Đầu tư phát triển nuôi trồng thuỷ sản - Thực trạng & Giải pháp

lời nói đầu Thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII về chiến lược ổn định và phát triển kinh tế - xã hội và kế hoạch 5 năm 1996 - 2000, Ngành Thủy sản Việt Nam đã có nhiều nỗ lực phát huy mọi nguồn lực của xã hội vào đầu tư phát triển và tổ chức tốt sản xuất kinh doanh Thủy sản. Ngành đã đạt được thành tựu to lớn trong sản xuất kinh doanh, khẳng định được vai trò là một ngành kinh tế mũi nhọn của đất nước. Xác định chiến lược phát triển dài hạn với định hướng rõ rệt trong từng

doc90 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1340 | Lượt tải: 1download
Tóm tắt tài liệu Đầu tư phát triển nuôi trồng thuỷ sản - Thực trạng & Giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
thời kì, đổi mới mạnh mẽ cơ cấu kinh tế, đưa nuôi trồng thuỷ sản thành một hướng cân đối chiến lược ngang tầm khai thác biển, đã tạo nên những chuyển biến rõ rệt trong Ngành, đưa vị thế của Thuỷ sản Việt Nam trên trường quốc tế không ngừng được củng cố và mở rộng. Đạt được những thành tựu như vậy là nhờ hoạt động đầu tư phát triển không ngừng của Ngành trong thời gian qua, đặc biệt là trong lĩnh vực nuôi trồng thủy sản. Để tạo điều kiện cho Ngành Thủy sản phát triển hơn nữa, hòa nhập với sự phát triển chung của nền kinh tế khi bước vào thiên niên kỉ mới, sự cần thiết là đề ra các giải pháp phù hợp nhằm đẩy mạnh đầu tư phát triển trong lĩnh vực nuôi trồng thủy sản góp phần đưa Ngành Thủy sản phát triển thành ngành kinh tế mũi nhọn trong nền kinh tế quốc dân. Nhận thức được vấn đề đó em đã mạnh dạn lựa chọn đề tài "Đầu tư phát triển nuôi trồng thuỷ sản - Thực trạng và giải pháp" cho luận văn tốt nghiệp của mình. Với đề tài này, nội dung của luận văn được chia làm 3 phần chính (ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục và các tài liệu tham khảo): Chương I: Những vấn đề lý luận chung về đầu tư và Ngành Thủy sản Chương II: Thực trạng đầu tư phát triển nuôi trồng thủy sản ở nước ta giai đoạn 1996-2000 Chương III: Các giải pháp tăng cường đầu tư phát triển nuôi trồng thủy sản giai đoạn 2001-2010 Để hoàn thành được đề tài này, trong suốt quá trình thực tập em luôn nhận được sự giúp đỡ nhiệt tình của cô giáo Nguyễn Thị Thu Hà, các thầy cô giáo trong bộ môn Kinh tế đầu tư, các cô chú ở Vụ Kế hoạch và Đầu tư - Bộ Thủy sản, đặc biệt là chú Nguyễn Duy Vĩnh- chuyên viên của Vụ Kế hoạch và Đầu tư - Bộ Thủy sản về phương pháp nghiên cứu, bố cục, cách viết một chuyên đề, cũng như những kiến thức thực tế cần thiết khác. Qua đây, em muốn gửi lời cảm ơn chân thành nhất tới cô giáo Nguyễn Thị Thu Hà, các thầy cô giáo trong bộ môn Kinh tế đầu tư, chú Nguyễn Duy Vĩnh và các cô chú trong Vụ Kế hoạch và Đầu tư - Bộ Thủy sản đã chỉ dẫn, giúp đỡ tận tình em trong quá trình hoàn thiện bài viết này. Tuy nhiên, do trình độ lí luận cũng như trình độ hiểu biết còn non kém nên bài viết của em không tránh khỏi những thiếu sót. Em rất mong nhận được những ý kiến đóng góp, sự chỉ bảo tận tình của các thầy cô giáo và các cô chú để em có thể hoàn thiện đề tài của mình. Hà Nội, tháng 5 năm 2001 Sinh viên: Trần Thị Thanh Bình Chương 1 : Những vấn đề lý luận chung I - Những vấn đề lý luận chung về đầu tư 1. Khái niệm, bản chất và đặc điểm của đầu tư 1.1. Khái niệm về đầu tư Xuất phát từ phạm vi phát huy tác dụng của các kết quả đầu tư chúng ta có thể có những cách hiểu khác nhau về đầu tư. Theo nghĩa rộng, đầu tư là sự hi sinh các nguồn lực ở hiện tại để tiến hành các hoạt động nào dó nhằm thu về cho người đầu tư các kết quả nhất định trong tương lai lớn hơn các nguồn lực đã bỏ ra để đạt được các kết quả đó. Nguồn lực có thể là tiền, là tài nguyên thiên nhiên, là sức lao động và trí tuệ. Những kết quả đó có thể là sự tăng thêm các tài sản tài chính, tài sản vật chất, tài sản trí tuệ và nguồn nhân lực có đủ điều kiện để làm việc với năng suất cao hơn trong nền sản xuất xã hội. Trong các kết quả đã đạt được trên đây, những kết quả là tài sản vật chất, tài sản trí tuệ, là nguồn nhân lực tăng thêm có vai trò quan trọng trong mọi lúc mọi nơi, không chỉ đối với người bỏ vốn mà còn đối với cả nền kinh tế. Những kết quả này không chỉ người đầu tư mà cả nền kinh tế được thụ hưởng. Theo nghĩa hẹp, đầu tư chỉ bao gồm những hoạt động sử dụng các nguồn lực ở hiện tại nhằm đem lại cho nền kinh tế xã hội những kết quả trong tương lai lớn hơn các nguồn lực đã sử dụng để đạt được các kết quả đó. Phạm trù đầu tư theo nghĩa hẹp được gọi là đầu tư phát triển. Từ đó ta có định nghĩa: Đầu tư phát triển là hoạt động sử dụng các nguồn lực tài chính, nguồn lực vật chất, nguồn lực lao động và trí tuệ để xây dựng, sửa chữa nhà cửa và cấu trúc hạ tầng, mua sắm trang thiết bị và lắp đặt chúng trên nền bệ, bồi dưỡng đào tạo nguồn nhân lực, thực hiện chi phí thường xuyên gắn liền với sự hoạt động của các tài sản này nhằm duy trì tiềm lực hoạt động của các cơ sở đang tồn tại và tạo tiềm lực mới cho nền kinh tế xã hội, tạo việc làm và nâng cao đời sống của mọi thành viên trong xã hội. Như vậy, đầu tư trên giác độ nền kinh tế là sự hi sinh những giá trị ở hiện tại gắn với việc tạo ra các tài sản mới cho nền kinh tế. Các hoạt động mua bán, phân phối lại, chuyển giao tài sản hiện có giữa các cá nhân, các tổ chức không phải là đầu tư đối với nền kinh tế. Ngoài ra, có thể hiểu khái niệm đầu tư theo quan điểm tái sản xuất mở rộng. Đầu tư thực chất là quá trình chuyển hóa vốn thành các yếu tố cần thiết cho việc tạo ra các năng lực sản xuất, tạo ra các yếu tố cơ bản, tiên quyết cho quá trình phát triển sản xuất. Đây là hoạt động mang tính chất thường xuyên của mọi nền kinh tế và là cơ sở của mọi sự phát triển và tăng trưởng kinh tế. Đầu tư vào các hoạt động kinh tế luôn biểu hiện dưới những mục tiêu kinh tế xã hội. Chính vì vậy, các hoạt động đầu tư luôn phải vạch ra các mục tiêu cụ thể. Xác định mục tiêu cụ thể là yếu tố đảm bảo cho hoạt động đầu tư đem lại hiệu quả cao. Từ sự phân tích trên, ta thấy bản chất của đầu tư là một hoạt động kinh tế, là một bộ phận của hoạt động sản xuất kinh doanh của các cơ sở. Đó là tất cả những sự hi sinh tiêu dùng ở hiện tại cả về tiềm lực vật chất, phi vật chất, con người, tài nguyên, tiềm năng tài chính, phi tài chính, hữu hình và vô hình... với mục đích tạo mới, hoặc tái tạo tư bản nhằm hướng tới sự tiêu dùng trong tương lai tốt hơn. Như vậy, nếu nghiên cứu kĩ quá trình chu chuyển đầu tư ta thấy, đầu tư là cơ sở hình thành tư bản, trong đó có cả tài sản cố định, vốn sản xuất và nguồn nhân lực (tư bản con người). 1.2. Đặc điểm của đầu tư Xuất phát từ bản chất và lợi ích do đầu tư đem lại chúng ta có thể phân biệt các loại đầu tư sau: Đầu tư tài chính: là loại đầu tư trong đó người có tiền bỏ tiền ra cho vay hoặc mua các chứng chỉ có giá để hưởng lãi suất. Đầu tư tài chính không tạo ra tài sản mới cho nền kinh tế (nếu không xét đến quan hệ quốc tế trong lĩnh vực này) mà chỉ làm tăng giá trị tài sản tài chính của các tổ chức, cá nhân đầu tư. Với sự hoạt động của hình thức đầu tư tài chính, vốn bỏ ra đầu tư được lưu chuyển dễ dàng, khi cần có thể rút ra một cách nhanh chóng. Điều đó khuyến khích người có tiền bỏ ra để đầu tư. Để giảm độ rủi ro họ có thể đầu tư vào nhiều nơi, mỗi nơi một ít tiền. Đây là một nguồn cung cấp vốn quan trọng cho đầu tư phát triển. Đầu tư thương mại: là loại đầu tư trong đó người có tiền bỏ tiền ra để mua hàng hóa và sau đó đem bán lại với giá cao hơn nhằm thu lợi nhuận do chênh lệch giá khi mua và khi bán. Loại đầu tư này cũng không tạo ra tài sản mới cho nền kinh tế (nếu không xét đến ngoại thương), và chỉ làm tăng tài sản tài chính của người đầu tư trong quá trình mua đi bán lại, chuyển giao quyền sở hữu hàng hóa giữa người bán với người đầu tư và người đầu tư với khách hàng của họ. Tuy nhiên, đầu tư thương mại có tác dụng thúc đẩy quá trình đầu tư phát triển, tăng thu cho ngân sách, tăng tích lũy cho phát triển sản xuất kinh doanh dịch vụ nói riêng và nền sản xuất xã hội nói chung. Đầu tư phát triển: là loại đầu tư tài sản vật chất và sức lao động trong đó người có tiền bỏ tiền ra để tiến hành các hoạt động nhằm tạo ra tài sản mới cho nền kinh tế, tăng tiềm lực sản xuất kinh doanh và mọi hoạt động xã hội khác, là điều kiện chủ yếu để tạo việc làm, nâng cao đời sống của mọi người dân trong xã hội. Từ sự phân biệt các loại đầu tư trên, ta thấy chỉ có đầu tư phát triển mới tạo ra tài sản mới cho nền kinh tế quốc dân. Và do đó, đầu tư phát triển có những đặc điểm khác biệt so với loại hình đầu tư khác, được thể hiện ở các khía cạnh sau: + Đầu tư là hoạt động bỏ vốn nên việc quyết định đầu tư thường là quyết định tài chính. Vốn được hiểu như là các nguồn lực sinh lợi dưới các hình thức khác nhau, nhưng vốn có thể được xác định dưới các hình thức tiền tệ. Vì vậy, các quyết định đầu tư thường được xem xét ở phương diện tài chính (tổn phí bao nhiêu, có khả năng thực hiện không? Có khả năng thu hồi vốn không? Mức sinh lợi là bao nhiêu?...). Trên thực tế hoạt động đầu tư và các quyết định chi tiêu (đầu tư) thường được cân nhắc bởi sự hạn chế của Ngân sách (Nhà nước, địa phương, cá nhân...) và luôn được xem xét ở khía cạnh tài chính nói trên. Nhiều dự án có thể khả thi ở những phương diện khác (kinh tế-xã hội, môi trường), nhưng không khả thi về phương diện tài chính và vì thế dự án cũng không thực hiện được trên thực tế. + Đầu tư là hoạt động có tính chất lâu dài; tiền, vật tư, lao động cần huy động lớn. Khác với hoạt động đầu tư thương mại và đầu tư tài chính, đầu tư phát triển thường có tính chất lâu dài, thời gian từ lúc tiến hành đầu tư cho đến khi thành quả của nó phát huy tác dụng thường đòi hỏi nhiều năm tháng với nhiều biến động xảy ra. Trong quá trình đầu tư phải huy động một số vốn lớn và để nằm khê đọng trong suốt quá trình thực hiện đầu tư, không tham gia vào quá trình chu chuyển, nên nó không sinh lợi cho nền kinh tế. Đây là cái giá phải trả khá lớn của đầu tư phát triển. Mặt khác, thời gian cần hoạt động để có thể thu hồi đủ vốn đã bỏ ra đối với các cơ sở vật chất kĩ thuật phục vụ sản xuất kinh doanh thường đòi hỏi nhiều năm tháng, do đó không tránh khỏi sự tác động hai mặt tích cực và tiêu cực của các yếu tố không ổn định về tự nhiên, xã hội, chính trị, kinh tế... + Hoạt động đầu tư là hoạt động cần cân nhắc giữa lợi ích ở hiện tại nhằm mong muốn có được lợi ích trong tương lai. Vì vậy, luôn luôn có sự cân nhắc, so sánh giữa lợi ích ở hiện tại và lợi ích trong tương lai. Rõ ràng, nhà đầu tư mong muốn và chấp nhận chỉ trong điều kiện lợi ích thu được trong tương lai lớn hơn lợi ích ở hiện tại mà họ tạm thời phải hi sinh. + Các thành quả của hoạt động đầu tư phát triển là các công trình xây dựng sẽ hoạt động ở ngay nơi mà nó được tạo nên. Do đó, các điều kiện về địa hình tại đó có ảnh hưởng lớn đến quá trình thực hiện đầu tư cũng như tác dụng sau này của các kết quả đầu tư. + Đầu tư là hoạt động mang tính rủi ro. Hoạt động đầu tư một mặt là sự đánh đổi lợi ích ở hiện tại và quá trình thực hiện diễn ra trong một thời gian dài không cho phép nhà đầu tư lường hết những thay đổi có thể xảy ra trong quá trình thực hiện đầu tư so với dự tính. Mặt khác, các kết quả và hiệu quả hoạt động của các thành quả đầu tư chịu nhiều ảnh hưởng của các nhân tố bất ổn định theo thời gian và điều kiện địa lí của không gian. Do hoạt động đầu tư phát triển có đặc điểm như trên nên để đảm bảo cho mọi công cuộc đầu tư đem lại hiệu quả kinh tế xã hội cao đòi hỏi phải thực hiện đầu tư theo dự án. 2. Vai trò của đầu tư trong nền kinh tế Từ việc xem xét khái niệm, bản chất và đặc điểm của đầu tư phát triển, các lí thuyết kinh tế, cả lí thuyết kinh tế kế hoạch hóa tập trung và lí thuyết kinh tế thị trường đều coi đầu tư phát triển là nhân tố quan trọng để phát triển kinh tế, là chìa khóa của sự tăng trưởng. Vai trò này của đầu tư được thể hiện ở những mặt sau: 2.1.Trên giác độ toàn bộ nền kinh tế Là một bộ phận của tổng cầu và tổng cung, đầu tư ảnh hưởng mạnh mẽ tới cân bằng cung - cầu. Là bộ phận lớn và hay thay đổi trong tổng chi tiêu, đầu tư có vai trò kinh tế vĩ mô. Trong ngắn hạn, đầu tư ảnh hưởng đến sản lượng và thu nhập: khi tổng cung chưa kịp thay đổi (do độ trễ thời gian của đầu tư), sự tăng lên của đầu tư làm tổng cầu tăng theo, đường cầu dịch chuyển sang phải (đồ thị). ở điểm cân bằng, giá tăng và sản lượng tăng. S P1 E1 S’ E0 P0 Eo P2 E2 D D’ Q 0 Q0 Q1 Q2 Q (Hình 1) Trong dài hạn, đầu tư tăng làm sản lượng tăng lên, đường cung dịch chuyển sang phải. ở điểm cân bằng, giá giảm và sản lượng tăng thu nhập của người sản xuất tăng, dẫn đến tăng tích luỹ, có tác dụng mở rộng năng lực sản xuất. Vì vậy, về mặt dài hạn thì đầu tư làm tăng sản lượng tiềm năng, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Hơn nữa, để có thể tăng trưởng nhanh với tốc độ mong muốn kinh nghiệm của các nước trên thế giới cho thấy là tăng cường đầu tư nhằm tạo ra sự phát triển nhanh mọi khu vực. Về cơ cấu lãnh thổ, đầu tư có tác dụng giải quyết những mất cân đối về phát triển giữa các vùng lãnh thổ, đưa những vùng kém phát triển thoát khỏi tình trạng đói nghèo, phát huy tối đa những lợi thế so sánh về tài nguyên, địa thế, kinh tế, chính trị... của những vùng có khả năng phát triển nhanh hơn, làm bàn đạp thúc đẩy những vùng khác cùng phát triển. Mặt khác, để đạt được tốc độ tăng trưởng ở mức trung bình thì tỉ lệ đầu tư phải đạt được từ 15 - 20% so với GDP tuỳ thuộc vào ICOR của mỗi nước. Mức tăng GDP = Vốn đầu tư --------------------- I COR Nếu như hệ số ICOR không đổi, mức tăng GDP hoàn toàn phụ thuộc vào vốn đầu tư. Chỉ tiêu ICOR của mỗi nước phụ thuộc vào nhiều nhân tố, thay đổi theo trình độ phát triển kinh tế và cơ chế chính sách trong nước. Kinh nghiệm các nước cho thấy, chỉ tiêu ICOR phụ thuộc mạnh vào cơ cấu kinh tế và hiệu quả đầu tư trong các ngành, các vùng lãnh thổ cũng như phụ thuộc vào hiệu quả của chính sách kinh tế nói chung. Thông thường ICOR trong nông nghiệp thấp hơn ICOR trong công nghiệp, ICOR trong giai đoạn chuyển đổi cơ chế thường cao chủ yếu do tận dụng năng lực sản xuất. Ngoài những tác động về kinh tế, đầu tư còn động lực thúc đẩy sự phát triển của khoa học và công nghệ cũng như các mặt của xã hội như văn hoá, giáo dục, vui chơi, giải trí... 2.2 Đối với các cơ sở sản xuất kinh doanh, dịch vụ Đầu tư quyết định sự ra đời, tồn tại và phát triển của mỗi cơ sở. Chẳng hạn, để tạo dựng cơ sở vật chất kĩ thuật cho sự ra đời của bất kì cơ sở nào đều cần phải xây dựng nhà xưởng, cấu trúc hạ tầng, mua sắm và lắp đặt máy móc thiết bị trên nền bệ, tiến hành các công tác xây dựng cơ bản và thực hiện các chi phí khác gắn liền với sự hoạt động trong một chu kì của các cơ sở vật chất-kĩ thuật vừa tạo ra. Các hoạt động này chính là hoạt động đầu tư đối với các cơ sở sản xuất, kinh doanh dịch vụ đang tồn tại: sau một thời gian hoạt động, các cơ sở vật chất-kĩ thuật của các cơ sở này hao mòn, hư hỏng hoặc đổi mới để thích ứng với điều kiện hoạt động mới của sự phát triển khoa học - kĩ thuật và nhu cầu tiêu dùng của nền sản xuất xã hội, phải mua sắm các trang thiết bị mới thay thế cho các trang thiết bị cũ đã lỗi thời, cũng có nghĩa là phải đầu tư. Đối với các cơ sở vô vị lợi (hoạt động không để thu lợi nhuận cho bản thân mình) đang tồn tại, để duy trì sự hoạt động, ngoài tiến hành sữa chữa lớn định kì các cơ sở vật chất-kĩ thuật còn phải thực hiện các chi phí thường xuyên. Tất cả những hoạt động và chi phí này đều là những hoạt động đầu tư. 3.Vốn và nguồn vốn đầu tư Theo nguồn hình thành và mục tiêu sử dụng, vốn đầu tư là tiền tích lũy của xã hội, của các cơ sở sản xuất, kinh doanh dịch vụ, là tiền tiết kiệm của dân, vốn huy động từ các nguồn khác được đưa vào sử dụng trong quá trình tái sản xuất xã hội nhằm duy trì tiềm lực sẵn có và tạo tiềm lực mới cho xã hội. Vốn đầu tư là nhân tố quan trọng cho sự phát triển kinh tế. Thực tế những quốc gia phát triển trên thế giới đã khẳng định tích tụ và tập trung vốn là điều kiện tiên quyết cho quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Tốc độ công nghiệp hóa, hiện đại hóa nhanh hay chậm là do nguồn vốn đầu tư quyết định. Nguồn vốn cho tăng trưởng và phát triển kinh tế chỉ có thể tạo ra bằng tiết kiệm trong nước và vốn huy động từ nước ngoài. Trong đó, vốn trong nước giữ vai trò then chốt, có ý nghĩa quyết định, vốn nước ngoài là quan trọng trong công cuộc xây dựng và phát triển đất nước. Vốn đầu tư trong nước được hình thành từ các nguồn sau: - Vốn tích lũy từ Ngân sách. - Vốn tích lũy của các doanh nghiệp. Vốn tiết kiệm của dân cư. Vốn huy động từ nước ngoài bao gồm vốn đầu tư trực tiếp và vốn đầu tư gián tiếp. Vốn đầu tư trực tiếp là vốn của các doanh nghiệp, các cá nhân người nước ngoài đầu tư sang các nước khác và trực tiếp quản lí hoặc tham gia quản lí, sử dụng và thu hồi vốn đã bỏ ra. Vốn đầu tư gián tiếp là vốn của các Chính phủ, các tổ chức quốc tế, các tổ chức phi Chính phủ được thực hiện dưới các hình thức viện trợ không hoàn lại, có hoàn lại, cho vay ưu đãi với thời gian dài, lãi suất thấp, vốn viện trợ phát triển chính thức của các nước công nghiệp phát triển (ODA). 4. Hoạt động đầu tư Quá trình sử dụng vốn đầu tư, xét về bản chất chính là quá trình thực hiện sự chuyển hóa vốn bằng tiền (vốn đầu tư) thành vốn hiện vật để tạo nên những yếu tố cơ bản của sản xuất kinh doanh, dịch vụ và sinh hoạt. Quá trình này còn được gọi là hoạt động đầu tư hay đầu tư vốn. Hoạt động đầu tư là quá trình sử dụng vốn đầu tư nhằm duy trì tiềm lực sẵn có hoặc tạo ra những tiềm lực lớn hơn cho sản xuất, kinh doanh dịch vụ và sinh hoạt đời sống. Do đó, đối với nền kinh tế, hoạt động đầu tư là một lĩnh vực hoạt động nhằm tạo ra và duy trì sự hoạt động của các cơ sở vật chất kĩ thuật của nền kinh tế. Đối với các cơ sở sản xuất kinh doanh dịch vụ, hoạt động đầu tư là một bộ phận trong hoạt động sản xuất kinh doanh nhằm tăng thêm cơ sở vật chất kĩ thuật mới, duy trì sự hoạt động của các cơ sở vật chất-kĩ thuật hiện có. Vì thế đầu tư là điều kiện để phát triển sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Hoạt động đầu tư là một đòi hỏi khách quan của sự tồn tại và phát triển xã hội trong mọi nền sản xuất khác nhau. Mục tiêu của hoạt động đầu tư luôn được xem xét ở 2 góc độ: tầm vĩ mô và tầm vi mô. Những mục tiêu được xem xét ở tầm vi mô là những mục tiêu cụ thể, trước mắt và rất đa dạng. Đạt được các mục tiêu này sẽ góp phần vào việc thực hiện của các mục tiêu phát triển. Các mục tiêu được xem xét ở tầm vĩ mô xuất phát từ lợi ích chung của nền kinh tế, của xã hội và của địa phương, ngành. 4.1 Phân loại hoạt động đầu tư Nhằm đáp ứng những nhu cầu quản lí và nghiên cứu kinh tế khác nhau, người ta tiến hành phân loại các hoạt động đầu tư theo các tiêu thức sau: Theo bản chất của các đối tượng đầu tư: bao gồm đầu tư cho các đối tượng vật chất (đầu tư tài sản vật chất hoặc tài sản thực như nhà xưởng, máy móc, thiết bị...), cho các đối tượng tài chính (đầu tư tài chính như mua cổ phiếu, trái phiếu, và các khoản khác...) và đầu tư cho các đối tượng phi vật chất (đầu tư tài sản trí tuệ và nguồn nhân lực như đào tạo, nghiên cứu khoa học, y tế...) Trong các loại đầu tư trên đây, đầu tư đối tượng vật chất là điều kiện tiên quyết, cơ bản làm tăng tiềm lực của nền kinh tế, đầu tư tài chính là điều kiện quan trọng để thu hút mọi nguồn vốn từ mọi tầng lớp dân cư cho đầu tư các đối tượng vật chất, còn đầu tư tài sản trí tuệ và các nguồn nhân lực là điều kiện tất yếu để đảm bảo cho đầu tư các đối tượng vật chất tiến hành thuận lợi và đạt hiệu quả kinh tế xã hội cao. Theo cơ cấu tái sản xuất: Có thể phân loại hoạt động đầu tư thành đầu tư chiều rộng và đầu tư chiều sâu. Trong đó, đầu tư chiều rộng là đầu tư để mở rộng sản xuất bằng kĩ thuật và công nghệ lặp lại như cũ. Đầu tư theo chiều sâu là đầu tư để mở rộng sản xuất bằng kĩ thuật và công nghệ tiến bộ và hiệu quả hơn. Đầu tư theo chiều sâu có thể thực hiện bằng cách mua sắm tài sản cố định sản xuất loại mới tiến bộ và hiệu quả hơn, hoặc bằng cách cải tạo và hiện đại hóa các máy móc và xí nghiệp hiện có đã lạc hậu. Hơn nữa, đầu tư theo chiều rộng vốn lớn, để khê đọng lâu, thời gian thực hiện đầu tư và thời gian cần hoạt động để thu hồi vốn đủ lâu, tính chất kĩ thuật phức tạp, độ mạo hiểm cao. Còn đầu tư theo chiều sâu thời gian thực hiện đầu tư không dài, độ mạo hiểm thấp hơn so với đầu tư theo chiều rộng. Theo phân cấp quản lí: Theo qui chế quản lí đầu tư và xây dựng ban hành theo Nghị định 52/1999/NĐ-CP ngày 8/7/1999 của Chính phủ phân thành 3 nhóm A, B và C tùy theo tính chất và qui mô của dự án, trong đó nhóm A do Thủ tướng Chính phủ quyết định, nhóm B và C do Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, cơ quan trực thuộc Chính phủ, UBND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương quyết định. Theo lĩnh vực hoạt động trong xã hội của các kết quả đầu tư: Có thể phân chia các hoạt động đầu tư thành đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh, đầu tư phát triển khoa học kĩ thuật, đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng (kĩ thuật và xã hội)...Các hoạt động đầu tư này có quan hệ tương hỗ với nhau, hỗ trợ cho nhau trong quá trình hoạt động. Theo đặc điểm hoạt động của các kết quả đầu tư, các hoạt động đầu tư được phân chia thành: - Đầu tư cơ bản nhằm tái sản xuất các tài sản cố định. - Đầu tư vận hành nhằm tạo ra các tài sản lưu động cho các cơ sở sản xuất, kinh doanh dịch vụ mới hình thành, tăng thêm tài sản lưu động cho các cơ sở hiện có, duy trì sự hoạt động của các cơ sở vật chất kĩ thuật không thuộc các doanh nghiệp. Đầu tư cơ bản quyết định đầu tư vận hành, đầu tư vận hành tạo điều kiện cho các kết quả của đầu tư cơ bản phát huy tác dụng. Không có đầu tư vận hành thì các kết quả của đầu tư cơ bản không hoạt động được. Ngược lại không có đầu tư cơ bản sẽ không có đầu tư vận hành. Đầu tư cơ bản thuộc loại đầu tư dài hạn, đặc điểm kĩ thuật của quá trình thực hiện đầu tư để tái sản xuất mở rộng các tài sản cố định là phức tạp, đòi hỏi số vốn lớn, thu hồi lâu (nếu có thể thu hồi). Còn đầu tư vận hành chiếm tỉ trọng nhỏ trong tổng vốn đầu tư, đặc điểm kĩ thuật của quá trình thực hiện đầu tư không phức tạp. Đầu tư vận hành cho các cơ sở sản xuất kinh doanh có thể thu hồi nhanh sau khi đưa ra các kết quả đầu tư nói chung vào hoạt động. Theo giai đoạn hoạt động của các kết quả đầu tư trong quá trình tái sản xuất xã hội, có thể phân hoạt động đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh thành đầu tư thương mại và đầu tư sản xuất. Theo thời gian thực hiện và phát huy tác dụng để thu hồi đủ vốn đã bỏ ra của các kết quả đầu tư, có thể phân chia hoạt động đầu tư thành đầu tư ngắn hạn (như đầu tư thương mại) và đầu tư dài hạn (đầu tư sản xuất, đầu tư phát triển khoa học- kĩ thuật, đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng...). Theo quan hệ quản lí của chủ đầu tư: hoạt động đầu tư có thể phân chia thành đầu tư gián tiếp và đầu tư trực tiếp. Đầu tư gián tiếp là loại đầu tư trong đó người bỏ vốn không trực tiếp tham gia điều hành quản lí quá trình thực hiện và vận hành các kết quả đầu tư. Còn đầu tư trực tiếp là loại đầu tư trong đó người bỏ vốn trực tiếp tham gia quản lí, điều hành quá trình thực hiện và vận hành kết quả đầu tư. Theo nguồn vốn: - Vốn huy động trong nước (vốn tích lũy của Ngân sách, của doanh nghiệp, tiền tiết kiệm của dân cư). - Vốn huy động từ nước ngoài (vốn đầu tư gián tiếp, vốn đầu tư trực tiếp) Phân loại này cho thấy tình hình huy động vốn từ mỗi nguồn và vai trò của mỗi nguồn vốn đối với sự phát triển kinh tế xã hội của từng ngành, từng địa phương và toàn bộ nền kinh tế. Theo vùng lãnh thổ (theo tỉnh và theo vùng kinh tế của đất nước). Cách phân loại này phản ánh tình hình đầu tư của từng tỉnh, từng vùng kinh tế và ảnh hưởng của đầu tư đối với tình hình phát triển kinh tế-xã hội ở từng địa phương. Ngoài ra, trong thực tế, để đáp ứng yêu cầu quản lí và nghiên cứu kinh tế, người ta còn phân chia đầu tư theo quan hệ sở hữu, theo qui mô và theo các tiêu thức khác nữa. 4.2. Một số chỉ tiêu phân tích hiệu quả của hoạt động đầu tư Chỉ tiêu đánh giá tiềm lực tài chính của doanh nghiệp: - Hệ số vốn tự có so với vốn đi vay. Hệ số này phải ³ 1. Đối với dự án có triển vọng, hiệu quả thu được là rõ ràng thì hệ này có thể < 1, vào khoảng 2/3 thì dự án thuận lợi. - Tỉ trọng vốn tự có trong tổng vốn đầu tư phải ³ 50%. Đối với các dự án triển vọng, hiệu quả rõ ràng thì tỉ trọng này có thể là 40%, thì dự án thuận lợi. - Tỉ lệ giữa tài sản lưu động so với nợ ngắn hạn phải ³ 1 và được xem xét cụ thể cho từng ngành nghề kinh doanh. - Tỉ lệ giữa tài sản lưu động có so với tài sản lưu động nợ bằng 2/1 hoặc 4/1 thì dự án thuận lợi. - Tỉ lệ giữa tổng thu từ lợi nhuận thuần và khấu hao so với nợ đến hạn phải trả phải ³ 1. Trong 5 chỉ tiêu trên thì chỉ tiêu thứ 4 chỉ áp dụng cho các dự án của các doanh nghiệp đang hoạt động, 4 chỉ tiêu còn lại áp dụng cho mọi dự án. Hai chỉ tiêu đầu nói lên tiềm lực tài chính đảm bảo cho mọi dự án thực hiện được thuận lợi, 3 chỉ tiêu sau nói lên khả năng đảm bảo thanh toán các nghĩa vụ tài chính của dự án. Các chỉ tiêu phân tích tài chính: Giá trị hiện tại của thu nhập thuần (NPV-Net Present Value) Thu nhập còn lại sau khi đã trừ đi chi phí gọi là thu nhập thuần. Giá trị hiện tại của thu nhập thuần còn được gọi là NPV. Đây là chỉ tiêu tuyệt đối dùng để đánh giá hiệu quả tài chính của dự án đầu tư trên cơ sở cân đối thu chi hàng năm và theo một tỉ lệ chiết khấu đã chọn. Mục đích của việc tính NPV là để xem xét việc sử dụng các nguồn lực của dự án có mang lại lợi ích lớn hơn các nguồn lực đã sử dụng hay không. Với ý nghĩa này, NPV được coi là tiêu chuẩn quan trọng để đánh giá dự án. NPV được tính theo công thức sau: NPV = Trong đó: - Bi: Thu nhập của dự án năm i - Ci: Chi phí của dự án năm i. - n: Số năm hoạt động của dự án. - r: Tỉ suất chiết khấu được chọn. Dự án được chấp nhận (đáng giá) khi NPV ³ 0. Chỉ tiêu thời gian thu hồi vốn đầu tư (T) Đó là số thời gian cần thiết để dự án hoạt động thu hồi đủ số vốn đầu tư đã bỏ ra bằng các khoản lợi nhuận thuần hoặc tổng lợi nhuận thuần và khấu hao thu hồi hàng năm. Có thể tính chỉ tiêu này từ lợi nhuận (W) và khấu hao (D) như sau: (W+D)iPV ³ IV0 hoặc IV0t - (W+D) Ê 0 Trong phân tích tài chính, thời gian thu hồi vốn là chỉ tiêu quan trọng để đánh giá tính khả thi của dự án. Chỉ tiêu hệ số hoàn vốn nội bộ (IRR - Internal Rate of Return) Chỉ tiêu này còn được gọi là suất thu lợi nội tại, tỉ suất nội hoàn, suất thu hồi nội bộ. Đó là mức lãi suất nếu dùng nó làm hệ số chiết khấu để tính chuyển các khoản thu, chi của dự án về mặt bằng thời gian hiện tại thì tổng thu sẽ cân bằng với tổng chi, tức là: Có thể xác định IRR theo công thức tổng quát sau: IRR = r1+ (r2 - r1) Trong đó: r2 >r1 và r2 - r1 Ê 5% NPV(r1) > 0 gần 0, NPV(r2) < 0 gần 0. Các chỉ tiêu phân tích hiệu quả kinh tế- xã hội của dự án Giá trị sản phẩm gia tăng thuần túy (NVA - Net Value Added) là chỉ tiêu cơ bản phản ánh hiệu quả kinh tế-xã hội của dự án. NVA là mức chênh lệch giữa giá trị đầu ra và giá trị đầu vào. Công thức tính: NVA = O - (MI + I) Trong đó: NVA: là giá trị gia tăng thuần túy do dự án đem lại. O : Giá trị đầu ra của dự án MI : Là giá trị đầu vào vật chất thường xuyên và các dịch vụ mua ngoài theo yêu cầu để đạt được các đầu ra trên đây. I : Vốn đầu tư bao gồm chi phí xây dựng nhà xưởng, mua sắm máy móc thiết bị. Chỉ tiêu NVA biểu thị sự đóng góp của dự án đối với toàn bộ nền kinh tế. Trong tổng số giá trị gia tăng sản phẩm thuần túy do dự án đem lại gồm có giá trị gia tăng trực tiếp (do chính dự án tạo ra) và giá trị gia tăng gián tiếp (do các dự án có liên quan tạo ra do sự đòi hỏi trong hoạt động của dự án đang xem xét. * Chỉ tiêu số lao động có việc làm do thực hiện dự án và số lao động có việc làm tính trên một đơn vị giá trị vốn đầu tư. - Số lao động có việc làm: bao gồm cả số lao động có việc làm trực tiếp cho dự án và số lao động có việc làm gián tiếp ở các dự án liên đới. Phân tích và đánh giá hiệu quả kinh tế xã hội qua chỉ tiêu này là xem xét số lao động có việc làm do dự án tạo ra, số lao động có việc làm trên một đơn vị vốn đầu tư và những đóng góp của dự án đối với mục tiêu giải quyết việc làm của xã hội. - Số lao động có việc làm trên một đơn vị vốn đầu tư: để tính chỉ tiêu này, ta phải tính số vốn đầu tư trực tiếp của dự án đang xem xét và vốn đầu tư của các dự án liên đới (Vốn đầu tư đầy đủ). Tiếp đó tính các chỉ tiêu sau: + Số lao động có việc làm trực tiếp tính trên một đơn vị giá trị vốn đầu tư trực tiếp, kí hiệu là Id. Id = Trong đó: Ld - Số lao động có việc làm trực tiếp của dự án. Ivd - Số vốn đầu tư trực tiếp của dự án. + Toàn bộ số lao động có việc làm trên một đơn vị vốn đầu tư đầy đủ ký hiệu là IT: IT = Trong đó: LT - Toàn bộ số lao động có việc làm trực tiếp và gián tiếp. IvT - Số vốn đầu tư đầy đủ của dự án đang xem xét và các dự án liên đới. Nói chung tiêu chuẩn đánh giá là các chỉ tiêu này có giá trị càng cao thì dự án càng có tác động lớn đến nền kinh tế và có ảnh hưởng đến vấn đề xã hội. * Chỉ tiêu mức giá trị gia tăng của mỗi nhóm dân cư (những người làm công ăn lương, những người có vốn hưởng lợi tức, Nhà nước thu thuế...) hoặc vùng lãnh thổ: Chỉ tiêu này phản ánh tác động điều tiết thu nhập giữa các nhóm dân cư hoặc vùng lãnh thổ. So sánh tỉ lệ giá trị giá trị gia tăng của mỗi nhóm dân cư hoặc mỗi vùng lãnh thổ thu được trong tổng giá trị gia tăng ở năm hoạt động bình thường của dự án với nhau sẽ thấy được tình hình phân phối giá trị gia tăng do dự án tạo ra giữa các nhóm dân cư và vùng lãnh thổ trong nước. * Chỉ tiên ngoại hối ròng (tiết kiệm ngoại tệ) Một nhiệm vụ cơ bản khi xem xét lợi ích kinh tế xã hội của dự án là xem xét tác động của dự án đến cán cân thanh toán của đất nước. Xác định mức tiết kiệm ngoại tệ của dự án cho biết mức độ đóng góp của dự án và cán cân thanh toán của nền đất nước. Dự án có thể có tác động tích cực làm tằng nguồn ngoại tệ cho đất nước và cũng có thể làm bội chi ngoại tệ. * Chỉ tiêu khả năng cạnh tranh quốc tế Chỉ tiêu này cho phép đánh giá khả năng cạnh tranh của sản phẩm do dự án sản xuất ra trên thị trường quốc tế. * Những tác động khác của dự án - Những ảnh hưởng đến kết cấu hạ tầng: sự gia tăng năng lực phục vụ của kết hạ tầng sẵn có, bổ sung năng lực phục vụ mới của kết cấu hạ tầng mới. - Tác động đến môi trường: đây là những ảnh hưởng của đầu vào và đầu ra của dự án đến môi trường. Trong các tác động có tác động tích cực, tác động tiêu cực. Nếu có tác động tiêu cực thì cần có các giải pháp khắc phục, chi phí để thực hiện các giải pháp đó. Nếu chi phí này quá lớn, lớn hơn cái xã hội nhận được thì phải chuyển địa điểm thực hiện dự án (nếu có thể được) hoặc bác bỏ dự án. - Nâng cao trình độ kĩ thuật sản xuất, trình độ nghề nghiệp của người lao động, trình độ quản lí của những nhà quản lí, nâng cao năng suất lao động, nâng cao thu nhập của người lao động. - Những tác động về xã hội, chính trị và kinh tế khác (tận dụng và khai thác tài nguyên chưa được quan tâm hay mới phát hiện, tiếp nhận được công nghệ mới nhằm ._.hoàn thiện cơ cấu sản xuất, những tác động đến các ngành, các lĩnh vực khác; tạo thị trường mới, tham gia vào phân công lao động quốc tế, phát triển các địa phương yếu kém, các vùng xa xôi nhưng có tiềm năng…) II - Những vấn đề lí luận chung về Ngành Thủy sản 1. Đặc điểm, vai trò của Ngành Thủy sản 1.1. Đặc điểm của Ngành Thủy sản Thủy sản là một ngành kinh tế kĩ thuật đặc trưng gồm các lĩnh vực khai thác, nuôi trồng, chế biến, cơ khí hậu cần, dịch vụ thương mại; là một trong những ngành kinh tế quan trọng của đất nước. Sản xuất kinh doanh thủy sản dựa trên khai thác có hiệu quả, lâu bền nguồn lợi thủy sinh, tiềm năng các vùng nước, do vậy có mối liên hệ ngành với sản xuất nông nghiệp, vận tải, dầu khí, du lịch, hải quan... Ngành Thủy sản được xác định giữ vai trò quan trọng sự phát triển kinh tế-xã hội của Việt Nam. Nó khai thác và phát triển một trong những nguồn tài nguyên có thể tái sinh quan trọng của đất nước - những tài nguyên với tiềm năng có thể đóng góp lớn cho các mục tiêu lớn về tài chính, về công ăn việc làm, và về dinh dưỡng. Xét một cách tổng thể thì Ngành Thủy sản có các đặc điểm sau: Ngành thủy sản là ngành vừa mang tính công nghiệp, nông nghiệp, thương mại, lại vừa chịu sự chi phối rất lớn của thiên nhiên. Ngành Thủy sản là ngành có năng suất và hiệu quả lao động tự nhiên cao, có tác dụng tới tái sản xuất mở rộng. Các thành phần kinh tế tham gia hoạt động sản xuất rất đa dạng: Tư bản Nhà nước (doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài, doanh nghiệp liên doanh, doanh nghiệp cổ phần), tập thể (hợp tác xã, tập đoàn), tư nhân (hộ gia đình, tiểu chủ, tư bản tư nhân). Ngành Thủy sản là ngành sản xuất có liên quan đến việc sử dụng diện tích mặt nước cũng như khai thác các sản phẩm có liên quan đến mặt nước. Các sản phẩm thủy sản có khẩu vị ngon, dễ chế biến, lượng đạm không tích mỡ, đa dạng, có giá trị dinh dưỡng và kinh tế cao, được nhiều người, nhiều nơi trong và ngoài nước ưa chuộng. Ngành Thủy sản là ngành có khả năng thu hồi vốn nhanh, có thể thu hoạch được sản phẩm và tiêu thụ trong thời gian ngắn. Thực tiễn đã chứng minh rằng: việc đầu tư lao động sống và lao động vật hóa vào hoạt động sản xuất nghề cá một cách hợp lí sẽ đưa lại hiệu quả kinh tế cao. Ví dụ: một ngư dân bình quân hàng năm đánh bắt được từ 2,04-2,07 tấn cá biển, giá trị tương đương với khoảng 10 tấn thóc, hay 1 ha nuôi tôm giá trị bằng 100 ha trồng lúa. Trong khi đó, một lao động nông nghiệp nếu thực hiện 1 ha gieo trồng lúa chỉ đạt được 3-4 tấn thóc/năm. Hoạt động sản xuất của ngành diễn ra trong một phạm vi rộng lớn từ miền núi đến các vùng đồng bằng, vùng ven biển và ngoài khơi với nhiều hình thức sản xuất như khai thác, nuôi trồng, chế biến... Ngành Thủy sản là ngành có nguồn tài nguyên phong phú với trữ lượng lớn, tạo khả năng khai thác qui mô lớn nhưng có sự tác động của con người để tái tạo nguồn tài nguyên này. Như vậy, với những đặc điểm vốn có như vậy thì Ngành Thủy sản Việt Nam muốn phát triển tốt phải biết tận dụng nguồn tài nguyên quý hiếm này để đem lại hiệu quả kinh tế-xã hội cao nhất. 1.2. Vai trò của Ngành Thủy sản trong nền kinh tế Nước ta là một nước có ưu thế về biển, cuộc sống xã hội gắn chặt với sông nước, vì vậy Thủy sản nói chung, nghề cá nói riêng của nước ta là một Ngành có truyền thống lâu đời. Đó là Ngành cung cấp chất dinh dưỡng và tạo mức an toàn về thực phẩm cho con người. Các sản phẩm thủy sản là những yếu tố quan trọng đối với sự an toàn về lương thực, thực phẩm. Trong quá trình phát triển kinh tế đất nước, từ chỗ là một bộ phận không lớn thuộc khối nông nghiệp, với trình độ lạc hậu vào những năm 80, Thủy sản đã trở thành một ngành kinh tế công-nông nghiệp có tốc độ phát triển cao, qui mô ngày càng lớn. Xuất khẩu thủy sản đã đóng vai trò đòn bẩy chủ yếu tạo nên động lực phát triển mạnh mẽ nền kinh tế nước ta. Từ giai đoạn 1991-1995, cùng dầu thô, gạo, dệt may, giá trị kim ngạch xuất khẩu thủy sản luôn giữ vị trí thứ 2 hoặc thứ 3 trong tổng kim ngạch xuất khẩu cả nước. Đến nay Ngành Thủy sản đã vươn lên đứng thứ 19 về sản lượng, thứ 30 về giá trị kim ngạch xuất khẩu, thứ 5 về sản lượng nuôi tôm trên thế giới. Vai trò của Ngành Thủy sản cũng được khẳng định trong Nghị quyết của Chính phủ (ngày 15/6/2000) về ‘một số chủ trương và chính sách về chuyển dịch cơ cấu kinh tế và tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp’, đó là: “Thủy sản là Ngành sản xuất sản phẩm đạm động vật có nhu cầu ngày càng tăng ở thị trường trong nước và xuất khẩu lớn, có khả năng trở thành Ngành sản xuất có lợi thế lớn nhất của nền nông nghiệp Việt Nam. Sản lượng thủy sản đạt 3-3,5 triệu tấn/năm, đáp ứng nhu cầu thị trường trong nước, nâng kim ngạch xuất khẩu vươn lên hàng đầu trong khu vực Châu á”. Bên cạnh đó, vai trò của Ngành Thủy sản trong nền kinh tế còn thể hiện ở chỗ: các hộ gia đình phụ thuộc vào nghề thủy sản như là kế sinh nhai và thủy sản là nguồn cung cấp thức ăn chính cho họ trong đời sống hàng ngày. Hơn nữa, nhu cầu nhân lực hằng ngày cho hoạt động này không lớn, không tiêu tốn nhiều thời gian, gần nơi ở của gia đình, thời gian quay vòng vốn nhanh, cung cấp thực phẩm tại chỗ có chất lượng cao, phù hợp và dễ dàng được chấp nhận đối với nông dân nông thôn miền núi. Mặt khác, nuôi trồng thủy sản dễ dàng kết hợp với các hoạt động sản xuất khác trong hệ thống canh tác tại khu vực miền núi để tăng thu nhập và đa dạng hoá các sản phẩm lương thực thực phẩm cho gia đình, hạn chế rủi ro và tận dụng các phế phụ phẩm trong gia đình tạo thành sản phẩm khác có giá trị sử dụng. 2. Đánh giá điều kiện tự nhiên, tiềm năng nuôi trồng thủy sản 2.1. Khái niệm nuôi trồng thuỷ sản Theo quan điểm của các nhà kinh tế học: Nuôi trồng thuỷ sản là một hoạt động sản xuất tạo ra nguyên liệu thuỷ sản cho quá trình tiêu dùng sản phẩm, hoạt động xuất khẩu và nguyên liệu cho công nghiệp chế biến thuỷ sản. Theo quan điểm của các nhà sinh học: Nuôi trồng thuỷ sản là hoạt động tạo ra các điều kiện sinh thái phù hợp với sự sinh trưởng và phát triển của các loại thuỷ sản để thúc đẩy chúng phát triển qua các giai đoạn của vòng đời. Theo hai quan điểm trên ta có khái niệm chung nhất: Nuôi trồng thuỷ sản là một hoạt động sản xuất sử dụng các yếu tố nguồn lực đầu vào như con giống, tài nguyên, đất, nước và các công cụ sản xuất khác để thúc đẩy việc tăng trưởng và phát triển của các loại thuỷ sản, tạo nguồn thực phẩm cho người, thức ăn cho chăn nuôi động vật và nguồn nguyên liệu cho công nghiệp chế biến thuỷ sản. 2.2. Đánh giá điều kiện tự nhiên, tiềm năng nuôi trồng thuỷ sản Mặt nước Với 3.260 km bờ biển, 12 đầm phá và các eo vịnh, 112 cửa sông, lạch, hàng ngàn đảo lớn nhỏ, ven biển; trong nội địa hệ thống sông ngòi, kênh rạch chằng chịt và các hồ thủy lợi, thủy điện, đã tạo cho nước ta có tiềm năng lớn về mặt nước với khoảng 1.700.000 ha, trong đó: - Ao hồ nhỏ, mương vườn 120.000 ha. - Hồ chứa mặt nước lớn 340.000 ha. - Ruộng có khả năng nuôi thủy sản 580.000 ha. - Vùng triều 660.000 ha. Chưa kể mặt nước các sông và khoảng 300.000-400.000 ha eo, vịnh, đầm phá ven biển có thể sử dụng vào nuôi trồng thủy sản chưa được qui hoạch. Nguồn lợi giống loài thủy sản Nguồn lợi cá nước ngọt: đã thống kê được 544 loài trong 18 bộ, 57 họ, 228 giống. Với thành phần giống loài phong phú, nước ta được đánh giá có đa dạng sinh học cao. Trong 544 loài đó có nhiều loài có giá trị kinh tế. Nguồn lợi cá nước lợ, mặn: Theo số liệu được thống kê, hiện nay có 186 loài chủ yếu. Một số loài có giá trị kinh tế như: Cá song, cá hồng, cá tráp, cá vược, cá măng, cá cam, cá bống, cá đối,cá dìa... Trong đó đã đưa vào nuôi các loại: Cá vược, cá song, cá măng, cá cam... Nguồn lợi tôm: Hiện nay đã thống kê được 16 loài chủ yếu có giá trị kinh tế và đưa vào nuôi: tôm sú, tôm lớt, tôm he ấn Độ, tôm rảo, tôm nương, tôm càng xanh... Về nhuyễn thể: Có một số loài chủ yếu: Trai, hầu, điệp, nghêu, sò, ốc…. đang đưa vào nuôi các loại: Trai, nghêu, sò... Về rong tảo: Với 90 loài có giá trị kinh tế, trong đó đáng kể là rong câu (11 loài), rong mơ, rong sụn... Khí hậu, thời tiết và điều kiện tự nhiên thích hợp phát triển nuôi trồng thủy sản Khí hậu, thời tiết Việt Nam chịu sự chi phối cúa khí hậu nhiệt đới gió mùa, song ở mỗi miền có đặc trưng khác nhau: Miền Bắc: Nhiệt độ trung bình 22,2 - 23,5 0C, lượng mưa trung bình từ 1.500 - 2.400 mm, tổng số giờ nắng từ 1.650 - 1.750 h/năm, mùa mưa từ tháng 6 - tháng 8, và là vùng chịu ảnh hưởng lớn của bão, bão thường xuất hiện sớm trong cả nước. Vùng biển khu vực này thuộc nhật triều với biên độ 3,2 - 3,6m. Miền Trung: Nhiệt độ trung bình 25,5 - 27,5 0C, mưa tập trung vào cuối tháng 9- tháng 11, nắng nhiều từ 2.300 - 3.000 h/năm. Chế độ thủy triều gồm nhật triều và bán nhật triều, có nhiều đầm phá thích hợp nuôi thủy sản. Miền Nam: Khí hậu mang tính chất xích đạo, nhiệt độ trung bình 22,6 - 27,60C, mưa tập trung từ tháng 5 - tháng10. Lượng mưa trung bình 1.400 - 2.400mm, nắng trên 2.000 h/năm. Vùng này chủ yếu chế độ bán nhật triều với biên độ 2,5 - 3 m. Chế độ khí hậu, thời tiết, các điều kiện tự nhiên đa dạng tạo điều kiện phát triển nuôi trồng thủy sản đa loài, nhiều loại hình. Nguồn lực lao động Với trên 4 triệu dân sống ở vùng triều và khoảng 1 triệu dân sống ở đầm phá, tuyến đảo của 714 xã, phường thuộc 28 tỉnh, thành phố có biển và hàng chục triệu hộ nông dân, hàng năm đã tạo ra lực lượng lao động nuôi trồng thủy sản đáng kể, chiếm tỉ trọng quan trọng trong sản xuất nghề cá. Chưa kể một bộ phận khá đông ngư dân làm nghề đánh cá nhưng không đủ phương tiện để hành nghề khai thác cũng chuyển sang nuôi trồng thủy sản và lực lượng lao động vừa sản xuất nông nghiệp, vừa nuôi trồng thủy sản. Trong nhiều năm qua, nông, ngư dân đã tích lũy nhiều kinh ngiệm trong nuôi trồng thủy sản và là động lực quan trọng góp phần thực hiện thắng lợi Chương trình phát triển nuôi trồng thủy sản. 3. Sự cần thiết phải đầu tư vào lĩnh vực nuôi trồng thủy sản Việc phân tích đặc điểm, vai trò của Ngành Thủy sản ở trên cùng với việc đánh giá điều kiện tự nhiên, tiềm năng nuôi trồng thủy sản như: Diện tích mặt nước, nguồn lợi giống loài thủy sản, khí hậu thời tiết cũng như nguồn lực lao động dồi dào có thể cho chúng ta thấy được sự cần thiết của việc phát triển, tăng cường đầu tư vào lĩnh vực nuôi trồng thủy sản nhằm tận dụng được các nguồn lực, phát huy khả năng vốn có của Ngành. Sự cần thiết đó còn được thể hiện ở các mặt sau: Thứ nhất, Ngành Thủy sản của Việt Nam nhìn chung đã khai thác tới trần thậm chí có một số vùng đã khai thác quá giới hạn cho phép. Điều này làm ảnh hưởng lớn đến vấn đề bảo vệ tài nguyên, môi trường và đa dạng sinh học trong nghề cá. Các Hội nghị quốc tế về sự đóng góp bền vững của nghề cá vào sản xuất thực phẩm (hội nghị Kyoto 1992) và Hội nghị các Bộ trưởng Thủy sản (Roma 1999) đã nhấn mạnh: Nuôi trồng thủy sản gắn liền với bảo vệ môi trường là phương hướng rất quan trọng đang được sự quan tâm lớn của các quốc gia và các tổ chức bảo vệ môi trường. Vấn đề bảo vệ các vùng nước khỏi bị ô nhiễm, bảo vệ các vùng rừng ngập mặn... đang được xem xét gắn liền với việc nuôi trồng thủy sản. Hiệu quả và tính bền vững của nuôi trồng thủy sản luôn đi liền với việc ngăn chặn và bảo vệ các nguồn lợi tự nhiên bị khai thác cạn kiệt. Thứ hai, nuôi trồng thủy sản đáp ứng được nhu cầu ngày càng tăng thực phẩm cho tiêu dùng, hàng hóa xuất khẩu và nguyên liệu cho chế biến xuất khẩu. Hiện nay, mức tiêu dùng của người Việt Nam đối với các loại thủy sản ước tính chiếm khoảng 50% về tiêu dùng thực phẩm chứa Protein. Riêng về cá đã cung cấp khoảng 8 kg/người/năm, trong đó nuôi chiếm khoảng 30%. Những năm tới xu thế đời sống nhân dân ngày một khá lên, mức tiêu dùng thực phẩm sẽ tăng. Điều đáng quan tâm là ngày nay nhân dân đã có xu thế thiên về sử dụng thực phẩm ít béo. Do đó, cá và sản phẩm gốc thủy sản làm thực phẩm chiếm phần quan trọng. Trong đó cá nuôi cung cấp tại chỗ, ít chi phí vận chuyển đảm bảo được tươi sống lại càng có vai trò quan trọng hơn. Theo chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của Ngành Thủy sản, đến năm 2010 tổng sản lượng thủy sản trên 3,5 triệu tấn, trong đó ưu tiên cho xuất khẩu khoảng 40%, và theo số liệu của FAO sản phẩm thủy sản dành cho chăn nuôi 30%, thì sản lượng còn lại dành cung cấp thực phẩm cho con người. Nếu so với lượng tiêu dùng thủy sản bình quân đầu người trên thế giới theo ước tính của FAO là 13,4 kg/người vào năm 1994 và so với mức 27 kg/người/năm của các nước đang phát triển hiện nay thì ở nước ta chưa đáp ứng được. Phát triển nuôi trồng thủy sản để cung ứng số lượng thiếu hụt đó. Hơn nữa, hàng thủy sản xuất khẩu của Việt Nam ngày càng được ưa chuộng ở nhiều nước và khu vực. Năm 1997 đã xuất khẩu sang 46 nước và vùng lãnh thổ trên thế giới, năm 1998 là 50 nước và vùng lãnh thổ. Điều đáng quan tâm trong cơ cấu hàng thủy sản xuất khẩu, nhóm sản phẩm tôm vẫn là mặt hàng chủ lực chiếm tỉ lệ ngày càng cao, trong đó có tôm nuôi. Các đối tượng khác như: nhuyễn thể, cá song, cá hồng, cá ba sa, cá rô phi đực, cá sặc rằn, cá quả, lươn, ba ba, ếch... xuất sống, phi lê đông lạnh(1) Phi lê đông lạnh: loại cá được lọc vảy, tách xương và được ướp đông lạnh. cũng được các thị trường ưa chuộng. ở Nhật xu thế tiêu dùng hàng thủy sản thay cho thịt bình quân 71,5 kg/người và còn tiếp tục tăng. Thị trường Mỹ và EU cũng có xu thế như vậy. Dự kiến đến năm 2005 cơ cấu sản phẩm thủy sản của Việt Nam xuất sang Nhật sẽ là 32-34%, Châu á (kể cả Trung Quốc) là 20-22%, Bắc Mỹ 20-22%, EU 16-18%, thị trường khác là 8-10%. Thứ ba, phát triển nuôi trồng thủy sản góp phần phát triển kinh tế xã hội. Với đặc thù dân số đông, đặc biệt là vùng nông thôn ven biển, biên giới, vùng sâu, vùng xa, trình độ dân trí thấp, hàng năm dân số tăng nhanh kéo theo là sự gia tăng lao động dư thừa. Bên cạnh đó, một bộ phận ngư dân làm nghề khai thác ven bờ do nguồn lợi cạn kiệt, khai thác kém hiệu quả từng bước chuyển sang nuôi trồng thủy sản, một bộ phận nông dân vừa sản xuất nông nghiệp, vừa nuôi trồng thủy sản làm phong phú thêm cho nền văn minh lúa nước, đưa nền văn minh lúa nước lên cao hơn, hiện đại hơn. Phát triển nuôi trồng thủy sản góp phần làm chuyển đổi cơ cấu kinh tế nông thôn, tạo việc làm, tăng thu nhập, cải thiện mức sống cho nông, ngư dân, góp phần xây dựng trật tự xã hội, an ninh nông thôn vùng biển, biên giới, vùng sâu, vùng xa. Thứ tư, xu hướng phát triển nuôi trồng thủy sản trên thế giới hiện nay là đẩy nhanh tốc độ gia tăng sản lượng nuôi trồng thủy sản so với sản lượng khai thác.Ví dụ: Thái Lan, ấn Độ, Ecurador, Indonesia, Đài Loan có giá trị xuất khẩu lớn, cũng là những nước có sản lượng nuôi trồng thủy sản lớn. Các nước Châu á rất coi trọng phát triển nuôi trồng thủy sản, là khu vực nuôi trồng thủy sản chính của thế giới. Năm 1995, tổng sản lượng thủy sản thế giới là 112 triệu tấn, trong đó sản lượng nuôi trồng đạt 27,8 triệu tấn (chiếm 25%) và Châu á sản xuất 90,1% tổng sản lượng nuôi thủy sản. Theo dự báo của FAO, đến năm 2005 sản lượng nuôi trồng thủy sản thế giới sẽ là 51,9 triệu tấn. Các nước phát triển nuôi trồng thủy sản nhằm cung cấp thực phẩm chứa đạm cho nhu cầu tiêu dùng của con người, đảm bảo an ninh thực phẩm. Trung Quốc là nước phát triển mạnh nuôi trồng thủy sản, sản lượng thủy sản năm 1998 là 32,1 triệu tấn. Theo hướng nuôi bằng hình thức công nghiệp để nâng cao năng suất và sản lượng các đối tượng nuôi có giá trị cao phục vụ tiêu dùng và xuất khẩu. Qua phân tích trên, ta có thể thấy được nuôi trồng thủy sản là một nghề có lợi và sẽ phát triển mạnh trong những năm tới. Là một nước có nhiều ưu thế về tự nhiên và con người như trên, nuôi trồng thủy sản đã được chú ý phát triển ở nước ta trong thời gian qua. Tuy nhiên, với tiềm năng lớn như vậy, đầu tư cho nuôi trồng thủy sản của nước ta chưa được tương xứng và cần thiết phải đẩy mạnh đầu tư hơn nữa trong thời gian tới. III. Sự khác biệt của đầu tư phát triển trong nuôi trồng thủy sản so với các ngành khác Thủy sản là một nghề phụ thuộc lớn vào điều kiện tự nhiên và có tính mùa vụ, vì vậy hoạt động đầu tư phát triển trong Ngành Thủy sản nói chung, nuôi trồng thủy sản nói riêng có đặc điểm khác biệt so với các hoạt đông đầu tư của các ngành khác. Đầu tư phát triển nuôi trồng thủy sản có liên quan chặt chẽ đến vấn đề bảo vệ, tái tạo nguồn lợi thủy sản, bảo vệ môi trường, vấn đề phát triển thị trường xuất khẩu. Vì thế quá trình đầu tư rất phức tạp, cần phải có tổ chức và cơ chế quản lý đồng bộ , hoàn chỉnh giữa các cơ quản lý Nhà nước. Hoạt động nuôi trồng thuỷ sản rộng khắp trên các vùng địa lí, từ miền núi tới ven biển, tính chất sản xuất phức tạp đa dạng do qui luật phát triển của từng khu hệ động thực vật. Hơn nữa, nuôi thuỷ sản rất khó mà quan sát trực tiếp được vật nuôi, rủi ro càng lớn, vì thế hoạt động đầu tư phát triển trong nuôi trồng thuỷ sản phải đảm bảo đạt được những yêu cầu: đầu tư phát triển đi đôi với vấn đề bảo vệ và tái tạo nguồn lợi thuỷ sản, bảo vệ môi trường, cân bằng sinh thái; hoạt động đầu tư phải lấy hiệu quả kinh doanh làm động lực trực tiếp và lấy hiệu quả kinh tế xã hội làm tiêu chuẩn cơ bản. Kết hợp công nghệ truyền thống với công nghệ hiện đại. Tập trung vào vấn đề chất lượng sản phẩm để đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu góp phần thực hiện chiến lược xuất khẩu trong phạm vi cả nước. Trong nuôi trồng thủy sản, quá trình tác động nhân tạo xen kẽ với quá trình tác động tự nhiên, tức là thời gian lao động không ăn khớp với thời gian sản xuất, ví dụ một qui trình nuôi: Cải tạo ao Thả giống Chăm sóc Thu hoạch ///////////// ///////////// ////////////// ////////////// Trong một qui trình nuôi như vậy, có những giai đoạn không có tác động của qui luật tự nhiên, từ đó sinh ra tính chất mùa vụ trong nuôi trồng thuỷ sản gây ra nhiều phức tạp cho sản xuất, đặc biệt điều kiện thiên nhiên nước ta không mấy thuận lợi, thiên tai liên tiếp xảy ra ở nhiều nơi. Do đó, hoạt động đầu tư cần chú trọng đến những yếu tố này để tránh những rủi ro thiệt hại có thể xảy ra. Quá trình sản xuất phải tiếp xúc với cơ thể sống thủy sinh có đặc tính sinh lí, sinh thái, qui luật phát triển và sinh trưởng riêng nên cần phải đầu tư vào nghiên cứu các qui trình nuôi phù hợp vói từng loại, ví dụ cá nước ngọt, nước lợ, nước mặn... có qui trình nuôi khác nhau... Trong quá trình sản xuất thủy sản, chất lượng và số lượng sản phẩm thủy sản rất dễ bị thất thoát sau thu hoạch. Theo đánh giá của FAO, tỉ lệ thất thoát sau thu hoạch luôn ở mức trên 20%, tập trung ở các khâu xử lí, bảo quản, vận chuyển, bốc dỡ, sơ chế và tiêu thụ sản phẩm. Do vậy, hoạt động đầu tư cần chú trọng làm thế nào để giảm đến mức tối thiểu tỉ lệ thất thoát sau thu hoạch. Một số đối tượng nuôi trồng được giữ lại làm giống cho quá trình tái sản xuất sau. Đặc điểm này đòi hỏi phải có sự đầu tư vào qui trình chăm sóc, lựa chọn giống riêng biệt và quan tâm đầu tư vào hệ thống sản xuất giống quốc gia nên số vốn chi cho đầu tư vào lĩnh vực này khá lớn, đòi hỏi các chủ đầu tư phải phân tích, tính toán, lựa chọn phương án đầu tư một cách hợp lí, có hiệu quả cao phù hợp với năng lực sản xuất, tổ chức quản lí của mình. Bên cạnh đó, hoạt động đầu tư phải đảm bảo những nguyên tắc của phát triển bền vững nuôi trồng thuỷ sản, nghĩa là quản lí, duy trì cơ sở nguồn lợi tự nhiên, bảo vệ hệ sinh thái; phải đảm bảo sự công bằng trong một thế hệ, nghĩa là phải đáp ứng các nhu cầu của con người trong thế hệ hiện tại và mai sau, là đảm bảo cho mọi tầng lớp dân cư đều được hưởng bình đẳng do sự phát triển bền vững mang lại. Ngoài ra, hoạt động đầu tư còn phụ thuộc vào những yếu tố hết sức biến động như thu nhập do hoạt động đầu tư mang lại, lãi vay Ngân hàng, thuế và môi trường... IV. Kinh nghiệm của trung quốc trong việc đầu tư phát triển nuôi trồng thủy sản Trung Quốc là nước đông dân nhất thế giới, đồng thời là một trong 7 nước có nghề nuôi trồng thủy sản phát triển nhất ở châu á. Trong quá trình phát triển nuôi trồng thủy sản, Trung Quốc đã có những chính sách, biện pháp để thu hút các nguồn lực như vốn, các hộ gia đình, các nguồn tài nguyên… vào đầu tư phát triển ngành. Dự đoán dân số Trung Quốc sẽ là 1,6 tỉ người vào năm 2026, do đó diện tích bình quân đất canh tác trên đầu người sẽ giảm. Năm 1949 con số này là 0,19 ha, đến 1995 chỉ còn 0,09 ha. Những thay đổi nhanh chóng trong cơ cấu dân số và mức sống ngày càng cao đã tạo ra nhiều thách thức cũng như cơ hội gia tăng các sản phẩm nguồn gốc động vật, nhất là các sản phẩm thủy sản. Do nhu cầu trong nước và quốc tế đối với các loại cá và thủy sản khác có giá trị dùng tiêu thụ trực tiếp hoặc gián tiếp cho người đều tăng cùng với sự suy giảm nguồn lợi thủy sản tự nhiên, Trung Quốc đã hướng các chính sách phát triển nghề cá vào tăng diện tích nuôi trồng thủy sản nước ngọt, nước lợ, và nhất là nuôi ở biển như là “chìa khóa” để đáp ứng nhu cầu trong nước và cách thức tiêu dùng đang thay đổi. Để đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng, từ năm 1980, với chính sách mở cửa, Trung Quốc đã đề ra và xác định các chính sách phát triển nuôi trồng thủy sản ở tầm quốc gia, địa phương và trại nuôi nhằm chuyển đổi ngành nuôi trồng thủy sản từ cơ chế tập trung sang hoạt động thị trường. ở tầm quốc gia, việc phát triển nuôi trồng thủy sản là một phần chiến lược phát triển công nghiệp nông thôn. Nuôi trồng thủy sản nước ngọt mở rộng từ các tỉnh có nghề nuôi thủy sản lâu đời ở miền Nam sang các vùng Đông Bắc, và Tây Bắc. ở cấp địa phương, Trung Quốc chủ trương khuyến khích các cá nhân, tập thể và các trại nuôi của Nhà nước nhằm tăng sản lượng, như: hỗ trợ tín dụng, vật tư, chế biến và tiếp thị; xây dựng khoảng 3.350 kho chứa và 2.200 kho lạnh để tạo điều kiện thuận lợi cho việc xử lí và bảo quản sản phẩm… Để thúc đẩy sản xuất và tạo việc làm cho người dân ở các địa phương, Nhà nước đã tăng diện tích nuôi trồng thủy sản, mở rộng các loại hình mặt nước, thu hút những hộ gia đình chưa quan tâm đến nuôi thủy sản, các cơ quan quản lí nguồn nước và các trại nuôi của Nhà nước ở nhiều làng xã và tỉnh thành tham gia nuôi trồng thủy sản như một hoạt động kinh tế khả thi. Điều này đã thu hút được một lượng vốn rất lớn đang nhàn rỗi vào đầu tư cho phát triển nuôi trồng thủy sản. Trong quá trình phát triển nuôi trồng thủy sản, nuôi tôm thương phẩm được quan tâm đầu tư phát triển mạnh mẽ nhất. Các vùng nuôi tôm thương phẩm đều được đầu tư thiết kế theo qui hoạch cụ thể, từ vùng cao triều(2) Vùng cao triều: là vùng nuôi trồng thủy sản ít khi nước biển ngập đến, trừ trường hợp khí hậu thời tiết thay đổi gây nên hiện tượng bão lụt. đến vùng trung triều(3) Vùng trung triều: là vùng nuôi trồng thủy sản mà chế độ nước lên xuống theo chế độ nhật triều hoặc bán nhật triều, lúc nước lên vùng này ngập nước,lúc nước xuống vàng này cạn nước. Vì đặc điểm như vậy nên người ta quai đê để nuôi thủy sản với hình thức nuôi quảng canh. , áp dụng hình thức nuôi bán thâm canh và thâm canh. Bờ ao được đầm bê tông hoặc lát bằng các tấm bê tông; hệ thống cấp và thoát nước được thiết kế thành các mương và cống riêng biệt. Quá trình cải tạo ao trước và sau mỗi vụ nuôi tôm ở Trung Quốc đều được tuân thủ nghiêm ngặt theo đúng qui trình kĩ thuật, không sử dụng các loại phân chuồng, phân hữu cơ để bón ao nuôi. Hệ thống các trại sản xuất tôm giống của Trung Quốc có qui mô trung bình vốn đầu tư xây dựng cơ bản và lắp đặt trang thiết bị khoảng 2 đến 3 tỉ đồng, công suất từ 50 đến 70 triệu P15/năm. Các trại sản xuất giống đều lắp đặt hệ thống nâng nhiệt độ nước, do đó có thể chủ động sản xuất giống sớm, kịp thời vụ. Nhìn chung, phương thức qui hoạch các vùng nuôi và kĩ thuật nuôi trồng thủy sản, đặc biệt là nuôi tôm thương phẩm của Trung Quốc tương đối phù hợp với điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội và trình độ quản lí của ngư dân Việt Nam. Tùy theo điều kiện tự nhiên chất đất, chất nước và vị trí địa lí mà áp dụng xây dựng các vùng nuôi tôm theo trình độ kĩ thuật từ bán thâm canh đến thâm canh, nên chú trọng việc tận dụng thay nước theo thủy triều để giảm bớt chi phí trong quá trình sản xuất cũng như trong quá trình đầu tư phát triển nuôi trồng thủy sản. Chương 2 : Thực trạng đầu tư phát triển nuôi trồng thủy sản ở nước ta giai đoạn 1996-2000 I. Tình hình đầu tư vào ngành thủy sản giai đoạn 1996 -2000 1.Tình hình đầu tư phát triển thủy sản theo nguồn vốn Biểu 1: Tình hình đầu tư theo nguồn vốn của ngành thủy sản(4), (5) Nguồn: Báo cáo Tổng kết đầu tư xây dựng cơ bản 5 năm 1996-2000, phương hướng đầu tư xây dựng cơ bản 5 năm 2001-2005 của Ngành Thủy sản. Chỉ tiêu 1991-1995 1996-2000 Vốn (tỉ đồng) Tỉ lệ % Vốn (tỉ đồng) Tỉ lệ % Tổng mức đầu tư 2.829,34 100,00 8.957,12 100,00 -Trong nước 2.352,35 83,14 7.904,80 88,25 +Ngân sách 275,62 9,74 1.444,80 16,13 +Tín dụng 236,73 8,37 2.930,00 32,71 +Huy động 1.840,00 65,03 3.530,00 39,41 -Nước ngoài 476,99 16,86 1.052,32 11,75 +ODA 111,20 3,93 855,80 9,55 +FDI 365,79 12,93 196,52 2,20 Qua biểu trên ta có thể thấy rằng: Với cơ chế đầu tư tự cân đối, tự trang trải, lấy nguồn thu trong xuất khẩu thủy sản để nhập khẩu máy móc thiết bị và khơi thông nguồn vốn trong nước và nước ngoài để đầu tư xây dựng cơ sở vật chất kĩ thuật của Ngành, gắn sản xuất với tiêu thụ sản phẩm, tổng mức đầu tư của toàn Ngành đã tăng nhanh. Nếu trong 5 năm 1991-1995, tổng mức đầu tư là 2.829,34 tỉ đồng thì 5 năm sau đó 1996-2000 là 8.957,12 tỉ đồng, tăng so với giai đoạn trước 3,17 lần. Nếu tính trung bình năm, mức đầu tư tăng rõ ràng và khác biệt qua 2 giai đoạn: giai đoạn 1991-1995, mức đầu tư bình quân năm là 565,69 tỉ đồng, giai đoạn 1996-2000 là 1.791,42 tỉ đồng. Ngành Thủy sản đã quán triệt chủ trương đường lối của Đảng về phát huy nội lực trong đầu tư phát triển. Vốn đầu tư phát triển Ngành chủ yếu là vốn trong nước (chiếm 88,25% tổng mức đầu tư ), trong đó nguồn vốn huy động trong dân chiếm 39,41%. Kết quả này cho thấy Ngành đã đánh giá đúng vai trò của vốn huy động trong dân cho đầu tư phát triển. Tuy nhiên, xét cơ cấu vốn đầu tư phát triển, nguồn vốn đầu tư do Ngân sách Nhà nước cấp còn quá hạn chế (chỉ chiếm 16,13% tổng mức đầu tư), chưa tương xứng với tiềm năng và vai trò của Ngành Thủy sản; nguồn vốn huy động trong dân chiếm tỉ lệ như vậy vẫn còn thấp so với năng lực của người dân (39,41% tổng mức đầu tư). Tình hình đó đòi hỏi các cơ quan quản lí của Ngành phải cụ thể hóa Luật khuyến khích đầu tư trong nước, Luật khuyến khích đầu tư nước ngoài, xây dựng chính sách khuyến khích đầu tư nuôi trồng thủy sản, khai thác hải sản, chế biến thủy sản và xây dựng cơ sở hạ tầng nghề cá nhằm thu hút được nguồn lực trong và ngoài nước cho đầu tư phát triển Ngành, trong đó nguồn vốn trong nước đóng vai trò quan trọng và chủ yếu là vốn huy động của dân và các thành phần kinh tế. Mặc dù đất nước đã mở của thu hút vốn đầu tư nước ngoài để phát triển, nhưng tỉ trọng vốn đầu tư nước ngoài so với tổng số đầu tư cho Ngành còn rất hạn chế (11,75%). Điều đó cho thấy, đầu tư vào Ngành Thủy sản chưa hấp dẫn các nhà đầu tư nước ngoài và nỗ lực của Việt Nam giới thiệu tiềm năng phát triển thủy sản của đất nước với các nhà đầu tư chưa nhiều. Tình hình đó cũng đặt ra vấn đề cần thiết phải nghiên cứu, tìm hiểu tiêu chí tài trợ của các tổ chức tài trợ song phương và đa phương, nguyện vọng của các nhà đầu tư nước ngoài để cải thiện môi trường đầu tư trong nước hấp dẫn hơn nhằm thu hút vốn viện trợ phát triển đồng thời xây dựng chính sách tạo điều kiện cho đầu tư trực tiếp nước ngoài vào tất cả các lĩnh vực của Ngành trong thời gian tới. 2. Tình hình đầu tư theo lĩnh vực Biểu 2: Tình hình đầu tư theo lĩnh vực(5) (Đơn vị tính: tỉ đồng) Chỉ tiêu (1) 1991-1995 1996-2000 Mức tăng (%) (6) = Số vốn (2) Tỉ lệ % (3) Số vốn (4) Tỉ lệ % (5) Tổng số 2.829,34 100,00 8.987,12 100,00 317,64 Nuôi trồng thuỷ sản 860,61 30,42 2.283,27 25,41 265,31 Khai thác thuỷ sản 902,02 31,88 2.497,30 27,79 276,86 Chế biến thuỷ sản 745,47 26,35 2.727,31 30,35 365,85 Hậu cần dịch vụ 321,24 11,35 1.479,24 16,45 460,49 Thực hiện chủ chương công nghiệp hoá hiện đại hoá, đầu tư trong Ngành Thủy sản đã tập trung vào 3 chương trình khai thác, nuôi trồng, chế biến và tiêu thụ hải sản. Khai thác thuỷ sản là lĩnh vực lâu đời nhất ở nước ta (xét trong ngành), qua biểu trên có thể thấy lĩnh vực này tiếp tục được đầu tư mạnh. Trong thời kì 5 năm 1991-1995, nó chiếm 31,88% trong tổng vốn đầu tư, sang thời kì 1996-2000 tuy tỉ lệ vốn đầu tư không cao nhất nữa, nhưng được xếp thứ 2 cả về số lượng vốn và tỉ trọng. Nhìn chung, tình hình đầu tư ở tất cả các lĩnh vực của Ngành đều có tiến bộ rõ rệt, tăng gấp nhiều lần so với thời kì trước. Tuy nhiên, thời kì 1996-2000 chế biến thủy sản được ưu tiên đầu tư hơn các lĩnh vực khác, tổng giá trị đầu tư là 2.797,31 tỉ đồng, tăng 265,85% so với thời kì 1991-1995, chiếm 30,35% trong tổng số vốn đầu tư toàn Ngành; đầu tư cho phát triển nuôi trồng thuỷ sản đạt 2.283,27 tỉ đồng tăng 165,31%. Bên cạnh việc chú trọng đầu tư cho sản xuất của Ngành như nuôi trồng, khai thác, chế biến, Ngành Thủy sản đã chú tâm đầu tư cho cơ sở hậu cần dịch vụ nghề cá (chiếm16.45%, tăng 4,6 lần so với thời kì 1991-1995, tăng cao nhất trong các lĩnh vực), nhằm góp phần nâng cao hiệu quả sản xuất và chất lượng của sản phẩm sau khai thác và nuôi trồng. 3. Tình hình đầu tư nước ngoài 3.1 Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) Do tác động của nhiều yếu tố, xu hướng đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Ngành Thủy sản đang giảm, chiếm tỉ trọng thấp về số các dự án (85 dự án trên tổng số 2000 dự án của các Ngành khác), và về tổng mức đầu tư trong số các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài vào nước ta. Kết quả thống kê được tại Bộ Thủy sản từ khi có Luật đầu tư nước ngoài, Ngành Thủy sản có 85 dự án đầu tư theo hình thức FDI với tổng số vốn đầu tư ghi trong giấy phép là 337.356.013 USD. Song do nhiều lí do, một số dự án sau khi hoàn tất thủ tục không triển khai dược hoặc trong quá trình triển khai do vi phạm các qui định của Nhà nước ta bị rút giấy phép đầu tư… Hiện nay, trong số 85 dự án nêu trên, số dự án còn phép hoạt động chỉ còn 42 dự án, chiếm 49,4% trong tổng số dự án được cấp phép với tổng vốn đầu tư của các dự án này 144.236.561USD. Vốn đầu tư của các dự án còn được phép hoạt động được tổng hợp ở biểu 3. Biểu 3: Tổng hợp đầu tư trực tiếp ._.guồn: Qui hoạch tổng thể phát triển Ngành Thủy sản đến năm 2010. Các chỉ tiêu Đơn vị tính 2001 2006 2010 1. Sản lượng nuôi trồng thủy sản Tấn 850.000 1.150.000 2.000.000 2. Kim ngạch xuất khẩu Triệu USD 1.000 1.400 2.500 3. Thu hút lao động Người 1.000.000 1.400.000 2.000.000 4. Diện tích nuôi trồng thủy sản Ha 670.000 850.000 1.000.000 Trong những năm tới, phát triển thủy sản được coi là ngành kinh tế mũi nhọn để tạo ra tốc độ tăng trưởng mới trong nông nghiệp. Nước ta có tiềm năng về mặt nước để phát triển thủy sản, thị trường các sản phẩm thủy sản trên thế giới tương đối ổn định và nhu cầu tiếp tục tăng hàng năm, ta có thể ứng dụng ngay công nghệ mới, nhất là công nghệ nuôi tôm công nghiệp năng suất cao, nuôi tôm không bị bệnh,… để tạo bước nhảy vọt trong sản xuất. Với nguồn tiềm năng lớn và lâu dài như đã phân tích, thời gian tới cần phải đẩy mạnh nuôi trồng và đánh bắt thủy sản, trong đó tập trung phát triển nghề nuôi trồng thủy sản với đối tượng nuôi đa dạng. Phát triển nuôi trồng thủy sản nhằm đảm bảo an ninh thực phẩm và tạo nguồn nguyên liệu chủ yếu cho xuất khẩu. Phấn đấu đến năm 2001, tổng sản lượng nuôi trồng thủy sản đạt 850.000 tấn và đến năm 2010 đạt khoảng 2 triệu tấn, tăng gần gấp 3 lần so với năm 2000; giá trị kim ngạch xuất khẩu từ nuôi trồng thủy sản đạt trên 1 tỉ USD năm 2001 và trên 2,5 tỉ USD năm 2010; tạo việc làm và thu nhập cho khoảng 1,4 triệu người vào năm 2006, trên 2 triệu người vào năm 2010; góp phần tích cực vào phát triển kinh tế xã hội đất nước và an ninh ven biển. Với các hình thức nuôi phong phú: nuôi quảng canh, nuôi thâm canh và nuôi công nghiệp, dự tính đến năm 2006 diện tích nuôi trồng thủy sản đạt khoảng 850.000 ha, năm 2010 là 1 triệu ha, trên tất cả các loại hình mặt nước. II . một số giải pháp tăng cường đầu tư phát triển cho nuôi trồng thủy sản Thời gian qua, Ngành Thủy sản được Chính phủ quan tâm đầu tư phát triển đúng mức, đặc biệt là lĩnh vực nuôi trồng thủy sản phục vụ cho tiêu dùng trong nước và xuất khẩu, giải quyết công ăn việc làm, làm giảm sự cạn kiệt tài nguyên do khai thác quá ngưỡng an toàn, góp phần bảo vệ chủ quyền an ninh vùng biển… Chính vì thế, để công cuộc đầu tư đạt hiệu quả cao, tôi xin nêu ra một số giải pháp nhằm thu hút vốn, nâng cao hiệu quả đầu tư trong phát triển nuôi trồng thủy sản, và tăng cường đầu tư phát triển cho nuôi trồng thủy sản như sau: 1.Tăng cường huy động vốn đầu tư cho nuôi trồng thủy sản Dự báo nhu cầu vốn để thực hiện các mục tiêu nuôi trồng thủy sản từ nay đến năm 2010 của Ngành Thủy sản là khoảng 33.650 tỉ đồng. Tuy vậy, so với khả năng tích lũy nội bộ, Ngành chỉ đáp ứng khoảng 50%, như vậy phần còn lại phải dựa vào bên ngoài, kể cả trong và ngoài nước. 1.1. Đối với nguồn vốn trong nước: - Khuyến khích các thành phần kinh tế phát triển sản xuất kinh doanh nuôi trồng thủy sản để thúc đẩy và thu hút nguồn vốn đầu tư cho lĩnh vực này. - Nhà nước có chính sách ưu tiên, ưu đãi về vốn cho khu vực còn gặp nhiều khó khăn ở vùng nuôi trồng thủy sản ven biển, hải đảo, vùng nuôi trồng thủy sản giáp biển, vùng nghèo như các tỉnh Bắc Trung Bộ,đầu tư mạnh vào vùng trọng điểm nghề cá như đồng bằng sông Cửu Long. Cụ thể: Đối với nguồn vốn Ngân sách: Để tạo điều kiện thu hút, Ngành cần tập trung vào việc tổ chức sắp xếp lại các doanh nghiệp, hoàn thiện việc xây dựng định hướng chiến lược phát triển nuôi trồng thủy sản. Đồng thời, công khai các dự án khả thi nhằm thu hút nguồn vốn Ngân sách. Nhà nước dùng nguồn vốn Ngân sách để cải thiện cơ sở hạ tầng nuôi, đào tạo phát triển nguồn nhân lực có khả năng tiếp thu và sử dụng công nghệ kĩ thuật tiên tiến và chú trọng đầu tư cho các vùng nuôi gặp nhiều khó khăn… Đối với nguồn vốn tín dụng đầu tư: cần phải chú trọng điều chỉnh chính sách tiền tệ, tín dụng. Nghĩa là có các biện pháp thu hẹp mức chênh lệch giữa lãi suất đồng Việt Nam và lãi suất ngoại tệ, tăng nhanh tỉ trọng cho vay để đầu tư từ ngắn hạn sang trung và dài hạn. Đảm bảo chính sách lãi suất dương, bảo đảm giá trị tiền gửi và có lãi, đa dạng hóa các hình thức đầu tư trực tiếp và gián tiếp để khuyến khích nhân dân đưa vốn vào sản xuất kinh doanh các lĩnh vực: giống, thức ăn, thuốc chữa bệnh cho tôm, cá và các vật tư chuyên dùng phục vụ nuôi trồng thủy sản. Đối với nguồn vốn tự huy động: Đây là nguồn vốn tiềm ẩn rất lớn, có ý nghĩa quan trọng trong tổng số vốn đầu tư trong nước. Đối với nguồn vốn này cần tổ chức tốt mạng lưới quỹ tiết kiệm cũng như hệ thống tín dụng nhân dân, động viên nhân dân gửi tiền, vay tiền để phát triển sản xuất, tránh tâm lí thích dùng tiền để dành vào các mục đích đầu tư riêng lẻ, tu bổ nhà cửa và trữ kim. Cần phát triển hệ thống tín dụng ngân hàng trong nước, thị trường chứng khoán để tái đầu tư các khoản vốn đã tích lũy được, phục vụ việc phát triển sản xuất. Điều đó cho phép tiến hành quá trình tích tụ vốn đi cùng với tập trung vốn để phát triển sản xuất, vì nếu chỉ các doanh nghiệp và tư nhân tiết kiệm, tự đầu tư thì vốn sẽ bị phân tán, đầu tư vì thế sẽ kém hiệu quả. Mặt khác, các dự án của các doanh nghiệp Nhà nước cần công khai để tăng cường thu hút các nguồn vốn đầu tư bên ngoài qua hình thức liên doanh trong và ngoài nước. Trong sản xuất và tiêu dùng, cần triệt để thực hành tiết kiệm, tăng cường tích lũy vốn để đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh. Cần nhanh chóng xử lí những vấn đề tồn tại trong luật khuyến khích đầu tư trong nước có liên quan đến vấn đề thuế như: thuế sử dụng diện tích đất đai mặt nước nuôi trồng thủy sản (nuôi trồng thủy sản trên đất, mặt nước thuộc đất nông nghiệp thì thực hiện thuế nông nghiệp hiện hành; nuôi trồng thủy sản ở mặt nước eo vịnh, đầm phá, hồ chứa nước, sông, đất bãi bồi ven biển được áp dụng thuế theo chính sách khai hoang phục hóa), về vấn đề bảo vệ môi trường, bảo vệ và tái tạo nguồn lợi thủy sản, đồng thời nhanh chóng bổ sung, đồng bộ hóa các văn bản dưới luật để các văn bản này động viên mọi tầng lớp nhân dân đẩy mạnh đầu tư. Hướng sử dụng có hiệu quả vốn đầu tư là cần tập trung mọi khả năng nguồn lực để đầu tư phát triển trên cơ sở áp dụng tiến bộ khoa học và tạo việc làm cho người lao động. 1.2. Đối với nguồn vốn nước ngoài: Để đẩy mạnh thu hút nguồn vốn này, cần chú trọng các giải pháp chung của nền kinh tế như: tiếp tục hoàn thiện và bổ sung hệ thống luật pháp, chính sách tạo ra môi trường pháp lí ổn định và nhất quán cho hoạt động đầu tư, mở rộng các hoạt động tư vấn đầu tư, tạo môi trường hấp dẫn hơn, sớm xem xét và có quyết định hợp tác đầu tư nuôi trồng thủy sản với Đan Mạch; đồng thời giữ vững sự ổn định về tình hình kinh tế, chính trị, xã hội của đất nước để thu hút và phát huy hiệu quả vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào những vùng nuôi khó khăn, nhằm tạo công ăn việc làm và nâng cao thu nhập cho người lao động. Khẩn trương xây dựng một số khu kinh tế mở có qui chế riêng tại một số đảo hoặc vùng ven biển như khu sản xuất giống cá biển, nuôi thủy sản… Ngoài việc đẩy mạnh thu hút nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Ngành Thủy sản nói chung và lĩnh vực nuôi trồng thủy sản nói riêng, việc cần thiết là phải có hướng sử dụng hiệu quả nguồn vốn này. Đó là cần nâng cao phần góp vốn của Việt Nam nhằm đảm bảo lợi ích lâu dài của đất nước, đồng thời nâng cao năng lực công nghệ quốc gia để có thể tiếp nhận và thúc đẩy quá trình chuyển giao công nghệ tiên tến trong lĩnh vực nuôi trồng thủy sản. Hơn nữa, cần phải tận dụng tối đa mọi khả năng, hiệu quả mà đầu tư trực tiếp nước ngoài có thể mang lại; qui hoạch, huy động và sử dụng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài cần phải phù hợp với chiến lược, qui hoạch đầu tư. Đồng thời, cần chú ý khả năng tăng năng lực sản xuất trong nuôi trồng thủy sản do nguồn vốn này tạo ra. 2. Giải pháp về đầu tư mở rộng và phát triển sản xuất Nuôi trồng thủy sản là một ngành sản xuất vật chất quan trọng trong nền kinh tế quốc dân, đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng thực phẩm cho tiêu dùng và nguyên liệu cho chế biến xuất khẩu. Vì thế, bên cạnh giải pháp tăng cường huy động vốn, giải pháp về đầu tư mở rộng và phát triển sản xuất là yếu tố quyết định trong việc phát triển nuôi trồng thủy sản ở nước ta hiện nay. Trong giải pháp này, có các giải pháp chủ yếu sau: 2.1. Giải pháp về phát huy sức mạnh các thành phần kinh tế Các thành phần kinh tế tham gia vào hoạt động sản xuất nuôi trồng thủy sản rất đa dạng, bao gồm tư bản Nhà nước (Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài, doanh nghiệp liên doanh, doan nghiệp cổ phần), tập thể (Hợp tác xã, tập đoàn) và tư nhân (Hộ gia đình, tiểu chủ, tư bản tư nhân). Do vậy, cần phải tiếp tục xây dựng quan hệ sản xuất, phát triển nền kinh tế nhiều thành phần trong lĩnh vực nuôi trồng thủy sản. Bộ Thủy sản và các Ban, Ngành có liên quan cần tạo mọi điều kiện và "sân chơi" bình đẳng cho mọi thành phần kinh tế tham gia đầu tư phát triển sản xuất, nuôi trồng thủy sản, ở đây đặc biệt chú ý khuyến khích các dạng kinh tế trang trại và những chủ doanh nghiệp nuôi trồng thủy sản có qui mô lớn. Đưa kinh doanh giống, thức ăn, sản phẩm nuôi trồng thủy sản vào hệ thống kinh doanh hiện đại theo kiểu doanh nghiệp công nghiệp và thương mại. Xóa bỏ kiểu buôn bán qui mô nhỏ, kinh doanh quá nhỏ và phân tán như hiện nay. Tuy nhiên, hệ thống doanh nghiệp thương mại vừa và nhỏ tư nhân phù hợp với nghề cá đa loài và phân tán ở nước ta, hiện nay mô hình này đem lại hiệu quả và lãi suất rất cao cần phải được tổng kết đánh giá kịp thời để có cơ chế chính sách nhằm khuyến khích các tổ chức này hình thành ở mọi vùng nông thôn nghề cá ven biển, vùng cao, vùng xa… Trong dịch vụ công ích, ứng dụng chuyển giao công nghệ mới vào nuôi trồng thủy sản, một số quốc doanh giữ vai trò chủ đạo cần được tiếp tục củng cố. Việc phát huy sức mạnh các thành phần kinh tế cần quan tâm chú ý đào tạo cán bộ kĩ thuật và hướng dẫn các thành phần kinh tế khác hoạt động đúng đường lối của Đảng, chính sách của Nhà nước nhằm tạo điều kiện để hỗ trợ các thành phần kinh tế bổ sung cho nhau cùng phát triển, khuyến khích phát triển hợp tác xã theo kiểu mới và các hình thức kinh tế hợp tác trong sản xuất - kinh doanh nuôi trồng thủy sản. Các tổ chức kinh tế hợp tác xã và tập đoàn nên đi theo hướng hợp tác để hỗ trợ nhau nâng cao sức cạnh tranh và chống lại sự chèn ép về thị trường và giá cả trong lĩnh vực nuôi trồng thủy sản cũng như tăng cường sức mạnh về tín dụng, thông tin, tiếp thị, đào tạo hướng nghiệp… 2.2. Mở rộng và phát triển sản xuất Sản xuất nuôi trồng thủy sản bao gồm các nhân tố: giống, thức ăn, công nghệ, kĩ thuật nuôi… Muốn phát triển nghề nuôi trồng thủy sản không những chỉ quan tâm đầu tư cho quá trình nuôi thủy sản mà cần phải có chiến lược và hướng đầu tư đúng đắn để mở rộng và phát triển các nhân tố này. Đó là việc đầu tư vào các trại sản xuất giống, đặc biệt là các trại sản xuất tôm giống có công nghệ sinh sản giống nhân tạo hiện đại, sạch bệnh, quá trình sinh trưởng và phát triển nhanh nhằm tăng năng suất, sản lượng nuôi trồng thủy sản. Trong những năm qua, do nhu cầu nuôi tôm "bùng nổ" quá lớn trong thời gian ngắn đã dẫn đến tình trạng cung cấp con giống thiếu hụt rất lớn. Bên cạnh đó, hiện nay phần lớn các trại sản xuất tôm giống được xây dựng nằm xen trong khu dân cư hoặc gần các đìa nuôi tôm thịt làm ảnh hưởng đến môi trường sống của dân, trực tiếp hạn chế năng lực sản xuất giống và tôm nuôi. Khắc phục tình trạng đó, theo sự chỉ đạo của Ngành Thủy sản quốc gia, Trung tâm Thủy sản III đang xúc tiến việc qui hoạch xây dựng trung tâm giống tại Sông Lô - Nha Trang; UBND và ngành thủy sản Khánh Hòa cũng đã tiến hành khảo sát để qui hoạch thành lập Khu công nghiệp tập trung sản xuất tôm giống với diện tích 1000ha. Tuy nhiên, do nuôi trồng thủy sản đang có xu hướng phát triển mạnh, đặc biệt là nghề nuôi tôm, vì thế nhu cầu giống hiện nay và trong thời gian tới rất lớn, chỉ một vài Khu công nghiệp sản xuất giống tập trung thì không thể đáp ứng được cho quá trình phát triển mà cần phải qui hoạch xây dựng thêm các trại sản xuất giống, các Khu công nghiệp tập trung sản xuất giống ở các tỉnh có thế mạnh về nuôi trồng thủy sản như: Quảng Ninh, Hải Phòng, Cà Mau, An Giang, Bạc Liêu… Các trại, nhà máy chế biến thức ăn công nghiệp cho nuôi trồng thủy sản cũng cần được quan tâm chú ý đầu tư hơn nữa. Theo thống kê chưa đầy đủ, cho đến hết quý I năm 2001, cả nước có 6 công ty 100% vốn nước ngoài và gần 50 doanh nghiệp, cơ sở tư nhân sản xuất thức ăn công nghiệp với tổng công suất khoảng 47.640 tấn/năm. Tuy nhiên, thức ăn sản xuất ra nhìn chung chưa đáp ứng được nhu cầu cả về số lượng và chất lượng. Theo đánh giá của một chuyên gia Thái Lan có kinh nghiệm lâu năm về nuôi trồng thủy sản ở Việt Nam thì hiện tại thức ăn cho nuôi trồng thủy sản sản xuất tại Việt Nam chiếm khoảng 35 - 40%, lượng nhập khẩu chiếm khoảng 10 - 15%, còn lại là thức ăn tươi. Như vậy, tỉ lệ thức ăn tươi còn chiếm quá cao trong tổng thức ăn phục vụ nuôi trồng thủy sản, chất lượng thức ăn loại này lại không đảm bảo đúng tiêu chuẩn kĩ thuật nên việc có các chính sách, biện pháp khuyến khích xây dựng nhà máy chế biến thức ăn công nghiệp cho nuôi trồng thủy sản của Nhà nước và Bộ Thủy sản là rất cần thiết nhằm đảm bảo nhu cầu cao về số lượng cũng như chất lượng thức ăn sản xuất ra với giá thành hợp lí. 2.3 Giải pháp đầu tư cho nuôi trồng thủy sản xuất khẩu Để thống nhất sự phất triển ngành nuôi trồng thủy sản theo một qui hoạch chung với việc gìn giữ môi trường sinh thái bền vững; trong nuôi trồng thủy sản, không nên ưu tiên phát triển manh mún mà phát triển các doanh nghiệp có trọng điểm nhằm không những phát triển bền vững mà còn đảm bảo cho sự phát triển có hiệu quả cao của doanh nghiệp, thời gian tới Bộ Thủy sản cần có giải pháp về đầu tư cho nuôi trồng thủy sản xuất khẩu. Đó là: đối với việc xây dựng các vùng nuôi tôm công nghiệp từ 100 ha trở lên, Bộ Thủy sản cần tập trung xây dựng và xét duyệt các luận chứng kinh tế kĩ thuật, các công trình cơ sở hạ tầng đầu mối cho các vùng nuôi tôm công nghiệp từ 100 ha trở lên được giao cho Bộ Thủy sản xây dựng và sau khi xây dựng xong mới giao về cho địa phương quản lí. Đối với các dự án nuôi thủy sản có diện tích dưới 100 ha thì phân trách nhiệm cho các địa phương xây dựng luận chứng kinh tế kĩ thuật và xây dựng cơ sở hạ tầng. Các Sở Thủy sản chịu trách nhiệm quản lí thống nhất kĩ thuật và công nghệ nuôi, bảo vệ môi trường các vùng tập trung. Để khuyến khích đầu tư phát triển nuôi trồng thủy sản người dân được lấy giá trị công trình ao nuôi làm tài sản thế chấp cho vay vốn nuôi trồng thủy sản. Bộ Thủy sản cũng cần thống nhất quản lí chất lượng giống và thức ăn cho nuôi trồng thủy sản. Việc sản xuất giống và thức ăn cho nuôi trồng thủy sản phải được đặt dưới sự kiểm tra giám sát chất lượng của cơ quan quản lí nuôi trồng thủy sản thuộc Bộ Thủy sản. Bên cạnh đó, Bộ cũng nên cho phép thành lập một số xí nghiệp công ích với 3 chức năng: sản xuất thức ăn, giống và khuyến ngư ở mỗi vùng để điều chỉnh thị trường từng vùng. 2.4. Tăng cường các nỗ lực về khoa học công nghệ cho phát triển nuôi trồng thủy sản Việc tăng cường các nỗ lực về khoa học công nghệ là rất quan trọng đối với mọi ngành nghề trong nền kinh tế thị trường, nuôi trồng thủy sản cũng không nằm ngoài qui luật đó. Trước mắt, cần tập trung vào lựa chọn và du nhập các khoa học công nghệ tiên tiến của nước ngoài phù hợp với phát triển nghề cá, nhất là sản xuất các mặt hàng có giá trị thương mại cao, kĩ thuật nuôi trồng thủy sản mới, hiện đại… Cụ thể: Cần tập trung đầu tư nghiên cứu, ứng dụng các tiến bộ kĩ thuật nhằm hoàn thiện các qui trình sản xuất giống các loài thủy sản có giá trị xuất khẩu như giống tôm sú, tôm càng xanh, cá quả, cá rô phi đơn tính và một số loài nhuyễn thể. Tăng cường đầu tư cho việc nhập công nghệ sinh sản nhân tạo, công nghệ nuôi các đối tượng thủy sản có giá trị kinh tế như cá song, cá hồng, tôm hùm, ngao, sò, điệp, trai. Tập trung đầu tư nghiên cứu lai tạo giống nuôi thủy sản có năng suất, chất lượng cao, cải tạo đàn giống cũ, thay thế nhóm giống kém chất lượng. Đầu tư nhập giống thuần thay thế và nhập một số giống, cá bố mệ, trứng thụ tinh các loại cá biển để nhanh chóng có giống sản xuất. Đầu tư nghiên cứu, áp dụng và hoàn thiện các công nghệ mới về xử lí môi trường, chẩn đoán, phòng trừ dịch bệnh, công nghệ sản xuất thức ăn cho các đối tượng thủy sản nuôi; công nghệ lưu giữ, bảo quản sống, vận chuyển sống và công nghệ bảo quản sau thu hoạch các loại sản phẩm nuôi trồng. Tập trung một bước đầu tư khoa học công nghệ cho công tác điều tra nguồn lợi thủy sản, nghiên cứu các vấn đề kinh tế - qui hoạch, quản lí nghề cá cho giai đoạn công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Nhanh chóng chuyển giao các tiến bộ khoa học kĩ thuật cho sản xuất. Nâng cao các cơ sở nghiên cứu, đào tạo trở thành các cơ sở có trang thiết bị hiện đại có đủ năng lực nghiên cứu để giải quyết những vấn đề công nghệ, về quản lí nguồn lợi, quản lí môi trường và an toàn vệ sinh. 2.5. Đẩy mạnh hợp tác quốc tế Trong xu thế quốc tế hoá, toàn cầu hoá của nền kinh tế các nước trên thế giới, Ngành Thủy sản Việt Nam nói chung và ngành nuôi trồng thủy sản nói riêng cần phải có các giải pháp nhằm tăng cường hợp tác đầu tư với các nước trong khu vực và trên thế giới. Đó là: Cần chuẩn bị tốt các chương trình, dự án, tổ chức lực lượng để tranh thủ có hiệu quả tối đa các cơ hội hợp tác với nước ngoài trong lĩnh vực nuôi trồng, như: - Tăng cường hợp tác đầu tư trong việc sinh sản nhân tạo một số giống loài cá, tôm biển; di giống nhập nội và thuần hoá các đối tượng nuôi có giá trị kinh tế và xuất khẩu phù hợp với điều kiện sinh thái, môi trường của Việt Nam. - Hợp tác trong việc nghiên cứu di truyền, chọn giống, chuyển đổi giới tính một số giống, loài quí, quản lí đàn tôm sú bố mẹ sạch bệnh, công tác phòng ngừa dịch bệnh thủy sản... nhằm tham quan, học tập, đào tạo, hội nghị, hội thảo và mua công nghệ nước ngoài. - Nghiên cứu công nghệ chọn lọc tôm sú sạch bệnh, nghiên cứu chuyển đổi giới tính tôm càng xanh, lai tạo tôm sú với tôm he ấn Độ cho thế hệ F1 có phẩm giống năng suất cao thích hợp với điều kiện môi trường sinh thái. Xây dựng qui chế trách nhiệm và phân cấp cụ thể để các địa phương cơ sở chủ động tìm kiếm các nguồn và phương thức hợp tác, tài trợ theo định hướng của Nhà nước tạo ra nguồn lực rất quan trọng về vốn và công nghệ cho sự phát triển của Ngành. Cần phải có những hành lang pháp lí hấp dẫn hơn đối với đầu tư vào các lĩnh vực thuộc Ngành Thủy sản để tạo ra khả năng cạnh tranh quốc tế cao, như các ưu đãi về thuế sử dụng đất cho đầu tư nuôi trồng, đặc biệt là các vùng đất cát ven biển. Nên cấp tư cách tiên phong với nhiều ưu đãi cho các xí nghiệp đi tiên phong trong việc phát triển nuôi biển, nuôi tôm công nghiệp và đầu tư vào các ngành yểm trợ cho nuôi công nghiệp. 3. Giải pháp về đầu tư mở rộng và phát triển thị trường tiêu thụ Để mở rộng và phát triển thị trường tiêu thụ tốt, việc cần thiết là tìm kiếm lợi thế cạnh tranh trên từng thị trường cho từng chủng loại mặt hàng, lợi dụng đồng bộ các yếu tố địa lí, thương mại, ngoại giao, truyền thống… Đối với mặt hàng tươi sống, để tiêu thụ nhanh với chất lượng và giá trị dinh dưỡng không bị thất thoát, cần có hướng đầu tư chủ yếu vào các nhà hàng thủy đặc sản nhằm giới thiệu các đặc sản của mỗi vùng tại chỗ, đặc biệt là phát triển các nhà hàng thủy đặc sản ở các khu du lịch, nghỉ mát ven biển - nơi có nhiều khách tham quan, du lịch trong và ngoài nước - vì thế mà sức mua cao hơn ở những nơi khác. Tuy nhiên, vấn đề cốt yếu là đầu tư tập trung lớn vào các nhà máy chế biến có đủ tiêu chuẩn sản xuất các mặt hàng xuất khẩu; nên có sự sắp xếp lại để phân lập các doanh nghiệp có đủ khả năng tham gia vào các thị trường thủy sản. Kiên quyết dẹp bỏ những xí nghiệp làm ăn thua lỗ triền miên khó có khả năng khôi phục để tạo ra điều kiện cho sự phát triển và cạnh tranh lành mạnh. Việc tạo dựng và mở rộng, phát triển thị trường phải có lợi cho Ngành Thủy sản, sản phẩm của nuôi trồng thủy sản cần được quảng cáo, tiếp thị rộng rãi về chất lượng và chủng loại để nâng cao sức tiêu thụ, đẩy nhanh chu kì sản xuất, đạt hiệu quả cao. Tích cực mở rộng và phát triển thị trường tiêu thụ sản phẩm nuôi trồng thủy sản trong và ngoài nước; tận dụng tối đa vị trí của vùng ven biển, thế mạnh của sản phẩm thủy sản để giao lưu kinh tế, ổn định thị trường, thúc đẩy mở rộng thị trường truyền thống như EU, Bắc Mĩ, Trung Quốc,… tìm cách xâm nhập các thị trường mới như Trung và Nam Mĩ, các nước ả Rập và kể cả thị trường cá nổi nhỏ, giá trị thấp ở châu Phi. 4. Giải pháp về nhân lực Nhu cầu lao động trong Ngành Thủy sản sẽ tăng với nhịp độ 2,65%/năm chủ yếu trong hai lĩnh vực: nuôi trồng và chế biến thủy sản. Lao động khai thác hải sản phải giảm để tăng tính hiệu quả thương mại, vì lượng lao động khai thác gần bờ đã quá lớn, lực lượng này sẽ chuyển một phần sang khai thác khơi, một phần sẽ chuyển sang nuôi nước lợ, nuôi biển. Để phát triển nuôi trồng thủy sản có hiệu quả, bền vững đòi hỏi có một nguồn nhân lực gồm cán bộ khoa học có trình độ chuyên môn cao và đội ngũ kĩ thuật viên thực hành giỏi. Do đó trong thập niên tới cần tăng cường đầu tư đào tạo cán bộ đại học, trung học và sau đại học để bổ sung kịp thời sự thiếu hụt nguồn cán bộ kĩ thuật ở các địa phương và bồi dưỡng kĩ thuật cho dân về nuôi trồng thủy sản. Dự kiến đến năm 2010 đào tạo 2000 cán bộ có trình độ đại học, 6000 kĩ thuật viên trung cấp, 200 thạc sĩ và 50 tiến sĩ, trong đó chủ yếu là do các trường đại học có chuyên ngành về nuôi trồng thủy sản trong cả nước đào tạo. Đồng thời hợp tác với AIT, NORAD về đào tạo thạc sĩ, tiến sĩ nuôi trồng thủy sản để tận dụng được kinh nghệm đào tạo và nguồn kinh phí tài trợ. Hơn nữa, cần tranh thủ nguồn học bổng của các nước và tổ chức quốc tế đào tạo cán bộ chuyên sâu, trình độ thạc sĩ tiến sĩ về nuôi trồng thủy sản theo từng lĩnh vực: giống, bệnh, môi trường và thức ăn. Bên cạnh đó, có thể đào tạo ở trong nước dựa vào tiềm năng về cơ sở vật chất và đôi ngũ trí thức của các Viện Nghiên cứu, và các trường Đại học, đồng thời tranh thủ nguồn học bổng của nước ngoài. Mặt khác, Nhà nước dành vốn Ngân sách để đào tạo theo hình thức tuyển học sinh giỏi vào học đại học ở các trường Đại học Tổng hợp trong nước, sau đó gửi đi nước ngoài đào tạo thạc sĩ và tiến sĩ. III. Kiến nghị Sau đây là một số kiến nghị đối với Chính phủ nhằm tạo điều kiện cho việc thực hiện các giải pháp trên được thuận lợi. Đó là đề nghị Chính phủ: * Sớm nâng cấp Trung tâm khuyến ngư Trung ương hiện đang là cấp phòng lên Cục khuyến ngư để nâng cao năng lực và trình độ quản lí cho tương xứng với nhiệm vụ và yêu cầu phát triển Ngành Thủy sản nói chung và nuôi trồng thủy sản nói riêng trong những năm tới. * Chỉ đạo các địa phương khẩn trương triển khai Nghị quyết số 09/2000/NQ-CP ngày 15/6/2000 của Chính phủ và sớm thực hiện việc giao đất, cho thuê đất; cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đát cho nhân dân địa phương theo qui định của pháp luật hiện hành để người dân yên tâm đầu tư xây dựng công trình nuôi trồng thủy sản và có thể dùng quyền sử dụng đất để làm tài sản thế chấp vay vốn tín dụng. * Sớm ban hành chính sách về việc giao, cho thuê và cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với đất nuôi trồng thủy sản. Từ trước tới nay, đất và mặt nước dùng để nuôi trồng thủy sản được tính chung trong dất nông nghiệp. Hiện nay, nghề nuôi trồng thủy sản đã và đang phát triển mạnh mẽ và các loại hình mặt đất để nuôi trồng thủy sản cũng rất đa dạng, phong phú gồm đất khô, đất ướt, đất có mặt nước, mặt nước (sông, hồ chứa, mặt biển)… Vì vậy các loại đất, mặt nước này cần được tách riêng thành một nhóm và nên gọi là đất và mặt nước nuôi trồng thủy sản hoặc gọi tổng quát là đất nuôi trồng thủy sản. * Cho nâng mức tối đa về hạn điền được giao từ 3 ha theo qui định tại điểm a mục 1 khoản 4 điều 1 của Nghị định 85/1999/NĐ-CP ngày 28/8/1999 của Chính phủ lên 5 ha đối với những địa phương có tiềm năng lớn về đất nuôi trồng thủy sản. * Nghiên cứu, ban hành cơ chế cho vay vốn tín dụng đối với những người nuôi các loài thủy sản có giá trị kinh tế cao và tiềm năng xuất khẩu lớn được hưởng mức cho vay không phải thế chấp đến 50 triệu đồng và được dùng tài sản là giá trị thực tế của các ao, đầm, lồng bè đã có và giá trị của các ao, đầm, lồng bè nuôi thủy sản hình thành từ vốn vay để làm tài sản thế chấp. Có cơ chế cho các hộ gia đình thuộc diện chính sách được vay tín chấp và nông, ngư dân nghèo có lao động nuôi trồng thủy sản có thể được vay vốn không phải thế chấp tài sản. * Điều chỉnh thuế suất nhập khẩu nguyên liệu sản xuất thức ăn nuôi thủy sản xuống mức thấp hơn thuế suất nhập khẩu thức ăn đối với các loại nguyên liệu sản xuất thức ăn nuôi thủy sản mà nước ta chưa có và bằng thuế suất nhập thức ăn đối với những loại nguyên liệu trong nước có nhưng chưa đủ đáp ứng nhu cầu sản xuất hoặc còn thấp về chất lượng (hiện nay thuế suất nhập khẩu nguyên liệu để sản xuất thức ăn nuôi thủy sản từ 5-20% trong khi thuế suất nhập khẩu thức ăn chỉ có 5% là không hợp lí). * Cho phép Ngành Thủy sản tìm kiếm sự giúp đỡ của các nước, các tổ chức quốc tế để đào tạo cán bộ đại học và sau đại học ở các nước có nghề cá phát triển. * Ngành Thủy sản và Chính phủ cần sớm có các chính sách ưu đãi để khuyến khích các nhà đầu tư trong và ngoài nước đầu tư phát triển nhanh các doanh nghiệp nuôi trồng thủy sản và các trang trại qui mô vừa và lớn trong nuôi trồng thủy sản. Kết luận Từ những số liệu và phân tích ở trên, ta có thể thấy được thực trạng đầu tư phát triển nuôi trồng thủy sản thời gian qua và một số giải pháp đẩy mạnh đầu tư phát triển ngành nuôi trồng thủy sản trong thời gian tới.Với tiềm năng và nguồn lợi thủy sản cũng như vị trí địa lý thuận lợi của Việt Nam. Tất cả những điều này đã tạo ra những điệu kiện cần thiết để phát triển Ngành Thủy sản thành một Ngành kinh tế mũi nhọn có vài trò quan trọng trong nền kinh tế quốc dân, phát huy thế mạnh sẵn có của Ngành đối với quá trình phát triển nền kinh tế quốc dân cũng như sự nghiệp công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước. Thực tế, quá trình đầu tư phát triển nuôi trồng thủy sản thời gian qua đã đạt được những thành tựu đáng kể góp phần vào quá trình phát triển của Ngành cũng như của nền kinh tế nước ta. Sự phát triển mạnh mẽ của Ngành Thủy sản trong những năm qua có được là nhờ sự nỗ lực to lớn của mọi doanh nghiệp, tổ chức kinh doanh dịch vụ, cộng đồng dân cư và các tổ chức có liên quan. Tuy nhiên, ngoài những thành tựu đạt được, hoạt động đầu tư phát triển trong ngành Thủy sản vẫn còn một số tồn tại nhất định, đó là lĩnh vực nuôi trồng thủy sản chưa được đầu tư thỏa đáng, chưa đáp ứng được nhu cầu phát triển sản xuất kinh doanh, đặc biệt là nhu cầu xuất khẩu cao của Ngành. Điều này dẫn tới tình trạng qui hoạch cho các vùng nuôi trồng thủy sản tràn lan, chưa hợp lý; việc giải quyết tôm bố mẹ cho sản xuất tôm giống còn bị động, công nghệ nuôi trồng thủy sản còn lạc hậu so với các nước cạnh tranh với ta…Vì vậy đòi hỏi cần có sự quan tâm thích đáng của Nhà nước và nhân dân nhằm nâng cao hiệu quả đẩy mạnh hoạt động đầu tư phát triển nuôi trồng thủy sản trong thời gian tới. Từ đó góp phần hoàn thành mục tiêu phát triển kinh tế xã hội của Ngành, đưa ngành Thủy sản trở thành một trong những ngành kinh tế mũi nhọn của đất nước. Mong rằng, với đề tài “Đầu tư phát triển nuôi trồng thủy sản-Thực trạng và giải pháp” sẽ góp phần nhỏ bé của mình vào quá trình phát triển cũng như công nghiệp hóa, hiện đại hóa Ngành Thủy sản. Tài liệu tham khảo Giáo trình Kinh tế đầu tư - GS.TS. Nguyễn Ngọc Mai (chủ biên) - Nhà xuất bản Giáo dục - năm 1998. Giáo trình lập và quản lí dự án đầu tư - TS. Nguyễn Bạch Nguyệt (chủ biên) - Nhà xuất bản Thống kê năm 2000. Giáo trình Quản lí dự án đầu tư - Th.S. Từ Quang Phương (chủ biên)- Nhà xuất bản Giáo dục - Năm 2001. Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế-xã hội Ngành Thủy sản thời kì 2000-2010- Bộ Thủy sản. Kế hoạch phát triển nuôi trồng thủy sản các tỉnh ven biển giai đoạn 2001-2005 - Bộ Thủy sản. Chương trình phát triển nuôi trồng thủy sản thời kỳ 1999 - 2010 - Bộ Thủy sản. Báo cáo Tổng kết đầu tư xây dựng cơ bản 5 năm 1996 - 2000 và phương hướng đầu tư xây dựng cơ bản 5 năm 2001-2005 của Ngành Thủy sản - Hà Nội tháng 3 năm 2001. Sách Chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành và phát triển các ngành trọng điểm mũi nhọn ở Việt Nam - Đỗ Hoài Nam - Nhà xuất bản KHXH năm 1996. Số liệu thống kê Nông - lâm - Thủy sản Việt Nam 1990 - 1998 và dự báo 2000 - Nhà xuất bản Thống kê 1999. Chính sách và biện pháp huy động các nguồn vốn. TT-TL-TT Bộ KHĐT năm 1996. Báo cáo tình hình kế hoạch nhiệm vụ năm 1993, 1996, 1998, 1999, 2000 và biện pháp thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế xã hội năm 2001 của ngành Thủy sản. Tạp chí Thủy sản số 1, 2, 3, 6 năm 1999; số 1, 2, 3, 4 năm 2000; số Tết Tân Tị, số 2 năm 2001. Tạp chí Thị trường và giá cả số 11 năm 1999, số 5 năm 2000. Tạp chí nghiên cứu kinh tế số 269 tháng 10/2000. Tạp chí Thương mại Thủy sản số 7,12 năm 2000. Kinh tế 1999 - 2000, 2000 - 2001, Chuyên san của Thời báo kinh tế Việt Nam. Báo Thời báo kinh tế Việt Nam số 77 năm 2000; số 24, 26, 42, 52, 53 năm 2001. Phụ lục Phân vùng kinh tế Căn cứ vào đặc điểm riêng của từng khu vực nước ta được chia thành các vùng kinh tế, cụ thể: Vùng 1: Các tỉnh miền núi phía Bắc có 13 tỉnh gồm: Hà Giang, Tuyên Quang, Cao Bằng, Bắc Cạn ,Thái Nguyên, Lào Cai, Yên Bái, Lạng Sơn, Phú Thọ, Bắc Giang, Lai Châu, Sơn La, Hòa Bình. Vùng 2: Các tỉnh đồng bằng Bắc Bộ và khu bốn cũ có 15 tỉnh và thành phố gồm: Hà Nội, Hải Phòng, Quảng Ninh, Vĩnh Phúc, Bắc Ninh, Hà Tây, Hải Dương, Hưng Yên, Hà Nam, Nam Định, Ninh Bình, Thái Bình,Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh. Vùng 3: Các tỉnh miền Trung có 10 tỉnh và thành phố gồm: Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên Huế, Đà Nẵng, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú yên, Khánh Hòa, Ninh Thuận. Vùng 4: Các tỉnh Tây Nguyên gồm 3 tỉnh: Đắc Lắc, Gia Lai, Kon Tum. Vùng 5: Các tỉnh Đông Nam Bộ có 8 tỉnh và thành phố gồm: Bình Dương, Bình Phước, Tây Ninh, Đồng Nai, Bà Rịa-Vũng Tàu, Bình Thuận, Lâm Đồng, thành phố Hồ Chí Minh. Vùng 6: Các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long có 12 tỉnh gồm: Long An, Đồng Tháp, An Giang, Tiền Giang, Vĩnh Long, Trà Vinh, Bến Tre, Kiên Giang, Cần Thơ, Sóc Trăng, Bạc Liêu, Cà Mau. Mục lục ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docB0019.doc
Tài liệu liên quan