Dạy - Học ca dao trong Ngữ Văn 10 theo hướng tích hợp và tích cực

Tài liệu Dạy - Học ca dao trong Ngữ Văn 10 theo hướng tích hợp và tích cực: ... Ebook Dạy - Học ca dao trong Ngữ Văn 10 theo hướng tích hợp và tích cực

pdf101 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 2601 | Lượt tải: 2download
Tóm tắt tài liệu Dạy - Học ca dao trong Ngữ Văn 10 theo hướng tích hợp và tích cực, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM -----------    ------------ NGUYỄN THỊ PHƯƠNG CHI DẠY - HỌC CA DAO TRONG NGỮ VĂN 10 THEO HƯỚNG TÍCH HỢP VÀ TÍCH CỰC Chuyên ngành: LÝ LUẬN PHƯƠNG PHÁP DẠY - HỌC VĂN TIẾNG VIỆT Mã số: 60.14.10 LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC Người hướng dẫn khoa học: TS. Hoàng Hữu Bội THÁI NGUYÊN – 2007 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM -----------    ------------ NGUYỄN THỊ PHƯƠNG CHI DẠY - HỌC CA DAO TRONG NGỮ VĂN 10 THEO HƯỚNG TÍCH HỢP VÀ TÍCH CỰC LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC THÁI NGUYÊN – 2007 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên QUY ƯỚC VIẾT TẮT GV : Giáo viên HS : Học sinh NXB : Nhà xuất bản SGK : Sách giáo khoa PPGD : Phương pháp giảng dạy THPT : Trung học phổ thông THCS : Trung học cơ sở Tr : Trang VHDG : Văn học dân gian VHV : Văn học viết Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên Mục lục Mở đầu ...............................................................................................1 1. Lý do chọn đề tài ........................................................................................... 1 2. Lịch sử vấn đề ............................................................................................... 3 3. Mục đích nghiên cứu ................................................................................... 11 4. Đối tượng nghiên cứu.................................................................................. 11 5. Nhiệm vụ nghiên cứu .................................................................................. 11 6. Phương pháp nghiên cứu ............................................................................ 12 7. Giả thuyết của luận văn ............................................................................... 12 8. Bố cục của luận văn .................................................................................... 12 Nội dung ................................................................................................. 13 Chương 1: Cơ sở lý luận của việc dạy - học ca dao theo hướng tích hợp, tích cực ........................................................................................... 13 1.1. Dạy học ca dao theo cách tiếp cận từ đặc trưng của thể loại ca dao ........ 13 1.1.1. Vận dụng thi pháp ca dao vào dạy học ca dao ...................................... 13 1.1.2. Đổi mới phương pháp dạy - học ca dao ................................................ 26 1.1.3. Những ưu điểm của dạy học ca dao theo hướng thi pháp ..................... 34 1.1.4. Những hạn chế của dạy học ca dao theo hướng thi pháp ..................... 36 1.2. Quan điểm tích hợp và dạy - học ca dao theo hướng tích hợp ................ 37 1.2.1. Quan điểm tích hợp trong dạy - học Ngữ văn ....................................... 37 1.2.2. Nội dung tích hợp trong dạy - học Ngữ văn ở THPT ........................... 39 1.2.3. Vận dụng nội dung tích hợp trong dạy - học ca dao ở lớp 10 ............... 43 1.3. Quan điểm tích cực và nội dung dạy-học ca dao theo hướng tích cực .... 45 1.3.1. Quan điểm tích cực trong dạy - học Ngữ văn ....................................... 45 1.3.2. Nội dung tích cực trong dạy - học Ngữ văn ở THPT ........................... 45 1.3.3. Vận dụng phương pháp dạy học tích cực trong dạy - học ca dao ở lớp 10 .................................................................................................... 48 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên Chương 2: Tổ chức dạy - học ca dao ở lớp 10 theo hướng tích hợp, tích cực .................................................................................................... 50 2.1. Việc thực thi chương trình và SGK Ngữ văn 10 ở phần ca dao .............. 50 2.1.1. Nhận thức của giáo viên về dạy học theo hướng tích hợp tích cực ...... 50 2.1.2. Việc thực thi của giáo viên ở giờ dạy ca dao ........................................ 53 2.2. Chương trình và SGK Ngữ văn 10........................................................... 56 2.2.1. Một số vấn đề chung về chương trình và SGK mới ............................. 56 2.2.2. Chương trình và SGK Ngữ văn 10........................................................ 58 2.3. Tổ chức dạy - học ca dao ở Ngữ văn 10 theo hướng tích hợp, tích cực .. 59 2.3.1. Dạy ca dao theo hướng tích hợp ........................................................... 59 2.3.1.1. Tích hợp và Tập làm văn ................................................................... 59 2.3.1.2. Tích hợp với tiếng Việt ...................................................................... 60 2.3.2. Dạy học ca dao theo hướng tích cực .................................................... 60 Chương 3: Thiết kế thể nghiệm ............................................................ 68 3.1. Mục đích thể nghiệm ................................................................................ 68 3.2. Nội dung thể nghiệm ................................................................................ 68 3.3. Đối tượng thể nghiệm .............................................................................. 70 3.4. Thiết kế bài học ....................................................................................... 70 3.5. §¸nh gi¸ thiÕt kÕ thÓ nghiÖm .................................................................. 89 Kết luận .................................................................................................. 90 Tài liệu tham khảo ........................................................................................ 93 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên Lời cảm ơn Em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới Tiến sÜ Hoàng Hữu Bội - người thầy đã tận tình hướng dẫn em trong suốt quá trình làm luận văn. Em xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo trong khoa Ngữ văn, Phòng đào tạo - Nghiên cứu khoa học trường Đại học Sư phạm - Đại học Thái Nguyên đã tạo điều kiện giúp đỡ em trong quá trình học tập, nghiên cứu và hoàn thành luận văn. Tác giả luận văn 1 Phần mở đầu 1. Lý do chọn đề tài 1.1. Đề tài này được chọn từ yêu cầu giải quyết tiếp vấn đề dạy học tác phẩm văn chương theo đặc trưng thể loại Vấn đề giảng dạy tác phẩm văn học theo đặc trƣng thể loại là một vấn đề không mới. Đã có khá nhiều công trình nghiên cứu về vấn đề này. Những năm đầu thập kỷ bẩy mƣơi của thế kỷ XX ta có thể nói đến cuốn sách “Vấn đề giảng dạy tác phẩm văn học theo đặc trƣng loại thể” của GS Trần Thanh Đạm chủ biên (NXB Giáo dục, H, 1971). Trong công trình này, những ngƣời viết đã chỉ ra những đặc điểm cơ bản của từng loại thể và phƣơng pháp dạy theo đặc trƣng loại thể. Đây là những đóng góp quan trọng trong công việc định hƣớng dạy học tác phẩm văn chƣơng trong nhà trƣờng. Thế nhƣng ở công trình này, các tác giả mới chỉ chú ý đến các thể loại văn học thành văn còn các thể loại của văn học dân gian, trong đó có ca dao thì chƣa đƣợc quan tâm đầy đủ. Mặc dù chúng ta đều biết rằng văn học dân gian cũng đƣợc phân ra các thể loại (tự sự trữ tình, kịch). Dạy một tác phẩm văn học dân gian cũng nhƣ dạy một tác phẩm văn chƣơng, nhƣng đây là một bộ phận có những đặc điểm riêng. Cũng là thể loại trữ tình nhƣng ngoài những đặc điểm của trữ tình nói chung thì trữ tình dân gian còn có những đặc điểm riêng. Vì vậy không thể không bàn đến dạy học tác phẩm văn học dân gian theo thể loại. Các nhà nghiên cứu đã bàn đến vấn đề dạy học tục ngữ, ca dao, truyện dân gian ở trung học phổ thông (THPT). Song vấn đề dạy học ca dao trong sách giáo khoa Ngữ văn 10 (xuất bản năm 2006) thì chƣa có một công trình nào đề cập đến một cách công phu và có hệ thống. Đề tài này nhằm góp thêm một tiếng nói vào lý luận về dạy học tác phẩm văn chƣơng theo đặc trƣng thể loại mà những ngƣời đi trƣớc đã đặt ra. 2 1.2. Đề tài này còn được lựa chọn từ thực tiễn dạy học ca dao trong sách Ngữ văn 10 hiện nay ở trường THPT theo yêu cầu đổi mới phương pháp dạy học Hiện nay nền giáo dục nƣớc ta đang thực thi việc đổi mới chƣơng trình, SGK các cấp học. Năm học 2006 - 2007, SGK Ngữ văn 10 mới chính thức đƣa vào dạy học đại trà trên toàn quốc. Trong cuốn SGK “Văn học 10, tập 1” (Sách chỉnh lý hợp nhất) NXB Giáo dục, 2000 có hai chùm bài ca dao: Những câu hát thân thân; Những câu hát tình nghĩa. Cho đến năm 2006 SGK “Ngữ văn 10” (sách cơ bản) lại gộp hai chùm bài ca dao Những câu hát thân thân; Những câu hát tình nghĩa thành chùm Ca dao than thân yêu thương, tình nghĩa và có thêm một chùm Ca dao hài hước. Trong quá trình thực hiện chƣơng trình SGK mới, giáo viên và học sinh không phải không gặp những khó khăn nhất định. Trong đợt thực tế sƣ phạm vừa qua, chúng tôi đã chú ý tìm hiểu việc dạy học ca dao trong sách Ngữ văn 10 ở một số trƣờng phổ thông. Chúng tôi nhận thấy, trên thực tế việc dạy ca dao trƣờng THPT đã có nhiều thuận lợi (đa số học sinh yêu thích ca dao vì thể loại này có đặc điểm giản dị, dễ hiểu) song điều đó không có nghĩa là việc dạy học ca dao đã đạt đƣợc hiệu quả nhƣ mong muốn. Trong những giờ học đó vẫn có những bài học đƣợc khai thác giống nhƣ bài học ở các thể văn học thành văn. Giáo viên chỉ phân tích một cách cô lập trên văn bản ngôn từ mà không đặt tác phẩm vào môi trƣờng văn học dân gian, thời điểm phát sinh… để khai thác. Hoặc có bài lại dạy theo cách “diễn nôm ca dao”, làm phức tạp hoá sự giản dị dễ hiểu của ca dao. Vấn đề dạy học ca dao theo hƣớng tích hợp và tích cực là vấn đề mới mẻ. Nhiều giáo viên lúng túng khi thực thi điều này. Dạy học ca dao nhƣ thế nào để thực hiện đƣợc nguyên tắc tích hợp và lôi cuốn đƣợc học sinh vào hoạt động liên tƣởng, tƣởng tƣợng, sáng tạo? Xuất phát từ lý do trên, chúng tôi chọn đề tài: “Dạy - học ca dao trong Ngữ văn 10 theo hướng tích hợp và tích cực”, nhằm góp một tiếng nói giải quyết khó khăn cho ngƣời đứng lớp trong đó có chúng tôi. 3 2. Lịch sử vấn đề 2.1. Nâng cao hiệu quả dạy học văn nói chung, dạy học ca dao nói riêng là công việc đầy khó khăn thử thách đối với không chỉ độ ngũ giáo viên đứng lớp mà còn đối với các nhà chuyên môn, các nhà nghiên cứu. Trong số những tài liệu chúng tôi có đƣợc, vấn đề phân tích, bình giảng ca dao và dạy học ca dao đã đƣợc đặt ra và giải quyết ở những công trình sau: * Cuốn sách “Những đặc điểm thi pháp của các thể loại văn học dân gian” của GS Đỗ Bình Trị, NXB Giáo dục, 1999 đề cập tới mục đích, ý nghĩa của việc nghiên cứu thi pháp thể loại: “Thể loại đƣợc gọi là đơn vị cơ sở của văn học dân gian và là điểm xuất phát tất yếu của công việc nghiên cứu văn học dân gian. Và mỗi thể loại văn học dân gian có cách nói riêng của nó. Thi pháp thể loại chính là cách nói riêng ấy. Có nắm đƣợc thi pháp thể loại mới có kh¶ “giải mã” các tác phẩm thuộc thể loại”. Tác giả cũng chỉ rõ, trong nhà trƣờng “việc nghiên cứu thi pháp thể loại giúp ngƣời giáo viên không những có khả năng tự mình hiểu đúng, hiểu sâu hơn các tác phẩm văn học dân gian trong chƣơng trình, mà có khả năng hoàn thiện hệ thống thao tác phân tích tác phẩm nhằm luyện tập cho học sinh cách đọc - hiểu tác phẩm ngay chính trong quá trình các em đƣợc hƣớng dẫn tìm hiểu tác phẩm”. Nhƣ vậy ở đây một lần nữa tác giả lại nhấn mạnh tới vai trò của thi pháp thể loại, coi nó là chìa khoá giúp cho ngƣời giáo viên mở cánh cửa văn học dân gian trong nhà trƣờng. Cũng xuất phát từ đó khi đề cập đến những đÆc điểm thi pháp của ca dao tác giả cho rằng: sự tổng hoà của những đặc điểm thi pháp những nhân vật trữ tình, những hoàn cảnh điển hình trong ca dao, kết cấu ca dao, hệ thống hình ảnh và ngôn ngữ, thể thơ và sự vận dụng các thể thơ trong ca dao đã tạo nên một phong cách chung bền vững của ca dao truyền thống. 4 * Cuốn “Bình giảng ca dao” của nhà nghiên cứu VHDG Hoàng Tiến Tựu (NXB Giáo dục 1992) có nói về “Công việc bình giảng ca dao” nhƣ sau: - Một bài ca dao đƣợc chọn để bình giảng phải có ít nhất ba điều kiện sau đây: Thứ nhất, phải là một bài ca dao hay, có giá trị thực sự về nội dung và nghệ thuật, đồng thời phải có vấn đề, có chỗ để bình giảng, đánh bình giảng. Thứ hai, phù hợp với khả năng và sở trƣờng của ngƣời bình giảng. Thứ ba, phù hợp với nhu cầu thị hiếu ngƣời nghe, ngƣời đọc (tr.15). - Mục đích của việc bình giảng ca dao nói riêng cũng nhƣ việc nghiên cứu văn học dân gian nói chung, không phải chủ yếu là chứng minh cho cái chung và sự giống nhau. Càng không phải chỉ là nhƣ thế (mặc dù điều này cũng cần thiết), mà chủ yếu là tìm tòi, phát hiện và lý giải những cái riêng, những nét đặc thù, độc đáo, trong sáng tác dân gian của từng dân tộc, từng địa phƣơng, từng thời kỳ lịch sử, cũng nhƣ cái riêng của từng tác phẩm cụ thể (tr.9). - Ngƣời làm ca dao cũng nhƣ ngƣời làm thơ, biến ý thành tứ ngƣời bình giảng ca dao và thơ phải dựa vào tứ mà tìm ra ý, và khi đã hiểu rõ và nắm vững đƣợc chủ ý (hay chủ đề) của tác giả rồi, ngƣời bình giảng mới có điều kiện và cơ sở chắc chắn để tiến hành công việc bình giảng và bình luận, khen chê bài ca dao hay bài thơ một cách kỹ càng, chính xác và tinh tế (tr.28). - Trong ca dao, ngoài mối quan hệ giữa ý và tứ, còn mối quan hệ giữa tình và tứ, sự và tình, đều là mối quan hệ quan trọng mà ngƣời bình giảng không thể quan tâm chú ý (tr.30). - Muốn hiểu đúng, hiểu rõ, hiểu sâu sắc và thấu đáo một bài ca dao phải bám sát vào từ ngữ của nó, thông qua từ ngữ để tìm ra ý, tứ, sự, tình ở trong đó. Và sau khi nắm đƣợc ý, tứ, sự, tình của toàn bài mới có điều kiện đầy đủ và chắc chắn để nhận rõ ý nghĩa đích thực (nghĩa trong bài) của các từ ngữ đã đƣợc tác giả sử dụng. Hiện tƣợng “ý tại ngôn ngoại” ở trong ca dao không phải là hiếm (tr.34). 5 Tác giả đã vận dụng lý thuyết trên vào bình giảng một số bài ca dao hay trong kho tàng ca dao dân ca Việt Nam. Trong tổng số 48 bài ca dao tuyển chọn, có 8 bài đƣợc dạy trong chƣơng trình THCS, THPT. * Cuốn “Thi pháp ca dao” của nhà nghiên cứu văn học dân gian Nguyễn Xuân Kính (NXB Giáo dục KHXH - Hà Nội 1992), là công trình nghiên cứu về đặc điểm thi pháp ca dao cổ truyền của ngƣời Việt. Tác giả đã khái quát đặc điểm thi pháp ca dao nhƣ sau: “Xét về mặt thi pháp, bên cạnh những điểm giống thơ của các tác giả thuộc dòng văn học viết, những nét giống vè (một thể loại văn học dân gian), ca dao có những đặc điểm riêng biệt: Ngôn ngữ ca dao là sự kết hợp giữa ngôn ngữ thơ và ngôn ngữ đời thƣờng. Đa số các lời ca dao trữ tình là những văn bản biểu hiện. Cách sử dụng tên riêng chỉ địa điểm trong ca dao về cơ bản khác với cách dùng loại từ này trong thơ bác học. Về thể thơ, 95% ca dao cổ truyền đƣợc sáng tác theo thể thơ lục bát. Các tác giả văn học dân gian khác các tác giả văn học viết ở chỗ họ không chịu khuôn sáng tác vào những luật lệ có sẵn, do đó thơ ca dân gian có phần hồn nhiên mộc mạc hơn. Mặt khác, hiện tƣợng đó lại chứng tỏ ngƣời bình dân ít có khả năng tung hoành sáng tạo trong khuôn khổ nghiêm ngặt của luật thơ. Sự ngắn gọn của các tác phẩm ca dao, phản ánh đặc điểm, hoàn cảnh; điều kiện sáng tác và sinh hoạt văn hoá văn nghệ dân gian; mặt khác tính chất này cũng cho thấy tác giả dân gian chƣa có khả năng xây dựng những tác phẩm thơ với quy mô đồ sộ. Kết cấu một số vế có phần vần, kết cấu hai tƣơng hợp, kết cấu hai vế đối lập và trong khi sáng tạo lời mới một dòng hoặc nhiều dòng ca dao có sẵn có thể đƣợc sử dụng… Là những dạng kết cấu độc đáo và là đặc điểm của ca dao. Thời gian nghệ thuật trong ca dao là thời gian hiện tại, thời gian diễn xƣớng. Không ít trƣờng hợp trong đó thời gian miêu tả có tính chất công thức, ƣớc lệ. Không gian nghệ thuật trong ca dao chủ yếu là không gian trần thế, đời thƣờng, bình dị, phiếm 6 chỉ với những nhân vật chƣa đƣợc cá thể hoá, mang tâm trạng, tình cảm chung của nhiều ngƣời. Tuy cùng xây dựng các biểu tƣợng trên cơ sở là hiện thực khách quan, nhƣng nhiều ý nghĩa của các biểu tƣợng trong ca dao khác hẳn với thơ bác học… Các đặc điểm thi pháp vừa nêu tạo thành một thẻ loại riêng trong lịch sử văn học Việt Nam: “Thể ca dao” (tr. 233 - 234). * Cuốn “Mấy vấn đề phương pháp giảng dạy - nghiên cứu văn học dân gian” của GS Hoàng Tiến Tựu (NXB Giáo dục 1993) đã khẳng định sự cần thiết xây dựng những quy phạm riêng cho việc dạy học văn học dân gian ở trƣờng phổ thông. Tác giả đã đề cập đến các phƣơng pháp nghiên cứu văn học dân gian, làm sáng tỏ vấn đề giảng dạy văn học dân gian theo đặc trƣng thể loại nhƣ: Dạy truyện dân gian, tục ngữ, ca dao… Trong chƣơng IV “Mấy vấn đề cụ thể nghiên cứu và giảng dạy ca dao” (35 trang), tác giả đã chỉ ra một số cách dạy ca dao phổ biến hiện nay và nêu lên những khó khăn đối với việc tìm hiểu một bài ca dao cổ. Theo ông “Quá trình lĩnh hội và phân tích, lý giải một bài ca dao cổ gồm nhiều khâu, nhiều bƣớc cụ thể khác nhau”. Những khâu, những bƣớc chủ yếu và quan trọng có thể đƣợc tóm tắt dƣới dạng những câu hỏi sau: 1. Bài ca dao ra đời trong hoàn cảnh và trƣờng hợp nào? (Vấn đề xác định đƣợc hoàn cảnh lịch sử, cái “khung” thời gian của tác phẩm). 2. Bài ca dao đƣợc lƣu hành sớm nhất và nhiều nhất ở vùng nào? (Vấn đề xác định quê hƣơng gốc và địa bàn lƣu hành chủ yếu của tác phẩm). 3. Bài ca dao thuộc thể loại nào? (Vấn đề xác định đặc trƣng thể loại và tiểu thể loại của nó). 4. Chủ thể và nhân vật trữ tình của bài ca dao là gì? Hay là bài ca dao của ai? Ngƣời ấy nhƣ thế nào? (Vấn đề xác định chủ thể và nhân vật trữ tình trong phần lời và trong sự biểu diễn, sử dụng thực tế của bài ca dao). 7 5. Đối tƣợng trữ tình của bài ca dao là gì? Hay là bài ca dao là lời trao đổi bày tỏ với ai? Ngƣời ấy nhƣ thế nào? (Vấn đề xác định đối tƣợng trữ tình trực tiếp hay gián tiếp, chung hoặc riêng của mỗi bài ca dao). 6. Nội dung của bài ca dao là gì? (Hay là bài ca dao nói về những điều gì?). Vấn đề xác định nội dung truyền đạt, phô diễn của bài ca dao. 7. Chủ thể bài ca dao là gì? (Hay vấn đề chủ yếu của bài ca dao muốn nói gì? Vấn đề phân tích chủ đề bài ca dao thƣờng phải tìm hiểu đầy đủ các tác phẩm mới xác định đúng đƣợc). 8. Hình thức nghệ thuật bài ca dao nhƣ thế nào? Hay bài ca dao phô diễn tâm tƣ, tình cảm bằng những phƣơng pháp, phƣơng tiện và thủ thuật nhƣ thế nào? (Vấn đề phân tích lý giải hình thức nghệ thuật của tác phẩm thƣờng chỉ có thể nhận thức đƣợc rõ khi đã nắm chắc nội dung và chủ thể của nó). 9. Bài ca dao còn có liên hệ gì với cuộc sống và tâm tƣ tình cảm của nhân dân hiện nay và mai sau không? Mối liên hệ ấy nhƣ thế nào? Vấn đề ý nghĩa và giá trị hiện đại của bài ca dao cổ về mặt nội dung cũng nhƣ mặt nghệ thuật (tr. 134 - 135). Bên cạnh các công trình chúng tôi nêu trên còn rất nhiều công trình quý báu giúp chúng tôi hoàn thành luận văn nhƣ cuốn “Văn học Việt Nam - Văn học dân gian, những công trình nghiên cứu” (của nhiều tác giả, do GS Bùi Mạnh Nhị chủ biên, NXB Giáo dục, tái bản 2000); cuốn “Giảng văn văn học dân gian Việt Nam” của hai tác giả Vũ Anh Tuấn và Nguyễn Xuân Lạc - NXB Giáo dục 1993; Luận án tiến sỹ của Nguyễn Xuân Lạc “Quan điểm tiếp cận và phương pháp dạy học ca dao ở THPT” (1996); cuốn “Phương pháp dạy học tác phẩm văn chương” (theo thể loại) của Tiến sỹ Nguyễn Viết Chữ, NXB ĐHSP, 2005. Gần đây khi SGK Ngữ văn 10 đã đƣợc thực thi trong nhà trƣờng, có nhiều cuốn sách tham khảo đã đƣợc xuất bản. Sách tham khảo dạy học Ngữ 8 văn 10 chia làm hai loại: loại sách phân tích, bình giảng các tác phẩm có trong Ngữ văn 10; loại sách gợi ý về phƣơng pháp dạy học nhƣ cuốn Thiết kế bài giảng Ngữ văn 10 của TS. Hoàng Hữu Bội, Thiết kế bài học Ngữ văn 10 do GS. Phan Trọng Luận chủ biên… 2.2. Ca dao là mảnh đất nuôi dƣỡng và lƣu giữ đời sống tinh thần của nhân dân lao động, vì thế, ca dao từ lâu không chỉ trở thành đối tƣợng nghiên cứu của các nhà khoa học cơ bản mà còn là đối tƣợng quan trọng của giới nghiên cứu phƣơng pháp dạy học. Là thể loại trữ tình dân gian ngoài đặc điểm của loại hình trữ tình nói chung, ca dao còn có những đặc điểm riêng. Do đó, đứng trƣớc những yêu cầu mới của chƣơng trình và SGK nhiều giáo viên không tránh khỏi những khó khăn khi dạy - học ca dao. Vấn đề đặt ra là dạy - học ca dao nhƣ thế nào để vừa bảo đảm yêu cầu tích hợp, vừa phù hợp với đặc trƣng thể loại và phát huy đƣợc sự tích cực ở ngƣời học là vấn đề cần quan tâm của mỗi giáo viên Ngữ văn. * Quan tâm đến vấn đề tích hợp, TS. Đỗ Ngọc Thống ngƣời tham gia biên soạn SGK Ngữ văn THCS cũng có nhiều đóng góp đáng ghi nhận. Trong cuốn “Đổi mới việc dạy và học môn Ngữ văn ở THCS”, NXB Giáo dục 2002, tác giả có một hệ thống bài viết về quan điểm tích cực và việc dạy học văn theo hƣớng tích hợp, giúp ngƣời đọc hiểu rõ “việc lấy tên chung của cuốn sách là Ngữ văn không chỉ đơn thuần là dồn ba phân môn lại thành một cuốn sách theo kiểu gộp lại mà chúng đƣợc xây dựng theo tinh thần tích hợp”. Trong bài viết “Dạy học môn Ngữ văn theo nguyên tắc tích hợp”, tác giả chỉ ra ba biểu hiện của tích hợp là “trong cuốn sách cả ba môn Văn, Tiếng Việt, Làm văn cùng dựa trên một văn bản chung để khai thác, hình thành, rèn luyện các kiến thức và kỹ năng của mỗi phân môn”. Trên cơ sở đó tác giả chỉ ra ƣu điểm của nguyên tắc dạy học tích hợp, tích hợp thể hiện trong việc xây 9 dựng cấu trúc SGK, trong quá trình tổ chức giờ dạy học, thay đổi cách soạn giáo án, cách kiểm tra đánh giá chất lƣợng của học sinh. * Tâm huyết với vấn đề đọc hiểu và vấn đế tích hợp GS-TS. Nguyễn Thanh Hùng, trong bài viết “Tích hợp trong dạy học Ngữ văn” (Tạp chí khoa học giáo dục số 6, tháng 3 năm 2006) đã chỉ ra bản chất của tích hợp và “phƣơng hƣớng phối hợp (Integrate) một cách tốt nhất của quá trình học tập của nhiều môn học cũng nhƣ các phân môn Văn, Tiếng Việt, Làm văn trong một môn Ngữ văn”. Trên cơ sở phân tích tƣ tƣởng tích hợp tác giả chỉ ra ý nghĩa của tích hợp: “Tích hợp trong nhà trƣờng sẽ giúp học sinh học tập thông minh và vận dụng sáng tạo kiến thức, kỹ năng và phƣơng pháp của khối lƣợng tri thức toàn diện, hài hoà (Hamonie) và hợp lý (Algebra) trong tình huống khác nhau và mới mẻ trong cuộc sống hiện đại”. Cũng bài viết này tác giả chỉ ra “Cái gốc của quan niệm tích hợp trong dạy học Ngữ văn” là “Hiểu một cách đơn giản là dạy học ba phân môn hợp nhất, hoà trộn vào nhau, học cái này thông qua cái kia và ngƣợc lại”. Tác giả nêu rõ: “Mục đích bao quát của nguyên tắc tích hợp trong chƣơng trình và SGK Ngữ văn là điều kiện giáo dục phù hợp, khả thi, phƣơng pháp dạy và học mới có hiệu quả và cơ sở lý luận tích hợp một cách khoa học cùng với cách thức và mô hình tích hợp đa dạng để hình thành và phát triển năng lực đọc hiểu tác phẩm văn chƣơng kết hợp với việc nâng cao dần kỹ năng nghe, nói, đọc, viết trong văn hoá giao tiếp cho học sinh”. * Dạy học theo hƣớng tích cực đã đƣợc thử nghiệm từ năm 1993 và đƣợc giới thiệu cụ thể qua các cuốn sách “Một số vấn đề về phương pháp giáo dục” (Nguyễn Kỳ và Dƣơng Xuân Nghiên, Vụ giáo viên, H. 1993); “Phương pháp giáo dục tích cực” (Nguyễn Kỳ, NXB Giáo dục, H. 1994); Cuốn “Phương pháp giáo dục lấy học sinh làm trung tâm” (Nguyễn Kỳ chủ biên - NXB Giáo dục, H. 1995) có thể xem là công trình lý luận khá đầy đủ về 10 phƣơng pháp dạy học tích cực đang đƣợc nhiều giáo viên quan tâm. Bên cạnh đó còn có rất nhiều các bài viết đăng trên các báo và tạp chí cũng đề cập đến phƣơng pháp này nhƣ: “Dạy học lấy học sinh làm trung tâm” (GS. Trần Bá Hoành - Nghiên cứu giáo dục, 1/1994); “Bàn về phương pháp giáo dục tích cực” (PGS. Phạm Viết Vƣợng - Nghiên cứu giáo dục, 10/1995); “Phương pháp tích cực bàn về học và nghiên cứu khoa học” (GS-VS. Nguyễn Cảnh Toàn - Nghiên cứu giáo dục, 9/1996)… Vấn đề mà các công trình về dạy - học tích cực luôn luôn quan tâm là dùng các phƣơng pháp dạy học đa dạng, kiến thức phải đƣợc trình bày trong dạng động, nghĩa là giáo viên phải tổ chức cho học sinh hoạt động, dẫn dắt học sinh chiếm lĩnh tri thức bằng chính hoạt động của chúng. Bên cạnh đó, phải có hệ thống câu hỏi phong phú (hệ thống câu hỏi phát hiện, câu hỏi mở rộng, câu hỏi tổng hợp nhận xét đánh giá, câu hỏi nêu vấn đề, câu hỏi gợi mở, câu hỏi liên tƣởng sáng tạo…) nhằm phát huy cao nhất khả năng tự chiếm lĩnh tri thức của học sinh. Cho đến nay, mặc dù vẫn còn những ý kiến khác biệt nhau, các nhà khoa học và quản lý giáo dục đều khá nhất trí là cần đổi mới mô hình dạy học thụ động đang chiếm ƣu thế trong nhà trƣờng hiện nay và đổi mới phƣơng pháp dạy học theo hƣớng phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của chủ thể dạy và học. Các tài liệu trên đã đặt cơ sở lý luận cho việc dạy học theo hƣớng tích hợp, tích cực. Đề tài của chúng tôi sẽ tiếp tục nghiên cứu, tổng hợp những vấn đề lý thuyết thi pháp ca dao, về tích hợp, về tích cực làm cơ sở cho việc khảo sát thực tế, để tìm ra những thành công và hạn chế trong dạy - học ca dao theo hƣớng tích hợp, tích cực. Trên cơ sở đó, đề xuất một số biện pháp phù hợp với lý luận và thực tế, đồng thời thiết kế chùm “Ca dao than thân, yêu thương tình nghĩa”, “Ca dao hài hước” ở lớp 10 theo hƣớng tích hợp, tích 11 cực để dạy thể nghiệm nhằm rút ra những kết luận khoa học cần thiết và hiệu quả sƣ phạm cho những thiết kế đó. Tuy nhiên, dạy - học tác phẩm văn chƣơng đặc biệt là ca dao vừa theo nguyên tắc tích hợp, vừa đảm bảo đặc trƣng thể loại và phát huy đƣợc tính tích cực, sáng tạo ở học sinh là vấn đề mới và khó, nên trong quá trình thực hiện đề tài, chúng tôi mới đƣa ra đƣợc sự định hƣớng nội dung và biện pháp bƣớc đầu để thực hiện quan điểm tích hợp, tích cực trong dạy học ca dao ở lớp 10 mà thôi. 3. Mục đích nghiên cứu Tìm một phƣơng án tối ƣu cho việc vận dụng quan điểm tích hợp và tích cực trong dạy học ca dao ở lớp 10. 4. Đối tượng nghiên cứu Cách dạy học ca dao trong SGK Ngữ văn 10 theo yêu cầu mới của chƣơng trình vừa đƣợc thực hiện. Cụ thể là hoạt động của giáo viên và học sinh trong giờ học các chùm ca dao ở lớp 10 THPT theo hƣớng tích hợp và tích cực. 5. Nhiệm vụ nghiên cứu a. Nghiên cứu trên bình diện lý thuyết Tìm hiểu khái niệm ca dao, đặc điểm thi pháp ca dao, cách tiếp cận ca dao theo thi pháp thể loại. Tìm hiểu lí thuyết về tích hợp, tích cực trong dạy học Ngữ văn. b. Tìm hiểu thực tiễn dạy học ca dao trong SGK Ngữ văn 10 trong những năm đầu thực hiện chƣơng trình và SGK mới. c. Đề xuất một phƣơng án có tính khả thi nhằm nâng cao hiệu quả giờ học theo hƣớng tích hợp, tích cực (thể hiện qua thiết kế dạy học và tổ chức thể nghiệm sƣ phạm). 12 6. Phương pháp nghiên cứu a. Phương pháp nghiên cứu tổng hợp lý luận Tổng hợp các bài viết, các công trình nghiên cứu về ca dao, về phƣơng pháp dạy học ca dao trong SGK Ngữ văn 10. b. Phương pháp khảo sát Khảo sát các giờ dạy - học ca dao ở 2 lớp 10 trƣờng THPT Phú Bình, huyện Phú Bình; trƣờng THPT Đồng Hỷ - huyện Đồng Hỷ - tỉnh Thái Nguyên để tìm ra những vấn đề cần giải quyết nhằm nâng cao hiệu quả giờ dạy. c. Thể nghiệm sư phạm Thiết kế một số giáo án ca dao trong chƣơng trình và dạy thể nghiệm. 7. Giả thuyết của luận văn Nếu đổi mới dạy học những chùm ca dao trong Ngữ văn 10 theo hƣớng tích hợp, tích cực có cơ sở lý luận và thực tiễn thì hiệu quả, chất lƣợng dạy học ca dao sẽ đƣợc nâng cao. 8. Bố cục của luận văn Ngoài phần mở đầu, phần kết luận và thƣ mục tham khảo, luận văn của chúng tôi gồm 3 chƣơng: Chương 1: Cơ sở lý luận của việc dạy - học ca dao theo hƣớng tích hợp, tích cực. Chương 2: Tổ chức dạy - học ca dao ở lớp 10 theo hƣớng tích hợp, tích cực. Chương 3: Thiết kế thể nghiệm dạy ca dao ở Ngữ văn 10. 13 Phần nội dung Ch•¬ng 1 C¬ së lý luËn cña viÖc d¹y - häc ca dao theo H¦íng TÝch hîp, tÝch cùc 1.1. Dạy học ca dao theo cách tiếp cận từ đặc trưng của thể loại ca dao 1.1.1. Vận dụng thi pháp ca dao vào dạy học ca dao Đề tài này phải làm sáng tỏ hai vấn đề: - Dạy ca dao theo đặc trƣng thể loại là dạy những gì? - Dạy ca dao theo nguyên tắc tích hợp và tích cực nhƣ thế nào? Để làm sáng tỏ đƣợc hai vấn đề trên, trƣớc hết phải xác định rõ cơ sở lý luận và thực tiễn của nó. Về cơ sở lý luận, chúng tôi dựa vào những thành tựu nghiên cứu về thi pháp của các nhà nghiên cứu văn học dân gian (Hoàng Tiến Tựu, Nguyễn Xuân Kính…) và những tài liệu hƣớng dẫn thực thi chƣơng trình và SGK Ngữ văn vừa đƣợc đổi mới. Về cơ sở thực tiễn, chúng tôi tiến hành khảo sát thực tế dạy học ca dao theo SGK Ngữ văn 10 vừa mới đƣợc thực thi năm đầu. Những điều trình bày dƣới đây về thi pháp ca dao lấy từ cuốn “Thi pháp ca dao” của GS - TS. Nguyễn Xuân Kính và đƣợc lấy làm một trong những cơ sở lý thuyết cho luận văn này. * Về ngôn ngữ trong ca dao Dạy học ca dao theo đặc trƣng thể loại là bắt đầu từ việc giúp học sinh nhận biết và cảm thụ đƣợc vẻ đẹp của ngôn ngữ ca dao. Từ đó mà biết vận dụng vào việc làm văn biểu cảm trong tạo lập văn bản hoặc dùng ca dao làm cứ liệu để soi tỏ cho đặc điểm của Tiếng Việt (tích hợp với hai phân môn Làm văn và Tiếng Việt). 14 Ca dao kết tinh từ lời ăn tiếng nói hàng ngày của quần chúng nhân dân. Ngôn ngữ ca dao là thứ ngôn ngữ nghệ thuật giản dị, đẹp đẽ trong sáng, chính xác vì đã đƣợc chắt lọc qua bao thế hệ. M.Gorki khẳng định vẻ đẹp của ngôn ngữ ca dao là “cái đẹp trong sự giản dị”. Tình yêu mộc mạc của ngƣời bình dân đƣợc diễn tả chân thành, đôi khi thẳng băng: Tiện đây anh nắm cổ tay Anh hỏi câu này có lấy anh không? Hoặc nỗi yêu thƣơng kín đáo: Thò tay mà bứt ngọn ngò Thƣơng em đứt ruột giả đò ngó lơ. Ngôn ngữ ca dao mang vẻ đẹp giản dị nhưng cũng rất sinh động, giàu sức biểu cảm. Điều đó đƣợc thể hiện trong việc dùng một số lƣợng phong phú và chính xác những động, tính từ, đại từ, đặc biệt là các từ láy gợi hình, biểu cảm, các biện pháp tu từ so sánh, ẩn dụ… Đôi ta bắt gặp nhau đây Nhƣ con bò gầy gặp bãi cỏ non. Có những câu ca dao có thể trở thành mẫu mực trong việc dùng từ ngữ, và về mặt gợi cảm, gợi hình, nó không thua bất cứ một câu thơ nào. Điều đó chứng tỏ các tác giả dân gian cùng rất chú ý việc trau chuốt lời thơ trong ca dao. Câu ca dao này in dấu ấn của văn học bác học: Đèn tà thấp thoáng bóng trăng Ai đem ngƣời ngọc thung thăng chốn này. Không phải câu ca dao này gợi cảm ở những từ nhƣ “đèn t._.à”, “bóng trăng”, “ngƣời ngọc”, mà chính từ láy “thung thăng” đã làm hiển hiện hình 15 bóng ngƣời con gái thanh thản bƣớc đi trong đêm trăng dƣới cái nhìn say đắm, ngƣỡng mộ của chàng trai. Có thể thấy nhận xét này về từ láy để phân tích ca dao: “Mỗi từ láy là một nốt nhạc về âm thanh chứa đựng trong mình một “bức tranh” cụ thể của các giác quan… kèm theo những ấn tƣợng chủ quan, những cách đánh giá, những thái độ của ngƣời nói với hiện tƣợng đủ sức thông qua các giác quan hƣớng nội và hƣớng ngoại của ngƣời nghe mà tác động mạnh mẽ đến họ. Cho nên các từ láy là các công cụ tạo hình rất đắc lực của văn học, nhất là thơ ca”. Trong ca dao các đại từ nhân sinh và đại từ phiếm chỉ được sử dụng với mật độ cao, làm rõ thêm sắc thái dân gian riêng biệt của ca dao. Đại từ nhân xƣng bộc lộ rõ ràng chủ thể trữ tình của bài ca dao. Đó có thể là một chàng trai cô gái, hoặc có thể là lời ca chung của cả hai ngƣời: chàng - nàng, thiếp - chàng, cô mình, anh - em, đôi ta… “Chàng đi thiếp cũng theo cùng Đói no thiếp chịu lạnh lùng thiếp mang”. “Đôi ta nhƣ lửa mới nhen Nhƣ trăng mới mọc nhƣ đèn mới khêu”. “Đƣờng xa thì thật là xa Mƣợn mình làm mối cho ta một ngƣời Một ngƣời mƣời tám đôi mƣơi Một ngƣời vừa đẹp vừa tƣơi nhƣ mình”. Các đại từ phiếm chỉ đƣợc sử dụng đa dạng: ai, cô ấy… Một đại từ “ai” vừa xa xôi vừa tình tứ, đƣợc sử dụng nhiều lần. Có khi là lời đong đƣa: Ai đi đâu đấy hỡi ai Hay là trúc đã nhớ mai đi tìm. 16 Có khi là một lời hờn trách kín đáo: Khi đi bóng hãy còn đài Khi về bóng đã nghe ai bóng tròn. Một từ “cô ấy” đầy ẩn ý: Áo anh sứt chỉ đã lâu Mai mƣợn cô ấy về khâu cho cùng. Ngoài ra ca dao còn sử dụng một số yếu tố thuộc phƣơng thức tự sự, miêu tả… trong tổ chức ngôn ngữ của mình. Việc biểu lộ vẻ đẹp nhân cách của con ngƣời thông qua việc miêu tả đặc điểm bông sen trong đầm: Trong đầm gì đẹp bằng sen Là xanh bông trắng lại chen nhị vàng… Hoặc sự kể lể, trần thuật chỉ là cái cớ để nhân vật trữ tình giãi bày tâm trạng khó nói nhất: Ơi cô gánh nƣớc quang mây Cho anh một gáo tƣới cây ngô đồng Cây ngô đồng không trồng mà mọc Ngọn ngô đồng cành dọc cành ngang Quả dƣa gang ngoài xanh trong trắng Quả mƣớp đắng ngoài trắng trong vàng Từ ngày anh gặp mặt nàng Lòng càng ngao ngán dạ càng ngẩn ngơ. Nhƣ vậy ngôn ngữ rất quan trọng trong việc thể hiện nội dung văn bản, nó là yếu tố thứ nhất, là chất liệu đầu tiên của mọi tác phẩm nghệ thuật. Ngôn ngữ ca dao không giống nhƣ ngôn ngữ trong văn học viết, nó vừa mang sắc thái dân gian gắn với cách cảm, cách nghĩ của cộng đồng, vừa gắn với những 17 cảm xúc cá nhân trong các tình huống cụ thể, cái tôi trữ tình dân gian là cái tôi phiếm chỉ, cái tôi phổ biến. Cho nên, nói nhƣ Mai Ngọc Chừ “Ngôn ngữ ca dao Việt Nam đã trở nên những viên ngọc quý óng ánh trong kho tàng văn học dân gian của dân tộc. Có thể nói ngôn ngữ ca dao đã kế tục phát huy những đặc điểm ngôn từ tuyệt vời của Tiếng Việt” [4; tr. 24 - 28]. * Về kết cấu trong ca dao Ca dao có kết cấu rất đặc trƣng, vì vậy dạy học ca dao từ thi pháp là giúp học sinh nắm đƣợc những cách kết cấu của ca dao. Từ đó vận dụng nó vào nói và viết những lúc cần thiết (tích hợp). Kết cấu của văn bản ca dao rất đa dạng, dƣới đây là những đặc điểm chính trong kết cấu của nó. 1. Lối đối đáp là đặc điểm kết cấu in đậm dấu ấn trong ca dao. Thực tế không hẳn mọi bài ca dao đều chia ra rõ ràng lời của hai nhân vật trữ tình cùng tham gia đối đáp. Có những bài ca dao chỉ kết cấu theo một vế. Lối đối đáp trong ca dao thể hiện bản thân nhân vật trữ tình muốn đƣợc bộc lộ, giãi bày tâm trạng. Đó là lời trực tiếp giãi bày của hai ngƣời: Dầu mà không lấy đƣợc em Anh về đóng cửa cài rèm đi tu Tu mô cho em tu cùng May ra thành phật thờ chung một chùa. Có khi là lời tha thiết yêu thƣơng tôi nghiệp vật trữ tình muốn bộc lộ: Chàng ơi phụ thiếp làm chi Thiếp nhƣ cơm nguộn đỡ khi đói lòng. Cũng có khi đó là lời giãi bày với chính lòng mình, biểu hiện nỗi đau đớn xót xa không thể chia sẻ, thành một hành động đến ngây thơ, bế tắc: Trèo lên cây khế nửa ngày Ai làm chua xót lòng này khế ơi. 18 2. Một đặc điểm khá quan trọng trong kết cấu ca dao là việc sử dụng lặp lại mô típ dân gian, các công thức mở đầu có tính khuôn mẫu của cùng một cách nghĩ bộc trực, gần gũi với cuộc sống hàng ngày. Đây chính là một biểu hiện của tƣ duy cộng đồng làm nên sắc thái riêng biệt của ca dao: yêu nhau, trèo lên, thân em, ước gì, chiều chiều… tạo sự nảy sinh vô hạn các dị bản, điều quan trọng hơn là chúng “thể hiện lối nói, lối nghĩ, lối cảm của quần chúng nhân dân”. Có đặt văn bản ca dào vào hệ thống mô típ đó mới thấy đƣợc hết cái độc đáo, đặc sắc dân gian của ca dao. 3. Nhìn khái quát, có thể thấy mấy dạng kết cấu cơ bản như sau: Thứ nhất: nhân vật trữ tình trực tiếp bộ lộ giãi bày tình cảm; thứ hai: nhân vật thường bóng gió xa xôi lấy thiên nhiên làm cớ để bộc lộ tâm trạng; thứ ba: sử dụng các ý, các hình ảnh lặp lại nhiều lần khắc sâu vào tâm trạng trữ tình, đó là kết cấu trùng điệp rất quen thuộc phổ biến trong ca dao. Nhƣ vậy, dựa vào kết cấu ca dao ta có thể xác định đƣợc nhân vật trữ tình cùng với nghệ thuật tổ chức, trình bày hệ thống cảm xúc của nó và nét cảm hứng dân gian đƣợc thể hiện trong các bài ca dao ấy. Từ những kiến thức này, có thể giúp học sinh biết vận dụng vào việc tạo lập các văn bản biểu cảm (tích hợp với Làm văn). * Về thể thơ trong ca dao Dạy học ca dao từ thi pháp thể loại còn phải làm cho học sinh nắm đƣợc đặc điểm của thể thơ lục bát trong ca dao cùng với các thể thơ khác đƣợc các tác giả dân gian sử dụng để bộc lộ tình cảm trong ca dao. Văn biểu cảm luôn cần đến âm vang của nhạc điệu ngôn từ và dạng thức văn bản biểu cảm thƣờng là lời nói đƣợc tổ chức trong một hệ thống âm thanh, vần luật mang tính cách điệu gọi là thể thơ. 19 Đa số ca dao được sáng tác theo thÓ lục bát với đặc trƣng là nhịp đôi đều đặn, thuận tai, vần bằng (chủ yếu) êm dịu, linh hoạt về thanh điệu, biến hoá về âm điệu, có sức lôi cuốn tự nhiên lại có thể kéo dài thoải mái nên dƣợc sử dụng rộng rãi. Vì thế, thể lục bát phù hợp với việc phô diễn cảm xúc tình cảm của con ngƣời, nhất là đối với ngƣời bình dân xƣa. Chính do vần, thanh, nhịp ở thể thơ mà tạo thành nhạc tính. Đó là nhạc ngân nga, hoà điệu vào nhau làm cho câu ca dao bay bổng, thanh thoát, gây ấn tƣợng. Bởi thế, bài ca dao thƣờng có thể hát lên theo cung bậc xúc cảm. Khi hát ngƣời hát truyền tình cảm vào đó, nhờ vậy mà những câu ca dao trở lên du dƣơng, có khả năng lây lan cảm xúc. Trong thơ, thể lục bát cũng đƣợc sử dụng phổ biến và trở thành thể thơ độc đáo của dân tộc Việt Nam. Tuy nhiên lục bát trong ca dao luôn có những nét riêng, vừa mang hồn thơ dân tộc, vừa mang sắc thái dân gian nhất. Theo thống kê của Nguyễn Xuân Kính, trong tổng số 973 lời ca dao sáng tác theo thể lục bát, số lời gồm một cặp lục bát là 620 (63%), số lời hai cặp là 242 (24%), số lời ba cặp là 70 (7%), bốn cặp là 21 (2%), số lời năm cặp là 12 (chiếm hơn 1%), gộp các lời từ sáu cặp trở lên là 8 (chiếm gần 1%). Lời ca dao có vẻ rời rạc, nhƣng thực ra lại rất cô đúc. Hơn nữa mỗi bài ca dao chỉ cần khắc sâu một nét tâm trạng của con ngƣời. Một tâm trạng băn khoăn với tình cảm bất ngờ không rõ lý do: Gió sao gió mát sau lƣng Dạ sao dạ nhớ ngƣời dƣng thế này. Và đây là nỗi nhớ không thể nguôn ngoai: Nhớ ai nhƣ nhớ thuốc lào Đã chôn điếu xuống lại đào điếu lên. Lục bát trong ca dao không cố định số chữ trong một câu, tức là có khả năng biến thể. Khi thay đổi số chữ trong một dòng dẫn đến nhịp thơ thay đổi, ảnh hƣởng đến nhạc điệu, âm điệu chung của bài ca. Vì thế, chỉ khi nào 20 cần thể hiện những tình ý sâu sắc, tác giả dân gian mới thể hiện biến thể lục bát, đây chính là nét đặc biệt rất dân gian của ca dao, khác biệt với lục bát của văn học viết. “Có yêu nhau thì yêu cho chắc Chi bằng trúc trắc thì trục trặc cho luôn”. “Yêu nhau tam tứ núi cũng trèo Thất bát sông cũng lội tứ cửu tam thập lục đèo cũng qua”. Ca dao có hiện tƣợng gieo vần ở tiếng thứ tƣ thay vì tiếng thứ sáu nhƣ thƣờng lệ để nhấn mạnh nội dung cần nhận thức ngay và làm thay đổi thái độ, giọng điệu của chủ thể trữ tình: “Con cò mà đi ăn đêm Đậu phải cành mềm lộn cổ xuống ao”. “Ngắn tay với chẳng tới kèo Cha mẹ anh nghèo chẳng cƣới đƣợc em”. Cách gieo vần nhƣ thế tạo cho nhịp của câu tám là 4/4 tƣơng xứng, diễn tả đƣợc nỗi khó khăn vất vả và dự cảm không lành về tƣơng lai của những thân phận nhỏ bé trong xã hội. Ngoài ra, ca dao ít sử dụng hình thức đối. Thông thƣờng thơ lục bát thƣờng sử dụng hình thức đối, nhƣng ca dao thì không. Nếu có dùng cũng chỉ dùng đối cân, kỹ thuật đối không đa dạng. Chẳng hạn: Đồng Đăng có phố Kỳ Lừa Có nàng Tô Thị, có chùa Tam Thanh. Hoặc có thể là đối ngẫu tâm lý: Bƣớm vàng đậu trái mù u Lấy chồng càng sớm, lời ru càng buồn. 21 Dùng thể lục bát là chính nhƣng ca dao còn sử dụng rất nhiều thể thơ khác nhau: song thất lục bát, thể tự do, thể vãn…Mỗi thể loại này đều có những nét khác biệt nhất định, phù hợp với các tình huống, tâm trạng hoặc tuỳ theo các làn điệu. Điều đó chứng tỏ các tác giả dân gian không chịu khuôn các sáng tác của mình vào các khuôn khổ có sẵn, do đó sáng tác dân gian có phần hồn nhiên mộc mạc hơn thơ. Đây có thể xem nhƣ “một dấu hiệu của sự thống nhất về phong cách ca dao tạo nên sắc thái dân gian đậm dà của nó”. *Về không gian, thời gian nghệ thuật trong ca dao Dạy học ca dao từ thi pháp thể loại là giúp học sinh hiểu đƣợc hai khái niệm: “không gian nghệ thuật”, “thời gian nghệ thuật” và các khái niệm khác có liên quan đến nhƣ “thời gian diễn xƣớng”, “thời gian mang tính ƣớc lệ”, “không gian tâm lý”, “không gian tƣợng trƣng ƣớc lệ”… Thời gian nghệ thuật và không gian nghệ thuật là sự thể hiện thực khách quan đƣợc phản ánh vào trong tác phẩm tạo nên thế giới nghệ thuật cho tác phẩm ấy. Thời gian trong ca dao là thời gian hiện tại, thời gian diễn xướng. Tính chất độc đáo trong cách thể hiện thời gian ở ca dao là: tác giả dân gian, nhân vật trữ tình và ngƣời diễn xƣớng cùng nhau nói lên một điều gì đó. Vì thế, đó thƣờng là thời gian tâm lý và luôn ở thì hiện tại. Thời gian nghệ thuật trong ca dao đƣợc miêu tả bằng những công thức đối lập: quá khứ - hiện tại, hiện tại - quá khứ, hiện tại - tƣơng lai… Những công thức đối lập này thƣờng diễn tả những biến đổi, những nghịch cảnh, những điều vô lý… “Ngày đi trúc chửa mọc măng Ngày về trúc đã cao bằng ngọn tre”. “Khi đi bóng hãy còn dài Khi về bóng đã nghe ai bóng tròn”. 22 Ở đây, không còn thời gian hiện thực mà nó đã quyện chặt với tâm lý con ngƣời. Thời gian trong ca dao đƣợc miêu tả qua các công thức mang tính chất ước lệ: chiều chiều, đêm qua, hôm qua… “Chiều chiều ra đứng ngõ sau…” “Chiều chiều ra đứng bờ sông…” “Đêm qua ra đứng bờ ao…” “Đêm qua em những lo phiền…” “Hôm qua tát nƣớc đầu đình…” Mỗi công thức gắn với một tâm trạng nhất định, chẳng hạn “chiều chiều” thƣờng diễn rả nỗi nhớ thƣơng, buồn da diết của ngƣời con xa quê khi nhớ về gia đình, quê hƣơng; thời gian “đêm đêm” thƣờng bộc lộ tâm trạng nhớ thƣơng lo âu, bồn chồn… của nhân vật trữ tình khi nhớ ngƣời yêu… Thời gian nghệ thuật có mối quan hệ chặt chẽ với không gian nghệ thuật. Ít có trƣờng hợp thời gian đi riêng một mình mà không kèm theo nó một địa điểm, một không gian nào đó. Không gian trong ca dao được miêu tả rất sinh động. Đó có thể là không gian cụ thể, nơi coi người sinh sống, hò hẹn, gặp gỡ… thƣờng là những không gian bình dị, gắn với đời sống dân dã, với làng quê ngƣời Việt nhƣ: bờ ao, ngõ sau, sân đình…, những không gian cộng đồng, cũng có thể là không gian bao quát nhƣ trời, đất, non sông…. “Từ ngày gặp mặt giữa đàng Thiếp quyết thƣơng chàng cha mẹ nào hay”. “Qua đình ngả nón trông đình Đình bao nhiêu ngói thƣơng mình bấy nhiêu”. “Ai đi muôn dặm non sông Để ai chứa chất sầu đong vơi đầy”. 23 Không gian trong ca dao chủ yếu là không gian tâm lý: không gian đƣợc biến đổi theo tâm trạng con ngƣời. Nỗi vời trông xa cách làm cho cảnh vật thêm mênh mang, nƣớc và bèo bỗng trở thành hình ảnh của phiêu dạt. “Ngƣời về em những trông theo Trông nƣớc nƣớc chảy trông bèo bèo trôi”. Nhiều khi, đó là những không gian có tính tượng trưng, ước lệ: nhƣ không gian ghềnh thác biểu tƣợng cho những khó khăn, thách thức cần vƣợt qua, không gian với những hình ảnh bến - thuyền thƣờng gắn với sự chờ đợi, thề hẹn… “Thuyền về có nhớ bến chăng Bến thì một dạ khăng khăng đợi thuyền”. “Yêu nhau tam tứ núi cũng trèo Thất bát sông cũng lội tứ cửu tam thập lục đèo cùng qua”. Có thể dẫn ra đây nhận xét của tác giả Trần Đức Ngôn: “Ca dao xƣa có tình và có cảnh, cảnh tình gắn bó với nhau một cách mật thiết, cảnh sinh tình, tác giả mƣợn cảnh để nói lên nội tâm của mình, do đó, ca dao xƣa có sức truyền cảm rất mạnh mẽ và có sức sống mãi trong lòng nhân dân”. (Văn hoá dân gian, những phương pháp nghiên cứu, TC VHDG số 3, 1986). Nhƣ vậy, thời gian, không gian nghệ thuật trong ca dao có những đặc điểm khác nhau với thi pháp văn học viết, đồng thời cũng có những khác biệt với các văn bản tự sự dân gian nhƣ cổ tích, truyền thuyết… Vì thế, khi tìm hiểu ca dao the đặc trƣng văn bản biểu cảm dân gian cần tìm hiểu, nắm vững những nét thi pháp rất độc đáo, thú vị và riêng biệt này. 24 * Về biểu tượng trong ca dao Dạy học ca dao từ thi pháp thể loại theo hƣớng tích hợp là phải làm cho học sinh hiểu đƣợc khái niệm “biểu tƣợng” và các biểu tƣợng có trong ca dao cùng với ý nghĩa của các biểu tƣợng đó. Biểu tƣợng là hình ảnh cảm tính về hiện tƣợng khách quan thể hiện quan niệm thẩm mỹ, tƣ tƣởng của từng tác giả, từng thời đại, từng dân tộc, từng khu vực cƣ trú. Trong ca dao, ẩn dụ là thủ pháp nghệ thuật có khả năng tạo sinh các biểu tƣợng bởi các hình ảnh ẩn dụ lặp đi lặp lại nhiều lần sẽ mang ý nghĩa khái quát, ví dụ: trúc, mai, thuyền, bến, cò, vạc… Tuỳ cùng sử dụng các biểu tƣợng trên cơ sở hiện thực khách quan nhƣng ý nghĩa của nhiều biểu tƣợng trong ca dao không giống các biểu tƣợng trong thơ, đặc biệt là thơ trung đại, bởi sự chi phối của tƣ duy cộng đồng và cảm hứng dân gian. Chẳng hạn, với biểu tƣợng trúc, mai văn học trung đại thể hiện tính chất, phẩm cách ngƣời quân tử còn trong ca dao, nó là biểu tƣợng của tuổi trẻ, của tình yêu lứa đôi… “Hôm qua sum họp trúc mai Tình chung một khắc nghĩa dài trăm năm”. Nếu rùa, hạc trong văn học trung đại thƣờng để chỉ sự vững chãi, trƣờng tồn của vƣơng triều và sự cao quý, thanh tạo của các bậc hiền nhân quân tử thì trong ca dao lại là biểu tƣợng cho thân phận nhỏ bé đáng thƣơng của kiếp ngƣời: “Thƣơng thay thân phận con rùa Trên đình đội hạc dƣới chùa đội bia”. “Thƣơng thay hạc lánh đƣờng mây Chim bay mỏi cánh biết ngày nào thôi”. 25 Ngoài ra, ca dao còn sử dụng cùng một biểu tƣợng nhƣng mang nhiều ý nghĩa khác nhau trong mỗi hoaà cảnh cụ thể. Chẳng hạn nhƣ biểu tƣợng con cò, khi thì nó biểu tƣợng cho nỗi vất vả và lận đận của ngƣời lao động, thƣờng gắn với cách nói nhƣ thân cò: “Nƣớc non lận đận một mình Thân cò lên thác xuống ghềnh bấy nay”. “Con cò mà đi ăn đêm… Đậu phải cành mềm lộn cổ xuống ao…” Có khi con cò lại gắn với những oan ức không giải toả đƣợc: “Cái cò cái vạc cái nông Sao mày dẫm lúa nhà ông hỡi cò”. Có khi lại gắn với những vẻ đẹp bay bổng: “Con cò bay lả bay la…” Nhƣ vậy, việc sử dụng biểu tƣợng giúp biểu đạt hàm súc nội dung ca dao, vừa mang tính ƣớc lệ giống nhƣ đặc điểm thi pháp văn học trung đại vừa thân thuộc, gần gũi với tâm hồn nhân dân lao động. Vì đã trở thành những mô típ quen thuộc, thành những ký ức tƣ tƣởng thẩm mỹ dân gian, cho nên hễ nói lên một biểu tƣợng nào trong ca dao, ta có thể dễ dàng cảm nhận đƣợc. Tóm lại, hình thức biểu hiện trong văn bản ca dao trữ tình đã làm nổi bật nội dung biểu cảm của nó. Thực tế khi nhận diện văn bản ca dao theo phƣơng thức biểu cảm, ta phải đặt các yếu tố thuộc hình thức biểu hiện trên vào trong cấu trúc văn bản ca dao. Giữa các bản ca dao có sự khác nhau về mức độ sử dụng các yếu tố đó, do đó cần có cách khai thác, phân tích phù hợp. Do vậy, khi giảng dạy ca dao, ngƣời giáo viên phải nắm đƣợc các đặc điểm thi pháp riêng, từ đó tiếp cận văn bản ca dao, giúp học sinh chiếm lĩnh đƣợc những vẻ đẹp đặc thù - vẻ đẹp của văn bản biểu cảm dân gian. 26 1.1.2. Đổi mới phương pháp dạy - học ca dao * Cách tiếp cận ca dao Luận án tiến sỹ của Nguyễn Xuân Lạc “Quan điểm tiếp cận và phƣơng pháp dạy học ca dao ở PTTH” (1996). Ở chƣơng II, mục 2.2, đã trình bày khá rõ phƣơng pháp dạy học ca dao ở trƣờng PTTH nhƣ sau: a. Định hƣớng dạy học sinh tích hợp cả ba mặt nghệ thuật ngôn từ - bản sắc folklore - đặc trƣng thi pháp trong quá trình chiếm lĩnh một tác phẩm ca dao: + Cơ sở lý luận: Dạy học ca dao là dạy một loại hình nghệ thuật đặc thù: vừa là nghệ thuật ngôn từ nhƣ văn học viết, lại mang bản sắc chung của một sáng tác folklore với những nét riêng về thi pháp. Bất cứ một bài ca dao nào - dù chỉ gồm một cặp lục bát cũng là sự tổng hoà của ba mặt nói trên. Bởi vậy, trong quá trình hƣớng dẫn học sinh chiếm lĩnh một tác phẩm ca dao, phải đảm bảo sự thống nhất hài hoà giữa ba mặt nghệ thuật đó, không bỏ sót một mặt nào. + Cách thức tiến hành: Lƣu ý học sinh xác định mối quan hệ đúng đắn giữa ba mặt nghệ thuật của một tác phẩm ca dao khi tiếp cận. Trong ba mặt này thì nghệ thuật ngôn từ là cái bao quát chung (vì ca dao là nghệ thuật ngữ văn dân gian); sắc thái là folklore điều quan trọng phải lƣu ý (để phân biệt ca dao là sáng tác dân gian với những sáng tác của văn học viết); nhƣng yếu tố quyết định nhất vẫn là thi pháp ca dao, vì đây mới là căn cứ để tìm ra những vẻ đẹp đích thực và riêng biệt của ca dao. - Hƣớng học sinh tìm ra những điểm hội tụ ba mặt nghệ thuật ấy để tìm hiểu, phân tích, nhằm nêu lên vẻ đẹp bài ca dao và bộc lộ chủ đề của tác phẩm. Điểm hội tụ ấy thƣờng nằm trong những chi tiết quan trọng của tác phẩm. Giáo viên phải hƣớng dẫn học sinh lựa chọn đúng những chi tiết quan trọng để khai thác, phân tích, bằng cách gợi mở trí tƣởng tƣợng, óc liên tƣởng của học sinh để các em cảm nhận đƣợc các mặt nghệ thuật đó. 27 Tóm lại ca dao có ba mặt nghệ thuật, thì khi tiếp cận phải chú ý cả ba mặt nghệ thuật đó dƣới cái nhìn tích hợp, nhằm đảm bảo sự thống nhất hài hoà giữa ba mặt trong quá trình tiếp cận để chiếm lĩnh tốt bài ca dao. b. Hƣớng dẫn học sinh chiếm lĩnh từng bài ca dao trong hệ thống chuỗi của nó: + Cơ sở lý luận: Về đặc trƣng bản chất, ca dao cũng nhƣ các thể loại văn học dân gian khác, là loại tác phẩm chuỗi (vì văn học dân gian là sáng tác tập thể của ngƣời bình dân mang tƣ duy cộng đồng và cảm hứng dân gian). Vì vậy, khi dạy ca dao không thể chỉ dạy một cách cô lập trên văn bản ngôn từ, trên bản thân bài ca dao mà phải dạy ca dao trên quan điểm hệ thống, bằng phƣơng pháp hệ thống. Thực ra không chỉ trong nghiên cứu và giảng dạy ca dao mới dùng phƣơng pháp hệ thống mà phƣơng pháp hệ thống còn đƣợc dùng phổ biến trong nhiều ngành khoa học - đặc biệt là trong lĩnh vực văn hóa dân gian. Bất cứ một cá thể nào, khi đƣợc đặt vào hệ thống của nó thì sự hiện diện lại càng dễ hơn, rõ hơn, vì nó đƣợc cả hệ thống soi sáng, lý giải, và có thể điều chỉnh nhận thức của ngƣời đọc về chính cá thể đó. Do đó, cảm nhận ca dao cũng nhƣ phải cảm nhận trong hệ thống chuỗi của nó thì mới thấy đƣợc lời hay, ý đẹp, mới nhận ra cái màu sắc long lanh của từng hạt ngọc trong chuỗi hạt ngọc ca dao đó. Chính vì thế, phƣơng pháp hệ thống trở thành phƣơng pháp đặc trƣng trong việc nghiên cứu giảng dạy văn học dân gian nói chung và giảng dạy ca dao nói riêng ở trƣờng phổ thông. + Cách thức tiến hành: Khi dạy ca dao theo phƣơng pháp hệ thống, có nghĩa là đặt bài ca dao đó vào những hệ thống sau đây để phân tích, đánh giá: hệ thống dị bản, hệ thống mô típ và hệ thống văn hoá dân gian. 28 Chúng ta sẽ hƣớng dẫn học sinh tìm hiểu, tiếp cận, chiếm lĩnh bài ca dao theo các cấp độ tƣơng quan với các hệ thống đó: .Cấp độ tác phẩm - Hệ thống dị bản. Khi phân tích một bài ca dao, vấn đề đầu tiên là phải tìm ra đƣợc một hệ thống dị bản của bài ca dao, sau đó mới đối chiếu so sánh để định hƣớng thẩm mỹ và tiến hành khai thác, phân tích bài ca theo định hƣớng đó. Cả hai khâu này đều phải có sự hƣớng dẫn của giáo viên để học sinh có thể tự tìm hiểu và chiếm lĩnh bài ca dao theo phƣơng pháp hệ thống (khâu tìm hệ thống dị bản của bài ca dao có thể tiến hành ở nhà, đến lớp giáo viên bổ sung thêm). Điều quan trọng là phải hình thành cho học sinh một ý thức, một thói quen tiếp cận và chiếm lĩnh bài ca dao theo hệ thống dị bản của nó. Cấp độ tác phẩm - Hệ thống mô típ. Tƣ duy nghệ thuật dân gian đã tạo ra một hệ thống mô típ trong ca dao, điều này trong thơ văn học viết không có. Vì vậy phải đặt tác phẩm cần tiếp cận trong hệ thống mô típ thì mới thấy hết giá trị mỹ học và hàm lƣợng ngữ nghĩa của nó, từ đó hiểu đúng, hiểu sâu tác phẩm. Nếu tách nó ra khỏi hệ thống thì sẽ hiểu phiến diện, thậm chí còn sai lệch. Trong ca dao có nhiều mô típ trở thành quen thuộc với chúng ta nhƣ: cây đa, bến nƣớc, con thuyền, mái đình: mận, đào, trúc, mai, con cò, con bống… Có những mô típ xuất hiện với một số lƣợng lớn nhƣ mô típ “con thuyền”, mô típ “chiều chiều”. Khi giảng dạy, định chọn một chi tiết, một hình ảnh nào đó trong bài ca dao để phân tích, giáo viên cần hƣớng dẫn học sinh tìm ra hình ảnh ấy trong bài ca dao, rồi đặt hình ảnh vào hệ thống mô típ đó mà khảo sát, tìm hiểu. Bản thân hệ thống mô típ đó sẽ giúp các em hiểu đƣợc một cách dễ dàng hàm lƣợng ngữ nghĩa và ghía trị mỹ học của nó. - Cấp độ tác phẩm - Hệ thống văn hoá dân gian. 29 Văn hoá dân gian là một hệ thống lớn bao gồm nhiều thành tố gắn bó một cách nguyên hợp và hữu cơ với nhau, trong đó nổi lên ba thành tố chủ yếu là: ngữ văn dân gian, biểu diễn dân gian và tạo hình dân gian. Tiếp cận ca dao trong hệ thống văn hoá dân gian chính là đặt ca dao trong mối quan hệ với các thành tố đó để xem xét, bình giá. Nói cách khác, phƣơng pháp này đòi hỏi phải tiếp cận ca dao trong đời sống thực của nó là môi trƣờng sinh hoạt văn hoá dân gian, đặc biệt là môi trƣờng diễn xƣớng (chứ không phải chỉ tiếp cận trên văn bản), đây là những yếu tố nằm ngoài văn bản ca dao. Tóm lại, phƣơng pháp hệ thống là phƣơng pháp đặc trƣng trong tiếp cận cũng nhƣ giảng dạy ca dao. Giáo viên tổ chức, khơi gợi, hƣớng dẫn để học sinh tự tìm ra các hệ thống nói trên, rồi đặt bài ca dao vào các hệ thống đó mà tiếp cận và chiếm lĩnh nó. c. Hƣớng dẫn hoạt động kết hợp khai thác cả hai mặt văn bản ngôn từ và các yếu tố ngoài văn bản bài ca dao, chú ý tái hiện không khí đồng quê, khơi gợi tâm thức tiếp nhận folklore để các em chiếm lĩnh tốt tác phẩm. - Cơ sở lý luận: Ca dao là một tác phẩm folklore mang đặc trƣng nguyên hợp và các thuộc tính đa chức năng, đa yếu tố. Nó tồn tại trên đời sống thực của nó là môi trƣờng văn hoá dân gian chứ không tồn tại trên trang sách nhƣ văn học viết. Vì vậy không thể khai thác trên một mặt duy nhất là văn bản ngôn từ thực của văn học viết, mà phải khai thác cả những yếu tố nằm ngoài văn bản của bài ca dao. Những yếu tố này sẽ giúp ta soi sáng thêm văn bản ngôn từ và khám phá ra vẻ đẹp độc đáp folklore nằm trong văn bản đó. Có những bài ca dao có khi yếu tố ngoài văn bản lại là yếu tố quan trọng và quyết định để tìm ra vẻ đẹp đích thực của tác phẩm giúp ta hiểu đúng và hiểu sâu bài ca dao. Dạy ca dao là dạy một tác phẩm folklore, tức là phải dạy ca dao trong đời sống thực vốn có của nó trong đời sống dân gian chứ không phải dạy ca 30 dao trên “văn bản chết” trong sách giáo khoa. Vì vậy cái thế giới nghệ thuật của ca dao cổ truyền chỉ có thể thể hiện lên trên văn bản ngôn từ (thƣờng chỉ có vài câu) trong cái không khí của làng quê xƣa. Không khí làng quê xƣa vừa rất dân dã quen thân lại nên thơ trữ tình đã cho bài ca dao máu thịt của cuộc sống và cái hồn quê dân tộc đậm đà thiêng liêng, khiến cho ngôn ngữ văn tự sống dậy và có hồn, chứa đựng nhiều thông tin thẩm mỹ, nhiều tƣ tƣởng tình cảm sâu sắc. - Cách thức tiến hành: - Hướng dẫn học sinh kết hợp khai thác cả hai mặt văn bản ngôn từ và các yếu tố ngoài văn bản để chiếm lĩnh một tác phẩm ca dao. Không phải tất cả những gì nằm ngoài văn bản bài ca dao đều là “những yếu tố nằm ngoài văn bản” để chúng ta khai thác, mà chúng ta chỉ khai thác những yếu tố nằm ngoaà văn bản có liên quan và phù hợp nhất với văn bản bài ca dao, tức là những yếu tố có quan hệ biện chứng tƣơng hỗ thống nhất với văn bản ngôn từ của tác phẩm. Để tìm ra đƣợc những yếu tố nằm ngoài văn bản đắt nhất, có giá trị trong việc định hƣớng thẩm mỹ và khai thác bài ca dao, có thể tiến hành theo các bƣớc sau đây (ứng với các thao tác). - Thao tác lựa chọn để tìm ra được những yếu tố nằm ngoài văn bản có liên quan và phù hợp nhất với văn bản bài ca dao: + Đọc kỹ văn bản bài ca dao, phát hiện ra những chỗ còn ẩn ý, khó hiểu, hoặc có thể hiểu theo nhiều cách khác nhau. Từ những chỗ này mà định hƣớng để tìm ra những yếu tố ngoài văn bản có thể góp phần lý giải đƣợc những chỗ ẩn ý khó hiểu đó. + Tìm những yếu tố nằm ngoài văn bản bài ca dao và lựa chọn những yếu tố phù hợp nhất, có mối quan hệ biện chứng - tƣơng hỗ - thống nhất với văn bản bài ca dao (có thể là hệ thống dị bản, hệ thống các mô típ, các làn điệu dân ca, môi trƣờng, cách thức diễn xƣớng, ngƣời diễn xƣớng, phƣơng thức tồn tại, sự vận động trong đời sống dân gian, các chức năng sinh hoạt thực hành xã hội). 31 + Xác minh lại các yếu tố đó về mặt xuất xứ. - Thao tác kết hợp để định hướng thẩm mỹ và tiến hành khai thác, tìm hiểu bài ca dao theo định hướng đó: + Tìm hiểu sợi dây liên hệ bên trong giữa yếu tố nằm ngoài văn bản với văn bản ngôn từ bài ca dao. + Đối chiếu các yếu tố nằm ngoài văn bản với các chi tiết nghệ thuật trong văn bản ngôn từ để định hƣớng thẩm mỹ đối với bài ca dao. + Kết hợp một cách biện chứng, hài hoà giữa các yếu tố nằm ngoài văn bản với các yếu tố trong văn bản trong quá trình khai thác, tìm hiểu và chiếm lĩnh bài ca dao. - Tái hiện không khí đồng quê, khơi gợi tâm thức tiếp nhận folklore cho học sinh trong quá trình chiếm lĩnh một bài ca dao. Mỗi bài ca dao thƣờng có một khung cảnh, một sắc thái riêng biệt. Tái hiện không khí đồng quê tức là tái hiện không khí riêng biệt của bài ca dao ấy, cần đƣợc tiến hành nhƣ sau: + Giáo viên cung cấp cho học sinh những hiểu biết về thế giới làng quê xƣa trong ca dao cổ truyền về các mặt: phong cảnh, cách cảm, cách nghĩ, tâm lý, ngôn ngữ, phong tục tập quán… của ngƣời bình dân. + Để tái hiện không khí đồng quê, khơi gợi tâm thức folklore, giáo viên phải dùng ngôn ngữ miêu tả hết sức cô đọng, chọn lọc, có hình ảnh, mang màu sắc biểu cảm (có thể sử dụng các làn điệu dân ca, các phƣơng thức diễn xƣớng…) để dựng lại không khí ấy yêu cầu học sinh liên tƣởng, tƣởng tƣợng và dựng lại một cách sinh động nhƣ thật không khí đồng quê ấy để lôi cuốn các em vào thế giới của bài ca dao (thao tác này phải tiến hành vào đầu giờ học để tạo không khí và duy trì không khí ấy trong suốt giờ học). 32 + Ngoài giờ học giáo viên có thể tổ chức cho các em tham gia sinh hoạt hội hè dân gian, sinh hoạt văn hoá, văn nghệ dân gian nhƣ: nghe hát dân ca, dự các cuộc hát đối nam nữ, xem phim ảnh, băng hình về các làn điệu dân ca… để các em hiểu thêm về đời sống thực của ca dao. * Tiến trình giờ dạy ca dao Để hƣớng dẫn học sinh cách tiếp cận một bài ca dao, các nhà nghiên cứu văn học dân gian đã đƣa ra những mô hình hƣớng dẫn tiếp cận một bài ca dao nhƣ sau: a. PGS. Hoàng Tiến Tựu (trong công trình Mấy vấn đề phương pháp giảng dạy, nghiên cứu văn học dân gian, NXB Giáo dục, Hà Nội, 1983), đƣa ra tiến trình giờ dạy một bài ca dao gồm 9 bƣớc: Bước 1: Bài ca dao ra đời trong hoàn cảnh và trƣờng hợp nào? Bước 2: Bài ca dao đƣợc lƣu hành sớm nhất và nhiều nhất ở vùng nào? Bước 3: Bài ca dao thuộc thể loại nào? Bước 4: Chủ thể và nhân vật trữ tình của bài ca dao là gì? Hay bài ca dao là tiếng nói của ai? Ngƣời ấy nhƣ thế nào? Bước 5: Đối tƣợng trữ tình của bài ca dao là gì? Hay bài ca dao là lời trao đổi, bày tỏ với ai? Ngƣời ấy nhƣ thế nào? Bước 6: Nội dung của bài ca dao là gì? Hay bài ca dao nói về những điều gì? Bước 7: Chủ đề của bài ca dao là gì? Hay vấn đề chủ yếu của tác giả bài ca dao muốn nói gì? Bước 8: Hình thức nghệ thuật của bài ca dao nhƣ thế nào? Hay bài ca dao phô diễn tâm tƣ, tình cảm bằng những phƣơng pháp, phƣơng tiện và thủ thuật nhƣ thế nào? Bước 9: Bài ca dao còn có mối liên hệ gì đối với cuộc sống và tâm tƣ, tình cảm của nhân dân hiện nay và mai sau hay không? Mối liên hệ ấy nhƣ thế nào (nếu có)? [30; tr. 134 - 135]. 33 b. PGS. Đỗ Bình Trị (đã trình bày quá trình tiếp cận bài ca dao trong công trình Phân tích tác phẩm văn học dân gian, NXB Giáo dục, Hà Nội, 1995) gồm 7 bƣớc: Bước 1: Lƣu ý về tình hình tƣ liệu ca dao. Bước 2: Định hƣớng phân tích nội dung. Bước 3: Xác định chủ thể trữ tình. Bước 4: Đƣa bài ca dao vào hệ thống của nó. Bước 5: Tập trung khai thác “trung tâm sáng tạo” của bài ca. Bước 6: Kết hợp phân tích và khơi gợi. Bước 7: Tìm tòi nhiều hƣớng hiểu, xác định một hƣớng hiểu hợp tình hợp lý của bài ca dao. c. TS. Nguyễn Xuân Lạc (trong công trình Văn học dân gian Việt Nam trong nhà trường, NXB Giáo dục, Hà Nội, 1998) gồm 4 bƣớc: Bước 1: Hƣớng dẫn học sinh tìm hiểu những yếu tố nằm ngoài văn bản bài ca dao nhƣng lại giúp ích cho việc tìm hiểu bài ca dao. Bước 2: Định hƣớng thẩm mỹ, hƣớng dẫn học sinh tìm ra “trung tâm sáng tạo” hay là tứ của bài ca dao. Bước 3: Từ định hƣớng thẩm mỹ, hƣớng dẫn học sinh tiến hành phân tích bà._.3 Gợi dẫn 1: Về kết cấu, cách diễn dạt ở bài ca này có gì khác so với hai bài trên? 75 Yêu cầu: - Ở bài ca này không xác định rõ nhân vật trữ tình là ai. Tuỳ theo từng cách lý giải mà có thể cho đó là lời của chàng trai hay cô gái. Ở đây thống nhất cách gọi chung là nhân vật trữ tình. - Mô thức “trèo lên” (Trèo lên cây bƣởi hái hoa; Trèo lên cây gạo cao cao…) bộc lộ sự bối rối, quẩn quanh qua hành động. Gợi dẫn 2: Đại từ phiếm chỉ “ai” dùng để nói về đối tƣợng nào? Biện pháp nhân cách hoá đƣợc sử dụng nhƣ thế nào? Giá trị biểu đạt thẩm mỹ của nó? Em có nhận xét gì về hai câu đầu? Yêu cầu: Đại từ phiếm chỉ “ai” chỉ những thế lực đã ngăn cản và chia rẽ tình duyên của họ. - “Cây khế” trở thành đối tƣợng trữ tình để nhân vật trữ tình giãi bày, than thở chính là than thở với lòng mình. Khế chua - lòng ngƣời chua xót càng khiến cho lời than thêm da diết, não nề. - Hai câu đầu là nỗi than thở cho mối duyên tình lỡ dở của nhân vật trữ tình. Gợi dẫn 3: Hãy chỉ ra và phân tích nghệ thuật so sánh, ẩn dụ trong hai dòng 3, 4 để làm sáng tỏ tình nghĩa con ngƣời trong đó.( Hình ảnh thiên nhiên sóng đôi tƣợng trƣng cho ai?) Yêu cầu: Mặt trăng - mặt trời, sao Hôm - sao Mai tƣợng trƣng cho ngƣời con gái và ngƣời con trai trong tình yêu. + Chú ý điệp từ “sánh với” và từ láy “chằng chằng”. Nêu giá trị biểu cảm của chúng. 76 - “Sánh với”, “chằng chằng”, khẳng định dù phải xa cách nhƣng hai ta vẫn đẹp đôi, tƣơng xứng. Từ sự tƣơng xứng giữa các hình ảnh cho thầy tình cảm con ngƣời trƣớc sau nhƣ nhất, bền vững, thuỷ chung. Thiên nhiên vũ trụ là cái to lớn, vĩnh hằng thể hiện sự lớn lao, sâu nặng trong tình cảm đồng thời biểu hiện, khẳng định sự thuỷ chung. → Mặt trời lặn, mặt trăng mọc, ánh sáng mặt trời phản chiếu vào mặt trăng, sao Hôm và sao Mai vốn chỉ là một. Ở đây, tác giả dân gian đã lấy hình ảnh thiên nhiên vĩnh cửu vô tận, tƣơng xứng trong vũ trụ, dẫu có đối lập về thời gian xuất hiện nhƣng chúng luôn tựa bên nhau, vĩnh hằng cùng nhau. Gợi dẫn 4: Câu hỏi tu từ trong câu 5 có ý nghĩa gì? Hình ảnh trong câu 6 có gì độc đáo? Yêu cầu: + Thực chất, đó là tiếng gọi “mình ơi” tha thiết, khẳng định tình cảm nhớ thƣơng, son sắt của nhân vật trữ tình. + Hình ảnh sao Vƣợt: sự cô đơn, vô vọng trong đợi chờ. → Nỗi nhớ không kìm nén đƣợc đã tuôn trào một cách tự nhiên: hỏi mình có nhớ ta là khẳng định ta luôn nhớ mình, khẳng định tình yêu chung thuỷ của ta dẫu duyên không thành. Sao Vƣợt, sao Hôm, sao Mai chỉ là một. Hành động “chờ trăng” thể hiện sự mòn mỏi, khắc khoải, đau xót vì lỡ duyên tình nhƣng cũng rất chung tình. Đây là một hình ảnh đẹp, giàu chất thơ, mang vẻ đẹp tình nghĩa con ngƣời. Gợi dẫn 5: Em cảm nhận đƣợc điều gì qua bài ca dao này? Yêu cầu: Sự ấm áp tình đời, tình ngƣời lan toả từ niềm tin yêu vào sự thuỷ chung son sắt của tình yêu đôi lứa. 77 Bài 4 Gợi dẫn 1: Dễ nhận thấy nhân vật trữ tình trong bài ca dao này là cô gái. Em hình dung nhƣ thế nào về tâm trạng của cô? Yêu cầu: Nhân vật trữ tình trong bài ca dao này là một cô gái. Cô ta đang yêu và đang sống trong tình cảnh xa cách ngƣời yêu và đây là tâm trạng thƣơng nhớ ngƣời yêu và nỗi lo lắng, băn khoăn của cô. Gợi dẫn 2: Thƣơng nhớ vốn là tình cảm khó hình dung, nhất là trong tình yêu. Vậy mà ở đây tình cảm đó đƣợc thể hiện rất sinh động, tinh tế, cụ thể mang tính nghệ thuật của ca dao. Em hãy chỉ ra và phân tích (Lối nói bằng hình ảnh biểu tƣợng thể hiện nhƣ thế nào? Ý nghĩa?) Yêu cầu: + Hình ảnh “khăn”: vật trao duyên, vật kỷ niệm, gợi nhớ “ngƣời đàng xa”, là vật quấn quýt bên ngƣời con gái, cùng chia sẻ nỗi niềm thƣơng nhớ. + Điệp khúc: Nỗi nhớ thƣơng triền miên, da diết. Mỗi lần hỏi là một lần trào dâng khôn nguôi. Gợi dẫn 3: Trạng thái vận động của “khăn” và “đèn” diễn tả điều gì? Yêu cầu: + Trạng thái vận động trái chiều của “khăn”: tâm trạng ngổn ngang, trăm mối tơ vò. Chiếc khăn xuất hiện trong không gian đa chiều, bộc lộ sự bồn chồn, thƣơng nhớ đến rơi nƣớc mắt của cô gái. + Thanh điệu chủ yếu: thanh bằng → Nỗi nhớ thƣơng bâng khuâng, da diết đầy nữ tính. Gợi dẫn 4: Sự chuyển biến từ hình ảnh “khăn” sang “đèn” thể hiện điều gì? 78 Yêu cầu: Chuyển từ “khăn” sang “đèn” chính là sự luân chuyển từ không gian sang thời gian, cùng là sự chuyển biến thời gian từ “ngày” sang “đêm”. Hình ảnh “đèn không tắt”: con ngƣời trằn trọc thâu đêm với nỗi nhớ thƣơng đằng đẵng. Gợi dẫn 5: Cuối cùng là “đôi mắt” của chính cô gái: nếu nhƣ những câu hỏi dồn dập bên trên là hỏi “khăn”, hỏi “đèn” thể hiện qua biện pháp ẩn dụ, nhân hoá, thì “mắt” là hình ảnh hoán dụ, gần nhất về cô gái. Từ đó, cho thấy tâm trạng cô gái có sự chuyển biến nhƣ thế nào? Yêu cầu: Dƣờng nhƣ đến đây, cô gái không còn kìm giữ đƣợc tiếng lòng thổn thức của mình nữa mà nỗi nhớ đƣợc trào dâng theo sự bộc lộ tự nhiên trong thao thức trằn trọc: “mắt thƣơng nhớ ai, mắt ngủ không yên”. → Giữa “đèn không tắt” và “mắt ngủ không yên” có sự hợp lý nhất quán và tự nhiên. Mắt ngủ yên sao đƣợc khi trong tâm trí, hình ảnh ngƣời thƣơng cứ hiện ra. Do đó mà thao thức, trằn trọc, mà “đèn không tắt”. Nhƣ vậy nỗi nhớ đƣợc nói đến liên tiếp, dồn dập trong 10 câu thơ bốn chữ. Cô gái chỉ hỏi mà không có lời đáp. Thực ra lời đáp nằm trong điệp khúc “thƣơng nhớ ai”. Tất cả bắt nguồn từ tình yêu chân thành, tha thiết của cô gái dành cho tràng trai… Gợi dẫn 6: Hai câu cuối có gì khác lại so với 10 dòng đầu? Vì sao cô gái lại phải lo lắng cho số phận của mình, cho duyên phận đôi lứa “không yêu một bề” trong khi tình cảm nhớ thƣơng vẫn da diết, cháy bỏng? Yêu cầu: Chuyển biến đột ngột từ thể vãn sang thể lục bát kéo dài nhƣ tháo bỏ những dồn nén, tức tƣởi. Chính thể lục bát làm cho lời ca dao gần với những nỗi niềm của những cô gái trong ca dao than thân. Cô lo lắng vì hạnh phúc lứa đôi thƣờng bấp bênh, bị ngăn trở, vì tình yêu tha thiết không dẫn đến hôn nhân. Vì thế tạo nên nỗi lo sợ mênh mông. 79 * Chỉ với 10 dòng ngắn gọn, một cặp lục bát cuối bài, các thủ pháp nghệ thuật cùng các câu hỏi tu từ dồn dập đã diễn đạt thật tài tình nỗi nhớ thƣơng bồn chồn lo lắng đến da diết khôn nguôi của cô gái. Gợi dẫn 7: Sau khi học song bài ca dao này, cảm nhận của em về hình ảnh cô gái trong xã hội xƣa? Yêu cầu: Đó là vẻ đẹp tâm hồn của ngƣời con gái Việt Nam: khao khát yêu thƣơng và đƣợc yêu thƣơng, tình cảm chân thành đằm thắm trong tình yêu. Bài 5 Gợi dẫn 1: Cái hay của bài ca dao này là ở đâu? + Đây là lời của ai nói với ai? Điều đƣợc nói đến là điều gì? Nói nhƣ thế nào? Yêu cầu: Đây là lời của cô gái thầm nói với ngƣời yêu của mình bằng cách thổ lộ ƣớc muốn. Gợi dẫn 2: Ƣớc muốn của cô gái đƣợc biểu hiện độc đáo nhƣ thế nào? (đặt trong hệ thống những câu ca dao cùng mô típ, “ƣớc gì” thể hiện điều gì; đặt trong những bài ca dao cùng nói về “cây cầu” - tình yêu thì “cầu dải yếm” có gì đặc biệt?). Yêu cầu: Những bài ca dao mở đầu bằng “ƣớc gì” (Ƣớc gì em hoá ra dƣa…; Ƣớc gì anh hoá ra hoa) → ƣớc muốn cháy bỏng của đôi lứa yêu nhau là đƣợc ở bên nhau. + Mô típ cây cầu: (cầu cành hồng, cầu mồng tơi…) → cầu dải yếm đặc biệt hơn bởi vì nó không phải là cái bên ngoài đi mƣợn mà là vật thân thiết gần gũi nhất của cô gái. Nó thể hiện sự táo bạo nhƣng cũng rất trữ tình, ý nhị, kín đáo của cô gái. Cô chủ động bắc cây cầu trong sự ràng buộc khắt khe của lễ giáo phong kiến, điều đó càng thể hiện tình yêu chân thành đằm thắm của cô. 80 Gợi dẫn 3: Bài ca dao có dị bản “ƣớc gì sông rộng một gang”. Cách nói khác nhau có khiến cho mục đích biểu đạt của bài ca dao thay đổi không? Tại sao? Yêu cầu: “Rộng”, “hẹp” chỉ là cách nói: khoảng cách con sông không hề thay đổi bởi đã có hình ảnh xác định đằng sau (một gang). Đó chỉ là cái cớ để cô gái bộc lộ khát vọng yêu đƣơng của mình. → Đó là khát vọng yêu đƣơng cháy bỏng và chân thành của con ngƣời trong tuổi yêu. Khi yêu khi say con ngƣời thƣờng thoát li những điều kiện thƣự tế và suy nghĩ một cách tự do, bay bổng theo khát vọng trái tim. “Cầu dải yếm” trở thành cái cầu tình yêu đẹp nhất trong ca dao, chỉ có tƣ duy nghệ thuật dân gian mới sáng tạo ra một cái cầu nhƣ thế, vừa gần gũi thân quen vừa táo bạo mà trữ tình, đằm thắm đầy nữ tính. Trong hệ thống hình ảnh, cái cầu trong ca dao là kết tinh đẹp đẽ nhất, tâm hồn của ngƣời lao động đƣợc hình tƣợng hoá trong việc biểu hiện tình yêu. Bài 6 Gợi dẫn 1: Bài ca dao sử dụng hình ảnh nào để biểu đạt nội dung tình cảm? Yêu cầu: + Hình ảnh “muối mặn”, “gừng cay” thể hiện tình nghĩa thuỷ chung của ngƣời bình dân. + Xuất phát từ thực tế “muối”, “gừng” là những gia vị, cùng là những vị thuốc dùng trong lúc ốm đau, gợi lên tình cảm yêu thƣơng giữa con ngƣời với con ngƣời trong cuộc sống. 81 + Biểu tƣợng “gừng cay”, “muối mặn” chủ yếu dùng để nói về tình cảm vợ chồng thắm thiết tình nghĩa, sâu đậm thuỷ chung, mới trải qua những ngày đồng cam cộng khổ vui buồn trong hạnh phúc gia đình. Gợi dẫn 2: Em cảm nhận nhƣ thế nào về cách nói “ba vạn sáu nghìn ngày mới xa”? Yêu cầu: Cách nói về thời gian: Chỉ thời gian một trăm năm - một đời ngƣời, chỉ có cái chết mới chia lìa đƣợc hai ngƣời. → Tình cảm sâu nặng, thắm thiết, thuỷ chung, luôn bền vững của vợ chồng trƣớc thử thách của thời gian, cuộc đời. Câu hát kéo dài 13 tiếng thể hiện rõ điều đó. III. Tổng kết 1. Giá trị nội dung Gợi dẫn 1: Qua chùm bài ca dao than thân, yêu thƣơng tình nghĩa em thấy và hiểu gì về đời sống tâm hồn, tình cảm và vẻ đẹp của ngƣời lao động xƣa? Yêu cầu: + Đời sống tâm tồn phong phú với nhiều cung bậc tinh cảm, cảm xúc chua xót, đắng cay, lo lắng, nhớ thƣơng… + Vẻ đẹp tâm hồn của ngƣời lao động xƣa giàu tình yêu thƣơng, khát khao hạnh phúc, thuỷ chung. 2. Giá trị nghệ thuật. Gợi dẫn 2: Em hãy khái quát lại các cách thức biểu đạt mà các bài ca dao sử dụng? Yêu cầu: + Hình ảnh biểu tƣợng: cầu, khăn, ngọn đèn, gừng cay muối mặn. + Hình ảnh so sánh, ẩn dụ: tấm lụa, củ ấu… 82 + Hình thức lặp lại: những công thức mở đầu, những mô típ gần gũi thân em, trèo lên, ƣớc gì… + Thể lục bát: thể hỗn hợp, nhịp điệu biến hoá linh hoạt. 3. Củng cố - Mục đích biểu cảm trong các bài ca dao: sự phong phú về các trạng thái cung bậc tình cảm. - Cách thức biểu cảm theo các hình ảnh, biểu tƣợng ngôn ngữ, thể thơ. 4. Luyện tập - Học thuộc các bài ca dao. - Ra bài tập ứng dụng: từ mô típ “thân em”, “trèo lên”, “ƣớc gì” em hãy tìm từ ba đến năm bài ca dao cùng mô típ và phân tích sắc thái tình cảm đƣợc bộc lộ trong mỗi bài. Ca dao hài hước I. Mục tiêu bài học Giúp học sinh: - Cảm nhận đƣợc tiếng cƣời lạc quan trong ca dao qua nghệ thuật trào lộng thông minh, hóm hỉnh của ngƣời bình dân vƣợt lên trên cuộc sống nhọc nhằn và thiệt thòi của họ. - Tiếp tục rèn luyện kỹ năng tiếp cận và phân tích ca dao qua tiếng cƣời của ca dao hài hƣớc. - Trân trọng lối sống lạc quan yêu đời của ngƣời lao động thông qua tiếng cƣời của họ đƣợc biểu hiện một cách nghệ thuật trong ca dao. II. Tiến trình dạy học 1. Ổn định tổ chức lớp, kiểm tra bài cũ 2. Giới thiệu bài mới 83 Việc 1: Đọc và tìm hiểu cấu trúc bài ca Hƣớng dẫn HS đọc chùm ca dao hài hƣớc. Gợi dẫn: Trong bốn bài ca dao chúng ta đƣợc học, những bài nào là tiếng cƣời giải trí, tự trào, những bài nào là tiếng cƣời phê phán, chế giễu? Yêu cầu: Bài 1: Tiếng cƣời giải trí, tự trào. Cho học sinh đọc theo lối đối đáp, giọng đọc tƣơi vui, dí dỏm mang âm hƣởng đùa cợt… Bài 2, 3, 4: Tiếng cƣời phê phán, chế giễu. Đọc với giọng vui tƣơi có pha ý giễu cợt. Việc 2: Đọc - hiểu nội dung văn bản Bài 1 HS đọc - GV giúp giải nghĩa những từ khó. Bài ca dao là lời dẫn cƣới của chàng trai và lời thách cƣới của cô gái: Gợi dẫn 1: Việc dẫn cƣới và thách cƣới ở đây có gì khác thƣờng? Yêu cầu: Cái khác thƣờng trƣớc hết ở “lễ vật” của việc dẫn cƣới và thách cƣới. - Lễ vật trong lời dẫn cƣới của chàng trai là: “thú bốn chân”, tƣởng sang trọng, linh đình dẫn voi, trâu, bò hoá ra chỉ là con “chuột béo” mời cả dân, cả làng. - Lễ vật trong lời thách cƣới của nhà cô gái củng chả phải là tiền bạc hay các lễ vật sang trọng mà chỉ đơn giản là “một nhà khoai lang”. Gợi dẫn 2: Cách nói của chàng trai và cô gái có gì đặc biệt, nhất là cô gái? Yêu cầu: - Cƣới là việc hệ trọng trong đời ngƣời, không thể có chuyện đùa cợt. Thế mà lời dẫn cƣới của chàng trai và lời thách cƣới của cô gái từ đầu đến 84 cuối toàn là những lời đùa vui, cứ nhƣ thể họ là những ngƣời quyết định tất cả, có sao cũng đƣợc. Chàng trai thì khoa trƣơng, phóng đại, dí dỏm: trong khi cô gái thì vô tƣ, hồn nhiên, thanh thản đến lạ thƣờng. - Đáng chú ý ở đây là lời thách cƣới của cô gái. Cƣới là việc hệ trọng trong đời ngƣời con gái, vậy mà chỉ có thách “một nhà khoai lang”. Cũng chẳng cần phải là khoai to, khoai ngon, mà là khoai gì cũng đƣợc kể cả “củ rím”, “củ hà” em cũng đón nhận. Điều đó cho thấy cô gái đã thấu hiểu cảnh ngộ của hai gia đình. Cô gái không chỉ cảm thông với chàng trai mà bằng lòng với cảnh nghèo của hai ngƣời. Gợi dẫn 3: Qua lời đối đáp của chàng trai và cô gái ta thấy cuộc sống của ngƣời dân lao động xƣa nhƣ thế nào? Yêu cầu: Cuộc sống của ngƣời dân lao động xƣa rất nghèo, nhƣng trong cái nghèo ấy họ vẫn cất lên tiếng cƣời đùa vui, hóm hỉnh. Nhất là trong đám cƣới - một đám cƣới nghèo mà vẫn vui, vẫn có thể đùa cợt… Gợi dẫn 4: Trong bài ca dao này, ngƣời dân lao động đã cƣời ai? Cƣời điều gì? Chọn thời điểm nào để cƣời? Yêu cầu: Ngƣời dân lao động xƣa tự cƣời mình trong cảnh nghèo. Chọn đúng việc cƣới xin là lúc để bộc lộ rõ nhất cái nghèo để cƣời, để vui. Vì ngày mai mà không đƣợc vui thì rất bất hạnh nên họ chuyển cái buồn vì nghèo khó thành niềm vui trào lộng không những để quên cái tình cảnh nghèo mà còn biểu lộ thái độ xem trọng và đề cao tình nghĩa hơn là vật chất. Gợi dẫn 5: Đằng sau tiếng cƣời ấy, ta thấy đƣợc điều gì về phẩm chất, bản lĩnh, vẻ đẹp tâm hồn và triết lý sống của ngƣời dân lao động xƣa? 85 Yêu cầu: - Thể hiện ở lòng yêu đời và tinh thần lạc quan. Bởi yêu đời thì mới tự cƣời mình trong cảnh nghèo. - Họ đã vƣợt lên cảnh nghèo để sống một cách lạc quan. Qua đó ta thấy đƣợc vẻ đẹp tâm hồn của họ: ham sống, sống vui tƣơi, hồn nhiên, chân thành, trong sáng. Họ sống vui, lạc quan, yêu đời trong cảnh nghèo khó của mình theo triết lý sống của ngƣời Việt Nam “an bần lạc đạo”. Gợi dẫn 6: Tác giả dân gian đã sử dụng những thủ pháp nghệ thuật nào để thể hiện tiếng cƣời? Yêu cầu: - Lối nói khoa trƣơng, phóng đại: dẫn voi, dẫn trâu, dẫn bò. - Lối nói giảm dần: . Voi - trâu - bò - chuột (tràng trai) . Củ to - củ mẻ - củ rim, củ hà (cô gái) - Cách nói đối lập: . Dẫn voi/ sợ quốc cấm. . Dẫn trâu/ sợ họ (nhà gái) máu hàn. . Dẫn bò/ sợ họ (nhà gái) co gân. . Lợn gà / khoai lang. - Chi tiết hài hƣớc: . “Dẫn con chuột béo mời dân, mời làng”. . “Nhà em thách cƣới một nhà khoai lang”. Có thể liên tƣởng đến chi tiết “Đám cƣới chuột đang tƣng bừng rộn rã”, và tranh Đông Hồ thuộc văn hoá dân gian. 86 Bài 2, 3, 4 HS đọc lại 3 bài ca dao Gợi dẫn 1: Tiếng cƣời trong ba bài ca dao này có gì khác so với tiếng cƣời Bài 1? Yêu cầu: Nếu nhƣ tiếng cƣời ở bài 1 là tiếng cƣời chính bản thân mình, tự trào về cái nghèo của mình, thì tiếng cƣời ở ba bài này là tiếng cƣời châm biếm, chế giễu, phê phán những thói hƣ tật xấu. Gợi dẫn 2 : Tác giả dân gian cƣời những loại ngƣời nào trong xã hội, nhằm mục đích gì với thái độ ra sao? Yêu cầu: Tác giả đã cƣời vào từng đối tƣợng cụ thể: * Bài 2, 3 chế giễu loại đàn ông yếu đuối, lƣời nhác không có chí lớn trong xã hội. * Bài 4 châm biếm những ngƣời phụ nữ luộm thuộm, vô duyên, hay ăn quà vặt và không ý tứ với mình với ngƣời khác. Tiếng cƣời trào lộng châm biếm nhẹ nhàng toát lên từ hình ảnh ngƣời chồng đứng ra bênh che, nguỵ biện cho cái dở, cái xấu của vợ mình. Chẳng biết những lời ấy là thật lòng hay lại mỉa mai thêm? Phải chăng đó cũng là thái độ chấp nhận bao dung độ lƣợng của ngƣời chồng vì đã trót “yêu” (chồng yêu…). Tiếng cƣời nhằm mục đích phê phán trong nội bộ nhân dân nhằm nhắc nhở nhau tránh những thói hƣ tật xấu mà con ngƣời thƣờng mắc phải. Thái độ của tác giả dân gian ở đây nhẹ nhàng, thân tình, mang tính giáo dục không vì thế mà kém phần sâu sắc. 87 Gợi dẫn 3: Hãy chỉ ra điều đáng phê phán, chế giễu trong từng bài? Nét riêng trong nghệ thuật trào lộng của từng bài ca dao là gì? Yêu cầu: Bài 2 - Phê phán loại đàn ông yếu đuối, không có sức trai, không đáng làm trai. - Nghệ thuật trào lộng ở đây là nói mỉa mai và phóng đại, làm cho sự đối lập ý ở câu 1 và câu 2 càng nổi bật, tạo nên một tiếng cƣời vui thoải mái. Làm trai cho đáng sức trai, Khom lƣng chống gối, gánh hai hạt vừng. Sức trai của anh chàng này là “gánh hai hạt vừng” trên vai mà vẫn phải gắng hết mình, phải “khom lƣng chống gối” mới có thể đứng dậy và đi từng bƣớc. Hình ảnh “khom lƣng chống gối” thật là hài hƣớc. Nghệ thuật tăng tiến: gánh hai hạt vừng mà đã phải “khom lƣng chống gối” thì quả là quá yếu quá lƣời biếng nên sinh ra cơ sự ấy. Tiếng cƣời thoát ra từ chỗ ý nhị kín đáo trong hình thức nghệ thuật này. Bài 3 - Là tiếng cƣời châm biếm loại đàn ông lƣời biếng trong xã hội. - Nghệ thuật trào lộng ở bài này là dùng sự so sánh bằng hình ảnh đối lập, hài hƣớc: Chồng ngƣời đi ngƣợc về xuôi Chồng em ngồi bếp sờ đuôi con mèo. Tác giả dân gian so sánh giữa “chồng ngƣời” và “chồng em”, giữa một đằng thì chỉ ngồi ở xó bếp “sờ đuôi con mèo”, một sự lƣời biếng điển hình không chịu làm lụng, xoay xở để kiếm sống. 88 Bài 4 - Là tiếng cƣời châm biếm đối với những ngƣời đàn bà vừa xấu xí vừa lƣời biếng, lại còn hay ăn quà và bẩn thỉu. - Nghệ thuật trào lộng độc đáo ở bài này là để cho nhân vật trữ tình tự khoe về những nết xấu của mình; đồng thời còn có cả những biện pháp nghệ thuật quen thuộc của ca dao: cƣờng điệu, phóng đại sự việc để châm biếm, hài hƣớc: “Lỗ mũi mƣời tám gánh lông”, “Đêm nằm thì gáy o o”… và lối nói mỉa mai, hài hƣớc: “râu rồng trời cho”, “gáy cho vui nhà”, “Về nhà đỡ cơm”, “hoa thơm rắc đầu”. Nhìn chung các tác giả dân gian châm biếm, phê phán với thái độ vui vẻ, nhẹ nhàng chứ không mỉa mai sâu cay, gay gắt. Gợi dẫn 4: Qua tìm hiểu những bài ca dao trên, các em có thể thấy đƣợc những nét đặc sắc nào của nghệ thuật trào lộng qua các bài ca dao trên? Yêu cầu: Tiếng cƣời trào lộng, châm biếm trong các bài ca dao trên đã đƣợc tại nên bởi những biện pháp nghệ thuật: nói quá, cách nói tƣơng phản, ngoa dụ, giả định, chơi chữ, nói ngƣợc, so sánh… Các biện pháp nghệ thuật nói trên kết hợp chặt chẽ với nhau tạo nên cách nói, giọng nói mỉa mai dí dỏm, nhẹ nhàng nhƣng ý nghĩa châm biếm lại sâu sắc. II. Củng cố Gợi dẫn: Chùm ca dao hài hƣớc đã để lại trong em ấn tƣợng nhƣ thế nào về ngƣời bình dân xƣa? Yêu cầu: Những bài ca dao hài hƣớc đã đem đến cho ta một ấn tƣợng sâu sắc về những ngƣời bình dân xƣa. Mặc dù cuộc sống còn nhiều vất vả, lo toan, nhƣng họ luôn lạc quan, yêu đời và có một triết lý sống lành mạnh. Họ coò là những ngƣời dân quê thông minh, hóm hỉnh, lại rất có tài trào lộng để giải trí, để tự cƣời mình và châm biếm, phê phán những thói hƣ tật xấu trong xã hội. 89 3.5. Đánh giá thiết kế thể nghiệm Thiết kế thể nghiệm có những điểm khác so với thiết kế giảng văn truyền thống song vẫn tập trung khai thác giá trị nội dung, nghệ thuật, ít nhiều tôn trọng khích lệ nhu cầu tự giải phóng tiềm năng tích cực của học sinh, mở ra một hƣớng dạy học tích hợp nhằm phát huy tính chủ động, tích cực sáng tạo của học sinh trong giờ học, đồng thời lƣợng kiến thức đƣa vào trong bài sẽ phong phú, đa dạng hơn. Hệ thống câu hỏi trong thiết kế thể nghiệm chú ý đến nhóm câu hỏi nêu vấn đề, tạo ra không khí dân chủ, cởi mở, gần gũi giữa giáo viên và học sinh. Tuy nhiên thiết kế thể nghiệm đòi hỏi nhiều sự nỗ lực tích cực của giáo viên và học sinh. Giáo viên thiết kế sẽ vất vả hơn bởi phải kết hợp các đơn vị kiến thức cũng nhƣ hệ thống câu hỏi trong giờ học đa dạng phong phú hơn, phải kích hoạt đƣợc học sinh trong suốt quá trình từ khâu chuẩn bị bài đến khi tìm hiểu bài học ở trên lớp và khi về nhà theo quan điểm tích hợp dạy học Ngữ văn. Để thăm dò khả năng nhận thức của học sinh qua các giờ dạy thể nghiệm, chúng tôi cho học sinh làm bài kiểm tra 15’ với câu hỏi nhƣ sau: (?) Qua việc tìm hiểu các bài ca dao, nhất là bài 1, 2, 3 trong chùm “Ca dao than thân, yêu thƣơng tình nghĩa”, em hãy rút ra cách thức, phƣơng pháp tiếp cận một bài ca dao? KÕt qu¶ Líp Tr¶ lêi ®óng, ®Çy ®ñ (%) Tr¶ lêi cßn thiÕu (%) Tr¶ lêi s¬ sµi ch•a ®óng (%) 10A7 14/45 27/45 4/45 10A9 16/49 26/49 7/49 Kết quả trên còn khiêm tốn song đối với chúng tôi rất đáng khích lệ bởi không khí lớp học thực sự hào hứng, sôi nổi, ít nhiều thể hiện đƣợc ý tƣởng, mục đích của thiết kế. 90 Phần kết luận 1. Nghiên cứu ca dao và đổi mới phƣơng pháp dạy học ca dao theo hƣớng tích hợp, tích cực không chỉ đơn thuần là tìm cách dạy sao cho có chất lƣợng và học sao cho có hiệu quả văn học dân gian ở trƣờng THPT mà còn có ý nghĩa lâu dài. Ca dao, theo quan niệm của chúng tôi là phần tinh tuý nhất, phổ cập và gần gũi nhất của văn học dân gian trong đời sống cộng đồng ngƣời Việt. Trong di sản văn học dân gian còn lại, tâm hồn Việt Nam đƣợc kết tinh thành những viên ngọc tuyệt đẹp vô giá trong ca dao so với những thể loại khác nhƣ tục ngữ, truyện cổ tích, truyện cƣời… Những viên ngọc ấy trở thành giá trị tinh thần bền vững trong niềm yêu đời lạc quan, trong tiếng cƣời thâm thuý hồn hậu trong lời ca yêu thƣơng tình nghĩa của nhân dân lao động. Nhƣng vì ca dao là tiếng lòng của nhân dân lao động dƣới chế độ phong kiến nên không tránh khỏi những nỗi buồn tủi xót xa trong than thân trách phận và chứa đựng những nỗi căm ghét cái xấu xa độc ác của xã hội cũ trong thái độ châm biếm, đả kích, trào lộng, hài hƣớc của thể loại văn học này. Cả hai nôi dung yêu thƣơng tình nghĩa và trào lộng hài hƣớc là nét đẹp chủ đạo trong tâm hồn yêu đời, yêu ngƣời đầy tính nhân văn của dân tộc Việt Nam. Ca dao có khả năng bồi đắp cho tâm hồn thế hệ trẻ ngày nay những đạo lí truyền thống của dân tộc để các em sống tốt hơn trong cuộc sống hiện tại. 2. Ca dao rất hay, rất đẹp nhƣng lại khó tiếp nhận đầy đủ, sâu sắc đƣợc những ý tƣởng thẩm mỹ sâu xa của nó. Cái khó thứ nhất là chất thơ trữ tình dân gian lắng đọng trong ca dao cũng tinh tế, hàm súc, đa nghĩa và giàu xúc cảm nhƣ lời thơ nói chung. Dạy học ca dao là tìm cách tiếp cận, phân tích, bình giá một loại thơ đích thực mà không có phong cách cá nhân tác giả, nó đƣợc trau chuốt, hoàn thiện thêm với 91 thời gian và tài năng sáng tạo của ngƣời bình dân. Vì thế dạy học ca dao cần đến sự am hiểu sâu sắc cách cảm nghĩ, cách phô diễn, bộc lộ “tiếng lòng” của lớp ngƣời lao khổ. Ca dao có vẻ đẹp lung linh của cuộc sống bình dị mà thanh cao, của nỗi niềm lo nghĩ hàng ngày và những ƣớc mong xa thẳm. Ca dao là hiện thân của tâm hồn ngƣời bình dân mộc mạc chân chất vừa tinh tế, lãng mạn. Cái khó thứ hai là dạy học ca dao là dạy học một loại tác phẩm văn học cực ngắn, cần phải xâu chuỗi, liên kết chúng lại trong một nhóm loại, một chùm ca dao có cùng cấu trúc nhƣ nhau về nội dung và hình thức. Vì thế rất dễ dàng trùng lặp về nội dung, phƣơng pháp và rất khó phân tích rõ ràng vẻ đẹp riêng từng bài. Nhƣ vậy ngƣời giáo viên phải nghĩ đến việc dùng phƣơng pháp khái quát hoá nội dung bài ca và cụ thể hoá nghệ thuật của hình thức phô diễn, biểu lô tâm tình của một nhóm hoặc một chùm thậm chí một bài ca dao nào đó. Phƣơng pháp so sánh, đối chiếu văn bản của ca dao bằng việc hƣớng dẫn học sinh đọc, phân tích, lý giải, bình luận, phát triển ý kiến riêng trên cơ sở khích lệ, bồi dƣỡng đƣợc tình yêu đối với ca dao, khơi gợi đƣợc sự phát hiện, óc sáng tạo năng động tích cực hoạt động học tập của họ cần đƣợc vận dụng tốt thì hiệu quả dạy học ca dao mới đáp ứng đƣợc yêu cầu, mục tiêu ngày càng cao của môn Ngữ văn. Ngoài ra giáo viên có thể vận dụng những phƣơng pháp khác nhau nhƣ luận văn đã trình bày ở những chƣơng trƣớc. 3. Luận văn đã cố gắng xuất phát từ thi pháp lục bát ca dao một thể thơ thuần Việt có khả năng dung chứa chất thơ dân gian và chất thơ cổ điển hài hoà, rực rỡ để thay đổi cách dạy, cách học phần ca dao ở lớp 10 THPT bởi vì đó là cách tiếp cận có triển vọng nhất khi dạy học tác phẩm văn chƣơng theo đặc trƣng nghệ thuật của nó. 92 Chúng tôi đã không quên chỉ ra những hạn chế của lối tiếp cận thi pháp và nhấn mạnh tính chất nguyên hợp, tính diễn xƣớng trong môi trƣờng văn hoá dân gian để từ một bài ca cụ thể đặt nó trong mối quan hệ với cả chuỗi, nhóm bài ca khác nhau và trong một hệ thống những yếu tố cấu trúc ổn định về hình thức nghệ thuật nhƣ những mô típ cốt lõi trong quá trình dạy học ca dao. 4. Luận văn đã thận trọng tiếp thu cơ sở lý thuyết và thực tiễn dạy học ca dao theo định hƣớng tích hợp, tích cực trong chƣơng trình và SGK Ngữ văn 10. Ngƣời viết đã chọn lọc, tổng hợp chúng lại kết hợp với những suy nghĩ riêng và đề xuất cách tổ chức dạy học, thiết kế bài dạy thể nghiệm cụ thể để đƣa ra những kết luận xác thực về tính đúng đắn của sự triển khai đề tài cũng nhƣ tính khả thi của thiết kế thể nghiệm. 5. Đây đó trong luận văn vẫn còn những khiếm khuyết do điều kiện thời gian, do hoàn cảnh riêng và do trình độ nghiên cứu, ngƣời viết mới chỉ trình bày những suy nghĩ gốc mà chƣa kịp phát triển sâu rộng vấn đề. Ngƣời viết đã tuân thủ cấu trúc đề cƣơng, trình bày và phát triển đơn giản, thuận chiều các nội dung phục vụ đề tài mà chƣa tính hết đƣợc tình huống phát sinh và những sai lệch mà bản thân chƣa thể kiểm soát đƣợc hết. Hoàn thành luận văn với tất cả sự cố gắng, nỗ lực của mình, chúng tôi hy vọng đã góp đƣợc phần nào đó vào việc khẳng định hƣớng đi và nội dung ngày càng đổi mới có chất lƣợng trong dạy học ca dao ở lớp 10 theo hƣớng tích hợp và tích cực dựa trên nền tảng của sự tiếp cận, phân tích, lý giải, bình giá ca dao với đặc trƣng thi pháp thể loại của nó. Luận văn chắc chắn chƣa hết những thiếu sót không thể tránh khỏi đối với một ngƣời chƣa qua kinh nghiệm giảng dạy nhiều, chƣa tích luỹ đƣợc kinh nghiệm phong phú và chƣa có trình độ khoa học vững vàng trong nghiên cứu. Tác giả rất mong nhận đƣợc sự bổ khuyết và đóng góp ý kiến bổ ích quý báu của các thầy cô và đồng nghiệp bạn bè. Xin trân trọng cảm ơn. 93 Tài liệu tham khảo 1. Hoàng Hữu Bội (2006), Thiết kế dạy học Ngữ văn 10, NXB Giáo dục. 2. Hoàng Hữu Bội - Nguyễn Huy Quát (2001), Một số vấn đề về phương pháp học văn trong nhà trường, NXB Giáo dục. 3. Nguyễn Viết Chữ - Phương pháp dạy học tác phẩm văn chương (theo thể loại) - NXB ĐHSP, 2005. 4. Mai Ngọc Chừ, Ngôn ngữ ca dao Việt Nam - tạp chí văn học số 2 - 1991 trang 24 - 28. 5. Chu Xuân Diên, Văn học dân gian những công trình nghiên cứu, NXB Giáo dục. 6. Trần Thanh Đạm (chủ biên, 1971), Vấn đề giảng dạy tác phẩm văn chương theo loại thể, NXB Giáo dục. 7. Phạm Văn Đồng, Dạy văn là một quá trình rèn luyện toàn diện, Tạp chí nghiên cứu giáo dục, số 28, tháng 11 - 2002. 8. Nguyễn Trọng Hoàn - Nguyễn Khắc Đàm (2006), Giới thiệu giáo án Ngữ văn 10 (Chƣơng trình chuẩn - tập 1), NXB Hà Nội. 9. Nguyễn Trọng Hoàn (2002), Tích hợp và liên hội hướng tới kết nối trong dạy học Ngữ văn, Tạp chí Giáo dục, số 22, tr21 - 22. 10. Nguyễn Thanh Hùng (2000), Hiểu văn-dạy văn, NXB Giáo dục. 11. Nguyễn Thanh Hùng (2002), Đọc và tiếp nhận văn chương, NXB Giáo dục. 12. Nguyễn Thanh Hùng (2006), Tích hợp trong dạy học Ngữ văn, Tạp chí Nghiên cứu khoa học giáo dục, số 6, tháng 3, tr 9 - 13. 13. Nguyễn Xuân Kính - Thi pháp ca dao, NXB ĐHQG, Hà Nội, 2006. 94 14. Đinh Gia Khánh (1997), Văn học dân gian Việt Nam, NXB Giáo dục. 15. Nguyễn Xuân Lạc, Quan điểm tiếp cận và phương pháp dạy học ca dao ở trường THPT - Luận án phó tiến si, 1996. 16. Nguyễn Xuân Lạc (1998), Văn học dân gian Việt Nam trong nhà trường, NXB Giáo dục. 17. Phan Trọng Luận (1985), Cảm thụ văn học, giảng dạy văn học, NXB Giáo dục. 18. Phan Trọng Luận (1998), Phương pháp dạy Văn, NXB ĐHQG Hà Nội. 19. Phan Trọng Luận (1999), Thiết kế bài học tác phẩm văn chương trong nhà trường phổ thông, tập 1, NXB Giáo dục. 20. Phan Trọng Luận (chủ biên) Ngữ văn 10 (bộ cơ bản), NXB Gáo dục, 2006. 21. Phan Trọng Luận (chủ biên), SGV Ngữ văn 10 (bộ cơ bản), NXB Giáo dục, 2006. 22. Phan Trọng Luận (chủ biên), Tài liệu bồi dưỡng giáo viên - Bộ Giáo dục và đào tạo Hà Nội, 2006. 23. Phan Trọng Luận (2006) Chủ biên, Thiết kế bài học Ngữ văn 10, NXB Giáo dục. 24. Nguyễn Huy Quát (2001), Đề cƣơng chi tiết môn phƣơng pháp dạy - học văn, khoa Ngữ văn trƣờng Đại học Sƣ phạm - Đại học Thái Nguyên. 25. Nguyễn Huy Quát (2004), Chuyên đề: Một số vấn đề đổi mới nội dung, phƣơng pháp giảng dạy văn học dân gian ở trƣờng THPT (tài liệu bồi dƣỡng thƣờng xuyên cho giáo viên THPT chu kỳ III 2004 - 2007). 95 26. Đỗ Ngọc Thống (2002), Đổi mới việc dạy và học môn Ngữ văn ở THCS, BXB Giáo dục. 27. Đỗ Bình Trị (1999), Những đặc điểm thi pháp của các thể loại văn học dân gian, NXB Giáo dục. 28. Đỗ Bình Trị, Phân tích tác phẩm văn học dân gian - NXB Giáo dục Hà Nội. 29. Hoàng Tiến Tựu (1995), Giáo trình Văn học dân gian Việt Nam, NXB Giáo dục. 30. Hoàng Tiến Tựu (1993), Mấy vấn đề phương pháp giảng dạy, nghiên cứu văn học dân gian, NXB Giáo dục. 31. Vũ Anh Tuấn - Nguyễn Xuân Lạc (1993), Giảng văn văn học dân gian Việt Nam, NXB Giáo dục. 32. Viện ngôn ngữ học - Trung tâm từ điển (2004), Từ điển Tiếng Việt, NXB Đà Nẵng. 33. Bộ Giáo dục và đào tạo (2002), Dự thảo chương trình môn Ngữ văn THPT, Hà Nội. 34. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2002), Chương trình THCS môn Ngữ văn, NXB Giáo dục. ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfLA9067.pdf
Tài liệu liên quan