Đầu tư trực tiếp nước ngoài với tăng trưởng và phát triển kinh tế Việt Nam

Lời nói đầu Trong những năm qua, nước ta đã đạt được những thành tựu đáng khích lệ trong công cuộc đổi mới kinh tế. Nền kinh tế Việt Nam từng bước thoát khỏi nghèo nàn, lạc hậu và bước đầu có tích lũy. Nước ta đã ra khỏi cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội nghiêm trọng và kéo dài hơn 15 năm. Đến nay, thế và lực của đất nước đã có sự biến đổi rõ rệt về chất. Chúng ta đã tạo được những tiền đề cần thiết để chuyển sang thời kỳ phát triển mới: đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Những t

doc91 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1411 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Đầu tư trực tiếp nước ngoài với tăng trưởng và phát triển kinh tế Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hành tựu đó có sự đóng góp rất lớn của khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài . Đối với quá trình phát triển nền kinh tế Việt Nam, từ một điểm xuất phát thấp, đầu tư trực tiếp nước ngoài có vai trò hết sức quan trọng. Nó là nguồn bổ sung vốn cho đầu tư, là một kênh để chuyển giao công nghệ, là một giải pháp tạo việc làm và thu nhập cho người lao động, tạo nguồn thu cho ngân sách Nhà nước và giúp đẩy nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu nền kinh tế. Từ khi Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam có hiệu lực cho đến hết tháng 12 năm 2000, Nhà nước ta đã cấp giấy phép cho 3254 dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài với tổng số vốn đăng ký là 38.553 triệu USD. Tính trung bình mỗi năm chúng ta cấp phép cho 250 dự án với mức 2965,62 triệu USD vốn đăng ký. Trong giai đoạn 1991-1999, vốn đầu tư xây dựng cơ bản của các doanh nghiệp FDI chiếm 26,51% tổng vốn đầu tư xây dựng cơ bản xã hội. Năm 2000, khu vực FDI tạo ra doanh thu 6.500 triệu USD, giải quyết công ăn việc làm cho 350.000 lao động và đóng góp 12,7% trong GDP cả nước. Trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2010, Đảng và Nhà nước ta phấn đấu đến năm 2010 đưa mức GDP bình quân đầu người của nước ta lên gấp đôi so với hiện nay. Để tăng gấp đôi GDP trong khoảng 10 năm đòi hỏi một nhịp tăng trưởng bình quân năm khoảng 7,2% trong cả giai đoạn 2001-2010. Để đạt được mục tiêu tăng trưởng đã đề ra, chúng ta xác định phải huy động được vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài khoảng 10-12 tỷ USD cho giai đoạn 2001-2005 và 14-16 tỷ USD giai đoạn 2006-2010. Đây là một nhiệm vụ hết sức khó khăn trong điều kiện hiện nay khi mà dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam đang chững lại và có biểu hiện giảm xuống nhất là từ sau khi cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ khu vực nổ ra vào cuối năm 1997. Do đó, việc phân tích, đánh giá một cách chi tiết, sâu sắc và cụ thể về hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài nói chung và ở Việt Nam nói riêng nhằm thấy rõ hơn tác động của nó đến nền kinh tế, thấy được những vấn đề đang đặt ra, đồng thời tìm các giải pháp nhằm thu hút và sử dụng có hiệu quả nguồn vốn FDI đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp phát triển kinh tế đất nước đang là một yêu cầu cấp bách đặt ra đối với chúng ta. Nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề và trên cơ sở tham khảo ý kiến của các cô chú công tác tại Ban Phân tích và dự báo Kinh tế vĩ mô - Viện chiến lược phát triển - Bộ KH-ĐT, em đã chọn đề tài nghiên cứu cho luận văn tốt nghiệp của mình là: Đầu tư trực tiếp nước ngoài với tăng trưởng và phát triển kinh tế Việt Nam Thông qua nội dung nghiên cứu của luận văn, em hy vọng có thể vận dụng những kiến thức lý luận và thực tiễn đã tích lũy được để có một sự đánh giá khái quát, toàn diện nhưng cũng tương đối chi tiết và cụ thể về cơ sở lý luận cũng như thực trạng của hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam trong những năm vừa qua, từ đó có thể đề ra những định hướng cho hoạt động này trong thời gian tới. Nội dung luận văn bao gồm 3 chương: Chương I : cơ sở lý luận và thực tiễn về hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài Chương II : Thực trạng hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam thời gian qua Chương III : Những giải pháp huy động vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đáp ứng nhu cầu phát triển của nền kinh tế Luận văn của em hoàn thành được sự hướng dẫn trực tiếp tận tình của thầy Ngô Văn Mỹ và sự chỉ bảo, góp ý, giúp đỡ nhiệt tình, chu đáo của chú Ngô Việt Lâm cùng các cô chú Ban Phân tích và Dự báo kinh tế vĩ mô - Viện Chiến lược phát triển - Bộ Kế hoạch và đầu tư. Em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới thầy và các cô chú. Nhân dịp này, em cũng xin được gửi lời cảm ơn chân thành tới tất cả các thầy cô giáo và bạn bè đã giúp đỡ em trong quá trình học tập những năm vừa qua. Tuy nhiên, do kiến thức lý luận và kinh nghiệm thực tiễn còn non yếu, thời gian nghiên cứu chưa nhiều, cùng với các hạn chế về mặt số liệu nên chuyên đề của em không tránh khỏi những khiếm khuyết và sơ sài. Em mong được sự góp ý chỉ bảo để lần sau em làm được tốt hơn. Hà Nội, ngày 28/05/2001 Sinh viên Lê Đức Hoàng Chương I cơ sở lý luận và thực tiễn về hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài II. các vấn đề cơ bản về đầu tư trực tiếp nước ngoài 1. Khái niệm và các đặc trưng Đầu tư trực tiếp nước ngoài (Foreign Direct Investment - FDI) là một hình thức của đầu tư nước ngoài. Sự ra đời và phát triển của nó là kết quả tất yếu của quá trình quốc tế hóa và phân công lao động quốc tế. Trên thực tế có nhiều cách nhìn nhận khác nhau về đầu tư trực tiếp nước ngoài. Nhìn chung đầu tư trực tiếp nước ngoài được xem xét như một hoạt động kinh doanh ở đó có yếu tố di chuyển vốn quốc tế và kèm theo sự di chuyển vốn là chuyển giao công nghệ, kỹ năng quản lý và các ảnh hưởng kinh tế xã hội khác đối với nước nhận đầu tư. Theo Luật đầu tư nước ngoài Việt Nam, đầu tư trực tiếp nước ngoài có thể được hiểu như là việc các tổ chức, các cá nhân nước ngoài trực tiếp đưa vào Việt Nam vốn bằng tiền hoặc bất cứ tài sản nào được Chính phủ Việt Nam chấp nhận để hợp tác với bên Việt Nam hoặc tự mình tổ chức các hoạt động sản xuất kinh doanh trên lãnh thổ Việt Nam. Dưới góc độ kinh tế có thể hiểu đầu tư trực tiếp nước ngoài là hình thức di chuyển vốn quốc tế trong đó người sở hữu đồng thời trực tiếp tham gia điều hành và quản lý hoạt động sử dụng vốn đầu tư. Về thực chất, đầu tư trực tiếp nước ngoài là sự đầu tư của các cá nhân, tổ chức nhằm xây dựng các cơ sở, chi nhánh ở nước ngoài và làm chủ toàn bộ hay từng phần cơ sở đó. Tiền đề của việc xuất khẩu tư bản là “tư bản thừa” xuất hiện trong các nước tiên tiến. Nhưng thực chất vấn đề đó là một hiện tượng kinh tế mang tính tất yếu khách quan, khi mà quá trình tích tụ và tập trung đã đạt đến một mức độ nhất định sẽ xuất hiện nhu cầu đầu tư ra nước ngoài. Đó chính là quá trình phát triển của sức sản xuất xã hội, đến độ đã vượt ra khỏi khuôn khổ chật hẹp của một quốc gia, hình thành nên quy mô sản xuất trên phạm vi quốc tế. Theo Luật Đầu tư nước ngoài của Việt Nam, đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam gồm có 4 hình thức sau: Hợp đồng hợp tác kinh doanh : là văn bản ký kết giữa hai hoặc nhiều bên để cùng nhau tiến hành một hoặc nhiều hoạt động kinh doanh tại Việt Nam trên cơ sở quy định trách nhiệm và phân chia kết quả kinh doanh cho mỗi bên mà không thành lập một pháp nhân mới. Hợp đồng hợp tác kinh doanh phải được đại diện có thẩm quyền của các bên ký kết. Doanh nghiệp liên doanh : là doanh nghiệp được thành lập tại Việt Nam trên cơ sở hợp đồng liên doanh được ký kết giữa các bên (bên nước ngoài và bên Việt Nam). Doanh nghiệp liên doanh có tư cách pháp nhân, các bên tham gia liên doanh được chia lợi nhuận và chia rủi ro theo tỷ lệ góp vốn của mỗi bên vào phần vốn pháp định của liên doanh. Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài : là doanh nghiệp hoàn toàn thuộc sở hữu của các cá nhân, tổ chức nước ngoài do họ thành lập và quản lý. Nó là một pháp nhân mới của Việt Nam dưới hình thức công ty trách nhiệm hữu hạn. Đầu tư theo các hình thức BOT, BT, BTO : đây là các hình thức đầu tư đặc biệt thường áp dụng cho các công trình xây dựng cơ sở hạ tầng. Sự ra đời của các phương thức này nhằm tạo thêm nguồn vốn, xúc tiến nhanh chóng việc ưu tiên phát triển cơ sở hạ tầng, đồng thời san sẻ một phần gánh nặng đầu tư cho cơ sở hạ tầng của ngân sách Nhà nước. - Hợp đồng xây dựng - kinh doanh - chuyển giao (BOT) là văn bản ký kết giữa chủ đầu tư nước ngoài với cơ quan Nhà nước có thẩm quyền để xây dựng cơ sở hạ tầng tại Việt Nam, bên nước ngoài bỏ vốn đầu tư xây dựng công trình và kinh doanh trên công trình đó để thu hồi vốn và có lãi hợp lý, sau đó có nghĩa vụ chuyển giao công trình cho Nhà nước Việt Nam mà không được thu thêm bất kỳ khoản tiền nào khác. - Hợp đồng xây dựng - chuyển giao - kinh doanh (BTO) là văn bản ký kết giữa cơ quan Nhà nước có thẩm quyền của Việt Nam và nhà đầu tư nước ngoài để xây dựng công trình kết cấu hạ tầng. Sau khi xây dựng xong, nhà đầu tư nước ngoài chuyển giao công trình đó cho nhà nước Việt Nam. Nhà nước Việt Nam cho phép nhà đầu tư quyền kinh doanh trên công trình đó trong một thời gian nhất định để thu hồi vốn đầu tư và lợi nhuận hợp lý. - Hợp đồng xây dựng - chuyển giao (BT) là văn bản ký kết giữa cơ quan Nhà nước có thẩm quyền của Việt Nam và nhà đầu tư nước ngoài để xây dựng công trình kết cấu hạ tầng. Sau khi xây dựng xong, nhà đầu tư nước ngoài chuyển giao công trình đó cho Nhà nước Việt Nam. Chính phủ Việt Nam tạo điều kiện cho nhà đầu tư nước ngoài thực hiện dự án khác để thu hồi vốn đầu tư và thu được lợi nhuận hợp lý. Đầu tư trực tiếp nước ngoài có một số đặc điểm chủ yếu sau : - Chủ đầu tư tự quyết định đầu tư, quyết định sản xuất kinh doanh và tự chịu trách nhiệm về lỗ lãi. Hình thức này mang tính khả thi và hiệu quả kinh tế cao, không có những ràng buộc về chính trị, không để lại gánh nặng nợ nần cho nền kinh tế. - Chủ đầu tư nước ngoài điều hành toàn bộ mọi hoạt động đầu tư nếu là doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài hoặc tham gia điều hành doanh nghiệp liên doanh tùy theo tỷ lệ góp vốn của mình. - Thông qua hình thức này, nước chủ nhà có thể tiếp nhận được công nghệ, kỹ thuật tiên tiến, học hỏi kinh nghiệm quản lý...là những mục tiêu mà các hình thức đầu tư khác không giải quyết được. - Nguồn vốn này không chỉ bao gồm vốn đầu tư ban đầu của chủ đầu tư dưới hình thức vốn pháp định, nó còn bao gồm cả vốn vay của doanh nghiệp để triển khai hoặc mở rộng dự án cũng như vốn đầu tư từ nguồn lợi nhuận thu được. 3.3. Đánh giá bản chất và vai trò của FDI đối với các nước đang phát triển Bản chất của FDI là các hoạt động đầu tư ra nước ngoài trên cơ sở khai thác lợi thế so sánh trong phân công lao động quốc tế nhằm tìm kiếm lợi nhuận cao ở phạm vi toàn cầu. Do vậy, FDI là các hoạt động kinh tế và nó có ảnh hưởng như con dao hai lưỡi đối với nước nhận đầu tư. Nếu Chính phủ nước chủ nhà mạnh thông qua các chính sách thu hút FDI hợp lý thì khai thác được tốt mặt tích cực và hạn chế tối đa ảnh hưởng xấu của nó. Ngược lại FDI sẽ là nhân tố gây trở ngại lớn cho những Chính phủ không làm chủ được đường lối phát triển đất nước của mình. Khi phân tích vai trò của FDI thì không những chỉ căn cứ vào mức độ tham gia của nó vào nền kinh tế mà còn phải đánh giá khả năng tiếp nhận của nước chủ nhà. Thật vậy, trong nhiều trường hợp mặc dù tỷ lệ FDI trong tổng vốn đầu tư cao nhưng điều đó không có nghĩa là tác dụng của nó lớn đối với nước nhận đầu tư. Hiệu quả hoạt động FDI còn phụ thuộc rất nhiều vào trình độ phát triển kinh tế của nước nhận đầu tư. Thông thường cứ 1 USD vốn đầu tư của nước ngoài cần phải có 3 - 4 USD vốn đối ứng, nếu đạt được tỷ lệ như vậy thì hoạt động của cả vốn đầu tư trong nước và nước ngoài mới có hiệu quả. Vì thế FDI chỉ đóng vai trò tăng cường vốn đầu tư trong nước mà không phải là yếu tố có tính chất quyết định sự phát triển kinh tế xã hội của nước đang phát triển. Tầm quan trọng lớn nhất của FDI không phải là bổ sung vốn đầu tư nội địa mà là chuyển giao công nghệ, kiến thức kinh doanh, đào tạo tay nghề cho công nhân và cơ hội tiếp cận vào thị trường thế giới của các nước đang phát triển. Tuy nhiên mức độ tác động tích cực của các yếu tố này ở từng nước rất khác nhau, nó phụ thuộc quan trọng vào chiến lược thu hút FDI của nước chủ nhà. Một khía cạnh khác, ở nhiều nước, xét về lâu dài FDI không tạo ra sự phát triển bền vững cho nước chủ nhà. Những hậu quả của nó như đã phân tích trên tác động còn lớn hơn lợi ích mà các nước đang phát triển thu được nếu xét theo tiêu chuẩn của kinh tế phát triển. Vì vậy khi đánh giá vai trò của FDI thì cần phải phân tích ảnh hưởng của nó trên phạm vi kinh tế xã hội. Hơn nữa không có đánh giá chung về vai trò của FDI mà cần phân tích ảnh hưởng của nó trong điều kiện cụ thể từng nước. Từ đó mới tìm ra được điều kiện cần và đủ để sử dụng có hiệu quả FDI trong chiến lược phát triển tổng thể của nước chủ nhà. Để đánh giá một cách đầy đủ về ảnh hưởng của FDI có thể căn cứ vào các yếu tố cơ bản sau: Lưu chuyển ngoại tệ : mức độ góp vốn, cải thiện cán cân thanh toán quốc tế, chuyển lợi nhuận về nước, thực hiện giá chuyển giao, thuế lợi nhuận. Cạnh tranh : mức độ làm phá sản các doanh nghiệp địa phương, thay thế vị trí các cơ sở sản xuất then chốt nội địa. Chuyển giao công nghệ : Chi phí R & D của FDI ở nước chủ nhà, mức độ độc quyền công nghệ và công nghệ phù hợp ở nước sở tại. Sản phẩm : Tỷ lệ tiêu thụ sản phẩm ở trong - ngoài nước và giữa các tầng lớp dân cư trong xã hội, sản phẩm phù hợp. Đào tạo cán bộ và công nhân : Số lượng, trình độ cán bộ và công nhân được đào tạo, số lao động được tuyển dụng. Mối quan hệ với các doanh nghiệp và cơ sở địa phương : Mức độ thiết lập các mối quan hệ với các cơ sở trong nước, liên kết kinh tế, chuyển đổi cơ cấu kinh tế ở nước chủ nhà. Các vấn đề xã hội : Bất bình đẳng trong thu nhập, lối sống, tăng chênh lệch giàu - nghèo trong xã hội. Các yếu tố trên cần được phân tích tổng hợp cả về định tính và định lượng trong mối tương quan với các yếu tố khác tác động đến sự tăng trưởng và phát triển của nước nhận đầu tư. Nếu chỉ phân tích về mặt định tính thì không chỉ ra được mức độ ảnh hưởng của nó đối với các lĩnh vực kinh tế - xã hội của nước nhận đầu tư. Tuy nhiên, phân tích định lượng là vấn đề khó đối với các nước đang phát triển, bởi vì nguồn số liệu ít và thiếu chính xác. Hơn nữa, tốc độ tăng trưởng và phát triển không chỉ do nguyên nhân của FDI mà còn được quyết định bởi nhiều yếu tố quan trọng khác. Do vậy việc xây dựng các giả định và lựa chọn phương pháp nghiên cứu để phân tích ảnh hưởng của FDI đối với nước nhận đầu tư đóng vai trò rất quan trọng. 4. Quá trình vận động của luồng vốn FDI tại các nước đang phát triển Châu á những năm gần đây Trong những năm gần đây, đầu tư trực tiếp nước ngoài trên thế giới tăng nhanh và có sự thay đổi lớn về cơ cấu vốn giữa các khu vực và các quốc gia. Trong phần này ta sẽ tập trung xem xét thực trạng và xu hướng vận động của FDI ở các nước đang phát triển khu vực Châu á trong đó có Việt Nam. Trái ngược với nhiều dự báo, năm 1999, FDI vào Đông và Đông Nam á tăng 11%, đạt 93 tỷ USD, chủ yếu là các nước mới công nghiệp hóa (Hồng Kông - Trung Quốc, Hàn Quốc, Singapore và Đài Loan), luồng FDI vào những nước này tăng gần 70%. Tại Hàn Quốc, luồng vào FDI đã tăng kỷ lục, đạt 10 tỷ USD. Luồng FDI vào Singapore và Đài Loan đã tăng nhanh trở lại sau khi giảm mạnh vào năm 1998. Luồng FDI vào Hồng Kông - nước tiếp nhận FDI lớn thứ hai trong khu vực hiện nay - tăng hơn 50%, đạt 23 tỷ USD, do năm 1998 các nhà đầu tư Hồng Kông đã dấy lên làn sóng đầu tư trở lại và một lượng lớn lợi nhuận đã được tái đầu tư nhờ có sự thay đổi toàn diện hoạt động kinh tế tại đây. Trái lại, luồng FDI vào 3 trong số 5 nước chịu ảnh hưởng nặng nề nhất của cuộc khủng hoảng tài chính vừa qua (Inđônêxia, Thái Lan và Philippin) lại giảm. Năm 1999, FDI vào Trung Quốc - nước có lượng FDI trong 4 năm liền đều đạt khoảng 45 tỷ USD - giảm gần 8%, chỉ đạt hơn 40 tỷ USD. Những nước có thu nhập thấp tại khu vực Đông Nam á mà lâu nay vẫn phụ thuộc vào nguồn FDI của các nước khác trong khu vực tiếp tục lâm vào tình trạng khó khăn, do hoạt động đầu tư tại Châu á bị ảnh hưởng bởi cuộc khủng hoảng tài chính. Sự phục hồi luồng FDI vào khu vực này là do những nỗ lực mạnh mẽ trong việc thu hút FDI, bao gồm tự do hóa hơn nữa ở cấp ngành, cởi mở hơn đối với các hoạt động sáp nhập và thôn tính xuyên quốc gia. Năm 1999, tại 5 nước (Inđônêxia, Malaixia, Philippin, Hàn Quốc và Thái Lan) chịu ảnh hưởng nặng nề nhất từ cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ khu vực, tổng giá trị các vụ sáp nhập và thôn tính xuyên quốc gia đạt con số kỷ lục 15 tỷ USD. Các hoạt động sáp nhập và thôn tính thực sự trở thành một phương thức quan trọng để các TNCs đầu tư vào khu vực này. Trong giai đoạn 1997 - 1999, trung bình mỗi năm khu vực này nhận được 20 tỷ USD từ các hoạt động thôn tính và sáp nhập, so với mức 7 tỷ USD giai đoạn 1994 - 1996. Năm 1999, FDI vào khu vực Nam á giảm 13%, đạt 3,2 tỷ USD. Luồng FDI vào ấn Độ - nước tiếp nhận FDI lớn nhất tại khu vực - là 2,2 tỷ USD, giảm 17% so với năm 1998. Năm 1999, FDI vào Trung á giảm đôi chút, đạt 2,8 tỷ USD, làm mất đi đà tăng trưởng đã có được trong thời kỳ đầu của chương trình tự do hóa và cải cách kinh tế. FDI tại các quốc đảo Thái Bình Dương đã có những bước tiến triển. Trong năm 1999, tổng giá trị FDI tại các nước này đạt 250 triệu USD. Còn tại Tây á, luồng FDI vào đạt 6,7 tỷ USD, trong đó ảrập -Xêut là nước tiếp nhận phần lớn các nguồn đầu tư mới. Luồng FDI ra từ các nước đang phát triển tại Châu á đã tăng trở lại sau thời kỳ suy giảm do khủng hoảng tài chính tiền tệ khu vực (năm 1999, tăng khoảng 64%, ước đạt 37 tỷ USD). Tuy nhiên, mức tăng này vẫn còn thấp hơn so với thời kỳ trước khủng hoảng. Hồng Kông vẫn là nước đầu tư ra nước ngoài nhiều nhất, chiếm hơn 1/2 tổng giá trị luồng FDI ra của cả khu vực. Nhật Bản – một trong những nước cung cấp FDI lớn nhất thế giới đang có những chuyển hướng cơ bản khu vực đầu tư. Trong những năm gần đây, đầu tư của Nhật Bản có xu hướng dịch chuyển từ thị trường Bắc Mỹ, Tây Âu, vốn là những thị trường truyền thống của họ, sang khu vực Châu á, mà trọng tâm là các nước Đông Nam á để tận dụng lợi thế so sánh về lao động, tài nguyên thiên nhiên, thị trường – là những lợi thế tiềm năng của các nước này – nhằm góp phần khắc phục tình trạng suy thoái kinh tế của mình, hỗ trợ cho sự phát triển của các doanh nghiệp vừa và nhỏ và các ngành công nghiệp truyền thống sử dụng nhiều lao động, tài nguyên. Các nước ASEAN, vốn trước đây chỉ là những nước tiếp nhận FDI của các nước khác thì nay đã bắt đầu đầu tư ra nước ngoài, mà thị trường chủ yếu là Trung Quốc, Việt Nam và những nước trong khu vực. Các TNCs Châu á tiếp tục thu hẹp hoạt động kinh doanh trong năm 1999. Có những trường hợp chính các TNCs Châu á tự bán các cơ sở kinh doanh của mình tại nước ngoài, cũng có trường hợp các TNCs này bị các TNCs nước ngoài thôn tính. Do khủng hoảng, nhiều TNCs Châu á không tận dụng được lợi thế về giá trị tài sản rẻ, ngoại trừ một số TNCs tại Hồng Kông, Singapore và Đài Loan đang nỗ lực duy trì khả năng tài chính của mình để có thể tiến hành các hoạt động sáp nhập và thôn tính, chủ yếu là ở các nước láng giềng. Các nước công nghiệp mới ở Châu á đang vươn lên thành lực lượng những nước đầu tư mới, thật sự trở thành những đối thủ cạnh tranh với Nhật, Mỹ và Tây Âu tại khu vực này. Luồng đầu tư vào Châu á đang trên đà phục hồi, có lẽ trong khoảng 2-3 năm nữa sẽ đạt mức của năm 1997. Cuộc khủng hoảng tài chính-tiền tệ ở Châu á tuy đã tạm thời cản trở luồng đầu tư vào khu vực và liên khu vực, tuy nhiên tự do hóa đầu tư đã trở thành một xu thế lớn trong khu vực và trên thế giới mà cuộc khủng hoảng này không thể đảo ngược mà trái lại còn trở thành một nhân tố thúc đẩy nó. Có thể nói cuộc khủng hoảng sẽ chỉ có tác động trong ngắn hạn mà chủ yếu là làm giảm tính hấp dẫn tương đối của các nền kinh tế trong khu vực so với phần còn lại của thế giới. Các nước đều coi FDI là một nguồn vốn ổn định hơn so với vốn ngắn hạn và có vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế, đồng thời là nguồn chuyển giao công nghệ chính yếu cho nước tiếp nhận. Việc gia thế giới đầu tư sẽ góp phần khắc phục khủng hoảng và giúp các nước bị ảnh hưởng nhanh chóng phục hồi. Đây cũng là nguyên nhân sẽ làm cho cuộc đua tranh giành lấy nguồn vốn FDI giữa các nước trở nên rất khốc liệt. Xét về mặt lâu dài, luồng FDI vào Châu á nói chung và vào Việt Nam nói riêng chịu ảnh hưởng của hai yếu tố: sự cạnh tranh của khu vực với bên ngoài và sự cạnh tranh giữa các nước trong khu vực. Với tư cách là nước nhận đầu tư, các nước ASEAN, Trung Quốc và Việt Nam là những đối thủ cạnh tranh nhau. Do có lợi thế so sánh gần giống nhau nên trong chiến lược phát triển kinh tế của mình, các nước này có xu hướng bố trí cơ cấu kinh tế giống nhau với các đặc trưng chủ yếu là các ngành có hàm lượng lao động sống và nguyên liệu cao (khai thác tài nguyên thiên nhiên, công nghiệp hàng tiêu dùng, lắp ráp điện tử...), vì vậy tính chất cạnh tranh trong thu hút đầu tư giữa các nước này là rất lớn, khả năng hấp dẫn đầu tư của các thành viên cộng đồng hoàn toàn tuỳ thuộc vào chính sách và môi trường đầu tư của từng nước. Những xu hướng vận động trên đây của các luồng vốn FDI và khả năng tận dụng cơ hội thu hút FDI của Việt Nam trong những năm tới đến mức nào trước hết phụ thuộc vào chính sách, môi trường kinh doanh của đất nước và bối cảnh phát triển hợp tác của khu vực. Chương II Tình hình thực hiện đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam thời gian qua I. đánh giá tổng quan về FDI tại Việt Nam 1. Thực trạng cấp giấy phép đầu tư trực tiếp nước ngoài 1.1. Tình hình chung Từ khi Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam có hiệu lực cho đến hết tháng 12 năm 2000, Nhà nước ta đã cấp giấy phép cho 3254 dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài với tổng số vốn đăng ký là 38.553 triệu USD. Tính trung bình mỗi năm chúng ta cấp phép cho 250 dự án với mức 2965,62 triệu USD vốn đăng ký. Cũng trong thời gian này, đã có 1067 dự án mở rộng quy mô vốn đầu tư với lượng vốn bổ sung thêm là 6034 triệu USD. Như vậy tổng số vốn cấp mới và bổ sung đến thời điểm hết năm 2000 đạt khoảng 44.587 triệu USD. Trong số các dự án đã nêu trên, đã có 30 dự án hết hạn hoạt động với số vốn hết hạn là 291 triệu USD. Bên cạnh đó, đã có một số lượng đáng kể dự án bị giải thể, rút giấy phép đầu tư (645 dự án), lượng vốn giải thể là 7952 triệu USD, chiếm gần 21% tổng lượng vốn đăng ký. Như vậy, tính đến ngày 15/03/2001, tổng số dự án còn hiệu lực là 2701 với tổng vốn đăng ký (kể cả phần vốn bổ sung) là 36.329,775 triệu USD. Nhịp độ thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài của ta có xu hướng tăng nhanh từ 1988 đến 1995 cả về số dự án cũng như vốn đăng ký. Riêng năm 1996 sở dĩ có lượng vốn đăng ký tăng vọt là do có 2 dự án đầu tư vào lĩnh vực phát triển đô thị ở Hà Nội và TP Hồ Chí Minh được phê duyệt với quy mô dự án lớn (hơn 3 tỷ USD/ dự án). Như vậy nếu xét trong cả thời kỳ 1988-2000 thì năm 1995 có thể được xem là năm đỉnh cao về thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài của Việt Nam (cả về số dự án, vốn đăng ký cũng như quy mô dự án). Từ năm 1997 đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam có biểu hiện suy giảm, nhất là đến các năm 1998, 1999 thì xu hướng giảm đó càng rõ rệt hơn. So với năm 1997, số dự án được duyệt của năm 1998 chỉ bằng 79,71%, năm 1999 chỉ bằng 80,58%. Số liệu tương ứng của vốn đăng ký là 83,83% và 33,01%. Trong các năm này, số dự án giải thể và số lượng vốn giải thể tăng mạnh. Lượng vốn giải thể năm 1998 là 2428 triệu USD, gấp 4,5 lần so với năm 1997. Đến năm 2000, sự giảm sút có chiều hướng dừng lại và bắt đầu có sự phục hồi. Số dự án và lượng vốn đầu tư của năm 2000 đã tăng lên so với năm 1999, tuy nhiên vẫn còn khá nhỏ so với cả những năm 1997 và 1998. Nếu nhìn lại một cách thuần tuý trên cơ sở các con số thì có thể nói chúng ta đã ngăn chặn được đà giảm sút đầu tư. Song nếu nhìn nhận một cách tổng quát và khách quan hơn, thì vẫn còn khá nhiều thách thức trong tương lai. Nếu không tính đến dự án khí Nam Côn Sơn (1080 triệu USD) được cấp phép vào những ngày cuối cùng trong năm, thì trên thực tế năm 2000, tổng vốn FDI đăng ký chỉ đạt 1318 triệu USD, thấp hơn nhiều so với năm 99 (2196 triệu USD). Dự án này đã hình thành từ nhiều năm trước nhưng bị trắc trở chủ yếu do vấn đề giá cả về khí giữa các đối tác. So với năm 1999, số dự án tăng vốn chỉ bằng 94% (153/163 dự án) và số vốn tăng thêm chỉ bằng 68% (427/629 triệu USD). Bảng 1: Tình hình thực hiện FDI qua các năm Đơn vị : triệu USD Chỉ tiêu Số dự án đầu tư Vốn đăng ký cấp mới và tăng vốn Cấp mới Lượt tăng vốn Giải thể Hết hạn Vốn đăng ký Tăng vốn Giải thể Hết hạn Còn hiệu lực Tổng 88-2000 3254 1067 645 30 38553 6034 7952 291 3 năm 88-90 214 1 6 2 1582 0.3 26 0.3 1556 1991 151 9 37 2 1275 9 240 1 2598 1992 197 13 48 3 2027 50 402 13.9 4260 1993 274 60 34 4 2589 240 79 38 6971 1994 367 84 60 1 3746 516 292 0.1 10941 1995 408 151 58 3 6607 1318 509 45.5 18311 5 năm 91-95 1397 262 237 12 16244 2132 1522 98.6 1996 365 162 54 4 8640 788 1141 146.1 26453 1997 348 164 85 6 4649 1173 544 24.4 31706 1998 275 162 101 2 3897 884 2428 19.1 34040 1999 311 163 85 2 1568 629 624 1.1 35613 2000 344 153 77 2 1973 427 1666 1.9 36344 5 năm 96-2000 1643 804 402 16 20727 3902 6403 193 Vốn còn hiệu lực = vốn cấp mới + tăng vốn - vốn hết hạn - vốn giải thể Nguồn : Vụ Quản lý dự án - Bộ KH-ĐT Trong bối cảnh đầu tư quốc tế vào các nước ASEAN suy giảm và môi trường đầu tư ở nước ta vẫn còn những hạn chế nhất định, sự phục hồi bước đầu của đầu tư nước ngoài qua các số liệu nêu trên là các dấu hiệu rất đáng khích lệ và là một phần hệ quả từ các tác động tích cực của các giải pháp thu hút đầu tư mà Chính phủ đã thực thi trong những năm gần đây. Tuy nhiên chúng ta cần nỗ lực hơn nữa để tạo ra sự phục hồi thực sự vững chắc trong lĩnh vực này. Quy mô dự án đầu tư (triệu USD/ dự án) Năm 91 92 93 94 95 96 97 98 99 2000 Quy mô 8.76 11 10.8 10.98 17.6 26.1 13.5 14.2 5.52 5.73 Nguồn : Những vấn đề kinh tế thế giới, Số 2(64) 2000. Nếu theo số lượng vốn đăng ký thì quy mô dự án thời kỳ 1988 - 2000 là 11,85 triệu USD / 1dự án. So với một số nước ở thời kỳ đầu thực hiện chính sách thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài thì quy mô dự án đầu tư vào nước ta bình quân ở thời kỳ này là không thấp. Nhưng vấn đề đáng quan tâm là quy mô dự án theo vốn đăng ký bình quân của năm 1999 và năm 2000 lại nhỏ đi một cách đột ngột và ở mức thấp nhất từ trước đến nay (5,52 triệu USD/ 1dự án năm 1999 và 5,73 triệu USD/ 1dự án năm 2000). Quy mô dự án năm 2000 chỉ bằng 48,35% quy mô dự án bình quân của thời kỳ 1988 - 2000 và bằng 32,4% so với quy mô dự án bình quân của năm cao nhất (năm 1995, ta không so sánh với năm 1996 vì có 2 dự án đặc biệt như đã nêu trên), trong khi quy mô dự án bình quân của năm 2000 đã có sự tăng trưởng so với của năm 1999. Đây là những vấn đề rất cần được lưu tâm trong chiến lược thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài của nước ta thời gian tới. 1.2. Các đối tác được cấp giấy phép đầu tư Tính đến hết năm 2000 đã có hơn 700 công ty thuộc 66 nước và vùng lãnh thổ (gọi tắt là các nước) có dự án đầu tư trực tiếp tại Việt Nam. Nếu chỉ tính các dự án còn hiệu lực, tới ngày 15/03/2001 có 58 nước có đầu tư trực tiếp tại Việt Nam trong đó 12 nước có tổng số vốn đăng ký hơn 1 tỷ USD mỗi nước. Chỉ với 12 nước (bằng 20,6% số nước) đã chiếm tới 85,54% tổng số vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài của Việt Nam (Singapore: 18,22%; Đài Loan: 13,74%; Nhật Bản:10,69%; Hàn Quốc: 8,76%; Hồng Kông: 7,83%; Pháp: 5%; Quần đảo Virgin: 4,92%; Nga: 4,07%; Hà Lan: 3,25%; Vương quốc Anh: 3,2%: Thái Lan: 3,03%; Malaixia: 2,83%). Trong tổng số vốn đầu tư của 12 nước này thì có tới trên 70% là thuộc các nước Châu á. Các nhà đầu tư Châu á vào muộn hơn nhưng tốc độ tăng nhanh với quy mô rộng lớn trên nhiều lĩnh vực. Điều đó chứng tỏ môi trường đầu tư của Việt Nam hiện đang thu hút được sự quan tâm của các nhà đầu tư Châu á. Và trình độ, điều kiện, khả năng của các nhà đầu tư Châu á cũng phù hợp với điều kiện, yêu cầu phát triển của Việt Nam trong thời gian qua. Đồng thời đây cũng là nguyên nhân làm cho nền kinh tế nước ta phải chịu ảnh hưởng khá mạnh của cuộc khủng hoảng tiền tệ khu vực Châu á. Trong khi đó, nguồn vốn đầu tư từ các nước công nghiệp phát triển khác như Đức, Mỹ, Anh...còn chiếm tỷ trọng tương đối thấp, chứng tỏ môi trường đầu tư ở Việt Nam chưa gây được sự chú ý nhiều của các nhà đầu tư phương Tây và Mỹ. Bảng 2: 12 đối tác nước ngoài đầu tư lớn nhất vào Việt Nam (Tính đến 15/03/2001 - chỉ tính các dự án còn hiệu lực) Đơn vị : triệu USD STT Nước Vùng lãnh thổ Số dự án Tổng vốn đầu tư Vốn pháp định Đầu tư thực hiện 1 Singapore 236 6619,871 2036,066 2048,154 2 Đài Loan 662 4990,669 2120,096 2411,855 3 Nhật Bản 304 3884,892 1927,881 2623,879 4 Hàn Quốc 277 3181,738 1226,648 1911,570 5 Hồng Kông 208 2844,499 1231,076 1431,662 6 Pháp 107 1818,607 1219,716 587,320 7 Virgin Islands 107 1786,941 695,456 858,341 8 Liên bang Nga 35 1479,722 916,897 600,255 9 Hà Lan 40 1179,956 951,962 504,055 10 V. Quốc Anh 35 1163,254 394,840 670,909 11 Thái Lan 93 1102,472 441,250 494,310 12 Malaixia 81 1026,914 476,433 876,157 Nguồn : Vụ Quản lý dự án ĐTNN - Bộ KH-ĐT Tuy vậy cho đến nay, trong số các nhà đầu tư nước ngoài vào Việt Nam thì sự có mặt của các nhà đầu tư thuộc các tập đoàn lớn chưa nhiều (mới có khoảng 50/500 tập đoàn kinh tế lớn của thế giới có dự án đầu tư tại Việt Nam), còn lại chủ yếu là các công ty vừa và nhỏ và không ít các nhà môi giới đầu tư. Các tập đoàn lớn, có năng lực tài chính và công nghệ, chủ yếu là của Hàn Quốc và Nhật Bản. Còn trong số các nhà đầu tư Châu á nếu không kể các nhà đầu tư Nhật Bản và Hàn Quốc thì phần lớn là người Hoa. Đây là đặc điểm rất cần được chú ý trong việc lựa chọn các đối tác đầu tư sắp tới nhằm làm cho hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài theo yêu cầu của công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa của ta đạt hiệu quả hơn. 1.3. Cơ cấu đầu tư theo vùng lãnh thổ Với mong muốn hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài góp phần làm chuyển dịch cơ cấu giữa các vùng kinh tế nên Chính phủ ta đã có những chính sách khuyến khích, ưu đãi đối với các dự án đầu tư vào “những vùng có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn, miền núi, vùng sâu, vùng xa”. Tuy vậy, các cấp độ ưu đãi chưa tương ứng với mức độ chênh lệch về điều kiện giữa các vùng do đó, vốn nước ngoài vẫn được đầu tư tập trung chủ yếu vào một số địa bàn có điều kiện thuận lợi về kết cấu hạ tầng và môi trường kinh tế-xã hội. Nói riêng trong lĩnh vực nông lâm nghiệp, các dự án đầu tư tập trung chủ yếu vào các vùng Đông Nam Bộ, đồng bằng sông Hồng, đồng bằng sông Cửu Long. Riêng 3 vùng này đã chiếm tới 63,5% số dự án và 70% vốn đầu tư. Trong khi đó, có 15 tỉnh thuộc trung du và miền núi phía Bắc, tuy vẫn là những địa bàn có nhiều tiềm năng mở rộng và phát triển nông lâm nghiệp và có nhu cầu lớn về thu hút đầu tư, nhưng do có điều kiện khó khăn ._.nên hầu như chưa có dự án đầu tư nước ngoài nào vào lĩnh vực nông lâm nghiệp ở các vùng này. Hoạt động đầu tư tập trung ở các tỉnh phía Bắc và phía Nam, các tỉnh miền Trung chiếm tỷ lệ rất nhỏ. Riêng vùng Đông Nam Bộ đã chiếm tới 53,13% tổng lượng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài của cả nước, trong khi vùng Tây Bắc và Tây Nguyên chiếm chưa đầy 1%. Sự phân bổ FDI cũng chênh lệch rất nhiều giữa khu vực thành thị và nông thôn. Trên 80% tổng số vốn đầu tư tập trung ở khu vực thành thị, chỉ còn chưa tới 20% cho khu vực nông thôn, trong khi 80% dân số Việt Nam sinh sống ở nông thôn, làm cho khoảng cách thu nhập giữa hai khu vực ngày càng lớn. Vốn đầu tư vào các vùng (1988-1999) được xếp thứ tự như sau: Bảng 3: Cơ cấu đầu tư theo vùng (%) 1. Đông Nam Bộ 53,13 5. Đồng bằng sông Cửu Long 2,46 2. Đồng Bằng sông Hồng 29,6 6. Bắc Trung Bộ 2,38 3. Duyên hải Nam Trung Bộ 7,64 7. Tây Nguyên 0,16 4. Đông Bắc 4,46 8. Tây Bắc 0,15 Nguồn : Những vấn đề kinh tế thế giới, Số 2 (64) 2000. Cũng trong thời kỳ này, nếu như hai thành phố lớn là Hà Nội và TP Hồ Chí Minh đã chiếm tới hơn nửa (50,3%) tổng số vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài của cả nước thì 10 địa phương có điều kiện thuận lợi cũng chiếm tới 87,8%. TP Hồ Chí Minh chiếm 26,6% tổng vốn đăng ký của cả nước. Số liệu tương ứng của các địa phương tiếp theo như sau : Hà Nội: 21,15%; Đồng Nai: 12,5%; Bình Dương: 6,4%. Đến nay, phần lớn các tỉnh, thành phố đều đã có hoạt động hợp tác đầu tư với nước ngoài. Tuy nhiên, trừ hoạt động thăm dò và khai thác dầu khí ở thềm lục địa, vốn đầu tư tập trung nhiều vào 3 vùng kinh tế trọng điểm là những nơi có nhiều thuận lợi. Vùng kinh tế trọng điểm phía Nam, với ưu thế vượt trội về cơ sở hạ tầng, sự thuận lợi về giao thông thủy, bộ, hàng không và năng động trong kinh doanh là vùng thu hút được nhiều vốn FDI nhất, 1.378 dự án, chiếm 57% tổng số dự án của cả nước, vốn đầu tư đăng ký đạt 17,3 tỷ USD, chiếm đến 48% tổng vốn đăng ký cả nước. Đây cũng là vùng kinh tế sôi động nhất của cả nước, chiếm đến 66% giá trị doanh thu và 84% giá trị xuất khẩu của khu vực FDI năm 1999. Vùng kinh tế trọng điểm phía Bắc, đứng đầu là thủ đô Hà Nội, trung tâm chính trị và kinh tế của cả nước là vùng thu hút FDI thứ hai, với 493 dự án còn hiệu lực chiếm 20,5% về số dự án và 30% tổng vốn đăng ký, là đầu tàu phát triển của cả khu vực phía Bắc. Trên địa bàn kinh tế trọng điểm miền Trung, tính riêng dự án lọc dầu Dung Quất với tổng số vốn đầu tư đăng ký 1,3 tỷ USD đã cao hơn tổng vốn đăng ký của 113 dự án tại đồng bằng sông Cửu Long là 300 triệu USD. Dưới đây là số liệu về 10 địa phương có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài cao nhất: Bảng 4: Mười địa phương có vốn đầu tư cao nhất (Tính đến 15/03/2001 - chỉ tính các dự án còn hiệu lực) Đơn vị : triệu USD STT Địa phương Số dự án Tổng vốn đầu tư Vốn pháp định Đầu tư thực hiện 1 TP Hồ Chí Minh 921 9673,464 4610,524 4641,441 2 Hà Nội 365 7684,434 3364,454 2773,569 3 Đồng Nai 287 4534,895 1741,576 2119,190 4 Bình Dương 393 2325,312 1083,049 1057,800 5 Dầu khí 24 1788,000 1263,000 1955,487 6 Quảng Ngãi 5 1327,723 813,000 555,458 7 Hải Phòng 86 1283,294 570,218 915,483 8 Bà Rịa-Vũng Tàu 67 1203,097 502,946 397,702 9 Lâm Đồng 46 841,767 101,305 86,155 10 Quảng Ninh 38 617,021 218,516 174,283 Nguồn : Vụ Quản lý dự án - Bộ KH-ĐT Các số liệu trên cũng phần nào nói lên rằng vấn đề thu hút vốn đầu tư nước ngoài theo vùng lãnh thổ để kết hợp hoạt động này với việc khai thác các tiềm năng trong nước đạt kết quả chưa cao. Cơ cấu FDI theo vùng còn nhiều bất hợp lý. Như vậy, đây cũng là một trong những vấn đề rất cần được chú ý để điều chỉnh hoạt động của chúng ta trong thời gian tới đối với lĩnh vực này. 1.4. Cơ cấu đầu tư theo ngành kinh tế Những năm đầu 1988-1990, vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài phần lớn tập trung vào lĩnh vực thăm dò, khai thác dầu khí (32,2%) và khách sạn, du lịch, căn hộ cho thuê (20,6%). Nhưng từ năm 1994 trở lại đây, đầu tư vào khu vực sản xuất vật chất của nền kinh tế ngày càng gia tăng (nhất là lĩnh vực công nghiệp). Hiện nay, các dự án đầu tư vào ngành công nghiệp chiếm tỷ trọng lớn nhất cả về số lượng dự án lẫn vốn đầu tư, tiếp đến là các lĩnh vực khách sạn, du lịch và dịch vụ. Các ngành nông, lâm nghiệp có số dự án khá lớn nhưng vốn thấp, chỉ chiếm 5,79% tổng vốn đầu tư, chứng tỏ quy mô dự án ở lĩnh vực này tương đối nhỏ. Quy mô dự án đầu tư vào ngành thủy sản là nhỏ nhất, khoảng 3 triệu USD. Ngành dịch vụ có quy mô đầu tư lớn nhất, khoảng 25 triệu USD/dự án, nếu không tính 2 dự án xây dựng khu đô thị mới tại Hà Nội thì quy mô bình quân 1 dự án là 21,7 triệu USD. Tính đến ngày 15/03/2001, khu vực công nghiệp có 1715 dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài còn hiệu lực, với tổng vốn đầu tư 19430,413 triệu USD, chiếm 53,5% tổng vốn FDI của cả nước; tiếp theo là ngành dịch vụ với 638 dự án và lượng vốn đầu tư 14796,008 triệu USD, chiếm 40,73%; khu vực nông lâm nghiệp có 348 dự án với số vốn đầu tư 2103,353 triệu USD, chiếm 5,77% tổng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài của cả nước. Vốn đầu tư vào công nghiệp chủ yếu tập trung vào các ngành công nghiệp nặng, sau đó dến công nghiệp nhẹ, xây dựng, công nghiệp dầu khí và công nghiệp thực phẩm . Ngành dịch vụ các dự án tập trung vào xây dựng văn phòng, căn hộ, xây dựng khu đô thị mới; khách sạn du lịch, giao thông vận tải và bưu điện. Bảng 5: Đầu tư trực tiếp nước ngoài theo ngành (Tính đến 15/03/2001 - chỉ tính các dự án còn hiệu lực) Đơn vị : triệu USD Chuyên ngành Số dự án Tổng vốn đầu tư Vốn pháp định Đầu tư thực hiện Công nghiệp 1715 19430,413 8824,962 11037,702 CN dầu khí 29 3154,826 2094,106 2555,553 CN nhẹ 681 4198,597 1859,332 2022,423 CN nặng 659 6616,185 2784,646 3526,042 CN thực phẩm 142 2303,174 971,524 1318,477 Xây dựng 204 3157,628 1115,352 1615,207 Nông, lâm nghiệp 348 2103,354 992,655 1209,544 Nông-Lâm nghiệp 298 1942,614 912,947 1113,656 Thủy sản 50 160,739 79,708 95,888 Dịch vụ 638 14796,008 6547,210 5595,08 GTVT- Bưu điện 93 2571,986 2027,826 849,204 Khách sạn-Du lịch 123 3497,052 1126,845 1853,834 Tài chính-Ngân hàng 49 552,250 521,650 494,535 Văn hóa-Y tế- GD 92 566,045 243,832 144,568 XD Khu đô thị mới 3 2466,674 675,183 0,394 XD Văn phòng-Căn hộ 116 3781,909 1351,182 1640,271 XD hạ tầng KCX-KCN 13 807,221 274,961 460,988 Dịch vụ 149 552,870 325,729 151,285 Tổng số 2701 36329,775 16364,827 17842,325 Nguồn : Vụ Quản lý dự án ĐTNN - Bộ KH-ĐT Thực trạng cơ cấu vốn đầu tư vào các ngành, các lĩnh vực kinh tế đang đặt ra những vấn đề cần suy nghĩ. Đầu tư trực tiếp nước ngoài vào lĩnh vực nông, lâm nghiệp vốn đã ít lại đang có xu hướng chững lại và giảm dần vì đây là lĩnh vực chịu nhiều rủi ro, thời gian thu hồi vốn dài, trình độ quản lý dự án còn nhiều hạn chế. Đến cuối 1999, trong lĩnh vực này đã có tới 74 dự án đầu tư nước ngoài bị giải thể trước thời hạn với số vốn 287 triệu USD. Trong đó 35 dự án thuộc lĩnh vực trồng trọt và chế biến nông sản, 39 dự án chế biến gỗ và lâm sản. Vốn đầu tư nước ngoài vào các ngành như trên đã biểu hiện phù hợp các chỉ số của cơ cấu kinh tế hiện đại, công nghiệp hóa: Công nghiệp - Dịch vụ - Nông nghiệp. Tuy vậy, trong điều kiện ở giai đoạn đầu tiến hành CNH-HĐH và với đặc trưng của nền kinh tế trong đó nông nghiệp nhiệt đới đang là một trong những thế mạnh của Việt Nam thì tình hình thu hút đầu tư nước ngoài vào lĩnh vực này như hiện nay còn khoảng cách khá xa so với yêu cầu, mong muốn và mục tiêu mà chúng ta đặt ra. Sở dĩ như vậy là vì đối với Việt Nam, nông nghiệp là một trong những lĩnh vực đang có nhiều tiềm năng mà chúng ta chưa có điều kiện để khai thác. Và, từ đặc điểm phân bố dân cư, lao động, việc làm như hiện nay thì sự thành công trong phát triển nông thôn, nông nghiệp là một trong những chỉ tiêu cơ bản để đánh giá thành công của sự nghiệp CNH-HĐH. Thực hiện CNH-HĐH trong nông thôn, nông nghiệp cũng tức là tạo được việc làm và thu nhập cho số đông lao động cũng như tác động làm chuyển biến đáng kể đến sản xuất và đời sống của đa số nhân dân Việt Nam. 1.5. Cơ cấu đầu tư theo hình thức đầu tư Trong giai đoạn 1988-1999, liên doanh là hình thức phổ biến nhất của đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam, chiếm tới khoảng 60% số dự án và 70% vốn đăng ký. Hiện nay, trong số các dự án còn hiệu lực thì hình thức doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài chiếm tỷ lệ lớn về số dự án (56,64%), tuy nhiên vốn đầu tư chỉ chiếm 30,17% tổng vốn đầu tư FDI. Đối với hình thức liên doanh, các con số này là 38,47% và 58,33%. Bảng 6: Đầu tư trực tiếp nước ngoài theo hình thức đầu tư (Tính đến 15/03/2001 - chỉ tính các dự án còn hiệu lực) Đơn vị : triệu USD Hình thức đầu tư Số DA Tổng VĐT Vốn PĐ Vốn TH Tỷ lệ (%) BOT 4 415,125 140,030 37,112 1.14 Hợp đồng hợp tác KD 128 3762,541 3156,998 2645,37 10,36 100% vốn nước ngoài 1530 10962,092 4863,514 5236,300 30,17 Liên doanh 1039 21190,017 8204,284 9923,542 58.33 Tổng số 2701 36329,775 16364,826 17842,325 100% Nguồn : Vụ Quản lý dự án ĐTNN - Bộ KH-ĐT Sở dĩ hình thức liên doanh chiếm tỷ lệ lớn là do thời kỳ đầu, các thủ tục để triển khai dự án còn đòi hỏi nhiều giấy tờ, lại phải thông qua nhiều khâu, nhiều nấc và rất phức tạp, người nước ngoài còn ít hiểu biết về các điều kiện kinh tế-xã hội và pháp luật của Việt Nam, họ thường gặp khó khăn trong giao dịch, quan hệ cùng một lúc với khá nhiều cơ quan chức năng của Việt Nam để có được đầy đủ các điều kiện triển khai xây dựng cơ bản cũng như tổ chức thực hiện dự án đầu tư. Trong hoàn cảnh như vậy, đa số các nhà đầu tư thích lựa chọn hình thức liên doanh để bên Việt Nam đứng ra lo các thủ tục pháp lý cho sự hoạt động của doanh nghiệp hiệu quả hơn. Sau một thời gian hoạt động trong môi trường đầu tư ở Việt Nam, các nhà đầu tư nước ngoài, đặc biệt là các nhà đầu tư Châu á có điều kiện hiểu biết hơn về pháp luật, chính sách, phong tục tập quán và cách thức hoạt động kinh doanh ở Việt Nam. Vì vậy, nhu cầu có đối tác Việt Nam giảm đi một cách đáng kể. Không những thế, khi tham gia liên doanh, khả năng của phía Việt Nam thường yếu cả về vốn đóng góp lẫn cán bộ quản lý, mặt khác nhiều nhà đầu tư nước ngoài không muốn chia sẻ quyền điều hành doanh nghiệp với bên Việt Nam nên họ thấy không cần thiết phải có đối tác Việt Nam trong hoạt động đầu tư. Do đó, số dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam dưới hình thức 100% vốn nước ngoài ngày càng có xu hướng tăng lên cả tuyệt đối lẫn tương đối. Các dự án 100% vốn nước ngoài tập trung chủ yếu trong các khu công nghiệp và khu chế xuất vì đảm bảo các điều kiện cơ sở hạ tầng kỹ thuật, tránh được nhiều thủ tục hành chính phức tạp. Hình thức hợp đồng hợp tác kinh doanh đến nay chỉ chiếm 4,74% số dự án và 10,36% tổng vốn đầu tư, chủ yếu trong lĩnh vực thăm dò và khai thác dầu khí, các dịch vụ viễn thông. Hợp đồng BOT là hình thức chúng ta đưa vào áp dụng từ năm 1993 với mong muốn nhằm đáp ứng nhu cầu vốn đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng. Mặc dù Nhà nước đã có nhiều ưu đãi như không thu tiền thuê đất, hưởng các mức thuế thấp nhất, được chuyển đổi ngoại tệ... nhưng số dự án thuộc hình thức này vẫn còn rất ít. Đến nay mới chỉ có 4 dự án đầu tư nước ngoài theo hình thức BOT với số vốn đăng ký hơn 415 triệu USD. Điều này chủ yếu là do các bên chưa thực sự gặp nhau trong các ý tưởng khi thương lượng, như không thống nhất được cách tính giá cả đầu vào, đầu ra đối với các đối tác cung ứng nguyên, nhiên vật liệu và mua sản phẩm... 2. Tình hình thực hiện của các dự án Đầu tư trực tiếp nước ngoài 2.1. Tiến độ thực hiện vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam Sau hơn mười năm thực hiện Luật đầu tư nước ngoài, nhiều dự án được cấp giấy phép đã hoàn thành giai đoạn xây dựng, đi vào hoạt động, có sản phẩm tiêu thụ tại Việt Nam và xuất khẩu đến nhiều nước trên thế giới, đóng góp đáng kể vào sự tăng trưởng và phát triển kinh tế xã hội của nước ta. Có 1067 dự án sau một thời gian triển khai có nhu cầu xin được tăng vốn, mở rộng quy mô sản xuất. Tổng số vốn đã được phê duyệt tăng thêm là 6034 triệu USD (bằng 32,8% số dự án được cấp giấy phép và 16,6% tổng vốn đăng ký ban đầu). Như vậy tổng số vốn cấp mới và bổ sung đến thời điểm hết năm 2000 đạt khoảng 44.587 triệu USD. Trong số các dự án đã nêu trên, đã có 30 dự án hết thời hạn thực hiện hợp đồng với số vốn hết hạn là 291 triệu USD. Bên cạnh đó, đã có một số lượng đáng kể dự án bị giải thể, rút giấy phép đầu tư (645 dự án), lượng vốn giải thể là 7952 triệu USD, chiếm gần 21% tổng lượng vốn đăng ký. Nguyên nhân dẫn đến các dự án bị rút giấy phép trước hết là do ta chọn nhầm đối tác, nhất là những năm đầu thực hiện Luật đầu tư. Đó là những công ty môi giới buôn bán hợp đồng, khi không thực hiện được mục đích này, họ không trở lại Việt Nam thực hiện dự án. Tiếp theo là sự thiếu hụt tài chính của bên nước ngoài, không thực hiện được cam kết góp vốn, huy động vốn vay; sự biến động phức tạp của thị trường và giá cả làm đảo lộn tính toán ban đầu của dự án; sự phá sản của bên nước ngoài ở các địa bàn khác làm cho họ không có khả năng hoạt động ở Việt Nam...Ngoài ra những yếu kém trong công tác quản lý nhà nước cũng góp phần làm tăng thêm số dự án đổ vỡ như không chọn lựa kỹ, dễ dãi trong bố trí cán bộ Việt Nam tham gia liên doanh, không kịp thời nhắc nhở và xử lý những vi phạm pháp luật và giấy phép đầu tư, không có biện pháp hữu hiệu hòa giải các bất đồng, tranh chấp; sự thay đổi chính sách sử dụng nguyên vật liệu... Như vậy, tính đến ngày 15/03/2001, trên lãnh thổ Việt Nam còn 2701dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài đang hoạt động với tổng vốn đăng ký (kể cả phần vốn bổ sung) của các dự án còn hiệu lực là 36.329,775 triệu USD. Tính đến 31 tháng 12 năm 2000, số vốn đã thực hiện của các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài bằng 44,82% của tổng số vốn đăng ký (bao gồm cả vốn bổ sung), trong đó 88,34% vốn thực hiện là của phía đối tác nước ngoài, 11,66% là vốn của doanh nghiệp Việt Nam. Tỷ lệ vốn thực hiện trên tổng vốn đăng ký của các dự án 100% vốn nước ngoài và dự án Hợp đồng hợp tác kinh doanh cao hơn nhiều so với hình thức liên doanh. Các dự án trong lĩnh vực thăm dò và khai thác dầu khí đạt tỷ lệ thực hiện cao hơn vốn cam kết 4%, do trong ngành dầu khí, cam kết trên giấy phép chỉ là vốn tối thiểu. Ngành tài chính ngân hàng, do tính đặc thù phải nộp ngay vốn pháp định mới được phép triển khai hoạt động nên tỷ lệ giải ngân cao (93%). Nhìn chung, các dự án đầu tư vào lĩnh vực công nghiệp xây dựng có tỷ lệ giải ngân cao nhất, trên 50%. Các dự án nông nghiệp đạt tỷ lệ giải ngân 43%, trong khi các dự án thuỷ sản chỉ giải ngân được 36%. Dưới đây là số liệu về tình hình thực hiện dự án qua các thời kỳ: Bảng 7: Tình hình thực hiện dự án qua các năm (Tính đến 31 tháng 12 năm 2000) Đơn vị : triệu USD Chỉ tiêu Vốn thực hiện Trong đó chia ra Vốn từ nước ngoài Vốn DN V.Nam Tổng 88-2000 19984 17654 2330 1991 428 375 53 1992 575 492 83 1993 1118 931 187 1994 2241 1946 295 1995 2792 2343 449 5 năm 91-95 7153 6086 1067 1996 2923 2518 405 1997 3137 2822 315 1998 2364 2214 150 1999 2179 1971 208 2000 2228 2043 185 5 năm 96-2000 12831 11568 1263 Nguồn : Vụ Quản lý dự án ĐTNN - Bộ KH-ĐT Trong điều kiện của một nền kinh tế kém phát triển, kết cấu hạ tầng lạc hậu, các nguồn lực cũng như chính sách đối với đầu tư nước ngoài còn nhiều biến động, thị trường phát triển chưa đầy đủ...thì tỷ lệ vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài thực hiện được ở mức như vậy là không thấp. Tuy vậy, xuất phát từ đặc điểm, các dự án sau khi phê duyệt thường chưa đủ các điều kiện để triển khai ngay, do đó số vốn thực hiện trong năm chủ yếu là của các dự án đã được phê duyệt từ các năm trước đó. Nếu so sánh số vốn thực hiện của từng năm với số vốn đăng ký còn lại (tổng số vốn đăng ký từ trước trừ đi số vốn đã thực hiện) thì tỷ lệ vốn thực hiện diễn biến theo xu hướng thiếu ổn định. Tỷ lệ này tăng nhanh từ đầu đến năm 1995 (vốn thực hiện 1992/vốn đăng ký 1988-1991 còn lại = 13,6%; số tương ứng 1993=23,5%; 1994=30,1%; 1995=32,2%) và sau đó giảm dần từ 1996 đến nay (số liệu tương ứng 1996=21,8%; 1997=18,1%; 1998=10,1%; 1999=7,1%). Điều này một phần là do tác động của cuộc khủng hoảng tiền tệ trong khu vực, một số nhà đầu tư thuộc các quốc gia xảy ra khủng hoảng đang còn số vốn mà họ chưa thực hiện lại phải dùng để đối phó với tình trạng xấu, buộc họ phải dừng hoặc chấm dứt không thể tiếp tục đầu tư. Mặt khác, một số nhà đầu tư khi lập dự án đã tính toán chưa thật sát với thực tế nên khi triển khai dự án đã gặp phải một số vấn đề phát sinh vượt cả khả năng tài chính cũng như các yếu tố, điều kiện cho doanh nghiệp vận hành. Thậm chí có một số nhà đầu tư nước ngoài, thực chất là yếu về năng lực tài chính nên mặc dù đã được cấp giấy phép đầu tư, nhưng không huy động được vốn đúng như dự kiến buộc họ phải triển khai thực hiện dự án chậm, có khi mất khả năng thực hiện. 2.2. Đầu tư trực tiếp nước ngoài ở một số lĩnh vực kinh tế tiêu biểu a. Lĩnh vực dầu khí : So với các ngành kinh tế Việt Nam thì đây là một trong rất ít ngành thu hút được các tập đoàn kinh tế lớn của thế giới tham gia đầu tư. Đến nay, ngoài xí nghiệp liên doanh dầu khí VietsoPetro đã sản xuất được hơn 60 triệu tấn dầu thô và hiện đang tiếp tục kinh doanh có hiệu quả, chúng ta đã cấp 33 giấy phép hoạt động cho các tập đoàn dầu khí lớn thuộc Bắc Mỹ, Châu Âu, Châu úc và Châu á vào thăm dò, khai thác tại thềm lục địa Việt Nam theo hình thức hợp đồng phân chia sản phẩm. Các mỏ Đại Hùng, Rạng Đông, Hồng Ngọc, mỏ khí Lan Đỏ - Lan Tây và mỏ dầu trên vùng chồng lấn với Malaixia đều đang được khai thác. Sự quan tâm của các tập đoàn lớn trên thế giới chứng tỏ tính hấp dẫn và tiềm năng dầu khí của nước ta. Vào cuối năm 1998, Việt Nam đã cấp giấy phép đầu tư cho liên doanh xây dựng nhà máy lọc dầu đầu tiên tại Dung Quất (Quảng Ngãi) với số vốn đầu tư 1,3 tỷ USD. Các nhà đầu tư nước ngoài (không kể Vietsopetro) đã đầu tư trên 2,6 tỷ USD vào khâu thăm dò, giúp Việt Nam dần dần có đủ cơ sở dữ liệu về trữ lượng dầu khí để xác định chiến lược phát triển. Công nghiệp dầu khí đã góp phần ngày càng lớn vào tăng trưởng GDP và thu ngân sách Nhà nước. b. Lĩnh vực công nghiệp điện tử : là lĩnh vực mà các nhà đầu tư nước ngoài có mặt tương đối sớm, vốn thực hiện chiếm tỷ lệ cao so với vốn đăng ký, có tiến độ thực hiện đúng với cam kết được ghi trong giấy phép đầu tư và đây là lĩnh vực sớm phát huy hiệu quả. Đến nay, đã có 22 dự án đầu tư với tổng số vốn đăng ký 615 triệu USD, trong đó có hơn 60% vốn đã thực hiện (379 triệu USD). Một trong những yếu tố hơn hẳn so với nhiều lĩnh vực khác là các nhà đầu tư vào lĩnh vực này phần lớn thuộc các hãng điện tử mạnh trên thế giới như: SONY, JVC, TOSHIBA, PHILIP, LG, FUJITSU, SAMSUNG, MATSUSHITA... Tuy nhiên các dự án đầu tư chủ yếu vào điện tử gia dụng, chưa chú ý nhiều đến điện tử công nghiệp. c. Lĩnh vực công nghiệp ô tô và xe máy : Đây cũng là một trong những lĩnh vực thu hút được các nhà đầu tư thuộc các hãng lớn mà sản phẩm của họ đã trở thành nổi tiếng và có lợi thế cạnh tranh so với những sản phẩm cùng loại trên thế giới như TOYOTA, FORD, HONDA, SUZUKI...Đến nay đã có 14 dự án sản xuất ô tô và 4 dự án sản xuất xe máy được cấp giấy phép. Số vốn đăng ký của các liên doanh ô tô là 872 triệu USD, trong đó đã thực hiện được 376 triệu USD (43,12% vốn đăng ký). Các liên doanh này có thể sản xuất hàng năm 140 nghìn xe ô tô các loại. Trong số 14 dự án trên đã có 3 dự án không triển khai và 1 dự án tuy đã đầu tư 16 triệu USD nhưng tạm dừng không đầu tư tiếp (dự án Mercedes-Benz) và liên doanh MêKông cũng đã ngừng sản xuất. Nói chung, thị trường ô tô của nước ta còn hạn hẹp. Ngành công nghiệp xe máy cũng thu hút được những hãng xe nổi tiếng thế giới mà sản phẩm đã quen thuộc với người Việt Nam như Honda, Suzuki, VMEP. Hiện tại các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài sản xuất mỗi năm khoảng 200 nghìn xe máy với tỷ lệ nội địa hóa từ 20-50%. Các dự án ô tô và xe máy đã được cấp giấy phép đầu tư có tác động dây chuyền đối với các dự án sản xuất linh kiện, phụ tùng; do vậy đã kéo theo hàng chục nhà đầu tư vốn là bạn hàng của họ vào Việt Nam; đồng thời đã mở rộng quan hệ hợp tác chế tạo với các doanh nghiệp cơ khí, sản xuất săm lốp, ghế đệm...của Việt Nam, giải quyết những khó khăn trước mắt cho các doanh nghiệp này và góp phần phát triển chúng về lâu dài. d. Lĩnh vực viễn thông : Đến nay đã có 14 dự án đầu tư nước ngoài được cấp giấy phép với tổng vốn đăng ký là 1545 triệu USD, trong đó số đã thực hiện là 388 triệu USD. Trong số các dự án đầu tư ở lĩnh vực này có đến 94% theo hình thức hợp đồng hợp tác kinh doanh về dịch vụ viễn thông, 6% số dự án đầu tư theo hình thức liên doanh để sản xuất thiết bị vật tư bưu điện. Đặc biệt, đây là lĩnh vực không có dự án đầu tư hình thức doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài. e. Lĩnh vực công nghiệp hóa chất : Đến nay lĩnh vực này đã thu hút 89 dự án với tổng vốn đăng ký 1117 triệu USD (36 dự án 100% vốn nước ngoài, 48 dự án liên doanh, 5 dự án hợp đồng hợp tác kinh doanh), trong đó tổng số vốn đã thực hiện là 397,6 triệu USD (35,6% vốn đăng ký). Đầu tư nước ngoài trong công nghiệp hóa chất đã tạo ra nhiều sản phẩm có chất lượng cao, bao gồm một số hóa chất cơ bản, mỹ phẩm, chất tẩy rửa, dầu nhờn... thay thế một phần hàng nhập khẩu, thỏa mãn yêu cầu ngày càng cao hơn của người tiêu dùng. g. Hoạt động kinh doanh khách sạn và du lịch : Đây là lĩnh vực mà ngay từ đầu đã có biểu hiện còn nhiều tiềm năng chưa được khai thác nên nhiều doanh nghiệp trong và ngoài nước đã đầu tư vào. Đến nay có 237 dự án với 7585 triệu USD vốn đăng ký đầu tư xây dựng khách sạn, văn phòng, căn hộ cho thuê, phát triển đô thị, trong số đó đã có 33,66% vốn được thực hiện. Đồng thời, đây cũng là lĩnh vực đã xuất hiện tình trạng cung vượt quá cầu ở một số thành phố như TP Hồ Chí Minh, Vũng Tàu, Đà Nẵng, Hải Phòng. h. Lĩnh vực dệt may, giầy dép : Đến nay chúng ta đã phê duyệt 250 dự án với tổng số 2396 triệu USD vốn đăng ký (dệt: 87 dự án với 1649 triệu USD vốn đăng ký; may: 118 dự án với 281 triệu USD vốn đăng ký; giầy dép: 45 dự án với 466 triệu USD vốn đăng ký). Tổng vốn đã thực hiện là 1079 triệu USD, đạt 45% vốn đăng ký, là một tỷ lệ khá cao. Đầu tư nước ngoài trong các ngành này đã tạo ra việc làm cho hàng vạn người lao động, góp phần tăng nhanh kim ngạch xuất khẩu, là một trong những ngành công nghiệp có kim ngạch xuất khẩu hàng năm trên 1 tỷ USD. 2.3. Tình hình khai thác công suất các dự án. Cho đến nay đã có rất nhiều dự án hoàn thành xây dựng cơ bản và đi vào vận hành sản xuất kinh doanh một cách ổn định. Nhiều dự án hoạt động có hiệu quả và đã đóng góp đáng kể vào sự tăng trưởng và phát triển của nền kinh tế nước ta. Tuy nhiên đa phần các dự án FDI năng lực hoạt động còn thấp so với công suất cho phép. Số liệu trong bảng dưới đây sẽ cho ta thấy rõ hơn thực trạng này: Bảng 8: Tình hình khai thác công suất một số ngành hàng của các dự án FDI (tính đến hết năm 1997) Mặt hàng Công suất cho phép Công suất huy động Tỷ lệ 1.Thép XD thông thường 1197 triệu tấn/ năm 600.000 tấn / năm 50% 2. Ô tô dưới 12 chỗ 65.600 xe / năm 6.600 xe / năm 10% 3. Xe vận tải 94.700 xe / năm 2.850 xe / năm 3% 4. Xe máy 1,28 triệu xe / năm 100.000 xe / năm 8% 5. Xi măng đen 10,5 triệu tấn / năm 1,9 triệu tấn / năm 18% 6. Tủ lạnh 300.000 chiếc / năm 60.000 chiếc / năm 20% 7. Sợi các loại 133.200 tấn / năm 20.000 tấn / năm 15% 8. Vải các loại 325 triệu mét / năm 65 triệu mét / năm 20% 9. Chất tẩy rửa, xà bông 138.000 tấn / năm 100.000 tấn / năm 72% 10. Phân bón NPK 660.000 tấn / năm 30.000 tấn / năm 5% 11. Phòng khách sạn 24.000 phòng 5.000 phòng 21% Nguồn : Bộ Kế hoạch và đầu tư Như vậy ta thấy thực tế công suất đã huy động của các dự án còn quá bé so với công suất cho phép, gây ra một sự lãng phí rất lớn cho nền kinh tế. Một trong những nguyên nhân chính của tình trạng này là những dự báo sai lệch dung lượng thị trường như 14 liên doanh lắp ráp ô tô với tổng công suất 140.000 ô tô/ năm, trong khi nhu cầu thực tế của cả nước năm 1999 là 15.000 chiếc (trong đó lắp ráp trong nước chỉ 5000 chiếc), hoặc 4 dự án liên doanh sản xuất, lắp ráp xe máy với công suất 1,5 triệu xe/năm, trong khi nhu cầu nhập khẩu linh kiện CKD, IKD khoảng 0,5 triệu xe/ năm. Do các nhà đầu tư trong lĩnh vực ô tô, xe máy không tự khẳng định được khả năng xuất khẩu của mình như các nhà đầu tư trong các ngành dệt may, giày dép, điện tử...nên không thể hoàn thành mục tiêu của các dự án được cấp phép. Một nguyên nhân nữa là do công tác quy hoạch đầu tư còn chậm và thiếu đồng bộ nên dẫn đến tình trạng cấp phép đầu tư một cách ồ ạt và thiếu định hướng, chưa quan tâm đến kế hoạch tiêu thụ sản phẩm của các dự án, thậm chí cấp phép cho cả các dự án vào những ngành còn dư thừa năng lực sản xuất, gây tình trạng bế tắc trong khâu tiêu thụ, đồng thời còn tạo ra sự cạnh tranh mạnh mẽ với sản phẩm của các doanh nghiệp trong nước. Do đó, bên cạnh việc tăng cường thu hút đầu tư nước ngoài, chúng ta cần xem xét một cách kỹ càng trước khi cấp phép cho các dự án đầu tư vào các ngành còn đang dư thừa công suất. Đồng thời các doanh nghiệp cần tích cực tìm kiếm thị trường mới, nâng cao khả năng xuất khẩu của các mặt hàng để khai thác một cách triệt để và có hiệu quả năng lực của các dự án. II. Đánh giá tác động của đầu tư trực tiếp nước ngoài tới tăng trưởng và phát triển kinh tế Đầu tư trực tiếp nước ngoài đã đóng góp một phần tích cực vào công cuộc đổi mới kinh tế của Việt Nam hơn 10 năm qua. Có thể nói đầu tư trực tiếp nước ngoài như một trong các nguồn năng lượng quan trọng khởi động cho cỗ máy kinh tế Việt Nam đi vào quỹ đạo của sự tăng trưởng. Nó đã góp phần đẩy mạnh cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật trong sản xuất, đóng góp quan trọng vào việc đổi mới, chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH-HĐH. Mỗi chính sách kinh tế, mỗi biến động tài chính-tiền tệ, mỗi chiến lược phát triển và mỗi thành tựu của đất nước đều có bóng dáng của đầu tư trực tiếp nước ngoài (ĐTTTNN). Ngày nay, ĐTTTNN đã trở thành một bộ phận của nền kinh tế quốc dân. Trong phần này, ta sẽ đi vào xem xét tác động của hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài tới sự tăng trưởng và phát triển của nền kinh tế nước ta. 1. hoạt động ĐTTTNN góp phần quan trọng bổ sung nguồn vốn đầu tư phát triển và gia tăng tỷ lệ tích lũy của nền kinh tế Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài là nguồn vốn quan trọng và là một điều kiện tiên quyết để Việt Nam thực hiện và đẩy nhanh sự nghiệp CNH-HĐH đất nước. Nó góp phần quan trọng bổ sung nguồn vốn đầu tư phát triển, khắc phục tình trạng thiếu vốn của nền kinh tế quốc dân trong thời kỳ đổi mới. Từ khi thực hiện chính sách đầu tư trực tiếp nước ngoài đến nay, vốn đầu tư nước ngoài thực hiện tại Việt Nam bình quân 1.111,75 triệu USD / năm. Vốn đầu tư xây dựng cơ bản của các dự án đầu tư nước ngoài bình quân thời kỳ năm 1991-1999 là 16.291 tỷ đồng/ năm. Đối với một nền kinh tế có quy mô như của nước ta thì đây thực sự là lượng vốn đầu tư không nhỏ, nó thực sự là nguồn vốn góp phần tạo ra sự chuyển biến không chỉ về quy mô đầu tư mà điều quan trọng hơn là nguồn vốn này có vai trò như chất “xúc tác- điều kiện” để việc đầu tư của ta đạt hiệu quả nhất định. Nếu so với tổng vốn đầu tư xây dựng cơ bản xã hội thời kỳ 1991-1999 thì vốn đầu tư xây dựng cơ bản của các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài chiếm 26,51% và lượng vốn đầu tư này có xu hướng tăng lên qua các năm. Bảng 9 : Cơ cấu vốn đầu tư XDCB của Việt Nam thời kỳ 1991-1999 Đơn vị : tỷ đồng Năm Tổng vốn đầu tư Vốn trong nước Vốn ĐTTT của nước ngoài Số lượng So với tổng (%) 1991 13471 11545 1926 14,3 1992 34737 19552 5185 21 1993 42177 31556 10621 25,2 1994 54296 37796 16500 30,4 1995 68048 46048 22000 32,3 1996 79367 56667 22700 28,6 1997 96870 66570 30300 31,3 1998 97336 73036 24300 25 1999 105200 86300 18900 18 2000 120600 98200 22400 18,6 Tổng 712102 527870 174832 24,55 Nguồn : Kinh tế VN và Thế giới 2000-2001 - Thời báo kinh tế Việt Nam Vốn đầu tư xây dựng cơ bản từ các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài giai đoạn 1995-1999 là 118.200 tỷ đồng, cao hơn hẳn so với vốn đầu tư từ ngân sách Nhà nước cùng thời kỳ này (97389,6 tỷ đồng). Tức là vốn ngân sách Nhà nước dành cho xây dựng cơ bản chỉ bằng 82,4% vốn từ các dự án ĐTTTNN dành cho lĩnh vực này. Kết quả phân tích cho thấy giữa vốn đầu tư trong nước và vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài có sự tương quan với nhau. Hệ số tương quan Pearson bằng 0,773 cho thấy mức độ chặt chẽ của mối quan hệ và đó là tương quan cùng chiều, nghĩa là khi vốn ĐTTTNN tăng lên sẽ làm cho vốn đầu tư trong nước tăng lên. Correlations Vốn đầu tư nước ngoài Tỷ lệ tiết kiệm / GDP Vốn đầu tư trong nước Pearson Correlation .810* Pearson Correlation .773* Sig. (2-tailed) .003 Sig. (2-tailed) .009 N 11 N 10 * Correlation is significant at the 0.05 level (2-tailed) Kết quả này phù hợp với phân tích của các chuyên gia kinh tế. Theo các chuyên gia quốc tế thì FDI đã tác động đến việc tăng trưởng tổng nguồn vốn đầu tư của các nước đang phát triển, bình quân giai đoạn 1970-1998 cho thấy cứ tăng 1% vốn FDI làm tăng thêm ở mức từ 0,5% - 1,3% vốn đầu tư trong nước. Để xem xét cụ thể hơn mối quan hệ giữa hai dòng vốn đầu tư ở Việt Nam, ta đi ước lượng mô hình với các biến VTN là vốn đầu tư trong nước, VNN là vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài. Các biến số trong mô hình được lấy dưới dạng logarit. Kết quả hồi quy thử nghiệm cho thấy đối với nước ta, vốn ĐTTTNN hầu như không có tác động làm tăng trưởng vốn đầu tư trong nước của năm đó nhưng có tác động rõ rệt đến vốn đầu tư trong nước của năm sau. Ta có hàm hồi quy mẫu như sau: Ln(VTN)(t) = 5,1168 + 0,60242 * Ln(VNN)(t-1) Các kiểm định cho thấy mô hình đảm bảo được tính phù hợp, các hệ số khác 0 một cách thực sự và có dấu phù hợp với phân tích định tính ở trên. Kết quả ước lượng mô hình chỉ ra rằng, khi các điều kiện khác không đổi, trung bình khi vốn FDI tăng lên 1% sẽ làm cho vốn đầu tư trong nước năm sau tăng lên 0,602%. ._.ẩu thành phẩm đích thực. Trong một thời gian dài các cơ quan quản lý Nhà nước qua tập trung vào khâu cấp phép đầu tư, buông lỏng khâu quản lý sau giấy phép; chưa quan tâm đúng mức đến việc giải quyết dứt điểm và nhanh chóng các vấn dề phát sinh, tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp. Việc quản lý giá đầu vào và đầu ra còn nhiều bất cập làm ảnh hưởng tới lợi ích của doanh nghiệp cũng như của Nhà nước Việt Nam. Sự phối hợp giữa các cơ quan quản lý Nhà nước còn chưa chặt chẽ, việc quản lý sau cấp phép chậm được cải tiến, nhất là đất đai, hải quan, xuất nhập khẩu, thủ tục hành chính còn phiền hà, cấp dưới thực thi pháp luật và các chính sách, chủ trương của Nhà nước thiếu nghiêm túc đã làm nản lòng các nhà đầu tư nước ngoài. 2. Yếu kém về công trình kết cấu hạ tầng Kinh nghiệm của các nước trong khu vực cho thấy, cơ sở hạ tầng có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc thu hút FDI nhất là ở những nơi ít có lợi thế về vị trí địa lý, tài nguyên thiên nhiên, lao động. Đầu tư vào xây dựng cơ sở hạ tầng đòi hỏi nguồn vốn lớn. Đảng và Nhà nước ta đã giành 50-60% tổng vốn đầu tư và hầu hết nguồn vốn ODA để xây dựng cơ sở hạ tầng. Tuy nhiên, nhìn tổng thể, cơ sở hạ tầng kinh tế- kỹ thuật-xã hội và môi trường của Việt Nam còn thấp kém và lạc hậu. Mặc dù áp dụng chính sách ưu đãi về tiền thuê đất và thuế lợi tức nhưng do phải bỏ nhiều chi phí cho các công trình ngoài hàng rào, hoặc chi phí vận chuyển hàng xuất khẩu bằng container đến cảng cửa khẩu khá xa...nên vô hình trung đã triệt tiêu các ưu đãi này. Cơ sở hạ tầng yếu kém sẽ không tạo được sự hấp dẫn thu hút FDI trong thời gian tới. 3. Yếu kém về quy hoạch sử dụng đất, quy hoạch ngành kinh tế - kỹ thuật Hiện nay đã có nhiều KCN được thành lập. Tuy nhiên cả các KCN đã đi vào hoạt động hoặc đang tiến hành xây dựng, việc quy hoạch chi tiết rất chậm, khiến các nhà đầu tư nước ngoài rất bị động trong việc chọn địa điểm đầu tư. Cả nước cũng như từng ngành, từng địa phương thực sự chưa có quy hoạch cụ thể về hợp tác đầu tư nước ngoài trên cơ sở và trong khuôn khổ quy hoạch tổng thể. Do phạm vi lĩnh vực được khuyến khích đầu tư rộng nên có nơi có lúc cơ cấu đầu tư thiếu sự phù hợp với cơ cấu sản xuất và thị trường. Cơ cấu đầu tư còn thể hiện một mặt là sự manh mún, dàn trải của một số ngành trên nhiều địa phương với mục tiêu thúc đẩy CNH, mặt khác lại quá tập trung nhiều ngành, lĩnh vực vào một số địa phương. Các ngành, các địa phương, các cơ sở kinh doanh chưa có sự phối hợp chặt chẽ trong công tác vận động đầu tư dẫn tới tranh giành dự án hoặc triển khai quá nhiều dự án không có nhu cầu nhiều về số lượng, làm thị trường các sản phẩm này nhanh chóng bị bão hòa. Do quy hoạch và dự báo thiếu chuẩn xác nên đã cấp phép đầu tư sản xuất một số sản phẩm vượt quá nhu cầu như ô tô, khách sạn, bia, nước ngọt có ga..Việc cấp phép trong những năm đầu thiên về dự án thay thế nhập khẩu, tiêu thụ sản phẩm trong nước nên dẫn tới tình trạng cạnh tranh mạnh với sản phẩm của doanh nghiệp trong nước. 4. Yếu kém về cung ứng lao động cho các doanh nghiệp FDI Mặc dù Việt Nam có một lực lượng lao động dồi dào và có thể cung ứng cho các doanh nghiệp FDI và các doanh nghiệp khác đến 1,5 triệu người mỗi năm, nhưng đến nay, lực lượng lao động của ta vẫn bộc lộ nhiều yếu kém. Số công nhân lành nghề rất hiếm. Việc tuyển một công nhân có tay nghề cao tại địa bàn Hà Nội khó khăn hơn nhiều việc tuyển một sinh viên tốt nghiệp đại học. Có những doanh nghiệp FDI thuộc ngành cơ khí không tuyển nổi 1 công nhân kỹ thuật dưới 30 tuổi có tay nghề bậc 5. Hầu hết lao động trực tiếp của các doanh nghiệp FDI đều tuyển từ các vùng nông thôn, chưa qua đào tạo. Các nhà quản lý nước ngoài đều có đánh giá chung là lao động Việt Nam tuy chịu khó và cần cù nhưng kinh nghiệm nghề nghiệp ít, không có tác phong công nghiệp cho nên năng suất lao động rất thấp. 5. Khó khăn về cân đối ngoại tệ cho các doanh nghiệp FDI Ngân hàng Nhà nước chỉ cân đối ngoại tệ cho các doanh nghiệp FDI hoạt động trong lĩnh vực xây dựng và kinh doanh các công trình kết cấu hạ tầng hoặc sản xuất hàng thay thế hàng nhập khẩu thiết yếu. Trong điều kiện Nhà nước và doanh nghiệp đều thiếu ngoại tệ thì quy định trên là phù hợp với tình hình thực tiễn. Tuy nhiên, điều đó gây khó khăn cho các doanh nghiệp FDI cân đối ngoại tệ để nhập khẩu nguyên vật liệu, trả nợ gốc, lãi vay nước ngoài...không đảm bảo cho các doanh nghiệp hoạt động bình thường và cản trở việc tiếp tục huy động nguồn vốn FDI. Đi đôi với việc xem xét những mặt tồn tại, trong ta cũng cần phải chú ý học hỏi kinh nghiệm thu hút và sử dụng vốn FDI của các nước khác, đặc biệt là các nước trong khu vực. Trong xu thế liên kết và hòa nhập nền kinh tế thế giới thành một chỉnh thể thống nhất, hầu hết các nước trên thế giới đều tham gia ngày càng tích cực vào quá trình phân công lao động quốc tế. Trong số các hoạt động kinh tế đối ngoại, đầu tư trực tiếp nước ngoài là một hoạt động có vị trí và vai trò ngày càng lớn và được nhiều quốc gia sử dụng như một chính sách kinh tế quan trọng và lâu dài. Bằng các biện pháp và chính sách thích hợp, nhiều nước đang phát triển đã thu được những thành công to lớn trong việc khai thác và sử dụng đầu tư trực tiếp nước ngoài. Nghiên cứu những kinh nghiệm thu hút và sử dụng đầu tư trực tiếp nước ngoài của các nước trên thế giới, đặc biệt là các nước ở Đông Nam á và Nam á có ý nghĩa quan trọng đối với chúng ta. Tuy nhiên, kinh nghiệm thu hút và sử dụng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài xuất phát từ đặc thù của mỗi nước. Mỗi một hình thức sử dụng vốn bên ngoài có tác dụng hiệu quả đến mục tiêu tăng trưởng kinh tế và phù hợp với cách lựa chọn của mỗi nước. Không thể có sự sao chép và áp dụng máy móc phương pháp của một nước này cho một nước khác. Chúng ta phải bằng mọi cách khắc phục triệt để những tồn tại và hạn chế nêu trên thì mới có thể khai thác và sử dụng có hiệu quả nguồn vốn FDI phục vụ sự nghiệp phát triển kinh tế đất nước. iI. Xác định nhu cầu vốn FDI cho nền kinh tế Việt Nam giai đoạn từ nay đến năm 2005 1. Hiệu quả đầu tư và thực trạng hệ số ICOR ở nước ta ICOR là chỉ tiêu tổng hợp cho phép đánh giá hiệu quả đầu tư của một nền kinh tế, được tính toán trên cơ sở so sánh đầu tư với mức tăng trưởng kinh tế hàng năm. Theo cách tính thông thường và đơn giản nhất, ICOR bằng tỷ lệ đầu tư toàn xã hội so với GDP chia cho tốc độ tăng trưởng kinh tế hàng năm. Về phương diện lý thuyết, khi hệ số ICOR càng thấp, chứng tỏ nền kinh tế càng có hiệu quả, vốn đầu tư bỏ ra tuy ít nhưng tăng trưởng kinh tế đã đạt mức cao theo mong muốn. Tuy nhiên, trên thực tế, ICOR còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác như nền kinh tế đang ở giai đoạn phát triển nào, đã công nghiệp hóa chưa, đó là nền kinh tế “mở” hay “đóng”, mức độ tác động của bối cảnh quốc tế ra sao, chất lượng quản lý Nhà nướctrong đầu tư cao hay thấp, thực trạng tham nhũng trong đầu tư nhiều hay ít... Đối với những nền kinh tế đang ở giai đoạn CNH-HĐH, thông thường, một hệ số ICOR ở mức cao nhưng thấp hơn 10 phản ánh thực tế đã có sự tùy tiện trong khâu lựa chọn dự án và quyết định đầu tư, thiếu những tính toán cụ thể về khả năng sinh lời hoặc khả năng hoàn vốn của dự án, vấp phải các vấn đề về thị trường tiêu thụ sản phẩm đầu ra, nguyên vật liệu đầu vào, giá cả, sức cạnh tranh...Khi phê duyệt còn nặng về quy mô hình thức, thiên về lợi ích trước mắt, chưa quan tâm thực sự đến hiệu quả và lợi ích lâu dài của các dự án đầu tư. Khai thác hệ quả công thức tính ICOR, người ta có thể dự báo được tiềm năng tăng trưởng kinh tế và dự báo tổng mức vốn đầu tư cần thiết cho một giai đoạn phát triển. Tuy nhiên, khi dự báo tổng nhu cầu vốn đầu tư của nền kinh tế thông qua hệ số ICOR cần tôn trọng phép biện chứng và nguyên tắc thận trọng. Trong giai đoạn 2001-2005, với giả định hệ số ICOR bình quân từ 4 đến 4,5; để thực hiện được mục tiêu tăng trưởng kinh tế trên 7% năm, tổng vốn đầu tư cần thiết được tính bằng tích giữa ICOR (4 hoặc 4,5) với tốc độ tăng trưởng kinh tế (7%), đưa tỷ suất đầu tư bình quân đạt từ 28% đến 31,5% GDP. Tính ra, nhu cầu vốn đầu tư cần thiết cho cả 5 năm 2001-2005 dao động trong khoảng từ 765 nghìn tỷ đồng đến 860 nghìn tỷ đồng, tương đương khảng 55 đến 61 tỷ USD theo giá cố định năm 2000. Về mặt toán học, các tính toán này không sai nhưng xét về kinh tế học, dự báo tổng nhu cầu vốn đầu tư nói trên dựa trên cơ sở 2 số liệu dự báo sẽ chỉ cho ra kết quả đáng tin cậy khi các số liệu dự báo đó (ICOR và tăng trưởng kinh tế) có độ tin cậy cao. Hệ số ICOR của Việt Nam thời gian qua Năm 1991 1992 1993 1994 1995 1996 1997 1998 1999 2000 ICOR 3.0 2.6 3.7 3.4 3.1 3.1 3.8 4.7 5.5 4 Nguồn : Thời báo kinh tế Việt Nam 2000-2001 Tình hình đầu tư những năm qua cho thấy có một sự phù hợp khá chặt chẽ giữa đầu tư và kết quả tăng trưởng theo mô hình phát triển kinh tế theo chiều rộng, thiên về số lượng. Khi lựa chọn và quyết định đầu tư, hầu như ta chỉ tập trung vào các dự án lớn, vốn nhiều, ít chú ý đến khả năng sinh lời và khả năng hoàn trả vốn đầu tư của từng dự án, chưa coi trọng mức độ hiện đại của công nghệ, chưa quan tâm tới kết cấu ngành và kết cấu kỹ thuật của vốn đầu tư. Phân tích tác động của các yếu tố tới tăng trưởng kinh tế Việt Nam trong thời gian qua cho thấy nguồn vốn đóng vai trò chủ yếu, yếu tố tiến bộ khoa học công nghệ đóng góp vào tăng trưởng khoảng 1,1%-1,2%, bằng mức của Nhật Bản những năm 1960-1970, và giống như mức của Malaixia (1,1%), Singapore (1,2%), và Inđônêxia (1,25%) trong thập kỷ 80 và những năm đầu thập kỷ 90. Năm Tốc độ tăng trưởng (%) GDP Lao động Vốn Năng suất 1987 2.4 2.1 3.1 -0.1 1988 6.0 1.8 2.5 3.9 1989 8.0 1.6 5.2 5.0 1990 5.1 4.7 3.5 0.9 1991 6.0 2.2 4.8 2.7 1992 8.7 2.7 8.0 3.8 1993 8.1 2.8 10.4 2.2 1994 8.9 2.9 16.3 0.5 1995 9.5 2.7 15.4 1.6 Bảng trên là số liệu về tốc độ tăng trưởng các yếu tố của kinh tế Việt Nam giai đoạn 1987-1995 do tổ chức Phát triển công nghiệp Liên hợp quốc (UNIDO) tính toán năm 1996. Đối với các nước khác nhau và ở các giai đoạn phát triển khác nhau, việc tăng trưởng của các yếu tố vốn, lao động, tiến bộ khoa học công nghệ có tác động đến tăng trưởng chung của nền kinh tế không giống nhau. Mô hình hóa mối quan hệ giữa tăng trưởng các yếu tố với tăng trưởng của nền kinh tế nước ta giai đoạn 1987-1995 ta được kết quả dưới đây: Gr(G) = - 0,003 + 0,593´ Gr(L) + 0,41´Gr(C) + 0,996 ´ Gr(P) Trong đó: Gr(G), Gr(L), Gr(C), Gr(P) lần lượt là tốc độ tăng trưởng GDP, lao động, vốn và năng suất lao động. Kết quả trên cho thấy trong giai đoạn 1987-1995, khi các yếu tố khác không đổi, lao động tăng 1% sẽ làm GDP tăng 0,593%; khi vốn tăng 1% thì GDP tăng 0,41% và khi năng suất lao động tăng lên 1% sẽ làm cho GDP tăng 0,996%. Ta thấy rằng khi cùng tăng lên 1% thì sự tăng lên của năng suất và lao động có ý nghĩa lớn hơn đối với tăng trưởng chung của nền kinh tế so với yếu tố vốn. Tuy nhiên, trong giai đoạn 1987-1995, sự tăng trưởng kinh tế chủ yếu là do sự tăng trưởng của vốn (45%), tăng năng suất lao động đóng góp 33% và tăng lao động đóng góp 22%. Vốn đầu tư tăng trưởng khá nhanh trong giai đoạn 1991-1997. Tính theo giá 1995, vốn đầu tư năm 1997 gấp 3,6 lần năm 1991, tăng bình quân 24% năm. Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tăng 10,5 lần trong cùng thời gian trên. Số liệu 1991-2000 cho một cơ cấu đầu tư toàn xã hội như sau: Đầu tư cho nông lâm ngư nghiệp : 10,37% tổng vốn đầu tư. Đầu tư cho công nghiệp, xây dựng : 41,85% tổng vốn đầu tư. Đầu tư cho dịch vụ : 47,78% tổng vốn đầu tư, trong đó 15,14% cho giao thông, bưu điện, kho bãi. Do việc đánh giá vốn đầu tư toàn xã hội khác nhau nên việc ước tính hệ số ICOR gặp nhiều khó khăn và có điểm chưa thống nhất. Tuy vậy, có thể thấy rằng những năm gần đây để làm thêm ra một đồng GDP số vốn đầu tư ngày càng nhiều lên, ước tính chung cho cả giai đoạn 1996-2000 con số này là trên bốn (tương ứng tỷ trọng đầu tư trên GDP ở mức bình quân 27,5% và nhịp tăng trưởng GDP là 6,8% bình quân năm), nghĩa là để tăng thêm một đồng GDP cần hơn 4 đồng vốn đầu tư. Thực trạng đầu tư, tăng trưởng và hệ số ICOR phản ánh sát thực mô hình kinh tế thiên về số lượng, cơ cấu kinh tế chứa đựng nhiều yếu tố không bền vững, mất cân đối, cần được xử lý; nền kinh tế đòi hỏi những biện pháp cụ thể, dứt khóat nhằm hạ thấp hệ số ICOR thông qua việc đổi mới thực sự cơ cấu đầu tư, tiến tới một sự chuyển dịch rõ nét trong cơ cấu kinh tế, đẩy mạnh tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế. Mục tiêu phát triển kinh tế xã hội của Đảng và Nhà nướcta trong giai đoạn tới, làm sao trong giai đoạn chiến lược 2001-2010, ta chỉ cần khoảng 4 - 4,5 đồng vốn đầu tư để tạo ra 1 đồng tăng trưởng GDP. Đây là một hệ số hợp lý, có thể chấp nhận được, đảm bảo tăng trưởng nhanh và bền vững, tạo điều kiện thu hẹp khoảng cách tụt hậu so với thế giới. 2. Mục tiêu và định hướng phát triển của nền kinh tế Với những cách tiếp cận khác nhau, dưới những tiền đề khác nhau về điểm xuất phát năm 2000 của Việt Nam, mức tăng trưởng GDP bình quân năm của các giai đoạn 2001-2010 co giãn trong một khoảng khá rộng tùy thuộc vào các yếu tố nội lực và bối cảnh quốc tế. Các yếu tố sau đây là những nhân tố tích cực thúc đẩy sự tăng trưởng cao của đất nước : Thực tiễn 10 năm qua khẳng định tính đúng đắn của đường lối đổi mới do Đảng Cộng sản Việt Nam khởi xướng. Tiếp tục đường lối đổi mới một cách sâu rộng sẽ là tiền đề quan trọng cho sự phát triển đất nước ta trong những thập kỷ tới. Xem xét các yếu tố sản xuất có thể thấy, yếu tố thúc đẩy tăng trưởng cao trong giai đoạn 1991-1997 là vốn đầu tư. Yếu tố lao động (không tay nghề) đóng góp chủ yếu ở khu vực nông nghiệp và dịch vụ. Hàm lượng khoa học kỹ thuật trong tăng trưởng chưa cao, nếu có chính sách đầu tư đúng để nâng cao hàm lượng này thì đây là một yếu tố tích cực tác động tới tăng trưởng cao trong những thập kỷ tới. Tiềm lực khu vực dịch vụ, đặc biệt là các dịch vụ sản xuất vẫn còn to lớn Tạo được sự bổ sung lẫn nhau giữa các thành phần kinh tế. Để tính toán cho các nước đang phát triển, các chuyên gia quốc tế thường ước tính đối với các yếu tố đầu vào: vốn đóng vai trò lớn hơn, từ 60%-70%, lao động đóng góp 30-40%. Khảo sát tình hình tăng trưởng của các nước khu vực trong vòng 30 năm qua cho thấy có thể lấy mức đóng góp của lao động là 35%, của vốn 65% và TFP trong khoảng từ 2% đến 2,5% để mô phỏng cho Việt Nam. Kết quả mô phỏng cho thấy về trung bình mức tăng trưởng 7%-8% năm cho giai đoạn 2001-2010 đối với Việt Nam có thể coi là mức cơ sở. Dựa trên các kết quả phân tích, đánh giá đó Đảng và Nhà nước đã xác định phương án tăng trưởng cho nền kinh tế đến 2010 với giả thiết hết năm 2000 đất nước ta về cơ bản đã chặn được đà suy giảm tăng trưởng; trong giai đoạn đầu đến 2005 các yếu tố nội lực được phát huy tốt, các yếu tố ngoại lực ở mức trung bình (tương ứng với mức tăng trưởng vốn cố định khoảng 7% bình quân năm, thu hút lao động thêm vào các ngành kinh tế quốc dân khoảng 2,5% năm và đóng góp của khoa học công nghệ vào tăng trưởng khoảng 1,8%), việc thực hiện các thoả thuận AFTA vào năm 2006 có thể hạn chế mức tăng trưởng đến 2010. Nhờ chuyển dịch cơ cấu đầu tư nên hiệu quả vốn tăng dần. Theo phương án này, trong giai đoạn 2001-2005 tốc độ tăng trưởng GDP bình quân năm ở mức 7,0%-7,5%. Trong đó, nông nghiệp 3,3%-3,6%, công nghiệp và xây dựng tăng 9%-10%, dịch vụ tăng 6,3%-6,7%. Giai đoạn 2006-2010 tốc độ tăng trưởng GDP bình quân năm đạt 7%-7,5%, trong đó, nông lâm ngư nghiệp tăng 3,2% - 3,4%, công nghiệp và xây dựng tăng 9,5%-10%, dịch vụ tăng 6,4%-6,8%. Với tốc độ tăng trưởng như trên, đến năm 2005 tỷ trọng các ngành nông lâm ngư nghiệp, công nghiệp và xây dựng, dịch vụ trong GDP tương ứng là 21% - 36,9% - 42,1% và đến 2010 là 17,3% - 39,6% - 43,2%. Để tăng gấp đôi GDP trong khoảng 10 năm đòi hỏi một nhịp tăng trưởng bình quân năm khoảng 7,2% trong cả giai đoạn 2001-2010. Để đạt được mục tiêu tăng trưởng đã đề ra, Đảng và Nhà nước ta xác định phải huy động được vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài khoảng 10-12 tỷ USD cho giai đoạn 2001-2005 và 14-16 tỷ USD giai đoạn 2006-2010. Đây là một nhiệm vụ hết sức khó khăn nhất là trong điều kiện nước ta đang phải chịu ảnh hưởng của khủng hoảng tài chính-tiền tệ khu vực và dòng vốn đầu tư nước ngoài có xu hướng giảm xuống trong những năm gần đây. Tuy nhiên, nếu có những giải pháp đúng đắn và đồng bộ, chúng ta hoàn toàn có khả năng đạt được mục tiêu này. Sự ổn định chính trị - xã hội cùng với chính sách nhất quán và lâu dài của Việt Nam trong hội nhập với khu vực và thế giới và những lợithế vốn có về tài nguyên, con người sẽ vẫn là những thế mạnh của môi trường đầu tư Việt Nam. IIi. Giải pháp huy động và sử dụng hiệu quả vốn fdi đáp ứng yêu cầu phát triển của nền kinh tế Trên cơ sở phân tích những thuận lợi, khó khăn và dựa vào kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2001-2005, các chuyên gia quản lý đầu tư nước dự kiến vốn thực hiện của các dự án đầu tư nước ngoài trong 5 năm tới sẽ có nhu cầu khoảng trên 11 tỷ USD (theo giá năm 2000), chiếm khoảng 18-20% vốn đầu tư toàn xã hội. Trong đó, vốn thực hiện từ các dự án đã cấp phép trước năm 2001 sẽ tiếp tục triển khai (khoảng 4-5 tỷ USD), từ các dự án hoạt động hiệu quả sẽ tăng vốn (khoảng 2 tỷ USD) và vốn thực hiện của các dự án cấp mới (khoảng 4-5 tỷ USD). Để thực hiện được nhiệm vụ này và nâng cao hiệu quả hoạt động trong lĩnh vực đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam, phù hợp với chiến lược phát triển kinh tế lâu dài của đất nước theo hướng CNH-HĐH, từng bước hội nhập với khu vực và thế giới, cần phải nghiên cứu đề ra một hệ thống các giải pháp trước mắt và lâu dài đồng thời thực hiện các giải pháp đó một cách đồng bộ. Một trong những giải pháp hàng đầu đẩy mạnh công tác thu hút ĐTNN cho giai đoạn 2001-2005 là cần thống nhất nhận thức, xây dựng chiến lược là nâng cao chất lượng quy hoạch thu hút ĐTNN, coi việc quy hoạch ĐTNN như là một bộ phận trong quy hoạch tổng thể các nguồn lực nói chung của cả nước, gắn với quy hoạch ngành, lãnh thổ, từng sản phẩm, dịch vụ chủ yếu, kết hợp ngay từ đầu với an ninh, quốc phòng. Dưới đây sẽ xem xét cụ thể hơn: 1. Những giải pháp trước mắt Tiếp tục triển khai có hiệu quả Nghị định số 10/1998/NĐ-CP của Chính phủ về một số biện pháp khuyến khích và đảm bảo hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam vì trong nghị định này đã giải quyết nhiều vấn đề liên quan đến thủ tục triển khai dự án, cách đánh thuế XNK, thuế lợi tức, cụ thể hóa những ngành, những vùng ưu tiên, ưu đãi đầu tư...nhằm khuyến khích, tạo môi trường thuận lợi cho việc thu hút vốn FDI. Tạo mọi điều kiện thuận lợi để các dự án đã triển khai hoạt động mở rộng, tăng công suất hiện có, tránh cho phép đầu tư vào các ngành còn dư thừa năng lực Xử lý linh hoạt hơn nữa hình thức đầu tư, khuyến khích hình thức doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài đối với những dự án công nghệ cao, công nghệ mới; các dự án có quy mô vốn đầu tư lớn, thời gian hoàn vốn dài, độ rủi ro cao. Cho phép linh hoạt chuyển đổi hình thức đầu tư từ liên doanh thành doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài trong trường hợp thua lỗ kéo dài hoặc mâu thuẫn nghiêm trọng, có nguy cơ đổ vỡ hoặc đang hoạt động bình thường nhưng đối tác trong nước muốn rút vốn đầu tư vào dự án khác có hiệu quả hơn. Các văn bản pháp lý của Nhà nước liên quan đến hoạt động đầu tư FDI cần được dịch ra tiếng Anh ngay từ cấp ban hành và tổ chức thông tin công khai ở tất cả các cấp, các ngành, các đơn vị có liên quan để tránh sự diễn giải và áp dụng tùy tiện gây phiền nhiễu cho các nhà đầu tư nước ngoài. Tiếp tục thành lập các hiệp hội kinh doanh của giới doanh nhân các nước tại Việt Nam, duy trì thường xuyên các cuộc tiếp xúc, hội thảo giữa Chính phủ, cán bộ với các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, xử lý kịp thời các vấn đề phát sinh trong quá trình sản xuất kinh doanh của họ. Thành lập một trung tâm đầu mối để giải quyết các vướng mắc có liên quan đến hoạt động của các doanh nghiệp có vốn FDI. Cần đổi mới và đẩy mạnh công tác vận động, xúc tiến đầu tư. Thực hiện giảm tiền thuê đất, đối với những vùng kinh tế khó khăn chỉ thu tiền thuê đất tượng trưng để giữ chủ quyền đất. Khuyến khích và ưu đãi hơn nữa các dự án đầu tư vào lĩnh vực nông-lâm-ngư nghiệp và đầu tư vào vùng núi, vùng sâu, vùng xa. Cho phép các doanh nghiệp ngoài quốc doanh góp vốn liên doanh bằng quyền sử dụng đất. Tổ chức theo dõi, rà soát khâu tổ chức thực hiện luật như: hải quan, thuế, cơ quan quản lý đất.. chống quan liêu, cửa quyền, tránh sự phiền hà và chi phí cho các nhà đầu tư. Kiên quyết đấu tranh chống tham nhũng ở tất cả các khâu, các cấp. Xử lý nghiêm khắc những hiện tượng tham nhũng, làm trái với quy định pháp luật của các cán bộ thừa hành, góp phần làm trong sạch môi trường đầu tư. áp dụng các biện pháp mạnh mẽ, có hiệu quả để chống nạn buôn lậu, chống hàng giả, hàng nhái, chống gian lận thương mại... 2. Các biện pháp lâu dài Sớm xây dựng một hệ thống luật thống nhất và hoàn chỉnh, ban hành những luật còn thiếu, tạo môi trường pháp lý đầy đủ cho các nhà đầu tư hoạt động. Nghiên cứu tiến tới xây dựng một luật đầu tư chung cho cả các nhà đầu tư trong và ngoài nước. Chính sách đầu tư cần ổn định và nhất quán, đặc biệt chính sách thuế vì nó ảnh hưởng trực tiếp đến lợi ích của nhà đầu tư nước ngoài. Khắc phục tình trạng chồng chéo, không thống nhất giữa các văn bản pháp luật liên quan đến hoạt động của các doanh nghiệp FDI. Ban hành quy chế tài chính riêng cho các doanh nghiệp FDI để quản lý và giám sát các doanh nghiệp này chặt chẽ hơn. Đồng thời cần có chính sách quy định về chống độc quyền, bán phá giá, chống gian lận thương mại để tránh hiện tượng chuyển giá nội bộ giữa các doanh nghiệp FDI. Đẩy mạnh khâu quy hoạch, nghiên cứu kinh nghiệm của các nước và điều kiện cụ thể của Việt Nam, sớm xây dựng và công bố công khai quy hoạch đầu tư dài hạn của Việt Nam, công bố rộng rãi, rõ ràng các danh mục ngành, lĩnh vực và dự án rất khuyến khích đầu tư, khuyến khích, không khuyến khích và không cho phép đầu tư trực tiếp nước ngoài. Mở rộng hơn nữa các loại hình doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài để tăng cơ hội lựa chọn cho các nhà đầu tư. Tiếp tục hoàn thiện thủ tục đầu tư sao cho khoa học, đơn giản và thuận tiện. Bằng những quy định được công bố công khai và các hành động cụ thể tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư. Xét duyệt và công khai chính sách thuế XNK của Việt Nam khi buôn bán với các nước và với các nước AFTA từ đây đến năm 2006 khi Việt Nam thực hiện xong chương trình cắt giảm thuế CEPT. Việc này giúp các nhà đầu tư hoạch định chính sách sản phẩm của mình trong tương lai. Tiếp tục cải tổ khu vực doanh nghiệp nhà nước, tài chính nhân hàng, phát triển khu vực kinh tế tư nhân và phải coi đây là động lực thu hút đầu tư và phát triển. Cải cách hơn nữa nền kinh tế để có đủ điều kiện gia nhập các tổ chức WTO và APEC. Nhà nước cần quan tâm hơn nữa vào phát triển hạ tầng cơ sở vì kinh nghiệm cho thấy muốn thu hút được 1 đồng vốn nước ngoài thì nước chủ nhà phải bỏ ra hơn 2 đồng để phát triển cơ sở hạ tầng. ổn định hơn nữa môi trường kinh tế vĩ mô, giữ vững tốc độ tăng trưởng kinh tế, có chế độ tỷ giá hối đoái uyển chuyển và phù hợp, những chính sách bảo hộ thương mại hữu hiệu.. Hướng hoạt động của các doanh nghiệp FDI cho phù hợp với yêu cầu hội nhập vào khu vực và thế giới của Việt Nam. Đối với những ngành hàng ta có lợi thế so sánh cao như nông sản và các sản phẩm sử dụng nhiều lao động thì nên đầu tư nhiều hơn. Đối với nông nghiệp nên tập trung cho việc xây dựng cơ sở hạ tầng ở nông thôn và đặc biệt là chế biến nông sản, mở rộng đầu mối xuất khẩu nông sản. Đối với các sản phẩm sử dụng nhiều lao động như dệt may, da giày..thì điều quan trọng là thị trường, chất lượng và mẫu mã. Một số mặt hàng ta không có lợi thế so sánh cao thì không nên đầu tư xây dựng mới mà chỉ nên củng cố những dự án đã có để sử dụng hết công suất, đặc biệt là khâu cung ứng nguyên liệu. Các doanh nghiệp có vốn FDI phải hướng mạnh vào xuất khẩu hơn nữa vì sức mua của thị trường Việt Nam còn khá thấp, chưa là động lực tích cực để thúc đẩy hoạt động của các doanh nghiệp, đồng thời nó cũng đúng với kinh nghiệm thực tế của nhiều nước trong khu vực: tăng cường năng lực xuất khẩu phải là mục tiêu số một của các doanh nghiệp FDI. Muốn vậy, nhà nước cần tiếp tục có những hỗ trợ về thuế, giá cả, đơn giản hóa thủ tục xuất nhập khẩu. Chú trọng thu hút các nhà đầu tư mạnh, có những ưu đãi đặc biệt để thu hút đầu tư vào các ngành công nghệ cao, kỹ thuật hiện đại. Cần quan tâm hơn nữa đến đội ngũ trí thức trong và ngoài nước, khơi dậy và phát huy lòng yêu nước, tự hào dân tộc của lực lượng này bởi vì họ có thể làm cầu nối, lựa chọn công nghệ hiện đại và đưa các nhà đầu tư mạnh về Việt Nam. Chú trọng hơn nữa việc đào tạo đội ngũ các nhà quản trị giỏi cho nước nhà để làm đối tác với các nhà đầu tư mạnh. Cần đầu tư thích đáng và có cải cách triệt để trong hệ thống giáo dục và đào tạo. Xây dựng chương trình, cách dạy và cách học sao cho khoa học và phù hợp ở các cấp đặc biệt là các trường dạy nghề, công nhân kỹ thuật nhằm nâng cao chất lượng lao động Việt Nam. Trên đây chỉ là những giải pháp có tính định hướng cơ bản. Để thực hiện được mục tiêu thu hút và sử dụng có hiệu quả vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài phục vụ sự nghiệp phát triển kinh tế đất nước, chúng ta cần phải cụ thể hóa những giải pháp định hướng trên nhằm quản lý và điều hành FDI một cách hữu hiệu, đảm bảo cân bằng giữa các ngành, các vùng cũng như các loại hình đầu tư, phù hợp với chiến lược phát triển kinh tế xã hội và đóng góp ngày càng nhiều vào sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Trong quá trình thực hiện phải thực sự sáng suốt, linh hoạt, đảm bảo các chính sách quy định luôn phù hợp với điều kiện cụ thể trong nước và bối cảnh quốc tế của từng giai đoạn, từng thời kỳ. Điều này đòi hỏi sự nỗ lực và quyết tâm của tất cả các cơ quan, bộ ngành, các doanh nghiệp và của mỗi cá nhân vì sự phát triển chung của đất nước Việt Nam. ********* kết luận Quốc tế hóa đời sống kinh tế là một xu hướng khách quan, là sự phát triển tất yếu của nền sản xuất xã hội, trên cơ sở sự phát triển mạnh mẽ của lực lượng sản xuất. Xu hướng này đã lôi kéo tất cả các nước trên thế giới, dù muốn hay không cũng phải từng bước hội nhập vào quỹ đạo của nền kinh tế thế giới. Trong quá trình quốc tế hóa đời sống kinh tế quốc tế, hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài có vị trí và vai trò ngày càng quan trọng, nó đã và đang là nhân tố cơ bản cấu thành và quy định xu hướng phát triển của các quan hệ kinh tế quốc tế. Một mặt, đầu tư nước ngoài hiện là hoạt động cơ bản của quan hệ kinh tế quốc tế, mặt khác nó là nhân tố đẩy nhanh quá trình hội nhập vào nền kinh tế thế giới của các nước đang phát triển. Đầu tư trực tiếp nước ngoài đã đóng góp một phần tích cực trong công cuộc đổi mới kinh tế của Việt Nam hơn 10 năm qua. ý nghĩa của nó không chỉ dừng lại ở những kết quả thống kê về mức sản lượng, doanh thu, giá trị kim ngạch xuất khẩu tỷ lệ đóng góp vào GDP, số chỗ làm việc tạo ra...mà điều quan trọng là từ một “cú hích” ban đầu, ĐTTTNN đã đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế của Việt Nam để có thể thoát ra khỏi cái vòng luẩn quẩn, tránh nguy cơ tụt hậu phát triển so với các nước và từng bước hội nhập với kinh tế khu vực và thế giới. Tất nhiên bên cạnh những ưu điểm của đầu tư trực tiếp nước ngoài cũng còn nhiều vấn đề còn phải bàn như hiện tượng chảy máu chất xám, ô nhiễm môi trường, vi phạm quyền lợi của người lao động cả về vật chất lẫn phẩm giá và lòng tự trọng dân tộc...Mặc dù vậy, không thể chối cãi một điều là đầu tư rực tiếp nước ngoài đã trở thành một bộ phận của nền kinh tế quốc dân. Mỗi chính sách kinh tế, mỗi biến động tài chính tiền tệ, mỗi chiến lược phát triển đều có bóng dáng của đầu tư trực tiếp nước ngoài. Đảng và Nhà nước ta xác định sự thành đạt của các nhà đầu tư gắn liền với sự thành công của Việt Nam , mọi mất mát rủi ro của nhà đầu tư cũng là rủi ro mất mát của Việt Nam và đã tạo mọi điều kiện thuận lợi nhất, thông thoáng nhất cho các nhà đầu tư nước ngoài làm ăn tại Việt Nam nhằm khai thác và sử dụng có hiệu quả nguồn vốn FDI phục vụ sự nghiệp phát triển kinh tế đất nước. Chúng ta cần nghiên cứu và giải quyết một cách triệt để những vấn đề đang đặt ra và hoàn thiện các chính sách đối với hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài để thu hút ngày càng nhiều vốn đầu tư nước ngoài, phát huy tốt nhất những mặt tích cực và hạn chế tối đa mặt tiêu cực của FDI . Hy vọng rằng cùng với tiến trình phát triển của đất nước, các doanh nghiệp FDI không ngừng hoàn thiện, phát triển và khẳng định mình, góp phần vào tăng trưởng kinh tế, thúc đẩy công cuộc đổi mới đất nước, đưa Việt Nam bước lên tầm cao mới. tài liệu tham khảo 1. Những vấn đề cơ bản về Kinh tế vĩ mô - ĐHKTQD HN - NXB Thống kê 1998 2. Giáo trình Kinh tế phát triển - Trường ĐHKTQD Hà Nội - NXB Thống kê 1997 3. Cơ sở khoa học của một số vấn đề trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội Việt Nam đến năm 2010 và tầm nhìn 2020 -Viện Chiến lược Phát triển - NXB Chính trị quốc gia 2001. 4. Đầu tư trực tiếp nước ngoài với tăng trưởng kinh tế Việt Nam - Vũ Trường Sơn- NXB Thống kê 1997. 5. Vốn nước ngoài và chiến lược phát triển kinh tế ở Việt Nam - PTS Lê Văn Châu - NXB Chính trị quốc gia 1995. 6. Dự thảo Báo cáo chính trị Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX. 7. Chuyên san Kinh tế Việt Nam và Thế giới 1997-1998, 1998-1999, 1999-2000 và 2000-2001 - Thời báo Kinh tế Việt Nam. 8. Kinh tế xã hội Việt Nam 10 năm 1991- 2000. Bộ KH-ĐT- NXB Thống kê 2001 9. Niên giám thống kê 1998, 1999 - Tổng cục Thống kê . 10. Tạp chí Nghiên cứu kinh tế - Các số tháng 4, 9, 11 năm 1996; tháng 1, 4, 7, 9, 12 năm 1997; tháng 1, 4, 5, 9 năm 1998 và các tháng 5, 6, 9 năm 2000. 11. Tạp chí Kinh tế và Dự báo - Số tháng 10, 12 năm 1997, các tháng 4, 8, 9, 11 năm 1998; tháng 1, 3, 7, 8, 9 năm 2000. 12. Tạp chí Phát triển kinh tế số các năm 1995 - 2000. 13. Tạp chí Doanh nghiệp đầu tư nước ngoài số tháng 6/2000, 8/2000 và 10/2000. 14. Các tạp chí Kinh tế và phát triển, Ngân hàng, Thương mại, Những vấn đề kinh tế thế giới, Kinh tế Châu á- Thái Bình Dương, Thị trường Tài chính- tiền tệ, Con số & Sự kiện, Thông tin Kinh tế - xã hội, số các năm 1996 - 2000 Mục lục ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc34390.doc
Tài liệu liên quan