Đầu tư với sự tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo ngành theo hướng CNH-HĐH ở Việt Nam

Lời mở đầu Các lý thuyết kinh tế đều cho rằng đầu tư đóng vai trò quan trọng đến tăng trưởng kinh tế của mỗi quốc gia. Theo đó để có tốc độ tăng trưởng kinh tế ổn định, các quốc gia đều phải duy trì một lượng vốn đầu tư tương ứng với nhu cầu tăng trưởng và phát triển kinh tế .Và để có sự thay đổi trong cơ cấu kinh tế, đặc biệt là cơ cấu kinh tế theo ngành đáp ứng mục tiêu trong từng thời kỳ, cần phải có sự bố trí hợp lý cơ cấu đầu tư. Với sự gia tăng quy mô và tỷ trọng vốn đầu tư cho một số ngà

doc68 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1354 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Đầu tư với sự tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo ngành theo hướng CNH-HĐH ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
nh đã thúc đẩy các ngành này tăng trưởng mạnh mẽ hơn và dần hình thành chuyển dịch tương đồi giữa các ngành trong cơ cầu kinh tế. Thực tiễn ở Việt Nam trong thời gian qua đã chứng minh rằng để có thể đạt được mục tiêu tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH-HĐH cần phải có một khối lương vốn đầu tư và cơ cấu đầu tư hợp lý. Cũng như hầu hết các quốc gia trên thế giới, chúng ta khẳng định vốn đầu tư là nhân tố tạo đà cho nền kinh tế, là cú huých ban đầu cho sự tăng trưởng. Trên cơ sở nhận thức được vai trò quan trọng đó của đầu tư, em đã chọn đề tài: “ Đầu tư với sự tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo ngành theo hướng CNH- HĐH ở Việt Nam” làm đề án môn học. Với những kiến thức đã được cung cấp ở trong và ngoài trường đại học, em mong muốn được làm rõ nét hơn tác động của đầu tư đối với quá trình phát triển của đất nước. Em xin trân trọng cảm ơn PGS.TS Nguyễn Ngọc Mai đã tận tình hướng dẫn em trong suốt quá trình thực hiện đề án. Tuy nhiên do khả năng và thời gian hạn chế, bài viết không thể không tránh được những thiếu sót. Kính mong sự góp ý của các thầy cô giáo và các bạn để bài viết được hoàn thiện hơn. Hà Nội, tháng 11 năm 2004 Phần I đầu tư với sự nghiệp cnh-hđh của các quốc gia I- Đầu tư và cơ cấu đầu tư 1. Khái niệm và vai trò của đầu tư phát triển 1.1 Khái niệm đầu tư và đầu tư phát triển Đầu tư là hoạt động quan trọng hàng đầu đảm bảo sự tồn tại và phát triển của tất cả các quốc gia. Chính vì vậy đây cũng là khái niệm được nhiều nhà kinh tế học quan tâm và đưa ra nhiều quan điểm khác nhau.Song có thể quan niệm hoạt động đầu tư một cách chung nhất như sau: Đầu tư là sự hy sinh các nguồn lực ở hiện tại để tiến hành các hoạt động nào đó nhằm thu về cho người đầu tư các kết qủa nhất định trong tương lai lớn hơn nguồn lực đã bỏ ra để đạt được các kết quả đó. Xuất phát từ bản chất và phạm vi lợi ích do đầu tư đem lại, chúng ta có thể phân chia các loại đầu tư như đầu tư tài chính, đầu tư thương mại và đầu tư tài sản vật chất và sức lao động ( gọi chung là đầu tư phát triển). Trong đó thì đầu tư phát triển có ý nghĩa cực kỳ quan trọng vì nó trực tiếp tác động đến tăng trưởng và phát triển kinh tế Đầu tư phát triển là hoạt động sử dụng các nguồn lực về tài chính, các nguồn lực về vật chất, lao động và trí tuệ nhằm duy trì tiềm lực hoạt động của các cơ sở đang tồn tại và tạo ra tiềm lực mới cho nền kinh tế xã hội, tạo việc làm và nâng cao đời sống mọi thành viên trong xã hội. 1.2 Vai trò của đầu tư phát triển 1.2.1 Trên giác độ toàn bộ nền kinh tế của đất nước * Đầu tư vừa tác động đến tổng cung, vừa tác động tổng cầu: - Về mặt cầu, đầu tư là một yếu tố chiếm tỷ trọng lớn trong tổng cầu của toàn bộ nền kinh tế. Theo số liệu của Ngân hàng thế giới, đầu tư thường chiếm khoảng 24-28% trong cơ cấu tổng cầu của các nước trên thế giới. Đối với tổng cầu, tác động của đầu tư là ngắn hạn. Với tổng cung chưa kịp thay đổi, sự tăng lên của đầu tư làm tổng cầu tăng lên. - Về mặt cung, khi thành quả của đầu tư phát huy tác dụng, các năng lực mới đi vào hoạt động sẽ làm tổng cung, đặc biệt tổng cung dài hạn tăng lên, làm cho sản lượng tăng, giá cả giảm xuống, kích thích tiêu dùng, từ đó khiến cho sản xuất ngày càng phát triển. * Đầu tư tác động hai mặt đến sự ổn định kinh tế. Sự tác động không đồng thời về mặt thời gian của đầu tư đối với tổng cầu và tổng cung làm cho mỗi sự thay đổi của đầu tư, dù là tăng hay giảm đều cùng một lúc vừa là yếu tố duy trì sự ổn định, vừa là yếu tố phá vỡ sự ổn định của một quốc gia. Chẳng hạn, khi đầu tư tăng, cầu của các yếu tố đầu tư tăng làm cho giá cả của các hàng hoá có liên quan tăng (chi phí vốn, giá công nghệ, lao động…) đến một mức nào đó sẽ dẫn tới lạm phát. Lạm phát sẽ làm cho sản xuất đình trệ, đời sống người dân gặp khó khăn, thâm hụt ngân sách, kinh tế phát triển chậm lai. Mặt khác, tăng đầu tư làm cho cầu của các yếu tố liên quan tăng, sản xuất các ngành này phát triển, thu hút thêm lao động, giảm thất nghiệp…Tất cả các tác động này lại tạo điều kiện cho sự tăng trưởng và phát triển kinh tế. * Đầu tư tác động đến tốc độ tăng trưởng và phát triển kinh tế Từ việc xem xét mô hình Harrod- Domar ta thấy rằng: g= Trong đó: g: mức tăng GDP s: tỷ lệ tiết kiệm trong thu nhập hay tỉ lệ đầu tư k: hệ số ICor Như vậy, nếu hệ số ICOR không đổi, tốc độ tăng trưởng hoàn toàn phụ thuộc vào tỷ lệ tiết kiệm trong thu nhập hay tỷ lệ đầu tư. Như vậy, đầu tư có tác động trực tiếp đến tăng trưởng và phát triển kinh tế, muốn có tăng trưởng phải không ngừng gia tăng đầu tư. * Đầu tư với chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Kinh nghiệm của các nước trên thế giới cho thấy con đường tất yếu có thể tăng trưởng nhanh với tốc độ mong muốn (từ 9 đến 10%) là tăng cường đầu tư nhằm tạo ra sự phát triển ở khu vực công nghiệp và dịch vụ. Đối với các ngành nông, lâm, ngư nghiệp do những hạn chế về đất đai và khả năng sinh học, để đạt được tốc độ tăng trưởng từ 5-6% là rất khó khăn. Như vậy, chính đầu tư quyết định quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở các quốc gia nhằm đạt được tốc độ tăng trưởng nhanh của toàn bộ nền kinh tế. Về cơ cấu lãnh thổ, đầu tư có tác dụng giải quyết những mất cân đối về phát triển giữa các vùng lãnh thổ, đưa những vùng kém phát triển thoát khỏi tình trạng đói nghèo, phát huy tối đa những lợi thế so sánh về tàI nguyên, địa thế… của những vùng có khả năng phát triển nhanh hơn, làm bàn đạp thúc đẩy những vùng khác cùng phát triển. * Đầu tư với việc tăng cường khả năng khoa học công nghệ Công nghệ là trung tâm của công nghiệp hoá.Đầu tư là điều kiện tiên quyết của sự phát triển và tăng cường công nghệ của nước ta hiện nay. Theo đánh giá của các chuyên gia công nghệ, trình độ công nghệ của Việt Nam lạc hậu nhiều thế hệ so với thế giới và khu vực. Theo UNIDO, nếu chia quá trình phát triển thế giới thành 7 giai đoạn thì Việt Nam đang ở đầu giai đoạn 2, Việt Nam đang là một trong 90 nước kém nhất về công nghệ. Với trình độ công nghiệp lạc hậu này, quá trình công nghiệp hoá và hiện đại hoá của Việt Nam sẽ gặp nhiều khó khăn nếu không đề ra được một chiến lược đầu tư phát triển công nghệ nhanh và vững chãi. Chúng ta đều biết rằng có hai con đường cơ bản để có công nghệ là tự nghiên cứu phát minh ra công nghệ hoặc nhập khẩu công nghệ từ nước ngoài. Dù là tự nghiên cứu hay nhập từ nước ngoài đều cần phải có một khoản tiền, vốn đầu tư nhất định. Mọi phương án đầu tư nếu không gắn với nguồn vốn sẽ là những phương án không khả thi. 1.2.2. Đối với các cơ sở sản xuất kinh doanh dịch vụ Đầu tư quyết định sự ra đời, tồn taị và phát triển của các cơ sở Bất kỳ một cơ sở sản xuất kinh doanh dịch vụ nào khi mới ra đời đều cần phải tạo dựng cơ sở vật chất kỹ thuật như xây dựng nhà xưởng, cấu trúc hạ tầng, mua sắm lắp đặt thiết bị trên nền bệ, tiến hành các công tác xây dựng cơ bản …..Các hoạt động này chính là hoạt động đầu tư. Đối với các cơ sở sản xuất kinh doanh dịch vụ đang tồn tại thì sau một thời gian hoạt động, các cơ sở vật chất kỹ thuật của các cơ sở này hao mòn, hư hỏng. Để duy trì được sự hoạt động bình thường cần định kỳ tiến hành sửa chữa lớn hoặc thay mới các cơ sở vật chất kỹ thuật đã hư hỏng, hao mòn này hoặc đổi mới để thích ứng với sự phát triển khoa học kỹ thuật và nhu cầu tiêu dùng của nền sản xuất xã hội, như vậy cũng có nghĩa là phải đầu tư. 2. Cơ cấu đầu tư 2.1 Khái niệm và phân loại cơ cấu đầu tư 2.1.1 Khái niệm Cơ cấu đầu tư là cơ cấu các yếu tố biểu thị bằng quan hệ tỷ lệ phần trăm cấu thành tổng mức đầu tư như phần trăm vốn đầu tư của từng ngành, từng vùng, từng khu vực kinh tế, từng loại hình doanh nghiệp… Cơ cấu đầu tư luôn thay đổi theo thời gian nhằm đáp ứng việc thực hiện các mục tiêu của chiến lược phát triển kinh tế xã hội 2.1.2 Phân loại Có thể phân loại cơ cấu đầu tư dựa trên các tiêu thức khác nhau. Tuy nhiên nếu xuất phát từ cơ cấu kinh tế để phân loại cơ cấu đầu tư thì có thể phân chia cơ cấu đầu tư thành cơ cấu đầu tư theo ngành, cơ cấu đầu tư theo lãnh thổ và cơ cấu đầu tư theo thành phần kinh tế: - Cơ cấu đầu tư theo ngành: thể hiện mối tương quan theo tỷ lệ trong việc huy động và phân phối các nguồn lực cho các ngành và hoặc nhóm ngành của nền kinh tế và các chính sách, công cụ quản lý nhằm đạt được mối tương quan trên. Cơ cấu đầu tư theo ngành thể hiện việc thực hiện chính sách ưu tiên phát triển, chính sách đầu tư đối với từng ngành trong một thời kỳ nhất định. Khi xem xét cơ cấu đầu tư theo ngành, thông thường người ta xem xét theo 3 nhóm ngành chính: * Nông lâm nghiệp và thuỷ sản * Công nghiệp và xây dựng * Dịch vụ - Cơ cấu đầu tư theo lãnh thổ: Thể hiện thông qua mối tương quan tỷ lệ và mối quan hệ giữa việc phân bổ và sử dụng các nguồn lực cho các vùng lãnh thổ trên cơ sở vận dụng các thể chế chính sách và cơ chế quản lý phù hợp nhằm đạt được và duy trì mối tương quan tỷ lệ đó. Cơ cấu đầu tư theo lãnh thổ thể hiện mức độ ưu tiên trong chiến lược đầu tư giữa các vùng lãnh thổ khác nhau, phát huy lợi thế sẵn có của vùng trong khi vẫn đảm bảo hỗ trợ, tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển chung của các vùng khác, đảm bảo sự phát triển thống nhất và những cân đối lớn trong phạm vi quốc gia và giữa các ngành. - Cơ cấu đầu tư theo thành phần kinh tế: hình thành trên cơ sở chế độ sở hữu phản ánh mối tương quan theo tỷ lệ trong việc huy động và phân bố các nguồn lực cho đầu tư giữa các thành phần kinh tế thông qua việc thực hiện các thể chế chính sách và cơ chế quản lý phù hợp. Cơ cấu đầu tư theo thành phần kinh tế phản ánh mức độ ưu tiên phát triển các thành phần kinh tế chủ đạo nhằm đảm bảo vị trí đặc biệt quan trọng của chúng trong nền kinh tế quốc dân. 2.2 Chuyển dịch cơ cấu đầu tư Cơ cấu đầu tư luôn thay đổi trong từng giai đoạn phù hợp với sự phát triển của nền kinh tế xã hội. Sự thay đổi của cơ cấu đầu tư từ mức độ này sang mức độ khác, phù hợp với môi trường và mục tiêu phát triển gọi là chuyển dịch cơ cấu đầu tư Sự thay đổi không chỉ bao gồm về vị trí ưu tiên mà còn là sự thay đổi về chất trong nội bộ cơ cấu và các chính sách áp dụng. Về thực chất, chyển dịch cơ cấu đầu tư là sự điều chỉnh cơ cấu vốn, nguồn vốn đầu tư, điều chỉnh cơ cấu huy động và sử dụng các loại vốn và nguồn vốn..phù hợp với mục tiêu đã định của toàn bộ nền kinh tế, ngành, địa phương và các cơ sở trong từng thời kỳ phát triển. Chuyển dịch cơ cấu đầu tư có ảnh hưởng quan trọng tới chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Định hướng đầu tư để đổi mới cơ cấu kinh tế trên cơ sở tác động của yếu tố đầu tư và có tính đến những nhân tố khác. Mặt khác, sự thay đổi và phát triển của các bộ phận nền kinh tế sẽ quyết định sự thay đổi cơ cấu đầu tư hiện tại. Kết quả của đầu tư đổi mới cơ cấu kinh tế là sự thay đổi số lượng cũng như chất lượng của các ngành trong nền kinh tế theo hướng xuất hiện nhiều ngành mới, giảm tỷ trọng những ngành không phù hợp, tăng tỷ trọng những ngành có lợi thế, là sự thay đổi mới quan hệ giữa các bộ phận của một ngành, của nền kinh tế theo xu hướng ngày một hợp lý hơn. Quá trình chuyển dịch cơ cấu đầu tư của một quốc gia, ngành, địa phương hay cơ sở thông qua kế hoạch đầu tư là nhằm hướng tới việc xây dựng một cơ cấu đầu tư hợp lý. II .đầu tư đối với sự tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo ngành 1. Đầu tư với sự tăng trưởng kinh tế nói chung và tăng trưởng các ngành nói riêng 1.1 Khái niệm và các yếu tố chủ yếu của tăng trưởng và phát triển kinh tế 1.1.1 Khái niệm Ngày nay, các quốc gia độc lập, có chủ quyền đều đề ra những mục tiêu phấn đấu cho sự tiến bộ của quốc gia mình. Tuy có những điểm khác nhau nhất định trong quan niệm, nhưng nói chung sự tiến bộ trong một giai đoạn nào đó của một nước thường được đánh giá trên hai măt: sự gia tăng về kinh tế và sự biến đổi về mặt xã hội. Trên thực tế, người ta dùng thuật ngữ “ tăng trưởng” và “phát triển” để phản ánh sự tiến bộ đó. Như vậy, tăng trưởng kinh tế là sự tăng thêm (hay gia tăng) về quy mô sản lượng của nền kinh tế trong một thời kỳ nhất định. Đó là kết quả của tất cả các hoạt động sản xuất và dịch vụ của nền kinh tế tạo ra. Do vậy, chỉ tiêu phản ánh tăng trưởng được các nhà kinh tế và các quốc gia thừa nhận là tổng sản phẩm quốc nội (GDP), tổng sản phẩm quốc dân (GNP), thu nhập quốc dân bình quân đầu người, có thể tính mức tăng hàng năm hoặc bình quân năm của thời kỳ. 1.1.2 Các yếu tố chủ yếu của sự tăng trưởng và phát triển kinh tế Sản xuất là sự kết hợp các nguồn lực đầu vào theo các cách thức nhất định nhằm tạo ra sản phẩm có ích đáp ứng nhu cầu của xã hội. Những yếu tố đầu vào này tác động trực tiếp đến tăng trưởng và phát triển kinh tế, bao gồm: - Sức lao động( số lượng, chất lượng lao động) là một trong những yếu tố quan trọng nhất tác động đến tăng trưởng kinh tế. Các yếu tố đầu vào khác chỉ có thể phát huy tác dụng một cách hữu hiệu thông qua tác động trực tiếp của người lao động - Nguồn tài nguyên thiên nhiên: rất quan trọng, song trong xu thế toàn cầu hoá như hiện nay thì nguồn tài nguyên không còn là yếu tố quyết định thành công hay thất baị của một quốc gia. - Vốn sản xuất: là giá trị của những tài sản được sử dụng làm phương tiện phục vụ cho qua trình sản xuất bao gồm vốn cố định và vốn tồn kho. Trong đó vốn cố định là bộ phận cơ bản. Ngày nay, vốn đầu tư và vốn sản xuất được coi là yếu tố quan trọng của quá trình sản xuất. Nếu lao động và tài nguyên chỉ được coi là yếu tố đầu vào của quá trình sản xuất thì vốn sản xuất vừa được coi là yếu tố đầu vào, vừa là sản phẩm đầu ra của quá trình sản xuất. Chính vốn đầu tư là cơ sở để tạo ra vốn sản suất cho hoạt động sản xuất kinh doanh - Công nghệ: được hiểu là tập hợp những hiểu biết để tạo ra các giải pháp kỹ thuật được áp dụng vào sản xuất và đời sống. Công nghệ được coi là sư kết hợp giữa “phần cứng” và “phần mềm”. “Phần cứng” là các trang thiết bị như máy móc, thiết bị, nhà xưởng…”Phần mềm” bao gồm thành phần con người, đó là kỹ năng, tay nghề kinh nghiệm của người lao động, thứ hai là thành phần thông tin bao gồm các bí quyết, quy trình, phương pháp…Sự phát triển của khoa học công nghệ đã tạo ra những bước đột phá về khả năng sản xuất ở rất nhiều các lĩnh vực, thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế theo chiều sâu. Ngoài ra các yếu tố phi kinh tế cũng tác động đến tăng trưởng và phát triển theo hướng cùng chiều hoặc ngược chiều, chẳng hạn như: yếu tố dân tộc, tôn giáo, đặc điểm văn hoá xã hội, thể chế chính trị… 1.2 Một số lý thuyết về mối quan hệ giữa đầu tư và tăng trưởng kinh tế 1.2.1 Mô hình Harrod- Domar Dựa vào lý thuyết kinh tế của J. M. Keynes, hai nhà kinh tế học Roy Harrod của Anh và Evsey Domar của Mỹ nghiên cứu độc lập và cùng đưa ra mô hình giải quyết giữa tăng trưởng và việc làm ở các nước phát triển. Mô hình này cũng được sử dụng rộng rãi ở các nước đang phát triển để xem xét mối quan hệ giữa tăng trưởng và nhu cầu vốn đầu tư. Mô hình này coi đầu ra của nền kinh tế phụ thuộc vào vốn đầu tư cho nó. Nếu gọi đầu ra này là Y, g là tỷ lệ tăng trưởng của đầu ra thì: g = (Yt là sản lượng năm t, DY là mức gia tăng sản lượng năm t so với năm t-1) Gọi S là mức tích luỹ của năm t và tỷ lệ tích luỹ là s thì: s = Vì tiết kiệm là nguồn gốc của đầu tư nên It= St (It là vốn đầu tư của năm t): s = Đầu tư là để tạo ra vốn sản xuất, nên It= DKt (DKt là mức tăng vốn sản xuất). Nếu gọi k là tỷ số giữa gia tăng vốn và đầu ra thì: k= Suy ra k = Và: Nên g = ở đây k được gọi là hệ số ICOR, tức là hệ số thể hiện quan hệ giữa vốn đầu tư và mức gia tăng sản lượng đầu ra. Hệ số này cho biết, vốn được tạo ra trong quá trình đầu tư là yếu tố cơ bản, có quan hệ trực tiếp đến tăng trưởng, đồng thời phản ánh trình độ kỹ thuật của sản xuất như: công nghệ sử dụng nhiều lao động hay vốn. Trên giác độ sử dụng nguồn lực đầu vào là vốn và đầu ra là mức tăng trưởng, hệ số này phản ánh tính hiệu quả của việc sử dụng vốn trong nền kinh tế. Hệ số ICOR có liên quan đến chiến lược đầu tư và hiệu quả sử dụng vốn đầu tư của một đất nước. ở các quốc gia đang phát triển, cần lựa chọn chiến lược đầu tư với hệ số ICOR thấp, sử dụng công nghệ thích hợp kết hợp với đổi mới, nâng cao trình độ công nghệ, đầu tư hợp lý cho kết cấu hạ tầng. Mô hình Harrod- Domar tuy đã chỉ rõ mối quan hệ giữa đầu tư với tăng trưởng nhưng đã đơn giản hoá mối quan hệ giữa chúng. Đầu tư là điều kiện cần cho tăng trưởng kinh tế nhưng chưa phải là điều kiện đủ. Vì vậy, mô hình này chưa giải thích được đầy đủ sự tăng trưởng liên tục, ổn định của nhiều quốc gia, nhất là đối với các nước phát triển. 1.2.2 Mô hình Solow Với những nghiên cứu của mình, mô hình Solow chỉ ra rằng, những vướng mắc của mô hình Harrod- Domar khi kết luận về khả năng tăng trưởng liên tục với một tốc độ không đổi đã “giả định các thành phần cơ bản là tỷ lệ tiết kiệm, tốc độ tăng lực lượng lao động và tỷ số vốn so với sản lượng đầu ra mà mặc nhiên được coi là không đổi”. Ngoài ra, còn “ chứa đầy những kết luận chưa hoàn chỉnh” khi cho rằng “trong bất cứ trường hợp nào, tăng trưởng đều đặn đều là một dạng cân bằng rất không bền vững: bất cứ một sự đi chệch nhỏ nhoi nào ra khỏi trạng thái này cũng bị khuyếch đai lên mãi mãi…” Vì vậy Solow đã đề xuất mô hình tăng trưởng mới, qua đó thể hiện mối quan hệ giữa đầu tư và tăng trưởng kinh tế. Mô hình này được đánh giá là sự mở đầu cho một trong những cách tiếp cận xuất sắc nhất về vốn và sự tăng trưởng. Mô hình Solow cho biết sự gia tăng khối lượng tư bản, lực lượng và tiến bộ công nghệ tác động qua lại với nhau như thế nào và chúng ảnh hưởng tới sản lượng ra sao, từ đó xác định nguồn gốc của tăng trưởng. ở mức độ tổng quát, có thể xem xét đóng góp của các yếu tố theo mô hình: Y= F( x1, x2,…., xn ), trong đó Y là sản lượng, x1, x2, ….xn là các yếu tố đầu vào. Có thể biến đổi thành: WY= a + w1x1+w2x2+….+wnxn, trong đó, WY là mức tăng trưởng của sản lượng: w1x1, w2x2….wnxn là mức đóng góp vào tăng trưởng chung của từng yếu tố đầu vào. Samuelson gọi cách phân tích này là hạch toán tăng trưởng. áp dụng mô hình trên Solow đã phân tích hàm sản xuất ở dạng đơn giản, bao gồm hai yếu tố đầu vào là vốn và lao động và chuyển hàm sản xuất có năng suất không đổi theo quy mô Y= F (K,L) với Y là sản lượng, K là vốn đầu tư , L là lao động thành: Tức là sản lượng của mỗi công nhân phụ thuộc vào khối lượng tư bản tính cho mỗi công nhân, hay còn gọi là mức trang bị vốn cho một đơn vị lao động. Cách thiết lập hàm số này nhằm xem xét ảnh hưởng của quá trình đầu tư đến tăng trưởng theo mức trang bị vốn cho mỗi đơn vị lao động. Với nghiên cứu về trạng thái dừng, đầu tư bằng khấu hao, khối lượng tư bản không thay đổi theo thời gian, ông cho rằng đó là biểu hiện trạng thái cân bằng dài hạn của nền kinh tế. Và tỷ lệ tiết kiệm là yếu tố then chốt quyết định khối lượng tư bản ở trạng thái dừng. “Tỷ lệ tiết kiệm cao, nền kinh tế sẽ có khối lượng tư bản và sản lượng lớn hơn; còn tỷ lệ tiết kiệm thấp, nền kinh tế sẽ có khối lượng tư bản nhỏ và sản lượng thấp”. Nếu không đổi mới công nghệ,về dài hạn, nền kinh tế sẽ bước vào trạng thái ổn định, trong đó ảnh hưởng của việc tăng cường vốn trên một đơn vị lao động sẽ dừng lại (hình 1). Như vậy, chỉ tích luỹ vốn thông qua việc tái sản xuất những phương tiện và phương thức sản xuất như hiện có thì cuối cùng mức thu nhập không tăng được nữa. . Khi có tiến bộ công nghệ, hàm sản lượng có sự thay đổi, về mặt hình học là có sự “dịch chyển lên trên” theo thời gian và tạo ra sự tăng trưởng liên tục (hình 2). Tốc độ tăng lâu dài của mức sản lượng trên một đơn vị đầu vào không chỉ phụ thuộc vào tỷ lệ tiết kiệm (vốn đầu tư) mà còn phụ thuộc rất lớn vào tốc độ tiến bộ công nghệ theo nghĩa rộng nhất. Mô hình Solow đã chỉ ra rằng: đối với mọi quốc gia, việc tăng vốn đầu tư đổi mới công nghệ là rất quan trọng và sự tăng thêm vốn cũng chứa đựng yếu tố tiến bộ kỹ thuật, công nghệ. Cùng với mô hình này, Solow đã có những đóng góp nhất định trong việc phát triển các học thuyết kinh tế về đầu tư. 2. Đầu tư với sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành 2.1 Khái niệm cơ cấu kinh tế và cơ cấu kinh tế ngành 2.1.1 Cơ cấu kinh tế Cơ cấu kinh tế là một tổng thể các yếu tố cấu thành nền kinh tế theo không gian, chủ thể và lĩnh vực hoạt động có liên hệ chặt chẽ, tác động qua lại với nhau trong những điều kiện kinh tế xã hội nhất định và được thể hiện cả về mặt số lượng lẫn chất lượng, phù hợp với các mục tiêu đã được xác định của nền kinh tế. 2.1.2 Cơ cấu kinh tế theo ngành Cơ cấu kinh tế theo ngành (cơ cấu ngành kinh tế) là tổ hợp các ngành trong nền kinh tế theo những tương quan tỷ lệ nào đó tuỳ thuộc vào mục tiêu và sự phát triển của nền kinh tế nói chung và từng ngành nói riêng, biểu hiện mối liên hệ giữa các ngành của nền kinh tế quốc dân. Cơ cấu kinh tế theo ngành phản ánh phần nào trình độ phân công lao động xã hội chung của nền kinh tế và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Trong kinh tế, người ta phân chia cơ cấu kinh tế theo ngành thành 3 nhóm chính: Nhóm ngành nông nghiệp: bao gồm các ngành nông, lâm nghiệp và thuỷ sản. Nhóm ngành công nghiệp: bao gồm các ngành công nghiệp và xây dựng Nhóm ngành dịch vụ: bao gồm thương mại, du lịch, bưu điện, y tế, giáo dục đào tạo… 2.2 Chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo ngành và các nhân tố ảnh hưởng chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo ngành 2.2.1 Khái niệm chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo ngành Chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo ngành là sự thay đổi có mục đích, có định hướng, dựa trên cơ sở phân tích đầy đủ những căn cứ lý luận và thực tiễn, cùng với việc áp dụng đồng bộ các giải pháp cần thiết để chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế từ trạng thái này sang trạng thái khác. 2.2.2 Các nhân tố ảnh hưởng chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo ngành * Thị trường và nhu cầu tiêu dùng xã hội Là một phạm trù của quan hệ hàng hoá- tiền tệ, thị trường là cái vốn có của mọi hình thái kinh tế xã hội mà trong đó đang tồn tại những quan hệ hàng hoá- tiền tệ. Thị trường ở đây không chỉ bao gồm thị trường hàng hoá dich vụ (thị trường sản phẩm đầu ra) mà còn cả thị trường vốn, thị trường lao động… (thị trường các yếu tố đầu vào). Nói đến thị trường là nói tới cung, cầu, nói đến sự thay đổi của giá cả, sự cạnh tranh giữa các ngành và trong nội bộ ngành, cạnh tranh giữa thị trường trong nước với thị trường nước ngoài, và điều này đã ảnh hưởng trực tiếp tới quá trình hình thành cơ cấu ngành của nền kinh tế và chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế. Sự ra đời một số ngành, sự phát triển mạnh mẽ ở một số ngành, sự phát triển chậm lại ở một số ngành khác, thậm chí một số ngành không còn tồn tại đều do thị trường quyết định. Bên cạnh đó, sự thay đổi cung cầu trên thị trường vốn sẽ tạo điều kiện cho sự chuyển dịch vốn đầu tư giữa các ngành, từ đó làm chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế . Nhu cầu tiêu dùng của xã hội là người đặt hàng cho tất cả các ngành nghề, lĩnh vực kinh tế trong toàn bộ nền kinh tế. Không có nhu cầu thì sẽ không diễn ra bất kỳ một quá trình sản xuất kinh doanh nào. Nhu cầu tiêu dùng của xã hội không chỉ quy định về số lượng mà cả về chất lượng các sản phẩm dịch vụ, hàng hoá, nó có tác động trực tiếp đến sự phát triển của các cơ sở sản xuất, đến xu hướng phân công lao động xã hội, đến vị trí, tỷ trọng của các ngành trong nền kinh tế * Tiến bộ của khoa học kỹ thuật và công nghệ Sự phát triển mạnh mẽ của khoa học kỹ thuật đã làm thay đổi quy mô sản xuất, thay đổi trình độ công nghệ, thiết bị, hình thành các ngành nghề mới, biến đổi lao động từ giản đơn đến phức tạp…Điều đó đã phá vỡ sự cân đối cũ, làm thay đổi cơ cấu kinh tế của xã hội, trong đó sự biến đổi cơ cấu ngành kinh tế diễn ra rõ nét nhất và mạnh mẽ nhất. Chẳng hạn ở Việt Nam, nhân tố này đã thúc đẩy sự ra đời và phát triển một số ngành như dầu khí, điện tử, chế biến hải sản, gia công may mặc, sản xuất giày xuất khẩu… * Bối cảnh quốc tế. Toàn cầu hoá được mở rộng và phát triển nhanh cũng đang trở thành xu thế của thời đại. Toàn cầu hoá đã lôi cuốn hầu hết các quốc gia và đồng thời tạo cơ hội cho nhiều quốc gia đang phát triển rút ngắn được khoảng cách và đuổi kịp các quốc gia phát triển. Xu hướng hội nhập, liên kết kinh tế khu vực và liên kết kinh tế quốc tế cũng ngày càng phát triển. Các nước có chế độ chính trị khác nhau cũng đang gạt bỏ những khác bịêt để tham gia hợp tác phát triển kinh tế. Những yếu tố đó đã tác động tích cực đến quá trình đổi mới, phát triển kinh tế xã hội ở các nước đang phát triển. Để có thể hội nhập với nền kinh tế thế giới, các nước này phải không ngừng đổi mới cơ chế kinh tế và cơ cấu kinh tế, mà trước hết là cơ cấu ngành kinh tế. * Cơ chế quản lý Mọi hoạt động của nền kinh tế đều có sự tham gia điều tiết của “bàn tay hữu hình”- đó là nhà nước. Nhà nước thực hiện vai trò của mình thông qua hệ thống pháp luật và các chính sách kinh tế. Những sản phẩm nào, ngành nào cần khuyến khích thì nhà nước thực hiện các chính sách ưu đãi như giảm thuế, hỗ trợ về tài chính….Ngược lại đối với các ngành cần hạn chế phát triển thì bằng các biện pháp như đánh thuế cao, làm giảm lợi nhuận của người sản xuất, khiến cho họ phải thu hẹp quy mô sản xuất. Từ đó làm tăng tỷ trọng ngành này và giảm dần tỷ trọng của các ngành khác. Đồng thời với các chính sách di chuyển lao động giữa các ngành, cơ chế quản lý của nhà nước cũng đóng vai trò quan trọng trong việc chuyển dịch cơ cấu ngành. 2.3 Đầu tư tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo ngành Chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo ngành có thể hiểu là quá trình phát triển của các ngành kinh tế dẫn đến sự tăng trưởng khác nhau giữa các ngành và làm thay đổi mối tương quan giữa chúng so với thời điểm trước đó. Để đảm bảo sự chuyển dịch đó theo hướng tích cực, không thể không kể đến vai trò của đầu tư. Tỷ trọng vốn đầu tư cho các ngành khác nhau sẽ mang lại những hiệu quả khác nhau bởi lẽ ICOR của các ngành khác nhau, phụ thuộc vào đặc trưng của các ngành. Do vậy cơ cấu đầu tư hợp lý sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến chuyển dịch cơ cấu ngành và ảnh hưởng chung đến tăng trưởng của toàn bộ nền kinh tế. Có thể xem xét sơ đồ sau: Đầu tư Tăng trưởng ngành Tăng trưởng chung Chuyển dịch cơ cấu ngành Như vậy, giữa đầu tư và chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo ngành có mối quan hệ qua lại hai chiều. Đầu tư thúc đẩy các ngành tăng trưởng. Sự tăng trưởng của các ngành dẫn đến chuyển dịch cơ cấu ngành trong nền kinh tế. Chuyển dịch cơ cấu ngành xảy ra như là kết quả của quá trình phát triển. Ngược lại, cơ cấu ngành kinh tế hợp lý sẽ thúc đẩy tăng trưởng chung, tạo ra nguồn đầu tư dồi dào, định hướng cho đầu tư vào các ngành hiệu quả hơn. Hoạt động đầu tư càng trở nên quan trọng hơn đối với quá trình chuyển dịch cơ cấu ngành khi mỗi quốc gia đang phát triển thực hiện những cuộc bứt phá thông qua việc lựa chọn và phát triển các ngành mũi nhọn, trọng điểm. Chuyển dịch nhanh cơ cấu kinh tế, mà đặc biệt là cơ cấu ngành là đặc điểm của các quốc gia đang phát triển. Nếu gọi: I- vốn đầu tư của nền kinh tế YR- tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế ( ) YRi- tốc độ tăng trưởng của ngành I () SIi- tỷ trọng đầu tư ngành i trong tổng đầu tư của nền kinh tế SYi- cơ cấu GDP theo ngành SYi = Ta có YR= SYRi* SYi với i=1,2,…,n Suy ra YR= S( DGDPi/GDPi)* SYi YR= S(Ii/ICORi)/GDPi* SYi Do đó YR= S(1/ ICORi)* Si* SYi = S DYi/ Ii * SIi* SYi Công thức trên cho thấy tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế phụ thuộc vào: - Tổng vốn đầu tư của các ngành - Tỷ trọng vốn đầu tư của các ngành trong tổng đầu tư của nền kinh tế - Tốc độ tăng trưởng của ngành - Cơ cấu GDP theo ngành III. Đầu tư với sự nghiệp công nghiệp hoá- hiện đại hoá của các quốc gia 1. Khái niệm và bản chất của CNH- HĐH 1.1 Khái niệm về CNH Trên thế giới hiện nay có rất nhiều quan niệm khác nhau về CNH do quá trình CNH mang đặc trưng riêng đối với từng quốc gia. Năm 1963, tổ chức phát triển công nghiệp của Liên Hiệp quốc (UNIDO) đưa ra định nghĩa: “ CNH là một qua trình phát triển kinh tế, trong quá trình này một bộ phận ngày càng tăng các của cảI quốc dân để phát triển cơ cấu kinh tế nhiều ngành ở trong nước với kỹ thuật hiện đại. Đặc điểm của cơ cấu kinh tế này là có một bộ phận chế biến luôn thay đổi để sản xuất ra những tư liêu sản xuất và hàng tiêu dùng, có khả năng đảm bảo cho toàn bộ nền kinh tế phát triển với nhịp độ cao, đảm bảo sự tiến bộ về kinh tế xã hôị” ở Việt Nam, CNH- HĐH được định nghĩa là “ một quá trình cách mạng nhằm chuyển đổi căn bản, toàn diện các hoạt động sản xuất kinh doanh, dịch vụ và quản lý xã hội từ sử dụng lao động thủ công là chính sang sử dụng phổ biến sức lao động cùng với công nghệ, phương tiện và phương pháp tiên tiến, hiện đại dựa trên sự phát triển của công nghiệp, tiến bộ của khoa học công nghệ tạo ra năng suất cao”. 1.2 Thực chất của CNH- HĐH Mặc dù tồn tại nhiều quan điểm khác nhau về CNH, song có thể hiểu một cách khái quát về CNH- HĐH như sau: - CNH-HĐH là quá trình trang bị lại công nghệ hiện đại cho tất cả các ngành kinh tế quốc dân, trước hết là các ngành chiếm vị trí trọng yếu - CNH- HĐH không chỉ tác động duy nhất ở ngành công nghiệp mà tác động đến tất cả các ngành. Quá trình CNH- HĐH thường gắn với sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành theo hướng công nghiệp - Quá trình CNH- HĐH sẽ thúc đẩy sự phát triển của khoa học kỹ thuật, nâng cao điều kiện kinh tế xã hội, mức sống của dân cư đồng thời mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế ở Việt Nam, xuất phát từ bối cảnh thực tế của đất nước, quá trình CNH-HĐH được xác định là ‘xây dựng nước ta thành một nước công nghiệp có cơ sở vật chất- kỹ thuật hiện đại, cơ cấu kinh tế hợp lý, quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, đời sống vật chất và tinh thần cao, quốc phòng an ninh vững chắc, dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh. Từ nay đến năm 2020 ra sức phấn đấu đưa nước ta cơ bản thành một nước công nghiệp” – Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII 2 Nội dung của CNH- HĐH CNH- HĐH là con đường đưa đến một nền kinh tế hiện đại và có mức sống cao. Do vậy, nội dung của CNH- HĐH là trang bị công nghệ mới, hiện đại cho nền kinh tế, nâng cao trình độ các phương pháp công nghệ, từ đó xây dựng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế một cách hợp lý, đi đôi với việc tổ chức, phân công lại lao động và đổi mới chính sách đầu tư phát triển. Trên cơ sở những nội dung đó, CNH- HĐH ở Việt Nam được thực hiện theo hướng xuất khẩu đồng thời thay thế nhập khẩu, được tiến hành theo mô hình nền kinh tế._. mở cả trong nước và ngoài nước. Phát triển kinh tế nhanh, có hiệu quả và bền vững, chuyển dịch mạnh cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động theo hướng CNH- HĐH. Trước mắt tập trung nâng cao hiệu quả sản xuất, kinh doanh của các doanh nghiệp, nhất là các doanh nghiệp nhà nước. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu đầu tư trên cơ sở phát huy các thế mạnh và lợi thế so sánh của đất nước, tăng sức cạnh tranh, gắn với nhu cầu trong nước và ngoài nước, nhu cầu đời sống nhân dân và an ninh quốc phòng. Huy động các nguồn lực cần thiết để đẩy mạnh CNH- HĐH nông nghiệp và nông thôn, đưa nông- lâm- ngư nghiệp lên một trình độ mới bằng ứng dụng tiến bộ khoa học và công nghệ, nhất là công nghệ sinh học, đẩy mạnh thuỷ lợi hoá, cơ giới hoá, điện khí hoá, đổi mới cơ cấu cây trồng vật nuôi, giải quyết tốt vấn đề đầu ra cho nông nghiệp. Phát triển kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội ở nông thôn. Phát triển đa dạng các ngành nghề, công nghiệp, dịch vụ, chú trọng công nghiệp chế biến, cơ khí phục vụ nông nghiệp. Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, cải thiện đời sống người nông dân. Công nghiệp vừa phát triển các ngành sử dụng nhiều lao động vừa đi nhanh vào một số ngành, lĩnh vực có công nghệ hiện đại. Phát triển mạnh công nghiệp chế biến nông sản, thuỷ sản, may mặc, da giày, cơ khí, điện tử, công nghệ phần mềm…. Xây dựng có chọn lọc một số cơ sở công nghiệp nặng quan trọng sản xuất tư liệu sản xuất cho các ngành kinh tế và quốc phòng. Khai thác có hiệu quả các nguồn tài nguyên. Chú trọng phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ, xây dựng một số tập đoàn doanh nghiệp lớn đi đầu trong hiện đại hoá. Dịch vụ- thương mại phát triển nhanh. Nâng cao chất lượng các ngành dịch vụ và thương mại: thương mại điện tử, bưu chính viễn thông, tài chính ngân hàng, chuyển giao công nghệ, tư vấn pháp lý… Hiện đại hoá kết cấu hạ tầng, phát triển mạng lưới đô thị, phân bố hợp lí trên các vùng. Về chiến lược phát triển các vùng: Phát huy vai trò của các vùng kinh tế trọng điểm có mức tăng trưởng cao, tích luỹ lớn đồng thời tạo điều kiện phát triển các vùng khác trên cơ sở phát huy thế mạnh từng vùng. Về khai thác tài nguyên thiên nhiên: phát triển kinh tế biển kết hợp với bảo vệ biển, hiện đại hoá công tác khí tượng thuỷ văn nhằm ngăn ngừa, hạn chế tác hại của thiên tai, sử dụng hợp lý và tiết kiệm tài nguyên, bảo vệ môi trường. Phát triển giáo dục đào tạo, khoa học công nghệ Xây dựng nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Chương II thực trạng đầu tư với tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế Theo ngành ở việt nam I. thực trạng đầu tư và cơ cấu đầu tư theo ngành ở việt nam trong thời gian qua 1. Tổng quan về tình hình đầu tư ở Việt Nam trong thời gian qua Hoà nhập vào xu thế phát triển chung của đất nước, trong những năm gần đây, chính phủ đã đưa ra nhiều chính sách và cơ chế quản lý mới để huy động các nguồn vốn đầu tư thuộc mọi thành phần kinh tế trong và ngoài nước nhằm thực hiện mục tiêu chiến lược ổn định và phát triển kinh tế xã hội. Do đó vốn đầu tư phát triển qua các năm đều tăng. Theo số liệu của bộ Kế hoạch và đầu tư, tổng số vốn đầu tư phát triển giai đoạn 1995- 2003 đạt 844,13 nghìn tỷ đồng (giá so sánh năm 1995)với tốc độ tăng bình quân năm là 8,8 %. Nhìn trên bảng số liệu (biểu 1) ta thấy tổng số vốn đầu tư tăng dần qua các năm. Nếu năm 1995, tổng vốn đầu tư phát triển mới đạt 68,1 nghìn tỷ đồng thì đến năm 2003 đã lên tới 133,8 nghìn tỷ đồng. Như vậy, chỉ sau 8 năm, tổng vốn đầu tư phát triển đã tăng gấp gần 2 lần. Tuy nhiên, tổng vốn đầu tư phát triển còn biến động thất thường, chỉ có xu hướng tăng liên tục từ năm 2000 cho đến nay. Còn trong giai đoạn 1995- 2000, có sự giảm xuống của tổng vốn đầu tư, từ 83,63 nghìn tỷ đồng năm 1997 xuống còn 76,48 nghìn tỷ đồng năm 1998 và 77,92 nghìn tỷ đồng năm 1999. Nguyên nhân của sự suy giảm này là do tác động của cuộc khủng hoảng tài chính năm 1997, bắt đầu từ Thái Lan rồi lan qua các nước trong khu vực, trong đó có Việt Nam gây ảnh hưởng đến tình hình phát triển kinh tế trong nước và làm giảm mạnh nguồn vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam. Biểu 1: Tình hình thực hiện vốn đầu tư phát triển giai đoạn 1995- 2003 (mặt bằng giá năm 1995) Đơn vị 1995 1996 1997 1998 1999 2000 2001 2002 2003 Tổng số Nghìn tỷ đồng 68.1 73.05 83.63 76.48 77.92 88.45 114.4 128.3 133.8 Tốc độ tăng đinh gốc % 100 7.269 22.8 12.31 14.42 29.88 67.99 88.4 96.4758 Tốc độ tăng liên hoàn % 7.269 14.48 -8.55 1.883 13.51 29.34 12.15 4.28683 ( Nguồn: Bộ Kế hoạch và đầu tư) Nếu lấy năm 1995 làm gốc thì tốc độ tăng vốn đầu tư phát triển qua các năm tương đối cao, năm 2000 là 29,88 %, năm 2001 là 67,99 %, năm 2002 là 88,4 % và năm 2003 đạt tốc độ tăng cao nhất là 96,47 %. Còn nếu xem xét tốc độ tăng liên hoàn qua các năm thì tốc độ tăng của vốn đầu tư có xu hướng giảm trong 2 năm 1998, 1999. Tuy nhiên, ở giai đoạn sau, giai đoạn 2000- 2003 tổng vốn đầu tư phát triển có xu hướng phục hồi và đạt tốc độ tăng mạnh mẽ trong năm 2001. Biểu 2 : Vốn đầu tư phát triển giai đoạn 1995- 2003 phân theo nguồn vốn (mặt bằng giá năm 1995) Đơn vị: nghìn tỷ đồng 1995 1996 1997 1998 1999 2000 2001 2002 2003 Tổng số 68.1 73.05 83.63 76.48 77.92 88.45 114.4 128.3 133.8 Vốn ngân sách nhà nước 13.6 15.18 17.78 16.42 19.5 18.48 28.21 29.31 29.46 Vốn tín dụng nhà nước 3.1 7.64 10.96 11.74 14.25 17.62 15.95 17.6 18.46 Vốn các DNNN 9.4 10.21 11.48 12.77 14.25 15.82 19.01 22.71 25.93 Vốn của tư nhân và dân cư 20 19.14 17.26 16.27 15.75 21.43 28.21 34.49 35.59 Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài 22 20.88 26.15 19.28 14.17 15.1 22.86 24.2 24.36 (Nguồn: Bộ Kế hoạch và đầu tư) Xem xét từng nguồn vốn huy động ta có thể thấy: vốn đầu tư phát triển từ ngân sách nhà nước cũng có xu hướng tăng nhưng không ổn định, đặc biệt cũng có sự giảm xuống từ 17,78 nghìn tỷ đồng năm 1997 xuống 16.42 nghìn tỷ đồng năm 1998. Tốc độ tăng bình quân của nguồn vốn này là khoảng 10.14 %. Vốn tín dụng nhà nước tuy có tỷ trọng nhỏ trong tổng số vốn đầu tư phát triển của khu vực nhà nước cũng như toàn xã hội nhưng trong thời gian qua, nguồn vốn này có sự tăng lên khá rõ rệt. Nếu lấy năm 1995 làm gốc thì tốc độ phát triển định gốc năm 1996 là 2,46 lần, 1997 là 3,35 lần, 1998 là 3,78 lần, 1999 là 4,59 lần, 2000 là 5,68 lần, 2001 là 5,14 lần, 2002 là 5,68 lần và năm 2003 là 5,95 lần. Sự gia tăng của nguồn vốn tín dụng nhà nước là một dấu hiệu tốt đối với công cuộc đầu tư phát triển kinh tế. Nó thể hiện sự đúng đắn trong việc gắn chặt trách nhiệm của người vay vốn với hiệu quả đầu tư, từ đó nâng cao hiệu quả hoạt động đầu tư phát triển. Vốn đầu tư phát triển của các doanh nghiệp nhà nước cũng có xu hướng tăng tương đối nhanh và liên tục qua các năm, từ 9,5 nghìn tỷ đồng năm 1995 lên tới 25,93 nghìn tỷ đồng năm 2003. Tổng vốn đầu tư phát triển của các doanh nghiệp nhà nước giai đoạn 1995- 2003 là 141,58 nghìn tỷ đồng với tốc độ tăng bình quân năm là 13,53 %. Điều này phản ánh chính xác chủ trương của Đảng và nhà nước giảm bao cấp trong đầu tư, khuyến khích các doanh nghiệp nhà nước tự bỏ vốn ra đầu tư và chịu trách nhiệm về kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của mình. Từ đó dần nâng cao hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp nhà nước, nâng cao tính năng động và khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp nhà nước trên thị trường. Vốn đầu tư của tư nhân và dân cư có xu hướng tăng nhanh và liên tục từ năm 2000 đến nay với tốc độ tăng bình quân năm là 18,42%. Tuy nhiên, ở giai đoạn 1996- 1999 quy mô vốn đầu tư của khu vực này giảm từ 19,14 nghìn tỷ đồng năm 1996 xuống 17,26 nghìn tỷ đồng năm 1997 và 15,75 nghìn tỷ đồng năm 1998. Đây là nguồn vốn có quy mô lớn nhất trong tổng vốn đầu tư phát triển. Mặc dù vậy, trong những năm vừa qua việc huy động nguồn vốn này còn hạn chế, chưa tương xứng với tiềm năng của khu vực. Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài là nguồn vốn bổ sung quan trọng cho đầu tư phát triển, góp phần khai thác và nâng cao hiệu quả sử dụng các nguồn lực trong nước, tạo thế và lực mới cho nền kinh tế. Trong giai đoạn 1996- 2000, nguồn vốn này có xu hướng giảm sút đáng kể, từ 20,88 nghìn tỷ đồng năm 1996 xuống 15,1 nghìn tỷ đồng năm 2000. Nếu lấy năm 1995 làm gốc thì tốc độ phát triển định gốc của năm 1996 là 94,9 %, năm 1998 là 87,6 %, năm 1999 là 64,4 %, năm 2000 đạt 68,6% (chỉ có năm 1997 là đạt 118,8%). Sự giảm sút này có nguyên nhân chủ yếu là do cuộc khủng hoảng kinh tế trong khu vực. Bên cạnh đó còn do tình hình cạnh trang gay gắt giữa các nước trong khu vực nhằm thu hút nguồn vốn FDI. Ngoài ra còn một số nguyên nhân chủ quan khác từ phía Việt Nam như hệ thống chính sách pháp luật thiếu đồng bộ, kết cấu hạ tầng yếu kém….đã làm giảm tính cạnh tranh của môi trường đầu tư. Cùng với sự gia tăng của quy mô vốn đầu tư, cơ cấu nguồn vốn đầu tư phát triển cũng có sự thay đổi đáng kể, thể hiện trong bảng sau: Biểu 3: Cơ cấu vốn đầu tư phát triển giai đoạn 1995- 2003 phân theo nguồn vốn ( mặt bằng giá 1995) Đơn vị: % 1995 1996 1997 1998 1999 2000 2001 2002 2003 Tổng số 100 100 100 100 100 100 100 100 100 Vốn ngân sách nhà nước 19.97 20.78 21.26 21.47 25.03 20.89 24.66 22.84 22.02 Vốn tín dụng nhà nước 4.55 10.46 13.11 15.35 18.29 19.92 13.94 13.72 13.8 Vốn các DNNN 13.80 13.98 13.73 16.70 18.29 17.89 16.62 17.7 19.38 Vốn của tư nhân và dân cư 29.37 26.2 20.64 21.27 20.21 24.23 24.66 26.88 26.6 Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài 32.31 28.58 31.27 25.21 18.19 17.07 19.99 18.86 18.2 ( Nguồn: Bộ Kế hoạch và đầu tư) Trong giai đoạn 1995- 2003, tỷ trọng vốn đầu tư thuộc ngân sách nhà nước có xu hướng giảm đáng kể. Như trong 3 năm gần đây, tỷ trọng nguồn vốn ngân sách nhà nước giảm từ 24,66 % năm 2001 xuống 22,84 % năm 2002 và 22,02 % năm 2003. Sự thay đổi này phù hợp với cơ chế xoá bỏ bao cấp trong đầu tư. Hiện nay, vốn ngân sách chỉ tập trung chủ yếu cho các dự án giao thông, thuỷ lợi, trồng rừng đầu nguồn, các công trình văn hoá, giáo dục, chăm sóc y tế, quốc phòng, an ninh…Mặc dù vậy, nguồn vốn đầu tư phát triển từ ngân sách nhà nước vẫn là nguồn đóng vai trò quan trọng trong việc giải quyết các vấn đề tăng trưởng kinh tế xã hội của đất nước Nếu tỷ trọng vốn ngân sách trong vốn đầu tư phát triển có xu hướng giảm thì vốn tín dụng nhà nước trong tổng vốn toàn xã hội có xu hướng tăng dần. Thời kỳ 1996- 2000 tỷ trọng vốn tín dụng nhà nước lên tới 15,57 %. Mặc dù trong 3 năm gần đây tỷ trọng này có xu hướng giảm nhẹ song rất ổn định. Đây là nguồn vốn quan trọng để hỗ trợ cho vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước. Việc đầu tư bằng nguồn vốn tín dụng nhà nước được áp dụng thí điểm từ năm 1990 đến nay đã khẳng định tính hiệu quả của phương thức đầu tư có một phần hỗ trợ của nhà nước. Nguồn vốn đầu tư tín dụng đã góp phần đáng kể nâng cao năng lực sản xuất của các ngành. Từ đó hiệu quả sử dụng vốn cũng được nâng cao trong mỗi doanh nghiệp và toàn bộ nền kinh tế. Vốn đầu tư của doanh nghiệp nhà nước cũng có xu hướng tăng, từ chỗ chỉ chiếm 13,8 % tổng vốn đầu tư năm 1995 lên tới 19,38 % năm 2003. Nếu tính chung trong 8 năm 1995- 2003 tỷ trọng vốn của doanh nghiệp nhà nước chiếm khoảng gần 16 %. Trong thời gian qua với chủ trương xoá bỏ bao cấp về đầu tư trong lĩnh vực sản xuất kinh doanh dịch vụ nên vốn đầu tư của doanh nghiệp nhà nước chủ yếu được huy động từ khấu hao cơ bản tài sản cố định và một phần tích luỹ từ kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Tuy tỷ trọng nguồn vốn này có tăng qua các năm nhưng chưa đáp ứng được nhu cầu đầu tư để khẳng định vai trò của doanh nghiệp nhà nước trong nền kinh tế với tư cách là thành phần kinh tế định hướng cho phát triển kinh tế xã hội. Tỷ trọng vốn đầu tư của tư nhân và dân cư trong những năm qua có giảm sút lớn. Nếu năm 1995, nguồn vốn này chiếm 29,37% tổng vốn thì tới năm 1999, chỉ còn chiếm 20,21 %, năm 2001 là 24,66 %, năm 2003 là 26,6 %. Nếu tính chung cho 8 năm, nguồn vốn này chiếm tỷ trọng khoảng gần 25 %. Đây là nguồn vốn vô cùng quan trọng nhằm phát huy nội lực cuả nền kinh tế. Do vậy để tăng cường huy động và sử dụng hiệu quả nguồn vốn này đòi hỏi phải có những nỗ lực của nhà nước trong việc hoàn thiện môi trường kinh doanh, tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp và nhân dân tham gia đầu tư phát triển. Nguồn vốn đầu tư nuớc ngoài có xu hướng giảm rõ rệt về tỷ trọng trong tổng cơ cấu vốn đầu tư. Tỷ trọng nguồn vốn này chỉ chiếm có 18,2 % năm 2003, giảm rất nhiều so với năm 1995- 32,31 %. Tính trong 5 năm gần đây, tỷ trọng nguồn vốn này chỉ chiếm khoảng 18,46 %. Nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đóng vai trò quan trọng trong việc tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế, chuyển giao công nghệ và kỹ thuật quản lý tiên tiến. Việc giải quyết những vướng mắc trong hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài cần phải được thực hiện một cách nhanh chóng hơn nữa để các nhà đầu tư nước ngoài có thể tin tưởng và làm ăn lâu dài ở Việt Nam. Như vậy, trong những năm qua, mặc dù quy mô vốn đầu tư phát triển tăng liên tục, song tỷ trọng chưa tương xứng và hợp lý. Bởi vậy, để thực hiện được quá trình CNH- HĐH đất nước cần phải có các giải pháp nhằm tăng cường huy động cũng như sử dụng có hiệu quả các nguồn vốn, chuyển dịch cơ cấu nguồn vốn theo hướng hợp lý, phục vụ tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo định hướng CNH- HĐH. Một trong những quan điểm về phát triển và chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH- HĐH đã được Đại hội Đảng VIII đưa ra là: “Tập trung thích đáng nguồn lực cho các lĩnh vực, các địa bàn trọng điểm, đồng thời quan tâm đáp ứng nhu cầu thiết yếu của mọi vùng trong nước, có chính sách hỗ trợ cho những vùng khó khăn, tạo điều kiện cho các vùng cùng phát triển”. Việc nghiên cứu tình hình đầu tư và cơ cấu đầu tư theo vùng lãnh thổ là không thể thiếu được khi xem xét tình hình đầu tư của một quốc gia. Quá trình xã hội hoá sản xuất đã tạo mối liên hệ qua lại giữa các vùng kinh tế. Trong quá trình liên kết kinh tế, do có sự khác biệt về điều kiện phát triển giữa các vùng đã hình thành nên các vùng kinh tế với ưu thế và trình độ phát triển khác nhau. Bởi vậy, việc phân bổ đầu tư hợp lý giữa các vùng sẽ có tác dụng khai thác triệt để lợi thế so sánh của vùng, thúc đẩy tăng trưởng chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Với 7 vùng kinh tế, vốn đầu tư phân bổ vào các vùng này ở nước ta trong những năm qua được thể hiện như sau: Biểu 4: Vốn đầu tư phát triển giai đoạn 1995- 2003 phân theo vùng (mặt bằng giá 1995) Đơn vị: nghìn tỷ đồng 1995 1996 1997 1998 1999 2000 2001 2002 2003 Tổng số 68.1 73.05 83.63 76.48 77.92 88.45 114.4 128.3 133.8 Miền núi phía Bắc 5.11 5.92 6.61 5.89 5.69 6.37 9.114 10.29 11 Đồng bằng sông Hồng 18.23 18.19 20.41 20.19 20.26 22.82 27.66 31.27 32.76 Bắc Trung Bộ 6.13 6.94 7.86 5.35 5.3 5.31 8.8 10.14 10.61 Duyên hải miền Trung 8.1 8.62 9.37 8.64 8.88 10.7 13.51 15.64 16.74 Tây Nguyên 3.17 3.65 4.35 3.67 3.66 4.07 5.579 6.443 6.993 Đông Nam Bộ 19.11 19.29 21.99 21.72 22.75 25.92 32.69 35.12 35.44 ĐB sông Cửu Long 8.24 10.45 13.05 11.01 11.38 13.27 17.05 19.41 20.35 ( Nguồn: Bộ Kế hoạch và đầu tư ) Theo số liệu trên, vốn đầu tư phát triển được phân bố tập trung vào hai vùng kinh tế trọng điểm là đồng bằng sông Hồng và vùng Đông Nam Bộ. Vốn đầu tư vào vùng đồng bằng sông Hồng tăng dần qua các năm, từ 18,23 nghìn tỷ đồng năm 1995, lên tới 27,66 nghìn tỷ đồng năm 2001, 31,27 nghìn tỷ đồng vào năm 2002 và 32,76 nghìn tỷ đồng năm 2003. Nếu lấy năm 1995 làm gốc thì tốc độ phát triển định gốc năm 2001 là 51,73%, năm 2002 là 71,53 %, năm 2003 là 79,7 %. Tốc độ tăng bình quân năm là 7,6 %. Cũng tương tự với vùng Đông Nam Bộ là vùng có quy mô vốn đầu tư lớn nhất nước. Quy mô vốn đầu tư tăng liên tục từ 19,11 nghìn tỷ đồng năm 1995, lên tới 32,69 nghìn tỷ đồng năm 2001; 35,12 nghìn tỷ đồng năm 2002 và 35,44 nghìn tỷ đồng năm 2003. Tốc độ tăng bình quân năm của vùng là 8,026%. Đặc biệt trong 4 năm gần đây, từ năm 2000- 2003, tốc độ tăng bình quân năm là 10,99 %. Vùng Tây Nguyên là vùng kinh tế có quy mô vốn đầu tư thấp nhất nước. Mặc dù vậy, quy mô vốn đầu tư của vùng cũng tăng liên tục với tốc độ tăng bình quân năm là 10,39 %. Nếu năm 1995, quy mô vốn đầu tư vào Tây Nguyên chỉ đạt 3,17 nghìn tỷ đồng thì tới 2003 đã lên tới 6,993 nghìn tỷ đồng. Đầu tư vào khu vực này chủ yếu nhằm phát triển các cây công nghiệp ngắn ngày và khai thác lâm nghiệp. Để đảm bảo phát triển đồng đều các vùng kinh tế thì cần phảI đẩy mạnh đầu tư phát triển khu vực này nhiều hơn nữa trong thời gian tới. Nhìn vào cơ cấu vốn đầu tư phát triển phân theo vùng cũng thấy được sự chênh lệch trong tỷ trọng vốn đầu tư giữa các vùng. Biểu 5: Cơ cấu vốn đầu tư phát triển giai đoạn 1995- 2003 phân theo vùng (mặt bằng giá 1995) Đơn vị: % 1995 1996 1997 1998 1999 2000 2001 2002 2003 Tổng số 100 100 100 100 100 100 100 100 100 Miền núi phía Bắc 7.50 8.10 7.90 7.70 7.30 7.20 7.99 8.02 8.22 Đồng bằng sông Hồng 26.77 24.90 24.41 26.40 26.00 25.80 24.3 24.37 24.49 Bắc Trung Bộ 9.00 9.50 9.40 7.00 6.80 6.00 7.72 7.90 7.93 Duyên hải miền Trung 11.89 11.80 11.20 11.30 11.40 12.10 11.9 12.19 12.51 Tây Nguyên 4.65 5.00 5.20 4.80 4.70 4.60 4.89 5.02 5.23 Đông Nam Bộ 28.06 26.41 26.29 28.40 29.20 29.30 28.7 27.37 26.48 ĐB sông Cửu Long 12.10 14.31 15.60 14.40 14.60 15.00 15 15.13 15.21 ( Nguồn: Bộ Kế hoạch và đầu tư ) Đồng bằng sông Hồng và miền Đông Nam Bộ có tỷ trọng vốn đầu tư lớn nhất nước. Tuy nhiên tỷ trọng vốn đầu tư ở 2 vùng kinh tế trọng điểm này có xu hướng giảm nhẹ trong vài năm gần đây. Nếu năm 1995. tỷ trọng vốn đầu tư của vùng đồng bằng sông Hồng là 26,77 % thì tới năm 2001 còn 24,3 %, năm 2002 là 24,37 %, năm 2003 là 24,49 %. Vùng Đông Nam bộ có tỷ trọng vốn đầu tư năm 1995 là 28,06 % thì tới 3 năm gần đây tỷ trọng vốn đầu tư trung bình giảm xuống còn 27,52 %. Vùng Tây Nguyên có tỷ trọng vốn đầu tư phát triển thấp nhất, chỉ khoảng 5 % tổng vốn đầu tư, tiếp đó là miền núi phía Bắc với tỷ trọng vốn đầu tư là 7,5 % và vùng Bắc Trung Bộ với tỷ trọng vốn khoảng xấp xỉ 8 %. Nhìn chung quy mô và cơ cấu vốn theo vùng kinh tế qua các năm chưa có nhiều chuyển biến đáng kể. Sự chênh lệch vốn đầu tư phân bổ cho các ngành còn khá lớn. Sự chênh lệch lớn về cơ cấu vốn đầu tư là nguyên nhân làm cho vùng núi phía Bắc, vùng Tây Nguyên, Bắc Trung Bộ có nguy cơ tụt hậu, chậm phát triển. Đối với các vùng khác như vùng duyên hải miền Trung, tỷ trọng của vốn đầu tư trong tổng vốn đầu tư phát triển có biến đổi song không đáng kể, chỉ chiếm khoảng 11,8 %. Đối với vùng đồng bằng sông Cửu long, quy mô và tỷ trọng vốn đầu tư phát triển có xu hướng tăng ( từ 12,1 % tổng vốn đầu tư năm 1995 lên 15,21 % tổng vốn đầu tư năm 2003). Sở dĩ có sự tăng trưởng này là do nhà nước thực hiện quyết định 99/TTG ngày 9/2/1996 của Thủ tướng chính phủ về định hướng dài hạn và kế hoạch 5 năm 1996- 2000 đối với việc phát triển thuỷ lợi, giao thông và xây dựng nông thôn đồng bằng sông Cửu Long. 2. Thực trạng đầu tư và cơ cấu đầu tư theo ngành Kinh nghiệm cũng như thực tế của nhiều nước cho thấy nếu có chính sách đầu tư hợp lý sẽ tạo đà cho việc phát triển nền kinh tế. Chính sách đầu tư bao gồm cả việc tạo ra nguồn vốn và sử dụng nguồn vốn. Tỷ trọng phân bố vốn đầu tư vào các ngành khác nhau sẽ mang lại những hiệu quả khác nhau. Quy mô vốn đầu tư cũng như tỷ trọng vốn đầu tư của các ngành có ảnh hưởng trực tiếp đến sự phát triển của các ngành và cơ cấu của các ngành trong toàn bộ nền kinh tế. Cơ cấu vốn đầu tư có ảnh hưởng trực tiếp, quan trọng đến sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo ngành, đồng thời ảnh hưởng chung đến tăng trưởng chung của toàn bộ nền kinh tế. Bởi vậy, nghiên cứu tình hình đầu tư và cơ cấu đầu tư theo ngành để thấy được tính hợp lý hay không hợp lý trong bố trí vốn đầu tư giữa các ngành, từ đó thấy được khả năng tác động của đầu tư tới việc thực hiện các nhiệm vụ phát triển kinh tế xã hội trong từng giai đoạn. Sự tăng cường quy mô, nhịp độ đầu tư vào các ngành không những phản ánh tốc độ mở rộng quy mô phát triển của ngành mà còn thể hiện mức độ tập trung tiềm lực của xã hội cho ngành đó. Biểu 6: Vốn đầu tư phát triển giai đoạn 1995- 2003 phân theo ngành kinh tế (mặt bằng giá năm 1995) Đơn vị: nghìn tỷ đồng 1995 1996 1997 1998 1999 2000 2001 2002 2003 Tổng số vốn 68.1 73.05 83.63 76.48 77.92 88.45 114.4 128.31 133.81 Nông lâm nghiêp, thuỷ sản 5.47 5.48 6.86 6.96 12.16 13.98 14.06 16.26 17.36 Công nghiệp và xây dựng 24.9 29.51 35.12 34.42 35.84 39.8 49.19 55.79 58.85 Dịch vụ 37.73 38.06 41.65 35.1 29.92 34.67 51.15 56.26 57.6 (Nguồn: Bộ Kế hoạch và đầu tư) Biểu 7: Tốc độ phát triển định gốc của vốn đầu tư phát triển phân theo ngành kinh tế (mặt bằng giá năm 1995) Đơn vị: % 1995 1996 1997 1998 1999 2000 2001 2002 2003 Tổng số 100 107.3 122.8 112.3 114.4 129.9 168 188.4 196.49 Nông lâm&thuỷ sản 100 100.2 125.41 127.2 222.3 255.6 257 297.3 317.367 Công nghiệp&xây dựng 100 118.5 141.04 138.2 143.9 159.8 197.6 224.1 236.345 Dịch vụ 100 100.9 110.39 93.03 79.3 91.89 135.6 149.1 152.664 ( Nguồn: Bộ Kế hoạch và đầu tư ) Nông nghiệp là ngành có quy mô vốn đầu tư thấp nhất. Từ năm 1995- 2003 tổng vốn đầu tư cho nông nghiệp chỉ đạt 98,59 nghìn tỷ đồng (mặt bằng giá năm 1995) với tốc độ tăng trung bình năm là 15,53 %. Tuy nhiên đầu tư cho nông nghiệp có xu hướng tăng do chủ trương công nghiệp hoá nông nghiệp nông thôn và nâng cao thu nhập cho người nông dân. Năm 1995, đầu tư cho nông nghiệp mới đạt mức 5,47 nghìn tỷ đồng thì tới năm 2000 vốn đầu tư cho nông nghiệp đã lên tới 13,98 nghìn tỷ đồng, năm 2002 là 16,26 nghìn tỷ đồng và năm 2003 đạt 17,36 nghìn tỷ đồng. Cùng với sự gia tăng về quy mô vốn đầu tư, tốc độ phát triển của vốn đầu tư vào khu vực này cũng tăng tương đối liên tục. Nếu lấy năm 1995 làm gốc thì tốc độ phát triển định gốc của năm 1997 là 125,41%, năm 1999 là 222,3 %, năm 2001 là 257 % và năm 2003 là 317,367 %. Sự gia tăng quy mô vốn đầu tư vào khu vực nông nghiệp là hoàn toàn phù hợp với thực tiễn nước ta- một nước nông nghiệp với 80 % dân số sống ở khu vực nông thôn. Công nghiệp và xây dựng là ngành có quy mô vốn đầu tư lớn nhất trong tổng vốn đầu tư phát triển. Vốn đầu tư vào khu vực công nghiệp và xây dựng có xu hướng tăng liên tục qua các năm, tạo sự chuyển dịch cơ cấu các ngành kinh tế theo hướng nâng cao tỷ trọng công nghiệp, đáp ứng sự nghiệp CNH- HĐH đất nước. Năm 1995, đầu tư cho công nghiệp và xây dựng đạt 24,9 nghìn tỷ đồng, sau 5 năm đến năm 2000 , đã đạt gần 40 nghìn tỷ đồng và tới năm 2003 đã đạt 58,85 nghìn tỷ đồng. Nếu coi năm 1995 làm gốc thì tốc độ phát triển định gốc của 3 năm gần đây như sau: năm 2001 là 197,6 %; năm 2002 là 224,1 %; năm 2003 là 236,345 %. Như vậy vốn đầu tư cho công nghiệp tăng liên tục và mạnh mẽ, thể hiện sự tập trung nguồn lực xã hội vào phát triển khu vực này. Cùng với sự gia tăng vốn đầu tư vào khu vực công nghiệp thì vốn đầu tư phát triển khu vực dịch vụ cũng tăng liên tục. Tổng vốn đầu tư vào dịch vụ trong vòng 9 năm qua, từ 1995 đến 2003 là 382,14 nghìn tỷ đồng (mặt bằng giá năm 1995), gấp 3,87 lần tổng vốn đầu tư cho nông nghiệp. Đặc biệt, trong 3 năm gần đây, vốn đầu tư phát triển ngành dịch vụ luôn ở mức tương đối cao và ổn định, năm 2001 là 51,15 nghìn tỷ đồng, năm 2002 là 56,26 nghìn tỷ đồng, năm 2003 là 57,6 nghìn tỷ đồng. Tốc độ tăng vốn đầu tư cho ngành dịch vụ trung bình là 5,43 %. Mặc dù cũng có sự suy giảm trong 2 năm 1998, 1999 nhưng nhìn chung đầu tư cho ngành dịch vụ tăng liên tục qua các năm. Nhìn vào cơ cấu vốn đầu tư phát triển phân theo ngành kinh tế, chúng ta có thể thấy vốn đầu tư cho công nghiệp chiếm tỷ trọng lớn nhất, tiếp đó là dịch vụ và cuối cùng là nông nghiệp. Biểu 8: Cơ cấu vốn đầu tư phát triển giai đoạn 1995- 2003 theo ngành kinh tế (mặt bằng giá năm 1995) Đơn vị: % 1995 1996 1997 1998 1999 2000 2001 2002 2003 Tổng số vốn 100 100 100 100 100 100 100 100 100 Nông lâm nghiêp, thuỷ sản 8.03 7.5 8.2 9.1 15.61 15.81 12.29 12.67 12.97 Công nghiệp và xây dựng 36.56 40.4 41.99 45.01 46.0 45.0 43.0 43.48 43.98 Dịch vụ 55.41 52.1 49.89 45.89 38.39 39.19 44.71 43.85 43.05 ( Nguồn: Bộ Kế hoạch và đầu tư ) Tỷ trọng vốn đầu tư cho nông nghiệp tuy nhỏ nhất trong cơ cấu vốn đầu tư song có xu hướng tăng dần qua các năm, từ 8,03 % năm 1995 lên 15,81 % năm 2000 và 12,97 % năm 2003. Điều này thể hiện để có thể đạt được mục tiêu tăng trưởng, phát triển kinh tế xã hội nói chung và đáp ứng được nhu cầu nâng cao thu nhập của nông dân nói riêng thì nhất thiết phải chú trọng đến đầu tư phát triển nông lâm ngư nghiệp. Đầu tư cho công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn đóng vai trò quan trọng trong việc thực hiện sự nghiệp CNH- HĐH đất nước. Vốn đầu tư phát triển công nghiệp chiếm tỷ trọng lớn và cũng tăng dần qua các năm. Năm 1996, tỷ trọng vốn đầu tư phát triển công nghiệp chiếm tới 46 % vốn đầu tư phát triển. Trong 3 năm gần đây, tỷ trọng vốn đầu tư phát triển công nghiệp cũng đạt trung bình xấp xỉ 44 %. Vốn đầu tư phát triển công nghiệp chiếm tỷ trọng lớn nhất thể hiện khả năng mở rộng quy mô của ngành, thúc đẩy nhanh quá trình thực hiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tăng tỷ trọng công nghiệp dịch vụ, tăng nhanh hàm lượng công nghệ trong sản phẩm. Do vậy, việc gia tăng vốn đầu tư cho công nghiệp là một tín hiệu đáng mừng trong quá trình phát triển kinh tế xã hội ở nước ta. Tỷ trọng vốn đầu tư phát triển ngành dịch vụ có xu hướng giảm dần từ năm 1995 đến nay. Năm 1995, trong khi tỷ trọng vốn đầu tư cho công nghiệp chỉ đạt 36,56 % thì tỷ trọng vốn đầu tư cho phát triển dịch vụ đạt 55,41 %. Đến năm 2000, tỷ trọng vốn đầu tư cho công nghiệp tăng lên đến 45% thì tỷ trọng vốn đầu tư cho dịch vụ lại giảm xuống còn 39,19 %. Như vậy có mối liên hệ ngược chiều giữa hai ngành này. Sở dĩ có sự suy giảm vốn đầu tư cho dịch vụ là bởi vì chúng ta chưa có chiến lược đầu tư cho dịch vụ một cách rõ ràng. Một số ngành dịch vụ như tài chính, ngân hàng, bảo hiểm, tư vấn… chưa được chú ý đầu tư thích đáng. Do vậy, vấn đề đẩy mạnh đầu tư phát triển dịch vụ một cách hợp lý nhằm xứng đáng với tiềm năng phát triển của ngành này. II. Tác động của đầu tư với tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo ngành 1. Tăng trưởng chung của nền kinh tế và tăng trưởng của các ngành Với tình hình đầu tư như trên, nền kinh tế nước ta đã có nhiều khởi sắc. Đầu tư đã khiến cho nền kinh tế đạt mức tăng trưởng đều đặn và liên tục, trong đó tăng trưởng của các ngành cũng theo hướng tích cực và hợp lý. Biểu 9: Tổng sản phẩm trong nước phân theo khu vực kinh tế (giá so sánh năm 1994) Đơn vị: nghìn tỷ đồng 1995 1996 1997 1998 1999 2000 2001 2002 2003 Tổng số 195.6 213.8 231.3 244.6 256.3 273.7 292.5 313.1 335.82 Nông lâm nghiệp, thuỷ sản 51.32 53.58 55.89 57.87 60.89 63.72 65.62 68.28 70.47 Công nghiệp và xây dựng 58.55 67.02 75.47 81.76 88.05 96.91 107 117.1 129.19 Dịch vụ 85.7 93.24 99.89 105 107.3 113 119.9 127.8 138.17 (Nguồn: Niên giám thống kê 2002) Biểu 10: Tốc độ tăng tổng sản phẩm trong nước phân theo khu vực kinh tế ( giá so sánh năm 1994) Đơn vị: % 1995 1996 1997 1998 1999 2000 2001 2002 2003 GDP 9.54 9.34 8.15 5.77 4.77 6.79 6.90 7.04 7.24 Nông lâm nghiệp, thuỷ sản 4.8 4.40 4.31 3.54 5.22 4.648 2.98 4.05 3.21 Công nghiệp và xây dựng 13.6 14.47 12.61 8.33 7.69 10.06 10.40 9.43 10.34 Dịch vụ 9.83 8.80 7.13 5.09 2.25 5.32 6.10 6.54 8.14 ( Nguồn: Niên giám thống kê 2002 ) Giá trị tổng sản phẩm trong nước (GDP) tăng liên tục qua các năm, từ năm 1995 đến 2003, năm 1995 là 195,6 nghìn tỷ đồng, đến 3 năm gần đây đã tăng lên rất nhanh, năm 2001 là 292,5 nghìn tỷ đồng, năm 2002 là 313,1 nghìn tỷ đồng và năm 2003 là 335,82 nghìn tỷ đồng. Do quy mô đầu tư các năm tăng đều đặn dẫn đến sự gia tăng liên tục về giá trị tổng sản lượng trong nước. Về tốc độ tăng tổng sản phẩm trong nước cũng tương đối ổn định . Năm 1995 có tốc độ tăng GDP cao nhất, sau đó có sự sụt giảm trong các năm 1998 với 5,77 %, năm 1999 với 4.77 % nhưng trong những năm gần đây, tốc độ tăng GDP đã có chiều hướng đi lên, năm sau cao hơn năm trước. Tốc độ tăng GDP năm 2001 là 6,9 %, năm 2002 là 7,4 % và năm 2003 là 7,24 %, tất cả đều tăng vượt mức kế hoạch đặt ra. Mặc dù trong những năm vừa qua do ảnh hưởng của các nhân tố khách quan như tình hình chiến tranh ở iraq, dịch bệnh SARR … đã làm ảnh hưởng đến tốc độ tăng trưởng của các nước trong khu vực và trên thế giới, song với chính sách đầu tư hợp lý, nước ta vẫn đạt được tốc độ tăng trưởng ngoạn mục đáng khích lệ. Cùng với sự tăng trưởng của nền kinh tế nói chung, các ngành kinh tế cũng tăng trưởng khá cao và ổn định. * Ngành nông nghiệp: Với sự tăng lên về quy mô và tỷ trọng vốn đầu tư trong lĩnh vực nông nghiệp trong những năm qua đã đem lại cho ngành những thành tựu phát triển đáng kể. Giá trị khu vực nông lâm nghiệp và thuỷ sản đóng góp vào GDP ngày càng tăng. Năm 1995 là 51,32 nghìn tỷ đồng, năm 2001 là 65,62 nghìn tỷ đồng, năm 2002 là 68,28 nghìn tỷ đồng và năm 2003 là 70,47 nghìn tỷ đồng. Tuy nhiên tốc độ tăng của khu vực này có xu hướng giảm dần, từ 5,22 % năm 1999 xuống còn 4,05 % năm 2002 và 3,21 % năm 2003. Trong nông nghiệp, sản lượng lương thực đã đạt kết quả to lớn, từ 21,48 triệu tấn năm 1990 lên 27,6 triệu tấn năm 1995, trên 34,25 triệu tấn năm 1999 và đạt 35 triệu tấn năm 2002. Từ một nước phải nhập lương thực từ bên ngoài nhưng từ năm 1989 trở lại đây, sản xuất lương thực nước ta chẳng những đáp ứng nhu cầu trong nước mà còn dư thừa để xuất khẩu. Kim ngạch xuất khẩu lương thực chiếm 30 % kim ngạch xuất khẩu nông lâm thuỷ sản và chiếm 15- 17 % thị phần thế giới, đứng thứ 2 trong số các nước xuất khẩu gạo. Sản xuất thuỷ sản của nước ta đã đạt nhiều thắng lợi do chiến lược đầu tư hướng vào hàng chế biến xuất khẩu. tốc độ tăng giá trị sản xuất bình quân thời kì 1996- 2000 là 9,1 %, thời kì 2000-2002 là 12,6 %. Năm 2000 là năm đỉnh cao của sản xuất thuỷ sản._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc35669.doc
Tài liệu liên quan