Đầu tư phát triển và tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế Việt Nam giai đoạn 1998-2010

Lời mở đầu Tăng trưởng kinh tế phù hợp với các yêu cầu và bước đi trong tiến trình hội nhập kinh tế khu vực và thế giới là một trong những nội dung cơ bản của đường lối đổi mới nền kinh tế nước ta do đại hội lần thứ IX của Đảng đề ra. Mục tiêu phấn đấu đến năm 2020, nước ta cơ bản là một nước có nền nông nghiệp hiện đại, công nghiệp hiện đại. Để có thể thực hiện thành công mục tiêu ấy, nhiều lý thuyết kinh tế đã chỉ ra rằng đầu tư chính là nhân tố có tầm quan trọng hàng đầu. Theo các lý thuyết

doc104 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1609 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Đầu tư phát triển và tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế Việt Nam giai đoạn 1998-2010, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
này, để có tốc độ tăng trưởng kinh tế ổn định, cần phải duy trì một lượng vốn đầu tư tương ứng với nhu cầu tăng trưởng và phát triển kinh tế. Với mục đích làm sáng tỏ vai trò quan trọng của đầu tư đối với quá trình tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam, tìm kiếm các phương hướng và giải pháp nhằm phát huy hơn nữa vai trò của đầu tư tới việc thực hiện mục tiêu chiến lược này, em đã chọn đề tài: “ Đầu tư phát triển và tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế Việt Nam giai đoạn 1998- 2010 ” làm chuyên đề thực tập. Với những kiến thức đã đươc cung cấp ở trong và ngoài trường đại học, em mong muốn được đóng góp một số ý kiến của mình vào việc đánh giá vấn đề quan trọng này. Em xin trân trọng cảm ơn PGS.TS Nguyễn Ngọc Mai, các cô chú cán bộ tại Vụ Tổng hợp kinh tế quốc dân- bộ Kế hoạch và đầu tư đã tận tình hướng dẫn em hoàn thành chuyên đề này. Tuy nhiên do khả năng và thời gian hạn chế, bài viết không thể không tránh được những thiếu sót. Kính mong sự góp ý của các thầy cô giáo và các bạn để bài viết được hoàn thiện hơn. Chương I đầu tư với sự tăng trưởng kinh tế của các quốc gia I- Đầu tư, nguồn vốn đầu tư và vai trò 1. Khái niệm và vai trò của đầu tư phát triển Đầu tư nói chung là sự hy sinh các nguồn lực ở hiện tại để tiến hành các hoạt động nào đó nhằm thu về cho người đầu tư các kết qủa nhất định trong tương lai lớn hơn nguồn lực đã bỏ ra để đạt được các kết quả đó. Xuất phát từ bản chất và lợi ích do đầu tư đem lại, chúng ta có thể phân biệt các loại đầu tư trong phạm vi quốc gia là đầu tư tài chính, đầu tư thương mại, đầu tư tài sản vật chất và sức lao động ( gọi chung là đầu tư phát triển). Đầu tư tài chính: hay còn gọi là đầu tư tài sản tài chính là loại đầu tư trong đó người có tiền bỏ tiền ra cho vay hoặc mua các chứng chỉ có giá để hưởng lãi suất định trước hoặc lãi suất tuỳ thuộc vào kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty phát hành. Đầu tư tài chính không tạo ra tài sản mới cho nền kinh tế nhưng có tác dụng thúc đẩy tích tụ và tập trung vốn, tạo các kênh huy động vốn cho tăng trưởng và phát triển kinh tế. Đầu tư tài chính mang hình thức vận động là : T-T’ (T’ > T) Đầu tư thương mại là loại đầu tư, trong đó người có tiền bỏ tiền ra mua hàng hoá và sau đó bán với giá cao hơn nhằm thu lợi nhuận do chênh lệch giá khi mua và giá khi bán. Cũng giống như đầu tư tài chính, đầu tư thương mại cũng không tạo ra tài sản mới cho nền kinh tế mà chỉ có tác dụng thúc đẩy lưu thông, phân phối hàng hoá, tạo điều kiện cho hoạt động kinh tế phát triển. Đầu tư thương mại có hình thức vận động là: T- H- T’ (T’ > T) Đầu tư tài sản vật chất và sức lao động (hay đầu tư phát triển) là hoạt động sử dụng các nguồn lực về tài chính, về vật chất,về sức lao động nhằm duy trì tiềm lực hoạt động của các cơ sở đang tồn tại và tạo ra tiềm lực mới cho nền kinh tế xã hội, tạo việc làm và nâng cao đời sống mọi thành viên trong xã hội. Trong lĩnh vực sản xuất, kinh doanh, dịch vụ, đầu tư phát triển mang hình thức vận động chủ yếu là : DV H T TS T’ (T’ > T) Khác với hai loại hình đầu tư trên, đầu tư phát triển không chỉ tạo ra khoản tích luỹ T’ > T mà còn trực tiếp tạo ra tài sản mới cho nền kinh tế, các loại hàng hoá, dịch vụ phục vụ cho quá trình sản xuất kinh doanh và sinh hoạt đời sống của người dân. Đầu tư phát triển còn là điều kiện cần thiết hàng đầu đối với đầu tư tài chính và đầu tư thương mại trong việc tạo ra cơ sở vật chất, trang thiết bị, đào tạo nhân lực... Do vậy, đầu tư phát triển có ý nghĩa cực kỳ quan trọng. Nó trực tiếp tác động đến tăng trưởng và phát triển kinh tế của mỗi quốc gia. Vai trò của đầu tư phát triển có thể thâu tóm một cách khái quát ở các nội dung sau: Trên giác độ toàn bộ nền kinh tế của đất nước * Đầu tư vừa tác động đến tổng cung, vừa tác động tổng cầu: - Về mặt cầu, đầu tư là một yếu tố chiếm tỷ trọng lớn trong tổng cầu của toàn bộ nền kinh tế. Theo số liệu của Ngân hàng thế giới, đầu tư thường chiếm khoảng 24-28% trong cơ cấu tổng cầu của các nước trên thế giới. Đối với tổng cầu, tác động của đầu tư là ngắn hạn. Với tổng cung chưa kịp thay đổi, sự tăng lên của đầu tư làm tổng cầu tăng lên. - Về mặt cung, khi thành quả của đầu tư phát huy tác dụng, các năng lực mới đi vào hoạt động sẽ làm tổng cung, đặc biệt tổng cung dài hạn tăng lên, làm cho sản lượng tăng, giá cả giảm xuống, kích thích tiêu dùng, từ đó khiến cho sản xuất ngày càng phát triển. * Đầu tư tác động hai mặt đến sự ổn định kinh tế. Sự tác động không đồng thời về mặt thời gian của đầu tư đối với tổng cầu và tổng cung làm cho mỗi sự thay đổi của đầu tư, dù là tăng hay giảm đều cùng một lúc vừa là yếu tố duy trì sự ổn định, vừa là yếu tố phá vỡ sự ổn định của một quốc gia. Chẳng hạn, khi đầu tư tăng, cầu của các yếu tố đầu tư tăng làm cho giá cả của các hàng hoá có liên quan tăng (chi phí vốn, giá công nghệ, lao động…) đến một mức nào đó sẽ dẫn tới lạm phát. Lạm phát sẽ làm cho sản xuất đình trệ, đời sống người dân gặp khó khăn, thâm hụt ngân sách, kinh tế phát triển chậm lai. Mặt khác, tăng đầu tư làm cho cầu của các yếu tố liên quan tăng, sản xuất các ngành này phát triển, thu hút thêm lao động, giảm thất nghiệp…Tất cả các tác động này lại tạo điều kiện cho sự tăng trưởng và phát triển kinh tế. * Đầu tư với việc tăng cường khả năng khoa học công nghệ Công nghệ là trung tâm của công nghiệp hoá.Đầu tư là điều kiện tiên quyết của sự phát triển và tăng cường công nghệ của nước ta hiện nay. Theo đánh giá của các chuyên gia công nghệ, trình độ công nghệ của Việt Nam lạc hậu nhiều thế hệ so với thế giới và khu vực. Theo UNIDO, nếu chia quá trình phát triển thế giới thành 7 giai đoạn thì Việt Nam đang ở đầu giai đoạn 2, Việt Nam đang là một trong 90 nước kém nhất về công nghệ. Với trình độ công nghiệp lạc hậu này, quá trình công nghiệp hoá và hiện đại hoá của Việt Nam sẽ gặp nhiều khó khăn nếu không đề ra được một chiến lược đầu tư phát triển công nghệ nhanh và vững chãi. Chúng ta đều biết rằng có hai con đường cơ bản để có công nghệ là tự nghiên cứu phát minh ra công nghệ hoặc nhập khẩu công nghệ từ nước ngoài. Dù là tự nghiên cứu hay nhập từ nước ngoài đều cần phải có một khoản tiền, vốn đầu tư nhất định. Mọi phương án ứng dụng và phát triển công nghệ nếu không gắn với nguồn vốn đầu tư sẽ là những phương án không khả thi. * Đầu tư với chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Kinh nghiệm của các nước trên thế giới cho thấy con đường tất yếu có thể tăng trưởng nhanh với tốc độ mong muốn (từ 9 đến 10%) là tăng cường đầu tư nhằm tạo ra sự phát triển ở khu vực công nghiệp và dịch vụ. Đối với các ngành nông, lâm, ngư nghiệp do những hạn chế về đất đai và khả năng sinh học, để đạt được tốc độ tăng trưởng từ 5-6% là rất khó khăn. Như vậy, đầu tư là một nhân tố quan trọng có vai trò quyết định việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở các quốc gia nhằm đạt được tốc độ tăng trưởng nhanh cho toàn bộ nền kinh tế. Về cơ cấu lãnh thổ, đầu tư có tác dụng giải quyết những mất cân đối về phát triển giữa các vùng lãnh thổ, đưa những vùng kém phát triển thoát khỏi tình trạng đói nghèo, phát huy tối đa những lợi thế so sánh về tài nguyên, địa thế… của những vùng có khả năng phát triển nhanh hơn, làm bàn đạp thúc đẩy những vùng khác cùng phát triển. * Đầu tư tác động đến tốc độ tăng trưởng và phát triển kinh tế Từ những vai trò trên, có thể thấy đầu tư chính là nhân tố quan trọng tác động đến tốc độ tăng trưởng và phát triển kinh tế. Nhờ có vốn đầu tư, hoạt động của các cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ được mở rộng, công nghệ tiên tiến được áp dụng rộng rãi khiến cho các ngành kinh tế phát triển không ngừng, đặc biệt là những ngành có tầm quan trọng đặc biệt đối với nền kinh tế quốc dân. Từ đó tạo nên sự chuyển dịch mạnh mẽ giữa các ngành theo hướng nâng cao tỷ trọng những ngành được ưu tiên đầu tư phát triển, những ngành có khả năng tạo ra GDp với tỷ trọng lớn, tốc độ tăng trưởng cao và do đó tạo tiền đề cho toàn bộ nền kinh tế tăng trưởng với tốc độ cao. Không chỉ thế, mục đích cuối cùng của hoạt động đầu tư ngoài nâng cao tốc độ tăng trưởng kinh tế còn hướng tới mục đích phát triển kinh tế toàn diện. Hoạt động đầu tư đã tạo thêm việc làm, cải thiện đời sống cho người lao động, và từ đó cũng nâng cao khả năng tích luỹ để đầu tư cho quá trình phát triển kinh tế trong các giai đoạn tiếp theo. Đối với các cơ sở sản xuất kinh doanh dịch vụ Đầu tư quyết định sự ra đời, tồn taị và phát triển của các cơ sở Bất kỳ một cơ sở sản xuất kinh doanh dịch vụ nào khi mới ra đời đều cần phải tạo dựng cơ sở vật chất kỹ thuật như xây dựng nhà xưởng, cấu trúc hạ tầng, mua sắm lắp đặt thiết bị trên nền bệ, tiến hành các công tác xây dựng cơ bản …..Các hoạt động này chính là hoạt động đầu tư. Đối với các cơ sở sản xuất kinh doanh dịch vụ đang tồn tại thì sau một thời gian hoạt động, các cơ sở vật chất kỹ thuật của các cơ sở này hao mòn, hư hỏng. Để duy trì được sự hoạt động bình thường cần định kỳ tiến hành sửa chữa lớn hoặc thay mới các cơ sở vật chất kỹ thuật đã hư hỏng, hao mòn này hoặc đổi mới công nghệ để thích ứng với sự phát triển khoa học kỹ thuật và nhu cầu tiêu dùng của nền sản xuất xã hội, như vậy cũng có nghĩa là phải đầu tư. 2. Nguồn vốn đầu tư 2.1 Khái niệm và bản chất: Nguồn vốn đầu tư là thuật ngữ dùng để chỉ các nguồn tập trung và phân phối vốn cho đầu tư phát triển kinh tế, đáp ứng nhu cầu chung của nhà nước và của xã hội. Xét về bản chất, nguồn hình thành vốn đầu tư chính là phần tiết kiệm hay tích luỹ mà nền kinh tế có thể huy động được để đưa vào quá trình tái sản xuất xã hội. Điều này đã được C. Mác chứng minh khi nghiên cứu về cân đối kinh tế, về các mối quan hệ giữa các khu vực của nền sản xuất xã hội và về các vấn đề trực tiếp liên quan đến tích luỹ. C. Mác đã chỉ ra rằng : Trong một nền kinh tế với hai khu vực, khu vực I sản xuất tư liệu sản xuất và khu vực II sản xuất tư liệu tiêu dùng. Cơ cấu tổng giá trị của từng khu vực đều bao gồm (c+v+m), trong đó c là phần tiêu hao vật chất, (v+m) là phần giá trị mới sáng tạo ra. Khi đó, điều kiện để đảm bảo tái sản xuất mở rộng không ngừng là phải đảm bảo (v+m) của khu vực I lớn hơn tiêu hao vật chất c của khu vực II, tức là: (v+m)I > cII hay nói cách khác: (c+v+m)I > cII + cI Điều này có nghĩa là tư liệu sản xuất được tạo ra ở khu vực I không chỉ bồi hoàn tiêu hao vật chất của toàn bộ nền kinh tế của cả hai khu vực mà còn phải dư thừa để đầu tư làm tăng quy mô tư liệu sản xuất trong quá trình sản xuất tiếp theo Đối với khu vực II, yêu cầu phải bảo đảm: (c+v+m)II < (v+m)I + (v+m)II Có nghĩa toàn bộ giá trị mới của cả hai khu vực phải lớn hơn giá trị sản xuất ra của khu vực II. Chỉ khi điều kiện này được thoả mãn, nền kinh tế mới có thể dành một phần thu nhập để tái sản xuất mở rộng. Từ đó quy mô vốn đầu tư cũng sẽ gia tăng. Như vậy, để đảm bảo gia tăng nguồn lực cho sản xuất, gia tăng quy mô đầu tư, một mặt phải tăng cường sản xuất tư liệu sản xuất ở khu vực I, đồng thời phải sử dụng tiết kiệm tư liệu sản xuất của cả hai khu vực. Mặt khác, phải tăng cường sản xuất tư liệu tiêu dùng ở khu vực II, thực hành tiết kiệm tiêu dùng trong sinh hoạt ở cả hai khu vực. Với phân tích như trên, chúng ta thấy rằng theo quan điểm của C. Mác, con đường cơ bản và quan trọng về lâu dài để tái sản xuất mở rộng là phát triển sản xuất và thực hành tiết kiệm ở cả trong sản xuất và tiêu dùng. Hay nói cách khác, nguồn lực cho đầu tư tái sản xuất mở rộng chỉ có thể được đáp ứng do sự gia tăng sản xuất và tích luỹ của nền kinh tế. 2.2 Các loại nguồn vốn đầu tư và vai trò đối với tăng trưởng kinh tế Việt Nam Để huy động và sử dụng có hiệu quả vốn đầu tư cho tăng trưởng và phát triển kinh tế, cần phải phân loại nguồn vốn đầu tư, từ đó đánh giá đúng tầm quan trọng của từng nguồn vốn và để có chính sách áp dụng phù hợp. Nguồn vốn đầu tư có thể chia thành nguồn vốn trong nước và nguồn vốn đầu tư nước ngoài 2.2.1 Nguồn vốn đầu tư trong nước * Nguồn vốn nhà nước: bao gồm nguồn vốn của ngân sách nhà nước, nguồn vốn tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước và vốn đầu tư phát triển của doanh nghiệp nhà nước - Nguồn vốn ngân sách nhà nước: đây là một nguồn vốn đầu tư quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội của các quốc gia. Nguồn vốn này thường được sử dụng cho các dự án xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội, quốc phòng, an ninh, hỗ trợ cho các dự án của danh nghiệp đầu tư vào lĩnh vực cần sự tham gia của nhà nước, chi cho công tác lập và thực hiện các dự án quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế xã hội vùng, lãnh thổ, quy hoạch xây dựng đô thị và nông thôn - Nguồn vốn tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước: là hình thức quá độ chuyển từ phương thức cấp phát ngân sách sang phương thức tín dụng đối với các dự án có khả năng thu hồi vốn trực tiếp. Nguồn vốn này đóng vai trò là “bước đệm” cho việc thực hiện xoá bỏ tình trạng bao cấp trong đầu tư. - Nguồn vốn đầu tư từ doanh nghiệp nhà nước: Được xác định là thành phần kinh tế chủ đạo của nền kinh tế, các doanh nghiệp nhà nước (DNNN) nắm giữ một khối lượng vốn nhà nước tương đối lớn. Vốn này được hình thành từ: vốn sở hữu và tiết kiệm của doanh nghiệp, vốn đi vay, tăng vốn cổ đông bằng cách phát hành cổ phiếu mới, vốn tài trợ từ ngân sách của chính phủ…. Thúc đẩy các DNNN tự bỏ vốn sản xuất kinh doanh sẽ góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động, nâng cao khả năng cạnh tranh của các DNNN. * Nguồn vốn từ khu vực tư nhân: bao gồm phần tiết kiệm của dân cư, phần tích luỹ của các doanh nghiệp dân doanh, các hợp tác xã. Nguồn vốn này đầu tư gián tiếp vào nền kinh tế thông qua thị trường vốn và thường đầu tư trực tiếp vào các lĩnh vực kinh doanh- thương mại- dịch vụ, sản xuất nông nghiệp và tiểu thủ công nghiệp. Khu vực tư nhân là khu vực có nhiều tiềm năng và đang đóng vai trò là nguồn tập trung và phân phối vốn quan trọng cho phát triển kinh tế. Nguồn vốn từ khu vực tư nhân ngày càng tăng cho thấy tiềm năng đóng góp của khu vực này vào tăng trưởng kinh tế trong nước. * Thị trường vốn trong nước: bao gồm - Thị trường vốn gián tiếp: là thị trường trong đó người có vốn và người cần vốn giao dịch chuyển nhượng vốn cho nhau thông qua các tổ chức tài chính trung gian và không có mối quan hệ trực tiếp với nhau. - Thị trường vốn trực tiếp: là thị trường trong đó việc chuyển vốn từ người có vốn đến người đi vay được tiến hành trực tiếp giữa hai bên, không qua một tổ chức trung gian nào. Thị trường vốn là một kênh huy động vốn quan trọng đối với các nước có nền kinh tế thị trường. Nó là nguồn bổ sung các nguồn vốn trung và dài hạn cho các chủ đầu tư- bao gồm cả Nhà nước và các loại hình doanh nghiệp. Thị trường vốn với cốt lõi là thị trường chứng khoán đã và đang trở thành một trung tâm thu gom mọi nguồn vốn tiết kiệm của dân cư, nguồn vốn nhàn rỗi của doanh nghiệp, tổ chức tài chính, chính phủ, chính quyền địa phương…tạo thành một nguồn vốn khổng lồ cho nền kinh tê. Với nhiều lợi thế mà không một thương thức huy động vốn nào có được, thị trường vốn đã trở nên phổ biến ở các quốc gia phát triển song vẫn ở Việt Nam, việc huy động vốn thông qua nguồn này vẫn còn nhiều hạn chế. 2.2.2 Nguồn vốn đầu tư nước ngoài Theo tính chất lưu chuyển vốn, có thể phân loại các nguồn vốn đầu tư nước ngoài như sau: * Nguồn vốn ODA ( Hỗ trợ phát triển chính thức): đây là nguồn vốn phát triển do các tổ chức quốc tế và các chính phủ nước ngoài cung cấp với mục tiêu trợ giúp các nước đang phát triển. Viện trợ có thể dưới dạng vốn hay viện trợ kĩ thuật. * Nguồn vốn tín dụng từ các ngân hàng thương mại ( tín dụng thương mại quốc tế): Đây là hình thức tín dụng phổ biến nhất trong quan hệ tài trợ quốc tế bao gồm mọi quan hệ cung ứng vốn cho nhau giữa các nước và các tổ chức quốc tế trong mọi lĩnh vực nhưng chủ yếu là trong quan hệ thương mại với điều kiện là hoàn trả trong một thời gian nhất định. Tín dụng thương mại quốc tế là nhân tố không thể thiếu được trong các quan hệ kinh tế nói chung và quan hệ thương mại nói riêng giữa các nước, là động lực thúc đẩy các mối quan hệ kinh tế và thương mại phát triển. * Nguồn vốn đầu tư đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI): là nguồn vốn của các cá nhân, doanh nghiệp ở nước này đầu tư vào doanh nghiệp ở một nước khác, họ trực tiếp quản lý, sử dụng và thu hồi vốn đã bỏ ra. Đây là nguồn vốn quan trọng không chỉ đối với các nước đang phát triển mà cả với các nước công nghiệp phát triển. Nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài thúc đẩy các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh dịch vụ ở các nước đang phát triển hoạt động có hiệu quả thông qua các hình thức cạnh tranh , từ đó mang lại lợi ích cho nền kinh tế * Nguồn vốn huy động qua thị trường vốn quốc tế: Thị trường vốn quốc tế là mạng lưới bao gồm các cá nhân, công ty, các thể chế tài chính và các chính phủ tiến hành đầu tư hay vay tiền vượt qua các biên giới quốc gia. Thị trường vốn này sử dụng các công cụ tài chính đặc biệt có thời hạn 1 năm trở lên, được phát hành nhằm đáp ứng nhu cầu của người đầu tư và đi vay ở các quốc gia. Cơ cấu của thị trường vốn quốc tê bao gồm thị trường cổ phiếu quốc tế và thị trường trái phiếu quốc tế. Nguồn vốn huy động qua thị trường này có ưu điểm là thúc đẩy quá trình quốc tế hoá giữa các quốc gia. Đối với tất cả các quốc gia nói chung và Việt Nam nói riêng, nguồn vốn đầu tư trong nước chiếm vị trí quan trọng hàng đầu đối với sự nghiệp tăng trưởng kinh tế. Nguồn vốn trong nước đóng vai trò chủ đạo nhằm khẳng định tiềm năng phát triển của nền kinh tế, từ đó mới khuyến khích được sự tham gia của các nguồn vốn đầu tư nước ngoài. Các quốc gia không thể phát triển kinh tế nếu chỉ dựa vào nguồn vốn trong nước nhưng đều phải huy động tối đa và sử dụng có hiệu quả nguồn vốn này. Bên cạnh đó, nguồn vốn đầu tư nước ngoài là nguồn bổ sung quan trọng cho nguồn vốn trong nước. Đầu tư nước ngoài sẽ bù đắp sự thiếu hụt về vốn, công nghệ, lao động kỹ thuật của các quốc gia đang phát triển bởi lẽ tỷ lệ tích luỹ vốn từ nội bộ nền kinh tế ở các nước này thường không đáp ứng được nhu cầu vốn cho phát triển sản xuất kinh doanh ở trong nước. Do vậy. việc huy động nguồn vốn đầu tư từ bên ngoài sẽ giúp cho các nước đang phát triển khai thác hết tiềm năng sẵn có của mình phục vụ cho quá trình tăng trưởng kinh tế. Không chỉ thế, nguồn vốn nước ngoài chảy vào nền kinh tế trong nước còn có tác dụng tạo ra sự cạnh tranh giữa các nhà đầu tư trong nước và nhà đầu tư nước ngoài, thúc đẩy việc sử dụng hiệu quả cả hai nguồn vốn. Đó chính là một động lực để thúc đẩy sản xuất kinh doanh phát triển, là tiền đề cho tăng trưởng và phát triển kinh tế. II. Tăng trưởng kinh tế 1. Khái niệm Ngày nay, các quốc gia độc lập, có chủ quyền đều đề ra những mục tiêu phấn đấu cho sự tiến bộ của quốc gia mình. Tuy có những điểm khác nhau nhất định trong quan niệm, nhưng nói chung sự tiến bộ trong một giai đoạn nào đó của một nước thường được đánh giá trên hai măt: sự gia tăng về kinh tế và sự biến đổi về mặt xã hội. Trên thực tế, người ta dùng thuật ngữ “ tăng trưởng” và “phát triển” để phản ánh sự tiến bộ đó. Tăng trưởng kinh tế là sự tăng thêm (hay gia tăng) về quy mô sản lượng của nền kinh tế trong một thời kỳ nhất định. Đó là kết quả (đầu ra) của tất cả các hoạt động sản xuất và dịch vụ của nền kinh tế. Chỉ tiêu phản ánh tăng trưởng được các nhà kinh tế và các quốc gia thừa nhận là mức tăng tổng sản phẩm quốc nội (GDP), tổng sản phẩm quốc dân (GNP), thu nhập quốc dân bình quân đầu người hàng năm hoặc bình quân năm của thời kỳ. Sự tăng trưởng được so sánh theo các thời điểm liên tục trong một giai đoạn nhất định sẽ cho ta khái niệm tốc độ tăng trưởng. Đó là sự tăng thêm sản lượng nhanh hay chậm so với thời điểm gốc. Với cách tiếp cận từ những biểu hiện, Kuznet- một nhà kinh tế học cho rằng, tăng trưởng kinh tế là khả năng cung cấp ngày càng tăng và lâu dài các hàng hoá đa dạng cho nhân dân. ông nêu ra 6 đặc điểm của tăng trưởng hiện đại: tỷ lệ tăng trưởng cao của sản lượng bình quân đầu người; tốc độ tăng năng suất lao động cao; tốc độ chuyển đổi cơ cấu của nền kinh tế cao; sự chuyển biến của tư tưởng, thái độ xã hội; công nghệ được tăng cường và sự lan rộng của tăng trưởng kinh tế có giới hạn ( Simon Kuznet: “ Tăng trưởng kinh tế hiện đại- những phát triển và phản ánh”- Các thuyết trình tại lễ trao giải thưởng Nobel về khoa học kinh tế 1969- 1980. NXB Chính trị quốc gia Hà nội ). Các nhà kinh tế thường đo lường mức tăng trưởng trong một giai đoạn để loại bỏ những thăng trầm tạm thời do suy thoái hoặc do bùng nổ và cho thấy xu hướng tăng trưởng kinh tế trong dài hạn của mỗi nước. Tăng trưởng kinh tế là điều kiện quan trọng để tạo ra những tiến bộ về cơ cấu kinh tế xã hội, nâng cao đời sống nhân dân. Nói cách khác đó là điều kiện cần cho phát triển kinh tế của một nước. Phát triển kinh tế là một quá trình lớn lên (hay tăng tiến) về mọi mặt của nền kinh tế trong một thời kỳ nhất định. Trong đó bao gồm cả sự tăng thêm về quy mô sản lượng (tăng trưởng) và sự tiến bộ về cơ cấu kinh tế xã hội. Mặc dù có nhiều quan điểm khác nhau về phát triển nhưng tất cả đều nhấn mạnh đến tiến bộ, công bằng xã hội, nâng cao đời sống, phúc lợi của nhân dân… Ngày nay phát triển kinh tế cần đạt tới những yêu cầu về phát triển bền vững. Theo quan điểm của Hội đồng thế giới về môi trường và phát triển, phát triển bền vững là sự phát triển đáp ứng các nhu cầu hiện tại nhưng không làm tổn thương đến khả năng đáp ứng các nhu cầu của các thế hệ tương lai. Tuy nhiên do hạn chế về thời gian, trong phạm vi nghiên cứu, đề tài chỉ đi sâu xem xét đến khía cạnh tăng trưởng của nền kinh tế. 2. Các lý thuyết về đầu tư và tăng trưởng kinh tế Trong lịch sử các học thuyết kinh tế, đã có rất nhiều nhà kinh tế học nghiên cứu các mô hình tăng trưởng kinh tế và tác động của đầu tư tới quá trình tăng trưởng kinh tế. Mỗi học thuyết đều là đóng góp to lớn của các tác giả vào kho tàng nghiên cứu của nhân loại. Tuy nhiên, không phải mô hình nào cũng hoàn hảo mà đều ẩn chứa trong nó những hạn chế và tồn tại. Để có được cái nhìn tổng thể, khái quát quá trình hoàn thiện của các lý thuyết về mối quan hệ giữa đầu tư và tăng trưởng kinh tế, chúng ta xem xét một số mô hình kinh tế sau: 2.1. Lý thuyết về tái sản xuất mở rộng của Các Mác- lý thuyết thể hiện bản chất và vai trò của đầu tư đối với tăng trưởng kinh tế Lý luận về tái sản xuất mở rộng của C. Mác đã khẳng định về cơ bản và lâu dài, phát triển sản xuất, thực hành tiết kiệm trong sản xuất và tiêu dùng là điều kiện của quá trình tái sản xuất mở rộng, tức là qua trình tăng trưởng kinh tế. Học thuyết kinh tế chính trị của C Mác đã phản ánh bản chất các yếu tố tăng trưởng kinh tế như quá trình tuần hoàn, chu chuyển của tư bản, cơ cấu kỹ thuật của tư bản, tái sản xuất xã hội. Trong học thuyết của mình, C. Mác đã đề cập đến quá trình hình thành cơ sở vật chất cho nền kinh tế phát triển qua các giai đoạn cụ thể. Hiệp tác và công trưởng thủ công là quá trình chuyển sang chuyên môn hoá lao động, góp phần làm tăng sức sản xuất; quá trình công nghiệp hoá, thay đổi cơ cấu sản xuất là tác nhân tăng năng suất lao động và làm tăng hiệu quả của nền sản xuất xã hội, mở rộng sản lượng tiềm năng cuả nền kinh tế. Do đó, tăng tích luỹ, đầu tư vốn, thay đổi cơ cấu kỹ thuật của sản xuất chính là cơ sở của tăng trưởng ( Phát triển kinh tế- Lịch sử và học thuyết. Lê Cao Đoàn- NXB Chính trị quốc gia Hà Nội ) 2.2. Mô hình Harrod- Domar Vào những năm 40, dựa vào lý thuyết kinh tế của J. M. Keynes, hai nhà kinh tế học Roy Harrod của Anh và Evsey Domar của Mỹ nghiên cứu độc lập và cùng đưa ra mô hình giải quyết giữa tăng trưởng và việc làm ở các nước phát triển. Mô hình này cũng được sử dụng rộng rãi ở các nước đang phát triển để xem xét mối quan hệ giữa tăng trưởng và nhu cầu vốn đầu tư. Mô hình này coi đầu ra của nền kinh tế phụ thuộc vào vốn đầu tư cho nó. Nếu gọi đầu ra này là Y, g là tỷ lệ tăng trưởng của đầu ra thì: g = (1) (Yt là sản lượng năm t, DY là mức gia tăng sản lượng năm t so với năm t-1) Gọi S là mức tích luỹ của năm t và tỷ lệ tích luỹ là s thì: s = Vì tiết kiệm là nguồn gốc của đầu tư nên It= St (It là vốn đầu tư của năm t) và: s = Đầu tư là để tạo ra vốn tài sản, nên It= DKt (DKt là mức tăng vốn tài sản). Nếu gọi k là tỷ số giữa gia tăng vốn và đầu ra thì: k= Suy ra k = Và: Nên g = (2) ở đây k được gọi là hệ số ICOR, tức là hệ số thể hiện quan hệ giữa vốn đầu tư và mức gia tăng sản lượng đầu ra. Hệ số này cho biết, vốn được tạo ra trong quá trình đầu tư là yếu tố cơ bản, có quan hệ trực tiếp đến tăng trưởng, đồng thời phản ánh trình độ kỹ thuật của sản xuất như: công nghệ sử dụng nhiều lao động hay vốn. Trên giác độ sử dụng nguồn lực đầu vào là vốn và đầu ra là mức tăng trưởng, hệ số này phản ánh tính hiệu quả của việc sử dụng vốn trong nền kinh tế. Hệ số ICOR có liên quan đến chiến lược đầu tư của một đất nước. ở các quốc gia đang phát triển, cần lựa chọn chiến lược đầu tư với hệ số ICOR thấp, sử dụng công nghệ thích hợp kết hợp với đổi mới, nâng cao trình độ công nghệ, đầu tư hợp lý cho kết cấu hạ tầng. Bởi lẽ ở các quốc gia đang phát triển, khả năng tích luỹ của nền kinh tế còn ít, thiếu vốn, thừa lao động không có chuyên môn, chỉ thích hợp với trình độ công nghệ thấp, giá rẻ. Mô hình Harrod- Domar tuy đã chỉ rõ mối quan hệ giữa đầu tư với tăng trưởng nhưng đã đơn giản hoá mối quan hệ giữa chúng. Đầu tư là điều kiện cần cho tăng trưởng kinh tế nhưng chưa phải là điều kiện đủ. Tác giả đã bỏ qua việc xem xét vấn đề cách thức hay hiệu quả sử dụng vốn đầu tư đối với tăng trưởng kinh tế. Vì vậy, mô hình này chưa giải thích được vì sao các quốc gia có tỷ lệ tiết kiệm trong thu nhập như nhau nhưng lại có tốc độ tăng trưởng khác nhau. 2.3. Mô hình Solow Mô hình Solow cho biết sự gia tăng khối lượng tư bản (vốn), lực lượng lao động và tiến bộ công nghệ tác động qua lại với nhau như thế nào và chúng ảnh hưởng tới sản lượng ra sao, từ đó xác định nguồn gốc của tăng trưởng. ở mức độ tổng quát, có thể xem xét đóng góp của các yếu tố theo mô hình mà Samuelson goi là hạch toán tăng trưởng: Y= F( x1, x2,…., xn ), trong đó Y là sản lượng, x1, x2, ….xn là các yếu tố đầu vào. Có thể biến đổi hàm số trên đây thành phương trình sau: WY= a + w1x1+w2x2+….+wnxn (3), trong đó, WY là mức tăng trưởng của sản lượng: w1x1, w2x2….wnxn là mức đóng góp vào tăng trưởng chung của từng yếu tố đầu vào. áp dụng mô hình trên, Solow đã phân tích hàm sản xuất ở dạng đơn giản, bao gồm hai yếu tố đầu vào là vốn và lao động và chuyển hàm sản xuất có năng suất không đổi theo quy mô thành Y= F (K,L) với Y là sản lượng, K là vốn đầu tư , L là lao động thành: Tức là sản lượng của mỗi công nhân phụ thuộc vào khối lượng tư bản tính cho mỗi công nhân, hay còn gọi là mức trang bị vốn cho một đơn vị lao động. Cách thiết lập hàm số này nhằm xem xét ảnh hưởng của quá trình đầu tư đến tăng trưởng theo mức trang bị vốn cho mỗi đơn vị lao động. Với nghiên cứu về trạng thái dừng, đầu tư bằng khấu hao, khối lượng tư bản không thay đổi theo thời gian, ông cho rằng đó là biểu hiện trạng thái cân bằng dài hạn của nền kinh tế. Và tỷ lệ tiết kiệm là yếu tố then chốt quyết định khối lượng tư bản ở trạng thái dừng. “Tỷ lệ tiết kiệm cao, nền kinh tế sẽ có khối lượng tư bản và sản lượng lớn hơn; còn tỷ lệ tiết kiệm thấp, nền kinh tế sẽ có khối lượng tư bản nhỏ và sản lượng thấp”. Nếu không đổi mới công nghệ,về dài hạn, nền kinh tế sẽ bước vào trạng thái ổn định, trong đó ảnh hưởng của việc tăng cường vốn trên một đơn vị lao động sẽ dừng lại (sơ đồ 1). Như vậy, chỉ tích luỹ vốn để tái sản xuất những phương tiện và phương thức sản xuất như hiện có thì cuối cùng mức thu nhập không tăng được nữa. Y/L 2 APF Y/L Y/L 1 K/L 2 K/L 1 K/L Sơ đồ 1: Tăng trưởng kinh tế thông qua tăng cường vốn cho một đơn vị lao động ( không có tiến bộ công nghệ) Khi có tiến bộ công nghệ, hàm sản lượng có sự thay đổi, về mặt hình học là có sự “dịch chyển lên trên” theo thời gian và tạo ra sự tăng trưởng liên tục (sơ đồ 2). Tốc độ tăng lâu dài của mức sản lượng trên một đơn vị đầu vào không chỉ phụ thuộc vào tỷ lệ tiết kiệm (vốn đầu tư) mà còn phụ thuộc rất lớn vào tốc độ tiến bộ công nghệ theo nghĩa rộng nhất. Y/L APF 1995 Y/L 1995 APF 1950 Y/L 1950 K/L K/L 1950 K/L 1995 Sơ đồ 2: Tốc độ công nghệ đẩy hàm sản xuất lên trên Mô hình Solow đã chỉ ra rằng: đối với mọi quốc gia, việc tăng vốn đầu tư đổi mới công nghệ là rất quan trọng và sự tăng thêm vốn cũng chứa đựng yếu tố tiến bộ kỹ thuật, công nghệ. Việc này đồng nghĩa với việc ông đã thấy được cách thức sử dụng vốn khôn khéo (hay việc sử dụng vốn đầu tư có hiệu quả) có tác động mạnh mẽ đến tăng trưởng kinh tế ở các quốc gia. Solow đã khắc phục được điểm hạn chế trong mô hình của Harodd- Domar, khẳng đinh lại một lần nữa quy mô vốn đầu tư chỉ là điều kiện cần chứ chưa phải là điều kiện đủ để đạt được sự tăng trưởng kinh tế liên tục. Cùng với mô hình này, Solow đã có những đóng góp nhất định trong việc phát triển các học thuyết kinh tế về đầu tư. 2.4. Lý thuyết cất cánh của Rostow Vào đầu những năm 1960, Walter W. Rostow trong mô hình các giai đoạn phát triển kinh tế của mình đã cho rằng: nền kinh tế của một quốc gia sẽ trải qua 5 giai đoạn. Đó là các giai đoạn xã hội truyền thống, giai đoạn chuẩn bị cất cánh, giai đoạn cất cánh, giai đoạn chín muồi về kinh tế và giai đoạn tiêu dùng đại chúng. Mỗi giai đoạn đều có chiến lược đầu tư vào một số ngành cụ thể để đưa toàn bộ nền kinh tế phát triển và bước sang giai đoạn sau. Trong 5 giai đoạn trên thì giai đoạn cất cánh được đặc trưng bởi tỷ lệ đầu tư cao, khoảng 10% thu nhập quốc dân thuần (NNP). Đầu tư nhằm phát triển nhiều ngành công nghiệp mũi nhọn có vai trò chủ đạo trong việc lôi kéo các ngành khác phát triển. ở giai đoạn tiếp theo, giai đoạn chín muồi về kinh tế, tỷ lệ đầu tư tăng mạnh, tử 10- 20% NNP, đồng thời xuất hiện nhiều cực tăng trưởng mới. Ví dụ: Tỷ lệ đầu tư trên GDP được dẫn theo nghiên cứu của OJ. Firestone ứng với giai đoạn cất cánh của Canada giai đoạn 1870-1929. Năm Tỷ lệ đầu tư trong GDP 1870 15% 1900 13,1% 1920 16,1% 1929 23% Qua xem xét một số giai đoạn trong mô hình của Rostow có thể thấy được vai trò quan trọng của vốn đầu tư, đặc biệt để tạo ra sự cất cánh cho nền kinh tế. Mô hình cũng chỉ ra được mức tích luỹ nội bộ cần đạt của nền kinh tế nhằm đáp ứng mục tiêu tăng trưởng, đưa nền kinh tế bước ti._.ếp sang các giai đoạn phát triển cao hơn. 3. Các yếu tố chủ yếu của sự tăng trưởng kinh tế 3.1. Các yếu tố của sản xuất Sản xuất là sự kết hợp các nguồn lực đầu vào theo các cách thức nhất định nhằm tạo ra sản phẩm có ích đáp ứng nhu cầu của xã hội. Những yếu tố đầu vào này tác động trực tiếp đến tăng trưởng và phát triển kinh tế, bao gồm: - Sức lao động( số lượng, chất lượng lao động) là một trong những yếu tố quan trọng nhất tác động đến tăng trưởng kinh tế. Các yếu tố đầu vào khác chỉ có thể phát huy tác dụng một cách hữu hiệu thông qua tác động trực tiếp của người lao động - Nguồn tài nguyên thiên nhiên: rất quan trọng, song trong xu thế toàn cầu hoá như hiện nay thì nguồn tài nguyên không còn là yếu tố quyết định thành công hay thất baị của một quốc gia. - Vốn tài sản: là giá trị của những tài sản được sử dụng làm phương tiện phục vụ cho quá trình sản xuất phục vụ bao gồm vốn cố định và vốn lưu động. Trong đó vốn cố định chiếm tỷ trọng lớn. Ngày nay, vốn đầu tư và vốn tài sản được coi là yếu tố quan trọng của quá trình sản xuất. Nếu lao động và tài nguyên chỉ được coi là yếu tố đầu vào của quá trình sản xuất thì vốn tài sản vừa được coi là yếu tố đầu vào, vừa là sản phẩm đầu ra của quá trình sản xuất. Chính vốn đầu tư là cơ sở trực tiếp để tạo ra vốn tài sản cho hoạt động sản xuất kinh doanh - Trình độ phát triển của khoa học và công nghệ: được hiểu là tập hợp những phương tiện và những hiểu biết để tạo ra các giải pháp kỹ thuật được áp dụng vào sản xuất và đời sống. Công nghệ được coi là sư kết hợp giữa “phần cứng” và “phần mềm”. “Phần cứng” là các trang thiết bị như máy móc, thiết bị, nhà xưởng…”Phần mềm” bao gồm hai thành phần: thành phần thứ nhất liên quan đến con người (kỹ năng, tay nghề kinh nghiệm của người lao động…), thành phần thứ hai là các thông tin bao gồm các bí quyết, quy trình, phương pháp…Sự phát triển của khoa học công nghệ đã tạo ra những bước đột phá về khả năng sản xuất ở rất nhiều các lĩnh vực, thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế theo chiều sâu. 3.2 Các yếu tố của cơ cấu kinh tế Nền kinh tế của các quốc gia không thể đạt tốc độ tăng trưởng cao nếu như quốc gia đó không thiết lập được cơ cấu kinh tế hợp lý, phục vụ cho quá trình tăng trưởng. Cơ cấu kinh tế phù hợp chính là điều kiện cơ bản để nền kinh tế tăng trưởng mạnh mẽ và liên tục. - Cơ cấu kinh tế: là một tổng thể các yếu tố cấu thành nền kinh tế theo không gian, chủ thể và lĩnh vực hoạt động có liên hệ chặt chẽ, tác động qua lại với nhau trong những điều kiện kinh tế xã hội nhất định và được thể hiện cả về mặt số lượng lẫn chất lượng, phù hợp với các mục tiêu đã được xác định của nền kinh tế. Cơ cấu kinh tế thông thường được phân chia thành cơ cấu kinh tế theo ngành, cơ cấu kinh tế theo vùng lãnh thổ và cơ cấu kinh tế theo thành phần kinh tế. Cơ cấu kinh tế theo ngành (cơ cấu ngành kinh tế) là tổ hợp các ngành trong nền kinh tế theo những tương quan tỷ lệ nào đó trong GDP của nền kinh tế tuỳ thuộc vào mục tiêu và sự phát triển của nền kinh tế nói chung và từng ngành nói riêng. Cơ cấu này biểu hiện vị trí và tầm quan trọng của các ngành trong nền kinh tế quốc dân. Cơ cấu kinh tế theo ngành phản ánh phần nào trình độ phân công lao động xã hội chung của nền kinh tế và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Cơ cấu ngành kinh tế bao gồm 3 nhóm ngành chính là công nghiệp và xây dựng, nông lâm ngư nghiệp và dịch vụ Cơ cấu kinh tế theo vùng lãnh thổ: được hình thành chủ yếu từ việc bố trí sản xuất theo không gian hợp lý. Đầu tư phát triển theo vùng liên quan đến vấn đề lựa chọn một cơ cấu kinh tế hợp lý theo từng vùng nhằm đạt được tốc độ tăng trưởng cao trên cơ sở tận dụng các điều kiện phát triển của vùng đó. ở nước ta, ngoài các vùng hình thành mang tính lịch sử như Bắc, Trung, Nam thì các vùng lãnh thổ ở Việt Nam được phân thành: + Miền núi phía Bắc + Đồng bằng sông Hồng + Bắc Trung Bộ + Duyên hải miền Trung + Tây Nguyên + Đông Nam Bộ + ĐB sông Cửu Long Cơ cấu kinh tế theo thành phần kinh tế: Chế độ sở hữu là cơ sở hình thành cơ cấu theo thành phần kinh tế. Một cơ cấu theo thành phần kinh tế hợp lý phải dựa trên cơ sở hệ thống tổ chức kinh tế với chế độ sở hữu có khả năng thúc đẩy sự phát triển lực lượng sản xuất, phân công lao động xã hội. ở Việt Nam, cùng với chính sách phát triển đa dạng các thành phần kinh tế, cơ cấu này bao gồm các thành phần: + Kinh tế nhà nước + Kinh tế tập thể + Kinh tế tư bản nhà nước + Kinh tế cá thể + Kinh tế tư bản tư nhân Trong đó vẫn phải đảm bảo vai trò chủ đạo, dẫn dắt thị trường của thành phần kinh tế nhà nước. -Chuyển dịch cơ cấu kinh tế là sự thay đổi có mục đích, có định hướng, dựa trên cơ sở phân tích đầy đủ những căn cứ lý luận và thực tiễn, cùng với việc áp dụng đồng bộ các giải pháp cần thiết để phát triển các bộ phận của cơ cấu kinh tế và làm thay đổi mối tương quan giữa chúng so với thời điểm trước đó, có nghĩa là làm chuyển dịch cơ cấu kinh tế từ trạng thái này sang trạng thái khác nhằm đáp ứng mục tiêu phát triển kinh tế trong từng giai đoạn. 3.3 Các nhân tố của đầu tư Đầu tư là nhân tố quan trọng hàng đầu nhằm thúc đẩy tăng trưởng kinh tế của mỗi quốc gia. Để đảm bảo cho nền kinh tế tăng trưởng cao và ổn định cần phải bố trí cơ cấu đầu tư và tạo sự chuyển dịch hợp lý trong cơ cấu đầu tư. - Cơ cấu đầu tư: là cơ cấu các yếu tố biểu thị bằng quan hệ tỷ lệ giữa mức đầu tư của từng ngành, từng vùng, từng khu vực kinh tế, từng loại hình doanh nghiệp… trong tổng mức đầu tư của nền kinh tế. Cơ cấu đầu tư luôn thay đổi theo thời gian nhằm đáp ứng việc thực hiện các mục tiêu của chiến lược phát triển kinh tế xã hội. Có thể phân loại cơ cấu đầu tư dựa trên các tiêu thức khác nhau. Tuy nhiên nếu xuất phát từ cơ cấu kinh tế để phân loại cơ cấu đầu tư thì có thể phân chia cơ cấu đầu tư thành cơ cấu đầu tư theo ngành, cơ cấu đầu tư theo lãnh thổ và cơ cấu đầu tư theo thành phần kinh tế: Cơ cấu đầu tư theo ngành: thể hiện mối tương quan theo tỷ lệ trong việc phân phối các nguồn lực đầu tư và thực hiện đầu tư cho các ngành hoặc nhóm ngành của nền kinh tế. Khi bố trí cơ cấu đầu tư theo ngành phải xuất phát từ chính sách đầu tư đối với từng ngành trong một thời kỳ nhất định và thông qua cơ cấu đầu tư theo ngành, có thể thấy được việc thực hiện chính sách ưu tiên trong phát triển các ngành của nền kinh tế. Khi xem xét cơ cấu đầu tư theo ngành, thông thường người ta xem xét theo 3 nhóm ngành chính: Nông lâm nghiệp và thuỷ sản, công nghiệp và xây dựng, dịch vụ. Cơ cấu đầu tư theo lãnh thổ: Thể hiện thông qua mối tương quan tỷ lệ giữa việc phân bổ và sử dụng các nguồn lực đầu tư cho các vùng lãnh thổ xuất phát từ sự vận dụng các thể chế chính sách và cơ chế quản lý phù hợp nhằm đạt được và duy trì mối tương quan tỷ lệ đó. Cơ cấu đầu tư theo lãnh thổ thể hiện mức độ ưu tiên trong chiến lược đầu tư giữa các vùng lãnh thổ khác nhau, phát huy lợi thế sẵn có của vùng trong khi vẫn đảm bảo hỗ trợ, tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển chung của các vùng khác, đảm bảo sự phát triển thống nhất và những cân đối lớn trong phạm vi quốc gia và giữa các ngành. Cơ cấu đầu tư theo thành phần kinh tế: hình thành trên cơ sở chế độ sở hữu, phản ánh mối tương quan theo tỷ lệ trong việc huy động và phân bố các nguồn lực cho đầu tư giữa các thành phần kinh tế, xuất phát và thông qua việc thực hiện các thể chế chính sách và cơ chế quản lý phù hợp. Cơ cấu đầu tư theo thành phần kinh tế phản ánh mức độ ưu tiên, tình hình đầu tư phát triển các thành phần kinh tế chủ đạo nhằm đảm bảo và khẳng định vị trí đặc biệt quan trọng của chúng trong nền kinh tế quốc dân, huy động tối đa sự đóng góp của từng thành phần kinh tế vào sự phát triển kinh tế xã hội của đất nước. - Chuyển dịch cơ cấu đầu tư Cơ cấu đầu tư luôn thay đổi trong từng giai đoạn phù hợp với sự đòi hỏi và thực trạng phát triển của nền kinh tế xã hội. Sự thay đổi của cơ cấu đầu tư qua các năm giữa các ngành, các vùng lãnh thổ, các thành phần kinh tế gọi là chuyển dịch cơ cấu đầu tư. Sự chuyển dịch này không chỉ bao gồm về vị trí ưu tiên mà còn kèm theo sự thay đổi về cơ chế quản lý và các chính sách cụ thể. Về thực chất, chyển dịch cơ cấu đầu tư là sự điều chỉnh cơ cấu vốn, nguồn vốn đầu tư, điều chỉnh cơ cấu huy động và sử dụng các loại vốn và nguồn vốn..phù hợp với mục tiêu đã định của toàn bộ nền kinh tế, ngành, địa phương và các cơ sở trong từng thời kỳ phát triển. Chuyển dịch cơ cấu đầu tư phải xuất phát từ nhu cầu tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế và ngược lại có ảnh hưởng quan trọng tới tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Định hướng đầu tư để đổi mới cơ cấu kinh tế ,mặt khác, phải được xem xét trên cơ sở tác động của yếu tố đầu tư và có tính đến những nhân tố khác. Sự thay đổi và phát triển của cơ cấu kinh tế sẽ tạo điều kiện và quyết định sự thay đổi cơ cấu đầu tư trong những năm tiếp theo. Kết quả của đầu tư đổi mới cơ cấu kinh tế là sự thay đổi quy mô cũng như chất lượng hoạt động của các ngành trong nền kinh tế theo hướng xuất hiện nhiều ngành mới, giảm tỷ trọng GDP của những ngành không phù hợp, tăng tỷ trọng này của những ngành có lợi thế, là sự thay đổi mới quan hệ trong việc đóng góp vào sự tăng trưởng chung của nền kinh tế giữa các bộ phận của một ngành, của nền kinh tế theo xu hướng ngày một hợp lý hơn. Quá trình chuyển dịch cơ cấu đầu tư của một quốc gia, ngành, địa phương hay cơ sở thông qua kế hoạch đầu tư là nhằm hướng tới việc xây dựng một cơ cấu đầu tư phù hợp với đòi hỏi của sự phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Ngoài ra các yếu tố phi kinh tế cũng tác động đến tăng trưởng và phát triển theo hướng cùng chiều hoặc ngược chiều, chẳng hạn như: trình độ dân trí, yếu tố dân tộc, tôn giáo, đặc điểm văn hoá xã hội, thể chế chính trị… III. Đầu tư với tăng trưởng kinh tế 1. Tác động của đầu tư đối với tăng trưởng của nền kinh tế Mô hình Harrod- Domar đã chỉ ra rằng: vốn đầu tư của nền kinh tế có ảnh hưởng trực tiếp tới tốc độ tăng trưởng, lý thuyết cất cánh của Rostow cho biết mức tích luỹ vốn đầu tư tương quan với các giai đoạn phát triển của nền kinh tế, mo hình Solow khẳng định sự tiến bộ kỹ thuật và công nghệ tạo ra tăng trưởng liên tục, ổn định trong dài hạn. Vậy, vai trò của đầu tư nói chung đối với quá trình tăng trưởng kinh tế được thể hiện như thế nào? Trước hết, xét trên phạm vi toàn bộ nền kinh tế, các yếu tố đầu vào của sản xuất cũng là đầu vào của hoạt động đầu tư. Tác động của các yếu tố đối với sự tăng trưởng thông qua hoạt động đầu tư và vận hành kết quả đầu tư. Lợi ích mong đợi từ các công cuộc đầu tư lớn hơn chi phí bỏ ra nên khi mục đích đó được thực hiện cũng đồng nghĩa với việc tạo ra sự tăng trưởng cho nền kinh tế. Nền kinh tế là tập hợp các doanh nghiệp hay mỗi doanh nghiệp là một tế bào của nền kinh tế. Để bất kỳ doanh nghiệp nào hoạt động tốt cũng cần xây dưng nhà xưởng, mua sắm, lắp đặt máy móc thiết bị…, đồng thời phải định kỳ tiến hành sửa chữa lớn hoặc thay thế tàI sản đã hư hỏng. Tất cả đều cần có đầu tư và đầu tư liên tục thì các doanh nghiệp mới ra đời và hoạt động tốt, đem lại lợi ích cho nền kinh tế. Cùng với số lượng lớn vốn đầu tư của toàn xã hội cho sản xuất, kinh doanh, dịch vụ thì hoạt động đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng có vai trò quan trọng đối với đời sống kinh tế xã hội. Kết cấu cơ sở hạ tầng là tiền đề cho tăng trưởng kinh tế và nâng cao đời sống người dân. Để khai thác, vận hành, phát huy hiệu quả kết quả đầu tư của doanh nghiệp, hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội, con người càng quan tâm đầu tư phát triển chính mình. Ngày nay, thuật ngữ “ vốn con người” ngày càng trở nên quan trọng đối với quá trình tăng trưởng và phát triển. Từ đó cho thấy, trên phạm vi toàn bộ nền kinh tế, vai trò của hoạt động đầu tư đối với tăng trưởng kinh tế được thể hiện với tư cách vốn đầu tư là một yếu tố đầu vào song lại có thể duy trì, làm tăng tiềm lực hoặc tạo ra năng lực mới cho các yếu tố đầu vào khác như lao động, tiến bộ kỹ thuật, công nghệ… Đóng góp của tổng hợp các yếu tố Trở lại hàm sản xuất Y= f (K,L), nếu biểu thị mức độ đóng góp của từng yếu tố vào tăng trưởng chung thì: Tăng trưởng sản lượng + + = Đóng góp của yếu tố lao động Đóng góp của yếu tố vốn Tác động tổng hợp của các yếu tố được gọi là phần dư Solow và thường được sử dụng làm chỉ tiêu phản ánh tiến bộ công nghệ. Từ mô hình Solow rút ra kết luận: Đối với mọi quốc gia, việc tăng vốn đầu tư đổi mới công nghệ là rất quan trọng và sự tăng thêm vốn cũng chứa đựng yếu tố tiến bộ kỹ thuật, công nghệ. Vai trò bao trùm, toàn diện của đầu tư đối với tăng trưởng được thể hiện qua đầu tư vào các yếu tố kinh tế khác của sự tăng trưởng như nguồn lao động, kỹ thuật, công nghệ… Đầu tư là nhân tố hàng đầu thúc đẩy nền kinh tế tăng trưởng và phát triển. 2. Đầu tư với sự tăng trưởng kinh tế Như đã trình bày ở trên, đầu tư là nhân tố hàng đầu thúc đẩy tăng trưởng các ngành (các thành phần, các vùng kinh tế) và cả nền kinh tế kinh tế, song giữa đầu tư và tăng trưởng lại có mối quan hệ qua lại lẫn nhau. Mối quan hệ này có thể được mô hình hoá theo trình tự sau đây: Tăng trưởng ngành Đầu tư Tăng trưởng các TP kinh tế Tăng trưởng nền kinh tế Tăng trưởng vùng Sơ đồ 3: Mối quan hệ giữa đầu tư, tăng trưởng ngành (vùng) và tăng trưởng của nền kinh tế Sơ đồ trên cho thấy, giữa đầu tư với tăng trưởng có mối quan hệ qua lại hai chiều. Đầu tư thúc đẩy các ngành, các thành phần kinh tế và các vùng lãnh thổ tăng trưởng. Sự tăng trưởng của các yếu tố này lại dẫn đến tăng trưởng chung của nền kinh tế. Hay nói cách khác tăng trưởng kinh tế chính là kết quả của quá trình đầu tư. Ngược lại, khi nền kinh tế đạt tốc độ tăng trưởng cao sẽ tạo ra nguồn đầu tư dồi dào, định hướng cho đầu tư vào các ngành, các thành phần, các vùng hiệu quả hơn. Hoạt động đầu tư càng trở nên quan trọng hơn đối với quá trình tăng trưởng kinh tế ở các quốc gia, đặc biệt là các quốc gia đang phát triển. Tăng trưởng của các ngành, các thành phần kinh tế và các vùng lãnh thổ trong một quốc gia đóng vai trò là nhân tố thúc đẩy tăng trưởng chung của toàn nền kinh tế. Mối quan hệ giữa đầu tư, tăng trưởng ngành (thành phần KT, vùng lãnh thổ) và tăng trưởng chung của nền kinh tế có thể được định lượng theo công thức sau: Nếu gọi: I- vốn đầu tư của nền kinh tế YR- tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế ( ) YRi- tốc độ tăng trưởng của ngành (thành phần KT,vùng lãnh thổ) i () SIi- tỷ trọng đầu tư ngành (thành phần KT, vùng lãnh thổ) i trong tổng GDP của ngành (vùng) i SYi- cơ cấu GDP theo ngành (thành phần KT, vùng lãnh thổ) SYi = Ta có YR= SYRi* SYi với i=1,2,…,n Suy ra YR= S( DGDPi/GDPi)* SYi YR= S(Ii/ICORi)/GDPi* SYi Do đó YR= S(1/ ICORi)* SIi* SYi (4) = Ryi*SYi Công thức trên cho thấy tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế phụ thuộc vào: - Hiệu quả đầu tư ngành (thành phần KT, vùng lãnh thổ) - Cơ cấu đầu tư của ngành (thành phần KT, vùng lãnh thổ) - Cơ cấu kinh tế ngành (thành phần KT, vùng lãnh thổ) Chương II Thực trạng đầu tư và tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế việt nam giai đoạn 1998- 2004 I. Thực trạng đầu tư cho tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam giái đoạn 1998- 2004 1. Nguồn vốn đầu tư Kỳ họp thứ tư quốc hội khoá IX đã thông qua nhiệm vụ phát triển kinh tế xã hội đến năm 2010, trong đó phát huy tối đa và sử dụng có hiệu quả mọi nguồn lực phục vụ chuyển dịch cơ cấu kinh tế gắn với phát triển kinh tế trong nước, tạo bước chuyển biến về chất lượng và hiệu quả đầu tư được coi là mục tiêu quan trọng hàng đầu. Nhiều chính sách và cơ chế quản lý thu hút vốn đầu tư đã được áp dụng và triển khai nhằm huy động mọi nguồn vốn đầu tư trong và ngoài nước cũng nhằm thực hiện mục tiêu nàyvà do đó, vốn đầu tư phát triển các năm đều được chú ý tăng cường. Theo số liệu của bộ Kế hoạch và đầu tư, tổng số vốn đầu tư phát triển giai đoạn 1998- 2004 đạt 947,38 nghìn tỷ đồng (giá so sánh năm 2000) với tốc độ tăng bình quân năm là 11,54 % (bảng 1). Trong các năm 98, 99, 2000, sở dĩ vốn đầu tư duy trì ở mức độ thấp là do tác động của cuộc khủng hoảng tài chính năm 1997, bắt đầu từ Thái Lan rồi lan qua các nước trong khu vực, trong đó có Việt Nam ,gây ảnh hưởng đến tình hình phát triển kinh tế trong nước và làm giảm mạnh nguồn vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam. Mặc dù chịu ảnh hưởng gián tiếp, song khối lượng vốn đầu tư huy động trong các năm này cũng bị suy giảm đáng kể so với thời kỳ trước đó. Từ năm 2000 trở về đây, khối lượng vốn đầu tư đã được phục hồi và tăng đều đặn qua các năm. Bảng 1: Nguồn vốn đầu tư xã hội giai đoạn 1998-2004 ( Giá năm 2000) Đơn vị Năm 1998 Năm 1999 Năm 2000 Năm 2001 Năm 2002 Năm 2003 Năm 2004 Tốc độ tăng bình quân (%) Tổng số Nghìn tỷ 91.776 93.504 106.1 145.6 163.3 170.3 176.8 Tốc độ gia tăng định gốc % 100 1.88 15.65 58.65 77.93 85.56 92.64 Tốc độ gia tăng liên hoàn % 100 1.88 13.51 37.18 12.16 4.29 3.82 11,55 Trong đó Vốn ngân sách Nhà nước Nghìn tỷ 19.70 23.40 22.18 35.9 37.3 37.5 37.8 11.47 Vốn tín dụng đầu tư phát triển nhà nước Nghìn tỷ 14.09 17.10 21.14 20.3 22.4 23.5 25 10,03 Vốn đầu tư của DNNN Nghìn tỷ 15.32 17.10 18.7 24.4 28.9 33 36 15.3 Vốn đầu tư của dân cư và tư nhân Nghìn tỷ 19.52 18.90 25.72 35.9 43.9 45.3 47 15.77 Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài Nghìn tỷ 23.14 17.00 18.12 29.1 30.8 31 31 4.99 ( Nguồn: Bộ Kế hoạch và đầu tư) Có thể thấy rõ xu hướng phát triển của các nguồn vốn đầu tư trên qua biểu đồ sau: Biểu đồ 1: Biểu đồ nguồn vốn đầu tư xã hội giai đoạn 1998- 2004 Đơn vị: nghìn tỷ đồng 0 20 40 60 80 100 120 140 160 180 200 Năm 1998 Năm 1999 Năm 2000 Năm 2001 Năm 2002 Năm 2003 Năm 2004 Tổng số Vốn ngân sách Nhà nước Vốn tín dụng đầu tư phát triển nhà nước Vốn đầu tư của DNNN Vốn đầu tư của dân cư và tư nhân Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài Nếu lấy năm 1998 làm gốc thì tốc độ tăng vốn đầu tư phát triển qua các năm tương đối cao, năm 2000 là 15,68 %, năm 2002 là 77,93 % và năm 2004 đạt 92,64 %. Còn nếu xem xét tốc độ tăng liên hoàn qua các năm thì tốc độ tăng liên hoàn của vốn đầu tư có xu hướng tăng trong thời kỳ 1998- 2001 và có xu hướng chậm lại trong thời kỳ sau 2001-2004 do ảnh hưởng của các biến động kinh tế trong và ngoài nước. Đi sâu xem xét từng nguồn vốn huy động ta có thể thấy: vốn đầu tư phát triển từ ngân sách nhà nước tăng mạnh những năm 2001- 2004 và tốc độ tăng bình quân của nguồn vốn này trong 5 năm gần đây 2000- 2004 là khoảng 14,25%. Vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước đã đóng vai trò hạt nhân thu hút các nguồn vốn khác tham gia đầu tư phát triển. Một đồng vốn ngân sách thu hút được bốn đồng vốn từ các nguồn khác, phản ánh khả năng lan toả của vốn ngân sách khi được đầu tư đúng hướng Vốn tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước tuy có tỷ trọng nhỏ trong tổng số vốn đầu tư phát triển của khu vực nhà nước cũng như toàn xã hội nhưng trong thời gian qua đã có sự tăng lên khá rõ rệt, từ 14,09 nghìn tỷ đồng năm 1998 lên 25 nghìn tỷ đồng năm 2004. Nếu lấy năm 1998 làm gốc thì tốc độ phát triển định gốc năm 2000 là 50% lần và năm 2004 là 77,4%. Tốc độ gia tăng bình quân nguồn vốn này là 10,03%. Sự gia tăng của nguồn vốn tín dụng nhà nước là một dấu hiệu tốt đối với công cuộc đầu tư phát triển kinh tế, bởi lẽ nó đã xoá bỏ tâm lý sử dụng vốn “không mất tiền”dẫn đến hiệu quả sử dụng vốn không cao. Vốn tín dụng đầu tư đã gắn chặt trách nhiệm của người vay vốn với hiệu quả sử dụng vốn, từ đó kích thích hoạt động đầu tư có hiệu quả hơn. Không như 2 nguồn vốn trên có sự suy giảm về quy mô trong hai năm 2000- 2001, vốn đầu tư phát triển của các doanh nghiệp nhà nước luôn có xu hướng tăng nhanh và liên tục từ năm 1998 trở lại đây (từ 15,32 nghìn tỷ đồng năm 1998 lên 24,4 nghìn tỷ đồng năm 2001 và đạt 36 nghìn tỷ đồng năm 2004). Tổng vốn đầu tư phát triển của các doanh nghiệp nhà nước giai đoạn 1998- 2004 là 173,42 nghìn tỷ đồng với tốc độ tăng bình quân năm là 15,3 %. Điều này đã phản ánh đúng chủ trương của Đảng và nhà nước trong việc giảm bao cấp trong đầu tư, khuyến khích các doanh nghiệp nhà nước chủ động bỏ vốn đầu tư phát triển sản xuất và chịu trách nhiệm về kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của mình. Từ đó dần nâng cao hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp nhà nước, nâng cao tính năng động và khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp này trên thị trường trong và ngoài nước. Vốn đầu tư của tư nhân và dân cư có quy mô lớn nhất, tăng nhanh và liên tục, cứ sau 3 năm liên tiếp, quy mô vốn đầu tư từ nguồn này lại tăng gần 20 nghìn tỷ đồng (từ 19,52 nghìn tỷ đồng năm 1998 lên 35,59 nghìn tỷ đồng năm 2001 và đạt 47 nghìn tỷ đồng năm 2004). Đây là khu vực kinh tế năng động và giàu tiềm năng trong các khu vực kinh tế. Vốn đầu tư của khu vực này tăng. Điều này khẳng định vai trò của khu vực kinh tế tư nhân trong công cuộc phát triển đất nước . Mặc dù vậy, trong những năm vừa qua, việc huy động nguồn vốn này còn hạn chế, chưa tương xứng với tiềm năng vốn có có thể phát huy. Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài là nguồn vốn bổ sung quan trọng cho đầu tư phát triển, góp phần khai thác và nâng cao hiệu quả sử dụng các nguồn lực trong nước, tạo thế và lực mới cho nền kinh tế. Thu hút vốn đầu tư nước ngoài đang là một trong những chiến lược phát triển kinh tế hàng đầu của Việt Nam. Ngoại trừ giai đoạn 1998- 2000, nguồn vốn này có xu hướng giảm sút (từ 23,14 nghìn tỷ đồng năm 1998 xuống trên dưới 18 nghìn tỷ đồng các năm sau) do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng kinh tế tài chính, tình hình cạnh tranh gay gắt giữa các nước trong khu vực Đông Nam á và khu vực Đông Âu cũ nhằm thu hút nguồn vốn này phục vụ cho sự nghiệp phát triển kinh tế ở các quốc gia đang phát triển. Ngoài ra còn một số nguyên nhân chủ quan khác từ phía Việt Nam như hệ thống chính sách pháp luật thiếu đồng bộ, cơ chế hành chính chưa thông thoáng, kết cấu hạ tầng yếu kém,….đã làm giảm tính cạnh tranh của môi trường đầu tư ở Việt Nam, còn từ năm 2001 đến nay, nguồn vốn này liên tục tăng, đạt từ 29,1 đến 31 nghìn tỷ đồng/ năm Cùng với sự gia tăng của quy mô vốn đầu tư, cơ cấu nguồn vốn đầu tư phát triển cũng có sự thay đổi đáng kể (bảng 2) Bảng 2: Cơ cấu nguồn vốn đầu tư xã hội giai đoạn 1998- 2004 Đơn vị: % Năm 1998 Năm 1999 Năm 2000 Năm 2001 Năm 2002 Năm 2003 Năm 2004 Tổng số 100 100 100 100 100 100 100 Vốn ngân sách nhà nước 21.5 25.0 20.9 24.7 22.8 22 21.4 Vốn tín dụng đầu tư phát triển nhà nước 15.4 18.3 19.9 13.9 13.7 13.8 14.1 Vốn đầu tư của DNNN 16.7 18.3 17.6 16.8 17.7 19.4 20.4 Vốn đầu tư của tư nhân và dân cư 21.3 20.2 24.2 24.7 26.9 26.6 26.6 Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài 25.2 18.2 17.1 20 18.9 18.2 17.5 ( Nguồn: Bộ Kế hoạch và đầu tư) Tỷ trọng vốn đầu tư thuộc ngân sách nhà nước biến động không ổn định xong có xu hướng giảm đáng kể trong 4 năm gần đây (từ 24,7 % năm 2001 xuống 22,8 % năm 2002 và 21,4 % năm 2004). Sự thay đổi này phù hợp với cơ chế xoá bỏ bao cấp trong đầu tư đã và đang được thực hiện mạnh mẽ hơn nữa. Hiện nay, vốn ngân sách chỉ tập trung chủ yếu cho các dự án trong điểm như giao thông, thuỷ lợi, trồng rừng đầu nguồn, các công trình văn hoá, giáo dục, chăm sóc y tế, quốc phòng, an ninh…Mặc dù vậy, nguồn vốn đầu tư phát triển từ ngân sách nhà nước vẫn là nguồn vốn đóng vai trò quan trọng trong việc giải quyết các vấn đề tăng trưởng kinh tế xã hội của đất nước. Vốn tín dụng nhà nước trong tổng vốn toàn xã hội cũng có xu hướng trong 3 năm gần đây, nguồn vốn này luôn chiếm tỷ trọng xấp xỉ 14% tổng vốn đầu tư toàn xã hội. Việc đầu tư bằng nguồn vốn tín dụng nhà nước được áp dụng thí điểm từ năm 1990, sau gần 15 năm đi vào hoạt động đã khẳng định tính hiệu quả của phương thức đầu tư có một phần hỗ trợ của nhà nước. Nguồn vốn đầu tư tín dụng đã góp phần đáng kể trong việc nâng cao hiệu quả sử dụng vốn trong mỗi doanh nghiệp, mỗi ngành và toàn bộ nền kinh tế. Tuy nhiên còn chứa đựng yếu tố bao cấp, do đó việc giảm này là thoả đáng với xu thế xoa dần bao cấp trong đầu tư. Tỷ trọng vốn đầu tư của doanh nghiệp nhà nước cũng có xu hướng tăng, từ chỗ chỉ chiếm 16,7% tổng vốn đầu tư năm 1998 đã lên tới 20,4% năm 2004 và tương đối cao trong cơ cấu vốn đầu tư toàn xã hội. Vốn đầu tư của doanh nghiệp nhà nước chủ yếu được huy động từ khấu hao cơ bản tài sản cố định và một phần tích luỹ từ kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Tuy tỷ trọng nguồn vốn này có tăng qua các năm nhưng chưa đáp ứng được nhu cầu đầu tư để khẳng định vai trò của doanh nghiệp nhà nước trong nền kinh tế với tư cách là thành phần kinh tế mang tính định hướng cho phát triển kinh tế xã hội. Tỷ trọng vốn đầu tư của khu vực tư nhân và dân cư tăng từ 21,3% năm 1998 lên 26,6% năm 2004, trung bình chiếm khoảng trên 25% cơ cấu vốn đầu tư xã hội. Việc khu vực tư nhân và dân cư tham gia ngày càng mạnh mẽ vào hoạt động đầu tư phát triển có ý nghĩa quan trọng trong việc phát huy nội lực của nền kinh tế và khẳng định những nỗ lực của nhà nước trong việc hoàn thiện môi trường kinh doanh, tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh dịch vụ thuộc khu vực kinh tế tư nhân tham gia vào hoạt động đầu tư phát triển, phục vụ cho công cuộc xây dựng đất nước. Nguồn vốn đầu tư nuớc ngoài có xu hướng giảm rõ rệt về tỷ trọng trong tổng cơ cấu vốn đầu tư. Tỷ trọng nguồn vốn này năm 2004 chỉ chiếm có 17,5 %, giảm rất nhiều so với năm 1998 (25,2 %) tuy về quy mô từ 2001 đên nay vẫn tiếp tục tăng. Như chúng ta đã biết, nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài là nhân tố thúc đẩy quá trình tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế thông qua việc tiếp nhân vốn từ bên ngoài, chuyển giao công nghệ và kỹ thuật quản lý tiên tiến. Do đó việc giải quyết những vướng mắc trong hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài cần phải được đẩy mạnh nhanh chóng hơn nữa để các nhà đầu tư nước ngoài có thể tin tưởng bỏ vốn và hoạt động lâu dài ở Việt Nam. Biểu 2: Biểu đồ cơ cấu vốn đầu tư phân theo nguồn vốn Năm 1998 21.5% 15.4% 16.7% 21.3% 25.2% Năm 2000 20.9% 19.9% 17.6% 24.2% 17.1% Năm 2001 24.7% 13.9% 16.8% 24.7% 20% Năm 2002 22.8 % 13.7 % 17.7% 26.9% 18.9% Năm 2003 22% 13.8% 19.4% 26.6% 18.2% Năm 2004 21.4% 14.1% 20.4% 26.6% 17.5% Vốn ngân sách nhà nước Vốn tín dụng đầu tư phát triển NN Vốn đầu tư của DNNN Vốn đầu tư của tư nhân và dân cư Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài Như vậy, trong những năm qua, nhờ có những đổi mới trong cơ chế huy động vốn đầu tư trong và ngoài nước, quy mô vốn đầu tư xã hội ngày càng được mở rộng với sự tham gia của mọi nguồn vốn. Cơ cấu đầu tư cũng phong phú, đa dạng với sự đóng góp của các nguồn vốn theo hướng hợp lý hơn như giảm tỷ trọng vốn nhà nước và nâng cao vốn đầu tư của DNNN, vốn đầu tư của khu vực tư nhân và dân cư. Đây là những tín hiệu đáng mừng cho thấy nguồn lực cho đầu tư phát triển đang được tăng cường và có thể đáp ứng được nhu cầu tăng trưởng nền kinh tế đất nước. 2. Đầu tư phát triển các vùng lãnh thổ Một trong những chiến lược cơ bản nhằm thúc đẩy tăng trưởng đồng đều trên tất cả các vùng kinh tế đã được Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII đưa ra là: “Tập trung thích đáng nguồn lực cho các lĩnh vực, các địa bàn trọng điểm, đồng thời quan tâm đáp ứng nhu cầu thiết yếu của mọi vùng trong nước, có chính sách hỗ trợ cho những vùng khó khăn, tạo điều kiện cho các vùng cùng phát triển”. Quá trình xã hội hoá sản xuất đã tạo mối liên hệ qua lại giữa các vùng kinh tế. Trong quá trình liên kết kinh tế, do có sự khác biệt về điều kiện phát triển giữa các vùng đã hình thành nên các vùng kinh tế với ưu thế và trình độ phát triển khác nhau. Bởi vậy, việc phân bổ đầu tư hợp lý giữa các vùng sẽ có tác dụng khai thác triệt để lợi thế so sánh của vùng, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế ở các vùng nói riêng và toàn bộ nền kinh tế nói chung. Việc nghiên cứu tình hình đầu tư và cơ cấu đầu tư theo vùng lãnh thổ là không thể thiếu được khi xem xét tình hình đầu tư của một quốc gia. Với 7 vùng lãnh thổ, vốn đầu tư phân bổ vào các vùng này ở nước ta trong những năm qua được thể hiện như sau: Bảng 3: Vốn đầu tư xã hội phân theo vùng lãnh thổ Đơn vị: nghìn tỷ đồng( giá năm 2000) Năm 1998 Năm 1999 Năm 2000 Năm 2001 Năm 2002 Năm 2003 Năm 2004 Tổng số 91.776 93.504 106.1 145.6 163.3 170.3 176.8 Miền núi phía Bắc 7.07 7.15 7.64 11.6 13.1 14.0 14.9 Đồng bằng sông Hồng 24.23 24.31 27.38 35.2 39.8 41.7 43.6 Bắc Trung Bộ 6.64 6.36 6.37 11.2 12.9 13.5 14.4 Duyên hải miền Trung 10.37 10.66 12.84 17.2 19.9 21.3 22.3 Tây Nguyên 4.40 4.39 4.88 7.1 8.2 8.9 9.5 Đông Nam Bộ 26.06 27.3 31.10 41.6 44.7 45.1 45.1 ĐB sông Cửu Long 13.21 13.66 16.04 21.7 24.7 25.9 27.1 ( Nguồn: Bộ Kế hoạch và đầu tư ) Bảng 4: Tốc độ gia tăng định gốc của vốn đầu tư xã hội phân theo vùng lãnh thổ giai đoạn 1998- 2004 Đơn vị: % Năm 1998 Năm 1999 Năm 2000 Năm 2001 Năm 2002 Năm 2003 Năm 2004 Tổng số 100 1.88 15.61 58.65 77.93 85.56 92.64 Miền núi phía Bắc 100 1.13 8.06 64.07 85.29 98.02 110.75 Đồng bằng sông Hồng 100 0.33 13.00 45.27 64.26 72.10 79.94 Bắc Trung Bộ 100 -4.22 -4.07 68.67 94.28 103.31 116.87 Duyên hải miền Trung 100 2.80 23.82 65.86 91.90 105.40 115.04 Tây Nguyên 100 -0.23 10.91 61.36 86.36 102.27 115.91 Đông Nam Bộ 100 4.76 19.34 59.63 71.53 73.06 73.06 ĐB sông Cửu Long 100 3.41 21.42 64.27 86.98 96.06 105.15 ( Nguồn: Bộ Kế hoạch và đầu tư ) Vốn đầu tư phát triển được phân bố tập trung vào hai vùng kinh tế trọng điểm là đồng bằng sông Hồng và vùng Đông Nam Bộ. Sở dĩ như vậy là do hai vùng này có điều kiện tự nhiên và địa lý thuận lợi cho phát triển kinh tế, có số lượng dân cư đông và là nơi tập trung nhiều trung tâm kinh tế- chính trị- văn hoá lớn như Hà Nội, Hải Phòng, thành phố Hồ Chí Minh…Vốn đầu tư vào vùng đồng bằng sông Hồng tăng dần, từ 24,23 nghìn tỷ đồng năm 1998, lên 35,2 nghìn tỷ đồng năm 2001 và 43,6 nghìn tỷ đồng năm 2004. Nếu lấy năm 1998 làm gốc so sánh thì năm 2001 có tốc độ gia tăng vốn đầu tư là 45,27%, năm 2004 là 79,94%. Tuy nhiên tỷ trọng vốn đầu tư vào vùng kinh tế này lại có xu hướng giảm giai đoạn 1998- 2002 (từ 26,4% năm 1998 xuống 24,2% năm 2002), song đã có dấu hiệu tăng lên và._. pháp, gây khó khăn cho công tác đền bù và giải phóng mặt bằng sau này, đồng thời giúp cho các doanh nghiệp có thể quyết định hình thức đầu tư, kinh doanh phù hợp. - Trong dài hạn, nên xây dựng những chương trình quy hoạch đầu tư có quy mô lớn, tập trung vào những ngành mũi nhọn như các ngành công nghiệp then chốt và các ngành công nghiệp có tác động lớn đối với nền kinh tế quốc dân, có tính chất thúc đẩy quá trình CNH- HĐH đất nước, hình thành một cơ cấu kinh tế nông nghiệp- công nghiệp- lâm nghiệp và dịch vụ hợp lý Bộ Kế hoạch và đầu tư phải là cơ quan chịu trách nhiệm chính và phải có đủ thẩm quyền chỉ đạo, tổ chức sự phối hợp liên ngành, liên vùng trong việc thực hiện nhiệm vụ rà soát và điều chỉnh quy hoạch. Sự phân công và phân cấp cho các bộ và chính quyền các cấp trong việcc thực hiện nhiệm vụ này không được làm vỡ tính thống nhất của hệ thống quy hoạch. 1.2. Đổi mới công tác kế hoạch hoá hoạt động đầu tư So với thời kỳ kế hoạch hoá tập trung và giai đoạn 1986- 1990, công tác lập kế hoạch đầu tư đã có nhiều thay đổi tiến bộ. Tuy nhiên vẫn còn nhiều nhược điểm gây thất thoát, lãng phí nhiều nguồn vốn, hiệu quả đầu tư thấp, mục tiêu đặt ra còn khó thực hiện. Do đó trong thời gian tới cần hoàn thiện công tác lập kế hoạch đầu tư theo hướng: - Kế hoạch đầu tư phải dựa trên quy hoạch, chiến lược phát triển kinh tế xã hội của quốc gia, ngành, địa phương. Không dựa vào quy hoạch, các kế hoạch đầu tư sẽ không khoa học, thiếu vắng tính tổng thể, dẫn đến trùng lắp trong hoạt động đầu tư - Kế hoạch đầu tư phải xuất phát từ tình hình cung cầu của thị trường. Khác với kế hoạch hoá trong nền kinh tế tập trung, bao cấp, kế hoạch đầu tư trong cơ chế thị trường cần xuất phát từ tình hình cung cầu cuả thị trường. Tín hiệu của thị trường cho biết đầu tư cái gì, bao nhiêu vốn, đầu tư khi nào… Trên cơ sở nghiên cứu thị trường để quyết định phương hướng đầu tư mới nâng cao được hiệu quả đầu tư - Cần coi trọng công tác dự báo trong lập kế hoạch đầu tư, bao gồm cả dự báo trong ngắn hạn và dự báo dài hạn - Đẩy mạnh công tác kế hoạch hoá đầu tư theo các chương trình, dự án. Đây là điểm mới của công tác lập kế hoạch đầu tư trong điều kiện cơ chế thị trường và cần phải được phát huy mạnh mẽ trong thời gian tới - Đảm bảo tính khoa học, đồng bộ, kịp thời và linh hoạt của kế hoạch đầu tư. Kế hoạch đầu tư phải dựa trên những căn cứ khoa học về khả năng và thực trạng vốn đầu tư, tình hình cung cầu trên thị trường, chiến lược phát triển kinh tế xã hội, chiến lược đầu tư chung của nền kinh tế…Kế hoạch đầu tư phải đồng bộ giữa các nội dung đầu tư, giữa mục tiêu và biện pháp, đảm bảo tạo ra cơ cấu đầu tư hợp lý, đồng thời có tính linh hoạt cao. - Cần có các kế hoạch đầu tư phát triển trung hạn 5 năm, hoặc 3 năm nhằm xác định bước đi, biện pháp thực hiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo ngành làm cơ sở cho công tác lập kế hoạch đầu tư phát triển hàng năm. - Kế hoạch đầu tư của các bộ, ngành, địa phương phải thể hiện đầy đủ tất cả các nguồn vốn. Đối với vốn ngân sách đầu tư phải được kế hoạch hoá toàn diện (kể cả các khoản vốn để lại cho các bộ, ngành tự đầu tư). Tiếp tục thực hiện cơ chế phân cấp gắn với trách nhiệm và chế tài kiểm tra, kiểm soát chặt chẽ. Tăng cường vai trò trách nhiệm của các bộ, ngành, các tỉnh, thành phố trong việc huy động và sử dụng đúng mục tiêu, có hiệu quả các nguồn đầu tư phát triển. - Khi duyệt các kế hoạch đầu tư, cấp có thẩm quyền phải chịu trách nhiệm đảm bảo nguồn vốn cho dự án triển khai thi công đúng tiến độ, tránh hiện tượng phê duyệt tràn lan, gây sức ép cho ngân sách nhà nước. Đồng thời cần chú ý chỉ đưa vào kế hoạch các dự án đã đầy đủ thủ tục quy định và bố trí đủ vốn cho các công trình được ghi vốn theo tiến độ đã phê duyệt. 1.3. Bố trí hợp lý cơ cấu đầu tư Để đảm bảo hiệu quả và đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế luôn luôn thay đổi trong điều kiện khoa học kỹ thuật phát triển, cơ cấu đầu tư phải liên tục được điều chỉnh linh hoạt, kịp thời nhằm tạo ra sự nhịp nhàng khi thực hiện đầu tư. Cơ cấu đầu tư trong giai đoạn tới phải đạt mục tiêu công nghiệp hoá để chuyển dịch sâu sắc và toàn diện cơ cấu kinh tế từ nông nghiệp sang công nghiệp, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, tạo tiền đề cho sự tồn tại và phát triển của nền kinh tế hậu công nghiệp. Cơ cấu đầu tư phải đảm bảo nâng cao tỷ trọng các ngành công nghiệp và dịch vụ, giảm dần tỷ trọng ngành nông nghiệp. Trong cơ cấu đầu tư cần phải nâng cao tỷ trọng vốn đầu tư cho những lĩnh vực then chốt, có tính đột phá của từng ngành, nhằm tạo đà cho ngành đó phát triển. - Đối với nông nghiệp, cần chú trọng đầu tư xây dựng các nhà máy chế biến sản phẩm nông lâm nghiệp và thuỷ sản. Do nước ta có lợi thế về tài nguyên thiên nhiên, nguồn lao động rẻ, suất đầu tư thấp nên việc xuất khẩu các mặt hàng này sẽ có lợi thế hơn các sản phẩm xuất khẩu của các nước khác trong khu vực. Hơn nữa do từ trước tới nay, chúng ta phần lớn chỉ xuất khẩu các sản phẩm nông nghiệp thô , chưa qua chế biến nên giá trị gia tăng tạo ra còn thấp. Tập trung xây dựng hệ thống đê điều, hệ thống tưới tiêu phục vụ nông nghiệp. Coi trọng công tác xây dựng các trung tâm nghiên cứu khoa học trong nông nghiệp nhằm tạo ra nhiều giống cây trồng vật nuôI có năng suất cao, đồng thời các trung tâm này cũng có nhiệm vụ đưa ra những hướng dẫn cho người nông dân trong việc chăm sóc cây trồng vật nuôi có hiệu quả. - Đối với ngành công nghiệp, bên cạnh việc gia tăng vốn đầu tư cho phát triển công nghiệp thì vốn này phải được phân bổ hợp lý để tập trung phát triển một số ngành công nghiệp mũi nhọn sau: Ưu tiên cho đầu tư phát triển các ngành công nghệ điện tử và kỹ thuật số. Bởi lẽ đây là ngành có điều kiện khai thác lợi thế của việc đầu tư phát triển con người, là ngành sẽ giúp Việt Nam có thể thực hiện việc “đi tắt, đón đầu “ đối với nền kinh tế thế giới. Không những thế, nhu cầu phát triển kinh tế xã hội những năm sau này cũng sẽ đòi hỏi các ngành này phảI thực sự phát triển ở một trình độ nhất định. Tiếp tục đầu tư phát triển những ngành mang lại giá trị xuất khẩu cao như dệt may, da giầy, vật liệu xây dựng…. Phát triển các ngành này vừa mang lại nguồn thu ngoại tệ cho ngân sách, vừa đảm bảo giải quyết được số lượng việc làm lớn cho người lao động. Đầu tư cho việc xây dựng mạng lưới điện quốc gia, đưa điện đến tất cả các vùng nông thôn để vừa đảm bảo sinh hoạt cho người dân, vừa đảm bảo điện cho sản xuất. Có như vậy thì mới thực hiện được cơ khí hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn. - Đối với ngành dịch vụ, do đây là ngành có xu hướng phát triển mạnh để đáp ứng ngày càng cao các nhu cầu đa dạng của con người và sản xuất, nên cần phảI được đầu tư hợp lý. Trong ngành dịch vụ cũng cần phảI xác định một số ngành dịch vụ quan trọng hàng đầu, có lợi thế so sánh và có nhu cầu phát triển bức thiết. Để tạo điều kiện thuận lợi cho lưu thông hàng hoá, vốn, lao động trong nền kinh tế, các ngành dịch vụ như tài chính, ngân hàng, giao thông, bưu chính viễn thông cần phải được đầu tư mạnh mẽ hơn nữa. Các hoạt động dịch vụ chăm sóc con người cũng phải được quan tâm đầu tư bởi lẽ con người là vốn quý hàng đầu của sự phát triển. - Đầu tư phát triển các vùng kinh tế trọng điểm như Đông Nam Bộ, đồng bằng sông Hồng và đồng bằng sông Cửu Long trên cơ sở vẫn đảm bảo đầu tư phát triển đồng đều các vùng kinh tế khác. Cần chú ý đầu tư khai thác lợi thế của từng vùng kinh tế, hạn chế những khó khăn về điều kiện tự nhiên, địa lý, khí hậu. - Bên cạnh việc bố trí đầu tư hợp lý vào các ngành kinh tế, cần phải chú trọng đầu tư phát triển con người. Ngày nay, các lợi thế về tài nguyên thiên nhiên, môi trường pháp lý thông thoáng… chỉ mang tính chất trước mắt, tạm thời. Do vậy để đảm bảo phát triển bền vững và lâu dài thì cần phải đầu tư cho con người. Chỉ những con người với đầy đủ phẩm chất, trình độ chuyên môn, kỹ năng làm việc mới là yếu tố quan trọng quyết đinh sức mạnh cạnh tranh của một quốc gia. Vì vậy đầu tư cho con người vừa được xem là điều kiện tiên quyết, vừa là mục đích cuối cùng của mọi sự phát triển 2.. Giải pháp hoàn thiện công tác lập, thẩm định, phê duyệt dự án đầu tư Trong thời gian qua, theo thủ tục quy định, tất cả các dự án đầu tư đều được thẩm định, đánh giá và các dự án vượt qua vòng thẩm định mới được đi vào thực hiện đầu tư. Song, tình trạng kém hiệu quả của nhiều dự án gần đây cho thấy chất lượng và trách nhiệm của công tác lập, thẩm định và quyết định dự án còn chưa cao. Để khắc phục yếu kém này, việc nâng cao chất lượng và trách nhiệm trong các công tác trên được coi là một nhiệm vụ cấp thiết. 2.1. Đổi mới nhận thức về dự án đầu tư Để nâng cao hiệu quả công tác lập, thẩm định và phê duyệt dự án đầu tư, trước hết phải có cái nhìn đúng đắn về dự án đầu tư. Phải coi dự án đầu tư là một sản phẩm hàng hoá mà giá trị lớn nhất mà nó mang lại là nâng cao hiệu quả đầu tư. Do vậy quá trình lập, thẩm định được coi là quá trình hình thành và phát triển dự án, biến dự án thành một công cụ hữu hiệu để nâng cao hiệu quả đầu tư . Từ đó mới thấy được tầm quan trọng của công tác lập, thẩm định và phê duyệt dự án, xoá bỏ được tư tưởng coi công tác lập và thẩm định các dự án đầu tư chỉ là một thủ tục mang tính hành chính nhằm huy động vốn hoặc xin phép đầu tư. 2.2. Đầu tư cho công tác lập và thẩm định dự án đầu tư Từ nhận thức đúng đắn về vai trò quan trọng của dự án đầu tư trong việc nâng cao hiệu quả hoạt động đầu tư, cần phải tăng cường đầu tư cho công tác lập và thẩm định dự án. Trong đó cần chú ý đầu tư phát triển con người, trang thiết bị, phương tiện, cơ sở dữ liệu, … phục vụ cho các công tác này. Đầu tư nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ lập, thẩm định dự án là nhân tố quan trọng hàng đầu, bởi lẽ chất lượng dự án phụ thuộc nhiều vào trình độ người lập và thẩm định dự án. Nếu trình độ của cán bộ lập và thẩm định dự án kém sẽ gây hậu quả nghiêm trọng cho việc thực hiện dự án sau này, gây lãng phí nguồn lực của xã hội.Trang thiết bị và các phương tiện hoạt động hiện đại sẽ giúp nâng cao tính chính xác, giảm thời gian lập và thẩm định dự án. Do đó dự án sẽ mau chóng được đưa vào thực hiện, mau chóng phát huy được tác dụng và tận dụng được cơ hội kinh doanh trên thị trường. 2.3. Đưa ra các quy định cụ thể về việc lập, thẩm định, phê duyệt dự án * Đối với việc lập dự án Cần xác định một cách khách quan, có căn cứ khoa học và thực tiễn sự cần thiết phải đầu tư, từ đó mới đi đến quyết định lập dự án, tránh việc lập dự án tràn lan, không phù hợp với tình hình thực tế của từng ngành, từng vùng. Việc lập dự án của ngành cần phải được thực hiện căn cứ vào quy hoạch phát triển ngành trên cơ sở xem xét chiến lược phát triển kinh tế xã hội. Có như vậy mới có thể phân bố vốn đầu tư vào các ngành trọng điểm, nâng cao tỷ trọng đóng góp của ngành trong nền kinh tế, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng đã định sẵn. Xây dựng và ban hành chỉ tiêu suất vốn đầu tư nhằm xác định chính xác tổng mức vốn đầu tư, làm cơ sở quản lý chi phí trong giai đoạn chuẩn bị đầu tư. Tăng cường các thông tin về thị trường, dự báo kinh tế xã hội, các chủ chương đường lối của Đảng và nhà nước để cung cấp cơ sở dữ liệu cho nhà lập dự án. * Đối với việc thẩm định dự án đầu tư Thẩm định dự án đầu tư là khâu quan trọng, quyết định xem dự án có được chấp nhận hay không. Do vậy khâu thẩm định dự án phảI được thực hiện một cách khách quan, công bằng và chính xác. Để thực hiện được như vậy, trước hết phải đào tạo được đội ngũ cán bộ thẩm định có chuyên môn, có phẩm chất đạo đức, khách quan và công bằng. Đồng thời cần phải quy định cụ thể phương pháp thẩm định và các tiêu chí làm cơ sở cho việc thẩm định dự án đầu tư, các tiêu chuẩn, định mức kỹ thuật, tài chính, xây dựng… cho từng ngành. Thực tế cho thấy, do chất lượng của dự án chưa đạt yêu cầu nên trong quá trình thực hiện, nhiều dự án phải điều chỉnh, bổ sung, mất rất nhiều thời gian theo quy định hiện hành. Để giảm bớt thủ tục, tạo điều kiện đẩy nhanh tiến độ dự án nằm trong khâu thẩm định, khi thay đổi nội dung nào của dự án, chỉ cần lập, sửa đổi, bổ sung rồi thẩm định lại nội dung thay đổi đó. Đối với các dự án đầu tư từ nguồn vốn ngân sách nhà nước, vấn đề quan trong hàng đầu là đổi mới cơ cấu tổ chức của các Hội đồng thẩm định dự án. Tuỳ thuộc vào quy mô, tính chất và phạm vi của dự án mà có những biện pháp tổ chức thích ứng. Với các dự án có quy mô lớn, phạm vi rộng và tầm ảnh hưởng lớn về kinh tế- xã hội, Hội đồng thẩm định phải trực thuộc Quốc hội (hoặc Uỷ ban thường vụ quốc hội). Với những dự án có tầm ảnh hưởng liên ngành và liên vùng, Hội đồng thẩm định dự án có thể trực thuộc Chính phủ. Trong tất cả các trường hợp, Hội đồng thẩm định đóng vai trò như là một tổ chức tư vấn cho cơ quan có quyền quyết định chủ chương đầu tư và hoạt động độc lập với các cơ quan quản lý chuyên ngành. Do vậy, thành phần của Hội đồng tư vấn chủ yếu bao gồm các chuyên gia đầu ngành của các lĩnh vực liên quan đến phạm vi của dự án. Trường hợp cần thiết có thể thuê các chuyên gia hoặc tổ chức tư vấn độc lập của nước ngoài làm phản biện cho các dự án. Đối với các dự án đầu tư từ nguồn vốn vay của các ngân hàng thương mại và các tổ chức tài chính, việc thẩm định dự án vay vốn thuộc thẩm quyền và trách nhiệm của người cho vay. Nâng cao chất lượng thẩm định dự án vay vốn có ảnh hưởng trực tiếp đến an toàn vốn và hiệu quả hoạt động tài chính của các ngân hàng thương mại và các tổ chức tài chính này. Để nâng cao chất lượng thẩm định dự án vay vốn cần phải nâng cao năng lực thẩm định các dự án vay vốn. Ngoài việc hoàn thiện và đổi mới các căn cứ, trình tự và nội dung thẩm định, vấn đề có tính quyết định là năng lực và trách nhiệm của đội ngũ chuyên gia thẩm định dự án vay vốn của các ngân hàng thương mại. Một trong những khiếm khuyết dễ nhận thấy hiện nay là đội ngũ cán bộ này chỉ am hiểu kỹ năng tín dụng, việc thẩm định chủ yếu mới dừng lại ở việc rà soát, tính toán lại các chỉ tiêu đã có trong dự án vay vốn của chủ đầu tư, mà không đủ kiến thức và kỹ năng thẩm định, đánh giá những nội dung kinh tế, kỹ thuật… Bởi vậy, cũng tương tự như trên, khi thẩm định dự án vay vốn, mỗi ngân hàng thương mại, mỗi tổ chức tài chính cần lập một Hội đồng tư vấn với sự tham gia của các chuyên gia có liên quan ngoài cơ quan mình nhằm bảo đảm cơ cấu cán bộ phù hợp với nội dung và yêu cầu thẩm định, đồng thời đảm bảo tính khách quan của công tác thẩm định dự án vay vốn. * Đối với công tác phê duỵệt dự án đầu tư Nên quy định người có thẩm quyền ra quyết định phê duyệt dự án đầu tư thay cho việc ra quyết định đầu tư. Theo quy định hiện nay, sau khi dự án được thẩm định sẽ được người có thẩm quyền quyết định đầu tư xem xét ra quyết định đầu tư. Tuy nhiên quyết định đầu tư mới chỉ bao gồm những nội dung cơ bản so với toàn bộ nội dung dự án đầu tư. Để nâng cao tác dụng của dự án đầu tư, nên quy định người có thẩm quyền ra quyết định phê duyệt dự án thay cho việc ra quyết định đầu tư như hiện nay. Dự án đầu tư sau khi được duyệt sẽ là căn cứ pháp lý để tổ chức thực hiện đầu tư và để kiểm tra, đánh giá quá trình đầu tư 2.4. Quy định cụ thể trách nhiệm của các cá nhân đảm nhận việc lập, thẩm định, phê duyệt dự án đầu tư Người lập dự án đầu tư khi nhận nhiệm vụ lập báo cáo nghiên cứu tiền khả thi, báo cáo khả thi hoặc báo cáo đầu tư phải có trách nhiệm giải trình kịp thời và đầy đủ những nội dung liên quan đến dự án theo yêu cầu của người thẩm định dự án. Người thẩm định dự án đầu tư phải chịu hoàn toàn trách nhiệm trước pháp luật về những nội dung mà mình thẩm định. Cần phải quy định những chế tài nghiêm khắc đối với những cán bộ thẩm định thực hiện sai nguyên tắc bên cạnh việc xử phạt hành chính- bồi thường thiệt hại do mình gây ra. Người phê duyệt dự án đầu tư, với tư cách là cấp trên của chủ đầu tư và người thẩm định phải chiu trách nhiệm đối với những nội dung chưa được thẩm định. Người ra quyết định đầu tư chỉ được ra quyết định khi xác định rõ nguồn vốn và trong phạm vi nguồn vốn được phân cấp, tránh việc phê duyệt vốn đầu tư dự án vượt quá khả năng cân đối vốn. Phải cân nhắc thận trọng khi ra quyết định một dự án đầu tư về các mặt: mục tiêu đầu tư, quy mô đầu tư và lựa chọn công nghệ, thời gian và địa điểm đầu tư nhằm nâng cao hiệu quả của một dự án đầu tư, tránh sai sót từ chủ chương đầu tư (sai sót này sẽ gây lãng phí rất lớn). Người phê duyệt dự án cũng phải đảm bảo phê duyệt nhanh chóng đối với các dự án đã được thẩm định là khả thi, tránh việc dồn tắc dự án ở khâu phê duyệt 3. Hoàn thiện công tác quản lý hoạt động đầu tư. Những yếu kém và bất cập trong quản lý đầu tư cơ bản là một trong những nguyên nhân quan trọng, trực tiếp làm hạn chế chất lượng và hiệu quả của sự tăng trưởng và sẽ còn gây những hậu quả lâu dài với quá trình phát triển kinh tế- xã hội của đất nước. Do vậy, cần phải có một số giải pháp nhằm hoàn thiện công tác quản lý đầu tư cơ bản trong giai đoạn sắp tới. 3.1. Tăng cường công tác quản lý dự án Phải tuân thủ trình tự đầu tư từ công tác quy hoạch (quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế xã hội, quy hoạch ngành, vùng lãnh thổ, quy hoạch chi tiết về xây dựng đô thị, xây dựng nông thôn, xây dựng khu công nghiệp, khu chế xuất…), kế hoạch đến công tác chuẩn bị đầu tư, thực hiện đầu tư, vận hành kết quả sản xuất kinh doanh. Thực hiện đúng trình tự đầu tư sẽ cho phép nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư trong suốt quá trình đầu tư, tránh phải làm lại nhiều lần do bỏ qua một công đoạn nào đó. Nâng cao chất lượng công tác thẩm định, phê duyệt dự án đầu tư của cấp có thẩm quyền. Cần sớm ban hành nghị định về công tác lập, thẩm định, phê duyệt dự án đầu tư để nâng cao trách nhiệm của các cá nhân có liên quan Thực hiện tốt việc đầu tư dứt điểm, có trọng điểm. Mọi dự án đầu tư dù thực hiện bằng nguồn vốn nào cũng phải cân đối đủ vốn để hoàn thành đúng tiến độ, tránh tình trạng hoàn thành được một phần thì hết vốn phải ngừng trệ để xin vốn tiếp. Đồng thời phải xác định đâu là các dự án được ưu tiên để đầu tư đúng trọng tâm, trọng điểm. Đào tạo lại đội ngũ cán bộ quản lý dự án đầu tư. Cán bộ đang đảm nhận công việc nào, chuyên môn nào sẽ được đào tạo lại theo công việc đó, chuyên môn đó. Những cán bộ có các chuyên môn khác nhưng có liên quan đến hoạt động đầu tư, khi chuyển sang làm nhiệm vụ quản lý dự án đầu tư phải qua đào tạo lại về chuyên ngành quản lý dự án. Có như vậy mới có được một đội ngũ cán bộ thực sư đủ năng lực để nâng cao hiệu quả quản lý dự án đầu tư. 3.2. Thực hiện quản lý thống nhất một đầu mối đối với tất cả các dự án đầu tư Hiện nay việc bố trí kế hoạch vốn đầu tư được thực hiện bởi nhiều cơ quan khác nhau như Bộ, Sở Kế hoạch đầu tư, Bộ, Sở tài chính, UBND các cấp….Các cơ quan này do phối hợp chưa đồng bộ, thiếu chặt chẽ nên chưa có kế hoạch đầu tư tổng thể, thống nhất. Kế hoạch bố trí vốn bị phân tán, không lồng ghép được các nguồn vốn của trung ương với địa phương nên hiệu quả đầu tư chưa cao. Đồng thời, sự thiếu đồng bộ, chạt chẽ trong việc quản lý và tổ chức thực hiện kế hoạch đầu tư đã tạo nên tình trạng thiếu vốn giả tạo, chồng chéo trong việc bố trí các dự án, gây lãng phí vốn đầu tư. Trong khi đó để đạt được mục tiêu tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế đòi hỏi phảI có sự bố trí hợp lý các dự án trong từng ngành, từng địa phương. Vì vậy, để ngăn chặn tình trạng phân bổ vốn dàn trảI, đầu tư manh mún không hiệu quả cần phải xây dựng đầu mối thống nhất quản lý các hoạt động đầu tư phát triển, đặc biệt là đối với các dự án xây dựng cơ sở hạ tầng kỹ thuật của xã hội. 3.3. Nâng cao hiệu quả quản lý vốn đầu tư phát triển, đặc biệt là vốn ngân sách nhà nước * Định hướng đầu tư từ nguồn ngân sách nhà nước Đối với vốn nhà nước chỉ nên tập trung vào các ngành then chốt của nền kinh tế, những ngành có tính đột phá tạo đà cho các ngành khác phát triển theo hướng CNH- HĐH. Về lý thuyết, vốn ngân sách nên đầu tư vào các ngành có hệ số ICOR thấp, bởi vì khả năng vốn ngân sách còn hạn chế. Chọn những ngành có ICOR thấp thì hiệu quả cạnh tranh sẽ cao hơn bởi các ngành này có thể thu hút nhiều lao động. Không chỉ thế, vốn ngân sách nhà nước nên dành tỷ trọng thoả đáng trong các lĩnh vực mà các chủ thể kinh tế khác không được phép làm hay không muốn làm. Cụ thể vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước nên tập trung vào một số lĩnh vự sau đây: - Đầu tư phát triển các ngành chế biến nông lâm thuỷ sản để nâng cao giá trị sản phẩm xuất khẩu, hạn chế dần xuất khẩu sản phẩm thô. - Đầu tư vào công nghiệp điện tử vì đây là một ngành công nghiệp mới, tiềm năng và là ngành kinh tế “nóng” trên thế giới. Chúng ta cần chú trọng đầu tư phát triển ngành này để biến nó thành ngành công nghiệp mũi nhọn. - Đầu tư vào một số ngành cơ khí chế tạo. Trong thời gian qua, một số sản phẩm cơ khí chế tạo của Việt Nam như dây điện, dây cáp điện, xe đạp và phụ tùng xe đạp…có kim ngạch xuất khẩu khá cao. Do vậy trong thời gian tới nên chú trọng đầu tư phát triển những ngành này - Đầu tư phát triển các ngành thông tin và dịch vụ. Đây là những lĩnh vực hấp dẫn, có hiệu quả kinh tế cao, góp phần quan trọng trong tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế. * Khắc phục tình trạng bố trí vốn dàn trải, tràn lan Một trong những đặc trưng cơ bản của vốn đầu tư là chỉ phát huy hiệu quả khi được tập trung, tích tụ đến một mức độ nhất định. Vì vậy, khi đồng vốn nhỏ bé lại bị chia sẻ cho quá nhiều dự án thì tất yếu hiệu quả của từng dự án cũng như đồng vốn đầu tư sẽ là rất thấp. Vấn đề đầu tư dàn trải đã trở thành vấn đề bức xúc hàng đầu đối với công tác quản lý đầu tư phát triển. Để khắc phục tình trạng trên cần phải: - Khắc phục tình trạng công trình kéo dài thời gian thi công, đi vào sử dụng bằng cách áp dụng các chế tài sử phạt hành chính nghiêm khắc với các nhà thầu, chủ đầu tư. - Đề ra và sắp xếp các công trình trọng điểm theo thứ tự ưu tiên đầu tư, đưa các công trình này vào danh mục kế hoạch để theo dõi quá trình phát triển. - Cung cấp vốn cho đầu tư đồng bộ và dứt điểm, tránh cung cấp vốn nhỏ giọt dẫn đến tình trạng dự án phải ngừng trệ vì thiếu vốn. - Kiên quyết loại bỏ khỏi danh mục kế hoạch vốn hàng năm các dự án chưa đủ thủ tục về XDCB theo quy định. Không bố trí vốn cho các dự án nhóm B, C kéo dài quá thời gian đầu tư được quy định (nhóm B từ khởi công đến hoàn thành không quá 4 năm, nhóm C không quá 2 năm). * Hoàn thiện cơ chế cấp phát vốn Đối với việc cấp phát vốn đầu tư phát triển nên sử dụng rộng rãi cơ chế cấp phát vốn theo sản phẩm hoàn thành. Bởi lẽ cơ chế này tạo ra sự ràng buộc giữa công tác cấp phát thanh toán vốn đầu tư xây dựng cơ bản của cơ quan quản lý tài chính với kết quả của sản phẩm xây dựng. Từ đó thúc đẩy các đơn vị thi công xây lắp đẩy mạnh tiến độ thi công, nhanh chóng hoàn thành các công trình và hạng mục công trình để đưa vào sử dụng. áp dụng cơ chế cấp phát vốn theo sản phẩm hoàn thành sẽ thúc đẩy quá trình tăng trưởng và phát triển các ngành kinh tế nói riêng và cả nền kinh tế nói chung do các sản phẩm xây dựng của dự án sẽ sớm phát huy tác dụng làm nâng cao hiệu quả hoạt động đầu tư. * Giải quyết dứt điểm vấn đề nợ đọng trong đầu tư xây dựng cơ bản Theo báo cáo của một số Bộ, ngành và 58 tỉnh, thành phố, tính đến năm 2003, tổng số nợ xây dựng cơ bản là vào khoảng 11 nghìn tỷ đồng, trong đó các Bộ, ngành, trung ương nợ khoảng 3500 tỷ đồng, chủ yếu là nợ của Bộ Giao thông vận tải và Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương nợ khoảng 7444 tỷ đồng. Vì vậy, để chấm dứt tình trạng trên, giảm bớt những bất ổn có thể xảy đến đối với nền kinh tế cần phải từng bước giải quyết vấn đề nợ đọng trong đầu tư xây dưng cơ bản. Chính phủ cần phải chỉ đạo rà soát lại một cách nghiêm khắc và chi tiết số nợ của các Bộ, ngành và địa phương theo các nguyên tắc và thuộc các đối tượng sau: - Các công trình, dự án có khối lượng nợ phải là các công trình được đầu tư bằng nguồn vốn ngân sách nhà nước - Các công trình, dự án được ghi danh mục trong kế hoạch hàng năm. - Các công trình, dự án đã hoàn thành và đưa vào sử dụng - Khối lượng nợ của công trình, dự án không vượt tổng dự toán được cấp có thẩm quyền phê duyệt. - Khối lượng đã thực hiện nhưng chưa được thanh toán được cơ quan cấp phát vốn xác nhận. Căn cứ các nguyên tắc trên, qua rà soát để loại trừ các khoản nợ nằm ngoài kế hoạch, vượt tổng dự toán được duỵệt, không hoàn thành đúng kế hoạch để có biện pháp xử lý thích hợp đối với từng trường hợp. 3.4 . Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát trong quá trình đầu tư * Đảm bảo thông tin chính xác, kịp thời phục vụ cho công tác kiểm tra, giám sát quá trình đầu tư Chủ đầu tư phải thường xuyên báo cáo về tình hình đầu tư tại đơn vị mình, các đơn vị chủ quản đầu tư cũng phải thường xuyên tổng hợp tình hình thực hiện đầu tư tại Bộ, ngành, địa phương mình để thông báo lên cho các cơ quan giám sát. Các cán bộ kiểm tra giám sát ngoài việc tổng hợp thông tin cần phải cử người trực tiếp xuống cơ sở để xác nhận chính xác tình hình thực hiện đầu tư tại các đơn vị, tránh tình trạng báo cáo không đúng với thực tế. Ngoài ra, để phục vụ tốt cho công tác kiểm tra, giám sát, cần phải thực hiện minh bạch, công khai các thông tin về tình hình phân bổ, sử dụng vốn đầu tư ở các cấp, các ngành, các địa phương, về kế hoạch, dự toán, quyết toán vốn đầu tư của từng công trình, dự án. Công bố trên các phương tiện thông tin đại chúng về kế hoạch đầu tư và vốn đầu tư trong từng năm hoặc từng thời kỳ, kế hoạch phân bổ vốn đầu tư cho các ngành, các địa phương, điều kiện để được phân bổ vốn, lãi suất, mức vốn vay… * Xây dựng quy trình kiểm tra, giám sát toàn bộ quá trình đầu tư, thực hiện công tác thanh tra kế hoạch và đầu tư. Để đảm bảo hiệu quả hoạt động đầu tư, cần phải thực hiện việc kiểm tra, giám sát trong toàn bộ quá trình đầu tư, từ khâu chuẩn bị đầu tư, thực hiện đầu tư đến vận hành kết quả kết quả sản xuất kinh doanh. Do vậy cần phải xây dựng một quy trình kiểm tra giám sát liên tục và chặt chẽ. Theo đó sẽ tránh được tình trạng khi vận hành kết quả đầu tư phải khắc phục hậu quả của những sai sót từ những khâu trước đó, đồng thời giảm được việc thất thoát vốn đầu tư trong qua trình đầu tư xây dựng cơ bản. Tách một số tổ chức giám sát và thi công trực thuộc cùng một cơ quan quản lý nắm giữ lượng vốn lớn của nhà nước (giao thông, thuỷ lợi, xây dựng dân dụng) để hình thành những tổ chức giám sát độc lập. Việc đánh giá thất thoát dựa trên cơ sở quy định hiện hành của nhà nước. Quy định rõ trách nhiệm cá nhân, đơn vị liên quan đến chất lượng sản phẩm, công trình như chủ đầu tư, tổ chức tư vấn, đơn vị khảo sát, thiết kế và đơn vị thi công trong từng khâu công việc từ khảo sát, thiết kế, thi công, thực hiện các quy chế đấu thầu đến kiểm tra và giám sát công tác thi công công trình. Thực hiện công tác thanh tra kế hoạch và đầu tư, tiếp tục kiện toàn và hoàn thiện tổ chức thanh tra ở tất cả các tỉnh, thành phố, hoàn chỉnh quy chế tổ chức và hoạt động thanh tra kế hoạch và đầu tư, phối hợp với Sở Kế hoạch và đầu tư các tỉnh để tiến hành tổ chức thanh tra, kiểm tra định kỳ việc thực hiện kế hoạch và đầu tư của các Bộ, ngành, địa phương. Tổ chức các lớp đào tạo nghiệp vụ thanh tra cho các cán bộ thanh tra ở các cấp. Phối hợp với các nhà tài trợ thanh tra các dự án ODA. Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát đầu tư của các doanh nghiệp nhà nước. Nâng cao vai trò của các Bộ chủ quản và địa phương trong công tác thanh tra, kiểm tra trong lĩnh vực đầu tư. Kết luận Đầu tư phát triển là hoạt động kinh tế quan trọng, quyết định đến sự tăng trưởng nhanh và mạnh mẽ của mọi quốc gia, đặc bịêt là các quốc gia đang phát triển. Vai trò của đầu tư đối với nền kinh tế đã được nhiều học thuyết kinh tế đề cập đến và cũng đã được thực tiễn chứng minh là hoàn toàn đúng. ở Việt Nam trong những năm qua, nhờ bố trí hợp lý cơ cấu đầu tư phát triển các ngành, các thành phần và các vùng kinh tế đã thúc đẩy nền kinh tế tăng trưởng cao và liên tục. Qua việc nghiên cứu vấn đề “ Đầu tư với tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế Việt Nam giai đoạn 1998- 2010), đề tài đã rút ra kết luận - Đầu tư là nhân tố có tác động mạnh nhất tới tốc độ tăng trưởng kinh tế Việt Nam giai đoạn 1998- 2004 - Nhờ đầu tư hợp lý nên các ngành, các thành phần kinh tế, các vùng lãnh thổ đều đạt mức tăng trưởng tương đối cao, đóng góp mạnh mẽ vào tăng trưởng chung của nền kinh tế. - Tuy nhiên, đầu tư cho tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam vẫn còn một số điểm hạn chế cần phải khắc phục nhằm đảm bảo thực hiện được mục tiêu chiến lược phát triển kinh tế 2001- 2010. Chính vì vậy, việc nâng cao thúc đẩy hoạt động đầu tư trong thời gian tới có ý nghĩa vô cùng quan trọng. Muốn thực hiện thành công sự nghiệp tăng trưỏng kinh tế, đầu tư phải là nhân tố ưu tiên hàng đầu. Đầu tư vừa tạo nên “ cú huých ban đầu” đưa nền kinh tế ra khỏi cơ chế cũ, vừa là “chiếc chìa khoá vàng” đưa nền kinh tế đất nước bước vào hội nhập với nền kinh tế thế giới. Tài liệu tham khảo - Giáo trình Kinh tế đầu tư- NXB Thống kê - Giáo trình Thống kê đầu tư và xây dựng cơ bản- NXB Thống kê - Giáo trình Kinh tế phát triển- NXB Thống kê - Giáo trình kinh tế đầu tư nâng cao - Robert Gordon, Kinh tế học vĩ mô- NXB Khoa học kỹ thuật Hà Nội - Rhys Jenkin, Một số vấn đề về chiến lược CNH và lý thuyết phát triển- NXB Thế Giới - J. M. Keynes, Lý thuyết tổng quát về việc làm, lãi suất và tiền tệ- NXB Giáo dục. - Simon Kuznets, Các thuyết trình tại lễ trao giải thưởng Nobel về khoa học kinh tế 1969- 1980 - R. Solow, Các thuyết trình tại lế trao giải thưởng Nobel về khoa học kinh tế 1981- 1990 - Chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong điều kiện hội nhập- Đại học kinh tế quốc dân, Viện nghiên cứu kinh tế và phát triển - Kinh tế Việt Nam năm 2004: Tiếp tục quá trình đổi mới- thành tựu và vấn đề- Đại học kinh tế quốc dân -Văn kiện đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII, IX - Chương trình đầu tư công cộng thời kỳ 2001-2005- NXB Thống Kê - Niêm giám thống kê 2002 - Tạp chí kinh tế và dự báo - Tạp chí kinh tế và phát triển - Tạp chí phát triển kinh tế - Tạp chí công nghiệp Việt Nam - Tạp chí nghiên cứu kinh tế - Báo Đầu tư - Thời báo kinh tế Việt Nam - Bài viết “ Đổi mới cơ cấu đầu tư, thực hiện mục tiêu CNH- HĐH đất nước”- TS Phạm Văn Hùng - Tổng quan kinh tế- xã hội Việt Nam 2003- PGS. TS Nguyễn Sinh Cúc - Trang Web: http:///www.cpvn.gov.com Mục lục Trang ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc36239.doc
Tài liệu liên quan