Đầu tư với việc phát triển hoạt động kinh doanh dịch vụ du lịch của Công ty Hanoi Toserco giai đoạn 2000 - 200

MỞ ĐẦU Sự phát triển không ngừng của ngành du lịch Việt Nam trong những năm qua đã tạo ra một môi trường thuận lợi cho hoạt động kinh doanh của các công ty hoạt động trong lĩnh vực này. Quy mô của các công ty du lịch ngày càng mở rộng, số vốn giành cho đầu tư phát triển ngày càng nhiều. Tuy nhiên, việc sử dụng có hiệu quả nguồn vốn đầu tư của các doanh nghiệp này vẫn còn tồn tại nhiều hạn chế, gây ra sự kém hiệu quả của hoạt động đầu tư, quá trình đầu tư không đạt được những kết quả như mong mu

docChia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1371 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Đầu tư với việc phát triển hoạt động kinh doanh dịch vụ du lịch của Công ty Hanoi Toserco giai đoạn 2000 - 200, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ốn. Nếu không giải quyết một cách triệt để những hạn chế này sẽ gây ra sự lãng phí nguồn vốn đầu tư của bản thân doanh nghiệp cũng như của nền kinh tế. Nhận thấy sự cần thiết của vấn đề trên, tôi đã lựa chọn đề tài “Đầu tư với việc phát triển hoạt động kinh doanh dịch vụ du lịch của công ty Hanoi Toserco giai đoạn 2000-2005” để nghiên cứu và thực hiện chuyên đề tốt nghiệp. Kết cấu của chuyên đề gồm 2 chương: Chương I: Đầu tư và hoạt động kinh doanh du lịch đối với sự phát triển kinh tế xã hội của Việt Nam giai đoạn 2000-2010. Chương II: Một số giải pháp nhằm khắc phục những khó khăn, hạn chế, nâng cao hiệu quả hoạt động đầu tư tại Hanoi Toserco đến năm 2010. Do vốn kiến thức còn hạn chế, ít kinh nghiệm thực tế nên trong quá trình thực hiện đề tài không tránh khỏi thiếu sót, tôi rất mong được sự đóng góp ý kiến của thầy cô và các bạn để đề tài trên được hoàn thiện hơn nữa. Chương I ĐẦU TƯ VÀ HOẠT ĐỘNG KINH DOANH DU LỊCH ĐỐI VỚI SỰ NGHIỆP PHÁT TRIỂN KINH TẾ XÃ HỘI CỦA VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 2000-2010. A. ĐẦU TƯ VÀ HOẠT ĐỘNG KINH DOANH DU LỊCH: I. ĐẦU TƯ VỚI SỰ NGHIỆP PHÁT TRIỂN KINH TẾ XÃ HỘI CỦA MỖI QUỐC GIA: 1. Đầu tư là gì? Hiểu theo nghĩa chung nhất, đầu tư là sự bỏ ra hay sự hy sinh các nguồn lực ở hiện tại nhằm đạt được kết quả lớn hơn cho người đầu tư trong tương lai. Để giải thích rõ hơn định nghĩa trên, ta có thể hiểu các thuật ngữ như sau: Nguồn lực ở đây có thể là các nguồn lực về tài chính, nguồn lực vật chất, sức lao động, trí tuệ, thời gian... Nhà nước có thể bỏ ra các nguồn lực về tài chính để xây dựng cơ sở vật chất, một doanh nghiệp bỏ chi phí để tăng cường đào tạo cho đội ngũ nhân viên của mình, một gia đình giảm bớt việc tiêu dùng hiện tại để đầu tư cho con cái được học đại học, một nhà khoa học đóng góp nghiên cứu của mình vào việc thành lập một doanh nghiệp.... tất cả sự bỏ ra, hy sinh đó đều được gọi là nguồn lực của hoạt động đầu tư. Nhà đầu tư chính là những người đã bỏ ra các nguồn lực để tiến hành các hoạt động đầu tư. Nhà đầu tư có thể là Nhà nước, doanh nghiệp, hộ kinh doanh cá thể hay tư nhân... Kết quả của hoạt động đầu tư rất đa dạng, đó có thể là sự tăng thêm về các tài sản tài chính, tài sản vật chất, nguồn nhân lực được nâng cao tay nghề, hay có thể là tăng cường một tài sản vô hình như thương hiệu, danh tiếng,.... 2. Vai trò của đầu tư đối với sự nghiệp phát triển kinh tế xã hội của mỗi quốc gia. Đối với sự phát triển kinh tế xã hội của mỗi quốc gia, hoạt động đầu tư có ‎ nghĩa sống còn. Nó như một hoạt động tiếp thêm năng lượng cho một cơ thể sống, lúc còn nhỏ, đầu tư giúp cho cơ thể phát triển lớn mạnh, đúng hướng, còn khi cơ thể đó đã lớn mạnh và phát triển thì hoạt động đầu tư càng cần phải tiến hành mạnh mẽ nhằm duy trì sự tồn tại và phát triển. Xét trên góc độ vĩ mô, đầu tư có những vai trò chủ yếu sau: Do có sự bỏ ra các nguồn lực ở hiện tại và tạo được những nguồn lực lớn hơn trong tương lai nên đầu tư tác động đến cả tổng cung và tổng cầu của một nền kinh tế. Đầu tư ảnh hưởng hai mặt đến sự ổn định và phát triển kinh tế. Một mặt, nó tác động thúc đẩy quá trình phát triển đi lên của nền kinh tế do tạo thêm được những tài sản, nguồn lực mới, nhưng mặt khác, nó lại là nguyên nhân dẫn đến những hiện tượng gây hại đến sự phát triển kinh tế như lạm phát. Đầu tư có ảnh hưởng đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Một cơ cấu đầu tư hợp lí sẽ tạo ra được một cơ cấu kinh tế hợp lý, tạo ra sự cân đối trên phạm vi toàn nền kinh tế quốc dân, giữa các ngành, các vùng, phát huy được vai trò nội lực của nền kinh tế trong khi vẫn xem trọng yếu tố ngoại lực. Đầu tư có tác động đến việc nâng cao trình độ khoa học công nghệ của đất nước. Đầu tư là điều kiện tiên quyết của sự phát triển và tăng cường khả năng công nghệ. Đầu tư có tác động đến tốc độ tăng trưởng và phát triển kinh tế. Kết quả nghiên cứu của các nhà kinh tế cho thấy: muốn giữ tốc độ tăng trưởng ở mức trung bình thì tỷ lệ đầu tư phải đạt được từ 15%-20% so với GDP tùy thuộc vào trình độ phát triển của từng nước. Đối với các nước đang phát triển, đầu tư được coi là “cú hích ban đầu” tạo đà cho sự cất cánh của nền kinh tế. Còn đối với các quốc gia phát triển, đầu tư để duy trì sự phát triển ổn định và đúng hướng. Đầu tư giúp giải quyết việc làm, tăng thêm thu nhập cho người lao động, làm gia tăng khả năng tiêu dùng cho dân cư, thúc đẩy nhu cầu tiêu dùng hàng hóa và dịch vụ của xã hội. Khi tiến hành công cuộc đầu tư, cầu về các yếu tố đầu vào cho dự án tăng, sản xuất của các ngành có liên quan phát triển, thu hút thêm sức lao động, người lao động có được thêm việc làm đồng nghĩa với việc tăng thu nhập và tăng tiêu dùng của người lao động, góp phần giảm tệ nạn xã hội, tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình phát triển kinh tế. Xét trên góc độ vi mô, đối với doanh nghiệp, các cơ sở sản xuất và kinh doanh thì đầu tư chính là yếu tố quyết định sự ra đời, tồn tại và phát triển của mỗi cơ sở. Nếu không có đầu tư, doanh nghiệp sẽ sớm bị đánh bại trên thị trường. II. KINH DOANH DU LỊCH VỚI SỰ NGHIỆP PHÁT TRIỂN KINH TẾ XÃ HỘI CỦA ĐẤT NƯỚC: Được mệnh danh là ngành công nghiệp không khói, du lịch đang đóng một vai trò ngày càng quan trọng trong quá trình phát triển của mỗi quốc gia, đặc biệt là các quốc gia đang phát triển. Theo dự báo của nhiều chuyên gia trên thế giới, trong thế kỷ 21, du lịch là ngành dịch vụ có tốc độ tăng trưởng nhanh nhất, kéo theo đó là sự phát triển của các loại hình dịch vụ đi kèm như nhà hàng, khách sạn, khu vui chơi.... với tốc độ tăng trưởng trung bình hàng năm là 4%. Năm 1997, theo thống kê của tổ chức du lịch thế giới (UNWTO), toàn thế giới có 613 triệu lượt khách du lịch. Nhưng đến năm 2005, con số này đã tăng lên tới 808 triệu lượt khách du lịch, và dự báo đến năm 2020 là 1,6 tỷ lượt. Đầu tư cho du lịch cũng lên tới 800 tỷ đôla Mỹ hàng năm, những con số này đã cho thấy du lịch dần trở thành một ngành chính cho đối với sự phát triển kinh tế của nhiều nước. Vai trò của ngành du lịch đối với sự phát triển kinh tế của mỗi quốc gia được thể hiện ở những điểm sau: 1. Du lịch – ngành mang lại nguồn thu ngân sách lớn: Du lịch là một ngành dịch vụ mang lại nhiều lợi nhuận nhất cho ngân sách các quốc gia, trong năm 2005, với tốc độ phát triển 5,7%, ngành du lịch thế giới đã đón tiếp 808 triệu lượt khách du lịch, mang lại doanh thu trên 6 nghìn tỷ đôla Mỹ, chiếm 10,6% tổng GDP toàn cầu, dự tính trong năm 2006 doanh thu sẽ là 6500 tỷ. Dự đoán trong giai đoạn 2007-2017, ngành du lịch thế giới sẽ có tốc độ tăng trưởng trung bình đạt mức 4%/năm, đây là mức tăng trưởng cao hơn mức tăng trung bình của toàn nền kinh tế thế giới. Ở các quốc gia phát triển, khi các ngành công nghiệp có xu hướng phát triển chậm lại thì du lịch vẫn đạt được tốc độ phát triển đáng kể. Một ví dụ điển hình là Pháp, quốc gia có ngành du lịch phát triển nhất thế giới, mặc dù chịu ảnh hưởng của việc đồng Euro lên giá làm giá của các tour du lịch đến Pháp trở nên đắt đỏ, ngành du lịch của quốc gia này vẫn đạt tốc độ tăng trưởng 0,5% trong năm 2005, đón 75 triệu lượt khách quốc tế, doanh thu đạt 130 tỷ Euro tăng 3,5% so với năm 2004 và là ngành đóng góp nhiều nhất vào thu nhập quốc dân, chiếm 6,5% GDP, đứng trên cả ngành công nghiệp ôtô. Còn đối với các quốc gia đang phát triển, thống kê cho thấy, tại 49 nước kém phát triển nhất trên thế giới, tập trung chủ yếu ở Châu Phi thì du lịch là ngành mang lại nguồn thu lớn nhất, đặc biệt là nguồn thu ngoại tệ, đây là điều có ‎ ý nghĩa rất quan trọng đối với sự phát triển của các quốc gia này. 2. Du lịch-ngành kinh tế trợ giúp đắc lực cho quá trình giải quyết việc làm: Không chỉ là ngành mang lại nguồn thu lớn cho đất nước, du lịch còn góp phần không nhỏ trong việc giải quyết việc làm cho lao động, tăng thu nhập cho người dân. Tính riêng năm 2005, với tốc độ tăng 5,7% ngành du lịch toàn thế giới đã tạo thêm 2,5 triệu việc làm mới nâng tổng số nhân viên hoạt động trực tiếp trong ngành lên đến 76,7 triệu chiếm 2,8% tổng số việc làm trên thế giới. Nếu tính cả lao động gián tiếp thì tổng số người sống nhờ du lịch và lữ hành là 234,3 triệu người, chiếm 8,7%. Du lịch được đánh giá là một công cụ hữu hiệu giúp xóa đói giảm nghèo do việc phát triển du lịch không đơn thuần chỉ phụ thuộc vào điều kiện phát triển kinh tế mà còn phụ thuộc khá lớn vào các điều kiện về tự nhiên, đặc điểm văn hóa, xã hội của mỗi quốc gia. Du lịch tạo ra nhiều việc làm, trong đó có cả những việc làm không đòi hỏi trình độ chuyên môn cao, điều này rất quan trọng đối với những vùng núi cao, những vùng kém phát triển, là những nơi rất khó kiếm việc làm. Thậm chí, các vùng kém phát triển về kinh tế và không có những điều kiện tự nhiên thuận lợi cho phát triển hoạt động du lịch cũng có thể thu hút được khách du lịch ghé thăm nếu tận dụng được những điều kiện sẵn có của mình, chẳng hạn như Thái Lan, một quốc gia đã có ngành du lịch khá phát triển, nhưng vùng nông thôn, các làng nghề thủ công của Thái Lan lại chưa được tiếp xúc nhiều với ngành công nghiệp này, chính phủ đã biến du lịch trở thành một công cụ xóa đói giảm nghèo với chương trình đưa du lịch văn hóa về với cộng đồng “Mỗi làng một sản phẩm” ở Chiang Rai và Chiang Mai. Sau khi thực hiện được chương trình này được 5 tháng ở các làng nghề thủ công, khách du lịch đã dừng lại 1 đến 2 tiếng mỗi ngày, làm cho thu nhập bình quân của người dân trong làng tăng thêm 10%. Không chỉ riêng với các quốc gia đang phát triển, các quốc gia phát triển cũng thấy được vai trò của ngành du lịch trong việc giải quyết lao động dư thừa trong xã hội. Ở Pháp, ngành du lịch đã tạo thêm cho nền kinh tế 2 triệu việc làm có liên quan trực tiếp đến du lịch, đặc biệt là giúp giải quyết cho lao động có trình độ tay nghề không cao, thời gian đào tạo ngắn. Thấy được tiềm năng của ngành công nghiệp không khói này, hàng năm, chính phủ Pháp đã đầu tư cho ngành một khoản tiền không nhỏ:95,8 tỷ Euro để cải tạo hệ thống môi trường du lịch, đầu tư cơ sở hạ tầng phát triển du lịch, quảng bá hình ảnh. 3. Du lịch- ngành kinh tế góp phần thúc đẩy các ngành sản xuất và dịch vụ trong nước phát triển: Ngành du lịch phát triển, kéo theo đó là việc các ngành sản xuất trong nước. Với mức chi tiêu 9 nghìn tỷ đôla Mỹ cho du lịch trên toàn thế giới trong năm 2005, khách du lịch đã tiêu thụ một lượng lớn các loại hình hàng hoá dịch vụ được sản xuất trong nước. Trong khi việc xuất khẩu của các nước kém phát triển gặp nhiều khó khăn vì vấp phải vô số các hàng rào phi thuế quan thì việc tiêu dùng của khách du lịch lại là một phương cách xuất khẩu tại chỗ thuận lợi, mang lại nguồn thu lớn cho các doanh nghiệp trong nước. Các quốc gia biết cách khai thác túi tiền của khách du lịch thông qua việc xây dựng một hệ thống các trung tâm mua sắm, các dịch vụ vui chơi giải trí. Như Singapore, một quốc gia nhỏ bé nhưng có rất nhiều trung tâm mua sắm sang trọng, tầm cỡ được xây dựng theo lối kiến trúc hiện đại, cùng với các công viên và trung tâm giải trí. Khách du lịch tới đây chiếm một tỷ lệ cao là từ các quốc gia giàu có với chi tiêu trung bình từ 1500-2000 USD/người. Hay như Paris, nơi nổi tiếng là kinh đô thời trang của thế giới, mức chi tiêu trung bình của khách du lịch khi tới đây là 5000 USD. Nhằm mục đích giúp cho các dịch vụ du lịch được hấp dẫn hơn, giúp cho khách du lịch được “tiêu tiền”, nhiều quốc gia đã không tiếc tiền đầu tư vào các trung tâm giải trí, điển hình là Hồng Kông, chính phủ của nước này đã chi tới 1,2 tỷ USD cho việc cải tạo công viên Disneyland, 5,5 tỷ USD cho việc nâng cấp công viên Đại Dương và 40tỷ USD giành cho việc xây dựng trung tâm văn hóa. Bên cạnh đó, việc phát triển ngành du lịch, đón tiếp bạn bè quốc tế đến thăm và đẩy mạnh tuyên truyền, quảng bá hình ảnh đất nước và con người đã góp phần đưa thế giới lại gần nhau hơn, khai thác được nguồn tài nguyên thiên nhiên qu‎ý giá mà thiên nhiên đã ban tặng, đồng thời tăng cường sự giao lưu giữa nhân dân các nước trên thế giới. Với tốc độ phát triển nhanh chóng, du lịch dần trở thành một ngành kinh tế mũi nhọn đối với mọi quốc gia trên thế giới. III. ĐẦU TƯ VỚI SỰ PHÁT TRIỂN NGÀNH DU LỊCH: 1. Vai trò của đầu tư với sự phát triển ngành du lịch: Cũng giống như các ngành khác của nền kinh tế, đầu tư nắm giữ một vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy ngành du lịch phát triển. Theo điều 4- Luật Du lịch Việt Nam định nghĩa: “Sản phẩm du lịch là tập hợp các dịch vụ cần thiết để thỏa mãn nhu cầu của khách du lịch trong chuyến đi du lịch”, và “dịch vụ du lịch là việc cung cấp các dịch vụ về lữ hành, vận chuyển, lưu trú, ăn uống, vui chơi giải trí, thông tin, hướng dẫn và những dịch vụ khác nhằm thỏa mãn nhu cầu của khách du lịch”. Ngành du lịch là một ngành phát triển không chỉ đơn thuần dựa vào các điều kiện sẵn có về tự nhiên, địa hình, lịch sử, văn hóa sẵn có mà còn phụ thuộc rất nhiều vào các điều kiện về cơ sở hạ tầng, các dịch vụ cung cấp cho khách du lịch. Ngành du lịch của một quốc gia sẽ khó có thể phát triển được nếu chỉ có những điều kiện tự nhiên, di tích lịch sử đơn thuần, như Campuchia, một quốc gia có ngôi đền nổi tiếng Angkor Vat, nơi mà nhiều chuyên gia đánh giá là một trong những kiện tác của nhân loại, song, ngành du lịch của Campuchia hàng năm chỉ đón tiếp được hơn 2 triệu khách du lịch do cơ sở hạ tầng không đủ khả năng cung cấp các dịch vụ cho khách du lịch, tỷ lệ khách du lịch quay lại lần 2, 3 chiếm tỷ lệ rất nhỏ. Một ví dụ khác: so với Việt Nam, Hồng Kông không có nhiều các di sản thiên nhiên, không có được những bãi biển và hang động đẹp như Việt Nam, song, nhờ có một cơ sở hạ tầng giao thông phát triển, và việc đầu tư thích đáng giành cho việc phát triển hệ thống dịch vụ du lịch, các dịch vụ mua sắm, vui chơi giải trí, Hồng Kông đã có số khách du lịch hàng năm bằng 192,1% dân số, trong khi con số này của Việt Nam chỉ là 3,6%. Một cuộc điều tra tại triển lãm quốc tế về du lịch tại Hồng Kông đã cho thấy: 21,1% khách du lịch cho rằng khách sạn và khu nghỉ dưỡng là điều kiện thu hút trước tiên, tiếp theo đó là các phương tiện giao thông, điểm du lịch và các công viên chủ đề đứng thứ ba. Như vậy, các điều kiện về cơ sở hạ tầng có vai trò rất quan trọng trong việc phát triển ngành du lịch. 2. Đặc điểm của hoạt động đầu tư trong lĩnh vực du lịch. Theo điều 4-Luật Du lịch Việt Nam được thông qua vào ngày 14/6/2005 và có hiệu lực bắt đầu từ 1/1/2006 đã quy định rõ: “Sản phẩm du lịch là tập hợp các dịch vụ cần thiết để thỏa mãn nhu cầu của khách du lịch trong chuyến đi du lịch”. Và “Dịch vụ du lịch là việc cung cấp các dịch vụ về lữ hành, vận chuyển, lưu trú, ăn uống, vui chơi giải trí, thông tin, hướng dẫn và những dịch vụ khác nhằm thỏa mãn nhu cầu của khách du lịch”.Chính vì vậy, đầu tư vào lĩnh vực này có những điểm khác biệt so với đầu tư vào các ngành khác. Nhìn chung, không một doanh nghiệp du lịch hay bất kỳ một công ty nào, kể cả các công ty, các tập đoàn xuyên quốc gia có thể thực hiện được tất cả các khâu trong việc cung cấp các dịch vụ du lịch. Du lịch không đơn thuần chỉ là việc tổ chức điều hành tour, sắp xếp nơi ăn chốn ở cho khách du lịch mà còn bao gồm cả những hoạt động thăm quan tới các vùng, các hoạt động mua sắm, vui chơi giải trí. Đây là một mảng kinh doanh rất rộng bao trùm nhiều ngành nghề mà một doanh nghiệp đơn lẻ khó có thể bao quát được toàn bộ. Liên doanh, liên kết giữa các doanh nghiệp, các địa phương, các ngành, các cấp trong việc tiến hành các công cuộc đầu tư phát triển du lịch là một việc làm cần thiết, vừa tạo ra tính thống nhất, lại vừa tạo được tính chuyên nghiệp trong quá trình cung cấp sản phẩm. Bên cạnh việc đầu tư mở rộng kinh doanh của doanh nghiệp du lịch, để có một ngành du lịch phát triển, Nhà Nước cũng cần phải tích cực tham gia đầu tư vào lĩnh vực này thông qua việc đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng, phối hợp đầu tư cùng với doanh nghiệp để tạo nên một tổng thể du lịch phát triển toàn diện. Ở Malaysia, năm 1965, khi nền kinh tế còn ở giai đoạn chậm phát triển, chính phủ không đánh giá cao vai trò của ngành du lịch, một nhà thầu xây dựng tư nhân với số vốn khổng lồ đã quyết định đầu tư phát triển một khu du lịch trên cao nguyên Cameron. Tuy có số vốn khổng lồ nhưng việc phát triển một khu cao nguyên còn hoang sơ, cơ sở hạ tầng khó khăn, giao thông đi lại không thuận tiện, điện nước hoàn toàn không có, nếu chỉ để một mình nhà thầu tổ chức thực hiện sẽ không có tính khả thi. Thấy được tiềm năng của khu vực này, chính phủ đã bắt tay với nhà thầu tư nhân cùng nhau tiến hành xây dựng cơ sở vật chất cho toàn bộ vùng đồi núi Genting thuộc cao nguyên Cameron, các chính sách về thuế và tiền thuê đất ưu đãi nhất đã được áp dụng, nhà thầu tiến hành xây dựng khu du lịch, Nhà nước hỗ trợ cải tạo cơ sở hạ tầng giao thông vận tải, hỗ trợ thêm kinh phí cho quá trình xây dựng của nhà thầu, thậm chí, chính phủ Malaysia đã đồng ‎ý cho xây dựng casino đầu tiên của đất nước tại khu vực này. Kết quả của công cuộc đầu tư này nằm ngoài tầm dự đoán, sự phát triển thành công của khu du lịch không chỉ tạo cho nhà thầu đầu tư những khoản lợi nhuận khổng lồ mà còn tạo cho quốc gia Đông Nam Á này một ngành du lịch phát triển vượt bậc so với các nước trong khu vực. Hàng năm, chỉ riêng khu nghỉ mát này đã thu hút 15 triệu du khách trong và ngoài nước tới đây, thu về hàng tỷ đô la từ các dịch vụ du lịch. Đây là chính là kết quả của sự hợp tác thành công giữa chính phủ và doanh nghiệp. Hoạt động đầu tư trong lĩnh vực du lịch cần phải được tiến hành đồng bộ, theo quy hoạch cụ thể thì mới tạo được sức hút trong hoạt động kinh doanh. Khi tiến hành quy hoạch phát triển kinh tế, xây dựng cơ sở hạ tầng, các quốc gia cần tính đến việc phát triển các tiềm năng du lịch của địa phương để có thể tận dụng được tối đa nguồn tài nguyên du lịch. Một ví dụ cho việc phát triển du lịch không theo quy hoạch đã gây ra những nguy cơ lớn cho nền kinh tế đó là Campuchia. Ở Siem Reap, nhờ có khu đền Angkor Vat nổi tiếng thế giới và đã được UNESSCO công nhận là di sản văn hóa thế giới vào năm 1992, ngành du lịch của thành phố phát triển quá nhanh để chạy đua đáp ứng với nhu cầu của lượng khách du lịch ngày càng gia tăng. Tuy nhiên, việc phát triển này hầu như mang tính tự phát, tính quy hoạch đồng bộ không được bảo đảm, sự phát triển quá nhanh của ngành làm cho công tác quản lí không thể theo kịp, những yếu kém đã bộc lộ rõ. Các khách sạn quanh khu đền mọc lên như nấm, số phòng khách sạn tăng lên với tốc độ kỷ lục, từ chỗ tổng công suất phòng của thành phố chỉ đạt 2500 phòng, đến nay đã tăng lên gấp đôi, đạt tới con số 5000 phòng và dự tính đến cuối năm 2006 sẽ lên tới 8000 phòng. Trong khi số lượng khách du lịch và số phòng khách sạn tăng lên với tốc độ chóng mặt thì Nhà nước lại không có một quy hoạch phát triển tổng thể để kìm hãm sự phát triển quá đà này. Kết quả là cơ sở vật chất của thành phố không theo kịp nhu cầu. Nguồn điện không đủ để cung cấp cho nhu cầu của cư dân địa phương, hệ thống xử lí rác thải không được cải tạo thường xuyên đã rơi vào tình trạng yếu kém, dòng sông bị ô nhiểm bởi nguồn rác thải chưa qua xử lí. Thêm vào đó là mối lo ngại về việc khách du lịch có thể tiêu thụ một lượng nước lớn có thể làm cạn kiệt các mạch nước ngầm dẫn đến sụt lở đất và kéo theo việc sụp đổ của các ngôi đền trong khu di tích Angkor Vat, đây là một vấn đề nghiêm trọng đối với đất nước Campuchia. Phát triển du lịch đồng bộ sẽ đem lại một hiệu quả du lịch lâu dài cho các quốc gia. Du lịch là hoạt động mang đậm nét văn hóa của địa phương, do vậy, các sản phẩm của hoạt động đầu tư trong lĩnh vực này cũng cần phải chú ‎ý tới vấn đề văn hóa. Đặc thù của hoạt động du lịch là mang tính chất địa phương rất rõ. L‎ý do chủ yếu của khách du lịch khi đi thăm quan chính là được khám phá những vùng đất mới, tìm hiểu những nền văn hóa mới, độc đáo và riêng biệt với những điều kiện tự nhiên thuận lợi. Nếu như khi đầu tư vào phát triển du lịch ở địa phương nhưng lại đem mô hình phát triển của địa phương khác, nước khác để học tập, mô phỏng một cách rập khuôn thì sẽ không thu được hiệu quả cao, không tận dụng được nguồn tài nguyên tại địa phương, đôi khi đầu tư nhiều lại mang lại hiệu quả ngược lại. Những năm trước, hai quốc gia Singapore và Hồng Kông tận dụng lợi thế phát triển về kinh tế của mình để đưa ngành du lịch đi lên nhanh chóng, trở thành một ngành công nghiệp mũi nhọn trong nền kinh tế. Tuy nhiên, trong những năm gần đây, tốc độ phát triển của ngành này lại có phần đi xuống, đặc biệt là khách du lịch từ châu Âu có phần giảm hơn so với các giai đoạn trước, nguyên nhân chủ yếu của vấn đề này là do khách du lịch đã đánh giá hai quốc gia này ngày càng có nhiều điểm giống với du lịch ở châu Âu, đã mất dần đi nét đẹp Á đông vốn có, giảm sức thu hút, do vậy, nhiều khách châu Âu đã chuyển sang đi các tour du lịch đến các quốc gia khác trong khu vực như Trung Quốc, Việt Nam, Thái Lan,.... nơi du lịch vẫn mang được nét bản sắc văn hoá vốn có, không chịu nhiều tác động của văn hóa phương Tây. Bên cạnh những đặc điểm trên, đầu tư trong lĩnh vực du lịch còn cần phải tính đến tính chất mùa vụ của hoạt động này. Ở những khu nghỉ mát nổi tiếng, vào mùa du lịch, các trung tâm vui chơi, các khách sạn đều kín người, công suất thường xuyên đạt mức 100%, cung không đủ cầu, nhưng khi kỳ nghỉ kết thúc, các khách sạn trở nên vắng vẻ, có khi chỉ đạt công suất dưới 30%, nhân viên không đủ việc làm, nhiều người phải nghỉ việc. Do vậy, khi tiến hành đầu tư cần phải tính đến tính chất mùa vụ trong hoạt động này để có thể tranh thủ được thời cơ cũng như có những biện pháp để hạn chế lãng phí do hiện tượng này gây ra. B. THỰC TRẠNG ĐẦU TƯ VÀO HOẠT ĐỘNG KINH DOANH DU LỊCH DỊCH VỤ VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 2000-2005: I. TÌNH HÌNH PHÁT TRIỂN NGÀNH DU LỊCH VIỆT NAM: 1. Tiềm năng du lịch Việt Nam: Tiềm năng du lịch Việt Nam được nhiều chuyên gia trên thế giới đánh giá rất cao. Cựu Thủ tướng New Zealand, ông Mike Moore, đồng thời từng là cựu chủ tịch tổ chức du lịch thế giới UNWTO nhân chuyến thăm Việt Nam vào tháng 4/2005 đã đánh giá: Việt Nam là một trong những quốc gia có tiềm năng phát triển về du lịch lớn nhất mà ông đã từng biết. Du khách nước ngoài thường chú ‎ý đến hai yếu tố là sự an toàn và hấp dẫn của điểm đến. Với chiều dài bờ biển 3444 km chưa kể hải đảo, điều kiện tự nhiên phong phú, khí hậu thuận lợi, văn hóa đa dạng, với nhiều địa danh được UNESSCO xếp hạng là di sản văn hóa thế giới, các hang động được chọn vào danh sách những hang động đẹp nhất thế giới, Việt Nam có đủ sự hấp dẫn về điểm đến. Hơn nữa, với sự ổn định về chính trị, Việt Nam đã nhiều lần được các tổ chức du lịch danh tiếng trên thế giới đánh giá là điểm đến an toàn nhất trong khu vực Châu Á-Thái Bình Dương. Có đầy đủ được hai yếu tố này, cộng thêm những thuận lợi to lớn về cơ hội đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng khi Việt Nam đang đứng trước ngưỡng cửa gia nhập Tổ chức Thương Mại Thế giới WTO, khi các hãng hàng không giá rẻ, các tập đoàn du lịch lữ hành, các khách sạn lớn đầu tư vào Việt Nam sẽ tạo cho du lịch Việt Nam hình ảnh mới, là một địa điểm thu hút khách du lịch ở khắp nơi trên thế giới. 2. Tình hình phát triển ngành du lịch của nước ta: Từ khi đất nước ta bước vào thời kỳ đổi mới, ngành du lịch Việt Nam bắt đầu bước sang một giai đoạn đi lên mạnh mẽ. Năm 1986, nền kinh tế mới mở cửa, cơ sở hạ tầng thấp kém, du lịch trong nước kém phát triển, ngay cả một thành phố lớn như Hà Nội, toàn thành phố chỉ có duy nhất một khách sạn được phép đón tiếp khách quốc tế. Trong cả năm 1986, cả nước chỉ đón trên 100 nghìn khách quốc tế, doanh thu từ du lịch chiếm một phần không đáng kể so với thu nhập quốc dân. Đất nước tiến hành mở cửa đã mở ra những cơ hội lớn đối với sự phát triển của ngành. Chỉ sau gần 20 năm, ngành du lịch nước ta đã có bước tiến bộ đáng kể. Chỉ riêng trong giai đoạn 1991-2001, số lượng khách quốc tế đến Việt Nam đã tăng lên 8 lần, khách nội địa tăng lên 10 lần. (Nguồn: Tổng cục du lịch Việt Nam) Doanh thu từ du lịch năm 2005 đạt 30 nghìn tỷ đồng chiếm 5% GDP cả nước, trong đó, doanh thu ngoại tệ đạt 1,5 tỷ đôla. Du lịch hiện tại là ngành dịch vụ mang lại nguồn doanh thu lớn nhất cho nền kinh tế quốc dân. Ngành du lịch đã tạo việc làm cho 250 nghìn lao động trực tiếp và 450 nghìn lao động gián tiếp, chiếm gần 6% tổng số lao động của cả nước. Dự tính đến năm 2010, lao động trong ngành du lịch sẽ chiếm 12% tổng số lao động. Nhận thấy được vai trò quan trọng của ngành công nghiệp không khói này, trong nhiều năm qua, chính phủ Việt Nam đã giành nhiều sự quan tâm đến việc đầu tư phát triển. Trong giai đoạn 2000-2005, chính phủ đã giành một nguồn vốn 1956 tỷ đồng hỗ trợ cho các địa phương phát triển du lịch, đặc biệt ưu tiên cho các địa phương có các di sản quốc gia. (Nguồn: Tổng cục Thống kê) Thêm vào đó, các công ty, tập đoàn khách sạn và du lịch nước ngoài cũng đã liên tiếp đầu tư vào Việt Nam. Chỉ tính riêng trong năm 2005, cả nước có 190 dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài và các khu du lịch và khách sạn với tổng vốn đăng k‎ý là 4,46 tỷ đôla, góp phần không nhỏ vào việc cải thiện môi trường du lịch Việt Nam. Trong nhiều năm qua, ngành du lịch Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu to lớn. Năm 1988, so với một số nước trong khu vực, ngành du lịch nước ta còn kém phát triển, lượng khách quốc tế đến Việt Nam chỉ bằng 1/40 so với Singapore, Thái Lan, nhưng đến năm 2003, con số này là 1/3, đây là một bước tiến đáng kể với du lịch Việt Nam. Đi đôi với việc tăng lượng du khách trong nước và quốc tế, cơ sở vật chất phục vụ cho ngành cũng được cải thiện đáng kể. Cả nước hiện có gần 80 nghìn phòng khách sạn, trong đó hơn một nửa đạt tiêu chuẩn quốc tế, phương tiện vận chuyển du lịch được hiện đại hóa, các cơ sở, khu vui chơi giải trí được đầu tư xây dựng mới và nâng cấp, với điều kiện cơ sở vật chất như vậy, nước ta có thể đón tiếp thêm hàng triệu khách du lịch trong năm tới. Để hòa chung với xu hướng phát triển du lịch trên toàn thế giới, du lịch nước ta đã thiết lập quan hệ và mở rộng hợp tác với nhiều tổ chức du lịch quốc tế, nước ta đã tham gia vào các tổ chức như Tổ chức Du lịch Thế giới (UNWTO), hiệp hội lữ hành Châu Á-Thái Bình Dương (PATA), kí kết nhiều hiệp định song phương về hợp tác du lịch với các quốc gia trên thế giới.... Du lịch Việt Nam đã có một chỗ đứng vững chắc trên bản đồ du lịch thế giới, trong nhiều năm gần đây, với tốc độ tăng trưởng trung bình 7,5%/năm, Việt Nam hiện đứng thứ 6 trên thế giới về tốc độ phát triển du lịch, đến năm 2005, xét về số lượt khách quốc tế, Việt Nam đứng thứ 50 trên tổng số 191 quốc gia có số liệu thống kê. Dự đoán trong 10 năm tới, với tốc độ phát triển hiện nay, Việt Nam sẽ đứng thứ 7 trong 10 quốc gia đứng đầu thế giới về thu hút khách du lịch với mức thu ngoại tệ 7,5 tỷ đôla, trên cả Hồng Kông (đứng thứ 11), và Inđônêxia (đứng thứ 24). Tuy nhiên, bên cạnh đó, du lịch Việt Nam đã bộc lộ nhiều hạn chế. Ngành du lịch còn sơ khai, non trẻ, hoạt động nhỏ lẻ và không tạo được sự thống nhất trong sự phát triển chung của toàn ngành. So với các quốc gia trong khu vực, chất lượng dịch vụ còn kém, loại hình du lịch tuy đã được chú ý nghiên cứu nhưng vẫn chưa đa dạng, độc đáo, tính dân tộc còn kém, giá cả đắt hơn so với các nước trong khu vực, tính đặc thù và chuyên nghiệp của các doanh nghiệp chưa rõ nét, nét văn hóa khác biệt của từng địa phương chưa được khai thác triệt để, thêm vào đó, cơ chế chính sách còn nhiều vướng mắc. Mặc dù được Nhà nước coi là một trong những ngành mũi nhọn về phát triển kinh tế, nhưng ngành du lịch vẫn không được coi trọng đầu tư phát triển, các địa phương chỉ giành ra những khoản tiền nhỏ cho việc đầu tư vào ngành này, như tại tỉnh Quảng Bình, từ khi khu Phong Nha-Kẻ Bàng được công nhận là di sản thiên nhiên thế giới, tỉnh đã giành một khoản quỹ 10 tỷ đồng cho việc cải thiện môi trường du lịch địa phương, đây là một số tiền không nhỏ đối với một tỉnh, song, như vậy, mỗi năm, đầu tư cho du lịch của tỉnh trung bình chỉ là 2 tỷ đồng, không đủ để phát triển một dự án hoàn thiện. Một yếu điểm nữa của du lịch Việt Nam là tuy đã có một chỗ đứng trên thị trường thế giới, nhưng việc đầu tư quảng bá hình ảnh vẫn bị xem nhẹ, giai đoạn 2001-2004, chính phủ đã đề ra chương trình quảng bá du lịch Việt Nam với tổng kinh phí 30 tỷ đồng, tương đương với gần 2 triệu đôla, tức là chưa đầy 0,5 triệu đô/năm, đây là một con số quá ít ỏi so với con số 55 triệu đô của Malaysia. Chính vì những nguyên nhân này đã làm cho sản phẩm du lịch Việt Nam kém cả về bề rộng và chiều sâu. Xét trên cả tầm quốc gia và tầm doanh nghiệp, sức cạnh tranh của du lịch Việt Nam còn yếu. Tuy có tốc độ phát triển nhanh, nhưng khi các nước trong khu vực như Malaysia, Inđônêxia, lượng khách quốc tế đã vượt qua ngưỡng 10 triệu lượt từ lâu, nhưng với sự nỗ lực hết mình, đến năm 2005, du lịch Việt Nam mới vượt qua ngưỡng 3 triệu khách. Hơn thế nữa, tuy không ngừng đầu tư cải tạo cơ sở hạ tầng, nhưng Việt Nam thiếu đi các trung tâm mua sắm tầm cỡ, các khu vui chơi giải trí, điều này không những làm cho du lịch Việt Nam thiếu đi tính cạnh tranh mà còn làm cho chi tiêu của khách cũng kém hơn so với các nước khác, nếu khách du lịch thuộc diện giàu có đến Việt Nam chỉ chi tiêu ở mức 300-700 đôla thì ở Thái Lan, mức chi tiêu này dao động trong khoảng 1200-1500 đôla, ở Singapore là 1500-2000 đôla. Khách du lịch quay trở lại Việt Nam chiếm một tỷ lệ rất nhỏ, dưới 30%, trong khi có tới 60% khách du lịch đến Malaysia và quay trở lại đây đến lần thứ 2, thứ 3. Đây là những nhược điểm cần phải khắc phục để đưa du lịch Việt Nam nhanh chóng bắt kịp với du lịch của các nước trong khu vực và trên thế giới. II. THỰC TRẠNG ĐẦU TƯ CỦA CÔNG TY HANOI TOSERCO: 1. Doanh nghiệp kinh doanh trong lĩnh vực dịch vụ du lịch: Kinh doanh du lịch là kinh doanh dịch vụ, bao gồm các ngành nghề sau: kinh doanh lữ hành, kinh doanh lưu trú du lịch, kinh doanh vận chuyển khách du lịch, kinh doanh phát triển điểm du lịch và kinh doanh dịch vị du lịch khác. Tính đến nay, cả nước đã có khoảng 6.000 cơ sở kinh doanh lưu trú; 399 doanh nghiệp lữ hành quốc tế, trong đó có 203 doanh nghiệp trách nhiệm hữu hạn, 124 doanh nghiệp Nhà nước, 63 doanh nghiệp cổ phần, 8 liên doanh và 2 doanh nghiệp tư nhân; thêm vào đó là 2462 doanh nghiệp lữ hành nội địa, trong đó có 88 doanh nghiệp Nhà nước, 581 công ty cổ phần, 1730 công t._.y trách nhiệm hữu hạn và 63 doanh nghiệp tư nhân. Các doanh nghiệp chủ yếu tập trung ở miền Bắc chiếm 47%, miền Nam chiếm 42%, còn lại miền Trung chỉ có 11%. Sức cạnh tranh của doanh nghiệp du lịch Việt Nam hiện nay còn yếu do một số nguyên nhân sau: Thứ nhất là do cơ sở hạ tầng còn ở tình trạng thấp kém. Thứ hai, các doanh nghiệp thường ít quan tâm đến việc đầu tư nghiên cứu phát triển sản phẩm du lịch làm cho các dịch vụ thường kém tính sáng tạo, không đa dạng, các doanh nghiệp thường chỉ bắt chước nhau trong việc tổ chức, điều hành các tour du lịch mới, do vậy, sản phẩm của các công ty này thường tương đối giống nhau, không tạo được nét riêng biệt. Thứ ba, cũng giống như tình trạng chung của các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay, doanh nghiệp du lịch không quan tâm nhiều đến việc quảng bá hình ảnh của mình, không tạo được một thương hiệu mạnh trong lĩnh vực du lịch. Thứ tư, nguồn nhân lực có chất lượng cao, đáp ứng được nhu cầu phát triển tại các doanh nghiệp còn rất thiếu, không đủ năng lực để đón tiếp khách du lịch quốc tế. Một nhược điểm nữa cũng làm giảm sức cạnh tranh của doanh nghiệp du lịch là các doanh nghiệp du lịch thường không có sự liên kết hợp tác với nhau cũng như với các đơn vị, ngành nghề có liên quan, do vậy, các dịch vụ du lịch không có được bề rộng và chiều sâu cần thiết để thu hút khách du lịch. Việt Nam hiện nay đang đứng trước ngưỡng cửa gia nhập tổ chức Thương mại Thế giới WTO, khi tham gia vào tổ chức này, cánh cửa đầu tư vào lĩnh vực du lịch sẽ được mở ra, nhiều doanh nghiệp nước ngoài hoạt động trong lĩnh vực này sẽ đổ xô vào đầu tư tại Việt Nam, các doanh nghiệp trong nước sẽ phải đối đầu với nhiều khó khăn mới. Việc cải thiện và nâng cao sức cạnh tranh của doanh nghiệp du lịch hiện nay đang là một vấn đề cấp thiết. Hà Nội Toserco là một trong những doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực du lịch được thành lập từ những năm đầu của thời kỳ mở cửa. Ngày 14/4/1988, Ủy ban Nhân dân Thành phố Hà Nội đã ra quyết định số 1625/QĐUB thành lập công ty Du lịch dịch vụ Hà Nội, tên giao dịch quốc tế là Hanoi Toserco, và xác định: công ty du lịch dịch vụ Hà Nội là đơn vị trực thuộc UBND Thành phố Hà Nội, là đơn vị hạch toán độc lập với chức năng chính là kinh doanh dịch vụ du lịch. Lĩnh vực hoạt động của công ty là cung cấp các dịch vụ du lịch, dịch vụ lữ hành trong nước và quốc tế. Sau 18 năm hoạt động, công ty đã trải qua một giai đoạn phát triển dài để khẳng định vị thế của mình trên thị trường, góp phần thúc đẩy phát triển nền công nghiệp không khói của thủ đô. Mục tiêu hoạt động chính của công ty là kinh doanh phục vụ khách du lịch trong và ngoài nước nhằm mục đích thu lợi nhuận, góp phần thực hiện các nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, tạo việc làm và đảm bảo quyền lợi cho người lao động trong công ty. Công ty có nhiệm vụ chủ yếu sau: Kinh doanh lữ hành quốc tế và nội địa. Kinh doanh khách sạn, nhà hàng. Kinh doanh vận chuyển khách du lịch và hàng hóa. Hướng dẫn viên du lịch, phiên dịch. Dịch vụ thông tin. Dịch vụ vui chơi, giải trí,... Kinh doanh cho thuê văn phòng, nhà ở cho các đối tượng trong và ngoài nước. Kinh doanh hợp tác lao động với nước ngoài. Lập dự án, đầu tư xây dựng và quản l‎ý khu du lịch, khách sạn, khu đô thị, trung tâm thương mại dịch vụ. Các loại hình dịch vụ khác như cho thuê lao động (phiên dịch, lái xe...), tổ chức hội nghị, hội thảo, kinh doanh hàng lưu niệm.... 2. Các nhân tố tác động đến đầu tư của doanh nghiệp du lịch: Do có những nét đặc thù nên đầu tư trong doanh nghiệp du lịch chịu tác động của nhiều nhân tố. 2.1.Các nhân tố khách quan: Du lịch là hoạt động nhạy cảm với các nhân tố từ môi trường vĩ mô. Ngành du lịch của một quốc gia chỉ phát triển được khi nền kinh tế phát triển ổn định, môi trường chính trị không có nhiều biến động, an ninh, y tế trong nước được bảo đảm. Do vậy, hoạt động đầu tư của các doanh nghiệp du lịch cũng chịu nhiều tác động của các nhân tố khách quan từ môi trường bên ngoài. Tình hình phát triển của kinh tế trong nước, sự ổn định về chính trị có ảnh hưởng trước tiên đến hoạt động kinh doanh và đầu tư của các doanh nghiệp. Một khi nền kinh tế phát triển nhanh, đời sống của người dân được cải thiện thì nhu cầu về du lịch cũng tăng cao, cầu tăng cao sẽ thúc đẩy doanh nghiệp du lịch đầu tư nhiều hơn. Tuy nhiên, nếu nền chính trị bất ổn, kinh tế chậm phát triển, dịch bệnh hoành hành, trong điều kiện đó, ít có doanh nghiệp nào đủ can đảm đầu tư phát triển hoạt động của mình. Còn nhớ năm 2003, ngành du lịch các nước đã phải lao đao trước nạn dịch SARS. Các doanh nghiệp du lịch phải thu hẹp quy mô hoạt động, tại Singapore, nơi chịu ảnh hưởng của dịch bệnh, các công ty du lịch đã phải giảm bớt nhân sự, làm cho 173 nghìn người mất việc làm, doanh thu từ ngành du lịch giảm 43%. Hay vụ nổ bom khủng bố tại đảo du lịch Bali đã khiến cho ngành du lịch tại hòn đảo này sẽ phải mất nhiều năm sau mới có thể phục hồi lại như xưa vì hầu như không có một doanh nghiệp nào dám mạo hiểm đầu tư xây dựng mới cơ sở vật chất. Xu hướng phát triển chung của du lịch, tình hình phát triển du lịch trong nước, khu vực và trên thế giới cũng có ảnh hưởng không nhỏ đến hoạt động đầu tư. Du lịch Việt Nam là một bộ phận của du lịch thế giới, do vậy, xu thế phát triển của du lịch Việt Nam cũng không thoát khỏi xu thế chung của du lịch thế giới. Các chính sách vĩ mô của Nhà nước, các chương trình quốc gia về du lịch, các dự án xây dựng và bảo tồn khu thiên nhiên, di tích lịch sử, văn hóa. Nhà nước đóng vai trò định hướng cho các hoạt động đầu tư của doanh nghiệp. Vừa qua, trước yêu cầu của thực tế và đảm bảo cho ngành du lịch được phát triển đúng hướng và bền vững, Nhà nước đã ban hành luật du lịch để điều chỉnh quá trình hoạt động của ngành. Sự ra đời của đạo luật này đóng vai trò quan trọng trong việc quản lý hoạt động kinh doanh du lịch hiện còn tồn tại nhiều bất cập. Vai trò định hướng của Nhà nước còn thể hiện ở chỗ khi có các chương trình phát triển du lịch của Nhà nước tại địa phương, các chương trình quốc gia về xây dựng khu bảo tồn, khu di tích, hay xây dựng các khu vui chơi giải trí, điều này đồng nghĩa với việc tiềm năng du lịch của địa phương được cải thiện đáng kể, khi đó, địa phương sẽ thu hút được vốn đầu tư của các doanh nghiệp du lịch đến khai thác. Môi trường du lịch của địa phương như các điều kiện tự nhiên, địa l‎ý, sự đa dạng về văn hóa, dân tộc, các chính sách thu hút vốn đầu tư về du lịch của địa phương cũng ảnh hưởng không nhỏ đến kết quả và hiệu quả đầu tư của doanh nghiệp. Sự đầu tư của doanh nghiệp chỉ đạt được hiệu quả cao nhất khi có sự thống nhất trong quy hoạch, xây dựng của địa phương. 2.2. Các nhân tố chủ quan: Cũng giống như các doanh nghiệp khác, kết quả hoạt động kinh doanh và tiềm năng phát triển của công ty là nhân tố có tác động chủ yếu đến hoạt động đầu tư. Doanh nghiệp kinh doanh có hiệu quả, doanh thu không ngừng tăng lên, điều này sẽ giúp cho doanh nghiệp có thêm nguồn vốn đầu tư phát triển, đồng thời cũng chứng minh được rằng những hoạt động của doanh nghiệp đang đi đúng hướng, đây chính là tiền đề thúc đẩy tăng cường đầu tư của chính doanh nghiệp. Chi phí đầu tư của doanh nghiệp cũng là một nhân tố tác động đến mức cầu và quy mô đầu tư. Trong doanh nghiệp ở Việt Nam hiện nay, vốn đầu tư thường được huy động theo hình thức là đi vay vốn qua hệ thống ngân hàng. Du lịch hiện nay được đánh giá là ngành cao cấp, xa xỉ, do vậy, Nhà nước không giành nhiều ưu đãi cho các doanh nghiệp khi tiến hành đầu tư. Điều này khiến cho chi phí đầu tư của doanh nghiệp tăng lên, nhu cầu về đầu tư cũng do đó mà không đạt được quy mô như mong muốn. Một nhân tố chủ quan khác cũng ảnh hưởng đến cầu đầu tư của doanh nghiệp là kỳ vọng của doanh nghiệp vào kết quả đầu tư. Đầu tư chính là hoạt động nhằm mang lại những kết quả lớn hơn trong tương lai với hy vọng về một thu nhập lớn hơn những chi phí bỏ ra ban đầu. Nếu doanh nghiệp nhìn thấy một tương lai tươi sáng về quá trình phát triển du lịch của đất nước thì họ sẽ có những kế hoạch đầu tư trong thời gian không xa. Ngược lại, nếu doanh nghiệp nhận thấy một môi trường kinh doanh bất ổn với nhiều những tai họa tiềm ẩn, thì họ khó có thể có những dự án đầu tư mở rộng. 3. Trọng tâm hoạt động của Hanoi Toserco trong những năm gần đây: Loại hình hoạt động của công ty rất đa dạng, nhưng hoạt động chính của công ty là kinh doanh lữ hành quốc tế và nội địa và các dịch vụ kèm theo. Công ty tập trung vào 5 nhóm sản phẩm dịch vụ với 5 đối tượng khách hàng chính như sau: Thứ nhất, dịch vụ Opentour với khách du lịch tự do, khách du lịch không đi theo các chương trình định trước, công ty cung cấp dịch vụ xe buýt hàng ngày (xe đi Huế, Ninh Bình...). Đây là một sản phẩm độc đáo, mang lại sự phong phú cho các sản phẩm của công ty. Dịch vụ này được chính thức thành lập vào tháng 2 năm 1996 cùng với sự hợp tác của công ty du lịch Sinhcafe ở Thành phố Hồ Chí Minh, công ty Hương Xuân ở Đà Lạt, hệ thống nhà nghỉ khách sạn Vĩnh Hưng ở Hội An, công ty du lịch dịch vụ Thừa Thiên Huế. Lợi nhuận từ hoạt động này đa phần từ xe buýt đi Huế, khách đi xe đạt 65-70% mỗi chuyến. Để thu hút thêm khách du lịch tại nhiều địa điểm trong cả nước để cho khách hàng có thể biết đến và tiếp cận với loại hình dịch vụ này, công ty đã mở thêm các chi nhánh tại 18 Lương Văn Can-Hà Nội, số 1 Nguyễn Thái Học-Đà Lạt, số 9 Nguyễn Thiện Thuật-Nha Trang, 143 Trần Phú-Hội An, số 2 Hùng Vương-Huế, thêm vào đó, công ty cũng đã tiến hành quảng cáo rộng rãi trên mạng internet, thiết lập Website riêng của công ty để khách hàng có thể tiếp cận được với những loại hình dịch vụ du lịch do công ty cung cấp. Thứ hai, khách du lịch nội địa. Đây là một nguồn tiềm năng lớn vì khi đời sống của người dân được cải thiện, nhu cầu du lịch sẽ tăng cao. Tuy nhiên, trên thị trường này, công ty không có sự đầu tư thích đáng trong công tác quảng bá, lại gặp phải sự cạnh tranh gay gắt từ phía các công ty du lịch trong nước, người dân vẫn có thói quen tự tổ chức các tour du lịch trong nước cho mình nên không đạt được nhiều sự thành công, theo thống kê, công ty chỉ thu hút được 9072 khách du lịch trong tổng số trên 16.1triệu lượt khách tham quan trong phạm vi cả nước, đây là một điều đáng tiếc cho công ty. Thứ ba, khách du lịch ra nước ngoài. Đây là một dịch vụ mang lại nguồn doanh thu chính cho công ty. Từ chỗ chỉ thực hiện đưa khách ra nước ngoài trong thời gian ngắn như trước đây (từ 2-7 ngày trong giai đoạn 1999-2000), hiện nay công ty đã mở thêm các loại hình dịch vụ mới như dịch vụ phục vụ cho đi công tác nước ngoài, có thể kết hợp thêm việc đi thăm quan du lịch, dịch vụ tư vấn và tổ chức du học cho học sinh sinh viên Việt Nam, bước đầu đã tạo được uy tín trên thị trường. Thứ tư, khách du lịch trong nội đô. Từ tháng 3 năm 1998, công ty chính thức đưa ra loại hình dịch vụ mới là chương trình du lịch tham quan các địa điểm tại Hà Nội, loại hình dịch vụ mới mẻ này đã thu hút được rất đông khách đến với công ty, được khách quốc tế tại Hà Nội rất tín nhiệm, riêng năm 2005 đã thu hút được 1363 khách tăng gấp đôi so với năm 2003. Thứ năm, khách du lịch nước ngoài vào Việt Nam. Do gặp phải sự cạnh tranh mạnh mẽ của các công ty du lịch của nước ngoài nên việc thu hút khách du lịch quốc tế đến với công ty không đạt được như mong muốn. Trong năm 2005, công ty chỉ thực hiện đón tiếp được 25472 lượt khách trên tổng số 3,5 triệu lượt khách quốc tế. Ngoài ra, công ty còn tập trung vào mảng du lịch sự kiện (MICE), đây là một đối tượng khách hàng tiềm năng, đối tượng khách hàng này có mức chi tiêu cao, lợi nhuận thu được từ hoạt động này lớn hơn rất nhiều so với việc tổ chức điều hành các tour du lịch đơn lẻ, hiện nay loại hình này đang được các công ty chú ý khai thác nhưng trong nước hiện chỉ có một vài công ty có khả năng điều hành được các tour du lịch này vì loại hình du lịch này đòi hỏi trình độ tổ chức và khả năng chuyên môn cao, cơ sở vật chất đầy đủ. Trong những năm tới, đây là loại hình dịch vụ sẽ được công ty đầu tư phát triển mạnh. Kết quả kinh hoạt động kinh doanh lữ hành của công ty trong giai đoạn 2000-2005 được phản ánh qua số lượng khách như sau (đơn vị tính: khách): Trong những năm qua, tốc độ tăng trưởng của khách vào du lịch sử dụng dịch vụ du lịch của công ty khá đều đặn, riêng tốc độ tăng trưởng của việc tổ chức các tour du lịch cho người Việt Nam ra nước ngoài có sự tăng lên đột biến do sở thích đi du lịch nước ngoài dần trở thành một cái mốt đối với nhiều người Việt Nam, mang lại nhiều lợi nhuận công ty. 4. Thực trạng hoạt động đầu tư của Hà Nội Toserco trong giai đoạn 2000-2005: 4.1. Vốn và nguồn vốn đầu tư: Trước đây, giống như các công ty Nhà nước khác, công ty du lịch dịch vụ Hà Nội có nguồn vốn dựa chủ yếu vào nguồn vốn ngân sách, điều này không tạo được động lực phát triển cho toàn công ty, tạo ra sự ỉ lại, khiến cho sự phát triển chung của toàn công ty không đạt được tốc độ như mong muốn. Bước sang giai đoạn phát triển mới, đặc biệt là từ khi chính thức chuyển đổi sang hình thức công ty Trách nhiệm hữu hạn Nhà nước một thành viên, nguồn vốn của công ty đã có những sự chuyển biến đáng kể. Thay vì dựa chủ yếu vào nguồn vốn bổ sung từ ngân sách Nhà nước mang nặng tính cấp phát, công ty đã chuyển dần sang sử dụng nguồn vốn vay trung và dài hạn, nguồn vốn huy động từ vốn vay ngân hàng và nguồn vốn tự bổ sung từ lợi nhuận để lại của công ty trích vào quỹ đầu tư phát triển chung của toàn công ty. Trong giai đoạn 2000-2005, vốn đầu tư của công ty không ngừng tăng cao, đặc biệt là nhu cầu về vốn giành cho các hoạt động liên doanh liên kết xây dựng khách sạn, nhà hàng. Trong đó, tỷ lệ về các nguồn vốn như sau: Nguồn vốn tự có của doanh nghiệp chỉ chiếm khoảng 30% tổng nhu cầu vốn đầu tư, được trích từ quỹ đầu tư phát triển và nguồn vốn từ quỹ khấu hao của công ty. Có thể thấy, nguồn vốn giành cho đầu tư phát triển của công ty chủ yếu dựa vào nguồn vốn vay tín dụng từ các ngân hàng thương mại, tuy nhiên, do không được đánh giá là ngành công nghiệp ưu tiên phát triển nên nguồn vốn vay ngân hàng của công ty không được hưởng các khoản ưu đãi về vay vốn, chính vì thế, chi phí vay vốn cho hoạt động đầu tư là rất cao, ảnh hưởng lớn đến khả năng đầu tư của công ty, hơn nữa quá trình thực hiện và vận hành đầu tư lại chứa đựng rủi ro cao. 4.2. Nội dung hoạt động đầu tư của Hanoi Toserco giai đoạn 2000-2005: a)Đầu tư vào cơ sở vật chất (không kể các dự án liên doanh): Trong giai đoạn 2000-2005, công ty đã tiến hành đầu tư cho việc cải tạo và nâng cấp cơ sở hạ tầng: Cụ thể như sau: Đầu tư xây dựng trụ sở làm việc mới tại đường Kim Mã: 2.1 tỷ đồng bắt đầu từ năm 2002 và hoàn tất trong tháng 3 năm 2006. Đầu tư phát triển hệ thống các chi nhánh tại miền Nam và miền Trung: đến nay công ty đã chi hơn 5 tỷ đồng cho việc cải tạo, mở rộng các chi nhánh của công ty tại miền Trung và miền Nam. Đầu tư phát triển đội xe riêng của công ty phục vụ cho việc vận chuyển khách du lịch: giai đoạn 2000-2005, hàng năm, công ty đã chi hơn 4,5 tỷ đồng cho việc nâng cấp, mua thêm xe mới cho đội xe của công ty để có thể chủ động trong quá trình vận chuyển khách. Đầu tư cho việc đổi mới các trang thiết bị văn phòng: giai đoạn 2000-2005, công ty đã chi 1.52 tỷ đồng cho đầu tư nâng cấp và mua mới các trang thiết bị văn phòng phục vụ cho quá trình tăng năng suất lao động đối với công tác quản l‎ý hành chính và tăng cường mối liên hệ với khách hàng. Đặc biệt đầu năm 2003, công ty đã đầu tư cho việc xây dựng website riêng trên mạng Internet nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động quảng bá, tiếp thị trên mạng. b)Đầu tư cho phát triển thương hiệu và nâng cao chất lượng sản phẩm dịch vụ: Về đầu tư phát triển thương hiệu, mặc dù thương hiệu của công ty đã được khẳng định trên thị trường, song việc đầu tư cho thương hiệu vẫn luôn được công ty tiến hành đều đặn, hàng năm, công ty vẫn giành một nguồn ngân quỹ khoảng 145 triệu đồng cho việc quảng bá thương hiệu trên các phương tiện thông tin đại chúng, trên mạng Internet. Đặc biệt trong năm 2005, công ty đã tham gia hội chợ quốc tế về du lịch tại Berlin (Đức), đây là một cơ hội lớn đối với việc nâng cao uy tín của công ty trên thị trường. Đầu tư cho việc tham gia hội chợ này đã chiếm một khoản tiền không nhỏ đối với công ty, nhưng từ sau khi tham gia hội chợ trở về, số lượng khách hàng từ Đức đến với công ty tăng lên đáng kể, trong năm 2004, công ty chỉ đón 35 khách đến từ Đức thì từ sau khi hội chợ, số lượng khách Đức đã tăng lên 119 người, và có xu hướng tiếp tục tăng cao. Về đầu tư cho đổi mới công nghệ, giai đoạn 2000-2005 là giai đoạn ngành công nghệ thông tin ở nước ta có bước phát triển vượt bậc thúc đẩy quá trình hội nhập với quốc tế. Chính vì vậy, đây trở thành giai đoạn công ty đầu tư nhiều nhất cho việc đổi mới công nghệ trong nội bộ. Chỉ riêng giai đoạn này, công ty đã sử dụng nguồn vốn lên tới gần một tỷ đồng cho việc đổi mới các trang thiết bị công nghệ như máy vi tính, phần mềm,.... Đầu tư nghiên cứu phát triển tour du lịch mới và các dịch vụ du lịch mới: nguồn vốn phục vụ cho công tác này chiếm tới 15% tổng nguồn vốn giành cho đầu tư phát triển của công ty. Trong 5 năm gần đây, hàng năm, công ty đưa ra trung bình từ 10-15 tour du lịch mới lạ thu hút được đông đảo khách du lịch tham gia. c) Đầu tư cho việc đào tạo và phát triển nguồn nhân lực: Công ty luôn coi nhân viên là trung tâm của công ty, là nhân tố quyết định tới chất lượng của loại hình sản phẩm dịch vụ du lịch nên việc đầu tư cho phát triển nguồn nhân lực được quan tâm đúng mức. Cùng với sự mở rộng về quy mô, số nhân viên trong công ty, nguồn quỹ đầu tư giành cho hoạt động phát triển nguồn nhân lực của công ty cũng không ngừng tăng trong những năm gần đây: Trong đó, giành cho công tác tuyển dụng và đào tạo lại ban đầu chỉ chiếm 20%, còn lại là giành cho công tác nâng cao năng lực của đội ngũ cán bộ sẵn có, chủ yếu giành cho hoạt động cử cán bộ đi học hỏi kinh nghiệm ở nước ngoài. Sau khi kết thúc quá trình học tập, những cán bộ được cử đi đào tạo sẽ tham gia vào các buổi đánh giá quá trình đào tạo tại nước ngoài, truyền đạt lại kinh nghiệm đã học hỏi được cho những người đồng nghiệp trong công ty. Ngoài ra, công ty luôn tạo điều kiện cho nhân viên đi học hỏi thêm các kiến thức phục vụ cho quá trình làm việc như tham gia vào các lớp học thêm ngoại ngữ, vi tính... để nâng cao trình độ và chất lượng công việc. Ngoài việc trả theo lương cơ bản được quy định theo các văn bản của Nhà nước, để kịp thời động viên và giữ chân được nguồn cán bộ trẻ tài năng của công ty, hàng tháng, công ty có chính sách thưởng theo doanh thu, điều này đã khuyến khích nhân viên trong công ty hăng hái làm việc. d) Hoạt động liên doanh, liên kết: Nguồn vốn huy động cho hoạt động liên doanh với nước ngoài như sau: 10% là nguồn vốn đầu tư phát triển của doanh nghiệp, 90% là nguồn vốn đi vay thương mại. Trong giai đoạn 2000-2005, công ty tham gia 4 hoạt động liên doanh sau: Liên doanh xây dựng khách sạn SAS tại Hà Nội với tập đoàn Bắc Âu (Thụy Điển) với tổng số vốn đầu tư 50 triệu đôla, thời hạn hoạt động là 40 năm. Hiện nay, khách sạn đang trong giai đoạn hình thành và đưa vào khai thác. Liên doanh khách sạn Hà Nội với Hồng Kông, tổng số vốn đầu tư 40,5 triệu đô la, thời gian hoạt động 40 năm. Đây là một dự án đến nay được coi là thành công đối với công ty. Dự án đã đi vào hoạt động được 10 năm, lãi hàng năm lên tới 4 triệu đôla, và được coi là một trong những khách sạn hàng đầu tại Hà Nội. Liên doanh khách sạn Horison (Hà Nội) với Inđônêxia, tổng số vốn đầu tư 80 triệu đô. Dự án này đã bắt đầu đi vào hoạt động và vẫn đang trong quá trình thu hồi vốn. Khách sạn Horison là một trong tám khách sạn được xếp hạng năm sao tại Hà Nội Liên doanh Mainfield Toserco, đây là dự án liên doanh với một công ty của Malaysia trong lĩnh vực phương tiện vận chuyển khách du lịch. Dự án có số vốn đầu tư 2 triệu đô, có quy mô 20 xe du lịch từ 20 đến 45 chỗ ngồi. Dự án này đi vào hoạt động từ năm 2003 và đã kết thúc dự án vào cuối năm 2005. Đây là một dự án liên doanh có quy mô nhỏ hơn các dự án trên, song sau hai năm hoạt động, dự án không đạt được hiệu quả như mong muốn, không có lãi. Các dự án trên đều có điểm chung về quá trình góp vốn là: trong 10 tháng đầu tiên của quá trình liên doanh, Hà Nội Toserco góp 40% tổng nguồn vốn, phía nước ngoài góp 70%. Trong 10 tháng tiếp theo, tỷ lệ này là 50:50. Trong thời gian còn lại của liên doanh, phía công ty đóng góp 60% số vốn, còn phía nước ngoài chỉ góp 40%. Nguồn vốn của dự án được quản lý theo quy chế quản lý vốn ngân sách Nhà nước.‎‎ Sau khi dự án chấm dứt hoạt động cơ sở vật chất xây dựng của quá trình liên doanh sẽ thuộc về Nhà nước Việt Nam. 4.3. Những thành tựu đã đạt được trong quá trình đầu tư của Hanoi Toserco: Nguồn vốn của công ty được đầu tư đúng hướng, tạo nên hiệu quả cao, tạo được động lực thúc đẩy quá trình mở rộng phạm vi địa bàn hoạt động, mang lại cho công ty một chỗ đứng vững chắc trên thị trường. Về doanh thu của công ty trong giai đoạn 2000-2005 như sau: Tốc độ tăng trưởng bình quân của công ty đạt trên 15% một năm, đây là một tốc độ phát triển nhanh chóng so với các công ty Nhà nước khác trong cùng thời kỳ, hàng năm công ty trích nộp ngân sách lên tới trên 8 tỷ đồng, tốc độ tăng hàng năm là 12%, lợi nhuận bình quân tăng 16%, đời sống của cán bộ công nhân viên được cải thiện đáng kể. Hàng năm, công ty nộp ngân sách lên tới 2,6 tỷ đồng, đây là một con số đáng kể so với các công ty khác hoạt động trong ngành Trong đó, doanh thu của các loại hình dịch vụ như sau: Nhìn vào đồ thị trên ta có thể thấy doanh thu chủ yếu hàng năm của công ty chủ yếu dựa vào việc tổ chức các tour du lịch cho người Việt Nam ra nước ngoài, đây là một nguồn doanh thu lớn cho công ty, song, đối với sự phát triển du lịch của một quốc gia lại là một dấu hiệu không tốt. Do được chú ý đầu tư‎, cơ sở vật chất của công ty đã được cải thiện đáng kể. Chỉ trong riêng giai đoạn 2000-2005, công ty đã đầu tư mua mới 35 máy vi tính cùng với nhiều trang thiết bị văn phòng hiện đại phục vụ cho hoạt động kinh doanh và quản lý hành chính. Cũng trong thời gian này, công ty đã góp vốn xây dựng văn phòng làm việc mới với những trang thiết bị hiện đại, đáp ứng yêu cầu phát triển của công ty. Năm 2000, cơ sở vật chất của toàn công ty chỉ phục vụ cho việc đón tiếp 55 nghìn lượt khách mỗi năm, thì đến năm 2005, công ty có thể tiếp đón được 150 nghìn lượt khách. Giai đoạn trước, công ty thực hiện tiếp xúc, đón tiếp khách du lịch chủ yếu thông qua hình thức bằng thư tay hoặc tiếp xúc trực tiếp, đến năm 2005, hình thức tiếp xúc trực tiếp với khách hàng đã giảm hẳn, hình thức trao đổi qua thư điện tử tăng lên. Đây là một hình thức tiên tiến, giảm đáng kể thời gian liên lạc giữa công ty với khách hàng, vừa tạo được tính chuyên nghiệp trong hoạt động, lại vừa nâng cao năng suất lao động của nhân viên. Trong tương lai, hình thức này sẽ trở nên phổ biến hơn và trở thành hình thức tiếp xúc chủ yếu ban đầu với khách hàng. Trước kia, một nhân viên của phòng du lịch của công ty chỉ thực hiện việc tổ chức và điều hành từ 3-4 tour du lịch cùng một lúc thì hiện nay, nhân viên này có thể điều hành từ 7-8 tour, nâng cao đáng kể năng suất lao động. Theo một cuộc khảo sát trong toàn công ty, nhờ việc xây dựng Website trên mạng Internet, doanh thu của công ty tăng 11,8% so với tốc độ tăng trung bình hàng năm của giai đoạn trước, 82% khách nước ngoài liên hệ với công ty thông qua mạng Internet, tỷ lệ khách đặt tour qua mạng lên đến 56%. Do vậy, chi phí của công ty trong việc liên hệ tiếp xúc với khách hàng cũng giảm đáng kể. Trong toàn công ty hiện nay, nếu chỉ tính cho các lao động văn phòng, cứ 2 người thì có một máy tính, tỷ lệ này tương đối cao so với các công ty khác hoạt động trong ngành, tạo cho công ty một hình ảnh hiện đại và tiên tiến hơn trong quá trình phục vụ. Cũng nhờ việc nâng cấp cơ sở hạ tầng, đầu tư vào trang thiết bị máy móc văn phòng nên hiệu quả làm việc của các lao động gián tiếp trong công ty được nâng lên đáng kể, số lao động gián tiếp giảm đi tương đối so với số lao động trực tiếp, cứ 3 lao động trực tiếp mới có một lao động gián tiếp. Bộ máy quản lý ‎hành chính của công ty gọn nhẹ, giảm các chi phí quản lý, góp phần giảm giá thành dịch vụ cung cấp.‎ Về thị trường, giai đoạn 2000-2005 là giai đoạn thị trường của công ty được mở rộng. Do được đầu tư vào việc xây dựng các chi nhánh ở miền Trung và miền Nam nên phạm vi hoạt động của công ty được mở rộng đáng kể. Thời kỳ đầu, phạm vi hoạt động của công ty chỉ chú ý vào thị trường Hà Nội, các thị trường khác, công ty không tạo được nhiều uy tín thì đến nay, ‎các chi nhánh của công ty tại Thành phố Hồ Chí Minh, Nha Trang, Huế, Hội An trong 5 năm trở lại đây có tốc độ phát triển vượt bậc tạo được uy tín đối với khách du lịch tại địa phương và có xu hướng ngày càng mở rộng. Hiện nay, công ty được đánh giá là một trong số ít các công ty du lịch có mạng lưới hoạt động rộng khắp trong cả nước và có liên hệ trực tiếp với các công ty hoạt động trong lĩnh vực dịch vụ du lịch của nước ngoài. Về uy tín, thương hiệu trên thị trường, trên thị trường hiện nay, các công ty du lịch làm ăn theo mùa (khi bắt đầu mùa du lịch thì hoạt động câu khách mạnh mẽ, nhưng lại biến mất ngay khi mùa du lịch đã kết thúc) xuất hiện ngày càng nhiều làm giảm đáng kể uy tín của các doanh nghiệp kinh doanh lữ hành trong nước, tạo ra một ấn tượng xấu về chất lượng hoạt động du lịch của Việt Nam đối với khách quốc tế. Trong hoàn cảnh đó, uy tín của công ty vẫn được xây dựng và khẳng định trên thị trường, mà kết quả là liên tiếp trong nhiều năm, công ty được bình chọn là một trong mười thương hiệu mạnh trong ngành du lịch do báo Sài Gòn Tiếp thị tổ chức, công ty cũng được Thời báo Kinh tế chọn là một trong những nhà điều hành tour xuất sắc tại Việt Nam. Về nguồn nhân lực trong công ty, từ chỗ chỉ có 204 nhân viên chính thức vào năm 2000, hiện nay, toàn công ty đã có gần 300 nhân viên trong biên chế. Trình độ của đội ngũ nhân viên không ngừng được nâng cao. Do được chú ý đầu tư nên chất lượng nguồn nhân lực được cải thiện đáng kể. 100% nhân viên trong công ty đều sử dụng thành thạo vi tính văn phòng, đặc biệt, đội ngũ nhân viên làm việc tại các phòng du lịch, đội ngũ hướng dẫn viên đều thành thạo ít nhất một ngoại ngữ. Đội ngũ nhân viên của công ty được đánh giá là có chuyên môn đồng đều, hơn nữa, do có chế độ khen thưởng của công ty, công ty khuyến khích sự cạnh tranh lành mạnh giữa các nhân viên trong quá trình làm việc bằng cách giành những phần thưởng xứng đáng cho nhân viên làm việc có hiệu quả như chế độ khen thưởng hàng tháng, hàng quý, những người có kết quả làm việc tốt nhất sẽ ‎được cử đi học tập tại các công ty nước ngoài do vậy đã khuyến khích được nhân viên hăng say làm việc, tạo được một không khí làm việc khẩn trương, hiệu quả. Bên cạnh đó, công ty cũng đã phát huy được khả năng sáng tạo của nhân viên trong quá trình làm việc bằng chế độ khen thưởng hợp lý, điển hình là sáng tạo của các nhân viên phòng du lịch trong việc tổ chức du lịch MICE (du lịch sự kiện) đã tạo được ấn tượng tốt đối với khách hàng. Các dự án liên doanh liên kết với các công ty nước ngoài đã có những dự án mang lại hiệu quả cao như dự án khách sạn Hà Nội, mang lại nguồn lợi không nhỏ cho công ty, đó là hai dự án khách sạn Hà Nội (4 sao) và dự án khách sạn Horison (5 sao). Sau khi hoàn thành và đưa vào sử dụng, hai khách sạn trên đã trở thành một trong số ít những khách sạn cao cấp tại Hà Nội. Hai khách sạn trên đã cung cấp thêm gần 1000 phòng đạt tiêu chuẩn quốc tế cho du lịch Hà Nội, tỷ lệ sử dụng phòng trung bình hàng năm luôn đạt mức từ 85%-90%, thậm chí, khi vào mùa du lịch, công suất sử dụng phòng đạt mức 100%. Việc đưa vào khai thác hai khách sạn này không chỉ mang lại nguồn lợi cho công ty trong lĩnh vực kinh doanh khách sạn, đa dạng hóa hoạt động kinh doanh của công ty mà còn giúp cho môi trường du lịch của Hà Nội được cải thiện, góp phần thúc đẩy hoạt động kinh doanh của trung tâm du lịch và các đại lý tại địa bàn thủ đô. Cùng với những dự án đầu tư vào lĩnh vực kinh doanh khách sạn, dự án Mainfield Toserco cũng đã cung cấp thêm 20 xe phục vụ cho việc vận chuyển khách du lịch, tăng cường năng lực vận chuyển khách của công ty.‎ 4.4. Những hạn chế còn tồn tại: Tuy đã đạt được nhiều thành công, song quá trình đầu tư của công ty còn tồn tại nhiều hạn chế cần được khắc phục. Trong cơ cấu vốn huy động của công ty, nguồn vốn vay chiếm một tỷ lệ rất cao, tới 65% tổng nguồn vốn đầu tư. Hiện nay, khi Nhà nước vẫn chưa thực sự đưa vào những biện pháp khuyến khích đầu tư cho ngành du lịch thì đây trở thành một nguy cơ lớn, chứa đựng nhiều rủi ro đối với hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, đặc biệt là khi doanh nghiệp đã chuyển thành công ty Trách nhiệm hữu hạn Nhà nước một thành viên, không còn có sự trợ giúp cho hoạt động đầu tư từ phía Nhà nước. Sở dĩ có tình trạng trên là do nguồn vốn nội tại của công ty không thể theo kịp với nhu cầu phát triển chung, đặc biệt là đối với những dự án liên doanh có số vốn đầu tư rất lớn. Công ty đã vấp phải những trở ngại lớn trong quá trình quản l‎ý vốn đầu tư khiến cho các dự án không theo kịp tiến độ định trước, mà nguyên nhân chủ yếu là quá trình lập kế hoạch đầu tư không được tiến hành đều đặn và kịp thời điều chỉnh theo thực tế hàng năm, nên tính khả thi của kế hoạch đầu tư không cao. Trong lĩnh vực đầu tư cơ sở hạ tầng, trong những năm qua, công ty giành khá nhiều vốn cho việc đầu tư cơ sở hạ tầng cho việc quản l‎ý và điều hành, tuy nhiên, dự án thường bị chậm hơn so với tiến độ. Nguyên nhân của vấn đề này là do quá trình giải quyết thủ tục hành chính chậm, vấn đề giải ngân của công ty gặp phải khó khăn trong quá trình vay vốn, nhà thầu thi công tiến hành không đúng tiến độ. Đây là những hạn chế còn tồn tại phổ biến trong quá trình thi công xây dựng tại các doanh nghiệp ở Việt Nam. Công ty chủ yếu đầu tư vào lĩnh vực khách sạn nhà hàng, trong những năm gần đây, công ty đã thực hiện liên doanh với các công ty nước ngoài trong việc xây dựng các khách sạn có tiếng tại Hà Nội, song, các lĩnh vực khác của loại hình dịch vụ du lịch lại chưa được đầu tư nhiều. Theo một cuộc điều tra tại triển lãm quốc tế về du lịch ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docNKT468.doc
Tài liệu liên quan