Đầu tư theo chiều sâu, đầu tư theo chiều rộng. Mối quan hệ giữa đầu tư theo chiều rộng và theo chiều sâu

Trường Đại Học Kinh Tế Quốc Dân ----------------------------------- Khoa Kinh Tế Đầu Tư —– —– —– —– —– —– BÀI THẢO LUẬN NHÓM XIII Thành viên nhóm: 1.Nguyễn Phương Liên 2.Nguyễn Thị Hằng 3.Trần Thanh Nam 4.Bùi Mạnh Đạt Chủ đề: Đầu tư theo chiều sâu, đầu tư theo chiều rộng. Mối quan hệ giữa đầu tư theo chiều rộng và theo chiều sâu. --------------------------------------------- Lời mở đầu Nền kinh tế việt nam đang trong giai đoạn phát triển. hội nhập và không ngừng phát triển. đặc b

doc25 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1814 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Đầu tư theo chiều sâu, đầu tư theo chiều rộng. Mối quan hệ giữa đầu tư theo chiều rộng và theo chiều sâu, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
iệt là sau khi việt nam gia nhập tổ chức thương mại thế giới,các thành phần tham gia vào nền kinh tế đa dạng hơn các hình thức kinh doanh cũng vì thế mà phong phú hơn kéo theo đó là các nguồn vốn đầu tư và các hình thức đầu tư dần dần được tăng lên và cải thiện hơn về chất lượng. Vấn đề của các nhà hoạch định chính sách là phải đầu tư nhu thế nào cho có hiệu quả Khi nền kinh tế hội nhập cơ hội để các doanh nhân, doanh nghiêp phát triển là rất lớn nhưng nếu không nắm vững các lý thuyết về đầu tư thì rất dễ gây ra lãng phí vốn đầu tư mà lại không đem lại hiệu quả cho nền kinh tế khi đầu tư bởi vì đầu tư không đúng, không đủ và không đúng thời điểm. Mỗi một hình thức kinh doanh có một cách đầu tư khác nhau nhưng đều có chung một điểm là có hai hình thức đầu tư theo chiều rộng và đầu tư theo chiều sâu. Hai hình thức đầu tư này đều mang lại hiệu quả nhất định cho nhà đầu tư và muốn đạt được hiệu quả tối đa thì phải hiểu rõ mối quan hệ chặt chẽ giữa hai hình thức này. Kết quả của đầu tư chiều rộng là sự gia tăng về lượng còn kết quả của đầu tư chiều sâu là sự gia tăng về chất trong mọi mặt của nền kinh tế. Để hiểu rõ hơn về hai hình thức này nhóm em đã tìm hiểu và viết bài viết”Mối quan hệ giữa đầu tư chiếu rộng và đầu tư theo chiếu sâu”. Bài viết còn nhiều thiếu sót chúng em rất mong nhận được sự góp ý của thầy và các bạn. Nhóm 13 xin chân thành cảm ơn. Chương I: Lý luận chung về đầu tư theo chiều rộng, chiều sâu và mối quan hệ qua lại giữa đầu tư theo chiều rộng và chiều sâu. I. Khái niệm đầu tư: 1. Đầu tư: Đầu tư nói chung là sự hi sinh các nguồn lực ở hiện tại để tiến hành các hoạt động nào đó nhằm thu về các kết quả nhất định trong tương lai lớn hơn các nguồn lực mà minh bỏ ra. Đầu tư là phải kết hợp các yếu tố hợp lí. 2. Đầu tư phát triển: Đầu tư phát triển là bộ phận cơ bản của đầu tư,là việc chi dùng vốn trong hiện tại để tiến hành các hoạt động nhằm làm tăng thêm hoặc tạo ra những tài sản vật chất(như nhà xưởng,thiết bị…) và tài sản trí tuệ(tri thức,kĩ năng…) gia tăng năng lực sản xuất ,tạo thêm việc làm vì mục tiêu phát triển. Đầu tư phát triển đòi hỏi rất nhiều loại nguồn lực: -Theo nghĩa hẹp nguồn lực đầu tư cho đầu tư phát triển là tiền vốn. -Theo nghĩa rộng nguồn lực này bao gồm cả nguồn vốn,đất đai,lao động,máy móc thiết bị và tài nguyên. 3. Phân loại đầu tư a,Theo bản chất của các đối tượng đầu tư: + Đầu tư cho các đối tượng vật chất:xây dựng nhà máy,máy móc thiết bị cơ sở hạ tầng + Đầu tư vào tài chính:tiết kiệm,cổ phiếu b,Theo chủ thể đầu tư: + Đầu tư của nhà nước + Đầu tư của doanh nghiệp + Đầu tư của cá nhân,gia đình c,Theo nguồn vốn đầu tư: + Đầu tư trong nước + Đầu tư nước ngoài d, Theo mức độ quản lí đầu tư: + Đầu tư trực tiếp + Đầu tư gián tiếp e,Theo góc độ tái sản xuất: + Đầu tư mới mở rộng + Đầu tư hiện đại hóa f ,Theo tính chất đầu tư: + Đầu tư theo chiều rộng + Đầu tư theo chiều sâu II.NỘI DUNG ĐẦU TƯ THEO CHIỀU RỘNG,ĐẦU TƯ THEO CHIỀU SÂU 1.Đầu tư chiều rộng: 1.1.Khái niệm:Đầu tư theo chiều rộng(ĐTCR) hình thức đầu tư trên cơ sở cải tạo và mở rộng cơ sở vật chất kĩ thuật hiện có,xây dựng mới nhưng với kĩ thuật công nghệ không đổi. Có thể hiểu một cách đơn giản là ĐTCR là mở rộng sản xuất căn cứ vào số lượng,tăng qui mô nhưng không tăng được năng suất lao động vì công nghệ kĩ thuật công nghệ không đổi. 1.2.Nội dung: + ĐTCR là đầu tư xây dựng mới nhà cửa,cấu trúc hạ tầng theo thiết kế được phê duyêt lần đầu. + Là hoạt động mua sắm máy móc thiết bị để đổi mới thay đổi những thiết bị cũ theo một dây chuyền công nghệ đã có từ trước. + Là hoạt động tăng thêm lao động,công nhân,nhưng không tăng tay nghề,kinh nghiệm,kĩ năng cho lao động. Vậy thực chất ĐTCR là để mở rộng quy mô sản xuất nhằm sản xuất một khối lượng sản phẩm lớn hơn nữa trên cơ sở xây dựng mới thêm các hạng mục công trình. 1.3.Ưu điểm, nhược điểm: Ưu điểm:ĐTCR không cần tiến hành nghiên cứu triển khai khoa học công nghệ mới,giảm được chi phí về thời gian,tiền bạc nghiên cứu vì dựa vào cơ sở khoa học ban đầu. ĐTCR tạo ra cho nền kinh tế hệ thống công trình xây dựng hoạt động trong nhiều năm,tăng việc làm giảm thất nghiệp. Nhược điểm: -Đòi hỏi khối lượng vốn lớn.Cần phai huy động nhiều vốn để có thể tiến hành các hoạt động về mua sắm máy móc,thêm lao động,công nhân. -Thời gian thực hiện đầu tư lớn,dài,thời gian hoạt động để thu hồi vốn lâu,tính chất kĩ thuật phức tạp,độ mạo hiểm cao. -ĐTCR làm gia tăng số lượng sản phẩm tức là làm tăng năng xuất lao động nhưng không làm tăng khả năng cạnh tranh của sản phẩm vì vẫn với công nghệ cũ,không làm thay đổi mẫu mã,chất lượng sản phẩm. 1.4.Vai trò Đối với toàn bộ nền kinh tế:Làm tăng qui mô của nền kinh tế trên cơ sở xây dựng mới và mở rộng nhiều vùng kinh tế,nhiều khu vực,cụm công nghiệp trên khắp cả nước.Nên có tác dụng thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu nền kinh tế. Đối với doanh nghiệp:Mở rộng được qui mô sản xuất của doanh nghiệp,đưa năng suất tăng lên.Góp phần tạo ra nhiều việc làm mới,giải quyết công ăn việc làm cho nhiều người. 2.Đầu tư theo chiều sâu: 2.1.Khái niệm: Đầu tư chiều sâu(ĐTCS) là hoạt động đầu tư xây dựng cơ bản nhằm cải tạo,mở rộng,nâng cấp hiện đại hóa,đồng bộ hóa dây chuyền sản xuất,dịch vụ trên cơ sở các công trình đã có sẵn 2.2.Nội dung: Trong ĐTCS tiến hành việc cải tạo mở rộng và nâng cấp các công trình đã có sẵn với bộ máy quản lí đã hoàn thành từ trước ki có hoạt động đầu tư.Tức là đầu tư vào nghiên cứu công nghệ,quản lí,quan tâm đến chất lượng sản phẩm,năng suất lao động phát triển. Là đầu tư phát triển nguồn nhân lực:ĐTCS bao gồm hoạt động phat triển nguồn lực và đầu tư để tổ chức lại bộ máy quản lí,phương pháp quản lí. 2.3.Ưu,nhược điểm: Ưu điểm: -Đầu tư chiều sâu thời gian sinh lời nhanh,công nhân quen tay nghề,bộ máy quản lí quen nghiệp vụ. -Đầu tư chiều sâu làm giảm chi phí sản xuất,tăng năng xuất lao dộng và nâng cao hiệu quả đầu tư. -Thời gian thực hiện ngắn hơn so với ĐTCR do khối lượng công việc ít đa dạn hơn.Do đó ít mạo hiểm hơn và có độ rủi ro thấp hơn so với ĐTCR. Nhược điểm: -ĐTCS cần có đội ngũ tri thức cao nghiên cứu chính xác,đòi hỏi các kinh nghiệm từ công nghệ trước của các nước.Nhưng cần phải phù hợp với nguồn lực cua doanh nghiệp mình. -Trước khi có quyết định ĐTCS,doanh nghiệp cần phải xem xét kĩ nguồn lực,tiềm năng trước khi quyết định đầu tư.Phải có kiểm định chính xác dự án trước khi thực hiện. 2.4Vai trò của đầu tư chiều sâu Nhờ có ĐTCS thì doanh nghiệp có thể nâng cao năng suất lao động,nâng cao chất lượng sản phẩm,do đó có điều kiện giảm chi phí sản xuất,hạ giá thành sản phẩm nhờ đó nâng cao được khả năng cạnh tranh của sản phẩm trên thương trường. ĐTCS là hình thức đầu tư ưu tiên đối với các nước đang phát triển,trong điều kiện còn thiếu vốn,công nghệ và quản lí.Đối với những nước này nền kinh tế còn kém phát triển,nên nguồn vốn huy động được cho đầu tư còn thiếu,phải tìm cách đầu tư ít vốn mà đem lại hiệu quả.ĐTCS để phát triển kinh tế đối với các nước này là vô cùng quan trọng.Cac nước nghèo có nhiều cơ hội để nhập công nghệ từ nước phát triển đặc biệt là thông qua con đường đầu tư trực tiếp nước ngoài và tự do hóa thương mại.Quá trình toàn cầu hóa làm cho nền kinh tế ngày càng phụ thuộc lẫn nhau hơn,bởi vậy các nước này cần phải học hỏi kinh nghiệm của các nước đi trước,học hỏi kin nghệ tiên tiến phù hợp với nước mình để phát triển. III, Mối quan hệ giữa đầu tư chiều sâu và đầu tư theo chiều rộng. Những nhân tố tác động đến tăng trưởng kinh tế tác động đến tổng cung là vốn, lao động, tài nguyên đất đai và công nghệ kỹ thuật. trong đó vốn là yếu tố vật chất đầu vào quan trọng có tác động trực tiếp đến tăng trưởng kinh tế. Bao gồm nhà máy , thiết bị máy móc,nhà xưởng và các thiết bị được sử dụng như những yếu tố đầu vào của quá trình sản xuất.nhân tố lao động là một yếu tố đầu vào của quá trình sản xuất. tăng trưởng kinh tế của các nước đang phát triển được đóng góp nhiều bởi quy mô số lượng lao động yếu tố vốn nhân lực còn có vị trí chưa cao do trình độ và chất lượng lao động ở các nước này còn thấp. tài nguyên đất đai là một yếu tố quan trọng trong sản xuất nông nghiệp và là yếu tố không thể thiếu được trong việc thực hiện bố trí các cơ sở kinh tế thuộc các ngành công nghiệp, dịch vụ. Công nghệ kỹ thuật được quan niệm là nhân tố tác động ngày càng mạnh đến tăng trưởng trong điều kiện hiện đại.yếu tố công nghệ kĩ thuật được hiểu theo hai dạng : thứ nhất đó là những thành tựu kiến thức khoa học , nghiên cứu đua ra những nguyên lí, thử nghiệm về cải tiến sản phẩm, qui trình công nghệ hay thiết bị kĩ thuật; thứ hai, là sự sự áp dụng phổ biến các thành tựu đó nhằm nang cao trình dộ phát triển chung của sản xuất. do vạy công nghệ kĩ thuật là sợi chỉ đỏ xuyên suốt quá trình tăng trưởng kinh tế bền vững. nhưng yếu tố tác dộng trực tiếp đến tăng trưởng được nhấn mạnh đó là vốn, lao động và nang suất yếu tố tổng hợp. trong đó vốn và lao động được coi là những yếu tố vạt chất có thể lượng hóa được múc độ tá đọng của nó đến tăng trưởng kinh tế và được coi là những nhân tố tăng trưởng theo chiều rộng. Năng suất yếu tố tổng hợp là thể hiện hiệu quả của yếu tó công nghệ kĩ thuật hay cách dánh giá tác động của tiến bộ cong nghệ đến tăng trưởng kinh tế. Ngày nay, tác động của thể chế,của chính sách mở cửa, hội nhập hay phát triển của vốn nhân lực đã giúp cho các nước đang phát triển nhanh chóng tiếp cận những công nghệ hang đầu thế giới để đảy nhanh quá trình tăng trưởng kinh tế. 3.1 đầu tư chiều rộng là nền tảng, cơ sở là bước đi đầu tiên cho đầu tư chiều sâu. Các doanh nghiệp ở nước ta khi mới thành lập thường có qui mô vừa và nhỏ. Trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh sẽ tích lũy vốn để tiếp tục quá trình đầu tư. Ban đầu doạnh nghiệp tích lũy vốn bằng cách giữ lại một phần lợi nhuận sau đó doanh nghiệp sẽ giữ khoản tích lũy đó để đầu tư mở rộng sản xuất,thuê thêm nhân công giữ lại một phần , tìm kiếm thêm thị trường tiêu thụ sản phẩm, phát triển thương hiệu của mình…nhờ đó lợi nhuận của doanh nghiệp sẽ ngày càng lớn hơn và cũng nhờ đó khoản tích lũy lớn dần lên . đây là quá trình doanh nghiệp đầu tư theo chiều rộng , một bước không thể thiếu để làm cho doanh nghiệp phát triển . việc mua thêm trang thiết bị xây dựng thêm nhà máy dựa trên công nghệ đã có tư ban đầu làm cho doanh nghiệp phát triển về lượng nhưng không làm tăng thêm chất lượng sản phẩm năng suất lao động và cũng theo đó không thể làm tăng tính cạnh tranh của sản phẩm trên thị trường. và vì thế quá trình này chỉ dừng lại ở một mức độ nhất định . Trong quá trình hội nhập, mở cửa nền kinh tế cạnh tranh là điều không thể tránh khỏi.Nếu các doanh nghiệp chỉ đầu tư chiều rộng mà không biết tự làm mới sản phẩm của mình để chất lượng tốt hơn, đáp ứng tốt hơn nhu cầu của khách hàng thì khi đầu tư chiều rộng đến một giai đoạn nhất định khi sản phẩm không phù hợp với thị hiếu của người tiêu dùng thì doanh nghiệp không thể tìm kiếm được lợi nhuận nữa thậm chí là thua lỗ. chính vì vậy doanh nghiệp phải sử dụng kết hợp các nguồn lực để tiếp tục đầu tư chiều sâu. Tức là nghiên cứu triển khai, thay đổi dây chuyền công nghệ từ đó nâng cao chất lượng sản phẩm, kiểu dáng mẫu mã, chất lượng phục vụ đáp ứng nhu cầu của người tiêu dùng.nâng cao năng suất lao động , tính cạnh tranh của sản phẩm trên thị trường . Tiếp đó là đổi mới công nghệ “thân thiện với môi trường” Đối với các doanh nghiệp đã có vị thế trên thị trường, công ty đã có qui mô lớn thì việc kết hợp đầu tư chiều rộng và đầu tư chiều sâu một cách hợp lý sẽ đem lại hiệu quả cao cao cho hoạt động kinh doanh của mình . Nếu doanh nghiệp chưa có quá trình đầu tư chiều rộng tiến thẳng đến đầu tư chiếu sâu khi đó doanh nghiệp chưa có quá trình tích lũy vốn,kinh nghiệm quản lý, sử dụng công nghệ có thể không làm chủ được công nghệ…doanh nghiệp sẽ gặp rất nhiều khó khăn. 3.2 Đầu tư chièu sâu và đầu tư chiều rộng có mối quan hệ chặt chẽ đan xen nhau không tách rời nhau Đầu tư chiều rộng sẽ tạo cơ sở nền tảng để tiến hành đầu tư chiều sâu. Bên cạnh đó đầu tư chiều sâu thúc đẩy hoạt động đầu tư chiều rộng. Bằng việc đổi mới công nghệ, doanh nghiệp sẽ đổi mới được sản phẩm của mình tốt hơn đa dạng hơn. Nhờ đó doanh nghiệp sẽ tăng được năng lực cạnh tranh trên thị trường khi sản phẩm được tiêu thụ nhanh mở rộng được thị trường đây là yếu tố thúc đẩy cho doanh nghiệp đầu tư chiều rộng, để đánp ứng nhu cầu thị trường ngày càng tăng lên. Nếu các doanh nghiệp chỉ dừng lại ở đầu tư chiều sâu mà không tiếp tục chièu rộng thì doanh nghiệp sẽ không đạt được lợi nhuận tối đa mà công nghệ mới có thể tạo ra. Một sự kết hợp đúng mức chặt chẽ giữa đầu tư chiều rộng và đầu tư chiều sâu sẽ làm cho doanh nghiệp khai thác hết được nguồn lực và phát triển doanh nghiêp, tạo thêm được việc làm góp phần vào sự phát triển của nền kinh tế Mặt khác nếu đầu tư chiều rộng tạo ra một cơ sở vật chất không phù hơp và không đồng bộ như nhà xưởng không đúng quy cách, dây chuyền máy móc lúc đầu quá lạc hậu hoặc quá tiến tiến … sự chênh lệch về trình độ công nghệ quá lớn sẽ dẫn đến tinh trạng làm đầu tư chiều sâu không phát uy được hiệu quả gây thất thoát, lãng phí. Giả sử khi vừa thành lập doanh nghiệp đã đầu tư một dây chiều máy móc quá lạc hậu, năng lực quản lý kém, hay trình độ công nhân quá thấp chưa qua đào tạo thì khi sản xuất ra sản phẩm và đưa ra thị trường sẽ không được thị trường chấp nhân vì sản phẩm không đáp ứng được nhu cầu của thị trường . Gây ra sự lãng phí lớn của doanh nghiệp. Nếu doanh nghiệp đầu tư một công nghệ quá tiên tiến so với năng lực hấp thu sẽ làm cho danh nghiệp không thể khai thác hết hiệu quả của công nghệ. Cũng là một sự lãng phí chính vì vậy thời điêm nào đầu tư chiều sâu thời điểm nào đầu tư chiều rộng cần phải được nghiên cứu kỹ. Đầu tư chiều rộng một cách tràn lan không đông bộ không có trọng tâm trọng điểm sẽ làm hạn chế vốn và nguồn lực của doanh nghiệp khi tiến hành đầu tư chiều sâu. Ngược lại đầu tư chiều sâu không có hiệu quả sẽ làm cho doanh nghiệp không đủ điều kiện đầu tư chiều rộng. Nhiều trang thiết bị máy móc không phù hợp với điều kiện địa lí, khí hậu nuớc ta khi tiến hành đầu tư chiều sâu. Những trang thiết bị hiện đại nhập từ nước ngoài thf chi phí rất cao dẫn đến giá thành sản phẩm cao. Hoặc máy móc quá hiện đại tạo ra sản phẩm cũng hiện đai nhưng người tiêu dùng không sử dụng được tính năng của nó. Dù trong trường hợp nào thì sản phẩm của doanh nghiệp cũng khó sử dụng do đó hiệu quả đầu tư là không có không thu hồi được vốn gây lãng phí vốn dầu tư. Chương II:Thực trạng vấn đề đầu tư theo chiều rộng và đầu tư theo chiều sâu ở Việt Nam. I. Thực trạng doanh nghiệp Việt Nam gần đây. Đối với lĩnh vực phát triển của đô thị Phát triển thưo chiều rộng có thể xem như sự mở rộng về mặt địa lý, nhưng cũng có nghĩa là mở rộng về mặt hành chính . Giảit pháp này cho phép tăng các nguòn tài nguyên của đô thị và vì vậy đo thị ấy sẽ hấp dẫn đầu tư hơn. Đô thị có thể sẽ có nguồn kinh phí dồi dào để phát triển. Các vùng lãnh thổ của độ thị này sẽ cỏ thể được đầu tư phát triển dồng bộ hơn do cùng một cơ quan quản lý. Tuy nhiên, đây cũng chính là nhược diểm của việc phát triển đo thị theo chiều rông tức là mở rộng về việc quản lý hành chính .Việc tập trung các vùng lãnh thổ cho việc quản lý hành chính có thể gây quá tải cho cơ quan quản lý này. Hiên tượng này rất phổ biến ở các nước đang phát triển và được gọi là hội chứng đô thị “đầu to”hay “siêu đô thị” . Mêxico, brazil,Ấn độ, là những quốc gia đang phải đối mặt với những hậu quả nhức nhối của hội chứng này. Hội chứng này là mối lo chung trên toàn thế giới. vấn đề nan giải của các đo thị này là hố sâu giàu nghèo(về kinh tế và tri thức) và chênh lệch giữa độ thi và nông thôn . nghuyên nhân tự phát một phần là do tốc độ phát triển nhanh của đất nước. các nguồn đầu tư mới chỉ tập trung chủ yến vào thành thị nên hạ tầng ở đô thị tốt hơn hẳn hạ tầng ở nông thôn. Nổi bật ở việt nam hiên nay là sự kiện mở rộng thủ đô Hà Nội.Thực tế thì phát triển đô thị theo chiều rộng là hướng quy hoạch phát triển áp dụng cho các khu đô thị mới hoặc các thành phố mới, những nơi đô thị hoá tự phát hoặc quy hoạch để đô thị hoá. II. Đối với lĩnh vực khai thác, sử dụng tài nguyên thiên nhiên Tổn thất trong khai thác dầu khi của việt nam là 50-60% , than hầm lò là 40-60%, còn trong chế biến là 60-70%. Đây chỉ là 3 trong những con số đau xót về tình trạng lãng phí tài nguyên và nhiên liệu, nghuyên liệu đầu vào của các ngành sản xuất Việt Nam đã được công bố tại hội thảo”phát triển bền vững ngành và doanh nghiệp”năm 2004 tại Hầ Nội. Việt Nam “rừng vàng biển bạc” là điều hoàn toàn đúng, nhưng chưa đủ. Việt Nam có trên 5.000 mỏ, với khoảng 60 loại khoảng sản nhưng phần lớn lại là mở vừa và nhỏ , hầu hết không đủ khai thác với quy mô công nghiệp . thêm vào đó nguồn tài nguyên không tái tạo này đứng trước nguy cơ cạn kiệt vì sự khai thác và sử dụng quá lãng phí. Thất thoát từ khai thác đến chế biến… Tổn thất trong khai thác khoảng sản nhiều ngành lên đến 50%.Cụ thể : khai thác than hàm lò tổn thất là 40-60%. Khai thác apatit : 26-43%; quặng kim loại 15-30%; vật liệu xây dựng 15-20%.bên cạnh đó tổn thất trong chế biến khoáng sản cũng rất cao. Khai thác vàng là một ví dụ . Độ thu hồi quặng vàng trong chế biến (tổng thu hồi)chỉ đạt khoảng 30-40% nghĩa là hơn một nửa thải ra ngoài bãi thải, không chỉ gây mất mát mà mà còn gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng. nếu so với chỉ tiêu một số nước thu hồi vàng trong quăng chiếm 92-97% thì rõ ràng đây là một tổn thất quá lớn. Đối với những mỏ vừa và nhỏ chủ yếu tự khai thác với công nghệ thô sơ rõ ràng không thể dánh giá hết những tổn thất Với tài nguyên nước mức sử dụng nước nhiều ngành công nghiệp là rất cao và lãng phí đặc biệt là khu vực tư nhân các doanh nghiệp vừa và nhỏ để thất thoát nước dùng trong sản xuất phần lớn không thể kiểm soát được . Rõ rệt nhất là ngành bia trên thế giới để sản xuất 1lít bia trung bình sử dụng khoảng 4lít nước song ở Viêtt Nam cao hơn gấp 3 lần (khoảng 13lit) các nghành dệt và nghành giấy cũng ở tình trạng tương tự. Các doanh nghiêp Việt Nam vẫn chưa nhận thức được đầy đủ vai trò của công nghệ với việc giảm chi phí đầu vào . Thống kê của bộ khoa học công nghệ cho thấy : chỉ chưa đến 0,01% tổng doanh thu của doanh nghiệp dành cho đầu tư mới công nghệ . Bên cạnh đó mặc dù được khuyến cáo về ưu tiên nhập các thiết bị công ngệ từ các nước G7 song do nguồn đầu tư hạn hẹp , da phần các doanh nghiệp mua thiết bị từ Trung Quốc, Đài Loan giá rẻ chất lượng trung bình nên càng làm cho nguyên nhiên liệu đầu vào tăng cao. III. phát triển cơ sở hạ tầng. Do đặc điểm tự nhiên, kinh tế, xã hội của vùng hướng ưu tiên trong thời gian qua cũng như các năm tới là phát triển hệ thống đường bộ và đường biển. hệ thống thủy lợi cũng được Trung Ương và địa phương tập trung xây dựng và phát triển để ngăn mặn và tưới nước. các công trinhg thủy lợi được xây dựng trong những năm gần đây đã tạo điều kiện khai hoang, tăng vụ chuyển vụ. các công trình thủy lợi đã phát huy cao hiệu quả cấp nước sản xuất cấp nước cho công nghiệp , nước sinh hoạt đo thị và cho nhiều vùng rộng lớn góp phần cải thiện môi trường sinh thái …các hồ chứa nước tham gia cắt giảm lũ hạn chế ngập lụt ở hạ lưu. IV. Đầu tư ngành nông nghiệp, lâm nghiệp thủy sản. Trong những năm qua, Nông nghiệp tăng trưởng ổn định theo hướng phát triển sản xuất hàng hoá. Giá trị sản xuất công nghiệp chế biến Nông-Lâm-Thuỷ sản liên tục tăng, tốc độ tăng trung bình từ 12-14%/năm và là ngành chiếm tỷ lệ khá lớn (trên 17,5%) trong cơ cấu tổng sản phẩm trong nước. Mặc dù đã đạt được những kết quả đáng ghi nhận song nhìn chung, ngành chế biến Nông-Lâm-Thuỷ sản Việt Nam vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu của đất nước trong giai đoạn Công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn và nhất là trong quá trình hội nhập với kinh tế thế giới. Một trong những nguyên nhân khiến cho ngành này chưa phát triển tương xứng với tiềm năng và yêu cầu của đất nước trong giai đoạn mới chính là việc đầu tư phát triển nguồn nhân lực chưa được quan tâm đúng mức. Đặc biệt là công tác đào tạo cán bộ quản lý, khoa học công nghệ, công nhân kỹ thuật cho những ngành nghề này còn yếu kém. Theo Tổng cục Thống kê, mỗi năm, nước ta có hơn 1 triệu người tham gia vào lực lượng lao động, đa số lực lượng này là cư dân nông thôn, không được đào tạo nghề cơ bản. Nguồn nhân lực làm việc trong các lĩnh vực Nông-Lâm-Thuỷ sản ở các vùng nông thôn có trình độ và được đào tạo nghề có tỷ lệ rất thấp. Cả nước có 81.300 công chức xã nhưng tỷ lệ được đào tạo chuyên môn đại học chỉ chiếm 9%; 39,4% có trình độ trung cấp; 9,8% sơ cấp và 48,7% chưa qua đào tạo. Để đáp ứng nhu cầu phát triển nguồn nhân lực cho những ngành nghề này, mỗi năm, cả nước cần tối thiểu từ 1.300-1.500 người có trình độ đại học trở lên, 4.000-5.000 cán bộ có trình độ cao đẳng và trung cấp chuyên nghiệp và 6.500-7.500 công nhân kỹ thuật các chuyên ngành chế biến Nông-Lâm-Thuỷ sản. Thực trạng nguồn nhân lực phục vụ cho sự phát triển của nông thôn Việt Nam nói chung và ngành nghề Nông-Lâm-Thuỷ sản vừa thiếu vừa yếu đang là vấn đề nổi cộm, đòi hỏi phải có biện pháp cải thiện. Người có học vấn, kỹ năng giỏi không trở về nông thôn.Các ngành đào tạo về kỹ thuật và công nghiệp chế biến Nông-Lâm-Thuỷ sản đòi hỏi đầu tư kinh phí cao khi xây dựng cơ sở vật chất, trang thiết bị giảng dạy nên chỉ có một số ít trường mở ngành đào tạo, trong khi sinh viên tốt nghiệp khó tìm được việc làm.Do hiệu quả sản xuất nông nghiệp thấp nên phần lớn thanh niên nông thôn không thiết tha với nghề nông. Lao động trẻ có học vấn rời khỏi nông thôn, khao khát tìm kiếm một nghề có thu nhập cao làm cho nhân lực khu vực nông nghiệp, nông thôn ngày càng thiếu hụt. V. Đầu tư theo chiều sâu 1. Đầu tư phát triển theo lĩnh vưc đô thị. Phát triển theo chiều sâu tạm hiểu là sự phát triển về chất , tức là nâng cấp hạ tầng đo thị . Trong khi đó , phát triển đô thị theo chiều sâu lại là giải pháo để tránh , khắc phục và giải quyết các vấn đề hệ quả của sự phình trướng đô thị . Để phát triển đôthị theo chiếu sâu thông thường được tiến hành ở hai quy mô : quy hoach phát triển vùng và quy hoạch thành phố. Quy hoạch phát triển vùngphát triển đô thị theo chiều sâu lại là giải pháp để tránh, khắc phục và/hoặc giải quyết các vấn đề hệ quả của sự phình trướng đô thị. Để phát triển đô thị theo chiều sâu thông thường được tiến hành ở hai quy mô: quy hoạch phát triển vùng và quy hoạch thành phố. Quy hoạch vùng theo chiều sâu có mục đích phát triển đồng đều tất cả các vùng, cả thành thị lẫn nông thôn. Để vạch ra được các đề án quy hoạch này, đòi hỏi phải có những nghiên cứu liên ngành thấu đáo về điều kiện tự nhiên và văn hóa xã hội của các vùng, đặc biệt là những ưu thế của mỗi vùng để phát huy.Chính những ưu thế được phát huy này sẽ tạo ra những đặc thù riêng, hấp dẫn của từng vùng mà lõi của vùng chính là trung tâm đô thị. Quy phát triển thành phố, hay trung tâm đô thị theo chiều sâu chính là quy hoạch phát triển hạ tầng đô thị. Ta hiểu và quy ước có ba loại (cấp) hạ tầng đô thị gồm: hạ tầng vật lý, hạ tầng dịch vụ và hạ tầng xã hội. Hạ tầng vật lý chính là cơ sở vật chất của đô thị, bao gồm toàn bộ các công trình có thể nhìn thấy được. Hạ tầng dịch vụ là hệ thống quản lý khai thác và phân phối hệ thống hạ tầng vật lý sao cho người dân có thể tiếp cận và sử dụng được. Hạ tầng xã hội chính là kết quả đánh giá chất lượng của hai hệ thống hạ tầng trước, gồm một loạt các chỉ số như tuổi thọ trung bình, tỉ lệ trẻ em sống khi sinh, tỉ lệ suy đinh dưỡng, phổ cập giáo dục, tỉ lệ biết chữ, trình độ nhận thức, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế v.v. Như vậy, phát triển đô thị theo chiều sâu chính là quy hoạch xây dựng hệ thống hạ tầng vật lý và thiết lập hệ thống quản lý hạ tầng. Hai yếu tố hạ tầng này cần có phương án phát triển đồng bộ và đồng thời nhằm thu được hiệu quả cao nhất về hạ tầng xã hội. 2. Đối với lĩnh vực công nghiệp Ví dụ như ngành dệt may của việt nam Việt Nam vào danh sách 10 nước xuất khẩu dệt may hàng đầu thế giới, thị trường trong nước vẫn được giữ vững và phát triển. Việt Nam đã chính thức gia nhập WTO và được đối xử bình đẳng như các thành viên khác của tổ chức này. Từ chỗ chỉ được xuất khẩu theo hạn ngạch khi xuất khẩu sang thị trường Hoa Kỳ, bây giờ các doanh nghiệp dệt may có thể xuất khẩu theo năng lực thị trường mà không lo về hạn ngạch. Thuế nhập khẩu dệt may của Việt Nam vào các nước thành viên WTO sẽ theo khung NTR. Doanh nghiệp Việt Nam sẽ có điều kiện thâm nhập mạnh hơn vào thị trường nước ngoài, tăng thêm kim ngạch xuất khẩu. bên cạnh những tịch cực thì việc gia nhạp WTO cungx làm cho các doanh nghiệp dệt may Việt Nam cũng phải đối mặt với nhiều thách thức lớn trong cạnh tranh. Đó là hàng rào bảo hộ hàng sản xuất trong nước đã giảm đến mức tối đa. Thuế nhập khẩu hàng dệt may giảm ngay tức thì từ 11/01/2007, (thuế nhập khẩu hàng may mặc giảm từ 50% xuống còn 20%, vải từ 40% xuống còn 12%). Vì vậy, các nhà sản xuất dệt may trong nước sẽ phải cạnh tranh khôc liệt với các sản phẩm của một số nước cạnh tranh lớn như Trung Quốc, Ấn Độ…, Để tăng trưởng bền vững trong giai đoạn hậu WTO, Việt Nam phải làm tốt các việc sau: Phát triển sản xuất và cung ứng nguyên phụ liệu, tập trung thực hiện chương trình sản xuất 1 tỉ mét vải phục vụ xuất khẩu theo chỉ đạo của Bộ Công thương. Khẩn trương xây dựng 2 Trung tâm Cung ứng Nguyên phụ liệu tại Hà Nội và Tp. Hồ Chí Minh. Thực hiện chiến lược thời trang hoá ngành dệt may Việt Nam, đẩy mạnh họat động thiết kế và sản xuất sản phẩm có giá trị gia tăng cao cùng với việc xây dựng hình ảnh ngành sản xuất dệt may Việt Nam với chất lượng - thời trang  - thân thiện môi trường. Cải thiện một bước đời sống người lao động cùng với việc xây dựng mối quan hệ lao động hài hòa, phối hợp với đại diện người lao động xây dựng thang bảng lương và điều kiện lao động chuẩn trong toàn ngành theo từng khu vực. Tích cực cải thiện mối quan hệ lao động, chấm dứt tình trạng đình công bất hợp pháp trong ngành; thực hiện chương trình đào tạo nguồn nhân lực, đặc biệt chú trọng đến các chuyên gia cấp trung, cao về thị trường, công nghệ và quản trị doanh nghiệp chuyên ngành . Tăng cường hệ thống thông tin chiến lược toàn ngành dệt may để cung cấp kịp thời cho doanh nghiệp và cơ quan quản lý nhà nước. Góp phần tích cực vào việc mở cửa thị trường, chống lại các rào cản thương mại thế giới: xây dựng Hiệp định EPA với Nhật; hạn chế tối đa các tác động tiêu cực do chương trình giám sát chống bán phá giá của Bộ Thương mại Hoa Kỳ gây nên. VI.quan hệ đẩu tư theo chiều rộng và theo chiều sâu Sự thuận lợi và thăng hoa của nển kinh tế Việt Nam trong những năm qua đã nhanh chóng tạo nên sự tăng trưởng nhanh của các doanh nghiệp . Cơ hội đã được giới doanh nhân tận dụng và khai thác tốt, nhiều doanh nghiệp đã phát triển rất nhanh nhiểu thương hiệu lớn đã xuất hiện. Phát biểu tại Diễn đàn Thương mại và Đầu tư Việt Nam sau khi gia nhập WTO, tổ chức ngày 11/1, tại Hà Nội, Phó Thủ tướng Phạm Gia Khiêm một lần nữa khẳng định những thành tựu lo lớn Việt Nam đạt được trong phát triển kinh tế năm qua đã xóa tan mọi lo lắng, hoài nghi về khả năng nền kinh tế Việt Nam liệu có thích nghi được hay không với những thay đổi lớn. Thu hút đầu tư nước ngoài và xuất khẩu là những thành tựu nổi bật nhất sau 1 năm Việt Nam chính thức gia nhập WTO. Năm 2007, Việt Nam đã thu hút trên 20 tỷ USD vốn FDI, bằng cả số vốn của 5 năm trước cộng lại. Kim ngạch xuất khẩu đạt xấp xỉ 48,4 tỷ USD, tăng trên 20% so với năm 2006. Cùng với việc tiếp tục tiến trình cải cách kinh tế-xã hội trong nước, Việt Nam cũng bắt đầu tham gia tích cực vào các hoạt động tại WTO và trong khuôn khổ vòng đàm phán Đôha. Điều quan trọng hơn là Việt Nam đã đem lại giá trị từ lợi ích thương mại trong phát triển kinh tế-xã hội như cải thiện mức sống của người dân, xóa đói giảm nghèo giảm xuống còn rất thấp. Đó là những thành tựu ban đầu rất đáng trân trọng phản ánh nỗ lực của chính phủ cùng với toàn dân thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.Đó củng phản ánh thời điểm thuận lợi của nền kinh tế, đang được sự chú ý của các nhà đầu tư nước ngoài cả về đầu tư tài chính lẫn đầu tư trực tiếp nước ngoài. Chính trong thời điểm ”say sưa” với tốc độ và khối lượng này,đặc biệt đang trong thời điểm nền kinh tế thế giới lâm vào khủng hoảng,và nền kinh tế VN đang bị ảnh hưởng lớn rất cần sự phân tich nghiêm túc và tỉnh táo,chỉ rõ những tiềm năng và vấn đề hiện nay của nền kinh tế nhằm tiếp tục nâng cao năng lực cạnh tranh,hiệu quả tăng trưởng bền vững trong thời gian tới.Trước hết cần khẳng định nền kinh tế nước ta có tiềm năng để đạt được tăng trưởng cao và bền vững,trong khi vừa tiếp tục khai thác các tiềm năng theo chiều rộng (như tăng thêm vốn đầu tư,vật tư ,đất đai,lao động) đồng thời cần xây dựng và phát huy các nhân tố phát triên theo chiều sâu là kho hoc công nghệ,quản lý,tiết kiệm giảm bớt lãng phí nâng cao chất lượng nguồn nhân lực. Nền kinh tế nước ta cũng như bất kỳ nền kinh tế nao khác,không thể tăng trưởng mãi theo chiều rộng bằng cách tăng vô hạn độ vốn đầu tư,đất đai lao động tài nguyên vì các nguồn này đều có giới hạn.Để đạt được tăng trưởng bền vững và phát triển lên các nấc thang cao hơn,nền kinh tế phải vận hành theo các thước đo và chính sách thích hợp để chuyên sang phát triển theo chiều sâu để nâng cao năng suất,hiệu quả,giá trị gia tăng trên mỗi đơn vị tiền vốn,lao động,năng lượng. Muốn vậy phải coi trọng các thước đo về tỷ lệ đổi mới công nghê,đổi mới sản phẩm,đa dạng hóa thị trường,nâng cao năng xuất lao động,giảm chi phí về thời gian và tiền bạc,giảm ô nhiễm môi trường,tỷ lệ tiết kiệm năng lượng,giảm bớt thời gian lãng phí của xã hội như bị kẹt xe,chờ đợi thủ tục….Những thước đo như vậy chua thấy được đưa vào các chỉ tiêu bắt buộc thực hiện,công bố,phân tích và chưa được coi trọng để khuyến khích các doanh nghiệp thực hiện.Khu vư._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc6034.doc
Tài liệu liên quan