. Cụ thể tỷ trọng số vốn đầu tư vào cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị là : Trong 4 năm đầu từ năm 2001 đến năm 2004 hai nguồn vốn Ngân sách Nhà nước và vốn ODA là hai nguồn vốn chiếm tỷ trọng lớn, còn hai nguồn vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước và các nguồn vốn của các doanh nghiệp, tư nhân …chiếm tỷ trọng rất nhỏ, nhưng đến mấy năm gần đây từ năm 2005 đến năm 2007, hai nguồn vốn này giảm dần, ngược lại hai nguồn vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước và các nguồn vốn của các doanh nghiệp, tư nhân… có xu hướng tăng dần. Như vậy có thể thấy được sự chuyển biến về cơ cấu nguồn vốn đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị. Qua bảng và qua biểu đồ trên ta quan sát thấy tỷ trọng của vốn ODA ngày càng giảm dần, năm 2001 nguồn vốn này chiếm 71,46% về tỷ trọng nhưng đến năm 2007 nó giảm rất nhanh xuống còn 29,57%. Nguồn vốn ngân sách cũng giảm nhanh, từ 22,69% vào năm 2001, giảm xuống còn 15% vào năm 2007. Nhưng nguồn vốn tín dụng ĐTPT của Nhà nước và các nguồn vốn của các doanh nghiệp tư nhân thì lại khác. Năm 2001, tổng hai nguồn vốn nguồn vốn tín dụng ĐTPT của Nhà nước và các nguồn vốn của các doanh nghiệp, tư nhân là 109 tỷ đồng chiếm tỷ trọng 5,68%, tỷ trọng này rất nhỏ. Nhưng đến năm 2007 tổng hai nguồn vốn này đã lên tới 2550 tỷ đồng chiếm 55,43% tổng số vốn. Có thể dự đoán xu hướng hai nguồn vốn này còn tiếp tục tăng nữa do chính sách xã hội hóa đầu tư, cùng với việc chuyển dịch vốn Ngân sách và vốn ODA về cho vùng nông thôn. Việc đầu tư của tư nhân vào cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị được thực hiện dưới nhiều hình thức khác nhau, mỗi hình thức thì hiệu quả thu được là khác nhau, tiếp theo ta xem xét xem thực trạng thu hút vốn đầu tư ra sao? và hiệu quả đạt được từ việc thu hút thêm vốn đầu tư như thế nào? b) Nguồn vốn ngân sách Nhà Nước: Vốn đầu tư được khai thác từ nhiều nguồn khác nhau: nguồn vốn trong nước và nguồn vốn nước ngòai. Đối với cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị mà nói, vốn đầu tư bao gồm từ những nguồn vốn chủ yếu sau : vốn ngân sách Nhà nước, vốn ODA, vốn tín dụng đầu tư phát triển và nguồn vốn tư nhân, Vốn Ngân sách Nhà nước Đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị được coi là một lĩnh vực đầu tư công ích. Do đó, nguồn vốn Ngân sách Nhà nước có ý nghĩa quan trọng. Nguồn vốn đầu tư từ Ngân sách nhà nước là tất cả các khoản Ngân sách dùng để làm tăng thêm tài sản quốc gia, đối với hoạt động đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị thì đó là các khoản đầu tư cho việc xây dựng mới, mở rộng, nâng cấp các nhà máy nước sạch và các hệ thống đường ống dẫn nước… Ở các nước đang phát triển như nước ta, nguồn vốn từ ngân sách Nhà nước có ý nghĩa quan trọng trong việc quyết định xây dựng các công trình trọng điểm quốc gia nói chung và cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị nói riêng. Nó có tác dụng làm đòn bảy phát triển kinh tế và là nguồn vốn đối ứng để thu hút các nguồn vốn đầu tư khác. Nguồn vốn ngân sách Nhà nước bao gồm : Vốn ngân sách Trung ương và Vốn ngân sách địa phương Theo Luật ngân sách hiện nay, việc cung cấp tài chính cho các hệ thống cấp nước đô thị thuộc trách nhiệm của các Uỷ ban nhân dân tỉnh. Tuy nhiên, trong thực tế thì ngân sách tỉnh không đủ để đáp ứng những nhu cầu nâng cấp cần thiết, do đó chính phủ trung ương phải hỗ trợ cung cấp vốn đầu tư cho cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị. c) Nguồn vốn tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước: Tín dụng nhà nước về thực chất có thể coi như một khoản chi của ngân sách nhà nước cho vay theo lãi suất ưu đãi ( lãi suất cho vay thường thấp hơn lãi suất trên thị trường tín dụng ), Nhà nước dành ra một phần ngân sách trợ cấp bù lãi suất. Song tín dụng nhà nước có những ưu thế riêng, phát triển hoạt động tín dụng nhà nước là đi liền với giảm bao cấp về chi ngân sách nhà nước trong điều kiện ngân sách còn hạn hẹp, đồng thời nâng cao hơn nữa trách nhiệm của người sử dụng vốn.  Cơ chế của tín dụng là đi vay có hoàn trả kèm lãi suất, nên dưới áp lực này buộc các đối tượng vay vốn phải tăng cường hạch toán kinh tế, giám sát chặt chẽ việc sử dụng các khoản vay để bảo đảm khả năng thanh toán nợ. Bên cạnh đó, khả năng điều tiết nền kinh tế của Nhà nước sẽ ngày càng được cải thiện khi các khoản vay được hoàn trả thay vì việc cấp phát không hoàn lại như trước đây, cho nên đầu tư của Nhà nước vào các ngành then chốt, các vùng trọng điểm, các vùng khó khăn...tăng lên sẽ góp phần nâng cao hiệu quả kinh tế, xã hội của toàn bộ nền kinh tế. d) Vốn ODA Vốn ODA là vốn hỗ trợ phát triển của các đối tác tài trợ nước ngoài dành cho các nước nhận viện trợ, thường là các nước đang phát triển. Vốn ODA giữ vai trò rất quan trọng trong việc đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị, nó là nguồn chủ yếu cho đầu tư phát triển hệ thống cấp nước đô thị. Vốn ODA bao gồm tất cả các khoản viện trợ không hoàn lại và các khoản tín dụng ưu đãi ( cho vay với lãi suất thấp…). Một khoản vay được coi là vốn ODA khi nó thỏa mãn các tiêu thức sau : một là, nó phải do chính phủ hoặc các tổ chức điều hành trực thuộc chính phủ cung cấp. ._.hính Phủ đã phê duyệt Định hướng phát triển cấp nước đô thị quốc gia đến năm 2015 với các nội dung chủ yếu như sau: - Phát triển ngành cấp nước đô thị phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và có kế hoạch đầu tư phù hợp để phát triển hệ thống cấp nước các đô thị một cách ổn định và bền vững trong từng giai đoạn. - Điều tra, khảo sát, khai thác đi đôi với bảo vệ tài nguyên nước quôc gia; các nguồn nước mặt, nước dưới đất, sông ngòi, hồ chứa nước tự nhiên và nhân tạo tại các vùng khác nhau, chú ý tới các đô thị vùng ven biển, vùng khô hạn, vùng núi, cao nguyên và các vùng đặc trưng khác. - Nâng cao chất lượng phục vụ cấp nước cho sản xuất và dân sinh tại các vùng đô thị, tạo điều kiện giúp đỡ các công ty cấp nước tự chủ về tài chính, đồng thời thực hiện các nghĩa vụ công ích và chính sách xã hội. - Mục tiêu đến năm 2015 phấn đấu đạt chỉ tiêu cấp nước như sau: Đối với đô thị lớn : 100% dân số đô thị được cấp nước sạch với tiêu chuẩn 150 – 180 lit/ người/ ngày ; đối với các đô thị vừa và nhỏ: 120 – 150 lít/ người/ngày ; Các thị trấn, thị tứ phấn đấu 80% dân cư được cấp nước sạch với lượng nước 80-100lít/người/ngày đêm; đến năm 2010 dự kiến đạt khoảng 6,5 triệu m3/ngày và đến năm 2015 dự kiến đạt tổng công suất 13,5 triệu m3/ngày. Ngoài việc triển khai các chương trình, dự án cấp nước các thành phố lớn, các khu đô thị mới và khu công nghiệp cần khẩn trương tiến hành công tác chuẩn bị đầu tư, lập dự án, tìm nguồn tài trợ cho cấp nước các thị trấn, thị tứ. - Đào tạo cán bộ và đổi mới công tác quản lý phù hợp với đường lối công nghiệp hoá, hiện đại hoá của Đảng và nhà nước; tăng cường năng lực các công ty tư vấn đủ mạnh để có thể đảm đương được công tác lập dự án, thiết kế các hệ thống cấp nước. - Tăng cường ứng dụng công nghệ mới thông qua chuyển giao công nghệ, từng bước hiện đại hoá hệ thống cấp nước trong các đô thị. - Đẩy mạnh đầu tư cho sản xuất thiệt bị, vật tư, phụ tùng trong nước với chất lượng cao để thị trường quốc tế chấp nhận. - Áp dụng các tiêu chuẩn, quy phạm tiên tiến đưa ngành cấp nước Việt Nam hội nhập với các nước trong khu vực phù hợp với chính sách mở cửa và mở rộng hợp tác quốc tế của Đảng và Chính phủ - Giảm thất thoát, thất thu nước thêm 10% - Khai thác hợp lý các công trình cấp nước hiện có - Nâng cấp và đầu tư xây dựng mới các công trình phù hợp với sự phát triển của các đô thị - Tập trung thu hút nguồn vốn trong dân cư, nguồn vốn tư nhân để đầu tư phát triển mạng lưới, tránh dựa dẫm vào Ngân sách Nhà nước, vốn ODA. Đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị là giải pháp trực tiếp và gián tiếp giải quyết những vấn đề xã hội cấp bách trong quá trình phát triển, số lượng và chất lượng dịch vụ cấp nước phụ thuộc rất nhiều vào hiện trạng mạng lưới cấp nước hiện có chất lượng dịch vụ cấp nước chỉ có thể được nâng cao nếu có một hệ thống cơ sở hạ tầng cấp nước đạt tiêu chuẩn, đồng bộ và hiện đại. Do vậy phát triển cơ sở hạ tầng và thu hút vốn tư nhân vào cơ sở hạ tầng cấp nước là hai vấn đề có liên quan và tác động qua lại đáp ứng yêu cầu xã hội và dịch vụ cấp nước Vốn đầu tư vào cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị phải được huy động từ nhiều nguồn và kết hợp với nhau để sử dụng một cách có hiệu quả. 2.1.2. Kế hoạch phát triển ngành cấp nước đô thị: Bảng 13 : Dự kiến nguồn vốn đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị giai đoạn 2008-2015 Đơn vị:Tỷ USD 2008 2010 2015 Tổng vốn đầu tư 3,2 4.5 5,6 Tỷ trọng 100 100 100 1. Vốn NSNN - Quy mô 0,5 0,5 0,4 - Tỷ trọng 15,6 8,88 7,14 2. Vốn tín dụng ĐTPT - Quy mô 0,8 1,5 2,3 - Tỷ trọng 25 33,4 41,07 3. Vốn ODA - Quy mô 1,1 1,2 1,3 - Tỷ trọng 34,4 26,6 23,2 4. Vốn tư nhân - Quy mô 0,8 1,4 1,6 - Tỷ trọng 25 21,12 28,6 Nguồn : Vụ kết cấu hạ tầng và đô thị Theo bảng kế hoach nhu cầu vốn cho đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị ở trên cho thấy, với sự tăng quy mô và tỷ trọng các nguồn vốn ta thấy: đến năm 2015 nguồn vốn tư nhân cần cho đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị khoảng 1.6 tỷ USD, tăng 0.8 tỷ USD so với năm 2008, Qua bảng ta cũng thấy nguồn vốn đầu tư tư nhân cần cho đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng đến năm 2015 chiếm khoảng 28,6 % tổng số vốn, tức là chiếm vị trí thứ hai sau vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước, điều đó cho thấy vai trò ngày càng quan trọng của nguồn vốn tư nhân trong đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị Ngoài ra một số kế hoạch khác cần thực hiện là : Đảm bảo cung cấp nước sạch cho 90% dân số đô thị Hà Nội với tiêu chuẩn trên l00 lít/người/ngày. Giảm tỉ lệ thất thoát,thất thu nước xuống còn dưới 34% Tăng them 10% đô thị cấp huyện có hệ thống cấp nước đủ tiêu chuẩn Tăng đầu tư các khu vực thiếu nước trầm trọng 2.2. Giải pháp chủ yếu thu hút đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị 2.2.1. Hoàn thiện cơ chế, chính sách liên quan đến việc thu hút đầu tư tham gia phát triển cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị. Đến nay, ngòai các văn bản quy phạm pháp luật có tính chất điều chỉnh chung thì hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật trong lĩnh vực cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị như Thông tư 38/2005/TT – BTC của Bộ tài chính quy định về khung giá nước sinh hoạt của các đô thị, Nghị định 117 về sản xuất , kinh doanh và tiêu thụ nước sạch, ngày càng hoàn thiện hơn trước. Trong việc thu hút đầu tư tư nhân tham gia vào việc đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị thì các nhà đầu tư tư nhân thường quan tâm đặc biệt đến các khỏan thu từ đầu tư như cước phí sử dụng nước sạch, chính sách tính giá…Nếu các vấn đề này không mang lại lợi nhuận cho các nhà đầu tư tư nhân thì rất khó thu hút họ tham gia. Chính phủ vẫn chưa có một cơ sở pháp lý đầy đủ, cụ thể để tạo môi trường thông thoáng cho tư nhân tham gia đầu tư vào lĩnh vực này. Chính vì vậy một số cơ chế, chính sách cần được nghiên cứu làm rõ hơn, đó là : Chính sách giá nước: giá nước cần đảm bảo được hiệu quả kinh doanh của người dân. Để đạt được điều đó thì cần phải đánh giá lại tài sản cố định đã được đầu tư từ những khoảng thời gian, nguồn vốn khác nhau, căn cứ vào suất đầu tư để tính lại giá trị tài sản cố định và chi phí khấu hao vào giá thành.Giá nước không nên để UBND và HĐND quyết định như hiện nay.Nhà nước chỉ ban hành khung giá nước sạch cho từng vùng, giá bán cụ thể do thị trường và người sản xuất quyết định. Vấn đề mấu chốt cho sự thành công của ngành là giá nước phải cao hơn hiện tại nhưng phải khả thi và trong khả năng chi trả. Hướng dẫn và thực hiện một cơ chế tính giá chung cho toàn quốc là một bước đi đúng hướng. Thông tin cho dân chúng biết về chi phí cho dịch vụ cấp nước và nước thải, và đáp ứng đúng mong đợi của họ về dịch vụ thì chắc chắn sẽ có sự hỗ trợ từ cộng đồng. Rõ ràng là không thể nâng giá nước thường xuyên để đạt đến tình trạng thu hồi đầy đủ chi phí. Vì vậy, đối với tất cả đầu tư mới phải thu hồi tất cả chi phí, còn đối với những khách hàng hiện tại cũng phải phân định rõ thời gian bao cấp và thời gian tiếp cận đến thu hồi toàn bộ chi phí. Như vậy, mong đợi của khách hàng sẽ được xây dựng trên giá nước thực tế và họ cũng hiểu được sự bao cấp của chính phủ trong thời gian chuyển giao, mặc dù bao cấp này sẽ dần bị giảm và tiến tới thu hồi toàn bộ chi phí. Ngoài việc dàn xếp cho thời kỳ chuyển giao cần áp dụng chính sách điều chỉnh tự động theo chỉ số lạm phát. Hiện tại, khả năng chi trả và nguyện vọng đấu nối dường như không phải là vấn đề trong cấp nước. Tuy nhiên cũng giống như ở các quốc gia khác, khi giá nước được nâng lên thì nên tập trung bao cấp cho chi phí đấu nối cho các hộ gia đình nghèo. Tuy nhiên, do doanh nghiệp kinh doanh nước sạch hiện nay vẫn được coi là doanh nghiệp công ích, nhà nước cần ban hành những cơ chế hỗ trợ cho doanh nghiệp thuộc lĩnh vực cấp nước đô thị để doanh nghiệp có thể hoạt động và phát triển, mang lại hiệu quả kinh tế xã hội. Tuy nhiên những hỗ trợ đó cần phải dựa trên cơ sở đảm bảo những cam kết quốc tế mà Việt Nam đã ký. Nhà nước cần hoàn thiện những cơ chế chính sách pháp luật hiện nay liên quan đến đầu tư, tài chính và tín dụng để có thể tạo ra một thị trường vốn lành mạnh, có thể huy động vốn cho đầu tư phát triển hệ thống cấp thoát nước đô thị, khuyến khích được các thành phần kinh tế tham gia đầu tư. Một cơ chế khuyến khích tư nhân tham gia đầu tư trong lĩnh vực cấp nước đô thị cũng cần được xây dựng để có thể huy động tối đa mọi nguồn lực xã hội cho cấp nước đô thị, khi mà các nguồn tài trợ cho lĩnh vực này đang có xu hướng giảm. Ngoài ra, sự thống nhất và hiệu lực áp dụng của khung pháp lý cũng như tốc độ thực thi những chiến lược ngành cần được cải thiện. Ví dụ, một khung pháp lý hỗ trợ chiến lược quốc gia về cấp nước đô thị là cần thiết, như những quy định cho phép các nhóm cộng đồng người sử dụng nước vay vốn và mở tài khoản. Ở các đô thị nhỏ, cần thiết có một khung thể chế thích hợp về đầu tư các dự án vừa và nhỏ cho cả phía chính quyền và cộng đồng tuân theo phân cấp việc ra quyết định đầu tư , tránh những chồng chéo về trách nhiệm giữa nhà đầu tư và cơ quan thực hiện đầu tư và đơn giản hóa quá trình chuẩn bị dự án. Cần có sự điều phối và kết hợp giữa các chương trình cấp nước đô thị và nông thôn để đảm bảo thống nhất với các chương trình quốc gia về chống ngập úng và bảo vệ môi trường cũng như chương trình xóa đói giảm nghèo. Vai trò và trách nhiệm các cơ quan trong ngành cần được chỉ ra rõ ràng . Bất kỳ một chính sách nào cũng cần phải toàn diện và có thể cân nhắc thành lập một cơ quan duy nhất quản lý và theo dõi dịch vụ cấp nước đô thị. 2.2.1.1. Xây dựng một chương trình, kế hoạch hoàn chỉnh cho cấp nước đô thị Nhà nước cần nhanh chóng thiết lập một chương trình hay kế hoạch hoàn chỉnh cho công tác cấp nước đô thị, để công tác đầu tư phát triển hệ thống câó nước đô thị có một lộ trình, một hướng đi rõ ràng và cụ thể, có như vậy, hoạt động đầu tư mới trở nên có bài bản và đạt hiệu quả phối hợp cao hơn. Đi kèm với đó, Nhà nước cần xây dựng một quy hoạch tổng thể về đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng đô thị, trong đó có quy hoạch hệ thống cấp nước đô thị, bao gồm việc xác định vốn và các nguồn lực trong nước, đồng thời phù hợp với các cam kết trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. Quy hoạch này đồng thời phải tính tới điều kiện cụ thể của từng vùng, từng địa phương, đảm bảo phát huy tối đa lợi thế so sánh của mỗi vùng, thu hút được công nghệ mới, hiện đại cho hệ thống cấp nước đô thị. Một danh mục các dự án lớn cần triển khai và thu hút vốn đầu tư cần được xây dựng và giới thiệu rộng rãi để các nhà đầu tư quan tâm có thể tới tìm hiẻu cơ hội đầu tư, như vậy sẽ mang lại lợi ích cho cả nhà nước và nhà đầu tư. Có vậy nguồn lực huy động cho đầu tư phát triển hệ thống cấp nước cũng sẽ được huy động nhanh hiơn và đúng địa chỉ cần đầu tư. Trong các quy hoạch, chiến lược cần tập trung vào chính sách đầu tư và hỗ trợ mạnh mẽ việc phát triển hệ thống cấp nước ở các vùng ven đô thị, các khu vực dân cư nghèo đô thị, như vậy sẽ mang lại một hiệu quả kinh tế xã hội, tác động tới xóa đối giảm nghèo lớn hơn. 2.2.1.2. Cân đối lại và tăng cường huy động vốn từ các nguồn nhằm mở rộng hoạt động đầu tư Dựa trên các mục tiêu phát triển ngành cấp nước đô thị, NHTG và Chính phủ Việt Nam đã có những ước tính về nhu cầu nguồn vốn để đạt được các mục tiêu trên. Bảng 14: Dự kiến cấp nước đô thị Hà Nội Ước tính của NHTG Đơn vị 2000 2010 2020 Tổng dân số Ngàn người 19.000 32.000 46.000 Dân số đô thị có dịch vụ cấp nước năm 2000 Ngàn người 9.120 Dân số đô thị cần được cấp nước Ngàn người 9.888 22.880 36.880 Ước tính chi phí/đầu người theo giá năm 2000 Ngàn người 2,640 2,640 2,640 Nhu cầu vốn để đạt bao phủ 100% ở năm 2020 Ngàn người 26.083.200 60.403.200 97.363.200 Nguồn : Chiến lược phát triển cơ sở hạ tầng Việt Nam (Tỷ giá quy đổi : 1 USD = 16.000 VNĐ) Theo đó, trong giai đoạn 2004-2010, trung bình mỗi nguồn vốn cần thiết cho đầu tư để đạt được mục tiêu bao phủ 85% vào năm 2010 là 2560 tỷ đồng/ năm. So sánh với nguồn vốn đầu tư cấp nước đô thị qua các năm ta thấy, việc thực hiện kế hoạch nguồn vốn tương đối, song, do một số nguồn vốn đang có xu hướng giảm nên việc tìm ra các giải pháp thu hút nguồn vốn cho đầu tư phát triển vẫn là cần thiết. a. Duy trì nguồn vốn ODA Hiện nay nguồn vốn ODA đang có xu hướng giảm do chính phủ tập trung cấp nước cho nông thôn và vùng khó khăn, vì vậy để huy tốt nguồn vốn quan trọng này cần tập trung một số giải pháp. Chúng ta cần có cam kết rõ ràng về hiệu quả sử dụng nguồn vốn ODA từ phía chính phủ và các dơn vị sử dụng nguồn vốn này, điều này là rất quan trọng đối với đơn vị tài trợ. Song song với những cam kết là việc Chính phủ và các doanh nghiệp thực hiện tốt việc quản lý dự án , vận hành các kết quả đầu tư sao cho mang lại hiệu quả cao nhất. b. Tăng thu ngân sách Cùng với nguồn vốn ODA, nguồn ngân sách và tín dụng phát triển cho đầu tư phát triển hệ thống cấp nước đô thị có xu hướng giảm do Nhà nước tập trung vào cấp nước nông thôn. Do đó nguồn vốn cấp nước đô thị chỉ tăng khi nguồn thu ngân sách tăng . Vì vậy, chúng ta cần tập trung các biện pháp để tăng thu ngân sách. Tích cực thu đúng, thu đủ thuế, ngăn chặn tình trạng thất thoát, thất thu tiền thuế. Muốn làm được việc này, phải nâng cao ý thức của các tầng lớp nhân dân trong xã hội. Nhà nước phải ban hành các sắc thuế mới nhưng phải phù hợp với tình hình thực tế, việc này không có nghĩa là ban hành các sắc thuế mới mà không cần quan tâm đến nó có hợp lý hay không, có gây khó khăn cho dân hay không. Cổ phần hóa hoặc bán bớt cổ phần DNNN, giải tán các DNNN hoạt động không hiệu quả, thu hồi vốn để đầu tư là hoàn toàn có thể thực hiện được và hoàn toàn hợp lý, nhất là các doanh nghiệp hoạt động kinh doanh nước sạch. c. Nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp kinh doanh nước sạch Đầu tư phát triển của doanh nghiệp bao giờ cũng xuất phát từ hiệu quả kinh doanh, do đó, tăng hiệu quả SXKD của doanh nghiệp kinh doanh nước sạch đô thị chính là cách để tăng đầu tư phát triển cho cấp nước đô thị. Giải pháp cụ thể được nêu ở mục 2.2.2 dưới đây, ngoài ra còn có một số chính sách có thể đưa ra : Cạnh tranh để lấy thị trường.Trong trường hợp kết quả quản lý vận hành kém tại Cty cấp nước hiện có, UBND có thể giao xây dựng và vận hành hệ thống cấp nước khác. Cạnh tranh để có nguồn vốn ODA-Các nhà tài trợ cần cho vay dựa trên các kết quả vận hành d. Tiếp tục tăng cường thu hút vốn từ các nguồn khác các nguồn vốn được đề cập ở đây gồm 4 nguồn chính: từ dân cư; từ vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài; từ hệ thống ngân hàng thương mại và thị trường chứng khoán. - Vốn từ dân cư: Đối với vốn từ dân cư hiện nay, hiện nay vấn đề cấp nước đang được rất quan tâm, nguồn vốn đầu tư cho hệ thống cấp nước đô thị là hết sức tiềm năng. Ở các đô thị lớn nơi mức sống của người dân cao và có khả năng chi trả cho chi phí đầu tư ban đầu để được cấp nước sạch thì cơ chế này có thể áp dụng. - Vốn FDI : Cần có chính sách hỗ trợ cho doanh nghiệp với các hình thức đầu tư BOT, BOO, BTO ... - TTCK : Phát hành trái phiếu chính phủ, Địa phương, doanh nghiệp. Đối với các công ty đã cổ phần hóa thì thực hiện niêm yết trên TTCK. 2.2.1.3. Khắc phục sự mất cân đối theo cơ cấu đầu tư. Muốn vậy nhà nước cần yêu tinh tập trung các nguồn vốn nhà nước, vốn ODA, vồn tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước vào các khu vực này.Đối với nguồn vốn tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước khi đầu tư vào khu vực này cần có nhiều thành tố hổ trợ hơn, tức là với mức lãi xuất thấp hơn so với các khu vực khác. Đông thời có thể khuyến khích tư nhân tham gia đầu tư vào cấp nước tại các khu vực đô thị nhỏ , vừa phù hợp với điều kiện của địa phương, vừa giảm tại gắn nặng cho nhà nước và vốn ODA. 2.2.2. Giải pháp khác: 2.2.2.1. Hoàn thiện cơ chế quản ký doanh nghiệp Cần tạo một cơ chế độc lập tự chủ cho các doanh nghiệp tham gia vào hệ thống cấp nước đô thị. Cần tách bạch cơ quan quản lý nhà nước về cấp nước ( các Sở giao thông công chính cấp tỉnh, các Bộ liên quan) với hoạt động của các doanh nghiệp này, xóa bỏ cơ chế Bộ chủ quản, có như vậy, các doanh nghiệp mới có động lực tự đứng vững trên đôi chân của mình, tất nhiên có sự hỗ trợ phần nào về phía nhà nước trong cơ chế chính sách. Nhưng chỉ khi doanh nghiệp có sự độc lập, doanh nghiệp mới có thể hết mình trong công tác cải tổ hoạt động, hướng đến một cơ cấu tổ chức, hoạt động một cách hiệu quả nhất. Trước tiên, cần có nghiên cứu, xem xét lại cơ cấu tổ chức quản lý cấp nước ở cấp quản lý cấp nhà nước. Trên cơ sở cơ cấu hiện nay, cần sắp xếp, tổ chức lại những điểm chưa hợp lý, từ các cơ quan chỉ đạo, quản lý ngành ở Trung Ương, nâng cao vai trò quản lý của các cấp chính quyền địa phương trong việc điều hành công tác cấp nước trên địa bàn của mình và đặc biệt là tăng cường năng lực của các công ty cấp nước. Theo đó, cần xác định lại một cách rõ ràng và cụ thể trách nhiệm và quyền hạn của các cơ quan nhà nước và địa phương trong quản lý cấp thoát nước. Trong công tác quản lý của Nhà nước thì trách nhiệm của Nhà nước cần được quy định theo đúng định hướng của Chính phủ sẽ thống nhất quản lý Nhà nước về hoạt động cấp nước trong phạm vi nhiệm vụ và quyền hạn của mình sẽ chịu trách nhiệm trong việc thực hiện quản lý Nhà nước vè hoạt động cấp nước trên địa bàn. Các công ty cấp nước sẽ phải có trách nhiệm phát triển và cung ứng các dịch vụ câp nước trong vùng phục vụ của mình theo nhu cầu phát triển dựa trên quyết định phê duyệt của cấp có thểm quyền về vùng phục vụ và kế hoạch cấp nước. UBND các cấp phải tổ chức giám sát việc thực hiện các dịch vụ cấp nước đã được ký giữa UBND hoặc cơ quan được ủy quyền với đơn vị cấp nước. Cùng với đó, Nhà nước cần tích cực hơn nữa trong công tác cổ phần hóa các doanh nghiệp Nhà nước, việc không những đem lại một nguồn vốn cho danh nghiệp ( thông qua bán bớt cổ phần ra bên ngoài) hơn nữa lại tạo ra một sức ép để doanh nghiệp hoạt động có hiệu quả, tự lực tự cường. 2.2.2.2. Cải tổ mô hình tổ chức của doanh nghiệp KDNS Việc đầu tư cần làm là xem xét lại mô hình tổ chức của doanh nghiệp sao cho hiệu quả. Cải cách phương pháp vận hành và quản lý công ty cấp nước cần kèm theo sự chuyển đổi các công ty cấp nước thành công ty TNHH 1 thành viên do chính quyền thành phố nắm giữ. Việc này sẽ giúp thực hiện việc cổ phần hóa sau này. Bước đầu tiên là hợp đồng kết quả vận hành giữa UBNN tỉnh với công ty cấp nước đã được ký kết dựa trên sự thống nhất đầu vào và đầu ra. Thiết thập mối quan hệ hợp đồng rỏ ràng sẽ tạo cho cả hai, ủy ban và công ty cấp nước những khuyến khích để có thể linh loạt và đáp ứng sự thay đổi môi trường kinh doanh và tăng nhu cầu. Một thỏa thuận thuê tài sản với công ty cấp nước và nhân tố thuế chấp để vay tài chính cũng được rõ ràng.Bộ xây dụng cần cân nhắc một khung chính sách thích hợp để cung cấp cho các công ty cấp nước những khuyến khích, thưởng phạt, sao cho ngành có thể phát triển theo hướng bền vững. Giống như hầu hết các DNNN khác của Việt Nam, các doanh nghiệp KDNS hiện nay có số lượng nhân viên còn lớn so với mức hiệu quả. Quan sát phụ lục 4, ta có số lượng nhân viên/1000 đấu nối của 3 công ty cấp nước lớn của Việt Nam bình quân là 6,2667 ,trong khi mức bình quan của 7 công ty cấp nước khác của các nước đang phát triển là 6,44 ,tức là con số này của Việt Nam là tốt hơn so với mức trung bình của các nước đang phát triển, tuy nhiên theo đánh giá của NHTG con số được coi là tốt của các đước đang phát triển là 5 nhân viên/1000 đầu nối như vậy Việt Nam vẫn ở dưới mức coi là tốt này.Vì vậy chúng ta cần phải đặt ra nhiệm vụ nâng cao năng suất lao động cho các công ty cấp nước hay cấp giảm bớt đội ngũ lao động dư thừa, cải tổ bộ máy tổ chức thì năng suất lao động mới được tăng lên 2.2.2.3. Giảm tỉ lệ thất thoát, thất thu nước Hiện tại, giải pháp để giảm tỉ lệ thất thoát, thất thu nước được đánh giá là giải pháp hết sức quan trọng để tăng hiệu quả làm việc của các công ty KDNS tại Việt Nam. Nếu chúng ta giải quyết tốt vấn đề này chúng ta sẽ hạn chế được đầu tư mới, nâng cấp cải tạo nhà máy nước với chi phí đầu tư cao. Nguyên nhân cơ bản của tình trạng này là do rò rỉ trên đường ống và quá trình xử lý nước; công tác thiết kế thi công đường ống chưa hợp lý, chất lượng của đường ống kém, vật liệu ống có nhiều chủng loại như gang, thép, bê tông, PVC cho nên các điểm đấu nối thường không tốt gây ra phì vỡ. Đặc biệt trong quá trình thi công xây dựng tình trạng ăn mòn của đất ít được chú ý đến cho nên các ống rất nhanh xuống cấp. Một nguyên nhân nữa làm cho tỉ lệ thấp thoát nước còn ở mức cao như hiện nay là ý thức sử dụng tiết kiệm nước của người dân còn kém. Nhiều nơi máy nước công cộng để mở tự do không ai sử dụng. Giải pháp kỹ thuật : Quan trọng nhất là chống rò rỉ trên mạng phân phối. Phương pháp tốt nhất là thay thế toàn bộ, tuy nhiên với điều kiện nguồn vốn còn hạn hẹp thì chỉ có thể thay thế dần dần. Cần tập trung thay thế theo khu vực, ưu tiên những khu vực xây dựng từ cũ đến mới. Song song cần triển khai công việc phát hiện và sửa chửa rò rỉ trên mạng. Sự dụng đường ống và phụ kiện cho chất lượng cao, thay thế ống gang xám không có xâm thực bên trong bằng ống gang dẻo, thay thế ông kém bằng ống PE để hạn chế rò rỉ. Cũng cần phân chia giữa mạng cũ và mới để điều chỉnh áp lực phù hợp. Việc kiểm tra, thay thế các đồng hồ đo nước không đạt tiêu chuẩn, lắp đặt đồng hồ mới vừa là biện pháp quản ly, vừa là biện pháp kỹ thuật quan trọng xét về phía cạnh kiểm tra thất thoát. Giải pháp để quản lý : Nguyên nhân thất thoát do quản lý thường gấp đôi thất thoát do kỹ thuật. Một số biện pháp cụ thể : - Xây dựng cơ chế khoán định mức thất thoát nước cho từng đơn vị, tổ đội…có chính sách thưởng, phạt nghiêm minh đối với cá nhân, đơn vị có thành tích tiết kiệm và lãng phí nước. - Tuyên truyền trên các phương tiện thông tin đại chúng cho người dân có ý thức sử dụng nước tiết kiệm, phát hiện và báo cáo cho đơn vị quản lý những nơi hư hỏng để xử lý kịp thời. - Có cơ chế quản lý thích hợp đối với các nhà máy nước công cộng, công viên, họng nước cứu hỏa Ngoài ra việc thất thoát do người dân đấu nối bất hợp pháp thì cần tập trung giải quyết theo các phương pháp : Thứ nhất, cần tích cực kiểm tra, kiểm soát hệ thống đường ống, nhanh chóng phát hiện các đường ống đấu nối trái phép và có biện pháp xử lý. Thứ hai, giáo dục ý thức cho người dân, giúp người dân hiểu và thực hiện nghiêm túc các quy định của công ty Thứ ba, giao một phần nhiệm vụ kiểm tra, kiểm soát cho người dân tự quản… Hiện nay giá nước đang được chính quyền địa phương quyết định, do đó mang tính chất trợ cấp khá lớn và còn thấp hơn nhiều so với chi phí thực. Do đó các công ty cấp nước và nhà nước cần xem xét đánh giá một cách hợp lý (xem phụ lục 3) 2.2.2.4. Phát triển nguồn nhân lực Đây là nhiệm vụ cần thiết của các công ty cấp nước các tỉnh nhằm nâng cao đội ngũ cán bộ, từ cán bộ lãnh đạo, quản lý, kỹ thuật, kinh tế tài chính, đến đội ngũ công nhân vận hành, bảo dưỡng hệ thống cấp nước. Cần phải mở rộng các cơ sở đào tạo về cấp nước đô thị tại các địa phương, như vậy sẽ có nguồn nhân lực sẵn có, lại được đào tạo phù hợp với từng điều kiện của từng địa phương Các hiệp hội cty cấp nước … cần xúc tiến tổ chức các chương trình bôì dưỡng nhân viên, cán bộ quản lý. Chương trình và nội dung đào tạo cần thiết kế cho phù hợp với thực tế hoạt động ngành, cùng với đó cần phù hợp với từng loại cán bộ công nhân viên. Cùng với đó, cần có sự phối hợp giữa cơ sở đào tạo và nơi sử dụng. Cần có chính sách thu hút và đãi ngộ hợp lý các công nhân viên, để họ yên tâm làm viêc, cống hiến hết mình và say mê làm viêc, sẵn sàng học hỏi, tiếp thu kiến thức mới để nâng cao chất lượng công việc. 2.2.2.5. Tăng cường hợp tác giữa các công ty kinh doanh nước sạch và hợp tác với các tổ chức quốc tế. Các hiệp hôi cấp thoát nước Việt Nam cần cung cấp nguồn lực về mặt kỹ thuật và quản lý cho các công ty cấp nước vì lợi ích chung của ngành. Đoàn kết là sức mạnh, vì vậy những hiệp hồi này cần tích cực thu hút nhiều hơn các công ty kinh doanh nước sạch cùng tham gia và hoạt động, từ đó đưa ra những chiến lược định hướng chung cho ngành, đưa hoạt động của ngành ngày càng phát triển. Hội CTNVN cần phải đóng vai trò quan trọng hơn trong việc xây dựng năng lực kỹ thuật và năng lực quản lý cho các bên cấp nước đô thị. Thông qua tiến hành các chương trình đào tạo quy mô quốc gia, nâng cao năng lực quản lý tài chính, năng lực quản lý hợp đồng và nhà thầu. Việc hợp tác với các tổ chức quốc tế sẽ đem đến nhiều cơ hội học hỏi trao đổi kinh nghiệm đầu tư, tìm hiểu các công nghệ mới xử lý nước, các tiêu chuẩn mới về vệ sinh nước sạch nhằm mục tiêu áp dụng vào Việt Nam, giúp nâng cao trình độ công nghệ và nâng cao chất lượng nước sạch cung cấp cho người dân. 2.2.2.6. Giáo dục ý thức của người dân Cần hoàn thiện lại các hợp đồng cung cấp nước sạch với người dân, trong đó nâng cao hơn trách nhiệm của người dân, trong trường hợp nếu có đấu nối bất hợp pháp thì cần có hình phạt nghiêm minh hơn. Người dân sẽ có ý thức tốt hơn và các hành vi như vậy sẽ giảm dần. Ngoài ra không chỉ giám sát các hành vi đấu nối trái phép, cần có cơ chế khuyến khích người dân tham gia giám sát các đơn vị trong qua trình thực hiện đầu tư, phát hiện các hành vi này giúp nâng cao hiệu quả đầu tư. KẾT LUẬN Là một trong những sản phẩm thiết yếu đối với cuộc sống nhân dân, nước sạch cũng là thước đo trình độ phát triển của một đô thị văn minh. Sản xuất và cung cấp nước sạch là một trong những lĩnh vực hạ tầng có ảnh hưởng quan trọng đến đời sống dân sinh cũng như sự phát triển kinh tế xã hội và ngày càng có vai trò quan trọng trong sự phát trển bền vững của đô thị Hà Nội. Cấp nước đô thị Hà Nội không chỉ giải quyết vấn đề của người dân mà còn đóng góp phát triển hệ thống hạ tầng kỹ thuật đồng bộ trên toàn thành phố. Tuy nhiên việc xây dựng hạ tầng cấp nước ở Hà Nội đòi hỏi sự tham gia không chỉ ngành nước, mà phải xa hội hóa cả khâu khai thác, sản xuất, truyền tải, phân phối nước và đầu tư phát triển hệ thống cấp nước để đảm bảo yêu cầu cấp nươc có hiệu quả và phát triển bền vững. Mặt khác khi môi trường đô thị hóa ngày càng trở nên ô nhiễm thì vấn đề an ninh nguồn nước càng trở nên bức xúc hơn. An ninh nguồn nước không chỉ là vấn đề chất lượng nước mà về lâu dài còn là sự bền vững của nguồn nước, của môi trường nước với phạm vi không chỉ Hà Nội nói riêng mà còn cả khu vực sông Hồng và vùng kinh tế miền Bắc nói chung Trên cơ sở như vậy. bài viết được hoàn thành. Tuy nhiên, phạm vi nghiên cứu của đề tài rất rộng, trình độ còn hạn chế nên không thể tránh khỏi những thiếu sót. Do vậy em rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến của thầy cô. Em xin chân thành cảm ơn! TÀI LIỆU THAM KHẢO 1.Bộ Kế hoạch và Đầu tư (1997), Thực trạng cấp nước đô thị Hà Nội (1991- 2006) 2. Nguyễn Bạch Nguyệt (2005), “Giáo trình lập dự án đầu tư”, nhà xuất bản thống kê. 3. Ban quản lý Khu kinh tế Dung Quất (2005), Những giải pháp và kiến nghị để thực hiện mục tiêu đầu tư và phát triển CSHT cấp nước đô thị Hà Nội 2006 – 2010. 4. Cấp nước sạch Hà Nội (2007), Báo cáo tình hình thực hiện chỉ tiêu thực hiện kế hoạch nhà nước năm 2006. 5. Nguyễn Bạch Nguyệt, Từ Quang Phương (2007), “Giáo trình Kinh tế đầu tư”, nhà xuất bản đại học Kinh tế quốc dân. 6. Vụ Kết cấu hạ tầng và đô thị (2008), Báo cáo tình hình thực hiện chỉ tiêu thực hiện kế hoạch nhà nước năm 2007. 7. Vụ Kết cấu hạ tầng và đô thị (2009), Báo cáo tình hình thực hiện chỉ tiêu thực hiện kế hoạch nhà nước năm 2008. 8. Các trang web: www.mpi.gov.vn vietnamnet.vn vietbao.vn dantri.com.vn www.tongcucthongke.com.vn LỜI NÓI ĐẦU DANH MỤC BẢNG, BIỂU CÁC CHỮ CÁI VIẾT TẮT CHƯƠNG 1: THỰC TRẠNG ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN CƠ SỞ HẠ TẦNG CẤP NƯỚC ĐÔ THỊ TẠI HÀ NỘI 1.1. Cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị, vai trò và mô hình cung cấp nước đô thị điển hình: 1.1.1. Khái niệm cơ sở hạ tầng và cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị: 1.1.1.1. Cơ sở hạ tầng: 1.1.1.2. Cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị: 1.1.2. Khái niệm và vai trò của việc đầu tư phát triển cơ sở hạ cấp nước đô thị: 1.1.3. Mô hình cung cấp đô thị điển hình: 1.2. Sự cần thiết phải đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị: 1.2.1. Tốc độ tăng trưởng dân số của người dân Hà Nội trong những năm qua: 1.2.2. Tiêu chuẩn dùng nước, cấp nước và nhu cầu dùng nước của người dân Hà Nội: 1.2.3. Tình hình cung cấp nước đô thị tại Hà Nội: 1.3. Thực trạng đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị tại Hà Nội: 1.3.1. Tình hình thực hiện vốn đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị 1.3.2. Tình hình thực hiện các dự án đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị tại Hà Nội: 1.3.3. Nguồn vốn đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị tại Hà Nội: 1.3.4. Tình hình thực hiện vốn đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị phân theo nội dung đầu tư: 1.3.5. Tình hình thực hiện vốn đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị phân theo hình thức đầu tư: 1.4. Đánh giá 1.4.1. Kết quả và hiệu quả đạt được: 1.4.1.1. Kết quả: 1.4.1.2. Hiệu quả đạt được: 1.4.2. Hạn chế và nguyên nhân của hạn chế đó: 1.4.2.1. Hạn chế: 1.4.2.2. Nguyên nhân: CHƯƠNG 2: MỘT SỐ GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN CƠ SỞ HẠ TẦNG CẤP NƯỚC ĐÔ THỊ TẠI HÀ NỘI 2.1. Phương hướng đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị tại Hà Nội: 2.1.1. Phương hướng đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị tại Hà Nội: 2.1.2. Kế hoạch phát triển ngành cấp nước đô thị: 2.2. Giải pháp chủ yếu thu hút đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị 2.2.1. Hoàn thiện cơ chế, chính sách liên quan đến việc thu hút đầu tư tham gia phát triển cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị. 2.2.1.1. Xây dựng một chương trình, kế hoạch hoàn chỉnh cho cấp nước đô thị 2.2.1.2. Cân đối lại và tăng cường huy động vốn từ các nguồn nhằm mở rộng hoạt động đầu tư 2.2.1.3. Khắc phục sự mất cân đối theo cơ cấu đầu tư. 2.2.2. Giải pháp khác: 2.2.2.1. Hoàn thiện cơ chế quản ký doanh nghiệp 2.2.2.2. Cải tổ mô hình tổ chức của doanh nghiệp KDNS 2.2.2.3. Giảm tỉ lệ thất thoát, thất thu nước 2.2.2.4. Phát triển nguồn nhân lực 2.2.2.5. Tăng cường hợp tác giữa các công ty kinh doanh nước sạch và hợp tác với các tổ chức quốc tế. 2.2.2.6. Giáo dục ý thức của người dân KẾT LUẬN TÀI LIỆU THAM KHẢO ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc21270.doc
Tài liệu liên quan