Đầu tư phát triển hạ tầng giao thông đường bộ giai đoạn 2003-2008.Thực trạng và giải pháp

MỤC LỤC DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT NSNN: Ngân sách nhà nước. CSHT: Cơ sở hạ tầng. GTĐB: Giao thông đường bộ. GTVT: Giao thông vận tải. VĐT: Vốn đầu tư DANH MỤC CÁC BẢNG, BIỂU, SƠ ĐỒ, HÌNH VẼ Hình 1.1: Sơ đồ chu kì dự án đầu tư. Bảng 2.1: Mạng lưới giao thông đường bộ Bảng 2.2: Phân loại chiều dài đường và mặt đường Bảng 2.3: Hạ tầng giao thông nông thôn Bảng 2.4: Vốn NSNN cho giao thông đường bộ. Bảng 2.5: Cơ cấu vốn đầu tư GTĐB 2003-2008 Bảng 2.6: Chi NSNN cho GTĐB 2003-2008 Bảng 2

doc98 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1193 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Đầu tư phát triển hạ tầng giao thông đường bộ giai đoạn 2003-2008.Thực trạng và giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
.7: Chi NSNN cho GTĐB trong nền kinh tế quốc dân Bảng 2.8: Tỷ lệ vốn đầu tư xây dựng mới. Bảng 2.9: Vốn đầu tư bảo trì và sửa chữa đường bộ 2003-2008 Bảng 2.10:Tình hình huy động vốn đầu tư phát triển hạ tầng giao thông nông thôn những năm gần đây. Bảng 2.11: Vốn đầu tư phát triển hạ tầng giao thông đô thị Bảng 2.12: Cơ cấu vốn phát triển hạ tầng đường bộ theo vùng lãnh thổ 2003-2008 Bảng 2.13: So sánh hiện trạng hạ tầng GTĐB 2000 và 2008 Biểu đồ so sánh hạ tầng GTĐB năm 2000 và 2008 Bảng 2..14: Hiện trạng cầu Việt Nam Bảng 2.15: Khối lượng hành khách và hàng hoá được vận chuyển qua đường bộ giai đoạn 2003-2008. Bảng 2.16: Chỉ số phát triển vận tải của ngành GTĐB. Bảng 2.17: Tốc độ tăng trưởng kinh tế Việt Nam từ 2003-2008 Bảng 2.18: Thu nhập bình quân đầu người một tháng theo giá thực tế phân theo thành thị, nông thôn và phân theo vùng. Bảng 3.1: Dự báo nhu cầu nâng cấp và xây dựng mới đường bộ đến năm 2020 Bảng 3.2: Dự báo nhu cầu vốn phát triển GTĐB đến 2020. LỜI MỞ ĐẦU Giao thông đường bộ là một bộ phận quan trong của giao thông vận tải nói riêng và của hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội nói chung, nó có vai trò rất quan trọng trong phát triển kinh tế-xã hội, đóng góp to lớn vào nhu cầu đi lại của nhân dân, nâng cao giao lưu với các vùng, xoá đi khoảng cách về địa lý, chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng hợp lý phát huy lợi thế của từng vùng, từng địa phương, từng ngành, xoá đói giảm nghèo, củng cố an ninh quốc phòng…Tuy nhiên hệ thống hạ tầng giao thông đường bộ giao thông đường bộ của nước ta trong thời gian qua còn bộc lộ nhiều hạn chế làm cản trở nhiều tới mục tiêu phát triển chung của đất nước, làm giảm khả năng thu hút vốn đầu tư vào nền kinh tế đặc biệt là các nguốn vốn nước ngoài và giảm tốc độ công nghiệp hoá-hiện đại hoá đất nước, cản trở tiến trình hội nhập kinh tế khu vực và trên thế giới. Để có thể phát huy được tối đa vai trò của mình thì yêu cầu đặt ra là trong thời gian tới là cần phải phát triển ngành giao thông đường bộ nói riêng và giao thông vận tải nói chung cần phải đi trước một bước, điều này đã được nhà nước rất quan tâm và tạo nhiều điều kiện để phát triển.Trong thời gian qua vốn ngân sách nhà nước dành cho phát triển giao thông đường bộ luôn chiếm tỷ trọng cao so với những ngành khác, nguồn vốn ngân sách nhà nước cũng đã phát huy được những hiệu quả nhất định và vẫn luôn là một trong những nguồn vốn quan trọng nhất trong đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng đường bộ tuy nhiên công tác sử dụng vốn ngân sách nhà nước trong thời gian qua cũng còn bộc lộ nhiều hạn chế cần phải khắc phục nhằm tránh lãng phí nguồn vốn ngân sách trong điều kiện nước ta còn là nước đang phát triển và còn rất nhiều mục tiêu cần thực hiện và ngân sách nhà nước cũng tương đối hạn hẹp. Để giải quyết vấn đề trên, sau một thời gian được thực tập và nghiên cứu tại phòng đầu tư trung ương-Vụ đầu tư-Bộ tài chính và được sự tư vấn, hướng dẫn của các cô chú trong Vụ cùng với cô giáo hướng dẫn em đã quyết định chọn đề tài: “Đầu tư phát triển hạ tầng giao thông đường bộ giai đoạn 2003-2008.Thực trạng và giải pháp”. Ngoài phần mở đầu và kết luận kết cấu của luận văn bao gồm 3 chương: Chương I: Những vấn đề chung về đầu tư phát triển hạ tầng giao thông đường bộ bằng nguồn vốn NSNN Chương II:Thực trạng đầu tư phát triển giao thông đường bộ Việt Nam bằng nguồn vốn NSNN Chương III:Một số giải pháp nhằm tăng cường đầu tư phát triển giao thông đường bộ Việt Nam. Chương I :Những vấn đề chung về đầu tư phát triển hạ tầng giao thông đường bộ bằng nguồn vốn NSNN 1. Những vấn đề lí luận về đầu tư phát triển hạ tầng giao thông đường bộ bằng nguồn vốn ngân sách nhà nước. 1.1. Khái niệm và đặc điểm của đầu tư phát triển hạ tầng giao thông đường bộ. 1.1.1.Khái niệm. Đầu tư phát triển giao thông đường bộ(GTĐB) là 1 phần của đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng (CSHT) vì vậy trước khi tìm hiểu hiểu về khái niệm của GTVT ĐB chúng ta sẽ tìm hiểu khái niệm về CSHT. CSHT là toàn bộ những quan hệ sản xuất hợp thành cơ cầu kinh tế của một xã hội, là tổ hợp các công trình vật chất kĩ thuật có chức năng phục vụ trực tiếp dịch vụ sản xuất, đời sống của dân cư được bố trí trên một phạm vi lãnh thổ nhất định. Khi lực lượng sản xuất chưa phát triển thì quá trình sản xuất chỉ là sự kết hợp giản đơn giữa 3 yếu tố là lao động, đối tượng lao động và tư liệu lao động. Nhưng khi lực lượng sản xuất phát triển đến một trình độ nào đó thì cần phải có sự tham gia của CSHT thì mới tạo ra được sự phát triển tối ưu nhất bởi lẽ CSHT có vai trò quyết định đến kiến trúc thượng tầng hay tác động trực tiếp đến sự phát triển của nền kinh tế. CSHT chỉ thực sự phát triển sau cuộc cách mạng khoa học công nghệ vào thế kỉ thứ 19. CSHT được chia làm 3 nhóm chính: CSHT kỹ thuật, CSHT xã hội, CSHT môi trường : +CSHT kỹ thuật bao gồm các công trình và phương tiện vật chất phục vụ cho sản suất và đời sống sinh hoạt của xã hội như các con đường, hệ thống điện, bưu chính viễn thông,… +CSHT xã hội là các công trình và phương tiện để duy trì và phát triển các nguồn lực như các cơ sở giáo dục đào tạo, các cơ sở khám chữa bệnh, và các cơ sở đảm bảo đời sống và nâng cao tinh thần của nhân dân như hệ thống công viên, các công trình đảm bảo an ninh xã hội. +CSHT môi trường bao gồm các công trình phục vụ cho bảo vệ môi trường sinh thái của đất nước cũng như môi trường sống của con người như các công trình xử lý nước thải, rác thải… *Khái niệm GTĐB: GTĐB là một bộ phận của CSHT kỹ thuật bao gồm toàn bộ hệ thống cầu đường phục vụ cho nhu cầu đi lại của người dân cũng như nhu cầu giao lưu kinh tế, văn hoá, xã hội giữa những người dân trong cùng một vùng hay giữa vùng này với vùng khác hoặc giữa nước này với nước khác. 1.1.2. Đặc điểm đầu tư hạ tầng phát triển giao thông đường bộ. GTĐB là các kết quả của các dự án đầu tư phát triển nên nó mang đặc điểm của hoạt động đầu tư phát triển là : -GTĐB là các công trình xây dựng nên nó có vốn đầu tư lớn, thời gian thu hồi vốn dài và thường thông qua các hoạt động kinh tế khác để có thể thu hồi vốn.Do đó vốn đầu tư chủ yếu để phát triển GTĐB ở Việt Nam là từ nguồn vốn NSNN. -Thời kì đầu tư kéo dài: thời kì đầu tư được tính từ khi khởi công thực hiện dự án cho đến khi dự án hoàn thành và đưa vào hoạt động, nhiều công trình có thời gian kéo dài hàng chục năm. - Thời gian vận hành kết quả đầu tư kéo dài: thời gian này được tính từ khi công trình đi vào hoạt động cho đến khi hết hạn sử dụng và đào thải công trình. -Các thành quả của hoạt động đầu tư thường phát huy tác dụng ở ngay tại nơi nó được xây dựng . - Vì đầu tư phát triển GTĐB đòi hỏi cần có vốn đầu tư lớn cùng với thời kì đầu tư kéo dài nên nó thường có độ rủi ro cao trong đó có nguyên nhân chủ quan là do công tác quy hoạch ở nước ta còn nhiều hạn chế nên nhiều công trình xây dựng không phát huy được hiệu quả cần thiết. Bên cạnh những đặc điểm chung của hoạt động đầu tư phát triển thì đầu tư phát triển GTĐB cũng có những đặc điểm riêng của nó: *Đầu tư phát triển GTĐB mang tính hệ thống và đồng bộ: Tính hệ thống và đồng bộ là một đặc trưng cơ bản của hoạt động đầu tư phát triển GTĐB.Tính hệ thống và đồng bộ được thế hiện ở chỗ mọi khâu trong quá trình đầu tư phát triển GTĐB đều liên quan mật thiết với nhau và ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng của hoạt động đầu tư: bất kì sai lầm nào từ khâu kế hoạch hoá hệ thống GTĐB đến khâu lập dự án hay thẩm định các dự án đường bộ…cũng sẽ ảnh hưởng đến quá trình vận hành của toàn bộ hệ thống đường bộ và gây ra những thiệt hại lớn không chỉ về mặt kinh tế mà còn về mặt xã hội.Tính hệ thống và đồng bộ không những chi phối đến các thiết kế,quy hoạch mà còn được thế hiện ở cả cách thức tổ chức quản lý theo ngành và theo vùng lãnh thổ.Chính đặc điểm này đã đòi hỏi khi lập kế hoạch, quy hoạch, chiến lược phát triển GTĐB không được xem xét tới lợi ích riêng lẻ của từng dự án mà phải xét trong mối quan hệ tổng thể của toàn bộ hệ thống để đảm bảo được tính đồng bộ và hệ thống của toàn bộ mạng lước GTĐB tránh tình trạng có một vài dự án ảnh hưởng đến chất lượng của toàn bộ hệ thống. *Đầu tư phát triển GTĐB mang tính định hướng: Đây là đặc điểm xuất phát từ chức năng và vai trò của hệ thống GTĐB.Chức năng chủ yếu của GTĐB là thoả mãn nhu cầu đi lại và vận chuyển hàng hoá của người dân cũng như của các doanh nghiệp, GTVT đường bộ được coi là huyết mạch của nền kinh tế đảm bảo giao thương giữa các vùng miền và mở đường cho các hoạt động kinh doanh phát triển hơn nữa hoạt động đầu tư phát triển GTĐB cũng cần phải có một lượng vốn lớn cũng như cần thực hiện trong khoảng thời gian dài do đó để đảm bảo đầu tư được hiệu quả và loại trừ được các rủi ro thì cần phải có những định hướng lâu dài.GTĐB cần mang tính định hướng vì nó là ngành đi tiên phong thúc đẩy các ngành kinh tế khác phát triển. *Đầu tư phát triển GTĐB mang tính chất vùng và địa phương: Việc xây dựng và phát triển GTĐB phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố như đặc điểm địa hình, phong tục tập quán của từng vùng từng địa phương, trình độ phát triển kinh tế của mỗi nơi và quan trọng nhất là chính sách phát triển của nhà nước…Do đó đầu tư phát triển GTĐB mang tính vùng và địa phương nhằm đảm bảo cho mỗi vũng và địa phương phát huy được thế mạnh của mình và đóng góp lớn vào sự phát triển chung của cả nước.Vì vậy trong kế hoạch đầu tư phát triển GTĐB không chỉ chủ yếu đến mục tiêu phát triển chung của cả nước mà phải chú ý cả đến điều kiện, đặc điểm tự nhiên cũng như kinh tế xã hội của mỗi vùng lãnh thổ. *Đầu tư phát triển GTĐB mang tính xã hội hoá cao và có nhiều đặc điểm giống với hàng hoá công cộng: Các công trình GTĐB là những hàng hoá công cộng vì mục đích sử dụng của nó là để phục vụ cả chức năng sản xuất và đời sống; là tổng hoà mục đích của nhiều ngành, nhiều người, nhiều địa phương và của toàn xã hội. Điều này cho thấy đầu tư phát triển GTĐB cần phải giải quyết cả mục tiêu phát triển kinh tế và cả mục tiêu cộng đồng mang tính chất phúc lợi xã hội. Điều này là rất quan trọng đặc biệt là đối với các nước đang phát triển như Việt Nam trong điều kiện NSNN của hạn hẹn cùng với đó là thu nhập của người dân vẫn còn thấp nên không thế đáp ứng hết nhu cầu đầu tư phát triển GTĐB. 1.2.Vai trò của đầu tư phát triển giao thông đường bộ. Việt Nam là quốc gia nằm ở cực đông nam của bán đảo Đông Dương có diện tích khoảng 330.991 km2 nằm trải dài từ bắc tới nam với chiều dài khoảng 1650 km do đó hệ thống đường bộ có một vị trí rất quan trọng.Giao thông vận tải bằng đường bộ là loại hình vận tải có chi phí thấp, thuận lợi đặc biệt trong nền kinh tế thị trường, nhu cầu lưu thông hàng hoá và đi lại của con người là rất lớn.Xây dựng hạ tầng GTĐB tạo tiền đề cho nền kinh tế phát triển, giao lưu văn hoá, hội nhập quốc tế và bảo vệ an ninh quốc gia. 1.2.1. Đẩy mạnh phát triển kinh tế. Những đóng góp tích cực của hệ thống giao thông đường bộ vào sự phát triển kinh tế là rất rõ ràng và được thế hiện ở các vai trò sau: -GTĐB góp phần thu hút đầu tư trong nước cũng như đầu tư nước ngoài, rút ngắn được khoảng cách địa lý giữa các tỉnh thành trong cả nước do đó làm chuyển dịch cơ cấu kinh tế vùng, rút ngắn trình độ phát triển kinh tế giữa các địa phương, tạo điều kiện phát huy lợi thế so sánh của từng địa phương và thúc đẩy các địa phương phát triển kinh tế.Hệ thống GTĐB phát triển sẽ tạo điều kiện cho các hoạt động giao lưu kinh tế, văn hoá, xã hội giữa các vùng và địa phương với nhau, giữa quốc gia này với quốc gia khác từ đó sẽ tìm ra được những cơ hội đầu tư tốt và tiến hành đầu tư, các hoạt động xúc tiến thương mại phát triển cùng với đó là thu hút các nguồn vốn trong nước và ngoài nước cho mục tiêu phát triển kinh tế. -GTĐB góp phần không nhỏ trong việc thúc đẩy tăng trưởng kinh tế thông qua kích thích tạo việc làm và tăng năng suất lao động.Sự phát triển của hạ tầng giao thông đường bộ đã góp phần đáng kể vào tốc độ tăng trưởng GDP của Việt Nam trong thời gian qua.Các công trình GTĐB sẽ thu hút một lượng lớn lao động do đó góp phần giải quyết vấn đề thất nghiệp cho quốc gia, mặt khác khi vốn đầu tư cho hệ thống GTĐB lớn sẽ kích thích thu hút vốn đầu tư cho các ngành trực tiếp sản xuất sản phẩm phục vụ cho sự phát triển của các công trình giao thông như sắt, thép, xi măng, gạch … -Hạ tầng GTĐB phát triển sẽ đóng góp tích cực vào việc tiết kiệm chi phí và thời gian vận chuyển, từ đó tạo điều kiện giảm giá thành sản phẩm, kích thích tiêu dùng và phát triển của các ngành khác.Trong các loại hình vận tải ở Việt Nam thì vận tải bằng đường bộ chiếm tỷ trọng lớn nhất do đó nếu hạ tầng GTĐB tốt sẽ tiết kiệm được rất nhiều chi phí, và có thể lấy số chi phí tiết kiệm được để thực hiện phát triển các ngành khác. 1.2.2.Phát triển văn hoá-xã hội. Phát triển văn hoá xã hội là phát triển đời sống tinh thần của người dân, điều nay góp phần không nhỏ vào sự phát triển chung của quốc gia.Dân số Việt Nam tính đến năm 2008 là khoảng hơn 100 triệu người đến từ các dân tộc khác nhau và sống trong các vùng không đồng đều về lịch sự, địa lý… do đó đời sống tinh thần cũng khác nhau đặc biệt là giữa thành thị và nông thôn và các vùng xa xôi hẻo lánh.Nhờ có hạ tầng GTĐB phát triển mà khoảng cách đó ngày càng được xoá bỏ, sự giao lưu văn hoá giữa các vùng ngày càng đuợc tăng cường và làm phong phú thêm đời sống của người dân Việt từ đó kích thích người dân hăng say lao động đóng góp vào sự phát triển của đất nước. Hệ thống đường bộ phát triển sẽ nảy sinh các ngành nghề mới, các cơ sở sản xuất mới phát triển từ đó tạo cơ hội việc làm và sự phát triển không đồng đều giữa các vùng cũng được giảm, hạn chế sự di cư bất hợp pháp từ nông thôn ra thành thị, hạn chế được sự phân hoá giàu nghèo và từ đó giảm được các tệ nạn xã hội góp phần tích cực vào bảo vệ môi trường sinh thái. 1.2.3. Nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Mục tiêu quan trọng của bất kì một doanh nghiệp nào khi hoạt động cũng đều là lợi nhuận.Có nhiều cách để doanh nghiệp áp dụng để có được lợi nhuận tối đa và một trong những cách đó là giảm chi phí một cách tối thiểu.Hạ tầng GTĐB sẽ đóng góp đáng kể vào việc giảm chi phí của doanh nghiệp đặc biệt là các doanh nghiệp có chi phí vận tải chiếm một tỷ trọng lớn.Khi hạ tầng GTĐB phát triển thì các doanh nghiệp sẽ tiết kiệm được chi phí nhiên liệu, chi phí vận chuyển hàng hoá tới nơi tiêu thụ, chi phí nhập nguyên liệu; ngoài ra doanh nghiệp cũng có thể tiết kiệm được một số chi phí khác như chi phí quản lý và bảo quản hàng hoá, chi phí lưu trữ hàng tồn kho…Nhờ đó mà doanh nghiệp có thể hạ giá thành sản phẩm và nâng cao cạnh tranh của doanh nghiệp trên thị trường.Hệ thống GTĐB phát triển cũng sẽ giúp các doanh nghiệp giao hàng đúng nơi và đúng thời gian từ đó tạo được uy tín cho doanh nghiệp, trong kinh doanh thì điều này là rất quan trọng.Mặt khác khi giao thông đường bộ phát triển thì sản phẩm dễ dãng đến tay người tiêu dùng do đó hàng hóa sẽ được tiêu thụ nhanh hơn, điều này sẽ rút ngắn thời gian quay vòng vốn và làm tăng hiệu quả sử dụng vốn cũng như tăng hiệu quả sản xuất của các doanh nghiệp. 1.2.4.Bảo đảm an ninh quốc phòng. Hệ thống GTĐB đóng góp tích cực vào việc giữ gìn trật tự an ninh xã hội, và bảo vệ quốc phòng.Với hạ tầng GTĐB hiện đại sẽ giảm thiểu đuợc tình trạng ùn tắc đường đang xảy ra trong thời gian qua đặc biệt là ở các thành phố lớn, giảm tai nạn giao thông, giữ gìn trật tự xã hội. Đây là một trong những vấn đề mà đảng và chính phủ đang rất quan tâm. Hơn nữa, hệ thống GTĐB phát triển sẽ góp phần bảo vệ biên giới của đất nước.GTĐB phát triển góp phần nâng cao trình độ hiểu biết và ý thức của người dân đặc biệt là các dân tộc ở vùng xâu vùng xa từ đó đảm bảo sự ổn định về chính trị quốc gia. 1.2.5. Đẩy mạnh hội nhập và giao lưu quốc tế. Hội nhập và giao lưu kinh tế về mọi mặt đang là xu hướng diễn ra mạnh mẽ giữa các nước trong khu vực và trên toàn thế giới và Việt Nam cũng không nằm ngoài xu hướng đó.Hiện nay thì hạ tầng GTĐB của nước ta còn ở mức yếu so với các nước trong khu vực nên ảnh hưởng lớn khả năng hội nhập và giao lưu với các nước.Chính vì vậy mà Việt Nam đang xúc tiến để xây dựng các hệ thống đuờng xuyên quốc gia góp phần mở rộng giao lưu kinh tế và văn hóa giữa các nước. 1.3. Nguồn vốn NSNN đầu tư phát triển giao thông đường bộ. 1.3.1.Khái niệm về vốn ngân sách nhà nước. *Khái niệm về vốn: Vốn là một nhân tố đầu vào quan trọng của quá trình sản xuất xã hội, là toàn bộ tài sản mà nền kinh tế có được trong quá trình xây dựng và phát triển.Nó đảm bảo cho sự tăng trưởng và phát triển của mọi hình thái kinh tế-xã hội.Về bản chất vốn đầu tư là phần tiết kiệm hay tích luỹ mà nền kinh tế có thể huy động được để đưa vào quá trình tái sản xuất xã hội và vốn đầu tư được thể hiện dưới hai hình thái là hiện vật và giá trị.Vốn hiện vật không chỉ tồn tại dưới dạng các tài sản hữu hình như các loại máy móc, nhà xưởng, thiết bị… mà nó còn tồn tại dưới dạng các tài sản vô hình như bằng phát minh sáng chế, nhãn hiệu hàng hoá, lợi thế thương mại hay thương hiêụ, trình độ của nguồn nhân lực.Trong giai đoạn phát triển hiện nay, vốn nhân lực đóng một vai trò quyết định có thể thay thế một phần các loại vốn khác. Ở mỗi quốc gia, nguồn vốn đầu tư trước hết và chủ yếu là từ tích luỹ của nền kinh tế, là phần tiết kiệm sau khi tiêu dùng của cá nhân và của chính phủ và đây được coi là nguồn vốn quan trọng nhất cho sự phát triển của một quốc gia, là nguồn vốn đảm bảo cho sự tăng trưởng và sự phát triển bền vững của đất nước trong lĩnh vực kinh tế cũng như trong các lĩnh vực khác.Ngoài nguồn vốn tích luỹ từ trong nước,các quốc gia còn có thể huy động vốn đầu tư từ nước ngoài để phục vụ phát triển kinh tế-xã hội của đất nước. -Nguồn vốn trong nước bao gồm nguồn bốn từ NSNN,nguồn vốn tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước, và nguồn vốn của dân cư và tư nhân… -Nguồn vốn từ nước ngoài bao gồm các nguồn vốn như vốn đầu tư trực tiếp(FDI), vốn đầu tư gián tiếp(ODA)… Trong các nguồn vốn trong nước và nguồn vốn nước ngoài thì nguồn vốn nước ngoài đóng vai trò là cú hích cho sự phát triển của một quốc gia đang phát triển như Việt Nam. *Khái niệm vốn NSNN: NSNN là toàn bộ các khoản thu, chi của nhà nước đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định và được thực hiện trong một năm để đảm bảo thực hiện các chức năng và nhiệm vụ của nhà nước. Theo điều 7 của luật ngân sách nhà nước: Quỹ ngân sách nhà nước là toàn bộ các khoản tiền của nhà nước, kể cả tiền vay có trên tài khoản của ngân sách nhà nước các cấp.Do khả năng huy động vốn ngân sách có hạn, trong khi nhu cầu vốn đầu tư hàng năm lại rất lớn nên vốn đầu tư NSNN ở nước ta trong những năm qua được cân đối từ nguồn tích luỹ của ngân sách và các khoản vay trong nước và nước ngoài. Vốn NSNN bao gồm vốn trong nước( vốn tích luỹ của NSNN, nguồn vốn tín dụng của nhà nước) và vốn nước ngoài(vay nợ, viện trợ).Số tiền này sẽ được thanh toán trực tiếp cho việc thực hiện các dự án, các chương trình mục tiêu quốc gia theo kế hoạch chi đầu tư phát triển được duyệt hàng năm. -Vốn trong nước bao gồm: +Vốn tích luỹ của NSNN: đây là phần chênh lệch giữa các khoản thu( không kể vay nợ) với chi tiêu dùng thường xuyên của NSNN. Đối với vốn tích luỹ NSNN cần áp dụng các chính sách huy động và tiết kiệm triệt để và có hiệu quả như vừa tăng thu NSNN, vừa tiết kiệm các khoản chi tiêu dùng của NSNN. +Nguồn vốn tín dụng của nhà nước: được huy động thông qua phát hành trái phiếu chính phủ và các hình thức vay nợ qua kho bạc nhà nước. -Vốn nước ngoài là các nguồn vốn đầu tư gián tiếp từ nước ngoài, thông qua vay nợ và viện trợ của nước ngoài và các tổ chức quốc tế. Đây là nguồn vốn quan trọng để bù đắp thiếu hụt ngân sách và được ưu tiên để phát triển kinh tế xã hội.Hiện nay việc đưa ODA vào ngân sách để quản lý đạt 15% đến 20%. 1.3.2. Đặc điểm vốn ngân sách trong phát triển giao thông đường bộ. Hạ tầng GTĐB là một bộ phận quan trọng của kết cấu hạ tầng giao thông vận tải nói riêng và của kết cấu cơ sở hạ tầng kinh tế-xã hội nói chung và sự phát triển của hạ tầng GTĐB góp phần nâng cao năng lực của nền kinh tế, là tiền đề thúc đẩy các ngành khác phát triển do đó vốn đầu tư phát triển hạ tầng GTĐB cũng có những đặc điểm riêng so với vốn đầu tư phát triển các ngành khác: -Vốn đầu tư phát triển hạ tầng GTĐB phải đảm bảo về mặt vật chất sao cho tạo điều kiện thuận lợi cho các ngành kinh tế khác đặc biệt là các ngành kinh tế mũi nhọn, đẩy nhanh quá trình tái sản xuất, tiết kiệm chi phí cho xã hội và tài nguyên của đất nước. -Vốn đầu tư để thực hiện phát triển GTĐB được cân đối trong phạm vi ngân sách do đó cần phải chú ý đến đặc điểm nào nhằm tăng cường hạ tầng GTĐB đạt hiệu quả tối đa mà không ảnh hưởng đến nguồn vốn từ NSNN để phát triển các ngành khác. -Hạ tầng giao thông đường bộ có vị trí cố định, phân bổ khắp các vùng miền của đất nước và có giá trị rất lớn.Vì vậy vốn đầu tư phát triển GTĐB từ NSNN không chỉ chú trọng tới nhu cầu đi lại hiện tại mà còn phục vụ nhu cầu đi lại và lưu thông hàng hoá ngày càng tăng trong tương lai cho nên cần phải có kế hoạch sử dụng vốn một cách hiệu quả:cần xem xét các ngành mũi nhọn, tính toán lựa chọn các tuyến đường… -Vốn đầu tư cho xây dựng các công trình hạ tầng GTĐB thường phát sinh trong thời gian dài,nhiều công trình phải đầu tư trong 10 năm mới có thể đi vào sử dung, sử dụng nhiều loại công việc có tính chất, đặc điểm khác nhau.Chính vì vậy cần phải có các biện pháp quản lý và sử dụng vốn thích hợp để tránh thất thoát lãng phí nguồn vốn NSNN. -Hiệu quả sử dụng vốn NSNN để đầu tư phát triển hạ tầng GTĐB gồm cả hiệu quả kinh tế và hiệu quả xã hội trong đó hiệu quả xã hội còn được đánh giá cao hơn ở nhiều công trình như các công trình xây dựng giao thông nông thôn… Hiệu quả sử dụng vốn là rất khó đo lường trực tiếp và thường được đo lường thông qua hiệu quả của các ngành kinh tế khác. 1.3.3.Vai trò của vốn ngân sách trong phát triển giao thông đường bộ Trong bất cứ một ngành nghề hay một lĩnh vực nào thì vốn NSNN cũng đều đóng một vai trò rất quan trọng đặc biệt là trong lĩnh vực đầu tư phát triển hạ tầng GTĐB là lĩnh vực đòi hỏi một lượng vốn rất lớn do đó đây là lĩnh vực mà tư nhân rất hạn chế tham gia đầu tư.Vì vậy nguồn vốn nhà nước càng có một vi trí đặc biệt trong lĩnh vực đầu tư phát triển hạ tầng GTĐB: Trước hết, vốn NSNN đóng vai trò nền tảng, quyết định đến sự hình thành hệ thống hạ tầng GTĐB. Đây là nhiệm vụ nền tảng của bất cứ quốc gia nào xuất phát từ nhiệm vụ và vai trò của nhà nước trong việc cung cấp hàng hoá công cộng.Hơn nước chỉ có nhà nước mới có đầy đủ về mặt pháp lý và vốn để có thể đảm đương vai trò chính trong lĩnh vực này. Thứ hai, vốn đầu tư từ NSNN đóng vai trò chủ đạo để thu hút các nguồn vốn khác thực hiện đầu tư phát triển hạ tầng GTĐB bao gồm cả vốn đầu tư trong nước và ngoài nước.Chỉ khi có nguồn vốn nhà nước tham gia vào trong các dự án mới tạo được niềm tin tối đa cho các nhà đầu tư để từ đó họ bỏ vốn ra để đầu tư đặc biệt với nguồn vốn nước ngoài,có thể rõ vai trò quan trọng của vốn NSNN trong việc thu hút vốn ODA khi mà vốn NSNN là một nguồn vốn đối ứng quan trọng trong công tác chuẩn bị đầu tư, đền bù giải phóng mặt bằng… Thứ ba, NSNN đóng vai trò điều phối trong việc hình thành hệ thống hạ tầng giao thông đường bộ một cách hợp lý và đạt hiệu quả cao nhất.NSNN sẽ tập trung đầu tư vào các dự án trọng điểm tạo điều kiện giao lưu giữa các vùng và thúc đẩy kinh tế- xã hội phát triển. Thứ tư, vốn NSNN khi đầu tư vào phát triển hạ tầng GTĐB sẽ là công cụ kích cầu rất hiệu quả,bằng chứng là các công trình GTĐB ảnh hưởng trực tiếp đến các ngành sản xuất khác như sắt, thép…từ đó tăng đóng góp vào GDP và tạo thêm việc làm cho xã hội, nâng cao thu nhập cho một bộ phận người lao động. Như vậy, vốn đầu tư từ NSNN vào phát triển hạ tầng giao thông đường bộ đóng vai trò cực kì quan trọng trong sự phát triển của bất cứ quốc gia nào. 1.4. Các nhân tố ảnh hưởng tới sử dụng hiệu quả vốn NSNN trong phát triển hạ tầng GTĐB. 1.4.1.Các nhân tố về kinh tế. Đây là nhân tố ảnh hưởng trực tiếp đến vốn NSNN được sử dụng cho đầu tư phát triển hạ tầng GTĐB, nó ảnh hưởng cả đến công tác huy động và sử dụng vốn: -Nền kinh tế phát triển mạnh sẽ làm cho GDP ngày càng lớn,các doanh nghiệp làm ăn ngày càng đạt lợi nhuận cao ảnh hưởng trực tiếp đến mức tích luỹ của NSNN cho đầu tư.Nếu như nền kinh tế càng lớn mạnh thì các khoản thu cho NSNN ngày càng lớn và đây là điều kiện để nhà nước có thể đem đi đầu tư lại vào phát triển GTĐB để nâng cao sự phát triển của nền kinh tế. -Kinh tế càng phát triển cao thì càng có nhiều thành phần kinh tế có thể tham gia vào đầu tư phát triển hạ tầng GTĐB. -Nền kinh tế phát triển sẽ kéo theo thị trường vốn cũng phát triển, tạo điều kiện để lưu chuyển vốn nhanh. Đây là cơ sở để huy động các nguồn vốn cho đầu tư GTĐB nói riêng và cho tất cả các ngành kinh tế nói chung. -Nền kinh tế phát triển càng cao thì yêu cầu về hiệu quả kinh tế càng cao do đó sẽ thúc đẩy quá trình sử dụng vốn NSNN một cách tiết kiệm, và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn NSNN. 1.4.2. Đặc điểm tự nhiên của cả nước và từng vùng. Hạ tầng giao thông đường bộ được bố trí xây dựng và phát triển rộng khắp ở tất cả các vùng và địa phương trong cả nước do đó hệ thống hạ tầng GTĐB chịu ảnh hưởng trực tiếp từ các điều kiện địa lý, khí hậu, thời tiết, địa hình… của mỗi vùng và địa phương khác nhau.Vì vậy mỗi công trình hạ tầng GTĐB tại mỗi địa phương lại có các đặc điểm khác nhau sao cho phù hợp với hoàn cảnh và điều kiện của mỗi nơi. 1. 4.3.Các nhân tố về chính trị,pháp luật. Đây cũng là một trong những nhân tố quan trọng ảnh hưởng đến sự phát triển hạ tầng GTĐB. -Sự ổn định về chính trị và pháp luật sẽ tạo điều kiện cho nền kinh tế phát triển để từ đó làm tăng thu NSNN, đây được coi là nguồn thu quan trọng để nhà nước có thể yên tâm bỏ vốn đầu tư vào hệ thống hạ tầng GTĐB. Đối với các nhà đầu tư nước ngoài thì yếu tố này lại càng quan trọng, các nhà đầu tư nước ngoài sẽ chỉ bỏ vốn ra hỗ trợ nếu như họ cảm thấy họ có thể thu lại được hiệu quả từ các nguồn vốn đó. -Một cơ chế huy động và sử dụng vốn ngân sách hoàn chỉnh cũng như hoàn thiện cơ chế đầu thầu, quản lý hiệu quả sử dụng vốn cũng sẽ tạo điều kiện tốt cho sự phát triển của hạ tầng GTĐB.Hơn nữa việc quản lý tốt sẽ tạo tiền đề cho nhà nước đầu tư vào các dự án trọng điểm thích hợp với mỗi thời kì phát triển của đất nước cũng như các địa phương cũng có thể tự chủ khai thác nguồn vốn NSNN cho sự phát triển hạ tầng GTĐB của địa phương mình. 1.4.4.Các chính sách của nhà nước và trình độ quản lý. Các chính sách quản lý được thể hiện ở cả ở tầm vĩ mô và vi mô đều có ảnh hưởng đến công tác huy động và sử dụng vốn cho đầu tư phát triển hạ tầng GTĐB: -Ở tầm vĩ mô thì đó là sự phối hợp chặt chẽ và đồng bộ giữa các cơ quan trung ương từ khâu thu NSNN, kế hoạch phân bổ vốn đến khâu quản lý và sử dụng vốn nhằm giảm thiểu được tình trạng thất thoát lãng phí. -Ở tầm vi mô thì đó là trình độ quản lý của các ban quản lý của mỗi dự án nhằm đạt được hiệu quả sử dụng vốn cao nhất. Nội dung của quy chế, quy trình quản lý đầu tư gồm có: -Những chỉ tiêu kinh tế-kĩ thuật của dự án đầu tư sao cho hạ thấp được chi phí đầu tư nhưng không ảnh hưởng đến chất lượng của dự án đâu tư. -Thực hiện thẩm định dự án đầu tư, và lựa chọn các phương án khả thi để phê duyệt. -Xây dựng cơ chế đấu thầu, chọn thầu…nhằm tránh thất thoát nguồn vốn. -Quản lý các nguồn vốn đầu tư,xây dựng quy trình và quản lý cấp phát, thanh toán, quyết toán vốn đầu tư. -Quy định về các thủ tục hành chính trong quản lý đầu tư như giấy cấp đất, hợp đồng xây dựng… -Quản lýquá trình đầu tư xây dựng cơ bản dự án đảm bảo chất lượng công trình. -Thẩm định quyết toán vốn đầu tư dự án hoàn thành, xác định giá trị tài sản hình thành qua đầu tư. 1.4.5.Thực trạng xuống cấp của giao thông vận tải đường bộ. Đây là nhân tố ảnh hưởng cơ bản nhất yêu cầu đòi hỏi phải đầu tư phát triển hạ tầng GTĐB.Hệ thống hạ tầng GTĐB của nước ta đã được hình thành và trải qua một thời gian dài cùng với đó là khoảng thời gian hứng chịu hậu quả của các cuộc chiến tranh làm cho hệ thống hạ tầng GTĐB của nước ta bị ảnh hưởng nghiêm trọng: nhiều tuyến đường đã bị hư hỏng nặng, nhiều tuyến đường xảy ra hiện tượng sụt lở và xảy ra hiện tượng ngập úng, đường có quá nhiều ổ gà ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả sử dụng của các con đường cũng như gây ảnh hưởng trực tiếp đến tính mạng của người đi đường.Một thực trạng nữa là hiện tượng tắc đường ở nước ta trong thời gian qua đang xảy ra rất nghiêm trọng đặc biệt là ở các thành phố lớn như Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh…gây ra sự thất thoát lãng phí rất lớn các nguồn lực.Một vấn để nữa là nền kinh tế của Việt Nam đang ngày càng phát triển, đời sống người dân ngày càng được nâng cao nên những phương tiện vận tải cao cấp như ô tô xuất hiện ngày càng nhiều vì vậy hệ thống hạ tầng GTĐB cũ không thể đáp ứng được nhu cầu của người dân đòi hỏi nhà nước cần có các biện pháp đầu tư phát triển hạ tầng GTĐB để đáp ứng được nhu cầu đó. 1.4.6.Các nhân tố khác. Đây là các nhân tố gián tiếp ảnh hưởng đến đầu tư phát triển hạ tầng GTĐB bằng nguồn vốn NSNN: Trình độ phát triển của khoa học công nghệ của đất nước:trình độ khoa học công nghệ càng phát triển thì quá trình xây dựng hạ tầng GTĐB càng tiết kiệm về mặt thời gian và chi phí, đây là một nguồn vốn tiết kiệm quan trọng để đầu tư phát triển các ngành khác phát triển. Nhân tố con người cũng là một nhân tố không thể bỏ qua:nhân tố này góp phần quan trọng vào hiệu quả của hoạt động đầu tư phát triển.Chính vì vậy cần phải đào tạo đội ngũ nhân lực chuyên nghiệp, có chất lượng tri thức, có khả năng ứng dụng các công nghệ mới và có đạo đức nghề nghiệp… 2.Nội dung đầu tư phát triển hạ tầng giao thông đường bộ bằng nguồn vốn NSNN. 2.1.Đầu tư vào hạ tầng GTĐB theo chu kì của dự án. Chu kì của một dự án đầu tư là các bước hoặc các giai đoạn mà một dự án phải trải qua bắt đầu từ khi dự án mới chỉ là ý đồ đến khi dự án được hoàn thành chấm dứt hoạt động. Chu kì dự án dự án đầu tư có thể được minh họa bằng sơ đồ: Ý đồ về dự án đầu tư Chuẩn bị đầu tư Thực hiện đầu tư Vận hành các kết quả đầu tư Ý đồ về dự án đầu tư Hình 1.1: Sơ đồ chu kì dự án đầu tư. ._.Cũng như các dự án đầu tư phát triển thông thường thì chu kì của dự án đầu tư phát triển hạ tầng GTĐB cũng trải qua các giai đoạn như trong sơ đồ chu kì dự án: -Ý đồ về dự án đầu tư: Đây là bước rất quan trọng vì là sự khởi đầu cho bất cứ một dự án đầu tư nào đặc biệt là đối với các dự án có mục tiêu xã hội cao như các dự án hạ tầng GTĐB,xác định ý đồ cho dự án phải được dựa trên các cơ chế chính sách phát triển hệ thống hạ tầng giao thông vận tải của cả nước nói chung và của hệ thống hạ tầng GTĐB nói riêng cũng như nhu cầu cấp thiết của dự án. -Chuẩn bị đầu tư: +Soạn thảo dự án: trên cơ sở có ý đồ đầu tư thì nhà đầu tư sẽ tiến hành lập dự án cũng như tiến hành nghiên cứu khả thi và nghiên cứu tiền khả thi.Sau giai đoạn này sẽ có một dự án hoàn chỉnh để trình lên cơ quan có thẩm quyền xin cấp vốn NSNN. +Thẩm định dự án: Sau khi dự án đã được lập hoàn chỉnh, để dự án có thể được cấp vốn đầu tư thì cần phải tiến hành thẩm định tính khả thi của dự án vì NSNN là có hạn không thể đầu tư dàn trải được.Mục tiêu quan trọng nhất của giai đoạn này là phải tiến hành thẩm định khía cạnh tài chính kết hợp với thẩm định khía cạnh xã hội của dự án, không thể xem nhẹ khía cạnh xã hội như đối với các dự án tư nhân. -Thực hiện đầu tư: Các dự án sau khi được tiến hành thẩm định nếu có tính khả thi sẽ được cấp vốn đầu tư và tiến hành thực hiện đầu tư.Trong quá trình thi công công trình cần phải thường xuyên giám sát, kiểm tra quá trình thực hiện xây dựng công trình và phải bảo cáo tiến độ thường xuyên cho các cơ quan quản lý có thẩm quyền nhằm đảm bảo cho công trình hoàn thành đúng theo kế hoạch phát triển chung của cả nước cũng như đảm bảo cho công trình được hoàn thành với chất lượng tốt nhất có thể nhưng với chi phí thấp nhất.Kết thúc giai đoạn này thì công trình đã được hoàn thành và có thể bắt đầu được đưa vào sử dụng.Sản phẩm ở đây là các con đường mới, cây cầu mới… -Vận hành kết quả đầu tư: Đây là giai đoạn cuối cùng của bất kì dự án đầu tư nào,sau khi công trình đã được hoàn thành sẽ được bàn giao cho các cơ quan có trách nhiệm khai thác công trình.Trong giai đoạn này ở một số công trình có thể tiến hành thu phí sử dụng công trình đối với các phương tiện sử dụng nhằm bù đắp một phần chi phí cho nhà nước. -Ý đồ về dự án mới:Nền kinh tế phát triển không ngừng và hạ tầng GTĐB cũng phải phát triển cùng với nền kinh tế để có thể hỗ trợ tối đa cho nhau trong mục tiêu phát triển chung của quốc gia do đó sau mỗi một công trình hoàn thành thì lại xuất hiện các kế hoạch chiến lược phát triển nhằm hỗ trợ tốt nhất cho sự phát triển chung. 2.2. Đầu tư vào hạ tầng GTĐB theo lĩnh vực đầu tư. *Đầu tư và xây dựng mới đường bộ: Đây là nội dung chủ yếu của đầu tư phát triển hạ tầng GTĐB và nó chiếm một tỷ trọng vốn lớn trong tổng số vốn nhà nước đầu tư cho phát triển hạ tầng GTĐB,thông thường nó chiếm trên 80% tổng số vốn hàng năm. Đầu tư mới và xây dựng mới nhằm nâng cao tài sản cố định của nền kinh tế quốc dân cũng như nhằm nâng cao khả năng đáp ứng nhu cầu của nền kinh tế và nhu cầu đi lại của người dân. Đầu tư xây dựng mới hạ tầng GTĐB là chiến lược phát triển trong nhiều năm để có thể là tiền đề và động lực cho việc phát triển các ngành khác, phát triển mỗi vùng và địa phương, nâng cao đời sống của các địa phương. *Đầu tư nâng cấp và duy tu bảo dưỡng đường bộ: Đây là công việc xuất phát từ thực trạng GTĐB của nước ta.Sau nhiêu năm sử dụng, các công trình GTĐB đã bị hư hỏng nhiều nhưng vẫn còn có thể sử dụng để đáp ứng nhu cầu trước mặt cùng với đó là do dự thiếu vốn đầu tư của nhà nước nên không thể xây dựng mới trong một thời gian ngắn do đó hàng năm nhà nước cần phải chi một lượng vốn nhất định để có thể duy trì hoạt động của hệ thống hạ tầng GTĐB.Đây là một giải pháp tốt đối với một nước đang phát triển như Việt Nam để có thể nâng cao hiệu quả hoạt động của hệ thống GTĐB nhưng vẫn tiết kiệm được các nguồn lực, điều này là rất quan trọng trong tình trạng thiếu vốn nhưng vẫn còn có quá nhiều mục tiều đầu tư cấp bách khác. 2.3. Đầu tư vào hạ tầng GTĐB theo khu vực đầu tư. *Đầu tư vào giao thông nông thôn: Đây là chủ trương đúng đắn của đảng và nhà nước ta nhằm xây dựng một xã hội công bằng, văn minh, thực hiện công nghiệp hoá-hiện đại hoá đất nước.Giao thông đi lại chủ yếu của nông thôn là giao thông đường bộ bao gồm các con đường bên trong các xã nối liền với các đường quốc lộ; các con đường liên huyện,liên xã, liên thôn. Đầu tư phát triển hạ tầng GTĐB nông thôn nhằm xây dựng một hệ thống hạ tầng đường bộ liên hoàn nhằm phát triển nông nghiệp theo hướng công nghiệp hoá và nâng cao dân trí của khu vực nông thôn.Trên cơ sở nhà nước cùng nhân dân cùng làm thì đây là chủ trương thích hợp của đảng trong điều kiện nước ta vẫn là một nước nông nghiệp và chủ yếu người dân sống bằng nghề nông. *Đầu tư vào giao thông đường bộ đô thị: Song song với đầu tư vào phát triển vào khu vực nông thôn nhằm mục đích xã hội là chủ yếu thì đầu tư vào hệ thống hạ tầng giao thông đô thị lại nhằm phát triển kinh tế văn hoá ở khu vực đô thị đặc biệt là ở các thành phố lớn vì đây là những đầu tàu trong nền kinh tế, hàng năm ở các khu vực đô thị đóng góp vào GDP của cả nước cao hơn nhiều so với khu vực nông thôn.Hơn nữa khu vực đô thị cũng là bộ mặt của đất nước nhằm thu hút các nguồn vốn cả trong nước lẫn ngoài nước.Thực trạng hạ tầng giao thông đô thị của nước ta trong thời gian chưa đáp ứng được nhu cầu phát triển là do một số nguyên nhân như tỉ lệ đất để xây dựng hạ tầng giao thông đô thị là thấp, dân cư ở các đô thị tăng quá nhanh do sự di dân từ các vùng khác, sự phát triển quá nhanh của các phương tiện giao thông do đời sông của ngừơi dân ngày càng cao…Do vậy đầu tư vào hạ tầng giao thông đô thị cần phải được nhà nước đầu tư hơn nữa. 2.4. Đầu tư vào hạ tầng GTĐB theo vùng lãnh thổ. Địa lý nước ta trải dài từ bắc tới nam, mỗi một vùng lãnh thổ lại có những điều kiện về địa hình, tự nhiên, khí hậu….khác nhau do đó mục tiêu phát triển cũng là khác nhau.Do đó hàng năm nhà nước cũng sẽ có sự ưu tiên khác nhau với mỗi vùng lãnh thổ nhưng vẫn đảm bảo sự công bằng xã hội và đảm bảo mục tiêu phát triển chung của xã hội.Ví dụ như các vùng gần biên giới hay gần biển sẽ được ưu tiên đầu tư trước để có thể tận dụng tối đa lợi thế về mặt địa lý trong phát triển kinh tế.Nước ta được chia thành các vùng sau: -Vùng trung du và miền núi phía bắc -Vùng đồng bằng sông Hồng -Vùng bắc Trung Bộ -Vùng Duyên hải miền Trung -Vùng Tây Nguyên -Vùng Đông Nam Bộ -Vùng đồng bằng sông Cửu Long 3.Hệ thống chỉ tiêu hiệu quả đầu tư phát triển GTĐB bằng nguồn vốn NSNN. Bất cứ một hoạt động đầu tư phát triển nào cũng đều phải đặt kết quả và hiệu quả của hoạt động đầu tư lên trên hết và điều đó cũng đúng với đầu tư phát triển hạ tầng giao thông đường bộ từ nguồn vốn ngân sách nhà nước, với nguồn vốn eo hẹp của mình thì kết quả và hiệu quả càng được nhà nước đặt lên hàng đầu. 3.1.Kết quả đầu tư. Trước hết được đầu tư phát triển hạ tầng GTĐB từ nguồn vốn NSNN được thể hiện ở các kết quả thực hiện của nó bao gồm: -Thể hiện ở khối lượng vốn đầu tư thực hiện: đây là tổng số tiền đã chi ra để tiến hành các hoạt động đầu tư bao gồm các chi phí cho công tác đền bù, giải phóng mặt bằng, công tác xây dựng, chi phí tư vấn, chi phí mua sắm các trang thiết bị máy móc, chi phí quản lý…Thông thường thì tiêu chí kết quả này sẽ được xem xét trong hàng năm nhằm có những thay đổi hợp lý đảm bảo nguồn vốn của nhà nước được thực hiện đúng mục đích và các dự án trọng điểm sẽ được ưu tiên sử dụng vốn trước vì mục tiêu phát triển chung. -Tiêu chí thứ hai thể hiện kết quả của hoạt động đầu tư phát triển GTĐB từ NSNN là giá trị tài sản cố định huy động tăng thêm và năng lực sản xuất cũng như phục vụ của ngành GTĐB tăng lên do trong thời kỳ đầu tư.Tài sản cố định huy động là các công trình hay hạng mục công trình, đối tượng xây dựng có khả năng phát huy độc lập và đã được hoàn thành đưa vào sử dụng mà sản phẩm ở trong ngành GTĐB là các con đường, cây cầu mới.Nhờ có những hạng mục công trình mới được đưa vào sử dụng mà năng lực phục vụ của ngành được tăng lên và ngày càng phục vụ tốt hơn nhu cầu của nền kinh tế và của người dân. 3.2. Hiệu quả đầu tư. Hiệu quả đầu tư là phạm trù kinh tế biểu hiện quan hệ so sánh giữa các kết quả kinh tế-xã hội đã đạt được của hoạt động đầu tư với các chi phí phải bỏ ra để có các kết quả đó trong một thời kỳ nhất định.Hiệu quả của hoạt động đầu tư được đánh giá thông qua các chỉ tiêu đo lường hiệu quả và được xác định dựa trên từng mục tiêu của dự án.Xuất phát từ đặc điểm của đầu tư phát triển hạ tầng GTĐB là mang tính chất công cộng và xã hội hoá cao nên việc xác định hiệu quả của hoạt động đầu tư từ nguồn vốn NSNN trong lĩnh vực GTĐB cũng khác so với các lĩnh vực khác.Hiệu quả của hoạt động đầu tư không mang tính rõ ràng và được dựa trên cơ sở hiệu quả của các ngành và các lĩnh vực khác. Trước hết đây là công trình từ nguồn vốn NSNN và mang tính phúc lợi cao nên không thể sử dụng các chỉ tiêu tài chính như là đóng góp cho NSNN là bao nhiêu hay thời gian thu hồi vốn nhưng không phải như thế là không có hiệu quả mà hiệu quả của nó được xác định dựa trên sự phát triển của nền kinh tế và những đóng góp của nó vào hiệu quả kinh tế-xã hội và mục tiêu này thường thể hiện qua các chủ trương,chính sách và kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội của nhà nước như tốc độ tăng trưởng GDP, mức độ cải thiện thu nhập của dân cư, phúc lợi xã hội…vì nhờ có các công trình hạ tầng GTĐB mà các ngành kinh tế khác phát triển nhanh, thu hút được nhiều nguồn vốn từ nước ngoài, đời sống về tinh thần của người dân được nâng cao. Hiệu quả trước hết thể hiện hệ thống chỉ tiêu về nâng cao mức sống của dân cư như: -Mức gia tăng sản phẩm quốc gia. -Mức gia tăng thu nhập. -Tốc độ tăng trưởng và phát triển kinh tế. Đây là hệ thống các chỉ tiêu gián tiếp thể hiện sự tác động gián tiếp của hạ tầng giao thông đường bộ đến sự phát triển của nền kinh tế đất nước.Thông qua giao thông đường bộ các ngành kinh tế khác phát triển như ngành du lịch, các ngành sản xuất và đóng góp ngày càng nhiều vào tổng sản phẩm quốc nội cũng như góp phần giúp cho nền kinh tế tăng trưởng nhanh và bền vững. Hiệu quả được thể hiện thông qua sự phân phối thu nhập và công bằng xã hội: thể hiện qua sự đóng góp của công cuộc đầu tư vào việc phát triển các vùng kinh tế kém phát triển và đẩy mạnh công bằng xã hội. Chỉ tiêu thứ ba là sự gia tăng số lao động có việc làm: đây là một trong những chỉ tiêu chủ yếu của chiến lược phát triển kinh tế-xã hội của các nước ta một quốc gia thừa lao động nhưng thiếu việc làm. Ngoài ra cũng có thể tính được dựa trên một số chỉ tiêu hiệu quả của ngành như: -Số km đường/người. -Tỉ lệ đường quốc lộ và tỉnh lộ đạt các tiêu chuẩn quốc tế: Chỉ tiêu này phản ánh chất lượng các công trình giao thông đường bộ của mỗi nước và được tính bằng số km đường quốc lộ và tỉnh lộ/số km đuờng của cả nước, tỉ lệ này càng cao càng tốt thể hiện tiềm năng cũng như hiệu quả các nguồn vốn đầu tư cho phát triển hạ tầng giao thông đường bộ -Năng lực vận tải của ngành giao thông đường bộ: Chỉ tiêu thể hiện năng lực phục vụ của hạ tầng giao thông đường bộ trong quá trình phát triển kinh tế cũng như thoả mãn nhu cầu đi lại của người dân. +Khối lượng hành khách vận chuyển bằng đường bộ = số lượng hành khách di chuyển bằng đường bộ. +Khối lượng hàng hoá vận chuyển bằng đường bộ = tổng số hàng hoá được vận chuyển bằng đường bộ. Hai chỉ tiêu này thường được tính theo chu kì 1 năm hoặc 1 giai đoạn, chỉ tiêu này càng cao càng thể hiện tầm quan trọng của vận tải bằng giao thông đường bộ. Chương II: Thực trạng đầu tư phát triển giao thông đường bộ Việt Nam bằng nguồn vốn NSNN. 1.Sự cần thiết phải tăng cường đầu tư phát triển giao thông đường bộ.. 1.1.Vị trí của ngành giao thông đường bộ. Đường lối phát triển của Việt Nam trong thời gian tới là đẩy mạnh công nghiệp hoá hiện đại hoá, xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ, đưa nước ta trở thành một nước công nghiệp, ưu tiên phát triển lực lượng sản xuất, đồng thời xây dựng quan hệ sản xuất phù hợp với định hướng xã hội chủ nghĩa, phát huy cao độ nội lực đồng thời nội lực, đồng thời tranh thủ các nguồn lực tù bên ngoài và chủ động hội nhập quốc tế để có thể phát triển nhanh, có hiệu quả và bền vững, tăng trưởng kinh tế đi cùng với phát triển văn hoá, từng bước cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của người dân, thực hiện tiến bộ công bằng xã hôi, bảo vệ cải thiện môi trường, kết hợp phát triển kinh tế xã hội với quốc phòng an ninh. Để có thể hoàn thành được định hướng trên có thể nhận thấy vị trí của hệ thống hạ tầng GTĐB là rất quan trọng, cần phải có một hệ thống GTĐB đồng bộ và đạt tiêu chuẩn để có thể đẩy mạnh công nghiệp hoá-hiện đại hoá bằng việc tăng cường đầu tư các khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao và thực hiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tăng tỉ trọng của ngành công nghiệp và dịch vụ.Xây dựng một hệ thống hạ tầng GTĐB tiêu chuẩn là rất cần thiết nhằm đảm bảo các khu công nghiệp có thể nối liền nhau và nối liền với các khu thương mại từ đó sản phẩm hàng hoá sẽ nhanh chóng đến tay người tiêu dùng,làm tăng tốc độ phát triển công nghiệp và các ngành khác. Việt Nam cũng đã chính thức trở thành thành viên của tổ chức thương mại thế giới WTO, đây cũng vừa là cơ hội nhưng cũng vừa là thách thức đối với nước ta. Để có thể thu hút tối đa các nguồn vốn FDI phục vụ cho sự phát triển thì hệ thống hạ tầng giao thông đường bộ đóng vai trò quyết định, nhiều nhà đầu tư nước ngoài cho rằng hạ tầng giao thông của nước ta là một điểm bất lợi so với nhiều nước cùng khu vực trong việc thu hút vốn.Một khi hệ thống hạ tầng GTĐB nói riêng và hệ thống hạ tầng giao thông vận tải nói chung được hoàn thiện và hiện đại thì Việt Nam chắc chắn là điểm đến hấp dẫn của mọi nguồn vốn đầu tư. Cùng với tốc độ tăng trưởng GDP cao hàng năm thì đời sống của người dân ngày càng được nâng cao đặc biệt là ở các khu vực đô thị, nếu nhiều năm trước để sở hữu phương tiên ô tô là một món hàng xa xỉ với nhiều người thì trong những năm gần đây số lượng ô tô được bán ra ngày càng tăng, và hứa hẹn sẽ có mức tăng trưởng cao trong những năm tiếp theo.Để đáp ứng được nhu cầu đó càng thấy tầm quan trọng của hệ thống hạ tầng giao thông đường bộ. Như vậy đầu tư phát triển hạ tầng GTĐB là nhiệm vụ có tính chiến lược và cấp thiết trong thời gian hiện nay và cả trong thời gian sau nữa. 1.2.Thực trạng hệ thống giao thông đường bộ. Trong những năm qua,nhận thấy được tầm quan trọng của hệ thống hạ tầng GTĐB, đảng và nhà nước đã dành khá nhiều ưu tiên cho đầu tư phát triển hạ tầng GTĐB cùng với việc xây dựng các chính sách khuyến khích tư nhân và các tổ chức nước ngoài cùng tham gia đầu tư dưới nhiều hình thức thì hệ thống hạ tầng GTĐB của nước ta đã có những bước phát triển nhanh chóng và mạnh mẽ.Hầu hết các đường quốc lộ đã được xây mới hoặc được nâng cấp, cải tạo như đường quốc lộ tuyến Hà Nội-Lạng Sơn, Hà Nội- Bắc Cạn…đã làm cho khoảng cách giữa các tỉnh, địa phương được thu hẹp đáng kể; năng lực vận tải cũng được nâng cao; số vụ tại nạn giao thông trên các tuyến quốc lộ cũng như các điểm đen ngày càng giảm. Giao thông đô thị và nông thôn cũng ngày càng được cải thiên, đặc biệt là ở các thành phố lớn như Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh thì tình trạng ùn tắc cũng đã được giảm đáng kể mà tiêu biểu là một số dự án như cầu Ngã Tư Sở, xây dựng đường Kim Liên mới…góp phần quan trọng đổi mới bộ mặt đô thị của Việt Nam.Giao thông nông thôn cũng phát triển đáng kể, số xã không có đường bê tông ngày càng giảm đã góp phần đáng kể vào công cuộc xoá đói giảm nghèo của các vùng nông thôn. Không chỉ tập trung phát triển về mặt số lượng, lượng vốn NSNN trong thời gian qua cũng tập trung xây dựng các tuyến đường cầu theo tiêu chuẩn quốc tế và đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của nền kinh tế như tuyến Bắc Thăng Long- Nội Bài, đường cao tốc Pháp Vân, hoàn thành xây dựng hầm đường bộ qua đèo Hải Vân…hay một số dự án đang tiến hành triển khai như đường Láng Hoà Lạc, tuyến đường Hồ Chí Minh… Mặc dù đã có những kết quả vượt bậc trong thời gian qua song hệ thống đường bộ của nước ta vẫn còn bộc lộ nhiều hạn chế.Hiện nay Việt Nam có tổng chiều dài mạng lưới đường bộ tương đối lớn với khoảng trên 222.179 km: Bảng 2.1: Mạng lưới giao thông đường bộ hiện nay STT Tuyến Đơn vị Số lượng Tỷ lệ (%) 1 Quốc lộ Km 17.295 7.8 2 Tỉnh lộ Km 21.762 9.8 3 Huyện lộ Km 45.013 20.2 4 Đường xã,thôn Km 131.455 59.2 5 Đường đô thị Km 6.654 3.0 Toàn tuyến Km 222.179 100% Nguồn:Cục đường bộ Việt Nam. Mạng lưới đường bộ của nước ta được bố trí tương đối hợp lý nhưng nhìn chung thì chất lượng của các con đường còn kém.Phần lớn các con đường của nước ta còn hẹp, chỉ có khoảng 570 km đường quốc lộ có 4 làn đường trở lên, loại đường có bề rộng 2 làn xe trở lên chỉ chiếm khoảng 62%.Đường bộ của nước ta chủ yếu là đường 1 làn xe với bề mặt đường từ 3-3.5m.Hệ thống giao thông đường bộ của nước ta vẫn còn chậm phát triển, vừa thiếu lại vừa yếu,hầu hết các con đường chưa đạt tiêu chuẩn kĩ thuật, chưa có đường cao tốc chuẩn: một số đường cao tốc đạt tiêu chuẩn loại Việt Nam như Nội Bài, Nam Thăng Long… nhưng chỉ tương ứng với tiêu chuẩn B(Expressway) so với tiêu chuẩn quốc tế.Nhiều con đường vẫn chưa thể thông xe suốt cả năm nhất là vào mùa mưa nhiều con đường không thể sử dụng đươc.Ngoài ra số lượng đường chưa được trải mặt còn rất lớn, số đường được trải mặt mới chỉ chiếm khoảng 19% trên tổng số chiều dài đường;ngay cả đường quốc lộ cũng mới chỉ có 83.5% được trải mặt và được thể hiện rõ ở bảng sau: Bảng 2.2: Phân loại chiều dài đường và mặt đường đến năm 2008 Hệ thống đường Đơn vị Đã trải mặt Đá dăm Đường đất Tổng số % trải mặt Quốc lộ Km 14.441 600 2.254 17.295 83.5 Tỉnh lộ Km 11.657 553 9.552 21.762 53.6 Đường huyện Km 9.106 2.077 38.830 45.013 20.2 Đường xã Km 4.041 68 2.543 6.654 60.7 Đường đô thị Km 2.922 52.446 76.086 131.455 2.2 Tổng số Km 42.167 55.744 124.268 222.179 19.0 Nguồn: Cục đường bộ Việt Nam *Về đường quốc lộ:Trên quốc lộ hiện nay có khoảng hơn 3800 chiếc cầu, với tổng chiều dài hơn 118.000 m trong đó có khoảng 920 cây cầu không an toàn với chiều dài khoảng 43562 km (chiếm hơn 40%). Tổng chiều dài cầu trên đường tỉnh và liên tỉnh là 78.059 m trong đó cầu không an toàn là 16.645m chiếm (21.32%). Mặc dù có chiều dài là trên 17.295 km với tỉ lệ đã trải mặt trên 83.5% nhưng tỉ lệ đường cao tốc của nước ta còn quá nhỏ bé,và hầu như là không có.Trong khi tỉ lệ đường cao tốc của các nước trong khu vực là khá cao:Singapore 4.44%, Hàn Quốc 2.45%, Thái Lan 0.18%... Chính vì vậy hệ thống đường quốc lộ của nước ta vẫn cần phải đầu tư xây dựng nhiều để có thể theo kịp với các nước trong khu vực. *Về đường tỉnh và nông thôn: Số lượng xã chưa có đường đến trung tậm huyện ngày càng giảm, đến nay chỉ còn dưới 200 xã và chỉ chiếm khoảng 2% trong số 10500 xã, số xã chưa có đường tập trung ở vùng xâu vùng xa.Sau đây là hiện trạng hệ thống giao thông nông thôn: Bảng 2.3: Hạ tầng giao thông nông thôn tính đến năm 2008 Vùng Đơn vị Tổng Đường huyện Đường xã Bắc Trung Bộ Km 29989 9286 20703 Đồng bằng sông Hồng Km 21057 3909 17147 Đông Nam Bộ Km 21984 5946 16037 Nam Trung Bộ Km 13597 4092 9505 Tây Nguyên Km 8830 2922 5908 Đồng bằng sông Cửu Long Km 41522 8402 33120 Tây Bắc Km 8490 2704 5786 Đông Bắc Km 30999 8737 22262 Tổng Km 176468 45999 130469 Nguồn: Vụ đầu tư-Bộ tài chính Nhưng nhìn chung các con đường chưa có được chất lượng tốt nhất, một phần nguyên nhân là do vốn NSNN của ta còn thiếu hơn nữa đội ngũ quản lý của ta ở các vùng xa còn yếu. Đây là một điểm chúng ta cần khắc phục để làm tăng khả năng giao lưu giữa các vùng cũng như góp phần làm giảm mức độ đói nghèo. *Về đường đô thị:tốc độ đô thị hoá ngày càng cao cùng với đó là số lượng đường đô thị cũng ngày càng tăng nhằm đáp ứng nhu cầu cấp bách.Tuy nhiên đường đô thị của Việt Nam đang lâm vào tình trạng báo động mà ví dụ điển hình nhất ở đây là ở 2 thành phố lớn Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh.Hệ thống đường đô thị cũ chưa được nâng cấp sửa chữa nhiều, nhiều con đường được xây dựng từ thời kháng chiến chống Pháp nên bề mặt đưòng nhỏ, lại có nhiều điểm giao cắt (như ở thành phố Hồ Chí Minh có trên 1000 điểm, còn ở Hà Nội có trên 500 điểm). Thực trạng trên cho thấy nâng cao đầu tư phát triển hạ tầng GTĐB là một chính sách đúng đắn của đảng và nhà nước, như thế mới có được một hệ thống hạ tầng GTĐB hoàn chỉnh, chất lượng tốt để phục vụ mục tiêu công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước. 2.Thực trạng đầu tư phát triển hệ thống giao thông đường bộ. 2.1.Tình hình huy động vốn NSNN đầu tư phát triển giao thông đường bộ. Muốn đầu tư phát triển hệ thống hạ tầng GTĐB thì vốn là yếu tố quyết đinh,quá trình huy động và sử dụng vốn luôn gắn bó mật thiết với nhau đặc biệt là đối với nguồn vốn NSNN.Lượng vốn huy động được sẽ đóng vai trò quyết định đối với nhu cầu sử dụng vốn đầu tư và nhu cầu sử dụng vốn là căn cứ quan trọng để nhà nước có thể phân bổ và huy động vốn cho đầu tư phát triển hạ tầng GTĐB hàng năm. Công tác huy động vốn cho đầu tư phát triển GTĐB được thực hiện gắn liền với cơ chế và chính sách huy động vốn cho các hoạt động đầu tư phát triển nói chung và phụ thuộc vào nhu cầu vốn đầu tư cũng như vào thực trạng nền kinh tế-xã hội trong từng giai đoạn phát triển. Đối với vốn tích lũy từ NSNN cần áp dụng chính sách huy động tiết kiệm triệt để và sử dụng có hiệu quả bằng cách: tăng thu cho NSNN bằng nhiều nguồn như thuế, phí sử dụng cầu đường,… cùng với tăng thu là phải sử dụng tiết kiệm đặc biệt là trong chi tiêu dùng của ngân sách.Chỉ khi NSNN có tích luỹ thặng dư và tích luỹ ngày càng tăng thì mới có thể nâng cao được nguồn vốn cho các hoạt động đầu tư phát triển vốn đã rất tốn kém. Tăng thu cho NSNN trên cơ sở quản lý chặt chẽ và khai thác hợp lý các nguồn thu theo luật NSNN và các luật có liên quan đến NSNN, tránh tình trạng trốn thuế, nợ thuế hàng năm và các khoản thu khác của NSNN. Đây là việc làm rất cấp bách trong bối cảnh nền kinh tế thị trường của Việt Nam phát triển ngày càng mạnh mẽ, số doanh nghiệp được thành lập ngày càng nhiều cùng với đó là nhiều thủ đoạn làm ăn ngày càng tinh vi.Cần phải có chính sách hợp lý để đào tạo đội ngũ chuyên môn quản lý NSNN cả về chuyên môn và đạo đức nghề nghiệp.Có thể thấy rằng từ khi tiến hành cải cách nền kinh tế theo cơ chế thị trường, xóa bỏ chế độ cao cấp thì tích luỹ cho NSNN ngày càng tăng nên vốn cho đầu tư các hoạt động đầu tư phát triển cũng ngày càng tăng: năm 1991 mới chỉ là 15% tăng lên 23% vào năm 1995, tiếp tục tăng lên 35% vào năm 2000, đến năm 2005 đã là 39% và con số này có thể tăng lên đến 45% vào năm 2010. Đối với các công trình hạ tầng giao thông đường bộ thì cần có các biện pháp trực tiếp khai thác cụ thể: quản lý phí đánh vào người sử dụng cầu đường, thuế trước bạ ô tô xe máy, thuế xăng dầu,…Đây sẽ là những nguồn vốn quan trọng để tái đầu tư vào các công trình hạ tầng giao thông khác. Do đặc điểm của các công trình hạ tầng GTĐB là đòi hỏi một lượng vốn rất lớn nên vốn tập trung từ NSNN không thể đáp ứng đủ do đó chính phủ tiến hành huy động vốn cho hoạt động đầu tư phát triển từ các nguồn vốn khác như trái phiếu chính phủ, trái phiếu công trình, vay nước ngoài ODA… Đây là xu hướng đúng đắn trong tình trạng vốn tập trung của NSNN còn hạn hẹp và xu hướng này sẽ làm cho NSNN tăng lên. Để phát triển tối đa hệ thống hạ tầng GTĐB thì cần phải huy động tối ta các nguồn lực và có những chính sách đầu tư mạnh mẽ cho lĩnh vực này.Để thực hiện được mục tiêu đó thì đến năm 2003, quốc hội đã thông qua luật Ngân Sách Nhà Nước sửa đổi; với việc ra đời của luật này là cơ sở pháp lý quan trọng tạo ra một sự thay đổi lớn trong quản lý ngân sách của Việt Nam.Thực hiện phân cấp quản lý NSNN, phân bổ NSNN một cách công khai và tạo điều kiện chủ động cho các địa phương, các ngành có được tính chủ động trong việc bố trí và sử dụng NSNN. Đây là bước đột phá nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng NSNN.Mỗi một năm mỗi ngành mỗi địa phương lại có những kế hoạch vốn của riêng mình để phát triển trình lên chính phủ, chính phủ sẽ cùng với bộ tài chính và bộ kế hoạch- đầu tư sẽ tiến hành cân đối ngân sách trên cơ sở các mục tiêu đã được đặt ra để phân bố sao cho hợp lý. Điều này sẽ tạo điều kiện rất tốt cho hoạt động đầu tư vào hệ thống hạ tầng giao thông vận tải nói chung và giao thông đường bộ nói riêng vì các công trình được thực hiện trong nhiều năm nên chủ động về vốn cũng đồng nghĩa với hiệu quả đầu tư. Cũng trong giai đoạn từ năm 2003 trở lại đây tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế Việt Nam là khá cao (giữ mức trung bình là 7.5%), so với thời kì trước là có những tiến bộ vựơt bậc (năm 1990 tốc độ tăng tổng sản phẩm quốc nội là 5%, năm 2000 là 6.9%),cùng với tốc độ tăng trưởng kinh tế là các nguồn thu cho NSNN cũng ngày một tăng đặc biệt là các nguồn từ thuế của doanh nghiệp, đây được coi là nguồn thu chính của bất cứ ngân sách nhà nước của mọi quốc gia do đóng ngân sách nhà nước cho hoạt động phát triển hạ tầng GTĐB cũng ngày một tăng và đáp ứng khá tốt nhu cầu vốn đầu tư cho hệ thống GTĐB hàng năm. Bảng 2.4: Vốn NSNN cho giao thông đường bộ. Năm Chỉ tiêu Đơn vị 2003 2004 2005 2006 2007 2008 Tổng VĐT phát triển GTĐB Tỷ đồng 4289.3 4940.2 6153.7 6688.2 7552.7 5651.7 Tốc độ phát triển định gốc % 100 115 143 155 176 131 Tốc độ phát triển liên hoàn % 100 115 124 108 112 74 Vốn NSNN phát triển GTĐB Tỷ đồng 20730 21480 22554 25937.1 31383.8 17123.5 Tốc độ phát triển định gốc % 100 103.6 108.7 125 151 82 Tốc độ phát triển liên hoàn % 100 103 105 115 121 54 Tỷ trọng VĐT NSNN/Tổng VĐT GTĐB % 20.69 22.9 27.2 25.78 24.06 33 Nguồn: Vụ đầu tư- Bộ tài chính. Như vậy số vốn đầu tư cho phát triển hạ tầng GTĐB trong những năm qua là khá ổn định và ngày càng tăng.Tổng số huy động được trong giai đoạn từ năm 2003 đến năm 2008 35275.8 tỷ đồng và nhiều hơn hẳn thời kì từ năm 1996 đến 2000 là 5156.3 tỷ đồng.Trong những năm trở lại đây năm 2003 là năm có số vốn đầu tư ngân sách nhà nước thấp nhất với 4289.3 tỷ đồng rồi tăng dần qua từng năm đạt cao nhất vào năm 2007 với 7552.7 tỷ đồng, sự tăng vốn NSNN trong giai đoạn này đi cùng với sự tăng trưởng của nền kinh tế,trong giai đoạn này nền kinh tế của Việt Nam có mức tăng trưởng cao và tương đối ổn định. Đến năm 2008 nền kinh tế Việt Nam có 1 chút ảnh hưởng của khủng hoảng kinh tế toàn cầu nên vốn NSNN cho phát triển hạ tầng đường bộ cũng giảm xuống còn 5621.7 tỷ đồng (giảm 1091 tỷ đồng tương đương với 25.1% so với năm 2007) Tuy nhiên cơ chế huy động vốn cho đầu tư phát triển đang ngày càng thay đổi và được định hình cụ thể, nhà nước đang khuyến khích mọi nguồn vốn tham gia đầu tư vào phát triển hạ tầng giao thông nói chung và GTĐB nói riêng.Chính vì vậy tỉ trọng vốn ngân sách nhà nước ngày càng giảm và giờ chỉ chiếm khoảng 25.3% trong tổng số các nguồn vốn huy động cho đầu tư phát triển hạ tầng GTĐB.Trong giai đoạn này tỷ các nguồn vốn là nguồn vốn ODA 27.5%,nguồn vốn trái phiếu 31.7 nguồn vốn tín dụng nhà nước 10.6 và các nguồn vốn khác là 4.9%. Bảng 2.5: Cơ cấu vốn đầu tư GTĐB 2003-2008 Đơn vị: tỷ đồng Nguồn vốn Khối lượng Tỷ lệ (%) Vốn tập trung NSNN 35275.8 25.3 Vốn ODA 38282.3 27.5 Vốn trái phiếu 44129.06 31.7 Vốn tín dụng nhà nước 14835.9 10.6 Vốn khác 6685.3 4.9 Nguồn: Vụ đầu tư-Bộ tài chính. Đây được coi là xu hướng phát triển đúng đắn,không thể quá lệ thuộc vào nguồn vốn NSNN eo hẹp, đây là bước đi mà các nước phát triển đã làm từ rất lâu và đạt được những kết quả to lớn. 2.2. Tình hình sử dụng vốn NSNN cho phát triển giao thông đường bộ. 2.2.1.Cơ chế quản lý và sử dụng vốn NSNN cho giao thông đường bộ. *Cơ chế quản lý: Tham gia quản lý và sử dụng vốn NSNN cho đầu tư phát triển hạ tầng GTĐB bao gồm các cơ quan từ trung ương tới địa phương và các ban quản lý của từng dự án.Ở trung ương có các cơ quan là chính phủ, bộ tài chính, bộ kế hoạch và đầu tư, bộ giao thông vận tải, kho bạc nhà nước trung ương. Ở các địa phương là Sở kế hoạch và đầu tư, sở tài chính của các tỉnh (thành phố) và các cơ quan kho bạc của mỗi địa phương.Trong đó quy định theo nguồn vốn sẽ là cơ quan nào sẽ chịu trách nhiệm về dự án, các dự án trọng điểm quốc gia sẽ do chính phủ trực tiếp quản lý và chịu trách nhiệm, các dự án nhóm A sẽ do bộ giao thông vận tải kết hợp với bộ tài chính và bộ kế hoạch quản lý, các dự án còn lại sẽ do các tỉnh trực tiếp quản lý. Chu trình quản lý và cấp vốn sẽ được thực hiện tuần tự thông qua các bước sau: -Lập kế hoạch vốn: Các đơn vị trực thuộc cục đường bộ sẽ có kế hoạch về vốn cho riêng mình dựa trên các kế hoạch của quốc gia, của ngành và của từng địa phương đảm bảo không chồng chéo giữa các cấp đặc biệt mâu thuẫn với các kế hoạch đầu tư của các địa phương. Đây là công việc rất quan trọng vì dựa vào đó để phân bổ vốn một cách hợp lý nhất. -Cục đường bộ tổng hợp kế hoạch vốn đầu tư xây dựng của các đơn vị trực thuộc gửi bộ giao thông vận tải -Bộ giao thông vận tải sẽ tổng hợp rồi gửi cho Bộ tài chính và Bộ kế hoạch và đầu tư, rồi sau đó sẽ trình chính phủ phê duyệt. - Sau khi được chính phủ chấp nhận kế hoạch, bộ giao thông vận tải sẽ phân chia vốn chi tiết cho từng dự án dưới sự kiểm tra phân bổ vốn của Bộ tài chính và thông báo về kế hoạch chuyển vốn cho Kho bạc nhà nước để có thể kiểm soát thanh toán vốn cho chủ đầu tư, mỗi một dự án sẽ được lập một tài khoản tại kho bạc để có thể tiện cho việc kiểm tra cũng như thanh toán vốn cho dự án được dễ dàng. *Sử dụng vốn cho đầu tư phát triển hạ tầng GTĐB: Giao thông đường bộ là ngành có vai trò hết sức quan trọng đối với sự phát triển của đất nước.Chính vì vậy, được sự quan tâm của Đảng và nhà nước thì tỷ lệ vốn cho đầu tư phát triển GTĐB chiếm tỷ trọng cao trong tổng vốn đầu tư của toàn nganh giao thông vận tải(GTVT) cũng như so với tổng vốn đầu tư hàng năm từ nguồn vốn NSNN. Trước hết là sử dụng vốn đầu tư phát triển cho hạ tầng GTĐB so với toàn ngành GTVT. Trong tổng số NSNN chi cho lĩnh vực GTVT hàng năm thì số chi cho GTĐB luôn chiếm một t._.u thầu để chấm dứt tình trạng trên, phát huy tối đa hiệu quả của vốn NSNN. Để đảm bảo tính công khai minh trong công tác đấu thầu thì bộ giao thông, bộ kế hoạch và bộ tài chính cần lập kế hoạch đầu thầu dự án rộng rãi dưới hình thức cạnh tranh rộng rãi để có thể lựa chọn được các nhà thầu phù hợp đảm bảo chất lượng và tiến độ của dự án, không nên chia công trình ra làm nhiều gói thầu quá nhỏ để tránh tình trạng lãng phí, không đảm bảo tính tổng thể hơn nữa gói thầu quá nhỏ sẽ không khuyến khích được các nhà thầu tham gia đấu thầu, gây khó khăn cho quản lý. Quản lý đấu thầu phải thực hiện xuyên suốt từ khâu chuẩn bị đến khâu tổ chức đầu thầu, đánh giá sơ bộ dự thầu, lựa chọn nhà thầu, kí kết hợp đồng.Tránh trường hợp nhà thầu trúng thầu có tên trong hợp đồng nhưng khi thực hiện gói thầu lại là nhà thầu khác.Nghiêm minh xử lý các trường hợp móc nối với nhà quản lý để làm thất thoát vốn của nhà nước. Cần công khai hoá công tác đấu thầu bằng cách thông tin đấu thầu trên các tờ báo có uy tín, trên mạng Internet để nhà thầu có thể tiện theo dõi, đánh giá hoạt động của ban quản lý dự án, hơn nữa đưa đầy đủ thông tin về dự án để các nhà thầu có những phương án dự thầu hợp lý tránh tình trạng đưa ra những phương án thiếu khả thi khó thực hiện. 2.10.Các giải pháp về tăng cường đầu tư giao thông đô thị và giao thông nông thôn. Trước hết là các giải pháp về đầu tư phát triển hạ tầng giao thông đô thị, đây được coi là đề tài rất quan trọng ở các thành phố lớn như Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh trong thời gian qua,vốn đầu tư từ NSNN được sử dụng để nâng cao hạ tầng giao thông đường bộ ở các thành phố này trong thời gian qua là tương đối lớn nhưng trên thực tế nó vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu ở những nơi này, chưa đáp ứng được nhu cầu của người dân cũng như tiềm năng phát triển của các thành phố này.Do đó cần phải có những biện pháp sau để nâng cao khả năng phục vụ của hệ thống hạ tầng GTĐB: -Hạn chế các phương tiện vận tải cá nhân như xe máy và ô tô ở các thành phố lớn, đây được coi là một biện pháp hữu hiệu. Để có thể hạn chế được các phương tiện tham gia giao thông có thể tiến hành các biện pháp như tăng mức phí đăng ký mới phương tiện, thắt chặt các điều kiện cấp đăng ký xe máy, ô tô các nhân như bắt buộc phải có đủ điều kiện sức khoẻ, phải có bằng lái mới được đăng ký sử dụng xe; tăng phí nhập khẩu ô tô, xe máy không phục vụ cho công tác xã hội; mở rộng các tuyến đường cấm xe máy và ô tô cá nhân. Áp dụng giải pháp này không chỉ tăng được nguồn vốn NSNN mà nó cũng kìm hãm được sự xuống cấp của hệ thống GTĐB ở các thành phố lớn. -Xây dựng và phê duyệt quy hoạch chi tiết phát triển mạng lưới giao thông đường bộ nói riêng và của toàn thành phố nói chung tránh tình trạng chồng chéo trong thời gian qua như khi xây dựng đường xong mới xây dựng đường nước…do đó ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng công trình. -Tăng cường quản lý trật tự an toàn giao thông,xử phạt nghiêm khắc với các hành phi vi phạm an toàn giao thông, đây là một trong những nguồn thu đáng kể để tái đầu tư hơn nữa có thể nâng cao được ý thức của các thành viên tham gia giao thông trong việc bảo vệ mạng lưới giao thông đường bộ. Giao thông nông thôn cũng là một trong những khu vực đầu tư rất quan trọng nhằm đảm bảo cho đất nước phát triển cân bằng, để nâng cao công tác đầu tư vào phát triển hạ tầng giao thông nông thôn có thể tiến hành các giải pháp như: -Tiếp tục thực hiện các biện pháp khuyến khích người dân cùng với nhà nước tham gia đầu tư, điều này không chỉ tranh thủ được các nguồn lực trong dân mà còn nâng cao được trách nhiệm của người dân trong công tác bảo vệ và nâng cao hạ tầng giao thông hơn nữa có thể tiết kiệm được chi phí xây dựng công trình giúp nhà nước có điều kiện đầu tư vào các vùng khác. KẾT LUẬN Cơ sở hạ tầng giao thông đường bộ là huyết mạch của nền kinh tế và của đất nước do vậy trong quá trình phát triển của bất cứ quốc gia nào giao thông đường bộ luôn nhận được sự quan tâm đặc biệt và ở Việt Nam cũng vậy hàng năm vốn đầu tư cho phát triển hạ tầng giao thông đường bộ nói riêng và hạ tầng giao thông vận tải nói chung luôn có được sự quan tâm đặc biệt và thường được quan tâm trước một bước cũng như tỷ trọng vốn từ NSNN luôn giữ ở mức cao. Đó là điều kiện cần thiết tạo động lực cho sự tăng trưởng nhanh của hạ tầng giao thông đường bộ cũng như tạo ra bàn đạp lớn cho sự phát triển chung của đất nước. Trong thời gian tới khi Việt Nam đã chính thức trở thành thành viên của tổ chức thương mại thế giới WTO và chúng ta ngày càng hội nhập sâu vào nền kinh tế toàn cầu thì vấn đề đầu tư phát triển hạ tầng giao thông đưòng bộ càng mang ý nghĩa chiến lược và lâu dài.Trong giai đoạn tới nguồn vốn NSNN vẫn sẽ là nguồn vốn chủ đạo và nó sẽ tập trung vào phát triển hệ thống cơ sở hạ tầng đường bộ theo tiêu chuẩn thế giới và ngày càng hiện đại để có thể đáp ứng được tốc độ phát triển nhanh của nền kinh tế trong những năm tới.Cùng với những nghiên cứu các số liệu trong thời gian qua về tình hình sử dụng vốn NSNN cho đầu tư phát triển hạ tầng đường bộ, em hi vọng những giải pháp của em sẽ có thể có ích phần nào trong việc giải quyết những tồn tại, khó khăn trong thời gian qua. Em xin chân thành cảm ơn cô giáo hướng dẫn cùng với các cô chú trong Vụ đầu tư-Bộ tài chính đã giúp đỡ em hoàn thành đề tài này. TÀI LIỆU THAM KHẢO A. TÀI LIỆU VÀ GIÁO TRÌNH PGS.TS. Nguyễn Bạch Nguyệt, TS. Từ Quang Phương (2007), giáo trình Kinh tế đầu tư, NXB Đại học kinh tế quốc dân, Hà Nội. PGS.TS. Nguyễn Bạch Nguyệt (2005), giáo trình lập dự án đầu tư, NXB Thống kê, Hà Nội. TS. Đinh Đào Ánh Thủy (2008), bài giảng đầu tư nước ngoài và chuyển giao công nghệ, Hà Nội. Bộ luật dân sự năm 2005. B. INTERNET www.saga.com.vn www.mof.gov.vn www.vnexpress.net www.dantri.com.vn TÓM TẮT Giao thông đường bộ là bộ phận quan trọng của giao thông vận tải nói riêng và của hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội nói chung và nó có vai trò rất quan trọng trong phát triển kinh tế-xã hội, đóng góp lớn vào nhu cầu đi lại của nhân dân, nâng cao khả năng giao lưu giữa các vùng, xoá đi khoảng cách về địa lý, chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng hợp lý phát huy lợi thế của từng vùng và của từng địa phương, từng ngành, góp phần xây dựng công tác xoá đói giảm nghèo, củng cố an ninh quốc phòng…Thấy được tầm quan trọng của hệ thống hạ tầng giao thông đường bộ thì trong thời gian qua chính phủ đã rất cố gắng xây dựng các chiến lược cũng như thực hiện nhiều biện pháp để thu hút mọi nguồn vốn vào đầu tư phát triển hạ tầng GTĐB trong đó có thể nhận thấy tầm quan trọng của nguồn vốn ngân sách nhà nước trong lĩnh vực này.Trong thời gian qua vốn ngân sách nhà nước dành cho phát triển hạ tầng giao thông đường bộ luôn chiếm tỷ trọng cao so với các ngành khác và nguồn vốn này đã phát huy được những hiệu quả nhất định và vẫn luôn là nguồn vốn quan trọng nhất trong đầu tư phát triển hạ tầng GTĐB tuy nhiên trong thời gian qua công tác huy động và sử dụng vốn cho đầu tư kết cấu đường bộ vẫn còn bộc lộ nhiều hạn chết cần phải khắc phục nhằm tránh lãng phí nguồn vốn ngân sách nhà nước trong điều kiện nước ta còn là một nước đang phát triển và còn rất nhiều mục tiêu cần phải phấn đấu do đó nguồn vốn ngân sách nhà nước cũng tương đối hạn hẹp. Với sự ưu tiên của vốn NSNN trong thời gian qua, đầu tư phát triển hạ tầng GTĐB đã có những bước phát triển nhanh chóng và mạnh mẽ.Hầu hết các tuyến đường quốc lộ đã được xây dựng mới hoặc được nâng cấp sửa chữa như tuyến đường Hà Nội-Lạng Sơn, Hà Nội- Bắc Cạn…đã làm cho khoảng cách giữa các tỉnh, địa phương được thu hẹp đáng kể, năng lực vận tải cũng được nâng cao, số vụ tai nạn giao thông trên các tuyến quốc lộ cũng như các điểm đen ngày càng giảm.Giao thông đô thị và nông thôn ngày càng được cải thiện, đặc biệt là ở các thành phố lớn như Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh thì tình trạng ùn tắc cũng đã được giảm đáng kể mà tiêu biểu là một số dự án như cầu Ngã Tư Sở, xây dựng đường Kim Liên mới …góp phần quan trọng đổi mới bộ mặt đô thị của Việt Nam.Giao thông nông thôn cũng phát triển đáng kể,số xã không có đường bê tông ngày càng giảm đã góp phần đáng kể vào công cuộc xoá đói giảm nghèo của các vùng nông thôn Việt Nam.Không chỉ tập trung phát triển về mặt số lượng mà lượng vốn NSNN trong thời gian qua cũng tập trung xây dựng các tuyến đường,cầu đạt tiêu chuẩn quốc tế và đáp ứng ngày càng cao của nền kinh tế như tuyến đường Bắc Thăng Long-Nội Bài, đường cao tốc Pháp Vân, hoàn thành xây dựng hầm đường bộ qua đèo Hải Vân…hay một số dự án đang tiến hành triển khai như đường Láng Hoà Lạc, tuyến đường Hồ Chí Minh…Mặc dù đã có những kết quả vượt bậc trong thời gian qua song hệ thống đường bộ của nước ta vẫn còn nhiều hạn chế.Hiện nay Việt Nam có tổng chiều dài mạng lưới đường bộ tương đối lớn với khoảng 222.179 km và được bố trí tương đối hợp lý nhưng nhìn chung chất lượng các con đường còn kém, phần lớn các con đường của nước ta còn hẹp chỉ có khoảng 570 km đường quốc lộ có 4 làn đường trở lên, loại đường bề rộng 2 làn xe trở lên chỉ chiếm khoảng 62%. Hệ thống giao thông đường bộ của nước ta vẫn còn chậm phát triển, vừa thiếu lại vừa yếu, hầu hết các con đường chưa đạt tiêu chuẩn kĩ thuật, chưa có đường cao tốc chuẩn, một số con đường đạt tiêu chuẩn của Việt Nam như Nội Bài, Nam Thăng Long nhưng chỉ tương ứng với tiêu chuẩn B(Expressway) so với tiêu chuẩn quốc tế.Nhiều con đường chưa thể thông xe suốt cả năm nhất là vào mùa mưa nhiều con đường không thể sử dụng được.Ngoài ra số lượng đường chưa được trải mặt còn rất lớn. Chính vì vậy đầu tư phát triển hạ tầng giao thông đường bộ là nhu cầu tất yếu, muốn vậy thì khâu huy động vốn là rất quan trọng.Trong thời gian qua công tác huy động vốn cho đầu tư phát triển GTĐB được thực hiện gắn liền với cơ chế và chính sách huy động vốn cho các hoạt động đầu tư phát triển nói chung và phụ thuộc vào nhu cầu vốn đầu tư cũng như vào thực trạng phát triển của nền kinh tế-xã hội trong từng giai đoạn phát triển.Thực hiện điều đó chính phủ đã thực hiện chính sách huy động tiết kiệm triệt để và sử dụng có hiệu quả bằng cách: tăng thu cho NSNN bằng nhiều nguồn như thuế, phí sử dụng cầu đường…cùng với tăng thu là phải sử dụng tiết kiệm đặc biệt là trong chi tiêu dùng của ngân sách.Chỉ khi NSNN có tích luỹ thặng dư và tích luỹ ngày càng tăng thì mới có thể nâng cao được nguồn vốn cho các hoạt động đầu tư phát triển vốn đã rất tốn kém.Có thể thấy rằng kể từ khi tiến hành cải cách nền kinh tế theo cơ chế thị trường,xoá bỏ chế độ bao cấp thì tích luỹ NSNN ngày càng tăng:35% vào năm 2000 tăng lên 39% vào năm 2005 và có thể tăng lên đến 45% vào năm 2010.Do đặc điểm của các công trình giao thông đường bộ là các công trình đòi hỏi vốn đầu tư rất lớn do đó cần phải có những biện pháp khai thác trực tiếp như quản lý phí đánh vào người sử dụng cầu đường, thuế trước bạ ô tô xe máy, thuế xăng dầu…Đây được coi là một trong những nguồn vốn quan trọng để tái đầu tư vào các ông trình giao thông khác. Vốn đã hạn hẹp do đó vấn đề sử dụng vốn NSNN đầu tư phát triển hạ tầng GTĐB càng được đặt lên hàng đầu, vấn đề đuợc đặt ra là làm thế nào để sử dụng vốn NSNN một cách hiệu quả nhất.Tham gia vào quản lý quá trình sử dụng vốn NSNN bao gồm các cơ quan trung ương là chính phủ, bộ tài chính, bộ kế hoạch và đầu tư, bộ giao thông vận tải, kho bạc nhà nước trung ương và ở các địa phương là sở kế hoạch và đầu tư, sở tài chính các tỉnh(thành phố) và các cơ quan kho bạc của mỗi địa phương. Để thực hiện tốt nhất công tác quản lý thì đã có những quy định về trách nhiệm cụ thể đối với từng cơ quan quản lý và được thực hiện theo quy trình quản lý và cấp vốn đầu tư, điều đó sẽ giúp cho vốn đầu tư NSNN cho các công trình giao thông đường bộ đạt được hiệu quả cao nhất. Được sự quan tâm đặc biệt trong quá trình phát triển của nền kinh tế nên vốn NSNN đầu tư phát triển hạ tầng GTĐB chiếm một tỉ lện cao so với vốn đầu tư phát triển GTVT hàng năm và đuợc ưu tiên so với các ngành như đường sắt, đường hàng không, đường thuỷ…thường chiếm khoảng trên 30% so với tổng vốn NSNN hàng năm dành cho ngành GTVT.Và nó cũng chiếm một tỉ trọng khá cao so với tổng vốn NSNN hàng năm của đất nước chi cho đầu tư XDCB(chiếm khoảng trên 6.5%). Nguồn vốn đầu tư phát triển hạ tầng GTĐB đựơc chia theo các tiêu chí khác nhau: đầu tư vào hạ tầng GTĐB theo chu kì của dự án, đầu tư vào hạ tầng GTĐB theo lĩnh vực đầu tư, đầu tư vào hạ tầng GTĐB theo khu vực đầu tư, đầu tư vào hạ tầng GTĐB theo vùng lãnh thổ. Đầu tư và phát triển GTĐB phân theo lĩnh vực đầu tư bao gồm đầu tư và xây dựng mới đường bộ trong đó các dự án đầu tư và xây dựng mới chiếm phần lớn vốn đầu tư tổng số vốn từ NSNN cho đầu tư phát triển hạ tầng GTĐB. Điều này là dễ hiểu do thực trạng hạ tầng GTĐB của nước ta vừa thiếu lại vừa yếu và không thể đáp ứng được nhu cầu của xã hội trong thời gian tới nên cần phải chú tâm đầu tư mới hệ thống hạ tầng GTĐB đặc biệt là các dự án chất lượng cao.Tỷ lệ vốn đầu tư xây dựng mới thường chiếm tỷ trọng trung bình khoảng 61.4% trong tổng vốn NSNN cho GTĐB và đang ngày càng tăng để đáp ứng được nhu cầu phát triển mạng mẽ của đất nước trong thời gian tới.Trong khi đó vốn đầu tư nâng cấp và duy tu bảo dưỡng đường bộ cũng đóng vai trò quan trọng không kém do nguồn vốn từ NSNN còn hạn chế không thể đầu tư mới nhiều dự án ngay được nên biện phảm duy tu bảo dưỡng là biện pháp trước mắt nhằm duy trì năng lực vận tải của GTĐB.Vốn này chiếm một lượng nhỏ trong tổng số vốn NSNN hàng năm chi cho GTĐB. Đầu tư phát triển GTĐB phân theo khu vực nông thôn và thành thị: Với 76.5% dân số và 73% lực lượng xã hội của cả nước ở nông thôn nên việc phát triển giao thông nông thôn sẽ góp phần tích cực rút ngắn khoảng cách giữa thành thị và nông thôn, giữa miền núi với đồng bằng đồng thời tạo điều kiện cho lưu thông hàng hoá, xoá đói giảm nghèo.Việc đầu tư phát triển hạ tầng giao thông đường bộ được thực hiện theo phương châm “Nhà nước và nhân dân cùng làm, dân làm là chính, có sự hướng dẫn hỗ trợ của nhà nước”.Vốn đầu tư phát triển hạ tầng giao thông nông thôn trong giai đoạn vừa qua tăng hơn so với các giai đoạn trước cho thấy sự quan tâm của chính phủ đến vùng nông thôn,và mong muốn đất nước phát triển đều ở tất cả các vùng. Đầu tư vào phát triển hạ tầng giao thông đô thị cũng chiếm một tỷ trọng lớn trong tổng vốn đầu tư, tốc độ đô thị hoá của Việt Nam ngày càng nhanh vì vậy để có thể đáp ứng yêu cầu được nhu cầu đi lại ngày càng cao của cư dân đô thị cũng như theo kịp tốc độ phát triển của các đô thị lớn thì đầu tư vào hạ tầng giao thông đường bộ cần phải đi trước một bước.Nguồn vốn NSNN hàng năm tập trung vào giải quyết tình trạng xuống cấp của bề mặt đường, tình trạng ngập lụt mỗi khi mùa mưa đến, tình trạng tắc đường tại các nút giao thông mỗi khi vào giờ cao điểm ở các nút giao thông chính.Một số dự án trọng điểm đã được hoàn thành như nút giao thông Ngã Tư Sở, xây dựng đường Kim Liên mới…đã làm giảm đáng kể tình trạng tắc đường và cũng đang bắt đầu triển khai một số dự án lớn đạt tiêu chuẩn với tổng mức đầu tư lớn. Đầu tư phát triển giao thông đường bộ theo vùng lãnh thổ: lãnh thổ nước ta được chia thành 7 vùng lãnh thổ bao gồm vùng trung du và miền núi phía bắc, vùng đồng bằng sông Hồng, vùng Bắc trung bộ, vùng Duyên Hải miền trung, vùng tây nguyên, vùng đông nam bộ và vùng đồng bằng sông Cửu Long.Vốn đầu tư phát triển hạ tầng GTĐB tập trung vào hai vùng lãnh thổ đó là vùng đồng bằng sông Hồng và vùng vùng đông nam bộ, điều này là dễ hiểu vì đó là 2 khu vực có 2 thành phố lớn nhất cả nước là thành phố Hà Nội ở vùng đồng bằng sông Hồng và thành phố Hồ Chí Minh ở vùng đông nam bộ.Các vùng kinh tế kém phát triển hơn như vùng tây nguyên hay vùng trung du và miền núi phía bắc chiếm tỷ trọng thấp đòi hỏi trong thời gian tới cần có chính sách quan tâm đến các vùng này để đảm bảo sự công bằng trong phát triển.Tỷ trọng các vùng kém phát này thường chiếm nhỏ hơn 10% so với tổng số vốn hàng năm như vùng trung du và miền núi phía bắc trong giai đoạn 2003-2008 thì vốn năm chiếm tỷ trọng cao nhất là 2004 nhưng cũng chỉ chiếm 9.64 % tổng số vốn đầu tư từ NSNN. Nhờ có vốn đầu tư từ NSNN kết hợp với các nguồn vốn đầu tư khác mà hạ tầng giao thông đường bộ trong thời gian qua đã đạt những kết quả và hiệu quả nhất định.Trước hết là những kết quả đã đạt được: hệ thống mạng lưới đường bộ không ngừng tăng lên cả về chất lượng và số lượng, đến năm 2000 cả nước mới chỉ có khoảng 172479 km đường bộ nhưng đến hết năm 2008 con số này đã tăng lên là 222179 km đường bộ(tăng 49700 km so với năm 2000).Về chất lượng tốc độ phát triển hạ tầng GTĐB đang tăng theo cùng tốc độ đô thị hoá của đất nước, nếu như năm 2000 đường đô thị mới có 3211 km thì đến năm 2008 đã là 6654 km(gấp hơn 2 lần sau 8 năm phát triển),các con đường xã dần biến mất và được nâng cấp lên thành các con đường huyện, tỉnh, và đường quốc lộ.Số lượng cầu mới cũng tăng vọt,tính đến nay toàn hệ thống có khoảng 28161 cây cầu với chiều dài khoảng 642606 m trong đó có rất nhiều cây cầu đạt tiêu chuẩn quốc tế như cầu dây văng dài nhất Việt Nam đang được khởi công xây dựng là cầu Nhật Tân hay một số cây cầu đã hoàn thành và đi vào hoạt động như cầu Thanh Trì,cầu Bắc Giang… Do tính chất của nguồn vốn NSNN và đặc điểm của đầu tư phát triển hạ tầng GTĐB nói riêng và GTVT nói chung nên hiệu quả của hoạt đọng đầu tư hạ tầng GTĐB không được tính trực tiếp mà nó được thông qua các ngành và các lĩnh vực khác: trước hết hiệu quả được thể hiện ở khối lượng hành khách và hàng hoá được vận chuyển qua đường bộ.Khối lượng hành khách và hàng hoá được vận chuyển cũng như luân chuyển qua hệ thống hạ tầng giao thông đường bộ không ngừng tăng lên và nhiều hơn hẳn so với các loại đường khác.Hiệu quả thứ hai được xem xét đến là tốc độ tăng trưởng kinh tế hàng năm.Hiệu quả của đầu tư phát triển hạ tầng GTĐB đã gián tiếp làm tăng tốc độ phát triển kinh tế của Việt Nam trong thời gian qua,nhờ có hạ tầng GTĐB tốt mà thời gian giao lưu buôn bán và đi lại giữa các vùng được dễ dàng, hàng hoá được sản xuất ra dễ dàng đến tay người tiêu dùng, đóng góp lớn vào GDP hàng năm và cũng nhờ có hạ tầng GTĐB phát triển mà ngành du lịch cũng phát triển đây là ngành đang dần chiếm tỷ trọng lớn trong tổng sản phẩm quốc nội, và cũng nhờ nó mà trong thời gian qua các nguồn vốn trong nước và ngoài nước đang liên tục được đầu tư vào Việt Nam giúp Việt Nam thoát khỏi cái vòng luẩn quẩn của sự phát triển.Hiệu quả của đầu tư phát triển hạ tầng giao thông đường bộ cũng được thể hiện qua mức sống của người dân ngày càng tăng,mạng lưới đường bộ ngày càng hoàn chỉnh sẽ tạo điều kiện để người dân ở các tỉnh vùng sâu vùng xa lên các đô thị kiếm việc làm,cải thiện mức sống…điều này làm giảm tỉ lệ thất nghiệp, đây là một trong những giải pháp tốt để giải quyết các vấn đề xã hội. Bên cạnh những kết quả và hiệu quả đạt được, đầu tư phát triển hạ tầng GTĐB vẫn còn nhiều điểm chưa tích cực cả trong khâu huy động và sử dụng vốn.Trước tiên là trong khâu huy động vốn: các chế tài nhằm nâng cao công tác huy động vốn chưa được rõ ràng cũng như chưa có biện pháp nghiêm ngặt để có thể huy động vốn tối đa cho đầu tư phát triển như công tác thu phí cầu đường hay các chi phí lưu hành…, chưa có các kế hoạch huy động vốn dài hạn. Đầu tư phát triển GTĐB cũng bộc lộ những tồn tại trong khâu quản lý và sử dụng vốn như: tình trạng đầu tư dàn trải, phân tán thể hiện qua việc bố trí vốn đầu tư, công tác quy hoạch, chuẩn bị đầu tư, thực hiện đầu tư còn nhiều bất cập,nhiều dự án được phân bổ vốn nhưng chưa có quyết định đầu tư…; công tác đấu thầu cũng có một số vấn đề như tình trạng một số nhà thầu tham gia bỏ thầu ở mức thấp để giành được gói thầu nhưng khi thực hiện lại không thể làm được nên gây ảnh hưởng đến tiến độ thi công và chất lượng công trình; công tác lập quy hoạch, khảo sát thiết kế chưa cao còn nhiều sai sót; tình trạng nợ đọng vốn thanh toán cũng xảy ra tương đối phổ biến. Vẫn còn những tồn tại như trên là do một số nguyên nhân cơ bản như:Các nguyên nhân khách quan chủ yếu là do nhu cầu vốn đầu tư phát triển GTĐB luôn cần số lượng lớn trong khi hạ tầng đường bộ lại xuống cấp nhanh chóng nên nhu cầu vốn lại càng cao mà điều kiện NSNN có hạn nên ảnh hưởng lớn đến công tác lập kế hoạch hay do nền kinh tế có tốc độ tăng trưởng cao nhưng tổng sản phẩm quốc nội vẫn thấp nên tích luỹ cho đầu tư vẫn thấp ảnh hưởng trực tiếp đến nguồn vốn huy động cho đầu tư, thị trường vốn của nước ta mới hình thành và phát triển trong thời gian ngắn nên các công cụ vốn chưa linh hoạt ảnh hưởng đến quá trình huy động vốn và do các phương tiện vận tải của nước ta tăng trưởng quá nhanh nên vốn NSNN đầu tư phát triển hạ tầng đường bộ không đáp ứng được tốc độ tăng trưởng đó.Bên cạnh những nguyên nhân khách quan là những nguyên nhân chủ quan đòi hỏi cần phải có những giải pháp khắc phục trong thời gian tới để nâng cao hiệu quả sử dụng vốn NSNN cho đầu tư phát triển hạ tầng GTĐB như:công tác xây dựng kế hoạch huy động vốn còn chưa cao; sự phối hợp giữa các bộ ngành ở trung ương cũng như địa phương còn chưa có sự thống nhất chặt chẽ; công tác kiểm soát thanh tra và thanh toán vốn đầu tư còn nhiều hạn chế gây nên tình trạng lãng phí, thất thoát; cơ chế chính sách liên quan đến huy động quản lý và sử dụng vốn NSNN cũng chưa đồng bộ, hoàn chỉnh; hay do tình trạng chuyên môn và tay nghề của đội ngũ cán bộ còn thấp chưa đáp ứng được yêu cầu của các công việc đặt ra… Quan điểm đầu tư phát triển giao thông đường bộ đến 2020 là: GTĐB là một bộ phận quan trọng trong kết cấu kinh tế-xã hội nói chung và kết cấu hạ tầng giao thông nói riêng; coi trọng việc duy trì, củng cố, nâng cấp để tận dụng tối đa năng lực kết cấu hạ tầng giao thông hiện có đồng thời với việc xây dựng công trình mới thực sự có nhu cầu, tăng năng lực hạ tầng giao thông đường bộ; phát triển giao thông đường bộ một cách hợp lý , đồng bộ trong một quy hoạch thống nhất có sự phân công, phân cấp hợp tác liên kết giữa các phương thức vận tải phù hợp với điều kiện địa lý, tạo thành mạng lưới giao thông xuyên suốt và có hiệu quả trên phạm vi toàn quốc; phát huy tối đa lợi thế địa lý của đất nước, phát triển hệ thống GTĐB phục vụ phát triển kinh tế đối ngoại, hội nhập khu vực và quốc tế; phát triển giao thông nông thôn đặc biệt là giao thông ở vùng núi, vùng sâu, vùng xa, vùng căn cứ cách mạng, vùng biên giới, hỗ trợ đắc lực các chương trình xoá đói giảm nghèo, phát triển kinh tế- xã hội tại các vùng này; đẩy mạnh việc ứng dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật, vật liệu mới công nghệ mới vào các lĩnh vực thiết kế, xây dựng, khai thác GTĐB; phát huy nội lực, thực hiện các giải pháp tạo nguồn vốn để đầu tư. Để thực hiện theo những quan điểm đó và theo theo quy hoạch phát triển của ngành GTĐB nói riêng và quy hoạch phát triển Kinh tế-xã hội của đất nước thì cần phải thực hiện một số giải pháp như: Hoàn thiện công tác lập quy hoạch, kế hoạch phát triển GTĐB:Quy hoạch và kế hoạch có ý nghĩa quan trọng, quyết định đến chất lượng và hiệu quả của hoạt động đầu tư phát triển vào hạ tầng GTĐB.Về nguyên tắc thì công tác lập quy hoạch phải đi trước một bước tuy nhiên công tác quy hoạch của nước ta còn nhiều hạn chế, không rõ ràng, cụ thể khiến cho hiệu quả của hoạt động đầu tư phát triển hạ tầng GTĐB bằng nguồn vốn NSNN trong thời gian qua còn bộc lộ nhiều hạn chế. Xây dựng các giải pháp về chính sách tạo vốn NSNN như tiến hành thu phí các đối tượng sử dụng trực tiếp kết cấu hạ tầng GTĐB trên cớ ở quy hoạch mạng lưới trạm thu phí giao thông, tiến hành quy định mức lệ phí hợp lý thống nhất cho từng đối tượng tham gia giao thông; tiến hành phụ thu qua giá xăng dầu, thu phí các xe có trọng tải nặng; tiến hành thu phí các phương tiện giao thông hay xây dựng các quỹ đường bộ để quản lý tốt nguồn vốn… Thực hiện các giải pháp tăng cường hiệu quả công tác quản lý nhà nước: nghiên cứu sắp xếp lại các đơn vị quản lý sao cho thống nhất tránh tình trạng chồng chéo giữa các bộ, ngành và các địa phương, sắp xếp lại các đơn vị quản lý sao cho bộ máy quản lý gọn nhẹ, hoạt động có hiệu quả; về công tác điều hành thì các cơ quan quản lý nhà nước cũng càn rà soát lại hệ thống văn bản từ khâu tạm ứng đến thanh toán và quyết toán vốn đầu tư; hoàn thiện các tiêu chuẩn định mức kinh tế-kỹ thuật, đơn giá hợp lý cề xây dựng và sửa chữa các công trình đường bộ; tăng cường trách nhiệm của các ban quản lý dự án, thực hiện tốt nguyên tắc quản lý theo ngành và lãnh thổ. Tăng cường công tác giám sát chất lượng, tiến độ xây dựng và thanh tra, kiểm tra tài chính đối với các dự án đường bộ: đây là công việc đặc biệt quan trọng và có tác dụng trực tiếp trong việc thất thoát, lãng phí từ các công trình giao thông; việc sử dụng tiết kiệm đúng mục đích vốn NSNN sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả sử dụng vốn NSNN cũng như chất lượng các công trình đường bộ.Tổ chức theo dõi thường xuyên việc theo dõi, nắm tình hình các dự án đầu tư công trình giao thông có vốn NSNN cũng như tình hình đầu tư xây dựng của các bộ, ngành, địa phương; việc theo dõi, nắm bắt tình hình đảm bảo thông tin kịp thời cho việc lập kế hoạch thanh tra hoặc tiến hành thanh tra đột xuất với các công trình thấy xuất hiện nhiều sai phạm.Sau khi tiến hành thanh tra phải đưa ra các kết luận và kiến nghị thanh tra chính xác, chặt chẽ, rõ ràng tránh tình trạng nể nang, tham nhũng vốn đầu tư của NSNN.Làm tốt công tác này sẽ đưa ra được các quyết định thích hợp và những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn và chất lượng công trình. Thực hiện các giải pháp làm tăng hiệu quả công tác giải phóng mặt bằng vì đây đang là một trong những vấn đề đáng quan tâm nhất trong công cuộc đầu tư phát triển hạ tầng GTĐB do công tác giải phóng mặt bằng ảnh hưởng lớn tiến độ thi công của nhiều dự án cũng như ảnh hưởng trực tiếp đến quy hoạch cũng như chiến lược đầu tư của nhà nước mà thực tế cho thấy nhiều công trình đã bị chậm trễ vài năm.Một số giải pháp cần phải thực hiện như xây dựng quy hoạch trung và dài hạn một cách chi tiết, công bố rộng rãi quy hoạch đất đâu cả quỹ đất cho xây dựng đường và quỹ đất hành lang bảo vệ đường, điều chỉnh giá đền bù hợp lý với giá trị đất đai của từng địa phương và địa bàn trong từng thời kỳ nhất định… Bảo vệ môi trường là mục tiêu phát triển chung của bất cứ quốc gia nào khi tiến tới mục tiêu phát triển bền vững và Việt Nam cũng không nằm ngoài mục tiêu đó chính vì vậy cần phải thực hiện các giải pháp cụ thể nhằm đạt được các mục tiêu về môi trường: Xây dựng các biểu phí xử phạt đánh vào các phương tiện vận tải cũ hay những phương tiện vận tải gây ô nhiễm môi trường, buộc các chủ phương tiện nộp các khoản phí cho việc xả thải khí ô nhiễm ra môi trường xung quanh; xây dựng các chương trình khuyến khích cho các dự án không gây ô nhiễm môi trường và tiến hành xử phạt các sự án tiền hành đầu tư không đạt các tiêu chuẩn về môi trường. Để phát huy được hiệu quả sử dụng vốn NSNN trong phát triển kinh tế xã hội nói chung cũng như đầu tư phát triển GTĐB nói riêng thì chất lượng nguồn nhân lực cần phải được ưu tiên hàng đầu.Trước hết cần xây dựng những chiến lược phát triển giáo dục đào tạo nguồn nhân lực thực hiện các chương trình đào tạo đồng bộ đặc biệt chú tâm vào kỹ năng quản lý dự án, kỹ năng xây dựng; thực hiện đa phương hoá, đa dạng hoá các phương thức và cách thức đào tạo, mở rộng hợp tác đào tạo với nước ngoài đặc biệt là các nước có kinh nghiệm trong quản lý và đầu tư xây dựng giao thông đường bộ; tăng cường đào tạo về luật pháp, chính sách sử dụng vốn nhà nước; thực hiện chế độ tuyển dụng cán bộ thông qua thi tuyển và kiểm tra chặt chẽ nhằm chọn được những cán bộ tốt nhất tuy nhiên cũng cần có những chính sách khuyến khích và thưởng phạt một cách hợp lý nhằm kích thích tinh thần làm việc của các cán bộ. Xây dựng và thực hiện các giải pháp về đầu tư phát triển khoa học công nghệ như tăng cường công tác nghiên cứu ứng dụng các thành tựu khoa học công nghệ vào trong quản lý cũng như trong thi công các công trình đường bộ, áp dụng các tiêu chuẩn kỹ thuật quốc tế phù hợp với điều kiện của Việt Nam; sử dụng các công nghệ và dây chuyền hiện đại được nhập khẩu từ các nước tiên tiến; khuyến khích đầu tư vào các dự án áp dụng các công nghệ hiện đại. Hoàn thiện cơ chế đầu thầu và tăng cường quản lý công tác đấu thầu: trong thời gian qua công tác đấu thầu đã bộc lộ nhiều yếu kém làm ảnh hưởng đến chất lượng, tiến độ của dự án do quy chế đầu thầu chưa hoàn thiện và thiếu thông tin nên trước tiên để đảm bảo tính công khai minh bạch thì bộ giao thông, bộ kế hoạch và đầu tu, bộ tài chính cần lập kế hoạch đầu thầu dự án rộng rãi dưới hình thức cạnh tranh rộng rãi để có thể lựa chọn được các nhà thầu phù hợp, quản lý đầu thầu cần phải thực hiện xuyên suốt từ khâu chuẩn bị đến khâu tổ chức đầu thầu, đánh giá sơ bộ dự thầu, lựa chọn nhà thầu và kí kết hợp đồng; cần công khai hoá công tác đầu thầu trên những tờ báo có uy tín hay trên mạng để nhà thầu tiện theo dõi. Thực hiện các giải pháp tăng cường đầu tư giao thông đô thị và giao thông nông thôn.Trước tiên là các giải pháp về giao thông đô thị như hạn chế các phương tiện vận tải các nhân như ô tô, xe máy bằng cách tăng mức phí đăng ký mới với các phương tiện, thắt chặt các điều kiện đăng ký xe; xây dựng và phê duyệt chi tiết phát triển mạng lưới giao thông tránh sự chồng chéo giữa các dự án; tăng cường quản lý trật tự an toàn giao thông, xử phạt nghiêm khắc các hành vi vi phạm an toàn giao thông.Còn đối với giao thông nông thôn thì cần phải tiếp tục khuyến khích người dân cùng nhà nước tham gia đầu tư, điều này không những giúp cho vốn NSNN đạt được hiệu quả cao hơn mà còn nâng cao được trách nhiệm của người dân. Cơ sở hạ tầng giao thông đường bộ là huyết mạch của nền kinh tế và của đất nước do vậy trong quá trình phát triển của bất cứ quốc gia nào giao thông đường bộ luôn nhận được sự quan tâm đặc biệt và ở Việt Nam cũng vậy hàng năm vốn đầu tư cho phát triển hạ tầng GTĐB luôn có tỷ trọng cao so với các ngành khác.Trong thời gian tới khi Việt Nam đã chính thức trở thành thành viên của tổ chức thương mại thế giời WTO thì vốn NSNN vẫn là nguồn vốn chủ đạo và nó tập trung vào phát triển cơ sỏ hạ tầng đường hộ theo tiêu chuẩn quốc tế và ngày càng hiện đại để đáp ứng được tốc độ phát triển nhanh của nền kinh tế trong những năm tới. ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc21319.doc
Tài liệu liên quan