Đầu tư trực tiếp nước ngoài vào ngành công nghiệp Việt Nam: thực trạng và giải pháp

Tài liệu Đầu tư trực tiếp nước ngoài vào ngành công nghiệp Việt Nam: thực trạng và giải pháp: ... Ebook Đầu tư trực tiếp nước ngoài vào ngành công nghiệp Việt Nam: thực trạng và giải pháp

doc95 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1343 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Đầu tư trực tiếp nước ngoài vào ngành công nghiệp Việt Nam: thực trạng và giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC LỜI NÓI ĐẦU ................................................................................................. 4 CHƯƠNG I. SỰ CẦN THIẾT PHẢI TĂNG CƯỜNG THU HÚT NGUỒN VỐN ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI PHÁT TRIỂN NGÀNH CÔNG NGHIỆP CỦA VIỆT NAM ............................................................... 7 I. Khái niệm, bản chất và đặc điểm của đầu tư trực tiếp nước ngoài .......... 7 1. Khái niệm và bản chất của đầu tư trực tiếp nước ngoài ...................... 7 2. Đặc điểm của đầu tư trực tiếp nước ngoài ............................................ 8 II. Sự cần thiết phải tăng cường thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài phát triển ngành Công nghiệp Việt Nam ................................................................. 9 1. Đầu tư trực tiếp nước ngoài với quá trình CNH của các nước đang phát triển ...................................................................................................................9 2.Thực trạng ngành Công nghiệp Việt Nam và nhu cầu thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài ................................................................................. ..12 CHƯƠNG II. THỰC TRẠNG ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI VÀO NGÀNH CÔNG NGHIỆP VIỆT NAM ....................................................... ..23 I. Qui mô và cơ cấu đầu tư trực tiếp nước ngoài vào ngành Công nghiệp Việt Nam ...................................................................................................... ..23 1. Qui mô đầu tư trực tiếp nước ngoài vào ngành Công nghiệp .......... ..23 2. Cơ cấu đầu tư trực tiếp nước ngoài vào ngành Công nghiệp .......... ..25 2.1 Cơ cấu theo chuyên ngành ............................................................. ..25 2.2 Cơ cấu theo hình thức đầu tư ......................................................... ..27 2.3 Cơ cấu theo địa bàn ......................................................................... ..28 2.4 Cơ cấu theo đối tác đầu tư .............................................................. 29 II. Tình hình thu hút và sử dụng FDI của một số chuyên ngành Công nghiệp 1. Công nghiệp dầu khí ........................................................................... 31 2. Công nghiệp nặng ............................................................................... 38 3. Công nghiệp nhẹ ................................................................................. 51 4. Công nghiệp thực phẩm ...................................................................... 58 III. Những đóng góp của đầu tư trực tiếp nước ngoài vào sự phát triển của ngành Công nghiệp Việt Nam ...................................................................... 63 IV. Một số tồn tại, hạn chế đối với đầu tư trực tiếp nước ngoài vào ngành Công nghiệp Việt Nam ................................................................................. 69 CHƯƠNG III. MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM TĂNG CƯỜNG THU HÚT FDI VÀO CÔNG NGHIỆP VIỆT NAM TRONG THỜI GIAN TỚI I. Mục tiêu và định hướng phát triển Ngành công nghiệp trong thời gian tới 1. Mục tiêu phát triển ngành Công nghiệp Việt Nam ......................... 76 2. Định hướng phát triển ngành Công nghiệp Việt Nam..................... 76 II. Một số giải pháp nhằm tăng cường thu hút và nâng cao hiệu quả nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào ngành Công nghiệp trong thời gian tới ........................................................................................................................... 78 KẾT LUẬN ................................................................................................... ..92 TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................................... ..94 LỜI NÓI ĐẦU Trước đòi hỏi của thực tiễn phát triển kinh tế-xã hội của đất nước cũng như những chuyển biến của bối cảnh quốc tế, Việt Nam đã tiến hành quá trình CNH, HĐH nhằm thực hiện công cuộc đổi mới một cách toàn diện hơn. Tuy nhiên, do xuất phát điểm của nước ta quá thấp, kém nhiều so với các nước trong khu vực và trên thế giới, chỉ dựa vào nguồn vốn trong nước thì chúng ta không thể thu hẹp khoảng cách trình độ kỹ thuật, công nghệ sản xuất, quản lý kinh doanh và nhất là chất lượng sản phẩm, kỹ năng thâm nhập của hàng hoá nước ta vào thị trường khu vực và thị trường thế giới. Trong điều kiện đó, để tiến hành CNH - HĐH đất nước, đảm bảo duy trì nhịp độ tăng trưởng kinh tế, thu hẹp khoảng cách của nước ta và các nước trong khu vực, việc thu hút đầu tư nước ngoài vào phục vụ chủ trương phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam là hết sức quan trọng. Thực tế cho thấy, trong mấy năm gần đây, dưới sự tác động tích cực của quá trình cải cách môi trường đầu tư và kinh doanh, các biện pháp khuyến khích và hỗ trợ của nhà nước, sự chủ động tích cực và sáng tạo của các doanh nghiệp công nghiệp sản xuất Việt Nam đã đạt được những kết quả nổi bật đóng góp một phần không nhỏ cho quá trình CNH, HĐH của đất nước (tốc độ tăng trưởng bình quân của ngành công nghiệp khá cao (13,9%, tỷ trọng của công nghiệp trong GDP liên tục tăng từ mức 23,5% năm 1996 lên mức 31,9% năm 2001...). Mà đầu tư nước ngoài là một tác nhân quan trọng trong sự tăng trưởng này. Cùng với chủ trương mở cửa của Đảng và Nhà nước, với Luật Đầu tư nước ngoài (1987) đã từng bước tạo ra môi trường hấp dẫn để thu hút ngày càng nhiều vốn đầu tư và làm cho hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Việt Nam ngày một đạt hiệu quả hơn. Ngay từ năm 1998, ngành Công nghiệp đã đặt việc thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài trong chiến lược phát triển của mình. Nguồn vốn đăng ký đầu tư trực tiếp nước ngoài tính đến cuối năm 2002 đạt 22,16 tỷ USD: trong đó thời kỳ 1996-2000 đạt 11,6 tỷ USD, tăng 30% so với 5 năm trước với tỉ trọng vốn trong tổng nguồn vốn ĐTNN không ngừng tăng lên, từ 41,5% giai đoạn 1988-1990, lên 52,7% giai đoạn 1991-1995 và 60,3% giai đoạn 1996- 2002. Vốn thực hiện trong lĩnh vực này cũng đạt tỉ lệ cao nhất so với các lĩnh vực khác và tỉ trọng tăng dần từ 46% thời kì 1998-1990 lên 56% thời kì 1991- 1995 và tăng lên 73% thời kì 1996-2002. Ngoài ra, tỷ trọng về doanh thu, xuất khẩu hay số lao động đều cao hơn so với các ngành khác. Tuy nhiên trong tình hình trong nước và thế giới có nhiều những thuận lợi và khó khăn khiến cho việc thu hút nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào ngành Công nghiệp vẫn còn nhiều hạn chế cần tháo gỡ, giải quyết. Nhận thức được tính cấp thiết của vấn đề, em đã mạnh dạn chọn đề tài khoá luận: “Đầu tư trực tiếp nước ngoài vào ngành công nghiệp Việt Nam: Thực trạng và giải pháp” nhằm mục đích trên cơ sở phân tích lý luận và thực tiễn thực trạng thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) vào ngành công nghiệp của nước ta hơn một thập kỷ qua, rút ra những kết luận cần thiết, đề ra chủ trương và một hệ thống các giải pháp để thu hút và sử dụng hiệu quả hơn nguồn vốn FDI vào ngành công nghiệp Việt Nam trong thời gian tới. Phương pháp nghiên cứu của em là diễn giải - quy nạp: đưa ra những số liệu thống kê của từng lĩnh vực trong ngành Công nghiệp để phân tích, đánh giá, và kết luận. Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, khoá luận gồm 3 chương: Chương I: Sự cần thiết phải tăng tường thu hút nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Ngành Công nghiệp Việt Nam Chương II: Thực trạng đầu tư trực tiếp nước ngoài vào ngành công nghiệp Việt Nam Chương III: Một số giải pháp nhằm tăng cường thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài vào ngành công nghiệp Việt Nam trong thời gian tới Qua bài viết này, em xin được bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến cô giáo Phạm Thị Mai Khanh, giảng viên Khoa Kinh tế Ngoại thương, Trường Đại học Ngoại thương, người đã tận tình chỉ bảo, góp ý chu đáo để em có thể từng bước hoàn thành bài viết của mình. 2003 Hà Nội tháng 5 năm hiện Sinh viên thực Lê Thanh Hương CHƯƠNG I SỰ CẦN THIẾT PHẢI TĂNG CƯỜNG THU HÚT NGUỒN VỐN ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI VÀO QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN NGÀNH CÔNG NGHIỆP VIỆT NAM I. KHÁI NIỆM, BẢN CHẤT VÀ ĐẶC ĐIỂM CỦA ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI 1. Khái niệm và bản chất đầu tư trực tiếp nước ngoài Đầu tư trực tiếp nước ngoài (Foreign Direct Investment - FDI) là hình thức đầu tư quốc tế chủ yếu mà chủ đầu tư nước ngoài đầu tư toàn bộ hay phần đủ lớn vốn đầu tư vào các dự án, cho phép họ trực tiếp tham gia điều hành các doanh nghiệp sản xuất hoặc kinh doanh dịch vụ, thương mại. Sự ra đời và phát triển của nó là kết quả tất yếu của quá trình quốc tế hoá và phân công lao động quốc tế. Trên thực tế có nhiều cách nhìn nhận khác nhau về đầu tư trực tiếp nước ngoài. Nhìn chung đầu tư trực tiếp nước ngoài được xem xét như một hoạt động kinh doanh ở đó có yếu tố di chuyển vốn quốc tế và kèm theo sự di chuyển vốn là chuyển giao công nghệ, kỹ năng quản lý và các ảnh hưởng kinh tế xã hội khác đối với nước nhận đầu tư. Theo Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt nam, đầu tư trực tiếp nước ngoài có thể được hiểu như là việc các tổ chức, các cá nhân nước ngoài trực tiếp đưa vào Việt Nam vốn bằng tiền hoặc bất cứ tài sản nào được Chính phủ Việt Nam chấp nhận để hợp tác với bên Việt Nam hoặc tự mình tổ chức các hoạt động sản xuất kinh doanh trên lãnh thổ Việt Nam. Dưới góc độ kinh tế có thể hiểu đầu tư trực tiếp nước ngoài là hình thức di chuyển vốn quốc tế trong đó người sở hữu đồng thời trực tiếp tham gia điều hành và quản lý hoạt động sử dụng vốn đầu tư. Về bản chất, đầu tư trực tiếp nước ngoài là hình thức xuất khẩu tư bản, một hình thức cao hơn của xuất khẩu hàng hoá. Đây là hai hình thức xuất khẩu luôn bổ sung và hỗ trợ nhau trong chiến lược thâm nhập chiếm lĩnh thị trường của các công ty, tập đoàn nước ngoài hiện nay. Tiền đề của việc xuất khẩu tư bản là “tư bản thừa” xuất hiện trong các nước tiên tiến. Nhưng thực chất của vấn đề đó là một hiện tượng kinh tế mang tính tất yếu khách quan, khi mà quá trình tích tụ và tập trung đã đạt đến một mức độ nhất định sẽ xuất hiện nhu cầu đầu tư ra nước ngoài. Đó chính là quá trình phát triển của sức sản xuất xã hội, đến độ đã vượt ra khỏi khuôn khổ chật hẹp của một quốc gia, hình thành nên quy mô sản xuất trên phạm vi quốc tế. 2. Đặc điểm của đầu tư trực tiếp nước ngoài - Đây là hình thức đầu tư bằng vốn của tư nhân do các chủ đầu tư tự quyết định đầu tư, quyết định sản xuất kinh doanh và tự chịu trách nhiệm về lỗ lãi. Hình thức này mang tính khả thi và hiệu quả kinh tế cao, không có những ràng buộc về chính trị, không để lại gánh nặng cho nền kinh tế. - Chủ đầu tư nước ngoài điều hành toàn bộ mọi hoạt động đầu tư nếu là doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài hoặc tham gia điều hành doanh nghiệp liên doanh tuỳ theo tỷ lệ vốn góp của mình. Đối với nhiều nước trong khu vực, chủ đầu tư chỉ được thành lập doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài trong một số lĩnh vực nhất định và chỉ được tham gia liên doanh với số vốn cổ phần của bên nước ngoài nhỏ hơn hoặc bằng 49%; 51% còn lại do nước chủ nhà nắm giữ. Trong khi đó Luật đầu tư nước ngoài của Việt Nam cho phép rộng rãi hơn đối với hình thức 100% vốn nước ngoài và quy định bên nước nước ngoài phải góp tối thiểu 30% vốn pháp định của dự án. - Thông qua đầu tư trực tiếp nước ngoài, nước chủ nhà có thể tiếp nhận được công nghệ, kĩ thuật tiên tiến, học hỏi kinh nghiệm quản lý,... là những mục tiêu mà các hình thức đầu tư khác không giải quyết được. - Nguồn vốn đầu tư này không chỉ bao gồm vốn đầu tư ban đầu của chủ đầu tư dưới hình thức vốn pháp định và trong quá trình hoạt động, nó còn bao gồm cả vốn vay của doanh nghiệp để triển khai hoặc mở rộng dự án cũng như vốn đầu tư từ nguồn lợi nhuận thu được. II. SỰ CẦN THIẾT PHẢI TĂNG CƯỜNG THU HÚT ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI VÀO QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN NGÀNH CÔNG NGHIỆP VIỆT NAM Để làm rõ hơn vai trò của nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đối với quá trình CNH, HĐH của Việt Nam nói chung và Ngành Công nghiệp nói riêng, dưới đây xin dành riêng một mục đề cập đến vai trò của đầu tư trực tiếp nước ngoài ở các nước đang phát triển trong bối cảnh hiện nay. 1. Đầu tư trực tiếp nước ngoài với quá trình CNH của các nước đang phát triển Có nhiều yếu tố có thể ảnh hưởng đến mức độ thành công khi thực hiện CNH của các nước đang phát triển trong bối cảnh hiện nay. Tuy nhiên, trong số đó có bốn yếu tố cơ bản nhất được xem là điều kiện quyết định khả năng thực hiện CNH của các nước đang phát triển là vốn; công nghệ; kỹ thuật; nguồn nhân lực; cải cách thể chế (thị trường, hội nhập...). Đầu tư trực tiếp nước ngoài là loại hình hoạt động kinh tế hội tụ tương đối đầy đủ tiềm năng của bốn yếu tố trên. Có thể lý giải tiềm năng đó như sau: Lịch sử phát triển của đầu tư trực tiếp nước ngoài cho thấy thái độ của các nước tiếp nhận đầu tư là từ thái độ phản đối (xem đầu tư trực tiếp là công cụ cướp bóc đối với thuộc địa), đến thái độ buộc phải chấp nhận, đến thái độ hoan nghênh...Trong điều kiện thế giới hiện nay đầu tư trực tiếp được mời chào, khuyến khích mãnh liệt. Trên thực tế đang diễn ra trào lưu cạnh tranh quyết liệt trong việc thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài. Mặc dù, hiện còn nhiều tranh luận, còn những ý kiến khác nhau về vai trò, về mặt tích cực, tiêu cực...của đầu tư trực tiếp nước ngoài đối với nước tiếp nhận đầu tư, nhưng chỉ điểm qua nhu cầu, qua trào lưu cạnh tranh thu hút cũng đủ cho ta khẳng định rằng đầu tư trực tiếp nước ngoài hiện nay, đối với các nước nhận đầu tư, có tác dụng tích cực là chủ yếu, đa phần các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài khi thực hiện đều đưa lại lợi ích cho nước nhận đầu tư. Đối với nhiều nước, đầu tư trực tiếp nước ngoài thực sự đóng vao trò là điều kiện, là cơ hội, là cửa ngõ giúp thoát khỏi tình trạng của một nước nghèo, bước vào quỹ đạo của sự phát triển và thực hiện công nghiệp hoá. Vậy xuất phát từ những kỳ vọng nào mà hầu hết các nước đang phát triển lại có nhu cầu lớn về đầu tư trực tiếp nước ngoài như vậy? Thứ nhất, đầu tư trực tiếp nước ngoài có khả năng giải quyết có hiệu quả những khó khăn về vốn cho công nghiệp hoá. Đối với các nước nghèo, vốn được xem là yếu tố cơ bản, là điều kiện khởi đầu quan trọng để thoát khỏi đói nghèo và phát triển kinh tế. Thế nhưng, đã là nước nghèo thì khả năng tích luỹ vốn hay huy động vốn trong nước để tập trung cho các mục tiêu cần ưu tiên là rất khó khăn, thị trường vốn trong nước lại chưa phát triển. Trong điều kiện của thời kỳ đầu tiến hành công nghiệp hoá, nhìn chung các nước đang phát triển đều gặp rất hiều khó khăn: mức sống thấp, khả năng tích luỹ kém, cơ sở hạ tầng chưa phát triển, công nghệ kỹ thuật lạc hậu, mức đầu tư thấp nên kém hiệu quả, ít có điều kiện để xâm nhập, mở rộng hợp tác kinh tế quốc tế, thiếu khả năng tiếp cận với khoa học kỹ thuật tiên tiến của thế giới...Giải pháp của các nước đang phát triển lúc này là tìm đến với các nguồn đầu tư quốc tế. Trước khi tiến hành đầu tư các nhà đầu tư nước ngoài thường có sẵn một số điều kiện cơ bản như vốn, kỹ thuật, kinh nghiệm quản lý, khả năng thị trường...tức là nhà đầu tư đã dự báo được phần nào hiệu quả có thể thu được đồng vốn đầu tư. Hay nói cách khác, các nhà đầu tư chỉ xin phép triển khai dự án khi họ tính toán thấy độ rủi ro ít và khả năng thu lợi cao. Đây là điểm ưu thế hơn hẳn của loại vốn đầu tư trực tiếp so với các loại vốn vay khác. Thứ hai, thông qua các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài, nước tiếp nhận đầu tư có thể tiếp nhận được những kỹ thuật mới, những công nghệ tiến tiến, góp phần cải thiện đáng kể cơ sở hạ tầng, phát triển công nghiệp nói riêng và phát triển kinh tế nói chung. Đồng thời, tạo ra các điều kiện kinh tế-kỹ thuật cho việc thực hiện cuộc cải biến cơ cấu kinh tế theo hướng giảm tỷ trọng nông nghiệp, tăng tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ...Để thực hiện một số dự án đầu tư có hiệu quả (khả năng sinh lời lớn, thu hồi vốn nhanh) nhiều nhà đầu tư đã chọn một số lĩnh vực xây dựng cơ sở hạ tầng như viễn thông, tin học công nghiệp...như là điều kiện cho việc thực hiện các dự án đầu tư của mình. Bên cạnh đó, chính phủ các nước nhận đầu tư cũng thường có nhiều chính sách ưu đãi, khuyến khích các nhà đầu tư bỏ vốn đầu tư vào một số lĩnh vực của công nghiệp, cơ sở hạ tầng quan trọng hy vọng thúc đẩy nhanh sự phát triển của các lĩnh vực này. Như vậy đầu tư trực tiếp nước ngoài tạo ra điều kiện để góp phần cải thiện đáng kể cơ sở hạ tầng của những nước nhận đầu tư. Thứ ba, các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài có thể thu hút một lượng lớn lao động trực tiếp và tạo ra nhiều việc làm cho các dịch vụ tương ứng. Thông qua việc thực hiện các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài có thể làm cho đội ngũ cán bộ của nước nhận đầu tư qua việc tham gia vào hoạt động của liên doanh mà trưởng thành hơn về năng lực quản lý phù hợp với nền sản xuất hiện đại; hình thành một lực lượng công nhân kỹ thuật hành nghề; tăng nguồn thu cho ngân sách. Thứ tư, đầu tư trực tiếp nước ngoài có các điều kiện cần thiết cho việc tạo lập một hệ thống thị trường phù hợp với yêu cầu của một nền sản xuất công nghiệp hoá, tiếp cận và mở rộng được thị trường mới; tăng cường quan hệ hợp tác kinh tế quốc tế v.v...Hình thành được các khu chế xuất, khu công nghiệp chủ lực; tạo ra các điều kiện cơ bản cho tiến trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá của mỗi nước, đặc biệt đối với các nước đang phát triển. Như vậy, đầu tư trực tiếp nước ngoài đối với các nước đang phát triển đóng vai trò như một cửa ngõ giúp các nước này thoát khỏi những khó khăn về điều kiện kinh tế-xã hội, đưa các nước đang phát triển bước vào quỹ đạo của sự phát triển và của quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Nền kinh tế Việt Nam cũng đang từng bước phát triển, trong đó ngành Công nghiệp Việt Nam đóng một vai trò không nhỏ, vậy thực trạng ngành Công nghiệp Việt Nam trước nhu cầu thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài ra sao sẽ được đề cập đến trong phần sau. 2. Thực trạng Ngành Công nghiệp Việt Nam hiện nay và nhu cầu thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài Trong giai đoạn 1996-2001, tổng giá trị sản lượng công nghiệp đạt khoảng 997 ngàn tỷ đồng và có tốc độ tăng trưởng bình quân 13,9%/năm. Trong thời gian đầu, do môi trường kinh tế trong nước và quốc tế có nhiều thuận lợi nên mức tăng trưởng giá trị sản xuất công nghiệp đạt cao: 14,2% vào năm 1996 và 13,8% vào năm 1997. Tuy nhiên, bắt đầu từ năm 1998, do ảnh hưởng của khủng hoảng tài chính tiền tệ khu vực, làm cho thị trường xuất khẩu bị thu hẹp, trong khi đó nhu cầu thị trường trong nước tăng chậm, nên tốc độ tăng trưởng giá trị sản xuất công nghiệp chỉ đạt 12,5% vào năm 1998 và 11,6% vào năm 1999. Từ năm 2000 đến nay, tình hình kinh tế trong nước và khu vực đã có nhiều chuyển biến tích cực và dần thoát ra khỏi cuộc khủng hoảng; đồng thời với những cải cách mạnh mẽ về môi trường kinh doanh, đầu tư trong nước và tác động của các biện pháp kích cầu, nên phát triển công nghiệp đã bắt đầu phục hồi trở lại, đạt được tốc độ tăng trưởng cao.Trong giai đoạn 1996-2001, các thành phần kinh tế hoạt động trong công nghiệp đều tăng trưởng khá, song khu vực công ngiệp quốc doanh tăng thấp hơn so với khu công nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và công nghiệp ngoài quốc doanh. Tuy nhiên, kể từ năm 2000, xu hướng tăng trưởng công nghiệp theo các thành phần kinh tế đã có sự thay đổi: khu vực công nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài bắt đầu giảm dần trong khi đó khu vực công nghiệp trong nước bắt đầu tăng dần. Có một số lý do như sau: Do vốn đầu tư nước ngoài là từ các nước châu Á nên mặc dù Việt Nam không nằm trong tâm cơn bão tài chính tiền tệ khu vực, nhưng cuộc khủng hoảng này đã giáng một đòn mạnh vào đầu tư nước ngoài của Việt Nam. Do cuộc khủng hoảng này, các công ty, tập đoàn quốc tế rơi vào tình trạng khó khăn về tài chính nên họ đã rút vốn đầu tư ra khỏi các nước được đầu tư trong đó có Việt Nam. Tình hình cạnh tranh thu hút vốn đầu tư nước ngoài trên thế giới và trong khu vực đang ngày càng trở nên rất gay gắt. Cộng đồng quốc tế đánh giá môi trường đầu tư của Việt Nam còn chưa hấp dẫn, có nhiều rủi ro, chi phí đầu tư cao, hệ thống tài chính ngân hàng chưa hoàn thiện, sức mua của thị trường Việt Nam còn chưa cao, chưa tương xứng với một nước có 80 triệu dân.. Đồ thị 1: Tốc độ tăng giá trị sản xuất công nghiệp theo thành phần kinh tế 30 25 20 Tèc ®é (%) 15 10 5 0 1996 1997 1998 1999 2000 2001 9th¸ng2002 Tæng sè(%) Quèc doanh(%) Ngoμi quèc doanh(%) §Çu t− n−íc ngoμi(%) ( Nguồn: Nghiên cứu kinh tế số 294, tháng 11/ 2002) Mặc dù phát triển công nghiệp trong thời gian qua đạt nhiều kết quả tích cực: tỷ trọng công nghiệp trong GDP tiếp tục thay đổi theo hướng tăng dần, đã tăng lên đáng kể từ mức 23,2% năm 1996 lên mức 31,9% năm 2001, góp phần quan trọng vào tăng trưởng chung của nền kinh tế; Cơ cấu công nghiệp dịch chuyển mạnh từ nền công nghiệp hướng nội, thay thế nhập khẩu sang nền công nghiệp hướng ngoại, định hướng xuất khẩu song trước yêu cầu đòi hỏi của quá trình hội nhập kinh tế quốc tế đã đến gần và thực tế phát triển công nghiệp những năm qua cũng đã đặt ra nhiều vấn đề: * Hiệu quả sản xuất công nghiệp giảm Phát triển công nghiệp trong thời gian qua chủ yếu mới chỉ là phát triển theo chiều rộng, gia công, lắp ráp là chủ yếu, chưa chú trọng đầu tư và phát triển công nghiệp theo chiều sâu, nâng tỷ trọng chế biến sâu, đảm bảo cung cấp nguyên nhiên vật liệu đầu vào và dịch vụ hạ tầng hợp lý nên hiệu quả sản xuất công nghiệp chưa ổn định và thiếu vững chắc. Phần lớn các sản phẩm công nghiệp có sức cạnh tranh kém trên thị trường. Mức chênh lệch giữa tốc độ tăng giá trị sản xuất công nghiệp và tốc độ tăng giá trị gia tăng công nghiệp có xu hướng doãng rộng ra. Sự tăng trưởng của nhiều ngành công nghiệp như: chế biến thực phẩm và đồ uống, dệt, may, da giày, sản phẩm thép và kim loại mầu, máy móc thiết bị cơ khí, sản phẩm thiết bị điện, hoá chất, phân bón, lốp ô tô, ô tô, xe máy, giấy, hàng điện tử, sản phẩm nhựa...chủ yếu phụ thuộc vào nguồn nguyên liệu, bán thành phẩm nhập khẩu có giá thành cao và luôn có xu hướng tăng trong những năm qua. Nguồn nguyên liệu sản xuất trong nước chưa đáp ứng nhu cầu của nhiều ngành công nghiệp chế biến như: nguyên liệu nhựa sản xuất trong nước mới đáp ứng được 10% nhu cầu; khoảng 20%-30% vải sản xuất trong nước đáp ứng đủ yêu cầu may mặc xuất khẩu; nguyên phụ liệu giầy- da sản xuất trong nước chỉ chiếm 25-30% nhu cầu; phần lớn cácloại nguyên liệu chính phục vụ sản xuất các sản phẩm kỹ thuật điện phải nhập khẩu; sản xuất phôi thép trong nước chỉ đáp ứng khoảng 20% nhu cầu...Điều này làm hạn chế khả năng tăng giá trị nội địa sản xuất công nghiệp và góp phần làm cho hiệu quả sản xuất công nghiệp giảm. * Trình độ công nghệ trang thiết bị lạc hậu Thực trạng công nghệ trong một số ngành công nghiệp hiện đanglà một vấn đề đáng lo ngại hạn chế năng suất lao động và chất lượng sản phẩm. Cụ thể là: trình độ công nghệ và thiết bị của ngành điện tử thấp hơn so với các nước trong khu vực khoảng từ 15-20 năm. Phần lớn các thiết bị công nghệ của ngành cơ khí đã qua sử dụng trên 20 năm, lạc hậu về kỹ thuật, độ chính xác kém, quy mô sản xuất khép kín, thiếu sự chuyên môn hoá. Công nghệ và thiết bị sản xuất động cơ diezel chủ yếu được đầu tư từ những năm 60 và 70 và có tỷ lệ đầu tư đổi mới rất hạn chế. Khoảng 30% sản lượng clinker được tạo ra từ những nhà máy có công nghệ cũ kỹ và lạc hậu và trình độ công nghệ sản xuất ở hầu hết các cơ sở nghiền xi măng đầu ở mức dưới trung bình. Phần lớn thiết bị công nghệ sản xuất giấy in báo, giấy bao bì lạc hậu từ 3-5 thập kỷ, sản xuất giấy in, viết đã qua sử dụng trên 20 năm. Công nghệ lạc hậu được đầu tư từ vài chục năm trước với qui mô nhỏ trong ngành thép chiếm khoảng 53% sản lượng toàn ngành, công nghệ tiến tiến chiếm khoảng 31%. Trình độ công nghệ và thiết bị sản xuất các loại hoá chất cơ bản hiện tại rất lạc hậu và có quy mô sản xuất nhỏ từ vài trăm tấn/ năm đến tối đa từ vài chục ngàn tấn/ năm trong khi đó quy mô sản xuất của các nước trong khu vực đã đạt được từ hàng chục ngàn tấn/năm đến hàng trăm ngàn tấn/ năm. Máy móc và công nghệ sản xuất phân bón hầu hết là lạc hậu, đã sử dụng trên 25-30 năm (trừ công nghệ sản xuất xút, sản phẩm cao su, ắc quy, pin, chất tẩy rửa, hoá mỹ phẩm trong những năm qua đã được tiến hành đầu tư đổi mới và áp dụng công nghệ mới loại trung bình tiên tiến). Các nhà máy sợi dệt-nhuộm trong ngành dệt may mới thay thế được khoảng 30% công nghệ-thiết bị hiện đại, còn lại khoảng 70% công nghệ-thiết bị đã sử dụng trên 20 năm và hầu như đã hết khấu hao. Ngoài ra, vấn đề chuyển giao công nghệ còn nhiều hạn chế. Kết quả khảo sát gần đây ở 90 doanh nghiệp công nghiệp với 147 công nghệ được chuyển giao cho thấy, chất lượng và hiệu quả chuyển giao công nghệ còn hạn cế do thiếu sự lựa chọn công nghệ tối ưu, trình độ công nghệ chưa phù hợp và đặc biệt là giá trị chuyển giao phần mềm về bí quyết công nghệ còn rất thấp (tỉ lệ phần mềm chỉ chiếm 17%, đầu tư trang thiết bị 83%). Do đó, nhìn chung khả năng vận hành công nghệ mới còn nhiều hạn chế; trình độ hiểu biết và kỹ năng thực hành của đội ngữ kỹ sư, cán bộ kỹ thụat và công nhân vận hành còn yếu kém; hiệu suất sử dụng thực tế chỉ đạt tối đa 70-80% công suất, nhiều dây chuyền thiết bị đã qua sử dụng có ứng dụng công nghệ tự động điều khiển trong ngành dệt nhưng chỉ đạt hiệu suất sử dụng 50-60%. Có thể đánh giá chung trình độ công nghệ và trang thiết bị sản xuất của ngành công nghiệp nước ta ở mức trung bình yếu (không kể các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài) so với các nước công nghiệp phát triển là lạc hậu từ 2 đến 3 thế hệ: tỷ lệ trang thiết bị cũ, công nghệ lạc hậu và trung bình chiếm 60-70%, công nghệ tiến tiến và hiện đại khoảng 30-40%. Điều này là một trong những nguyên nhân chính làm giảm đáng kể năng suất và sức cạnh tranh của các sản phẩm công nghiệp khi hội nhập. * Chất lượng và năng suất lao động công nghiệp thấp Lao động công nghiệp hiện còn chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng số lực lượng lao động của cả nước. Trình độ lao động, trình độ nghề nghiệp trong ngành công nghiệp chưa thể đáp ứng được yêu cầu và đòi hỏi của quá trình phát triển công nghiệp trong thời gian tới và là một trong những nguyên nhân quan trọng làm hạn chế khả năng đổi mới công nghệ, quy trình sản xuất và quản lý ở các doanh nghiệp. Hiện có khoảng 73% của lực lượng lao động công nghiệp không có trình độ chuyên môn kỹ thuật. Tỷ lệ này cao nhất trong ngành công nghiệp khai thác (80%) và thấp nhất trong ngành sản xuất và phân phối điện, khí đốt và nước (41%). Ngoài ra, tỷ lệ đào tạo công nhân, kỹ thuật viên và kỹ sư chưa phù hợp. Tỷ lệ đại học/ trung cấp/ công nhân kỹ thuật là 1/0,83/4,7 trong khi của thế giới tỷ lệ đại học/ trung cấp/ công nhân kỹ thuật là 1/2,5/3,5. Công tác đào tạo và đào tạo lại lực lượng cán bộ, công nhân kỹ thuật chưa được quan tâm đúng mức, hợp tác đào tạo giữa doanh nghiệp với các cơ sở đào tạo trường học chưa có hiệu quả dẫn đến tình trạng thừa lao động giản đơn, thiếu lao động kỹ thuật; chất lượng lao động thấp, lạc hậu, bỡ ngỡ trước kỹ thuật, quản lý và công nghệ mới. Do trình độ công nghệ và trang bị lạc hậu cùng với trình độ lao động hạn chế nên năng suất lao động công nghiệp và chất lượng sản phẩm công nghiệp không cao. Năng suất lao động trung bình trong ngành công nghiệp tính theo giá trị gia tăng công nghiệp của Việt Nam năm 2001 thấp hơn so với các nước ASEAN khác như: Indonexia 2,5 lần; Philippines 5 lần; Thái Lan 3,8; Singapore 7,3; Singapore 22,8 lần. * Đầu tư cho công nghiệp chưa được quan tâm đúng mức và hiệu quả thấp Tỷ trọng đầu tư cho công nghiệp mặc dù chiếm khoảng 40% tổng vốn đầu tư toàn xã hội, song tổng vốn đầu tư cho công nghiệp chưa đủ để cơ cấu lại ngành. Cơ cấu đầu tư của các ngành công nghiệp cũng như tỷ trọng vốn tham gia của các thành phần kinh tế chưa thực sự hướng tới một nền kinh tế thị trường hoà nhập và cạnh tranh quyết liệt. Nhiều ngành, nhiều lĩnh vực công nghiệp có vai trò và tác động lớn như cơ khí chế tạo máy móc và thiết bị, công nghiệp nguyên liệu...chưa được quan tâm đầu tư đúng mức. Trong khi đó có những chương trình đầu tư lớn trong ngành xi măng, thép không mang lại kết quả như mong muốn. Từ những phân tích trên có thể nói công nghiệp nước ta tăng trưởng nhanh nhưng hiệu quả không cao, xu hướng diễn ra là giá trị sản xuất ngày càng tăng, nhưng tỷ lệ giá trị tăng thêm trong giá trị sản xuất ngày càng giảm, nếu trước đây tỷ lệ giá trị tăng thêm khoảng trên dưới 38% thì những năm gần đây giảm dần còn 32% và nay chỉ còn 30-31%. Nghĩa là chi phí trung gian tăng dần từ 67% lên 69-70%. Nguyên nhân chính là các ngành gia công lắp ráp tăng nhanh cả về chiều rộng lẫn chiều sâu như: lắp ráp ô tô, xe máy, thiết bị gia đình, hàng điện tử, gia công kim loại và phụ kiện. Trong khi đó các ngành có tỷ lệ giá trị tăng thêm lớn lại giảm đi như: khai thác dầu khí, phân bón, hoá chất... Tất cả những yếu kém trên là nhân tố tiềm ẩn luôn tạo ra khả năng mất ổn định, làm giảm tính cạnh tranh và không vững chắc của công nghiệp nước ta. Biết được những nhân tố bất lợi để khắc phục, đồng thời tranh thủ khai thác triệt để các điều kiện thuận lợi đang có, đó là tình hình chính trị ổn định, đường lối phát triển kinh tế đúng đắn, những ưu đãi về chính sách đầu tư, đặc biệt là việc thu hút nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài sẽ mở ra cơ hội phát triển cho ngành công nghiệp cũ và mới trong những năm tới. Theo dự đoán của các chuyên gia, nhịp độ tăng trưởng công nghiệp của nước ta dự tính trong những năm tới có khả năng đạt từ 14-16%và năm 2003 với mục tiêu 14-14,5% là khả thi. Riêng khu vực có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vẫn là khu vực có tốc độ tăng trưởng cao từ 16-20%. Để đạt kế hoạch tăng trưởng trên, các chuyên gia đầu tư ước tính năm 2003 cần khoảng 369,6 nghìn tỷ đồng vốn đầu tư cho các ngành công nghiệp. Mà nguồn vốn huy động từ nguồn vốn công cộng chỉ đáp ứng khoảng 53% nhu cầu, vậy gánh nặng sẽ trông chờ nhiều vào các nguồn vốn đầu tư nước ngoài (47% tương đương khoảng 173,712 nghìn tỷ đồng). (Nguồn: Báo Đầu tư số 11 ra ngày 5/3/2003). Các doanh nghiệp FDI vào ngành Công nghiệp tuy mới hoạt động trên thị trường Việt Nam nhưng đã thể hiện được sức mạnh của mình. Với những ưu thế về kỹ thuật, công nghệ, khả năng dồi dào về vốn, có kinh nghiệm hoạt động lâu năm trong nền kinh tế thị trường và lĩnh hội được các bí quyết kinh doanh từ các công ty mẹ. Các doanh nghiệp FDI thường có quy mô lớn, trình độ trang bị kỹ thuật hiện đại, khả năng quản lý và điều hành tốt hơn các doanh nghiệp trong nước. Tiền lương trả cho người lao động tại các doanh nghiệp FDI cao hơn hẳn các doanh nghiệp trong nước, góp phần tăng thu nhập cho người lao động. Việc trả lương cao ở các doanh nghiệp FDI như một nam châm vô hình thu hút dần các bàn tay khéo léo và trí tuệ người Việt Nam vào làm việc. Tính đến cuối năm 1996, lương bình quân một lao động trong các doanh nghiệp FDI là 91 USD/ tháng, tương đương với khoảng một triệu đồng Việt Nam. Bên cạnh mục đích các nhà đầu t._.ư nước ngoài vào Việt Nam để tìm kiếm thị trường tiêu thụ sản phẩm thì phần lớn các doanh nghiệp vào Việt Nam để sử dụng lao động với giá rẻ hoặc sử dụng nguồn nguyên liệu tại chỗ nhằm chế biến cho xuất khẩu. Một khối lượng lớn sản phẩm của Việt Nam được xuất khẩu ra thị trường quốc tế bởi các doanh nghiệp FDI, trong đó phần lớn là các doanh nghiệp liên doanh, đem lại nguồn ngoại tệ đáng kể, góp phần mở rộng giao lưu thương mại quốc tế. Tính đến cuối năm 1996, kim ngạch xuất khẩu của các doanh nghiệp FDI là 792 tr. USD, chiếm 33% tổng kim ngạch xuất khẩu cả nước. Theo số liệu thống kê, giá trị sản lượng toàn ngành công nghiệp năm 1999 đạt trên 116 nghìn tỷ đồng, tăng 10,3% so với năm 1998. Trong đó, khu vực doanh nghiệp Nhà nước chiếm tỷ trọng 43,48% toàn ngành, tăng 4,52% (các doanh nghiệp trực thuộc Bộ Công nghiệp tăng 6,02%). Khu vực doanh nghiệp ngoài quốc doanh chiếm tỷ trọng 21,7%, tăng 8,8%. Đặc biệt, khu vực có vốn đầu tư nước ngoài chiếm tỷ trọng 34,75%, tăng khoảng 20%. Giá trị sản lượng toàn ngành công nghiệp nửa đầu năm 2000 đạt 100.586 tỷ đồng, bằng 54,3% kế hoạch năm và tăng 14,7% so với cùng kỳ năm trước. Đây là tốc độ tăng cao nhất kể từ năm 1996 (tăng 13,2%), năm 1997 (tăng 13,6%), năm 1998 (tăng 12,6%) và năm 1999 (tăng 10,3%). Trong đó: khu vực doanh nghiệp nhà nước Trung ương tăng 10,8% (các doanh nghiệp thuộc Bộ Công nghiệp tăng 14,4%), khu vực doanh nghiệp nhà nước địa phương tăng 14,6%, khu vực ngoài quốc doanh tăng 18,5% và khu vực có vốn đầu tư nước ngoài tăng 15,7%. Nhận thức được vai trò của FDI và tính tất yếu của việc mở cửa thu hút các nguồn lực bên ngoài, ngành Công nghiệp Việt Nam đã đề ra một số định hướng thu hút, sử dụng nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài: + Khuyến khích đầu tư vào các dự án phát triển sản xuất, chuyển dịch cơ cấu xuất khẩu theo hướng tăng mạnh những sản phẩm công nghệ chế biến, giảm dần xuất khẩu sản phẩm thô, phát huy nhiều lợi thế so sánh của đất nước. Những ưu đãi nhằm khuyến khích đầu tư đối với các dự án này bao gồm: - Dự án xuất khẩu ít nhất 50% sản phẩm được hưởng mức thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp ưu đãi là 20% trong thời gian 10 năm, được miễn thuế lợi tức trong thời gian 1 năm kể từ năm kinh doanh có lãi, giảm 50% trong thời gian tối đa 2 năm tiếp theo. (Điều 46, 48 khoản 1- Luật ĐTNN tại Việt Nam -2000) - Dự án xuất khẩu ít nhất 80% sản phẩm được hưởng mức thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp ưu đãi là 15% trong thời gian 12 năm, được miễn giảm thuế lợi tức 2 năm kể từ năm kinh doanh có lãi, giảm 50% trong tối đã 3 năm tiếp theo. (Điều 46, khoản 2, Điều 48 khoản 2 Luật ĐTNN tại Việt Nam-2000) - Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài có tỷ lệ xuất khẩu ít nhất 50%, đáp ứng được các điều kiện quy định, được phép thành lập kho bảo thuế (Manufacturing Bonded Warehouse) đối với hàng hoá là nguyên liệu, vật tư nhập khẩu phục vụ cho sản xuất hàng xuất khẩu. Hàng hoá đưa vào kho bảo thuế chưa thuộc diện chịu thuế nhập khẩu. - Các dự án có tỷ lệ xuất khẩu cao hoặc xuất khẩu toàn bộ sản phẩm được lựa chọn hình thức đầu tư thích hợp, kể cả hình thức doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài. Ngoài ra, còn ban hành những giải pháp đồng bộ về thuế suất nhập khẩu chi tiết phụ tùng nhằm khuyến khích mạnh sản xuất hướng vào xuất khẩu. + Chú trọng những ngành, lĩnh vực có công nghệ hiện đại, công nghệ cao (tin học, vật liệu mới, tự động hoá, dầu khí,...) - Doanh nghiệp có vốn ĐTNN có dự án đầu tư vào các lĩnh vực ứng dụng và phát triển công nghệ cao, dịch vụ khoa học và công nghệ được áp dụng thuế suất, thuế thu nhập doanh nghiệp 20% trong thời hạn 10 năm kể từ khi hoạt động. (Điều 46, khoản 4/ Luật ĐTNN tại Việt Nam-2000) - Doanh nghiệp có đầu tư vào các hoạt động khoa học và công nghệ, nếu sử dụng được giao đất thuê để xây dựng cơ sở nghiên cứu khoa học và công nghệ, thì đối với phần đất này doanh nghiệp được hưởng ưu đãi về tiền sử dụng đất, tiền thuê đất và diện tích sử dụng đất. + Tạo điều kiện thu hút đầu tư nước ngoài vào các khu công nghiệp, khu chế xuất: - Đối với các KCN, KCX, các nhà đầu tư nước ngoài được khuyến khích đầu tư với chính sách ưu đãi tiền thuê đất, miễn giảm thuế, giảm giá nhiều loại dịch vụ. - Hỗ trợ về vốn tín dụng đầu tư, đào tạo nguồn nhân lực cung cấp miễn phí thông tin trong quá trình khảo sát, lập dự án đầu tư, cung cấp điện nước đến tận hàng rào dự án. Hỗ trợ kinh phí đền bù giải phóng mặt bằng kể cả “chính sách” chi hoa hồng phí và tiền thưởng cao nhất cho người giới thiệu đầu tư. + Tiếp tục thu hút ĐTNN trong các lĩnh vực quan trọng: tìm kiếm, thăm dò, và khai thác dầu khí và phát triển các cơ sở công nghiệp hạ nguồn dầu khí. Thăm dò khai thác tài nguyên khoáng sản Việt Nam; đầu tư sản xuất phôi thép, hoàn nguyên quặng, cán thép lá, thép hợp kim, thép hình,... + Tập trung khuyến khích các dự án sản xuất linh kiện, phụ tùng lốp ô tô, xe máy; sản xuất lắp ráp thiết bị xe máy, thiết bị kỹ thuật cho ngành vận tải và cho các ngành công nghiệp khác. + Ưu tiên các dự án điện tử, điện gia dụng chú trọng vào sản xuất linh kiện điện, điện tử, màn hình vi tính; thiết bị phần mềm tin học, điện tử công nghiệp, phục vụ nhu cầu trong nước và xuất khẩu; các dự án điện gia dụng xuất khẩu trên 80%. + Khuyến khích đầu tư vào các lĩnh vực thu hút nhiều lao động như các dự án về may mặc-da giầy xuất khẩu; sản xuất nguyên liệu, phụ kiện cho may mặc, da giầy. Với những định hướng trên, ngành Công nghiệp Việt Nam đã đạt được những kết quả đáng kể: Nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào ngành công nghiệp trong thời gian từ năm 1988 đến 19/10/2002 là 2522 dự án, với 18.217,4 triệu USD vốn đăng ký, chiếm 59,8% về số dự án và chiếm 42,7% về vốn đăng ký. Số cơ sở công nghiệp đầu tư trực tiếp nước ngoài đã tăng từ 666 lên 1063 đơn vị. Điều dó đã góp phần vào tăng giá trị sản xuất toàn ngành năm 2002 lên 14,5%, vừa vượt mục tiêu 14% vừa cao hơn tốc độ tăng 14,2% của năm 2001. Đến năm 2002 là năm thứ 12 liên tục tăng trưởng công nghiệp đạt được 2 chữ số, đưa qui mô công nghiệp năm 2002 gấp 4,8 lần năm 1990, một kỷ lục về tốc độ tăng cao, liên tục và kéo dài mà các thời kì trước chưa bao giờ đạt được. Tuy nhiên bên cạnh đó còn những mặt tồn tại, hạn chế mà ngành Công nghiệp vẫn chưa khắc phục được, khiến cho dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài chưa được phát huy hết thực lực của nó cũng như gây ra nhiều khó khăn cho các doanh nghiệp đầu tư trực tiếp nước ngoài trong quá trình triển khai dự án, vì vậy sau đây xin đi sâu hơn vào thực trạng đầu tư trực tiếp nước ngoài vào ngành Công nghiệp Việt Nam. Ngành công nghiệp Việt Nam trong những năm qua đã và đang phát triển với một phần giúp sức của nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài như thế nào sẽ được trình bày cụ thể hơn ở Chương II: Thực trạng đầu tư trực tiếp nước ngoài vào ngành Công nghiệp Việt Nam. CHƯƠNG II THỰC TRẠNG ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI VÀO NGÀNH CÔNG NGHIỆP VIỆT NAM I. QUY MÔ VÀ CƠ CẤU ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI VÀO NGÀNH CÔNG NGHIỆP VIỆT NAM 1. Quy mô đầu tư trực tiếp nước ngoài vào ngành Công nghiệp Việt Nam Trong những năm gần đây, thông qua các hình thức liên doanh hoặc đầu tư 100% vốn nước ngoài, ngành công nghiệp nước ta đã đạt được mục tiêu thu hút vốn và kỹ thuật của nhiều nước để phát triển, cung cấp ngày càng nhiều hàng hoá tiêu dùng cho xã hội. Giá trị sản lượng của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (doanh nghiệp FDI) chiếm tỷ trọng 23,8% trong tổng giá trị ngành công nghiệp của cả nước. Một số ngành quan trọng có năng lực sản xuất tăng nhanh như ngành thép, ngành lắp ráp ôtô xe máy, điện tử, công nghiệp hàng tiêu dùng. Công nghiệp khu vực có vốn đầu tư nước ngoài xuất hiện đã trở thành một bộ phận quan trọng của nền công nghiệp nước ta, đã chiếm tỷ trọng lớn và ngày một gia tăng nhờ có tốc độ tăng khá cao. Nếu trước đây khu vực này hầu như không có gì, thì đến nay đã chiếm 35,7% toàn bộ ngành công nghiệp. Tốc độ tăng của khu vực này nhìn chung cũng cao hơn hẳn tốc độ tăng của công nghiệp trong nước. Nhờ có sự tăng trưởng cao của công nghiệp khu vực có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đã “kéo” tốc độ chung của toàn ngành công nghiệp lên. Để có thể thấy rõ tác động của khu vực có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào ngành Công nghiệp như thế nào xin xem tốc độ tăng trưởng của các khu vực DNNN, khu vực ngoài quốc doanh và khu vực có vốn ĐTNN so với toàn ngành trong đồ thị sau. Đồ thị 2 : Tốc độ tăng của ngành Công nghiệp so với năm trước (%) 25 20 Tèc ®é t¨ng (%) 15 10 5 0 1995 1999 2000 2001 2002 Toμn ng μnh K hu vùc ng oμi quèc doanh K hu vùc DNNN K hu vùc cã vèn §T NN (Nguồn: Thời báo kinh tế số 17-22/ Ngày 7-2-2003) Tính đến ngày 20/12/2002 cả nước có 3669 dự án FDI còn hiệu lực với tổng vốn đầu tư là 39.104,74 tr.USD, trong đó có 2431 dự án đầu tư vào ngành công nghiệp với số vốn đầu tư đăng ký (TVĐK) 22.160,753 tr.USD, chiếm 66,3% số dự án với 56,67% tổng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài của cả nước. Tổng vốn đầu tư đăng ký (TVĐK), vốn pháp định (VPĐ) và vốn đầu tư thực hiện (ĐTTH) thể hiện qua bảng sau: Bảng 1 : Tình hình FDI vào ngành công nghiệp (tính đến ngày 20/12/2002, chỉ tính những dự án còn hiệu lực) FDI Cả nước Ngành công nghiệp Tỷ lệ % so với tổng số các ngành Tổng số dự án 3669 2431 66,3 TVĐK (Tr.USD) 39.104,74 22.160,75 56,67 VPĐ (Tr.USD) 18.103,68 10.257,77 56,912 ĐTTH(Tr.USD) 20.739,30 13.343,30 64,338 (Nguồn: Vụ QLDA - Bộ KH&ĐT) Những số liệu trên cho thấy FDI vào công nghiệp chiếm hơn một nửa số dự án FDI của cả nước, trong đó số vốn đăng ký, vốn pháp định hay vốn đầu tư thực hiện đều chiếm trên 50% so với cả nước. Ngoài ra, tỷ trọng về doanh thu, xuất khẩu, việc làm cho người lao động đều cao hơn so với các lĩnh vực khác và theo con số thống kê chưa đầy đủ thì các tỷ lệ đó lần lượt là 79,7%; 69% và 78,8%. Điều này có ý nghĩa rất lớn là chúng ta đã thu hút được phần lớn FDI vào khu vực sản xuất công nghiệp, phù hợp với mục tiêu thu hút đầu tư nước ngoài phục vụ chiến lược công nghiệp, hoá hiện đại hoá đất nước. 2. Cơ cấu đầu tư trực tiếp nước ngoài vào ngành công nghiệp 2.1 Cơ cấu theo chuyên ngành Theo số liệu thu thập được, nếu chia Ngành công nghiệp thành 19 chuyên ngành nhỏ gồm: Cơ khí; Chế biến dầu khí; Dệt - may; Rượu - bia - nước giải khát; Vật liệu, sản phẩm nội thất xây dựng; Luyện kim; Hoá chất; Điện tử - tin học; Thực phẩm; Điện và dịch vụ điện; Da - giầy; Nhựa và các sản phẩm nhựa; Hàng công nghiệp nhẹ; Giấy và các sản phẩm giấy; Khoáng sản, vàng bạc đá quý; Khai thác than; Dầu thực vật; Thuốc lá; Mỹ phẩm thì ngành Cơ khí đứng đầu tất cả các ngành về số dự án, tổng vốn đầu tư đăng ký, vốn đầu tư thực hiện cũng như doanh thu. Cho đến nay các con số lần lượt là 194 dự án với tổng vốn đầu tư đăng ký 2,412 tỷ USD, chiếm tỷ trọng 17,7%; 20,3% vốn đầu tư thực hiện; 16% về doanh thu. Tiếp đến là ngành Da - Giầy, xếp thứ nhất về số lượng lao động và kim ngạch xuất khẩu, thứ ba về doanh thu nhưng vốn đầu tư lại xếp thứ 11 trong số 19 chuyên ngành cơ bản của công nghiệp. Bên cạnh đó là ngành Điện tử - Tin học, xếp thứ hai về doanh thu (sau Cơ khí) và kim ngạch xuất khẩu (sau Da Giầy), mặc dù vốn đầu tư xếp thứ 8. Một lĩnh vực thu hút và hấp dẵn các nhà đầu tư nước ngoài nữa là sản xuất Bia - Rượu - Nước giải khát với số nộp Ngân sách luỹ kế rất lớn (128tr.USD) trong khi đó các ngành khác có số nộp Ngân sách nhỏ chỉ trên dưới 40 tr.USD. Nếu phân chia Ngành công nghiệp thành 4 chuyên ngành khác nhau là: Công nghiệp Dầu khí; Công nghiệp nặng; Công nghiệp nhẹ; Công nghiệp thực phẩm thì tình hình đầu tư FDI vào các chuyên ngành công nghiệp thể hiện ở biểu sau: Bảng 2: Tình hình FDI vào các chuyên ngành công nghiệp (tính tới ngày 20/12/2002 - chỉ tính các dự án còn hiệu lực) Số dự án TVĐK (tr.USD) VPĐ (tr.USD) ĐTTH (tr.USD) CN 2189 18.887,8 8.991,82 11.430,05 % 100 100 100 100 CN dầu khí 29 3.195,45 2.184,58 3.510,73 % 1,32 16,9 24,3 30,7 CN nhẹ 975 5.061,29 2.247,40 2.355,69 % 44,5 26,8 25 20,6 CN nặng 995 8.195,84 3.482,57 4.167,10 % 45,5 43,4 38,7 36,5 CNthựcphẩm 190 2.435,22 1.077,27 1.396,53 % 8,68 12,9 12 12,21 (Nguồn: Vụ QLDA - Bộ KH&ĐT) Bảng 2 cho thấy, nếu theo số dự án thì ngành công nghiệp nặng đứng đầu với 995 dự án, chiếm 45,5% tổng số dự án FDI toàn ngành công nghiệp. Tiếp đến là ngành công nghiệp nhẹ, với 975 dự án chiếm 44,5% tổng số dự án FDI toàn ngành công nghiệp. Ở đây, các dự án tập trung chủ yếu vào lĩnh vực Dệt - may và Da - giầy. Đây là hai lĩnh vực thu hút nhiều lao động, máy móc thiết bị, dây chuyền công nghệ không đòi hỏi quá hiện đại mà chỉ ở mức trung bình tiên tiến. Vốn đầu tư cho một dự án không đòi hỏi quá lớn. Ngành công nghiệp thực phẩm với 190 dự án (chiếm 8,68%). Đây là ngành có tỷ lệ vốn đầu tư thực hiện so với vốn đăng ký cao: 51,3% (sau ngành công nghiệp dầu khí), tập trung chủ yếu vào lĩnh vực Rượu - Bia - Nước giải khát. Cuối cùng là ngành Dầu khí, mặc dù hạn chế về đối tác đầu tư cũng như số dự án, nhưng đây là ngành có tỷ lệ vốn đầu tư đăng ký trên vốn đầu tư thực hiện cao nhất: 91,01% và cũng là ngành có tỷ lệ vốn đăng ký bình quân cho một dự án cao nhất: 110,87 tr.USD/dự án. Đây cũng là ngành có tỷ lệ đóng góp vào GDP và mức thu nhập bình quân của người lao động cao nhất nước. 2.2 Cơ cấu theo hình thức đầu tư Trong các hình thức đầu tư, hình thức BOT và Hợp đồng hợp tác kinh doanh (HĐHTKD) rất khiêm tốn cả về số dự án lẫn vốn đầu tư. Chủ yếu vẫn là hình thức 100% vốn nước ngoài chiếm 57,6% số dự án, 41,4% vốn đầu tư đăng ký, 43% vốn đầu tư thực hiện và hình thức liên doanh chiếm 39,5% số dự án, 55,2% vốn đăng ký và 56,1% vốn đầu tư thực hiện so với toàn ngành. Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài tập trung chủ yếu vào các ngành công nghiệp sử dụng nhiều lao động để sản xuất hàng xuất khẩu như dệt may, giày dép, hàng tiêu dùng, công nghệ chế biến...Khối doanh nghiệp này đã tạo ra hơn 300.000 việc làm. Đối với hình thức đầu tư 100% vốn nước ngoài, nhà đầu tư được chủ động hơn trong lựa chọn địa điểm thực hiện dự án, điều hành sản xuất-kinh doanh. Nhiều doanh nghiệp thực chất là các chi nhánh, các công ty con trong mạng lưới toàn cầu của các công ty đã quốc gia, nên có nhiều thuận lợi trong tiếp cận thị trường thế giới. Tuy nhiên, vì toàn bộ quá trình kinh doanh do nhà đầu tư nước ngoài chi phối nên cần có qui định ngăn ngừa họ không trung thực trong báo cáo tài chính, gian lận thương mại, cạnh tranh không lành mạnh, chèn ép các doanh nghiệp trong nước... Hình thức liên doanh chủ yếu ở các lĩnh vực kinh tế quan trọng như dầu khí, sản xuất xi măng, sắt thép, hoá chất, lắp ráp ô tô, xe máy, điện tử...Các liên doanh đã góp phần vực dậy nhiều ngành công nghiệp Việt Nam (bị suy thoái do thiếu vốn, thiếu vật tư, công nghệ lạc hậu, mất thị trường...), cung cấp nhiều sản phẩm quan trọng cho nền kinh tế mà trước đây vẫn phải nhập khẩu. Đội ngũ cán bộ quản lý, cán bộ kỹ thuật của Việt Nam làm việc trong các doanh nghiệp liên doanh đã trưởng thành nhanh chóng về mọi mặt, tiếp thu được công nghệ mới, kiến thức và kinh nghiệm quản lí của nước ngoài. Tuy nhiên vẫn còn hiện tượng một số đối tác nước ngoài trong liên doanh đã khai vống các chi phí đầu tư, nâng giá thiết bị, máy móc góp vốn và nguyên liệu đầu vào, hạ giá đầu tư thông qua chuyển giá với công ty mẹ để thu lợi nhuận từ bên ngoài mà bên phía Việt Nam không có khả năng kiểm soát được. Ngoài hai hình thức đầu tư chủ yếu vào ngành công nghiệp nói trên, còn có hình thức hợp đồng hợp tác kinh doanh chủ yếu áp dụng trong lĩnh vực thăm dò, khai thác dầu khí. Hình thức này đã góp phần tích cực vào việc phát triển, hiện đại hoá ngành dầu khí, đồng thời đã tạo điều kiện cho Việt Nam tiến hành thăm dò đánh giá trên diện tích rộng nguồn tài nguyên dầu khí. Bên cạnh những kết quả đạt được từ các hình thức đầu tư với nước ngoài thì ngành Công nghiệp vẫn cần phải cải thiện môi trường đầu tư thuận lợi, thông thoáng hơn nữa để thu hút ngày càng nhiều nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài và tăng hiệu quả sử dụng nguồn vốn này cho hợp lí hơn. 2.3 Cơ cấu theo địa bàn Cho tới nay đã có hơn 47 tỉnh thành phố có các dự án đầu tư nước ngoài vào ngành công nghiệp đang hoạt động với tổng số dự án 1.441, tổng vốn đầu tư đăng ký là 16.138,28 tr.USD. Bảng 3: Đầu tư vào ngành Công nghiệp theo một số địa phương (tính đến tháng 8/2002) Thành phố Số dự án Vốn ĐTĐK (tỷ USD) Doanh thu (tỷ USD) Kinh ngạch XK (tỷ USD) TP. Hồ Chí Minh 923 2,98 3,197 0,988 Đồng Nai 389 3,584 1,584 1,86 Bình Dương 274 1,3 0,957 Hà Nội 52 0,567 0,539 Bà Rịa-Vũng Tầu 71 3,683 0,795 2,072 ( Nguồn: Vụ Quản lý dự án-Bộ Kế hoạch và Đầu tư VN ) Các tỉnh thành phía Nam vẫn chiếm ưu thế hơn trong việc thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài so với các nơi khác do đã có nhiều chính sách thu hút đầu tư hợp lí, tạo thuận lợi và kịp thời tháo gỡ những khó khăn cho các nhà đầu tư, có những địa phương đã“trải thảm đỏ” sẵn sàng để đón các nhà đầu tư nước ngoài. 2.4 Cơ cấu theo đối tác đầu tư Cho tới nay đã có hơn 45 nước và nền kinh tế có dự án đầu tư sản xuất công nghiệp vào nước ta (không kể các dự án thăm dò khai thác dầu khí). Trong đó, Nhật Bản và Hàn Quốc là hai nước có vốn đầu tư thực hiện tương đương nhau nhưng các dự án từ các nhà đầu tư Hàn Quốc đang dẫn đầu về doanh thu, xuất khẩu và tạo việc làm cho người lao động. Điều này có ý nghĩa là các nhà đầu tư Hàn Quốc rất chú ý khai thác thị trường lao động rẻ của Việt Nam để gia công chế biến hàng xuất khẩu. Tuy nhiên, rất tiếc là cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ khu vực đã gây ra khủng hoảng kinh tế trầm trọng cho Hàn Quốc và ảnh hưởng xấu tới tình hình đầu tư của Hàn Quốc vào nước ta. Bảng 4: Tình hình đầu tư vào ngành Công nghiệp theo đối tác đầu tư (tính đến cuối năm 2001) Số dự án Tổng VĐK (triệu USD) Tên nước Hơn 1,3 tỷ USD 163 2,14 Nhật Bản 151 1.833 Hàn Quốc 262 1.655 Đài Loan 91 1.489 Singapore 12 1.325 Liên bang Nga Từ 500-1000 triệu USD 71 742,2 Hồng Kông 37 709,0 Hoa Kỳ 30 701,3 Malaysia 15 527,8 British Virgin Island (Nguồn: Vụ Quản lý dự án-Bộ Kế hoạch và Đầu tư VN) Các dự án có tổng vốn đăng ký từ 100tr.USD đến dưới 400 tr.USD gồm có các nước Thái Lan, Anh, Hà Lan, Bermuda, Indonesia, Úc, Pháp, Đan Mạch. Còn lại là các nước có vốn đầu tư dưới 100 tr.USD, trong đó có 11 nước và vùng lãnh thổ chỉ có 1 dự án đầu tư. Achentina là nước có một dự án với vốn đầu tư thấp nhất (120.000 USD). Về đối tác là các khối kinh tế: Số liệu thống kê cho thấy dẫn đầu vẫn là những nhà đầu tư từ khối các nước Đông Bắc Á, tiếp đến là các nước ASEAN. Các nước EU đứng vị trí thứ ba và các nước Đông Âu cũ mà chủ yếu là Liên Bang Nga đứng ở vị trí thứ tư. Các nhà đầu tư khối Đông Bắc Á không những dẫn đầu về số dự án, vốn đăng ký mà còn vượt lên hơn hẳn các khối khác về vốn thực hiện (chiếm 54,8%), doanh thu (61,3%) và nhất là xuất khẩu (tới 78,3%). Các nước ASEAN, chủ yếu là Singapore và Malaysia, Thái Lan cũng có tỷ trọng đầu tư và thực hiện đầu tư khá vào các ngành công nghiệp của nước ta. Khối các nước EU có tiềm lực công nghiệp mạnh nhưng mức độ huy động đầu tư công nghiệp vào nước ta cũng chỉ mới ở vị trí thứ ba sau ASEAN. Có một ý kiến cho rằng do Việt Nam là thị trường kinh tế mới nổi, hệ thống luật, nhất là luật kinh tế chưa hoàn chỉnh, thủ tục hành chính phức tạp, không minh bạch, rõ ràng, làm cho các nhà đầu tư phương Tây e ngại. Họ cho rằng khó có sự cạnh tranh lành mạnh tại Việt Nam, nhất là cạnh tranh với các nhà đầu tư phương Đông theo kiểu Á Đông. Đây cũng chỉ là một loại ý kiến nhưng chúng ta cũng vẫn phải nghiên cứu kỹ trong quá trình soạn thảo các Luật và cải cách hành chính ở nước ta nhằm làm cho môi trường đầu tư của ta hấp dẫn đối với tất cả các nhà đầu tư trên thế giới. Trên đây là khái quát chung tình hình đầu tư trực tiếp nước ngoài vào ngành công nghiệp nước ta. Sau đây xin trình bày sâu hơn tình hình FDI vào từng chuyên ngành cụ thể. II. TÌNH HÌNH THU HÚT VÀ SỬ DỤNG FDI CỦA MỘT SỐ CHUYÊN NGÀNH CÔNG NGHIỆP 1. Công nghiệp dầu khí Ngành công nghiệp dầu khí chiếm trên 10% tổng giá trị sản xuất công nghiệp và trên 20% tổng giá trị xuất khẩu của cả nước. Cho tới nay ngoài Công ty liên doanh Vietsovpetro thực hiện theo Hiệp định của hai Chính phủ Việt Nam và Liên Xô (cũ) mà hiện nay do cộng hoà liên bang Nga thừa kế đã sản xuất được hơn 60 triệu tấn dầu thô, hiện đang tiếp tục kinh doanh có hiệu quả, nước ta đã cấp 47 Giấy phép đầu tư cho ngành công nghiệp dầu khí. Tuy nhiên, hiện tại chỉ còn 29 dự án có hiệu lực với tổng vốn đầu tư đăng ký 3.195tr.USD, vốn pháp định 2.184 tr.USD với vốn đầu tư thực hiện 3.510tr. USD. Lĩnh vực này đã thu hút trên dưới 1.458 lao động với tổng doanh thu đạt khoảng 201 tr.USD mỗi năm và đóng góp cho Ngân sách nhà nước một khối lượng đáng kể. Công nghiệp dầu khí bao gồm: hoạt động tìm kiếm, thăm dò và khai thác dầu khí; hoạt động chế biến dầu khí và hoạt động dịch vụ dầu khí. Bảng 5: Tình hình đầu tư vào ngành công nghiệp dầu khí (tính đến ngày 20/12/2002, chỉ tính những dự án còn hiệu lực) Số dự án TVĐK Vốn ĐTTH Số lao động Doanh thu (tr.USD) HĐ tìm kiếm, thăm dò và khai thác 29 1.290 1.262 1.570 1.256,72 HĐ chế biến dầu khí 31 1.925 1.040 1.272 201,598 HĐ dịch vụ dầu khí 4 (Nguồn: Vụ QLDA - Bộ KH&ĐT) Sau đây xin đi sâu vào từng lĩnh vực: 1.1 Hoạt động tìm kiếm, thăm dò và khai thác dầu khí Từ khi có Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam (19/12/1987) tới nay, nước ta đã cấp Giấy phép đầu tư cho 46 hợp đồng khai thác dầu khí (không kể liên doanh dầu khí Việt- Xô đã hoạt động trước đó). Cho tới nay có 29 dự án đang còn hiệu lực hoạt động với tổng vốn đầu tư đăng ký hơn 3,2 tỷ USD gồm các Hợp đồng chia sản phẩm (PSC), Hợp đồng hợp tác kinh doanh (BCC), liên doanh (JV). Theo kết quả rà soát và đánh giá của Bộ Kế hoạch và Đầu tư mới đây đã có 18 dự án với tổng vốn đăng ký gần 1,04 tỷ USD đi vào hoạt động sản xuất kinh doanh, 7 dự án với tổng vốn đăng ký 2,08 tỷ USD đang thực hiện xây dựng cơ bản và 3 dự án với tổng vốn đăng ký 58 triệu USD chưa triển khai nhưng có khả năng thực hiện. Đây là lĩnh vực đầu tư có tỷ lệ vốn đầu tư thực hiện so với vốn đầu tư đăng ký cao nhất (205,9%) và tỷ lệ vốn pháp định thực hiện cũng rất cao (84,5%) và phần lớn vốn đều do nước ngoài đưa vào. Điều này chứng tỏ rằng các nhà đầu tư nước ngoài rất quan tâm tới tiềm năng khai thác dầu khí của nước ta, nhất là những năm 1989-1996. Tuy nhiên sự quan tâm này cũng đã giảm. Trong 2 năm 1997 và 1998 chỉ có 2 hợp đồng về thăm dò khai thác dầu khí được cấp phép, năm 1999 không có dự án nào được cấp phép, năm 2000 có 4 dự án khai thác thăm dò dầu khí được cấp phép tuy nhiên chỉ mới có một dự án triển khai thực hiện đó là Hợp đồng hợp tác kinh doanh thăm dò, khai thác dầu khí lô 102 &106 với vốn đầu tư 5 tr.USD, vốn đầu tư thực hiện là 820.000 USD, năm 2002 có 2 dự án được cấp phép với tổng vốn đầu tư đăng ký 29,2 triệu USD. Thực tế cho thấy, đến nay đã có 20 Hợp đồng tìm kiếm thăm dò dầu khí kết thúc với số vốn đầu tư khoảng 1,4 tỷ USD, tổng diện tích tìm kiếm thăm dò trên đất liền và trên thềm lục địa khoảng 250.000 km2. Mới chỉ có 2 dự án thăm dò dầu khí đã có sản phẩm khách hàng, có doanh thu xuất khẩu là Hợp đồng phân chia sản phẩm dầu khí lô 05-1 mỏ Đại Hùng với Malaysia và Hợp đồng phân chia dầu khí vùng Bồn Trũng với Singapore.Tổng doanh thu xuất khẩu của hai hợp đồng này gần 104,5 tr.USD. Năm 2002 nổi bật với dự án dầu khí Nam Côn Sơn nằm ngoài khơi biển Việt Nam về phía Đông Nam, đây là một Hợp doanh giữa Tổng Công ty dầu khí Việt Nam với tổ hợp nhà thầu BP (Anh) và Statoil (Nauy) đã được cấp Giấy phép đầu tư ngày 15/12/2000, với mục tiêu đưa khí được khai thác từ các mỏ Lan Tây, Lan Đỏ thuộc lô 06.1 qua đường ống vào bờ với tới các hộ tiêu thụ. Vốn đầu tư của dự án này và dự án khai thác mỏ Lan Tây, Lan Đỏ là khoảng 1,3 tỷ USD - dự án đầu tư nước ngoài có tổng vốn đầu tư lớn nhất nước từ trước đến nay Riêng Xí nghiệp liên doanh Vietsovpetro - con chim đầu đàn của ngành dầu khí Việt Nam, kể từ tháng 4 năm 1987 đến nay, Vietsovpetro đã khai thác được trên 100 triệu tấn dầu thô và gần 10 tỷ m3 khí đồng hành. Đến đầu năm 1996 Liên doanh đã hoàn thành thu hồi vốn (1,5tỷ USD), năm 1998 Vietsovpetro đã khai thác được 12,5 triệu tấn dầu thô và 1 tỷ m3 khí. Từ năm 1991 đến nay, Liên doanh này đã nộp ngân sách nhà nước Việt Nam hơn 8,2 tỷ USD. Có thể nói hầu như toàn bộ hoạt động tìm kiếm, thăm dò và khai thác dầu khí của Việt Nam được thực hiện bằng các hình thức hợp tác với nước ngoài, qua đó đã giải quyết được các yêu cầu về vốn, công nghệ và kinh nghiệm quản lý, góp phần tạo lập một ngành công nghiệp mới với trình độ kỹ thuật tiên tiến. Các dự án đầu tư vào lĩnh vực tìm kiếm, thăm dò và khai thác dầu khí đã góp phần chính xác hoá cấu trúc địa chất các bề trầm tích có triển vọng dầu khí, phát hiện khoảng 50 cấu tạo có chứa dầu và khí: làm rõ hơn tiềm năng dầu khí trên đất liền và trên thềm lục địa nước ta. Đồng thời đã xác định và đưa vào khai thác các mỏ dầu khí thương maị như: Đại Hùng, Hồng Ngọc (rubby), Rạng Đông, Bunga Kekwa; chuẩn bị khai thác các mỏ: Lan Tây, Lan Đỏ, Rồng Đôi, Hải Thạch, Emeral... (ngoài các mỏ Bạch Hổ, Rồng do Vietsovpetro điều hành). Sản lượng dầu khí khai thác tăng dần qua các năm: năm 1986 là 0,04 triệu tấn, năm 1990 là 2,7 triệu tấn, năm 1995 là 7,7 triệu tấn, năm 1999 là 15,5 triệu tấn dầu thô và 1,4 tỷ m3 khí, năm 2000 là 16 triệu tấn dầu thô và 1,5 tỷ m3 khí, năm 2001 là 17 triệu tấn dầu thô và 1,72 tỷ m3 khí, năm 2002 là 17,102 triệu tấn dầu thô và 2,260 triệu m3 khí. Sự quan tâm cũng như sự tích cực triển khai các dự án thăm dò của các nhà đầu tư nước ngoài trong lĩnh vực dầu khí với số vốn thăm dò thực hiện là 2,656 tỷ USD trong thời gian qua đã giúp Việt Nam dần dần có đủ cơ sở dữ liệu về trữ lượng dầu khí để có thể xác định chiến lược hình thành và phát triển ngành công nghiệp chế biến dầu khí của nước ta. 1.2 Hoạt động chế biến dầu khí Cho tới nay đã có 31 dự án đang hoạt động trong lĩnh vực công nghiệp chế biến và sử dụng các sản phẩm hoá dầu: sản xuất kinh doanh khí đốt, khí hoá lỏng, dầu nhờn bôi trơn các loại, tinh lọc dầu và hoá dầu với tổng vốn đầu tư hơn 1,920 tr.USD, vốn pháp định hơn 1,040 tr.USD, tổng doanh thu là 201,598 tr.USD và tạo được 1.272 chỗ làm việc. Kết quả hoạt động này chủ yếu là của 29 dự án nhỏ có vốn đầu tư từ 35 tr.USD trở xuống, sản xuất kinh doanh dầu nhờn và khí đốt. Mặc dầu các dự án trong lĩnh vực này chưa nhiều nhưng đă góp phần tạo tiền để mở ra một ngành công nghiệp mới ở nước ta. Ngành công nghiệp sản xuất chế biến các sản phẩm hoá dầu làm phong phú thêm các sản phẩm tiêu dùng; đặc biệt sản phẩm khí đốt đã góp phần giải quyết cơ bản chất đốt cho nhân dân thành phố và đô thị, tiết kiệm ngoại tệ nhập khẩu dầu hoả, tiết kiệm than, điện và làm văn minh thêm cho công việc nội trợ. Việc kinh doanh sử dụng sản phẩm hoá dầu và lọc dầu đang ngày càng thúc đẩy công nghiệp chế biến dầu khí phát triển. Đặc biệt có 3 dự án lớn đó là: một dự án theo hình thức BOT với đối tác là GSC (điều hành), Ugland A/S, Topsoe (công nghệ), Klenwort Benson (tài chính) và công ty Hồng Phát sản xuất methanol trên nhà máy nổi lô 15, có vốn đầu tư 270 tr.USD (được cấp Giấy phép vào tháng 12/1998). Dự án tiếp theo là Công ty liên doanh lọc dầu Việt- Nga với vốn đầu tư 1,3 tỷ USD và công suất 6,5 triệu tấn/ năm tại Dung Quất- Quảng Ngãi (được cấp Giấy phép vào 12/1998), tuy nhiên đã bị ngừng vào năm 2002. Dự án thứ ba là dự án khí Nam Côn Sơn với đường ống dẫn khí 2 pha gồm dẫn khí và dẫn chất lỏng sẽ đi vào hoạt động cung cấp hoảng 11,1 triệu m3 khí/ ngày cho 4 nhà máy nhiệt điện turbin khí Phú Mỹ2, Phú Mỹ 2.2, Phú Mỹ 3 và Phú Mỹ 4 và nhà máy đạm Phú Mỹ 4 Ngoài các dự án lớn nói trên, trong lĩnh vực chế biến dầu khí đã cấp Giấy phép đầu tư cho các nhà sản xuất chất dẻo DOP công suất 30.000 tấn/ năm, nhà máy sản xuất chất dẻo PVC công suất 100.000 tấn/ năm, hai nhà máy chế biến nhựa đường có tổng công suất 300.000 tấn/ năm, khí LPG 130.000 tấn/ năm. Như vậy, với các dự án đã được cấp Giấy phép đầu tư cho đến hết năm 2002, lĩnh vực chế biến dầu khí của Việt Nam cũng chủ yếu được thực hiện thông qua hình thức hợp tác với nước ngoài (đại bộ phận là liên doanh và hợp doanh). 1.3 Hoạt động dịch vụ dầu khí Để đáp ứng việc cung cấp dịch vụ cho hoạt động dầu khí, Chính phủ đã cấp Giấy phép đầu tư cho một số dự án vận chuyển trực thăng, cung cấp dịch vụ khoan, xử lý tài liệu dầu khí, cung cấp dịch vụ kỹ thuật và các dịch vụ khác. Các dự án này có sự phối hợp của các công ty trong nước đã đáp ứng kịp thời nhu cầu phát triển của ngành dầu khí với chất lượng ngày càng được nâng cao và đạt tiêu chuẩn quốc tế. Tại XNLD Vietsopetro hiện có đội tàu hiện đại vào bậc nhất Việt Nam, có đẳng cấp quốc tế với công suất 97.000 mã lực, gồm 3 tàu cẩu có sức nâng từ 600-1200 tấn; 9 tàu dịch vụ có công suất từ 4000-13.300 mã lực; 3 tàu dịch vụ lặn, 1 tàu cứu hoả có công suất 3.000 m3 nước, dung dịch/ giờ. Với 19 giàn khoan cố định thăm dò và khai thác dầu khí của XNLD Vietsopetro (từ 1984-nay) đã khẳng định của Việt Nam về cấu tạo và xây lắp các công trình khẳng định khả năng của Việt Nam về cấu tạo và xây lắp các công trình biển. Gần đây lắp ráp và xây dựng giàn khai thác mỏ Rạng Đông, Ruby trên thềm lục địc nam Việt Nam JPVC và Petronas đã chứng tỏ năng lực của dịch vụ xây lắp công trình biển. Về dịch vụ bay, có công ty Liên doanh Trực thăng Việt-Pháp (Helivifra) và Tổng Công ty Bay Dịch vụ Việt Nam (SFC Vietnam). Công ty Helivifra là công ty liên doanh giữa Công ty Bay Dịch vụ Việt Nam (SFC Vietnam), Tổng công ty Dầu khí Việt Nam (Petrovietnam) với Công ty Trực thăng Heli Union của Pháp được thành lập tháng 10/1998, đã cunh cấp dịch vụ trực thăng, hoàn hảo cho ngành công nghiệp Dầu khí tại Việt Nam và các ngành công nghiệp khác. Nhìn chung, trong bối cảnh cụ thể của nước ta hiện nay, đối với lĩnh vực dầu khí, gồm cả khâu sản xuất và dịch vụ, do yêu cầu lớn về vốn đầu tư, phức tạp về công nghệ và chuyên sâu về kỹ năng quản lý, có thể nói bước đi của Ngành dầu khí Việt Nam trong việc tăng cường mở rộng hợp tác với nước ngoài là hoàn toàn phù hợp và đúng đắn, những dự án theo Luật ĐTNN đã và đang mở rộ._. chưa thực sự sôi động, tỷ lệ lấp đầy KCN còn thấp (KCN Nomurai-Hải Phòng, chưa lấp đầy 10% diện tích cho thuê...). Để tạo thuận lợi thu hút đầu tư vào KCN, cần thực hiện cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho các doanh nghiệp KCN; bảo đảm các công trình hạ tầng kỹ thuật (đường xá, điện, nước, thông tin liên lạc...) đến tận hàng rào các KCN; ưu đãi ở mức cao nhất các dự án phát triển hạ tầng xã hội đồng bộ với KCN (nhà ở cho công nhân, trường học, trường dạy nghề, cơ sở khám chữa bệnh, thương mại và các dịch vụ đời sống của các thành phần kinh tế). Cần lựa chọn một vài địa phương có điều kiện địa lý, kinh tế-xã hội thuận lợi để thành lập khu kinh tế và tập trung đầu tư đúng mức cả về vốn, con người. Tổ chức và có cơ chế chính sách phù hợp để xây dựng thành công các khu kinh tế này. Tiếp đến là Khu chế xuất (KCX), hoạt động của các KCX thời gian qua kém hiệu quả, có nhiều khu triển khai chậm hoặc không triển khai được và xin chuyển thành KCN để có thể linh hoạt trong đầu tư. Trong thời gian tới, nước ta cần tập trung đẩy nhanh hoạt động của các KCX đã được thành lập bằng các chính sách ưu đãi, khuyến khích hơn, đồng thời tạm ngừng thành lập các KCX mới. 1.2 Xử lý một cách linh hoạt các định hướng đối với từng lĩnh vực đầu tư trong ngành Công nghiệp - Một số lĩnh vực hiện nay năng lực sản xuất đã bão hoà với thị trường nội địa. Một mặt, cần hạn chế hoặc tạm thời chưa cấp phép cho các dự án mới như sản xuất bia... mặt khác, cần chuyển hướng thu hút đầu tư như lĩnh vực Điện tử - Tin học: hướng tập trung sẽ là điện tử công nghiệp và phát triển phần mềm, phần cứng trong Tin học, hạn chế sản xuất lắp ráp điện tử tiêu dùng. Lĩnh vực sản xuất nước giải khát, hướng thu hút FDI sẽ là: tập trung đầu tư vào lĩnh vực sản xuất nước giải khát không có ga, nước hoa quả cho tiêu dùng nội địa và cho xuất khẩu; hạn chế đầu tư vào lĩnh vực sản xuất nước giải khát có ga...Một mặt đi vào khoa học công nghệ hiện đại, tiên tiến (sản xuất lắp ráp ôtô xe máy, khai thác dầu khí...); mặt khác, chú trọng công nghệ thích hợp, máy móc thiết bị đã qua sử dụng (với điều kiện thiết bị đó không gây ô nhiễm môi trường hoặc có hại cho sức khoẻ công nhân) để tận dụng giá trị sử dụng còn lại, tạo thêm công ăn việc làm cho người lao động trong một số lĩnh vực nhất định (Da giầy, Dệt - may...). - Việc thông qua Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam bổ sung sửa đổi được Quốc hội thông qua tháng 6/2000 và Nghị định số 24/2000 hướng dẫn thực hiện Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam có hiệu lực từ tháng 7 năm 2000; cùng với các Thông tư hướng dẫn hoạt động đầu tư nước ngoài; thêm vào đó, việc ký kết Hiệp định thương mại Việt - Mỹ đã tác động tích cực đến tâm lý các nhà đầu tư, mở rộng thị trường xuất khẩu và trao đổi hàng hoá cho các doanh nghiệp, tạo thuận lợi cho thu hút vốn FDI trong thời gian tới. Vì vậy,Chính phủ cần gấp rút có những chính sách khuyến khích, ưu đãi và tăng cường đầu tư cho các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh trong một số lĩnh vực có khả năng cạnh tranh cao (như Dệt - may, Da giầy...). Để trong tương lai không xa, các doanh nghiệp FDI trong các lĩnh vực này sẽ là đại diện của Việt Nam có đủ năng lực về tài chính, công nghệ... cạnh tranh trên trường quốc tế. - Việc bảo hộ sản xuất trong nước đối với những doanh nghiệp mới đi vào sản xuất còn nhiều lúng túng. Nhiều doanh nghiệp sản xuất nguyên liệu có nguy cơ phải đóng cửa do chính sách của Nhà nước ta chưa khuyến khích tiêu dùng hàng trong nước đã sản xuất được, đạt tiêu chuẩn quốc tế; điển hình là trường hợp Công ty Mitsui ViNa sản xuất nguyên liệu PVC... - Hiện nay, rất nhiều doanh nghiệp có vốn FDI hoạt động trong ngành công nghiệp gặp nhiều khó khăn cả về thị trường tiêu thụ lẫn sự cạnh tranh gay gắt của hàng ngoại nhập. Điển hình có ngành sản xuất và lắp ráp ô tô, đây là ngành mới đầu tư vào Việt Nam với dây chuyền công nghệ hiện đại, công suất thiết kế rất lớn song thực tế công suất chưa phát huy hết 5%, thị trường tiêu thụ hạn chế (20-25%), do đó, để ngành này phát triển cần kết hợp đồng thời hai chính sách: một mặt, tăng thuế nhập khẩu nguyên chiếc lên 200%, mặt khác bỏ thuế tiêu thụ đặc biệt, điều chỉnh thuế nhập khẩu linh kiện, phụ tùng theo từng giai đoạn và thực hiện các biện pháp nhằm giúp các doanh nghiệp hạ giá thành lắp ráp tại Việt Nam. Trên cơ sở đã tồn tại và đứng vững trên thị trường nội địa, ngành công nghiệp ô tô Việt Nam mới có thể phát triển bền vững trong tiến trình hội nhập quốc tế. 1.3 Đẩy nhanh lộ trình giảm chi phí đầu tư và tiến tới chế độ một giá thống nhất cho đầu tư trong nước và ĐTNN - Trong năm 2003, cần tiếp tục điều chỉnh một bước giá, phí các hàng hoá, dịch vụ để sau 1 hoặc 2 năm về cơ bản áp dụng một mặt bằng thống nhất một số giá, phí cho các doanhnghiệp có vốn FDI. Hiện nay còn nhiều khác biệt trong đối xử giữa các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài phải trả giá điện, nước, cước phí điện thoại, giá vé đi lại, và cá dịch vụ cao hơn các doanh nghiệp trong nước. Điều này tạo ra một môi trường cạnh tranh không lành mạnh khiến nhà đầu tư nước ngoài còn thấy e ngại. - Bên cạnh việc kiểm soát độc quyền và giảm ngay các dịch vụ có giá quá cao của các doanh nghiệp độc quyền hiện nay, cần lưu ý giảm chi phí các sản phẩm trung gian cho sản xuất công nghiệp. Hiện tại các ngành công nghiệp hỗ trợ để sản xuất các bộ phận, linh kiện của ta rất yếu, nhất là trong điện tử gia dụng. Trong khi đây là lĩnh vực thu hút nhiều lao động vừa giản đơn vừa lành nghề. Một bộ phận đòi hỏi trình độ lao động có kỹ năng cao rất thích hợp với cơ cấu lao động của Việt Nam . Kinh nghiệm của Trung Quốc cho thấy đối với các nhà ĐTNN, tỉ lệ sản xuất các bộ phận, linh kiện trong nước càng cao càng tốt để giảm giá thành và nâng cao hiệu quả cũng như sức cạnh tranh. Điều này có lẽ khác với nhận thức của một số người, trong đó có cả những nhà hoạch định chính sách, khi cho rằng các công ty đa quốc gia thường không muốn tăng tỉ lệ nội địa hóa để đưa linh kiện từ ngoài vào. Vì thế trước mắt ta không nên tiếp tục dùng biện pháp hành chính hay thuế quan ép buộc các công ty đa quốc gia tăng tỉ lệ nội địa hoá mà phải phát triển công nghệ hỗ trợ trong nước để có thể cung cấp nhanh, rẻ các bộ phận, linh kiện chất lượng cao. Muốn vậy, Việt Nam phải có ngay một kế hoạch tạo bước đột phá tăng nhanh việc sản xuất linh kiện mà ta có lợi thế cạnh tranh trước hết ở ba vùng kinh tế trọng điểm từ khâu thiết kế, sản xuất, tiếp thị, cung cấp nguyên liệu, linh kiện, phụ tùng, dịch vụ sửa chữa. lao động có tay nghề...Việc này, theo kinh nghiệm của thế giới, chủ yếu nên dựa vào các doanh nghiệp có qui mô nhỏ và vừa trên cơ sở hợp tác đầu tư với nước ngoài. Cần hết sức lưu ý đến các biện pháp để các công ty đa quốc gia không di chuyển các cơ sở sản xuất của họ từ Việt Nam sang các nước ASEAN khác sau khi AFTA được thực hiện đầy đủ vào năm 2006. Gần đây các biện pháp tăng thuế, hạn chế hạn ngạch nhập khẩu (xe máy, ô tô...) để ép các công ty tăng tỉ lệ nội địa hoá không được các nhà ĐTNN, thậm chí cả chính phủ của họ ủng hộ cho dù mục tiêu của chính sách này về lâu dài là đúng. Trong tình hình hiện nay nên cân nhắc có lựa chọn cho tự do nhập khẩu, miễn thuế những loại linh kiện mà Việt Nam có lợi thế cạnh tranh để giảm giá thành lắp ráp, vừa duy trì khả năng cạnh tranh với các nước ASEAN vừa giữ chân các công ty đa quốc gia. 1.4 Sửa đổi, ổn định một số luật thuế - Nhiều doanh nghiệp FDI tiếp tục kiến nghị Chính phủ về những bất cập trong chính sách thuế chưa khuyến khích sản xuất, chế tạo sản phẩm trong nước, đặc biệt là việc áp dụng thuế VAT làm đội giá thành sản phẩm quá cao, không được thị trường chấp nhận, buộc một số doanh nghiệp phải sản xuất cầm chừng, điển hình là các doanh nghiệp sản xuất hàng điện gia dụng (máy điều hoà, tủ lạnh). Đề nghị Quốc hội xem xét sửa đổi Luật thuế VAT, đưa ra ngoài diện đối tượng áp dụng thuế VAT các máy móc thiết bị nhập khẩu để tạo tài sản cố định của các doanh nghiệp FDI . Đối với những mặt hàng chịu thuế tiêu thụ đặc biệt, phải có biện pháp khấu trừ thuế VAT đầu vào cho các doanh nghiệp (hiện nay không thể khấu trừ vì sản phẩm không thuộc điều chỉnh của thuế VAT). - Cần xem xét việc miễn thuế nhập khẩu đối với phụ tùng thay thế trong các dây chuyền công nghệ sản xuất đồng bộ và các loại máy móc hiện đại, máy chính xác trong thời gian ổn định từ 5-10 năm. Miễn giảm thuế đối với nguyên liệu, vật tư nhập khẩu phục vụ cho sản xuất thử. - Quy định lại thời hạn tạm miễn thuế nhập khẩu đối với nguyên liệu nhập khẩu để sản xuất hàng xuất khẩu là 80 ngày. Đơn giản thủ tục hoàn thuế cho doanh nghiệp, đảm bảo thời gian làm thủ tục hoàn thuế không quá 30 ngày kể từ khi cơ quan có thẩm quyền nhận được công văn xin hoàn thế. - Bảo đảm sự ổn định của pháp luật và chính sách đối với doanh nghiệp FDI, cho doanh nghiệp được hưởng ưu đãi về thuế theo luật mới đồng thời đảm bảo nguyên tắc không hồi tố, nghĩa là những quy định của luật cũ có lợi cho doanh nghiệp đã được cấp Giấy phép trước ngày luật mới có hiệu lực thì doanh nghiệp được hưởng theo luật cũ. - Một số doanh nghiệp sản xuất đồ điện gia dụng như các Công ty điện tử Sony, JVC, Công ty Amtronics (Toshiba), LG - Meca, Carier, phản ánh việc áp dụng Thông tư 1994/1998 của Bộ Tài chính về đánh thuế nhập khẩu linh kiện theo tỉ lệ nội địa hoá đối với sản phẩm này sau năm 2000 không hợp lý, vì trong nước hiện nay hầu như không sản xuất được linh kiện. Đề nghị Quốc hội xem xét cho phép các doanh nghiệp kéo dài thời gian chuẩn bị điều kiện nội địa hoá sản phẩm tới năm 2003 chưa áp dụng các biện pháp bắt buộc nội địa hoá đối với các sản phẩm trong nước chưa đủ điều kiện thực hiện. - Đề nghị Quốc hội xem xét cho phép Chính phủ điều tiết bằng các biện pháp phi thuế quan đối với những sản phẩm mà doanh nghiệp trong nước đã sản xuất đáp ứng nhu cầu về số lượng cũng như chất lượng, hạn chế nhập khẩu. - Việc ban hành một số văn bản thiếu cân nhắc như Thông tư 40/2000 của Bộ Tài chính hướng dẫn thi hành Quyết định 176/1999/QĐ -TTg của Thủ tướng Chính phủ, Thông tư 45/2000/TT-TCHQ về lệ phí hải quan đã gây trở ngại lớn cho sản xuất của các doanh nghiệp, lãng phí thời gian của doanh nghiệp và các cơ quan Nhà nước, dẫn đến việc phải bãi bỏ các văn bản trên ngay sau khi ban hành, ảnh hưởng tới niềm tin của doanh nghiệp vào đường lối nhất quán của Nhà nước ta trong thu hút đầu tư nước ngoài 1.5. Giảm nhẹ các thủ tục hành chính Giờ đây sức cạnh tranh không phải chỉ ở giá thành và chất lượng mà còn phụ thuộc khả năng tiếp thị và tốc độ cung cấp. Trong đó tốc độ cung cấp lại phụ thuộc một phần rất quan trọng vào tốc độ xử lý hành chính mà rất tiếc là tốc độ này ở ta rất chậm, có lẽ tệ nhất trong các nước ASEAN. Theo điều tra của Tổ chức Xúc tiến thương mại của Nhật Bản (JETRO) năm 2002, 42% các doanhnghiệp Nhật được hỏi nói rằng khó khăn lớn nhất của họ tại Việt Nam là thủ tục hành chính, trong khi con số này ở Thái Lan chỉ 13%, Philippines 18% và Indonesia 22%. Một ví dụ cụ thể: Nhật hàng năm nhập khẩu hơn 500 tỉ yen (4 tỉ USD) sản phẩm quần áo có nguyên liệu là len đan. Do vậy len đan xuất khẩu từ Nhật để gia công ở nước ngoài khi nhập thành phẩm trở lại chỉ bị đánh thuế nhẹ. Có tới 80% sản phẩm gia công theo cách này được nhập khẩu từ Trung Quốc, còn nhập khẩu từ Việt Nam không đáng kể. Nguyên nhân chính là do thủ tục hải quan của ta quá rắc rối, tốc độ xử lý chậm trong khi điều kiện chi phí lao động cho gia công ở Trung Quốc và Việt Nam ngang nhau. Các cơ quan hành chính các cấp nên có thái độ đối xử với doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế, trong đó có doanh nghiệp FDI như cách chính quyền tỉnh Bình Dương đang làm. Đó là tinh thần phục vụ doanh nghiệp và lo cái lo của doanh nghiệp. 2. Tăng cường công tác đào tạo và đào tạo lại đội ngũ cán bộ quản lý doanh nghiệp, công chức nhà nước, và công nhân kỹ thuật có trình độ chuyên môn nghiệp vụ, phương pháp hoạt động kinh tế đối ngoại, trình độ ngoại ngữ và tay nghề kỹ thuật cao, đủ khả năng để đáp ứng tốt yêu cầu thu hút và quản lý hoạt động của đầu tư trực tiếp nước ngoài . 2.1 Chú trọng công tác cán bộ, đào tạo công nhân có tay nghề cao phù hợp với yêu cầu của các nhà đầu tư, kịp thời tham gia lao động khi có nhu cầu ở các KCN, KCX Trong hoạt động FDI, công tác cán bộ đặc biệt quan trọng vì cán bộ vừa tham gia hoạch định chính sách, vừa là người vận dụng luật pháp, chính sách để xử lý tác nghiệp hàng ngày liên quan đến mọi hoạt động FDI. Cán bộ quản lý Việt Nam trong các liên doanh đóng vai trò quan trọng trong việc bảo vệ lợi ích của Nhà nước Việt Nam, của doanh nghiệp Việt Nam, của người lao động; đảm bảo cho doanh nghiệp hoạt động theo đúng pháp luật. Do đó, phải đặc biệt chú trọng đến công tác đào tạo nâng cao phẩm chất chính trị, đạo đức, năng lực, trình độ chuyên môn của đội ngũ công chức Nhà nước các cấp, đôị ngũ cán bộ Việt Nam trong các doanh nghiệp FDI. - Có những doanh nghiệp FDI thuộc ngành cơ khí không tuyển nổi một công nhân kỹ thuật dưới 30 tuổi có tay nghề bậc 5. Hầu hết lao động trực tiếp của các doanh nghiệp FDI đều tuyển từ các vùng nông thôn, chưa qua đào tạo. Các nhà quản lý nước ngoài đều có đánh giá chung là lao động Việt Nam tuy chịu khó và cần cù nhưng kinh nghiệm nghề nghiệp ít, không có tác phong công nghiệp cho nên năng suất lao động rất thấp. Để hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài có hiệu quả, đạt được mục tiêu đề ra, vấn đề quan trọng là chúng ta không thể không có kế hoạch, quy hoạch đào tạo cán bộ, công nhân kỹ thuật để vừa đáp ứng kịp thời cho nhu cầu trước mắt, vừa chuẩn bị một cách cơ bản và lâu dài cho loại hoạt động này. Trước mắt nhà nước cần xây dựng Quy chế cán bộ Việt Nam tham gia Hội đồng quản trị và quản lý doanh nghiệp liên doanh, trong đó cần quy định rõ tiêu chuẩn chuyên môn, nghiệp vụ và chính trị; trách nhiệm, nghĩa vụ và quyền lợi của cán bộ trong và sau thời gian làm việc tại các doanh nghiệp FDI; chế độ báo cáo, kiểm tra. Hiện nay, Ban Tổ chức Trung ương đang phối hợp với các Bộ liên quan (trong đó có Bộ Công nghiệp) nghiên cứu chuyên đề quan trọng này, để trình Bộ chính trị. - Bộ Công nghiệp phối hợp với Bộ Giáo dục và Đào tạo tổ chức đào tạo chính quy cán bộ làm công tác FDI, cán bộ quản lý các doanh nghiệp có vốn FDI, trong ngành công nghiệp . - Bộ Công nghiệp phối hợp với Bộ Kế hoạch và Đầu tư tổ chức thường xuyên việc tập huấn số cán bộ Việt Nam hiện nay đang làm việc tại các liên doanh trong ngành công nghiệp, trang bị kiến thức về chuyên môn, nghiệp vụ, luật pháp cũng như những kinh nghiệm cần thiết nhất cho họ. - Bộ Công nghiệp phối hợp với Bộ Lao động-Thương binh-Xã hôị, Uỷ ban Nhân dân cấp tỉnh, Ban quản lý KCN tổ chức đào tạo công công nhân lành nghề làm việc cho các doanh nghiệp FDI. Thực tế cho thấy, công tác đào tạo của nước ta những năm qua còn nhiều bất hợp lý, tỷ lệ Đại học/ trung học là 4/1 trong khi đó ở các nước tiên tiến, tỷ lệ đó là 1/6, điều đó dẫn đến tình trạng “thừa thầy thiếu thợ “ như hiện nay (theo số liệu thống kê trong ngành công nghiệp Tp. Hồ Chí Minh, tỷ lệ cán bộ kinh tế/ công nhân lành nghề là 4/1). Công nhân có trình độ tay nghề cao không nhiều, lao động chủ yếu chưa qua đào tạo (chiếm 60-70%). 2.2 Cùng với các chính sách linh hoạt về vấn đề chuyển giao công nghệ trong ngàng Công nghiệp, cần phải có các chế độ ưu đãi phù hợp đối với các cán bộ nghiên cứu khoa học Hoạt động hợp tác đầu tư kèm theo nó là hoạt động chuyển giao công nghệ (CGCN) vào Việt Nam. Muốn xây dựng xã hội Xã hội Chủ nghĩa, trước hết cần xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của nước nhà. Muốn vậy, CGCN là con đường ngắn nhất và hiệu quả nhất. Tuy nhiên, do nôn nóng và thiếu hiểu biết nên trong thời gian qua nước ta đã cho chuyển giao nhiều dây chuyền công nghệ lạc hậu từ 40-60 năm và nước ta có nguy cơ trở thành bãi thải công nghệ của các nước trong khu vực và trên thế giới; năng lực sản xuất thì không hiệu qủa. Một số công nghệ lại quá hiện đại, công nhân Việt Nam không kịp tiếp nhận, làm quen trong một thời gian ngắn cho nên phải thuê chyên gia nước ngoài; các dây chuyền công nghệ này lại không phát huy hết công suất thiết kế. Do đó để hoạt động CGCN đạt hiệu quả, Nhà nước cần đầu tư kinh phí cho công tác nghiên cứu ứng dụng cho các Viện nghiên cứu khoa học - kỹ thuật, các trường Đại học... Có chính sách về lương và các chế độ kèm theo cho cán bộ nghiên cứu khoa học. Đào tạo cán bộ, công nhân kỹ thuật đủ trình độ tiếp thu kinh nghiệm quản lý và vận hành các dây chuyền công nghệ, tiến tới làm chủ công nghệ đó. Năm 2001, dự tính đầu tư cho khoa học công nghệ khoảng 2,3% tổng chi Ngân sách, song theo dự tính với nguồn kinh phí này cũng chỉ đủ đáp ứng được 40-50% nhu cầu hoạt động của ngành khoa học công nghệ. Các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền cũng cần có sự quan tâm đúng mức các công trình nghiên cứu khoa học công nghệ trong địa bàn, thực hiện tốt, nhanh làm thủ tục thẩm định, xét duyệt các dự án bằng cách phối hợp với ngân hàng... khuyến khích các doanh nghiệp có mối quan hệ mật thiết với các Viện nghiên cứu, các trung tâm, các trường Đại học cùng đầu tư, nghiên cứu, ứng dụng các đề tài nghiên cứu khoa học. Muốn tiến hành phát triển mạnh ngành Công nghiệp, cần có thiết bị, dây chuyền công nghệ tiên tiến, hiện đại... hoạt động CGCN có thể đáp ứng được yêu cầu đó. Song, để hoạt động CGCN đạt được hiệu quả và phục vụ cho nhu cầu thiết thực của ngàng cũng như của cả nước, một trong những đòi hỏi cơ bản là nước ta cần có một trình độ khoa học công nghệ nhất định. 3. Sớm hình thành một thị trường vốn đồng bộ, tạo ra khả năng đa dạng hoá trong huy động vốn cho đầu tư. - Nhà nước phải tạo điều kiện để các doanh nghiệp FDI được tiếp cận thị trường vốn; được vay tín dụng kể cả trung và dài hạn tại các tổ chức tín dụng hoạt động ở Việt Nam, tuỳ thuộc vào hiệu quả kinh tế, khả năng trả nợ của các dự án và có thể bảo đảm bằng tài sản của các Công ty mẹ ở nước ngoài; được phép thí điểm phát hành cổ phiếu, trái phiếu ở thị trường trong và ngoài nước để thu hút thêm vốn đầu tư. - Phát triển mạnh thị trường vốn để các doanh nghiệp Việt Nam có thể góp vốn đầu tư bằng các nguồn huy động dài hạn như: trái phiếu, cổ phiếu; tiến tới thực hiện cổ phần hoá doanh nghiệp FDI. Sớm ban hành các quy định về cầm cố, thế chấp, bảo lãnh để đẩy nhanh việc giải ngân vốn vay của các doanh nghiệp FDI; có quy định cụ thể về hoạt động của các quỹ đầu tư. - Xây dựng Quy chế quản lý hoạt động tài chính của doanh nghiệp FDI; ban hành các chuẩn mực kế toán, kiểm toán phù hợp với thông lệ quốc tế nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động của các doanh nghiệp; đồng thời bảo đảm sự quản lý của Nhà nước đối với hoạt động tài chính của doanh nghiệp. - Cho phép các doanh nghiệp FDI được chuyển nhượng và thế chấp quyền sử dụng đất để vay vốn từ các ngân hàng nước ngoài trong quá trình thực hiện các dự án đầu tư tại Việt Nam . - Giảm dần tỷ lệ kết hối ngoại tệ để tiến tới xoá bỏ việc kết hối bắt buộc khi có điều kiện; từng bước thực hiện mục tiêu tự do hoá chuyển đổi ngoại tệ đối với các giao dịch vãng lai. - Một vấn đề nữa là cân đối ngoại tệ cho các dự án đầu tư nước ngoài. Đây đang là một thách thức cho sự phát triển các dự án. Nhiều doanh nghiệp triển khai sớm nhằm vào thị trường trong nước, sản xuất hàng thay thế hàng nhập khẩu, đã đến thời kỳ phải trả vốn vay trong khi khả năng đáp ứng nhu cầu ngoại tệ trên của các ngân hàng thương mại rất hạn chế, nhất là vào thời điểm cuối chu kỳ kinh doanh của doanh nghiệp. - Hiện vẫn còn nhiều khác biệt trong đối xử giữa các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài với các doanh nghiệp trong nước. Các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài phải trả giá điện, nước, cước phí điện thoại, giá vé đi lại và các dịch vụ khác cao hơn các doanh nghiệp trong nước. Ngược lại, các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài được miễn thuế nhập khẩu máy móc, thiết bị, phương tiện vận tải dùng cho sản xuất kinh doanh trong khi đó các ưu đãi này không được áp dụng cho các doanh nghiệp trong nước. Hơn nữa thuế suất, thuế lợi tức được áp dụng cho các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài thấp hơn các doanh nghiệp trong nước. Trong thực tế, bù lại chi phí cao, sản phẩm của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài thường đạt chất lượng cao và giá bán cũng cao, khả năng chiếm lĩnh thị trường tốt hơn. Bởi vậy, trong giai đoạn đầu, lợi nhuận của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài có thể chưa cao hoặc bị lỗ, nhưng về lâu dài, họ bù đắp được chi phí để đảm bảo sản xuất kinh doanh có lãi. Năm 1996, số thuế mà các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đóng góp cho Ngân sách nhà nước chiếm gần 23% tổng số thu Ngân sách nhà nước là con số không nhỏ. Thiết nghĩ, vốn đầu tư nhà nước là cần thiết song vốn đầu tư trong nước vẫn là yếu tố quyết định sự tồn tại, phát triển lâu dài của nền kinh tế nói chung, của ngành công nghiệp nói riêng. Do đó, trong thời gian tới, một mặt thu hút hơn nữa vốn đầu tư nóng vào ngành công nghiệp Việt Nam , mặt khác cần có các chính sách ưu đãi, khuyến khích và hỗ trợ hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp công nghiệp trong nước. 4. Đổi mới và đẩy mạnh công tác vận động, xúc tiến đầu tư. Công tác vận động, xúc tiến đầu tư cần phải được đổi mới về nội dung và phương thức thực hiện, theo một kế hoạch và chương trình chủ động, có hiệu quả. Trước hết, cần xác định xúc tiến đầu tư cũng như xúc tiến thương mại là nhiệm vụ và trách nhiệm của cơ quan quản lý Nhà nước, của Bộ, ngành, các tỉnh, Ban quản lý các Khu công nghiệp. Cần thành lập bộ phận xúc tiến tại Bộ Công nghiệp, tổng công ty, các cơ quan đại diện của nước ta tại một số địa bàn trọng điểm ở nước ngoài để chủ động thu hút đầu tư nước ngoài. Ngân sách nhà nước cần dành một khoản kinh phí thoả đáng cho công tác vận động, xúc tiến đầu tư. Thực hiện chủ trương đa phương hoá các đối tác đầu tư nước ngoài để tạo chủ động trong mọi tình huống. Cùng với việc thu hút các nhà đầu tư truyền thống ở Châu á, ASEAN vào các dự án mà họ có kinh nghiệm và thế mạnh như công nghiệp chế biến, sản xuất hàng tiêu dùng xuất khẩu...Cần chuyển hướng mạnh sang Châu âu, Bắc Mỹ nhằm tranh thủ tiềm lực vốn, công nghệ kỹ thuật hiện đại của các Tập đoàn xuyên quốc gia để nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế; chú ý các dự án lớn, dự án vừa và nhỏ nhưng công nghệ hiện đại. Trên cơ sở quy hoạch ngành, sản phẩm, lãnh thổ và danh mục dự án kêu gọi đầu tư được phê duyệt; Bộ Công nghiệp cùng với các địa phương cần chủ động tiến hành vận động, xúc tiến đầu tư một cách cụ thể, trực tiếp đối với dự án, trực tiếp đối từng tập đoàn, công ty, nhà đầu tư có tiềm năng. Đối với một số dự án lớn, quan trọng, liên quan đến quôc kế dân sinh, cần chuẩn bị kỹ lưỡng dự án kể cả việc đề nghị một số nước hỗ trợ lập báo cáo nghiên cứu khả thi. Trên cơ sở đó, Chính phủ lựa chọn, mời trực tiếp một số Tập đoàn lớn trong ngành để đàm phán, tham gia đầu tư vào các dự án đó. Bộ Công nghiệp cùng với Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Ngoại giao, BộThương mại tổ chức phối hợp nghiên cứu tình hình kinh tế thị trường đầu tư, chính sách của các nước, các Tập đoàn xuyên quốc gia, các tập đoàn và các công ty lớn để có chính sách vận động thu hút đầu tư phù hợp. Nghiên cứu luật pháp, chính sách, biện pháp thu hút đầu tư nước ngoài của các nước trong khu vực cũng như trên thế giới để kịp thời có đối sách thích hợp. Cần tập trung chỉ đạo và hỗ trợ kịp thời các nhà đầu tư hiện có dự án đầu tư đang hoạt động, giúp họ giải quyết các vấn đề phát sinh, đó là biện pháp có ý nghĩa quan trọng để vận động có hiệu quả và có sức thuyết phục nhất đối với các nhà đầu tư mới. 5. Đối với việc lựa chọn các đối tác nước ngoài: cần xác định chiến lược lâu dài là dành sự ưu tiên hơn cho việc thu hút các nhà đầu tư thuộc các công ty xuyên quốc gia lớn, thực thụ, tiến tới xoá bỏ tình trạng thu hút các nhà đầu tư thiếu năng lực hoặc làm trung gian, môi giới đầu tư. Đặc điểm nổi bật của các nhà đầu tư nước ngoài vào Việt Nam vừa qua, phần lớn không phải xuất phát từ các công ty mẹ, mà là xuất phát từ các công ty thuộc thế hệ thứ hai, tức là xuất phát từ các chi nhánh công ty nước thứ hai đầu tư vào nước ta (nước thứ ba), còn quá ít các công ty xuyên quốc gia lớn. Trong khi đó hầu hết các lĩnh vực trong ngành công nghiệp đều đòi hỏi nhu cầu vốn lớn, trang thiết bị công nghệ hiện đại (công nghiệp dầu khí, công nghiệp nặng). Một trong những điều kiện có tính chất quyết định khả năng thu hút các công ty xuyên quốc gia lớn đến đầu tư là phải có các doanh nghiệp đối tác trong nước đủ mạnh về nhiều mặt. Và, để có được các doanh nghiệp loại này, Nhà nước ta cần có sự lựa chọn, hỗ trợ, đầu tư, xây dựng tạo cho những điều kiện, cơ hội thử thách và phát triển. Chúng ta cần có sự đầu tư thoả đáng để sớm hình thành các tập đoàn kinh tế hùng mạnh làm trụ cột cho sự phát triển kinh tế nước nhà, vừa đủ sức vươn ra hoạt động có hiệu quả trên thị trường quốc tế. Tóm lại, để thu hút và sử dụng có hiệu quả nguồn vốn FDI trong ngành Công nghiệp, một mặt Bộ Công nghiệp kiến nghị các cơ quan soạn thảo Luật và các văn bản quy phạm pháp luật tạo điều kiện pháp lý nhằm giúp Bộ Công nghiệp tiếp cận được nguồn thông tin báo cáo trực tiếp từ các doanh nghiệp công nghiệp FDI để không ngừng cập nhật thông tin phục vụ cho công tác quản lý Nhà nước theo chuyên ngành; mặt khác bản thân ngành cũng phải có những cải cách, thay đổi mang bản sắc riêng của ngành để tạo hiệu quả thu hút nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài ngày càng cao hơn. KẾT LUẬN Chỉ sau hơn một thập kỷ triển khai, đến nay khu vực công nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (ĐTNN) đang có vai trò ngày càng quan trọng trong nền kinh tế Việt Nam. Sự lớn mạnh của khu vực này không những góp phần thúc đẩy quá trình đổi mới và phát triển các ngành công nghiệp của Việt Nam theo hướng hiện đại hoá, mà còn góp phần trực tiếp tăng cường khả năng xuất khẩu của Việt Nam. Khu vực công nghiệp có vốn ĐTNN bao gồm 4 chuyên ngành: Công nghiệp Dầu khí; Công nghiệp nặng; Công nghiệp nhẹ và Công nghiệp thực phẩm. Trong khi công nghiệp dầu khí đang phát triển theo chiều sâu, tạo ra những sản phẩm mới như năng lượng, khí đốt, dầu nhờn, bột PVC và tiến tới sản xuất sản phẩm xăng dầu các loại thì công nghiệp nặng, công nghiệp nhẹ và công nghiệp thực phẩm cũng ngày càng lớn mạnh, thu hút ngày càng nhiều vốn đầu tư nước ngoài (hầu hết các hãng lớn nổi tiếng trên thế giới đều đã đầu tư vào Việt Nam như các hãng Toyota, Mercedes,...vào lĩnh vực sản xuất ô tô; Suzuki, Yamaha, Honda,...vào lĩnh vực sản xuất lắp ráp xe máy; Adidas, Bata, Reebox,... vào lĩnh vực da-giầy; Heneken, Coca-Cola,...vào công nghiệp thực phẩm...). Chỉ riêng trong 8 tháng đầu năm 2002, trong khi xuất khẩu dầu thô đạt 1.740 triệu USD, thì kim ngạch xuất khẩu của các ngành khác đạt 2.798 triệu USD. Công nghiệp có vốn ĐTNN hiện có mặt trong hầu hết các ngành công nghiệp trọng yếu của Việt Nam, kể cả ngành đóng tàu biển, khai thác than...Công thiệp có vốn ĐTNN hiện chiếm 100% sản phẩm của 2 ngành dầu khí và bột ngọt; trên 80% của ngành sản xuất xe máy; trên 90% về sản xuất ô tô, ti vi và xe đạp; trên 50% trong sản xuất thép...Ngoài ra công nghiệp có vốn ĐTNN đã và đang tham gia đánh thức các tiềm năng kinh tế ở các địa phương biến nhiều vùng đất hoang vắng thành các khu công nghiệp lớn. Có thể kể đến những địa phương như Bà Rịa-Vũng Tàu, Đồng Nai, Bình Dương, Hải Phòng, Hà Nội, TP HCM... Nhìn lại chặng đường đã qua, có thể thấy rõ những đóng góp lớn lao của khu vực công nghiệp có vốn ĐTNN đối với nền kinh tế Việt Nam. Vấn đề đặt ra hiện nay là, cần tiếp tục có các giải pháp, chính sách, định hướng cụ thể để xoá bỏ những rào cản, tạo ra môi trường đầu tư thuận lợi thu hút nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào ngành công nghiệp. Từ đó có biện pháp hỗ trợ cụ thể và thiết thực để khu vực công nghiệp này tăng trưởng với nhịp độ cao, trên cơ sở đó cùng với các khu công nghiệp nhà nước và công nghiệp ngoài quốc doanh đẩy nhanh sự nghiệp CNH, HĐH, nhằm thực hiện mục tiêu tới năm 2020 đưa Việt Nam cơ bản trở thành một nước công nghiệp như mục tiêu đã đề ra. Mục tiêu giới hạn của bài viết chỉ dừng lại ở mức độ nghiên cứu tổng hợp để minh hoạ một bức tranh tổng quát về tình hình hoạt động của các doanh nghiệp FDI trong lĩnh vực công nghiệp mà chưa có điều kiện đi sâu nghiên cứu tài chính, hiệu quả sản xuất kinh doanh, lỗ - lãi của từng doanh nghiệp, từng chuyên ngành nhỏ của khu vực này. Bài viết của em đã đề cập thực trạng cũng như những tồn tại hạn chế của tình hình thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào ngành Công nghiệp Việt Nam và có một số nhận định riêng của bản thân. Tuy nhiên, do hạn chế về kinh nghiệm cũng như thời gian nên bài viết không tránh khỏi những thiếu sót nhất định. Rất mong nhận được sự đánh giá, góp ý của các thầy cô giáo để sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện bài viết, phục vụ tốt cho công cuộc thu hút, sử dụng và quản lý vốn FDI trong ngành công nghiệp. Một lần nữa xin trân trọng cảm ơn! TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Giáo trình “ Đầu tư nước ngoài: - Đại học Ngoại Thương. 2. Báo cáo tổng hợp năm 2001/2002 Vụ Quản lý Dự án-Bộ Kế hoạch và Đầu tư. 3. Bộ Công nghiệp - Báo cáo tình hình hoạt động năm 2000 của Bộ Công nghiệp - Chiến lược và chính sách công nghiệp số 1 và 6 năm 2001. - Quy hoạch phát triển các ngành Công nghiệp đến năm 2005 4. Các văn bản pháp lý về đầu tư nước ngoài. 5. “ Đầu tư trực tiếp nước ngoài: Cơ sở pháp lý - Hiện trạng - cơ hội - triển vọng” Phan Hữu Thắng, Hoàng Văn Huấn, Nguyễn Anh Tuấn/ Vụ Quản lý dự án - Bộ Kế hoạch và Đầu tư. 6. “Đầu tư trực tiếp nước ngoài với công cuộc CNH, HĐH ở Việt Nam” TS. Nguyễn Trọng Xuân/ Trung tâm khoa học xã hội và Nhân văn Quốc gia, Viện Kinh tế học-Xuất bản năm 2002 7. “Dầu khí Việt Nam” Đoàn Thiên Tích-Nguyên Phó Chủ tịch Công đoàn Dầu khí Khoá I (1993-1998)/ Nhà xuất bản Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh 8. Thời báo kinh tế các số: 135 ra ngày 11/11/2002; số 14 ra ngày 24/1/2003; số 17-22 ra ngày 7/2/2003, 9. Báo Đầu tư ra ngày 30/8/2002; số 11 ra nganỳ 5/3/2003 10.Tạp chí Thương mại/ Bộ Thương mại Số 3+4+5-2003; số 22-23 tháng 2/2003 11. Kinh tế và dự báo số 1, 2 năm 2003 12. Nghiên cứu kinh tế số 294 tháng 11/2002, số 296 tháng 1/2003 13. Kinh tế Châu Á- Thái Bình Dương; số 6/12/2002 / Trung tâm kinh tế Châu Á- Thái Bình Dương (VAPEC) ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc8404.doc
Tài liệu liên quan