Đẩy mạnh hoạt động nhập khẩu vật tư máy móc thiết bị ngành giao thông vận tải tại chi nhánh Công ty XNK và hợp tác đầu tư giao thông vận tải HN

Mục lục Lời nói đầu 3 Lời cam đoan 4 Chương I: Tổng quan về nhập khẩu hàng hoá trong nền kinh tế thị trường 5 I. Nhập khẩu và vai trò của nhập khẩu hàng hoá trong nền kinh tế thị trường 5 1. Khái quát về nhập khẩu 5 2. Vai trò của nhập khẩu và các hình thức nhập khẩu hàng hoá trong nền kinh tế thị trường 6 II. Nội dung cơ bản của hoạt động nhập khẩu 13 1. Nghiên cứu thị trường 14 2. Lựa chọn phương thức giao dịch đàm phán nhập khẩu 16 3. Ký kết hợp đồng nhập khẩu 19 4.

doc71 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1161 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Đẩy mạnh hoạt động nhập khẩu vật tư máy móc thiết bị ngành giao thông vận tải tại chi nhánh Công ty XNK và hợp tác đầu tư giao thông vận tải HN, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tổ chức thực hiện hợp đồng 21 III. những nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động nhập khẩu hàng hoá nói chung và nhập khẩu thiết bị của chi nhánh tracimexco Hà Nội 26 1. Chế độ chính sách của Nhà nước về xuất nhập khẩu 26 2. ảnh hưởng của sự biến động thị trường trong nước và thị trường nước ngoài 27 3. Giá cả và chất lượng hàng hoá 27 4. ảnh hưởng của hệ thống tài chính ngân hàng 28 5. ảnh hưởng của nhân tố con người 28 Chương II: Thực trạng hoạt động nhập khẩu vật tư máy móc thiết bị ngành giao thông vận tải tại chi nhánh công ty xuất nhập khẩu và hợp tác đầu tư giao thông vận tải Hà Nội 30 I. Khái quát về chi nhánh công ty xuất nhập khẩu và hợp tác đầu tư giao thông vận tải Hà Nội 30 1. Sự hình thành và phát triển 30 2. Chức năng nhiệm vụ và những lĩnh vực hoạt động chủ yếu của chi nhánh 32 3. Cơ cấu tổ chức của bộ máy kinh doanh 33 4. Đặc điểm hoạt động kinh doanh của chi nhánh 36 II. Thực trạng hoạt động nhập khẩu của chi nhánh công ty xuất nhập khẩu và hợp tác đầu tư giao thông 38 1. Hoạt động nhập khẩu tại chi nhánh 38 2. Kết quả hoạt động nk của chi nhánh trong thời gian qua 44 3. ảnh hưởng của hoạt động nhập khẩu đến công tác đáp ứng nhu cầu vật tư máy móc thiết bị của ngành 48 III. Đánh giá hoạt động nhập khẩu của chi nhánh trong thời gian qua 50 1. Đánh giá chung về hoạt động nhập khẩu của chi nhánh 50 2. Một số vấn đề vướng mắc còn tồn tại của chi nhánh 51 Chương III: Các biện pháp đẩy mạnh hoạt động nhập khẩu vật tư, máy móc thiết bị ngành giao thông vận tải của chi nhánh Tracimexco Hà Nội 54 I. Phương hướng phát triển hoạt động nhập khẩu vật tư máy móc thiết bị ngành giao thông vận tải trong thời gian tới 54 1. Chiến lược phát triển nhập khẩu vật tư máy móc thiết bị ngành giao thông vận tải 54 2. Mục tiêu kinh doanh của chi nhánh trong thời gian tới 56 II. Những biện pháp đẩy mạnh nhập khẩu vật tư máy móc thiết bị ngành giao thông vận tải tại chi nhánh Tracimexco Hà Nội 57 1. Những biện pháp của chi nhánh 57 2. Những giải pháp bên ngoài có sự tác động đến hoạt động nhập khẩu của chi nhánh 63 III. Một số điều kiện để thực hiện giải pháp đẩy mạnh nhập khẩu và quản lý nhập khẩu 66 1.Về thủ tục hành chính 66 2. Hoàn thiện hệ thống luật pháp 67 3. Cải cách hệ thống thuế nhập khẩu 68 Kết luận 70 Tài liệu tham khảo 71 LờI nóI đầu Trong tình hình thế giới hiện nay, dưới sự tác động của các xu hướng toàn cầu hoá, nền kinh tế thế giới luôn chứa trong nó sự bùng nổ, các hoạt động kinh doanh quốc tế ngày càng trở nên đa dạng và phong phú, trong kinh doanh quốc tế thì nhập khẩu đóng một vai trò rất quan trọng, nó có ý nghĩa quyết định tới sự phát triển của nền kinh tế một quốc gIa. Hoà nhịp với nền kinh tế thế giới, nền kinh tế Việt nam đang từng bước chuyển mình trong cơ chế thị trường có sự điều tiết của Nhà nước. Trong cơ chế thị trường đòi hỏi các doanh ngiệp nhập khẩu trong cả nước phải phát huy thế mạnh tiềm năng sẵn có, nắm bắt xu thế trào lưu kinh tế thế giới để kinh doanh hiệu quả hơn nữa. Với mục đích góp một phần nhỏ vào công cuộc xây dựng đất nước và hoàn thiện hoạt động kinh doanh của chi nhánh Tracimexco Hà nội, em đã chọn đề tài “ Đẩy mạnh hoạt động nhập khẩu vật tư thiết bị ngành giao thông vận tải tại chi nhánh công ty xuất nhập khẩu và hơp tác đầu tư giao thông vận tải Hà nội Nội dung chuyên đề gồm ba phần. Phần I: Tổng quan về nhập khẩu hàng hoá trong nền kinh tế thị trường. Phần II: Thực trạng hoạt động nhập khẩu vật tư máy móc thiết bị ngành giao thông vận tải tại chi nhánh Công ty xuất nhập khẩu và hợp tác đầu tư giao thông vận tải Hà nội. Phần III: Các biện pháp đẩy mạnh hoạt động nhập khẩu vật tư máy móc thiết bị ngành giao thông vận tải tại chi nhánh Công ty xuất nhập khẩu và hợp tác đầu tư giao thông vận tải Hà nội. Em xin chân thành cảm ơn GS.TS Đặng Đình Đào, Ths Nguyễn Minh Sơn cùng các anh chị trong chi nhánh đã giúp em hoàn thiện chuyên đề tốt nghiệp này Lời cam đoan Trong suốt thời gian thực tập, tìm kiếm tư liệu ,tham khảo ý kiến thầy giáo hướng dẫn, thu thập báo cáo của cơ quan . Tôi đã nỗ lựcvà cố gắng phân tích và đưa ra những nội dung cần thiết yêu cầu của chuyên đề tốt nghiệp cử nhân kinh tế bằng chính nỗ lực cá nhân của mình .Tôi xin cam đoan những lời trên đây là sự thật nếu có vấn đề gì không trung thực tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm trước khoa và nhà trường . Chương I : tổng quan về nhập khẩu hàng hoá trong nền kInh tế thị trường I. Nhập khẩu và vaI trò của nhập khẩu hàng hoá trong nền kInh tế thị trường 1.Khái quát về nhập khẩu Nhập khẩu là một trong những hoạt động quan trọng, cơ bản nhất của thương mại quốc tế, là một mặt không thể tách rời khỏi nghiệp vụ thương mại quốc tế. Hoạt động nhập khẩu là quá trình trao đổi hàng hóa và dịch vụ giữa các doanh nghiệp và cá nhân có quốc tịch khác nhau trên nguyên tắc ngang giá, lấy tiền tệ làm môi giới để đưa lại lợi ích cho các bên. Cụ thể, nó là hoạt động mua hàng hoá, dịch vụ từ các tổ chức kinh tế, các công ty nước ngoài để phục vụ nhu cầu trong nước hoặc để tái xuất khẩu nhằm thu được lợi nhuận. Như vậy, nhập khẩu góp phần nối liền sản xuất với tiêu thụ giữa các quốc gia, nó thể hiện sự gắn bó, phụ thuộc lẫn nhau giữa các nền kinh tế trên thế giới. Đối với nền kinh tế Việt Nam, chúng ta đều biết rằng, trước đây, trong cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, mọi hoạt động kinh tế của đất nước đều dựa trên các kế hoạch cứng nhắc đã được thiết lập sẵn, quan hệ bạn hàng, đối tác chủ yếu dựa trên mối quan hệ sẵn có với các nước xã hội chủ nghĩa anh em, hoạt động sản xuất kinh doanh nói chung cũng như hoạt động xuất nhập khẩu của các doanh nghiệp nói riêng cuối cùng chỉ nhằm để thực hiện các chỉ tiêu mà Nhà nước phân bổ. Các doanh nghiệp xuất nhập khẩu của chúng ta được Nhà nước lo cho đầu vào đồng thời bao tiêu đầu ra cho nên tính chủ động, năng động, sáng tạo trong việc tìm kiếm thị trường, mặt hàng, nâng cao năng lực cạnh tranh là rất thấp. Tuy nhiên, từ khi nước ta chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường có sự điều tiết vĩ mô của Nhà nước, các doanh nghiệp Việt Nam đã không ngừng đổi mới và tự hoàn thiện, tính khắc nghiệt của nền kinh tế thị trường với quy luật đào thải đã bắt buộc các doanh nghiệp phải tự vận động, sáng tạo để có thể tồn tại và phát triển. Cơ chế thị trường đã đem lại không ít cơ hội cho các doanh nghiệp nói chung và các doanh nghiệp hoạt động xuất nhập khẩu nói riêng nhưng cũng gây ra những khó khăn, cản trở do tính mở cửa của nó, các doanh nghiệp phải cạnh tranh bình đẳng với nhau để tự khẳng định mình, không những thế còn phải cạnh tranh gay gắt với các Công ty nước ngoài. Chính điều này đã tạo cho các doanh nghiệp khả năng nhạy bén năng động, bám sát nhu cầu thị trường, tận dụng cơ hội thị trường. Cùng với sự phát triển của quan hệ ngoại giao với các nước trong khu vực và trên thế giới, quan hệ thương mại Quốc tế của Việt nam ngày càng phát triển. Để có thể hoàn thành mục tiêu của Đảng và Nhà nước ta đề ra là đến năm 2020, nước ta về cơ bản sẽ trở thành một nước công nghiệp tiên tiến bậc trung so với thế giới, một trong những nhiệm vụ chính mà các doanh nghiệp phải làm hiện nay là phát triển thị trường trong nước và mở rộng ra thị trường nước ngoài. Trong đó, tăng cường nhập khẩu máy móc, thiết bị, công nghệ hiện đại để học hỏi, ứng dụng và phát triển khoa học kỹ thuật từ những quốc gia đi trước nhằm tiến hành công nghiệp hoá và hiện đại hoá là bước đi đúng hướng và cấp thiết của nước ta hiện nay. Đó là những công nghệ mà các nước phát triển đã phát minh và đưa vào ứng dụng thành công, chúng ta không phải mất thời gian và tiền của để đầu tư nghiên cứu từ đầu mà chỉ việc nhập khẩu các hàng hóa đó về ứng dụng các thành tựu của nó. 2, Vai trò của nhập khẩu và các hình thức nhập khẩu hàng hoá trong nền kinh tế thị trường. a, Vai trò của nhập khẩu hàng hoá trong nền kinh tế thị trường Ngày nay, chúng ta đều biết rằng, một khi toàn cầu hoá nền kinh tế đã trở thành một trong những xu hướng vận động nổi bật và phổ biến của nền kinh tế thế giới thì đòi hỏi có tính cấp bách đối với mọi quốc gia là phải nhanh chóng hội nhập vào nền kinh tế thế giới. Nhận thức được vấn đề này, trong quá trình phát triển của mình các quốc gia đã nỗ lực tham gia vào các tổ chức kinh tế và thương mại quốc tế và nhập khẩu với tư cách là một trong hai hoạt động cơ bản của thương mại quốc tế đóng vai trò vô cùng quan trọng đối với sự phát triển kinh tế của các quốc gia. Nó tác động trực tiếp và quyết định đến sản xuất và đời sống, nhập khẩu giúp tăng cường cơ sở vật chất, công nghệ tiên tiến, hiện đại cho sản xuất, nhập khẩu còn để thay thế, nghĩa là nhập khẩu những mặt hàng mà sản xuất trong nước không có lợi bằng nhập khẩu. Việt Nam cũng không nằm ngoài điều đó, nhất là trong công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá hiện nay thì việc nhập khẩu thiết bị máy móc hiện đại có ý nghĩa cực kỳ quan trọng. Nó là giải pháp khôn ngoan, là con đường ngắn nhất và hiệu quả nhất nhằm rút ngắn khoảng cách giữa nước ta và các nước trong khu vực cũng như trên thế giới. Đối với Việt Nam hiện nay, nhập khẩu máy móc thiết bị còn có vai trò: - Nhập khẩu là cầu nối của hoạt động chuyển giao công nghệ, thúc đẩy quá trình xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật, tạo ra sự phát triển vượt bậc của xã hội, chuyển dịch cơ cấu kinh tế của đất nước theo hướng đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá. - Thông qua việc nhập khẩu máy móc thiết bị hiện đại, trình độ lực lượng sản xuất, năng suất lao động và chất lượng sản phẩm không ngừng được nâng cao. Việc nhập khẩu trang thiết bị, máy móc tiên tiến trên thế giới thúc đẩy tính sáng tạo của người lao động trong việc ứng dụng công nghệ mới hiện đại, từng bước làm chủ những công nghệ đó. - Bổ sung kịp thời những mặt mất cân đối của nền kinh tế, đảm bảo một sự phát triển cân đối, ổn định, khai thác tối đa tiềm năng và khả năng của nền kinh tế. Cụ thể, nhập khẩu góp phần bù đắp những thiếu hụt về cầu do sản xuất trong nước chưa đáp ứng được, nó mở rộng khả năng tiêu dùng của một nước, cho phép tiêu dùng một lượng hàng hoá nhiều hơn khả năng sản xuất trong nước do đó mà làm tăng mức sống của nhân dân. Không những thế, nhập khẩu còn tạo ra những nhu cầu mới cho xã hội, tạo nên sự đa dạng, phong phú về chủng loại, mẫu mã, chất lượng cho thị trường. - Nhập khẩu giúp cho quốc gia khai thác được lợi thế so sánh của mình, khai thác được tính lợi thế về quy mô khi tham gia vào thương mại quốc tế. Không chỉ tạo thêm nguồn hàng trong nước, nhập khẩu còn tạo thêm nguồn nguyên liệu đầu vào phục vụ cho sản xuất trong nước. Nhờ đó nó góp phần thúc đẩy sự phát triển của nền sản xuất xã hội, tiết kiệm được chi phí và thời gian cũng như tạo ra sự đồng đều về trình độ phát triển kinh tế, xã hội, góp phần xóa bỏ tình trạng độc quyền trong sản xuất và kinh doanh trong nước, phát huy nhân tố mới trong sản xuất nhằm tạo điều kiện cho các tổ chức kinh tế có cơ hội tham gia cạnh tranh lành mạnh trên thị trường quốc tế. - Tích cực thúc đẩy xuất khẩu, góp phần nâng cao chất lượng hàng hóa xuất khẩu. Sự tác động này thể hiện ở chỗ nhập khẩu tạo điều kiện đầu vào cho sản xuất hàng hoá xuất khẩu, tạo môi trường thuận lợi cho xuất khẩu hàng hoá Việt Nam ra nước ngoài. - Nhập khẩu tạo ra năng lực mới trong sản xuất, giảI quyết công ăn việc làm cho người lao động, không ngừng cải thiện và nâng cao đời sống xã hội, hạn chế các tệ nạn xã hội, tạo thu nhập ổn định phát triển kinh tế xã hội. - Cùng với xuất khẩu tạo ra sự liên kết kinh tế chặt chẽ giữa sản xuất và tiêu dùng trong nước với nền kinh tế thế giới, tạo điều kiện cho phân công lao động quốc tế phát triển. Điều đó có ý nghĩa lớn trong bối cảnh quốc tế hóa diễn ra mạnh mẽ ngày nay. Nó mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế giữa các nền kinh tế. Với vai trò như vậy, nhập khẩu trong mối quan hệ với các hoạt động khác của nền kinh tế đã chứng tỏ tính ưu việt của nó đối với sự phát triển của các quốc gia, tuy nhiên việc vận dụng cụ thể phải tuỳ thuộc vào điều kiện cụ thể của từng quốc gia trong từng thời kỳ nhất định. Đối với VIệt nam, thực tế cho thấy, do có đường lối phát triển đúng đắn, có các chính sách kinh tế phù hợp đặc biệt là chính sách về xuất nhập khẩu mà chất lượng cuộc sống không ngừng được nâng cao, mọi người không cần phải đợi xếp hàng để có thể mua được những thứ cần thiết, cuộc sống mới đem lại cho mọi người điều kiện tự do mua sắm đa dạng chủng loại hàng hoá dịch vụ mà mình mong muốn với những phương thức phù hợp, thuận tiện nhất. Nền sản xuất của quốc gia cũng vậy, từng bước ổn định, không ngừng được nâng cao và đi vào hiện đại, môI trường kinh doanh trở nên hấp dẫn với các nhà đầu tư khó tính nước ngoài. Tuy nhiên, trong điều kiện Việt nam hiện nay, để nhập khẩu có thể thực sự trở thành công cụ hữu hiệu đối với sự phát triển bền vững của quốc gia cần phải đảm bảo những yêu cầu sau: Nhập khẩu phải vừa đảm bảo phù hợp với lợi ích của xã hội vừa tạo ra lợi nhuận cho doanh nghiệp, lợi ích chung và riêng phải hài hoà với nhau. - Phải đảm bảo tiết kiệm và hiệu quả trong việc sử dụng vốn nhập khẩu. Trong điều kiện chuyển sang cơ chế thị trường, nhu cầu nhập khẩu để công nghiệp hoá, hiện đại hoá lớn, vốn để nhập khẩu lại hạn hẹp thì tiết kiệm và hiệu quả là vấn đề rất cơ bản của quốc gia cũng như của doanh nghiệp, điều đó đòi hỏi các cơ quan quản lý cũng như mỗi doanh nghiệp phải có sự cân nhắc kỹ lưỡng, nhập khẩu phù hợp với kế hoạch phát triển kinh tế-xã hộI, khoa học kỹ thuật của đất nước và nhu cầu tiêu dùng của nhân dân. Trước hết phải ưu tiên nhập khẩu kỹ thuật-công nghệ tiên tiến và hiện đại phù hợp với điều kiện nước ta, giành ngoại tệ cho nhập khẩu vật tư để phục vụ sản xuất trong nước xét thấy có lợi hơn nhập khẩu, nghiên cứu thị trường để nhập khẩu được hàng hoá thích hợp, với giá cả có lợi phục vụ cho sản xuất và nâng cao đời sống nhân dân. Rõ ràng, nếu nhập khẩu đạt hiệu quả, công nghệ kỹ thuật phát huy hết tác dụng của nó sẽ có tác động tích cực thúc đẩy sản xuất trong nước, thúc đẩy xuất khẩu, góp phần ổn định cán cân thanh toán quốc gia và ngược lại khi hiệu quả này không được đảm bảo sẽ gây ra sự mất cân bằng trong cán cân thanh toán, hiệu quả sản xuất giảm, gây lãng phí cho ngân sách quốc gia. - Nhập khẩu phải phù hợp với điều kiện của mỗi doanh nghiệp, chính sách Nhà nước khuyến khích các doanh nghiệp nhập khẩu máy móc thiết bị với công nghệ hiện đại nhất nhằm đi tắt đón đầu và tiếp cận với khoa học kỹ thuật tiên tiến của thế giới nhưng bất cứ lúc nào cũng cần có sự chọn lựa cân nhắc trong hoàn cảnh, điều kiện riêng của doanh nghiệp (về khả năng tài chính, đặc điểm hoạt động kinh doanh...). Nhập khẩu phải luôn đảm bảo tính hiệu quả kinh tế. Chúng ta biết rằng, trong điều kiện khoa học công nghệ phát triển nhanh chóng như ngày nay, vòng đời của mỗi sản phẩm công nghệ có xu hướng rút ngắn lại. Bởi vậy, một sáng chế công nghệ rất nhanh chóng sẽ trở thành lỗi thời, lạc hậu. Điều này đòi hỏi các doanh nghiệp phải có sự phân tích, đánh giá cẩn trọng trước mỗi quyết định nhập khẩu, tránh nhập phải những công nghệ lạc hậu mà các nước khác đã thải ra. Tuy nhiên, cũng cần tránh trường hợp nhập khẩu máy móc thiết bị công nghệ quá hiện đại không phù hợp với trình độ của người lao động trong nước. - Nhập khẩu phải đảm bảo bảo vệ và thúc đẩy sản xuất trong nước, tăng nhanh xuất khẩu. Nền sản xuất hiện đại của nhiều nước trên thế giới tạo ra một số lượng lớn hàng hoá và những nguyên nhiên liệu dư thừa. Trong hoàn cảnh đó, việc nhập khẩu đạt hiệu quả hơn là tự sản xuất trong nước. Trong điều kiện các ngành công nghiệp còn non kém của Việt Nam, giá hàng nhập khẩu thường rẻ hơn và phẩm chất tốt hơn. Nhưng nếu chỉ nhập mà không chú ý tới sản xuất thì sẽ bóp chết sản xuất trong nước. Vì vậy, cần tính toán và tranh thủ các lợi thế của nước ta trong từng thời kỳ để bảo hộ và mở mang sản xuất trong nước vừa đáp ứng nhu cầu tiêu dùng nội địa vừa tạo ra nguồn hàng xuất khẩu mở rộng thị trường ngoài nước. b, Các hình thức nhập khẩu chủ yếu tại Việt nam. * Nhập khẩu uỷ thác Nhập khẩu ủy thác là hoạt động hình thành giữa một doanh nghiệp trong nước có vốn ngoạ tệ riêng và có nhu cầu muốn nhập khẩu một số loại hàng hoá nhưng lại không có quyền tham gia các hoạt động nhập khẩu trực tiếp đã uỷ thác cho một doanh nghiệp khác làm nhiệm vụ giao dịch trực tiếp và tiến hành nhập khẩu hàng hoá theo yêu cầu của mình. Bên nhận uỷ thác phải tiến hành đàm phán với đối tác nước ngoài và làm thủ tục nhập khẩu hàng hoá theo yêu cầu của bên uỷ thác. Bên nhận uỷ thác sẽ được hưởng một phần thù lao gọi là phí uỷ thác. - Về đặc điểm của hình thức nhập khẩu uỷ thác Thứ nhất, doanh nghiệp kinh doanh nhập khẩu nhận uỷ thác sẽ không phải bỏ vốn, không phải xin hạn ngạch, không cần quan tâm tới thị trường tiêu thụ cho hàng hoá mà chỉ đại diện cho bên uỷ thác tiến hành giao dịch, đàm phán, ký hợp đồng, làm thủ tục nhập hàng cũng như thay mặt bên uỷ thác khiếu nại đòi bồi thường với đối tác nước ngoài khi có tổn thất. Thứ hai, hình thức này giúp cho doanh nghiệp nhận uỷ thác không mất nhiều chi phí, độ rủi ro thấp nhưng lợi nhuận thu từ hoạt động này không cao. Khi tiến hành nhập khẩu uỷ thác, doanh nghiệp nhận uỷ thác sẽ chỉ tính kim ngạch xuất nhập khẩu chứ không tính vào doanh số. Thứ ba, khi tiến hành nhập khẩu uỷ thác, doanh nghiệp kinh doanh nhập khẩu nhận uỷ thác sẽ phải lập hai hợp đồng: một hợp đồng nhập khẩu ký vớI đối tác nước ngoài, một hợp đồng nhận uỷ thác ký với bên uỷ thác trong nước. * Nhập khẩu trực tiếp Nhập khẩu trực tiếp là hoạt động nhập khẩu độc lập của một doanh nghiệp kinh doanh nhập khẩu trên cơ sở nghiên cứu kỹ thị trường trong nước và quốc tế, tính toán chính xác các chi phí, đảm bảo hiệu quả kinh doanh nhập khẩu, tuân thủ đúng chính sách luật pháp quốc gia và quốc tế. Trong hình thức này, doanh nghiệp kinh doanh nhập khẩu phải trực tiếp tiến hành các hoạt động tìm kiếm đối tác, đàm phán ký kết hợp đồng... và phải bỏ vốn để tổ chức kinh doanh hàng nhập khẩu. - Về đặc điểm của hình thức nhập khẩu trực tiếp Thứ nhất, các doanh nghiệp kinh doanh nghiệp nhập khẩu phải hoàn toàn chịu trách nhiệm đối với các hoạt động của mình. Để nhập khẩu trực tiếp, doanh nghiệp phải tự mình bỏ vốn kinh doanh, chịu mọi chi phí giao dịch, nghiên cứu thị trường, giao nhận, lưu kho, tiêu thụ hàng hoá, nộp thuế... Chính vì vậy, các doanh nghiệp cần thận trọng xem xét và cân nhắc cẩn thận trước khi tiến hành các hoạt động kinh doanh. Thứ hai, độ rủi ro của hoạt động nhập khẩu trực tiếp cao hơn với hình thức nhập khẩu uỷ thác nhưng có thể đạt được lợi nhuận cao hơn. Thứ ba, khi tiến hành nhập khẩu trực tiếp, doanh nghiệp chỉ lập một hợp đồng với bên nước ngoài, còn hợp đồng bán hàng trong nước sẽ lập sau khi hàng về. * Nhập khẩu liên doanh Nhập khẩu liên doanh là hoạt động kinh doanh nhập khẩu hàng hóa trên cơ sở liên kết kinh tế một cách tự nguyện giữa các doanh nghiệp trong đó có ít nhất một bên là doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu trực tiếp nhằm phối hợp kỹ năng để cùng giao dịch và đề ra các chủ trương, biện pháp có liên quan đến hoạt động kinh doanh nhập khẩu, hướng hoạt động này sao cho có lợI nhất cho cả hai bên cùng cha lợi nhuận và cùng chịu lỗ. - Về đặc điểm của hình thức nhập khẩu liên doanh Một là, so với hình thức nhập khẩu trực tiếp thì doanh nghiệp sẽ bớt độ rủi ro vì mỗi doanh nghiệp tham gia nhập khẩu chỉ phải góp một phần vốn nhất định, quyền hạn và trách nhiệm mỗi bên tỷ lệ theo số vốn góp. Việc phân chia chi phí, nộp thuế, hay chia lợi nhuận, chịu lỗ cũng theo tỷ lệ vốn góp được thoả thuận. Hai là, trong liên doanh, doanh nghiệp đứng ra nhận hàng sẽ được tính kim ngạch xuất nhập khẩu nhưng khi đưa hàng về tiêu thụ chỉ được tính doanh số theo tỷ lệ vốn góp. Ba là, doanh nghiệp kinh doanh nhập khẩu trực tiếp trong liên doanh phải ký hai hợp đồng: một hợp đồng với đối tác nước ngoài, một hợp đồng liên doanh với doanh nghiệp khác. * Nhập khẩu hàng đổi hàng Nhập khẩu hàng đổi hàng cùng với trao đổi bù trừ là hai nghiệp vụ chủ yếu của buôn bán đối lưu, đó là hình thức nhập khẩu đi đôi với xuất khẩu. Trong thanh toán của hình thức nhập khẩu này không dùng tiền mà dùng chính hàng hoá. Mục đích của nhập khẩu hàng đổi hàng là vừa thu lãi từ hoạt động kinh doanh nhập khẩu, vừa xuất khẩu được hàng hoá ra nước ngoài. - Về đặc điểm của hình thức hàng đổi hàng Đây là hình thức rất có lợi vì cùng một lúc vừa nhập khẩu lại vừa có thể xuất khẩu hàng hoá. Hàng hoá nhập và xuất có giá trị tương đương nhau, đảm bảo điều kiện cân bằng về mặt giá trị, điều kiện giao hàng và tổng giá trị hàng hóa trao đổi. Người mua đồng thơì cũng là người bán. Trong thanh quyết toán dùng tiền làm vật ngang giá chung. * Nhập khẩu tái xuất Hoạt động nhập khẩu tái xuất là hoạt động hàng hoá nhập khẩu vào trong nước nhưng không phải để tiêu thụ trong nước mà để tái xuất sang nước thứ ba để thu lợi nhuận, những mặt hàng này không được qua chế biến ở nơi tái xuất. Như vậy, trong hình thức này có sự tham gia của ít nhất ba quốc gia: nước xuất khẩu, nước nhập khẩu để tái xuất, nước nhập khẩu hàng hoá đã tái xuất. - Về đặc điểm của nhập khẩu tái xuất Doanh nghiệp nước tái xuất phải tính toán chi phí ghép mối bạn hàng xuất và bạn hàng nhập để đảm bảo thu được số tiền lớn hơn tổng chi phí bỏ ra. Doanh nghiệp nước tái xuất phải lập hai hợp đồng: một hợp đồng nhập khẩu và một hợp đồng xuất khẩu. Để đảm bảo lợi ích cho cả các bên, thanh toán hợp đồng tái xuất thường dùng thư tín dụng giáp lưng (Back to back L/C), L/C này được mở trên cơ sở nội dung L/C kia, chỉ chênh lệch nhau về số tiền thanh toán. Hàng hóa không nhất thiết phải chuyển về nước tái xuất mà có thể chuyển thẳng tới nước thứ ba nhưng tiền thanh toán thì luôn do người tái xuất thu từ người nhập khẩu để trả cho người xuất khẩu. Nhiều khi người tái xuất còn thu được lợi tức từ tiền hàng do được thu tiền nhanh và được trả tiền chậm. II. NộI dung cơ bản của hoạt động nhập khẩu Để nhập khẩu được tiến hành một cách thuận lợi, đạt hiệu quả như mong muốn các cơ quan nhà nước, các tổ chức kinh tế và các doanh nghiệp cần phải nắm vững được các khâu, nghiệp vụ của hoạt động này. Việc nắm bắt được các thông tin về thị trường, sản phẩm cũng như nhu cầu và thị hiếu tiêu dùng sẽ giúp các tổ chức, các doanh nghiệp chủ động hơn trong quá trình tiến hành đàm phán, giao dịch, ký kết hợp đồng cũng như tổ chức thực hiện hợp đồng, qua đó mà giảm thiểu đến mức thấp nhất những rủi ro có thể xảy ra. 1. Nghiên cứu thị trường Trong tất cả các mô hình kinh tế, chúng ta đều nhận thấy thị trường là một nhân tố không thể thiếu, thị trường là một thực thể tồn tại độc lập bên cạnh Nhà nước, các doanh nghiệp và các hộ gia đình. Trong mối quan hệ hữu cơ, gắn bó với nhau,thị trường có một vai trò đặc biệt quan trọng đối với sự tồn tại của các doanh nghiệp, bởi thị trường là tổng thể các mối quan hệ lưu thông hàng hóa và tiền tệ. Qua thị trường, doanh nghiệp có thể dự tính được lượng cầu hay lượng cung cũng như biết được thị hiếu của khách hàng và những thay đổi ở hiện tại hay trong tương lai, từ đó có kế hoạch sản xuất và kinh doanh thích hợp. VIệc nghiên cứu thị trường bao gồm: Nghiên cứu thị trường nhập khẩu và việc nghiên cứu thị trường trong nước. a, Nghiên cứu thị trường nhập khẩu. Khi nghiên cứu thị trường mua cần nắm rõ các yếu tố về tình hình chính trị, kinh tế và luật pháp của những nước hay khu vực mà họ cần nhập, điều kiện chính trị, luật pháp thương mại cũng như chính sách buôn bán, tình hình tài chính tiền tệ, điều kiện vận tải và giá cước.. sẽ quyết định đến việc có hay không mua sản phẩm, hàng hoá, dịch vụ đó, mức độ phức tạp trong quá trình thực hiện hợp đồng mua bán. Vì là thị trường nước ngoài nên việc nghiên cứu thị trường sẽ gặp khó khăn và không được kỹ lưỡng như thị trường trong nước. Việc nghiên cứu thị trường mua có thể được thực hiện qua việc nghiên cứu các tài liệu, sách báo, tạp chí...về thị trường đó hoặc trực tiếp thông qua tham quan hoặc cũng có thể thông qua các văn phòng, các tổ chức, đại diện thương mại của quốc gia đó. Trên cơ sở phân tích, nghiên cứu những thông tin thu được, doanh nghiệp sẽ có thể lựa chọn được mặt hàng nhập khẩu phù hợp nhất về kiểu dáng, chủng loại, mẫu mã... Cũng thông qua việc nghiên cứu thị trường, doanh nghiệp sẽ tìm kiếm được thị trường phù hợp nhất, lựa chọn được bạn hàng và nắm bắt được mức giá nhập khẩu có thể chấp nhận được. Việc lựa chọn bạn hàng kinh doanh phải tuân theo nguyên tắc đôi bên cùng có lợi. Công việc lựa chọn bạn hàng phải nắm bắt được thông tin quan trọng từ phía bạn hàng. Bao gồm: - Quan điểm kinh doanh của bạn hàng. - Lĩnh vực kinh doanh của bạn hàng. - Khả năng tài chính và cơ sở vật chất của bạn hàng Ngoài ra, khi nghiên cứu thị trường, doanh nghiệp phải nắm rõ các yếu tố của thị trường, khả năng sản xuất, giá cả, sự biến động của thị trường đó. Doanh nghiệp cần phải đặc biệt quan tâm đến giá cả hàng hóa vì đây là biểu hiện bằng tiền của giá trị hàng hóa, giá cả hàng hoá tại từng thời điểm khác nhau, với số lượng trao đổi buôn bán là bao nhiêu, các loại giá cả và các nhân tố có thể tạo nên sự biến động của giá cả. b, Nghiên cứu thị trường trong nước. - Nhu cầu thị trường: Nhu cầu là một trong những yếu tố quyết định sự thành công của các nhà doanh nghiệp trên thương trường. Kinh nghiệm kinh doanh đã chỉ ra rằng cần phải nghiên cứu nhu cầu trước rồi mới tổ chức quá trình sản xuất kinh doanh dịch vụ thỏa mãn nhu cầu đó. Thực tế nhiều doanh nghiệp nước ta trong hoạt động nhập khẩu chưa nghiên cứu kỹ nhu cầu của thị trường trong nước, do vậy hàng hóa nhập khẩu về không phù hợp với đòi hỏi của tiêu dùng kể cả về số lượng lẫn chất lượng. Nghiên cứu nhu cầu ở đây là phải căn cứ vào sản xuất và tiêu dùng, về quy cách chủng loại, kích cỡ, giá cả, các thị hiếu, các tập quán từng vùng, từng lĩnh vực sản xuất, từ đó tiến hành xem xét các khía cạnh của hàng hóa đó trên thế giới. - Dung lượng thị trường: Một yếu tố quan trọng khác đối với doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu là tìm hiểu dung lượng thị trường hàng hóa. Có thể hiểu dung lượng thị trường của một loại hàng hóa là khối lượng hàng hóa được giao dịch trên một phạm vi thị trường nhất định trong một thời gian nhất định. Dung lượng thị trường kinh doanh thay đổi theo diễn biến của tình hình tác động tổng hợp của nhIều yếu tố khác nhau trong từng giai đoạn nhất định. Các nhân tố làm dung lượng thị trường biến đổi có tính chất chu kỳ như sự vận động của tình hình kinh tế tư bản chủ nghĩa, tính chất thời vụ trong sản xuất, lưu thông và phân phối hàng hóa. Các nhân tố này có rất nhiều tuy nhiên các nhân tố chủ yếu ảnh hưởng đến dung lượng thị trường trong thời gian tương đối dài là: + Những tiến bộ của khoa học kỹ thuật. + Các biện pháp chính sách của Nhà nước. + Thị hiếu và tập quán của người tiêu dùng. Các nhân tố ảnh hưởng tạm thời đối với dung lượng thị trường đó là các nhân tố như đầu cơ trên thị trường gây ra những biến đổi về cung cầu, xung đột chính trị-xã hội hoặc các yếu tố tự nhiên. Tuy nhiên, khi nghiên cứu tình hình thị trường của các hàng hóa khác nhau phải căn cứ vào đặc điểm của chúng để đánh giá ảnh hưởng của từng nhân tố. - Lựa chọn mặt hàng: Doanh nghiệp phải lựa chọn mặt hàng kinh doanh phù hợp với chiến lược kinh doanh của doanh nghiệp, phù hợp với lợi ích của xã hội đồng thời đem lại lợi nhuận cao nhất. Muốn vậy không những phải căn cứ vào nhu cầu thị trường mà còn phải dựa trên một số vấn đề sau: + Tình hình tiêu thụ của mặt hàng trên thị trường: + Mặt hàng đó đang ở giai đoạn nào của chu kỳ sống. + Tình hình sản xuất mặt hàng đó như thế nào. + Tỷ suất ngoại tệ của mặt hàng đó là bao nhiêu. 2. Lựa chọn phương thức giao dịch đàm phán nhập khẩu. Sau khi nghiên cứu môi trường, thị trường, lựa chọn được đối tác kinh doanh và lập phương án kinh doanh thì bước tiếp theo là phải tiến hành tiếp cận với khách hàng để tiến hành giao dịch việc mua bán. Quá trình giao dịch là quá trình trao đổi thông tin về các điều kiện thương mại giữa các bên tham gia. Ngày nay, trong thương mại quốc tế người ta có thể sử dụng một trong ba phương thức giao dịch đàm phán: giao dịch qua thư tín, qua điện thoại và gặp gỡ trực tiếp. Ngoài ra còn có các hình thức biến tướng khác như qua telex, telefax… Việc đàm phán để đi đến ký kết hợp đồng nhập khẩu thường được tiến hành kết hợp giữa các hình thức sau: - Giao dịch, đàm phán qua thư tín: Là phương thức được sử dụng phổ biến hiện nay, phương thức này thường là sự khởi đầu và giúp cho việc duy trì những giao dịch lâu dài. Sử dụng hình thức này có thể tiết kiệm được chi phí đồng thời tạo điều kiện cho cả hai bên cân nhắc suy nghĩ vấn đề một cách thấu đáo và tranh thủ được ý kiến của tập thể. Bằng cách này cùng một lúc doanh nghiệp có thể giao dịch với nhiều đối tác ở nhiều nước khác nhau. Tuy nhiên đàm phán theo hình thức này thường chậm trễ, mất nhiều thời gian chờ đợi, có thể cơ hội mua bán tốt sẽ trôi qua và rất khó đoán được ý đồ của đối phương và đặc biệt phải lưu ý khi viết thư. - Giao dịch, đàm phán qua FAX và điện thoại: hình thức này giúp cho việc đàm phán diễn ra nhanh chóng ngay khi có vấn đề xuất nảy sinh. Tuy nhiên thời gian dành cho đàm phán không nhiều do cước phí FAX và điện thoại quốc tế rất đắt. Bởi vậy điện thoại và FAX chỉ được dùng trong trường hợp thật cần thiết, khẩn trương, hoặc trường hợp mà mọi điều kiện đã thảo luận xong chỉ còn chờ xác nhận một vài chi tiết. - Giao dịch, đàm phán bằng gặp gỡ trực tiếp: thực tế cho thấy do hai bên gặp nhau trực tiếp nên có thể trao đổi mọi vấn đề liên quan đến hợp đồng và dễ dàng đi đến thống nhất, thậm chí còn tạo điều kiện cho việc hiểu biết nhau tốt hơn và duy trì được quan hệ tốt lâu dài. Tuy nhiên đây cũng là hình thức đàm phán khó khăn nhất, để đạt được kết quả tốt trong đàm phán thì đòi hỏi người đàm phán phải nắm chắc nghiệp vụ và ngoại ngữ, có khả năng xử lý nhạy bén, linh hoạt trong mọi tình huống, bình tĩnh nhận xét nắm được ý đồ, sách lược của đối phương để có biện pháp đối phó kịp thời. Hơn nữa chi phí cho việc gặp gỡ trực tiếp là hết sức tốn kém. Mỗi phương thức giao dịch đàm phán nói ở trên đều có những ưu đIểm và những hạn chế nhất định do đó tuỳ vào từng điều kiện cụ thể của doanh nghiệp, tuỳ thuộc vào từng hoàn c._.ảnh, tình huống công việc cần xử lý mà các doanh nghiệp vận dụng các phương thức cho phù hợp. Nhưng tựu chung lại, cho dù doanh nghiệp có áp dụng phương thức giao dịch đàm phán nào chăng nữa, việc giao dịch đàm phán cũng cần phải tuân thủ các bước sau: Quy trình giao dịch bao gồm: - Hỏi giá: Về phương diện pháp luật thì đây là lời thỉnh cầu để bước vào giao dịch nhưng xét về phương diện thương mại thì đây là việc người mua đề nghị người bán báo cho mình biết giá cả và các điều kiện để mua hàng. Do đó nội dung cơ bản của một hỏi giá là yêu cầu nhà cung cấp cho biết các thông tin về hàng hoá quy cách phẩm chất, số lượng, bao bì, điều kiện giao hàng, giá cả, điều kiện thanh toán và các điều kiện thương mại khác. Hỏi giá không ràng buộc trách nhiệm pháp lý của người hỏi giá cho nên người hỏi giá có thể gửi hỏi giá nhiều nơi.Trên cơ sở đó có thể lựa chọn ra báo giá tối ưu thích hợp nhất và chính thức lựa chọn nhà cung cấp. - Chào hàng: chào hàng là một đề nghị ký kết hợp đồng mua bán hàng hoá được chuyển cho một hay nhiều người xác định. Chào hàng có thể do người bán hoặc người mua đưa ra. Nếu là của người mua đưa ra được gọi là chào mua hàng, nếu là của người bán đưa ra gọi là chào bán hàng. Báo giá cũng là một loại chào hàng. - Đặt hàng: Lời đề nghị ký kết hợp đồng xuất phát từ phía người mua được đưa ra dưới hình thức đặt hàng. Trong đặt hàng, người mua nêu cụ thể về hàng hoá định mua và tất cả những nội dung cần thiết cho việc ký kết hợp đồng. - Hoàn giá: Hoàn giá là mặc cả về giá cả hoặc về các điều kiện giao dịch. Khi người nhận được chào hàng không chấp thuận hoàn toàn chào hàng đó mà đưa ra một đề nghị mới thì đề nghị mới này là trả giá (bid). Khi có sự trả giá, chào hàng trước coi như huỷ bỏ. Trong buôn bán quốc tế, mỗi lần giao dịch thường trải qua nhiều lần trả giá mới đi đến kết thúc. Như vậy, hoàn giá bao gồm nhiều sự trả giá. - Chấp nhận: Chấp nhận là sự đồng ý hoàn toàn tất cả mọi đIều kiện của chào hàng (hoặc đặt hàng) mà phía bên kia đưa ra, khi đó hợp đồng được thành lập, một chấp nhận có hiệu lực phải đảm bảo các điều kiện sau: +Phải được chính người nhận giá chấp nhận +Phải chấp nhận hoàn toàn nội dung của chào hàng. +Phải chấp nhận trong thời gian hiệu lực của chào hàng. +Chấp nhận phải được truyền đạt đến người phát ra đề nghị - Xác nhận: sau khi thống nhất với nhau các điều kiện giao dịch hai bên ghi lại các kết quả đã đạt được rồi trao cho nhau. Xác nhận thường được thành lập hai bản, được hai bên ký kết và mỗi bên giữ một bản. 3. Ký kết hợp đồng nhập khẩu. Quá trình đàm phán dẫn đến kết quả cuối cùng là ký kết hợp đồng để các bên cùng tham gia thực hiện. Hợp đồng thường là sản phẩm cuối cùng của cuộc thương lượng giữa các bên tham gia. Hợp đồng thể hiện vị thế giữa các bên trong quá trình đàm phán và kí kết hợp đồng. Có thể hiểu hợp đồng kinh doanh nhập khẩu là một cam kết bằng văn bản quy định quyền lợi và nhiệm vụ của các bên về các hoạt động kinh doanh nhập khẩu. Theo đó, bên bán phải cung cấp hàng hoá, chuyển giao các giấy tờ có liên quan đến hàng hoá và quyền sở hữu hàng hoá còn bên mua phải có trách nhiệm thanh toán tiền hàng và tiếp nhận hàng. * Nguyên tắc ký kết hợp đồng: Việc ký kết hợp đồng phải tuân thủ các nguyên tắc sau: - Nguyên tắc bình đẳng, tự nguyện: Nguyên tắc này chỉ ra các bên tham gia ký kết hợp đồng phải trên cơ sở nhận thức được những lợi ích thu được, việc ký kết hợp đồng không bị ép buộc bởi ý chí của các bên. - Nguyên tắc thoả thuận song phương: Nguyên tắc này chỉ ra các bên phải dựa trên cơ sở thoả thuận, đàm phán và nhất trí để ký kết hợp đồng. Sự thoả thuận này dựa trên cơ sở hai bên do đó các kết quả được phản ánh trong hợp đồng phải là kết quả của các cuộc đàm phán, thương lượng của hai bên. - Tuân thủ luật pháp và thông lệ quốc tế. * Phương thức ký kết hợp đồng Việc ký kết các hợp đồng kinh doanh, thương mại quốc tế nói chung hay hợp đồng nhập khẩu nói riêng có thể diễn ra theo phương thức trực tiếp hoặc gián tiếp. - Ký kết hợp đồng trực tiếp: Việc ký kết này diễn ra trong trường hợp đại diện của các bên (đại diện theo pháp luật hoặc đại diện uỷ quyền) trực tiếp gặp nhau để thảo luận, thoả thuận và thống nhất các vấn đề của quan hệ kinh doanh giữa các bên, xác định cụ thể quyền hạn và trách nhiệm, cùng ký vào một văn bản. Hợp đồng được coi là hình thành và có hiệu lực pháp lý từ thời điểm hai bên ký vào văn bản. - Ký kết hợp đồng gián tiếp: Đây là cách thức ký kết trong đó các bên ký kết thông qua trung gian, điện thoại, qua Fax, điện tín, môi giới, uỷ thác... Mỗi bên gửi các tài liệu giao dịch như công văn, điện báo, đơn chào hàng, đặt hàng… có nội dung của giao dịch. Hợp đồng ký kết gián tiếp được coi là hình thành và có giá trị pháp lý từ khi các bên nhận được tài liệu nhất trí về tất cả các điều khoản của hợp đồng. Căn cứ để xác định là con dấu của bưu đIện hoặc ngày nhận công văn của bên kia trừ trường hợp có quy định pháp luật khác. * Nội dung của hợp đồng Vấn đề thứ nhất là giải thích các từ ngữ, khái niệm, định nghĩa được sử dụng trong hợp đồng. Trong lĩnh vực mua bán thiết bị, các khái niệm cần giải thích là khái niệm hợp đồng, thiết bị toàn bộ, thiết bị lẻ, bộ phận rời, đại diện công ty, giá cả hợp đồng, thời hạn bảo trì, chứng chỉ chấp nhận cuối cùng… Các định nghĩa nêu ra tránh dài dòng và phức tạp, tránh tình trạng đưa định nghĩa ở phần đầu hợp đồng rồi sau đó lại thêm những định nghĩa mới ở phần sau dễ gây nhầm lẫn. Vấn đề thứ hai là nội dung của việc nhập khẩu cụ thể là các điều khoản chi tiết về giá cả, số lượng, chất lượng, nhãn hiệu, điều khoản bất khả kháng, điều khoản về tranh chấp, điều khoản bổ sung… Vấn đề thứ ba là phương thức thực hiện hợp đồng như phương thức vận chuyển, bảo quản, lắp đặt, bảo dưỡng… Vấn đề thứ tư là các điều kiện bất khả kháng như bão lụt, hạn hán, chiến tranh, khủng hoảng chính trị, kinh tế, xã hội.. và trách nhiệm của các bên Vấn đề thứ năm liên quan đến khiếu nại hợp đồng và trọng tài xử lý tranh chấp. Đây là điều khoản bảo đảm cho tính pháp lý và tính quy phạm của hợp đồng cao hơn. Vấn đề thứ sáu là thời hạn hiệu lực của hợp đồng, quy định thời điểm bắt đầu và kết thúc của hợp đồng về mặt pháp lý. Vấn đề thứ bảy là các vấn đề cần dự kiến phát sinh của hợp đồng trong quá trình thực hiện như các vấn đề liên quan đến việc tăng, giảm quyền và nghĩa vụ của các bên, các vấn đề liên quan đến các quy định của Nhà nước đối với các quan hệ trong hợp đồng. 4. Tổ chức thực hiện hợp đồng. Sau khi hợp đồng đã được kí kết nghĩa là quyền lợi và nghĩa vụ của các bên đã được xác lập, đơn vị nhập khẩu - với tư cách là một bên ký kết hợp đồng- phải tổ chức thực hiện hợp đồng đó. Đây là một công việc rất phức tạp, nó đòi hỏi phải tuân thủ luật pháp quốc gia và quốc tế, đồng thời phải bảo đảm được quyền lợi quốc gia và đảm bảo uy tín kinh doanh của đơn vị. Trong quá trình thực hiện hợp đồng, các bên phải cố gắng giảm thiểu mọi chi phí phát sinh, nâng cao hiệu quả của công tác nghiệp vụ. Mỗi bên phải sắp xếp những việc phải làm, ghi thành bảng theo dõi tiến độ thực hiện. Nếu có điều gì phát sinh thì hai bên phải nhanh chóng thông báo cho nhau và tiến hành bàn bạc để tìm cách giải quyết cho kịp thời và hợp lý. Để thực hiện một hợp đồng nhập khẩu, doanh nghiệp khẩu phải tiến hành các khâu công việc sau đây: * Xin giấy phép nhập khẩu Giấy phép nhập khẩu là một biện pháp quan trọng để Nhà nước quản lý nhập khẩu, vì thế sau khi ký kết hợp đồng nhập khẩu, doanh nghiệp phải xin giấy phép nhập khẩu chuyến để thực hiện hợp đồng đó. Ngày nay, trong xu thế tự do hoá hậu dịch, nhiều nước giảm bớt một số mặt hàng cần phải xin giấy phép nhập khẩu chuyến. ở nước ta, theo nghị định 89/CP ngày 15/12/1995 kể từ ngày 1/2/1996 trở đi, chỉ còn 9 trường hợp sau cần phải xin giấy phép nhập khẩu chuyến: hàng nhập khẩu mà Nhà nước quản lý bằng hạn ngạch; Hàng tiêu dùng nhập khẩu theo kế hoạch được Thủ tướng chính phủ duyệt; Máy móc thiết bị được nhập khẩu bằng nguồn vốn ngân sách; Hàng của doanh nghiệp được thành lập theo Luật đầu tư nước ngoài tại Việt nam; Hàng phục vụ thăm dò, khai thác dầu khí; Hàng hội chợ triển lãm; Hàng gia công; Hàng tạm nhập tái xuất; Hàng nhập khẩu thuộc diện cần điều hành để bảo đảm cân đối cung cầu trong nước. Khi đối tượng hợp đồng thuộc phạm vi phải xin giấy phép nhập khẩu, doanh nghiệp phải xuất trình hồ sơ xin phép gồm: hợp đồng, phiếu hạn ngạch (nếu hàng thuộc diện quản lý bằng hạn ngạch), hợp đồng uỷ thác nhập khẩu (nếu đó là trường hợp nhập khẩu uỷ thác). HIện nay việc cấp giấy phép nhập khẩu được quy định như sau: + Bộ thương mại cấp giấy phép đối với NK từng chuyến hàng mậu dịch. + Tổng cục Hải Quan cấp giấy phép đối với hàng hóa phi mậu dịch. Đối với hàng hóa thông thường thì doanh nghiệp không cần phải xin giấy phép nhập khẩu mà chỉ phải làm một tờ khai Hải quan gửi cho Bộ Thương mại lưu để theo dõi. * Mở thư tín dụng (Letter of Credit - L/C) Thư tín dụng là một văn bản pháp lý trong đó Ngân hàng mở thư tín dụng cam kết sẽ trả một khoản tiền cho người xuất khẩu nếu họ xuất trình đủ chứng từ thanh toán phù hợp với nội dung của thư tín dụng. Khi hợp đồng nhập khẩu quy định phương thức thanh toán tiền hàng là tín dụng chứng từ thì một trong các việc đầu tiên mà bên mua phải làm để thực hiện hợp đồng đó là việc mở L/C theo quy định của hợp đồng và tới Ngân hàng để làm thủ tục mở Thư tín dụng. Thông thường L/C được mở trước 20 ngày đến 25 ngày trước thời gian giao hàng (nếu khách hàng ở châu Âu) Để mở L/C doanh nghiệp phải có tài khoản tại Ngân hàng và phải có giấy phép kinh doanh nhập khẩu. Khi mở L/C phải có đơn xin mở, quyết định thành lập doanh nghiệp, quyết định bổ nhiệm Giám đốc và kế toán trưởng. Kèm theo đó là những giấy tờ mà tùy vào loại L/C cần phải nộp cho Ngân Hàng mở L/C như: Bản sao hợp đồng, giấy phép nhập khẩu, hạn ngạch, hợp đồng nhập khẩu ủy thác. * Thuê phương tiện vận chuyển Tùy từng điều kiện giao hàng được quy định trong hợp đồng mà bên NK có thể phải thuê tàu hoặc là không phải thuê tàu. Trong quá trình thực hiện hợp đồng NK, việc thuê tàu chở hàng được tiến hành thường dựa vào 3 căn cứ sau: Điều khoản của hợp đồng, đặc điểm hàng hóa mua bán, điều kiện vận tải. Chẳng hạn nếu điều kiện cơ sở giao hàng của hợp đồng nhập khẩu là FOB thì chủ hàng nhập khẩu phải thuê tàu để chở hàng. Nếu điều kiện cơ sở giao hàng của hợp đồng nhập khẩu là CIF thì chủ hàng XK phải thuê tàu chở hàng. Thực tế do điều kiện về tàu vận chuyển và hiểu biết về thị trường thuê tàu quốc tế còn hạn chế nên các doanh nghiệp Việt Nam thường nhập khẩu theo điều kiện giao hàng CIF tức là chuyển quyền thuê tàu cho bên xuất khẩu. Tuy nhiên nếu bên nhập khẩu theo điều kiện FOB tức quyền thuê tàu thuộc về doanh nghiệp Việt nam thì doanh nghiệp Việt nam có thể ủy thác việc thuê tàu cho một công ty hàng hải như: Công ty thuê tàu và môi giới hàng hải (Vietfracht), Công ty đại lý tàu biển (VOSA)...Tùy vào khối lượng và đặc điểm hàng hóa mà chọn hình thức thuê tàu cho phù hợp, có thể là tàu chợ hoặc tàu chuyến. * Mua bảo hiểm Chuyên chở hàng hóa bằng đường biển thường gặp nhiều rủi ro và tổn thất. Vì thế, bảo hiểm hàng hoá đường biển lại là phương thức khá phổ biến, khoảng 80% khối lượng hàng hóa vận chuyển là bằng đường biển. Nếu trong hợp đồng ngoại thương điều khoản về bảo hiểm hàng hóa không được chỉ rõ là bảo hiểm theo điều kiện nào và rủi ro cần được bảo hiểm kèm theo thì bên xuất khẩu mặc nhiên ký hợp đồng bảo hiểm theo điều kiện A với giá trị tối thiểu là V=110% *CIF. Tùy từng loại hàng và khả năng kinh doanh của doanh nghiệp mà có thể chọn 1 trong 2 loại hợp đồng bảo hiểm: hợp đồng bảo hiểm chuyến và hợp đồng bảo hiểm bao. Để kí kết hợp đồng bảo hiểm cần nắm vững các điều kiện bảo hiểm, có 3 điều kiện bảo hiểm chính: bảo hiểm mọi rủi ro (điều kiện bảo hiểm A), bảo hiểm có tổn thất riêng (điều kiện B), và bảo hiểm miễn tổn thất riêng (điều kiện C). Ngoài ra, còn có một số bảo hiểm đặc biệt như bảo hiểm chiến tranh, bảo hiểm đình công... * Làm thủ tục hải quan Hàng hóa đi ngang qua biên giới quốc gia để xuất khẩu hoặc nhập khẩu đều phải làm thủ tục Hải quan. Việc làm thủ tục Hải quan bao gồm 3 bước chủ yếu sau đây: Khai báo hải quan, xuất trình hàng hóa và thực hiện các quyết định của Hải quan. - Khai báo Hải quan: Chủ hàng khai báo các chi tiết về hàng hóa lên tờ khai để cơ quan Hải quan kiểm tra các thủ tục giấy tờ. Nội dung của tờ khai Hải quan bao gồm những mục sau: Loại hàng (hàng mậu dịch, hàng trao đổi tiểu ngạch biên giới, hàng tạm nhập tái xuất...), tên hàng, số lượng, chất lượng, giá trị hàng, tên công cụ vận tải, xuất khẩu nhập khẩu với nước nào, một số phần đánh giá, kiểm hóa của hải quan. Tờ khai Hải quan phải được xuất trình kèm theo một số chứng từ khác mà chủ yếu là: giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh, giấy đăng kí mã số thuế, hợp đồng, hóa đơn thương mại, phiếu đóng gói, bảng kê chi tiết... - Xuất trình hàng hóa: Hàng hóa nhập khẩu phải được sắp xếp trật tự, thuận tiện cho việc kiểm soát, chủ hàng phải chịu chi phí và nhân công về việc mở, đóng các kiện hàng. - Thực hiện các quy định của Hải quan Sau khi kiểm soát giấy tờ và hàng hóa, hải quan sẽ ra các quyết định như: cho hàng được phép ngang qua biên giới (thông quan), cho hàng đi qua một cách có điều kiện (như phải sửa chữa, phải bao bì lại...), cho hàng đi qua sau khi chủ hàng đã nộp thuế, hàng không được NK ... - Nhận hàng nhập khẩu Theo Nghị định 200/CP ngày 31/12/1973 “các cơ quan vận tải (ga, cảng) có trách nhiệm tiếp nhận hàng hoá nhập khẩu trên các phương tiện vận tải từ nước ngoài vào, bảo quản hàng hoá đó trong quá trình xếp dỡ, lưu kho, lưu bãi và giao cho các đơn vị đặt hàng theo lệnh giao hàng của tổng công ty đã nhập hàng đó” Do đó, đơn vị kinh doanh nhập khẩu phải, hoặc trực tiếp hoặc thông qua một đơn vị nhận uỷ thác giao nhận (như Vietrans chẳng hạn), tiến hành: + Kí hợp đồng ủy thác cho cơ quan vận tải về việc giao hàng từ tàu ở nước ngoài về. + Xác nhận với cơ quan vận tải kế hoạch tiếp nhận hàng theo lịch trình NK, mặt hàng, điều kiện kỹ thuật bốc dỡ, vận chuyển. + Cung cấp các tài liệu cần thiết cho việc giao nhận hàng hóa. + Theo dõi việc giao nhận, đôn đốc cơ quan vận tải lập những biên bản (nếu cần) về hàng hoá và giải quyết trong phạm vi của mình những vấn để xảy ra trong việc giao nhận hàng. + Thanh toán cho cơ quan vận tải mọi chi phí trong giao nhận. * Khiếu nại và giải quyết khiếu nại Khi thực hiện hợp đồng nhập khẩu, nếu chủ hàng xuất nhập khẩu phát hiện thấyhàng nhập khẩu bị tổn thất, đổ vỡ, thiéu hụt, mất mát thì cần lập hồ sơ khiếu nại ngay để khỏi bỏ lỡ thời hạn khiếu nại. Đối tượng khiếu nại là người bán, nếu hàng có chất lượng hoặc số lượng không phù hợp với hợp đồng, có bao bì không thích đáng, thời gian giao hàng bị vi phạm, hàng giao không đồng bộ, thanh toán nhầm lẫn… Đối tượng khiếu nại là người vận tải nếu hàng bị tổn thất trong quá trình chuyên chở hoặc nếu sự tổn thất đó do lỗi của người vận tải gây nên. Đối tượng khiếu nại là công ty bảo hiểm nếu hàng hoá- đối tượng của bảo hiểm bị tổn thất do thiên tai, tai nạn bất ngờ hoặc do lỗi của người thứ ba gây nên, khi những rủi ro này đã được mua bảo hiểm. Đơn khiếu nại phải kèm theo những bằng chứng về việc tổn thất (như biên bản giám định, COR, ROROC hay CSC..v.v…) hoá đơn, vận đơn đường biển, đơn bảo hiểm (nếu khiếu nại công ty bảo hiểm)..v.v.. III, Những nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động hoạt động nhập khẩu hàng hoá nóI chung và nhập khẩu thIết bị của ChI nhánh TRACIMEXCO Hà nộI Là một doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực kinh doanh xuất nhập khẩu, Chi nhánh TRACIMEXCO Hà nội cũng như các doanh nghiệp khác trong quá trình hoạt động của mình đều phải chịu những ảnh hưởng, tác động của nhiều nhân tố: từ những chính sách kinh tế vĩ mô của Nhà nước, những biến đổi của thị trường thậm chí là tác động ảnh hưởng của các nhân tố nội tại của bản thân doanh nghiệp. Cụ thể chúng ta có thể xét tới những nhân tố sau: 1. Chế độ chính sách của Nhà nước về xuất nhập khẩu. Đây là một yếu tố mà bất cứ doanh nghiệp nào cũng phải nắm chắc, hiểu thấu đáo khi tham gia vào hoạt động xuất nhập khẩu. Chính sách của Nhà nước tạo ra khung pháp lý cho hoạt động xuất nhập khẩu của doanh nghiệp, đó có thể là các chính sách về thuế quan, hạn ngạch nhập khẩu, hay quản lý ngoại hối. a, Chính sách thuế quan. Thực chất của biện pháp thuế quan là dùng tỷ lệ thuế khác nhau để điều tiết hoạt động nhập khẩu. Đối với những hàng hoá muốn hạn chế nhập thì đánh thuế cao và ngược lại, với những hàng hoá khuyến khích nhập thì có thể không đánh thuế hoặc đánh thuế thấp với mức thuế ưu đãi. Từ đó mà khuyến khích hoặc hạn chế nhập khẩu. b, Hạn ngạch nhập khẩu. Được áp dụng để quản lý hoạt động nhập khẩu, hạn nghạch được hiểu là quy định của Nhà nước về số lượng, giá trị của mặt hàng hoặc nhóm hàng được nhập khẩu từ một thị trường nhất định trong một thời gian nhất định. Nếu đơn vị kinh doanh những mặt hàng nằm trong chế độ quản lý hạn ngạch nhập khẩu thì hạn ngạch nhập khẩu được cấp nhiều hay ít sẽ ảnh hưởng đến quy mô kinh doanh. Ngoài ra, còn có những biện pháp điều tiết nhập khẩu khác như: biện pháp ký quỹ, hệ thống thuế nội địa, tỷ giá hối đoái… 2. ảnh hưởng của sự biến động thị trường trong nước và thị trường nước ngoài. Có thể hình dung hoạt động nhập khẩu như chiếc cầu nối thông thương giữa hai thị trường trong và ngoài nước, tạo ra sự phù hợp, gắn bó cũng như phản ánh sự tác động qua lại giữa chúng. Bất cứ một sự thay đổi nào của thị trường bên ngoài đều ảnh hưởng đến cung cầu sản phẩm nhập khẩu trên thị trường trong nước và ngoài nước. Nếu thị trường trong nước có thể cung ứng được một loại hàng hoá nào đó thì nhu cầu nhập khẩu loại hàng hoá này sẽ giảm cũng tương tự, nếu thị trường nước ngoài có sự biến động, mặt hàng cần nhập khẩu trở nên khan hiếm, giá quá cao hay có quá nhiều thị trường sẵn sàng tiêu thụ thì hoạt động nhập khẩu của doanh nghiệp cũng bị ảnh hưởng đáng kể. Điều đó đòi hỏi doanh nghiệp phải cân nhắc kỹ lưỡng trước khi đưa ra quyết định có nhập mặt hàng đó hay không. 3. Giá cả và chất lượng hàng hoá. Khi giá cả của hàng hoá nhập khẩu thấp hơn giá cả của cùng mặt hàng đó trong nước với điều kiện chất lượng, mẫu mã, kiểu dáng tương đương với mặt hàng trong nước hoặc phù hợp với thị hiếu hay nhu cầu thị trường đòi hỏi xu huớng tăng hoạt động nhập khẩu mặt hàng đó với điều kiện khác không đổi hoặc ngược lại. Chất lượng hàng hoá cũng là nhân tố quan trọng hàng đầu ảnh hưởng tới doanh thu và tốc độ lưu chuyển hàng hoá nhập khẩu. Hàng hoá chất lượng cao tất nhiên sẽ được mọi người chú ý, quan tâm, do đó mà được tiêu thu nhiều, tốc độ lưu chuyển cao, hoạt động nhập khẩu qua đó mà diễn ra mạnh mẽ, doanh thu bán hàng của doanh nghiệp nhờ vậy mà gia tăng không ngừng. 4. Anh hưởng của hệ thống tài chính ngân hàng. Ngày nay, với sự phát triển lớn mạnh không ngừng của mình, Ngân hàng đã can thiệp vào hầu hết trong tất cả các lĩnh vực cũng như trong hầu hết các hoạt động của doanh nghiệp trong nền kinh tế. Vai trò của nó được thể hiện trong việc quản lý, cung cấp vốn, đảm bảo cho việc thanh toán diễn ra nhanh chóng, thuận lợi và chính xác. Hoạt động nhập khẩu hiện nay phụ thuộc rất nhiều vào hệ thống ngân hàng. Thực tế chứng minh rằng nhập khẩu sẽ không được tiến hành một cách thuận lợi nếu không có sự phát triển của các hệ thống Ngân hàng. Trong kinh doanh xuất nhập khẩu, hệ thống Ngân hàng đứng ra làm trung gian giữa người xuất khẩu và người nhập khẩu, đóng vai trò là người bảo lãnh, người bảo đảm về mặt lợi ích cho các doanh nghiệp xuất nhập khẩu. Trong nhiều trường hợp, Ngân hàng đứng ra bảo lãnh hay cho vay với số lượng vốn lớn kịp thời tạo điều kiện cho doanh nghiệp nắm bắt được những cơ hội trong kinh doanh. Không chỉ dừng lại ở đó, ngày nay hệ thống tài chính Ngân hàng còn là nơi cung cấp cho doanh nghiệp những thông tin cần thiết về khách hàng (uy tín, kinh nghiệm tài chính, tình hình hoạt động...) về thị trường và xu hướng biến động của chúng. 5. Anh hưởng của nhân tố con người. Chúng ta bIết rằng, nhân tố con ngườI luôn là nhân tố then chốt quyết định sự thành công hay thất bại của bất cứ hoạt động kinh tế xã hội nào. Trong lĩnh vực kinh doanh xuất nhập khẩu cũng vậy, vai trò của con người được thể hiện trên các mặt: tìm hiểu thị trường, tổ chức quản lý, giao dịch, đàm phán kinh doanh, tổ chức đánh giá kiểm định mặt hàng….Một doanh nghiệp có đội ngũ nhân viên nhiều kinh nghiệm, năng lực chuyên môn cao, nhiệt tình và có trách nhiệm với công việc thì khả năng thành công sẽ nhiều hơn so với nhưng doanh nghiệp mà đội ngũ nhân viên vừa thiếu vừa yếu về kinh nghiệm và trình độ. Do lĩnh vực kinh doanh xuất nhập khẩu hết sức phức tạp nên những thiếu sót dù là nhỏ nhưng gây hậu quả rất lớn. Để hạn chế những ảnh hưởng không có lợi cho doanh nghiệp, cần phải không ngừng nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ cho cán bộ công nhân viên trong công ty, bố trí cán bộ hợp lý, phù hợp với năng lực và sở trường của họ… Bên cạnh những nhân tố chính trên còn có rất nhiều nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh nhập khẩu của doanh nghiệp như uy tín kinh doanh của doanh nghiêp, cơ sở hạ tầng của doanh nghiệp, các yếu tố về văn hoá, sở thích, thị hiếu của người tiêu dùng… Điều đó đòi hỏi các doanh nghiệp phải có sự đầu tư nghiên cứu tìm hiểu lâu dài để có thể cạnh tranh lành mạnh và giành thắng lợi trên thương trường. Chương II: thực trạng hoạt động nhập khẩu vật tư máy móc thIết bị nghành gIao thông vận tảI tạI chI nhánh công ty xuất nhập khẩu và hợp tác đầu tư gIao thông vận tảI hà nộI I. KháI quát về chI nhánh công ty xuất nhập khẩu và hợp tác đầu tư gIao thông vận tảI hà nộI. 1. Sự hình thành và phát triển. Chi nhánh TRACIMEXCO Hà Nội trực thuộc Tổng Công Ty xuất nhập khẩu và đầu tư giao thông vận tải ( TRACIMEXCO ). Tổng công ty TRACIMEXCO được thành lập theo quyết định số 908QD/TCCP – LĐKý của Bộ trưởng bộ giao thông vận tải, chuyên kinh doanh về xuất khẩu lao động và chuyên gia đi lao động có thời hạn tại nước ngoài, lắp ráp ôtô, nhập khẩu các máy móc thiết bị giao thông, du lịch, tư vấn đầu tư gọi vốn nước ngoài phục vụ nghành giao thông vận tải, đại lý hãng tầu, đóng mới và sửa chữa các loại phương tiện giao thông… Tiền thân của chi nhánh TRACIMEXCO Hà Nội là xí nghiệp sản xuất kinh doanh vật tư thiết bị ( TRAMED Hà NộI ). Dựa trên tinh thần của quyết định số 4915QD/TCCB-LĐ ngày 30 tháng 11 năm 1995 của Bộ Trưởng Bộ Giao thông vận tải về việc thành lập lại doanh nghiệp nhà nước, “xí nghiệp sản xuất kinh doanh vật tư thiết bị’’ được tổ chức sắp xếp lại thành “ Chi nhánh TRACIMEXCO Hà nộI ’’ theo quyết định số 908 QĐ/TCCB-LĐ ngày 15 tháng 04 năm 1997 của Bộ trưởng Bộ giao thông vận tải. Chi nhánh công ty xuất nhập khẩu và hợp tác đầu tư giao thông vận tải Hà nội là một trong mười bốn đơn vị trực thuộc doanh nghiệp nhà nước công ty xuất nhập khẩu và hợp tác đầu tư giao thông vận tải, hạch toán kinh tế phụ thuộc, có tư cách pháp nhân theo sự uỷ quyền của Tổng giám đốc, được mở tài khoản tại ngân hàng, được sử dụng con dấu rIêng. ChI nhánh TRACIMEXCO Hà NộI có những đặc đIểm sau : tên công ty Tên giao dịch bằng tIếng Việt “ chi nhánh công ty xuất nhập khẩu và đầu tư giao thông vận tải Hà nội’’ Tên giao dịch Transport Investment CooperatIon & Import - Export “ viết tắt là TRACIMEXCO Hà nộI “ Địa chỉ : Số 61 Hàm long, Quận Hoàn kiếm, Hà nội vốn đIều lệ : 2.110 triệu đồng. Trong đó vốn cố định là : 420.000.000 đồng. Vốn lưu động là : 1.680.000.000 đồng quyền hạn : là đơn vị hạch toán kinh tế phụ thuộc, có tư cách pháp nhân theo sự uỷ quyền của Tổng giám đốc, được mở tài khoản tại ngân hàng, có dấu riêng nghành nghề kInh doanh: Kinh doanh vật tư thiết bị nghành giao thông vận tải và các sản phẩm nông, lâm, ngư nghiệp khác Lắp ráp phục hồi tân trang thiết bị giao thông vận tải Vận tải đường bộ Dịch vụ tư vấn đầu tư gọi vốn nước ngoài để phục vụ nghành giao thông vận tải. Sản xuất kinh doanh, XNK vật liệu xây dựng và trang trí nội thất Chuyển giao công nghệ xây dựng công trình giao thông bằng vật liệu mới Dịch vụ du lịch Thu gom xuất khẩu khoáng sản hoá chất phục vụ giao thông vận tải. Kinh doanh hang tiêu dùng và nguyên liệu sản xuất hàng tiêu dùng Phá dỡ tầu cũ. Xuất nhập khẩu hàng may mặc và vật tư thiết bị hàng may mặc. Chức năng nhiệm vụ và những lĩnh vực hoạt động chủ yếu của chi nhánh chức năng nhiệm vụ: *. Chức năng chủ yếu của chi nhánh: Nhập khẩu Kinh doanh vật tư hàng hoá, máy móc, thiết bị thuộc lĩnh vực GTVT. Đây là chức năng chính của công ty. Đáp ứng yêu cầu cung cấp hàng hoá nhập khẩu mà trong nước không sản xuất được. Tổ chức quá trình lưu thông hàng hoá các loại như máy móc phụ tùng.. để phục vụ nhu cầu sửa chữa nâng cấp, làm mới các công trình cầu đường trong ngành GTVT . Dịch vụ đại lý vận chuyển hàng hoá trong nước và quốc tế Dịch vụ uỷ thác vận tải và giao nhận hàng hoá * .Nhiệm vụ chủ yếu của chi nhánh: Tổ chức bộ máy điều hành các hoạt động kinh doanh, đầu tư phát triển theo các mục tiêu chiến lược kinh doanh của nghành và kế hoạch của tổng công ty và các cấp chủ quản. Kinh doanh đúng nghành nghề được cấp giấy phép. Mở rộng quy mô sản xuất kinh doanh, xây dựng các chiến lược, kế hoạch kinh doanh phù hợp với thị trường và nền kinh tế. Nâng cao hiệu quả kinh doanh, duy trì và phát triển, bảo toàn nguồn vốn. Thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ với nhà nước Tạo công ăn việc làm ổn định và nâng cao đời sống cán bộ công nhân viên. đảm bảo mọi quyền lợi cho người lao động theo đúng chính sách của Đảng và Nhà nước. Bồi dưỡng và nâng cao trình độ nghiệp vụ của cán bộ công nhân viên, đáp ứng nhu cầu kinh doanh trong thời kỳ chuyển sang cơ chế thị trường. * .Quyền hạn chủ yếu của chi nhánh: - Có tư cách pháp nhân theo sự uỷ quyền của Tổng giám đốc Được quyền ký kết các hợp đồng kinh tế với các đơn vị trong và ngoài nước Được mở các cửa hàng để chào bán sản phẩm và giới thiệu sản phẩm mới, làm dịch vụ, đại lý, theo các quy định đã ban hành của Nhà nước. Được quyền cho thuê các tài sản chưa hoặc chưa dùng hết công suất. Được quyền nhập khẩu uỷ thác cho các đơn vị nhập khẩu trong nước. Những lĩnh vực hoạt động chủ yếu của chi nhánh Kinh doanh vật tư thiết bị nghành giao thông vận tải và các sản phẩm nông, lâm, ngư nghiệp khác Lắp ráp phục hồi tân trang thiết bị giao thông vận tải XNK vật liệu xây dựng. dịch vụ đại lý vận chuyển hàng hoá trong nước và quốc tế dịch vụ uỷ thác vận tải và giao nhận hàng hoá. Cơ cấu tổ chức của bộ máy kinh doanh B. bộ máy quản lý * Sơ đồ bộ máy quản lý: Là một trong mười bốn đơn vị trực thuộc tổng công ty hợp tác và đầu tư giao thông vận tải. TRACIMEXCO Hà nội được thành lập theo quyết định số 908QĐ/TCCB-LĐ ký ngày 15 tháng 04 năm 1997. Trong quyết định có ghi rõ như sau : chi nhánh TRACIMEXCO Hà nộI do Giám đốc lãnh đạo, có một số Phó Giám đốc và Tổ trưởng kế toán giúp việc. Tổ chức hoạt động cụ thể được giao cho Tổng giám đốc công ty TRACIMEXCO quy định. Sau đây là sơ đồ bộ máy quản lý của chi nhánh công ty TRACIMEXCO Hà nội : GIám đốc Phó gIám đốc Phòng hành chính tổ chức Phòng vận tảI và gIao nhận hàng hoá Phòng kế toán Phòng kInh doanh xuất nhập khẩu Trung tâm dịch vụ thương mạI và vận tảI Trung tâm kInh doanh và xuất nhập khẩu dịch vụ * Chức năng và nhIệm vụ của bộ máy quản lý Ban giám đốc gồm có giám đốc và ba phó giám đốc + Giám đốc : là người lãnh đạo cao nhất và chịu trách nhiệm chung toàn doanh nghiệp. Thực hiện việc phân công, phân cấp tới các phòng ban chức năng và giám sát mọi hoạt động của doanh nghiệp. Giám đốc có quyền quyết định cao nhất trong các cấp quản trị dưới quyền, có trách nhiệm giúp việc và tuân thủ nghiêm ngặt mọi chỉ đạo ở cấp cao hơn + Phó giám đốc : có nhiệm vụ hỗ trợ giám đốc trong các công việc tổ chức, kinh doanh. - Phòng hành chính : Chịu trách nhiệm quản lý, đìêu hành toàn bộ công tác hành chính, văn phòng, công tác tổ chức lao động tiền lương của chi nhánh. Tham mưu cho giám đốc trong công tác đề bạt, bồi dưỡng phát triển cán bộ, phân phôí và lưu trữ công văn giấy tờ, đánh máy, In tài liệu, liên lạc kịp thời giữ bí mật, phục vụ đối nội. Quản lý chỉ đạo nghiệp vụ các mặt tổ chức cán bộ nhân sự lao động tiền lương, đào tạo thanh tra pháp chế,khen thưởng kỷ luật. Nhiệm vụ cụ thể của phòng là : tổng hợp điều hoà các hoạt động chung của công ty, tiếp nhận và phân phối công văn giấy tờ, truyền đạt các chỉ thị mệnh lệnh ,phục vụ phương tiện và các điều kiện hoạt động của lãnh đạo và các phòng ban, quan hệ với địa phương sở tại giám sát thi hành khen thưởng ,kỷ luật ,an ninh trong công ty - Phòng tài chính kế toán : Tổ chức hạch toán kinh doanh, đảm bảo cân bằng thu chi, lập hệ thống sổ sách theo dõi tình hình và sự biến động của tài sản nguồn vốn, kết qủa hoạt động kinh doanh. Lập các báo cáo kế toán phân tích và dự toán tình hình tài chính, tham mưu cho giám đốc đưa ra những quyết định kinh doanh kịp thời đúng đắn. phòng có chức năng tham mưu quản lý chỉ đạo nhiệm vụ và trực tiếp làm công tác tài chính kế toán thống kê của chi nhánh, tham mưu cho ban lãnh đạo và theo dõi thực hiện các qui chế về quản lý kinh tế tài chính. Quyết toán và phân tích hoạt động sản xuất kinh doanh, xử lý các tồn tại về mặt tài chính. Phòng có nhiệm vụ phân phối và điều hoà vốn vay phục vụ công việc kinh doanh của chi nhánh, lập kế hoạch và hướng dẫn thực hiện kế hoạch thu chi tài chính, làm thủ tục xin cấp vốn và phân bổ vốn được cấp. Cùng với các phòng có liên quan có nhiệm vụ phân phối các quĩ khen thưởng hàng năm và đột xuất của chi nhánh. - Phòng vận tải hàng hoá và giao nhận : Quản lý và thực hiện toàn bộ công tác vận tải hàng hoá, làm thủ tục xuất nhập khẩu. Tiếp thị và mở rộng bạn hàng trong công tác vận tải và giao nhận hàng hoá nội địa và quốc tế. - Trung tâm dịch vụ thương mại và vận tải Hải Phòng : Là trung tâm kinh doanh của chi nhánh có văn phòng đại diện tại Hải phòng, sản xuất kinh doanh theo uỷ quyền của giám đốc chi nhánh với mọi chức năng nghành nghề được giao. - Trung tâm kinh doanh xuất nhập khẩu và dịch vụ : Thực hiện toàn bộ công tác kinh doanh xuất nhập khẩu và dịch vụ theo uỷ quyền của giám đốc chi nhánh và thực hiện theo cơ chế khoán. - P._.g nghiệp, các vùng kinh tế trọng điểm tại miền Bắc, miền Trung, miền Nam. Các dự án lớn như - Khôi phục và sửa chữa cầu đường trên quốc lộ 1A - Dự án xây dựng các cầu lớn trên sông Hồng - Nâng cấp hạ tầng giao thông tại các đô thị lớn như Hà nội và TP Hồ chí Minh… - Làm mới, cải tạo, nâng cấp các đưòng giao thông liên tỉnh, liên huyện, liên xã… - Hoàn thành đường Hồ Chí Minh - Vì vậy Bộ giao thông vận tải đã tập trung vốn đầu tư phát triển các phưong tiện giao thông thuỷ bộ nhằm nâng cao hơn nữa chất lượng giao thông, hiện đại hoá các thiết bị giao thông nhằm nâng cao hơn nữa chất lượng hạ tầng cơ sở hiện tại cũng như trong tương lai, đồng thời vẫn đảm bảo hiệu quả cho các dự án. Muốn vậy phải nhập khẩu các loại vật tư máy móc thiết bị hiện đại từ nước ngoài. Trong những năm gần đây, Bộ giao thông vận tải đã ưu tiên phát triển giao thông đường bộ với mức đầu tư chiếm đến 80% tổng mức đầu tư của ngành giao thông vận tải. Trong nhưng năm qua vốn đầu tư cho xây dựng cơ bản giao thông vận tải có xu hưóng tăng nhanh vơí tốc độ bình quân hàng năm là 40%. Cùng với số vốn đâu tư trên thì nhu cầu về vật tư và thiết bị giao thông vận tải cũng không ngừng tăng, đây là điều kiện cực kỳ thuận lợi cho những doanh ngiêp chuyên về nhập khẩu vật tư thiết bị giao thông vận tải, theo vụ kế hoạch đầu tư Bộ giao thông vận tải thì giai đoạn 2000-2010 bình quân vốn đầu tư xây dựng cơ bản giao thông vận tải xấp xỉ 10.522 tỷ đồng/năm và nhu cầu về vốn tăng bình quân 20%. ngoài ra hàng năm ngân hàng nhà nước cấp cho sự nghiệp kinh tế giao thông một khoản tiền khá lớn để tu bảo dưỡng đường xá, cầu cảng… bình quân từ 270 đến 320 tỷ đồng. Cùng với số vốn đầu tư xây dựng cơ bản và vốn duy tu bảo dưỡng các công trình giao thông vận tải hàng năm thì thị trường nhu cầu cung ứng vật tư và thiết bị cũng tăng lên hàng năm. công ty xuất nhập khẩu và hợp tác đầu tư giao thông vận tải là đơn vị đầu ngành của bộ giao thông vận tải do vậy chi nhánh TRACIMEXCO Hà nội đã dự kiến phát triển kinh doanh của mình nhằm đáp ứng những đòi hỏi đó. Với chức năng là doanh nghiệp nhà nước hoạt động trong lĩnh vực xuất nhập khẩu của ngành giao thông vận tải, TRACIMEXCO Hà nội có nhiệm vụ đảm bảo cung ứng vật tư, thiết bị, phương tiện, cho việc xây dựng cơ sở hạ tầng giao thông vận tải của đất nước, phục vụ cho việc công ngiệp hoá hiện đại hoá đất nước trong những năm tới 2. Mục tiêu kinh doanh của chi nhánh trong thời gian tới Trên cơ sở nhiệm vụ của chi nhánh đã được Công ty giao và thị trường kinh doanh đã được xác lập. Kế hoạch kinh doanh của chi nhánh trong những năm tới như sau : - Giữ vững thị trường và mặt hàng thương mại truyền thống với mức tăng trưởng bình quân 5% các mặt hàng như : nhựa đường, thiết bị thi công, săm lốp các loại, phưong tiện vận tải. - Tăng nhanh doanh số sản xuất và dịch vụ từ 30% đến 40%, chú trọng vào dịch vụ vận chuỷển hàng hoá nội địa và quốc tế, nhập khẩu uỷ thác và xây dựng công trình giao thông. - Phát triển thêm thị trưòng mới, tăng cường đầu tư cho các hoạt động nghiệp vụ. - Bồi dưỡng đào tạo, nâng cao nghiệp vụ cho cán bộ công nhân viên để thích ứng ngày càng cao với sự cạnh tranh gay găt của cơ chế thị trường.Với những kế hoạch trên, mục tiêu cụ thể của chi nhánh TRACIMEXCO Hà nội trong những năm tới như sau : + Tổng doanh thu của chi nhánh đến năm 2010 đạt mức 100 tỷ đồng + Xuất nhập khẩu đạt mức 80 tỷ đồng + Dịch vụ vận tải và các loại dịch vụ khác đạt mức 20 tỷ đồng + Nộp ngân sách nhà nước đạt mức 16 tỷ đồng + Lợi tức gộp đạt mức 12 tỷ đồng + Thu nhập bình quân đầu người đạt mức 3 triệu đồng/ tháng Ngoài các mục tiêu trên thì nhập khẩu luôn là khâu then chốt là trọng tâm phát triển của chi nhánh, đặc biệt là việc nhập khẩu vật tư, thiết bị, máy móc ngành giao thông vận tải. Chi nhánh đã lên kế hoạch nhập khẩu từng loại mặt hàng thiết bị với yêu cầu về thông số kỹ thuật phù hợp để cung cấp cho các đơn vị trúng thầu các công trình xây dựng cầu đường. Hiện nay trong cơ chế thị trường đấu thầu để cung ứng máy móc thIết bị thi công có sự cạnh tranh rất cao.Vì vậy chi nhánh TRACIMEXCO Hà nội không ngừng tìm hiểu thị trường ngoài nước nhằm nhập những hàng hóa tốt nhất, rẻ nhất, đa dạng về chủng loại để phù hợp với nhu cầu trong nước. trong bản dự kiến phương hướng phát triển của chi nhánh trong ba năm tới, nhập khẩu máy móc thiết bị làm đường chi nhánh phấn đấu đạt tốc độ tăng trưởng 10%/ năm trong đó chú trọng nhập khẩu các máy móc thiết bị chuyên dùng và dây chuyền sản xuất nguyên vật liệu phục vụ ngành giao thông vận tải II. những bIện pháp đẩy mạnh nhập khẩu vật tư máy móc thIết bị ngành gIao thông vận tảI tạI chI nhánh TracImexco hà nộI 1. Những biện pháp của chi nhánh Trong thời gian vừa qua hiệu quả hoạt động kinh doanh của chi nhánh TRACIMEXCO Hà nội đã thu được những thành tựu to lớn có những bước phát triển cả về chiều sâu và chiều rộng song vẫn còn nhiều hạn chế, chưa tận dụng triệt để những cơ hội, những thuận lợi và khả năng sẵn có của mình, chưa kiên quyết khắc phục những khó khăn nên hiệu quả kinh doanh nhập khẩu của chi nhánh đang có dấu hiệu phát triển chậm. Để phát triển hơn nữa nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh nhập khẩu, chi nhánh cần phải đưa ra những giải pháp hợp lý để hạn chế những khó khăn. a. Mở rộng thị trường. Kinh doanh trong cơ chế thị trường thì nghiên cứu để mở rộng thị trường có vai trò rất quan trọng, nó là đòi hỏi tất yếu đối với hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Nó quyết định đến khả năng tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp, qui mô thị trường, khách hàng và do đó quyết định đến hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp. Công tác nghiên cứu thị trường trong hoạt động kinh doanh nhập khẩu cho phép chi nhánh xác định được nhu cầu thị trường trong nước về số lượng, chất lượng, chủng loại hàng hoá, nghiên cứu được khả năng cung cấp của những công ty nhập khẩu trong nước để lập nên kế hoạch nhập khẩu của chi nhánh. Nghiên cứu thị trường nước ngoài cho phép chi nhánh thấy được đối tác nào có khả năng đáp ứng tối ưu thị trường trong nước.Tìm kiếm thị trường có vai trò rất quan trọng, vì vậytrên cơ sơ nghiên cứu thị trường chi nhánh đang từng bước xác định thị trường mục tiêu của mình. Tìm kiếm thị trường là cơ sở để chi nhánh mở rộng cả thị trường mua và thị trường bán. Nhìn chung, chi nhánh chưa có bộ phận riêng biệt để nghiên cứu và mở rộng thị trường, do vậy hoạt động kinh doanh của chi nhánh chủ yếu là các mối quan hệ có sẵn bạn hàng tự tìm đến nên việc tìm kiếm khách hàng vẫn còn hạn hẹp. Chính vì vậy chi nhánh đang thành lập bộ phận marketing để thực hiện các chức năng sau: - Nghiên cứu thị trường trong nước về hàng hoá nhập khẩu. - Tổ chức qiới thiệu sản phẩm, phương thức bán hàng nhằm thu hút khách hàng. - Nghiên cứu để lựa chọn nhà cung cấp đáp ứng tốt nhất nhu cầu của nhà nhập khẩu về chất lượng giá cả, chế đọ ưu đãi. Chi nhánh đang tập trung nghiên cứu thị trường trong ngành GTVT vì đây là thị trường chính của chi nhánh. Việc nghiên cứu thị trường là lý do chi nhánh xác định rõ nhu cầu hàng năm về các loại nguyên vật liệu ,nhu cầu đổi mới thay thế các loại máy móc thiết bị ngành giao thông vận tải, xác định nhu cầu về số lượng, chất lượng, giá cả của từng loại hàng hoá. Đối với thị trường ngoài ngành giao thông vận tải, đây là thị trường có nhiều khó khăn do có nhiều đối thủ cạnh tranh nên chi nhánh đã và đang ngiên cứu nhu cầu thị trường và giá cả của các nhà nhập khẩu đang cung cấp trước khi có quyết định nên tham gia. Thường thì chi nhánh tập trung vào nhập khẩu một số loại hàng hoá mà thị trường trong nước đang khan hiếm hoặc đang có nhu cầu cao, hàng hoá mà chi nhánh có lợi thế về nhà cung cấp như giá cả, chất lượng, có sức cạnh tranh hơn so với các nhà nhập khẩu khác. Chi nhánh có quan hệ khá tôt với các tổ chức thương mại, tổ chức tư vấn quốc tế để qua đó xác định rõ các thị trường cung cấp từng loại hàng hoá về giá cả, chất lượng , sau đó cân nhắc chi phí vận chuyển, uy tín bạn hàng và khả năng làm ăn lâu dài để quyết định nên nhập khẩu hàng hoá đó từ thị trường nào. Để đáp ứng được yêu cầu của hoạt động nghiên cứu, tìm kiếm và mở rộng thị trường, bước đầu chi nhánh đã chia bộ phận marketing làm hai nhóm công việc: nhóm nghiên cứu thị trường nhập khẩu, nhóm nghiên cứu thị trường trong nước. Vì vậy bước đầu chi nhánh đã thu được một số kết quả sau đây: -Nắm được đầy đủ nhu cầu về các loại nguyên vật liệu, máy móc thiết bị mà nhà sản xuất đang cần. -Trên cơ sở nghiên cứu thị trường ngoài ngành, chi nhánh đã xác định được cần nhập khẩu những loại hàng hoá nào cung cấp cho thị trường trong nước mà có thể thu được hiệu quả cao. -Xác định được giá cả,chất lượng của từng thị trường nhập khẩu cho từng loại hàng hoá nhập khẩu, từ đó quyết định lựa chọn thị trường nào là tối ưu nhất. b.Biện pháp sử dụng vốn hợp lý nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh nhập khẩu . HIện nay trong hoạt động kinh doanh nhập khẩu của chi nhánh còn gặp nhiều khó khăn về vốn. Muốn thực hiện những hợp đồng nhập khẩu hàng hoá mà không vốn dẫn đến bỏ lỡ cỏ hội đem lại lợi nhuận cho chi nhánh. Vốn luôn là vấn đề nóng bỏng mà các đơn vị kinh doanh xuất nhập khẩu quan tâm, có vốn sẽ giải quyết được rất nhiều những vướng mắc đang còn tồn tại trong hoạt động kinh doanh nhập khẩu của chi nhánh. Chính vì vậy để nâng cao hiệu quả kinh doanh nhập khẩu, chi nhánh đã có các biện pháp huy động vốn sau: -Từ cán bộ công nhân viên, khuyến khích kêu gọi mọi người cùng tham gia góp vốn sẽ được chi nhánh trả lãi suất cao. -Tạo những mối quan hệ tốt với các nhà thương mại để lấy chữ tín từ đó có thể bằng uy tín của mình để thoả thuận trong việc thanh toán chậm. giảm được chi phí ngân hàng. -Vay ngoại tệ cũng sẽ giảm bớt được lãi vay ngân hàng vì vay ngoại tệ lãi sẽ thấp hơn so với vay nội tệ. Điều này sẽ làm tăng hiệu quả trong việc sử dụng vốn vay. Hơn nữa, chi nhánh lại có mối quan hệ với ngân hàng ngoại thương trung ương, ngân hàng đầu tư phát triển Việt Nam.. nên việc vay vốn trở nên dễ dàng. Là một công ty nhập khẩu trực tiếp khi có vốn sẽ đẩy mạnh hoạt động kinh doanh. c. Đào tạo bồi dưỡng nghiệp vụ cho người lao động. Người lao động là một nhân tố quan trọng góp phần làm tăng hiệu quả quản lý và sử dụng vốn kinh doanh nói riêng cũng như hiệu quả kinh doanh nhập khẩu nói chung. Tuy nhiên trình độ nghiệp vụ của cán bộ công nhân viên trong chi nhánh còn hạn chế, vì vậy việc hoàn thiẹn cơ cấu tổ chức bộ máy của chi nhánh đòi hỏi đội ngũ cán bộ công nhân viên phải có kiến thức tổng hợp về nghiệp vụ thị trường.Để thực hiện được biện pháp trên, chi nhánh đã thực hiện một số công tác sau: -Đào tạo và bồi dưỡng lại đội ngũ cán bộ làm công tác quản lý cả về chuyên môn nghiệp vụ và tổ chức quản lý, giúp cho các trưởng phòng nghiệp vụ có thể tự tổ chức quản lý, sắp xếp lao động và hoạt động nhập khẩu của phòng hợp lý có hiệu quả. -Đối với độI ngũ nhân viên làm công tác chuyên môn thì kiến thức về ngoại thương rất cần thiết. Cùng với sự phát triển của kinh tế thị trường và xu hướng hội nhập giữa các nền kinh tế thế giới thì kiến thức chuyên môn về nghiệp vụ nhập khẩu của đội ngũ làm thương mại tại chi nhánh vẫn còn lạc hậu không theo kịp sự phát triển của nền thương mại thế giới. để đào tạo được đội ngũ cán bộ năng động, hiểu sâu về ngiệp vụ, chi nhánh đã thường xuyên tổ chức các lớp bồi dưỡng nghiệp vụ ngắn hạn cho đội ngũ nhân viên nghiệp vụ, tạo thuân lợi cho cán bộ nhân viên đi học, đào tạo ở các trường đại học. Bên cạnh đó chi nhánh luôn quan tâm tới đời sống vật chất tinh thần của cán bộ công nhân viên, áp dụng hình thức trả lương khen thưởng, khuyến khích về vật chất tinh thần. d. Đa dạng hoá phương thức thanh toán, đồng tiền thanh toán. Trong ngiệp vụ kinh doanh xuất nhập khẩu,việc sử dụng phương thức thanh toán cũng góp phần tăng kết quả kinh doanh. Lựa chọn phương thức thanh toán phụ thuộc vào điều kiện giao hàng, mối quan hệ bạn hàng lâu dài hay chỉ co thời gian ngắn , đồng tiền thanh toán, thời hạn thanh toán v.v Ngoài thanh toán bằng L/C thư tín dụng, điện chuyển tiền được sử dụng phổ biến hiện nay, bước đầu chi nhánh đã sử dụng một số phương thức thanh toán sau: -Thanh toán bằng L/C: đây là hình thức thanh toán phổ biến của chi nhánh hiện nay, nó đảm bảo quyền lợi cho chi nhánh khi muốn quan hệ làm ăn với một tổ chức kinh tế khác. -Thanh toán bằngchứng từ: đây là hình thức thường áp dụng với các bạn hàng quen biết, thanh toán bằng chứng từ thuận tiện và nhanh, có thể dùng phương thức nhờ thu,nhờ trả hoặc kèm theo chứng từ. Đa dạng hoá các phương thức thanh toán sử dụng khéo léo linh hoạt các phương thức thanh toán cũng góp phần giảm chi phí giao dịch, tăng lợi nhuận. Lựa chọn đồng tiền thanh toán thích hợp khi nhập khẩu cần phải chú ý đên các yếu tố như ý muốn của người nhập khẩu, thời gian của hợp đồng, khả năng chuyển đổi tự do của đồng tiền, chính sách của nhà nước. Hiện nay chi nhánh đang sử dụng đồng tiền ngoại tệ mạnh Đôla Mỹ là một ngoại tệ ổn định nhất và đông tiền Yên Nhật vì bạn hàng nhập khẩu chủ yếu của công ty là Nhật Bản.Tuy nhiên có thể thanh toán, lựa chọn đồng tiền thanh toán nếu như nó đem lại giá lớn hơn sau khi qui đổi. Vì vậy đa dạng hoá sử dụng đồng tiền thanh toán cũng nâng cao hiệu quả kinh doanh nhập khẩu. e.Xác định mặt hàng nhập khẩu chủ lực Cùng với việc xây dựng phương án kinh doanh nhập khẩu thì việc đưa ra những phương án kinh doanh nhập khẩu mặt hàng chủ lực để tập trung khai thác lợi thế của chi nhánh, định hướng kinh doanh nhập khẩu mặt hàng đó lâu dài cho. Xác định mặt hàng chủ lực chi nhánh dựa vào các yếu tố sau: - Có thị trường tiêu thụ tương đối ổn định và luôn có điều kiện cạnh tranh trên thị trường. - Có kim ngạch nhập khẩu của mặt hàng đó chiếm tỷ trọng lớn trong toàn bộ kim ngạch nhập khẩu hàng hoá của chi nhánh. - Có vai trò thúc đẩy hoặc tạo ra năng lực sản xuất mới, được nhà nước khuyến khích và tạo điều kiện cho việc nhập khẩu mặt hàng đó. Căn cứ vào các yếu tố trên thì mặt hàng nhập khẩu chủ lực của chi nhánh trong thời gian tới vẫn là mặt hàng máy móc thiết bị vật tư xây dựng phục vụ cho ngành GTVT. f.Chủ động chuyển dịch cơ cấu mặt hàng nhập khẩu bảo đảm hiệu quả kinh doanh. Cùng với sự phát triển của đất nước, sự công nghiệp hoá hiện đại hoá ,sản xuất trong nước đòi hỏi phải nhập khẩu những vật tư thiết bị máy móc có chất lượng cao, kỹ thuật tiên tiên mà trong nước không có khả năng tự cung cấp. Vì vậy nếu chi nhánh không chú trọng vào việc thay đổi cơ cấu mặt hàng nhập khẩu thì khó có thể đứng vững trong cơ chế thị trường hiện nay, đặc biệt đối với vật tư máy móc phục vụ cho xây dựng công trình giao thông. Tuy nhiên, việc thay đổi cơ cấu mặt hàng nhập khẩu còn phụ thuộc một phần vào nguồn hàng nhập khẩu từ các thị trường khác nhau. Trong điều kiện kinh doanh theo cơ chế thị trường tuy chi nhánh có nhiều lợi thế về nguồn hàng, nhưng do sự thay đổi chính sách của nhà cung cấp nguồn hàng và chính sách của nhà nước ta, có thể tạo ra nhiều đối thủ cạnh tranh của chi nhánh ngay cả với các mặt hàng mà chi nhánh đang có ưu thế. Để đạt hiệu quả cao trong kinh doanh nhập khẩu chi nhánh đã có định hướng thay đổi cơ cấu mặt hàng nhập khẩu phù hợp với xu hướng biến động của thị trường trong nước, việc thay đổi cơ cấu mặt hàng đòi hỏi chi nhánh phải xem xét kỹ lưỡng những vấn đề thực trạng nhập khẩu của mặt hàng mới như: đặc điểm, chủng loại hàng hoá đó về đặc tính kỹ thuật, đặc điểm tiêu thụ, tính công nghệ. Những doanh nghiệp nao đã và đang kinh doanh mặt hàng này với số lượng bao nhiêu. Chính sách của nhà nước hiện tại và tương lai đối với mặt hàng đó. Những bạn hàng đáng tin cậy sẵng sàng mua mặt hàng đó. Như vậy việc bổ sung và hoàn thiện cơ cấu mặt hàng sẽ góp phần nâng cao hiệu quả kinh doanh nhập khẩu của chi nhánh. 2. Những giải pháp bên ngoài có sự tác động đến hoạt động nhập khẩu của chi nhánh Bước sang cơ chế mới, thực hiện các chính sách đổi mới mở cửa, đa dạng hoá, đa phương hoá trong các quan hệ kinh tế đối ngoại thì hoạt động kinh doanh nhập khẩu ngày càng được chú trọng bởi tầm quan trọng của nó đối với sự phát triển của nền kinh tế. Trong thời đại ngày nay ,để tiến nhanh tiến mạnh cho kịp với nền kinh tế thế giới thì hoà nhập và mở rộng các mối quan hệ trên trường quốc tế là điều bắt buộc. để thành công trong kinh doanh, ngoài nỗ lực và hướng đi đúng đắn của mình thì chi nhánh còn phải phụ thuộc rất nhiều vào chủ trương chính sách của nhà nước cũng như bộ chủ quản, thông qua các chế độ, chính sách, pháp luật, kế họach nhà nước tạo ra hành lang pháp lý, môi trường kinh doanh hoàn hảo bình đẳng cho nền kinh tế hoạt động hiệu quả. Các chế độ chính sách được đưa ra một cách khoa học phù hợp với thực tế sẽ thúc đẩy nền kinh tế phát trIển, tạo điều kiện cho các doanh ngiêp hoạt động tốt và ngược lại, sẽ kìm hãm sự phát triển của các chủ thể trong nền kinh tế a. chính sách đối ngoại cua nhà nước Chính sách kinh tế đối ngoại của nhà nước cần tiếp tục mở rộng và tăng cường theo hướng đa dạng hoá, đa phương hoá các mối quan hệ. Trong phương diện kinh tế nhà nước nên xác định đúng các khu vực thị trường trên thế giới có lợi cho nền kinh tế Việt nam để có phương hướng tiếp cận từ phía nhà nước, tạo bước đệm cho các doanh nghiệp nhà nước. Với quan hệ gắn bó giua hai nhà nước sễ tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh ngiệp của hai quốc gia trao đổi, tận dụng lợi thế của nhau cùng phát triển trong môi trường thuế quan mậu dịch, dựa trên sự bình đẳng hai bên cùng có lợi. b. chính sách thuế. Thuế là nguồn thu chủ yếu của ngân sách nhà nước và cũng là một trong những cách thức bảo hộ sản xuất trong nước. Chính sách thuế đòi hỏi phải thống nhất bình đẳng với mọi cơ sở sản xuất kinh doanh nếu hoạt động trong mọi lĩnh vưc, tránh hiện tượng bảo hộ nâng đỡ tạo ra sự độc quyền đi ngược lại quy luật kinh tế thị trường Đối với hàng nhập khẩu nhà nước cần từng bước hạ mức thuế nhập khẩu theo từng thời điểm thích hợp với tiến độ hoà nhập của nền kinh tế nước ta vào xu hướng phát triển chung của kinh tế thế giới Với mặt hàng vật tư thiết bị ngành giao thông vận tải, việc quy định thuế suất của nhà nước vẫn còn không phù hợp chẳng hạn như thuế xuất nhập khẩu một số mặt hàng có sự chênh lệch quá cao dẫn tới việc nhập khẩu hạn chế, không cung cấp đủ cho người tiêu dùng đồng thời cũng không khuyến khích được các nhà nhập khẩu trong nước. Do tình hình biến động nhà nước luôn thay đổi biểu thuế xuất nhập khẩu đối với các mặt hàng vì vậy gây khó khăn rất lớn trong việc định giá và xây dựng kế hoạch xuất nhập khẩu ảnh hưởng không nhỏ đến tình hình sản xuất kinh doanh của doanh ngiệp. Chính vì vậy nhà nước phải có chính sách ổn định về thuế đối với các loại hàng hoá nhập khẩu tạo điều kiện cho các doanh ngiệp xuất nhập khẩu xây dựng chiến lược kinh doanh lâu dài của mình. Nhà nước nên đIều chỉnh hợp lý biểu gIá thuế đối với tất cả các mặt hàng đặc biệt là thiết bị toàn bộ và thiết bị lẻ đã qua sử dụng. c..Quản lý hoạt động xuất nhập khẩu. Nhà nước cần quản lý hoạt động xuất nhập khẩu bằng pháp luật và bằng giáy phép hạn ngạch, qua đó tự điều tiết thị truòng vĩ mô. dựa trên mức độ phát triển chung của nền kinh tế cũng như từng lĩnh vực cụ thể. Nhà nước thông qua các cơ quan, bộ máy của mình dể cân đối giữa tổng cung và tổng cầu. Từ đó xác định nhu cầu cho từng ngành, từng lĩnh vực để xem xét cấp giấy phép hạn ngạch cho các doanh ngiệp. Để doanh ngiêp đạt được hiệu quả trong hoạt động kinh doanh yêu cầu từ phía doanh ngiệp phải có sự ổn định về môi trường kinh doanh, chính sách thuế và giá cả. điều đó đòi hỏi nhà nước cần thực hiện tốt các chức năng. định hướng sự phát triển kinh tế trong từng thời kỳ, tránh sự can thiệp quá sâu vào quá trình kinh doanh của doanh nghiệp. d. hoàn thiện thủ tục thông quan hàng hoá Để phục vụ hoạt động kinh doanh của các doanh ngiệp thuộc các thành phần kinh tế. Ngành hải quan, một trong những cơ quan liên quan trực tiếp đến hoạt động kInh tế đối ngoại cần đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính trong lĩnh vực liên quan, cần công khai hoá tất cả các quy định, chính sách pháp luật lien quan đên thông quan hàng hoá xuất nhâp khảu nhằm giúp doanh nghiệp chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật, đồng thời có thể kiểm tra lại nghành hải quan, tránh tình trạng quan liêu để giảm thời gian đi lại chờ đợi của doanh nghiệp khi làm thủ tục nhập hàng, nghành hải quan cần phải cải tiến hơn nữa nghiệp vụ, giải quyết trực tiếp, một cửa. Nên áp dụng cho khải báo trước khi tầu cập cảng hoặc cho khải báo một lần cho một lượng hàng xuât nhâp trong khoảng một thời gian nhất định. e. quản lý thị trường Thời gian vứa qua khâu quản lý thị trường còn lỏng lẻo, hiện tượng hàng giả buôn lậu có chiều hướng gia tăng gây khó khăn cho những doanh nghiệp làm ăn đúng pháp luật, buôn lậu và hàng giả đang là vấn đề nhức nhối làm thất thu ngân sách nhà nước, rối loạn thị trường, tạo môi trường cạnh tranh không lành mạnh, chính vì vậy nhà nước nên có những biện pháp mạnh để quản lý thị trường chặt chẽ, tạo môi trường cạnh tranh bình đẳng giữa các doanh nghiệp. Nên tiến hành kiện toàn lại các đơn vị quản lý thị trường, phân công hợp lý tránh tình trạng dẫm chân, chồng chéo lên nhau hoặc bỏ trống. Nhà nước cần hoàn thiện luật tổ chức hành chính, trong đó quy định rõ chức năng, quyền hạn của các cơ quan, tiến hành sắp xếp theo hướng tinh giảm và hiệu quả. III. một số đIều kIện để thực hIện gIảI pháp đẩy mạnh nhập khẩu và quản lý nhập khẩu. 1.Về thủ tục hành chính Nhu cầu về máy móc thiết bị phục vụ cho công nghiêp hoá, hiện đại hoá đất nước luôn đòi hỏi các doanh ngiệp nhập khẩu trong nước phải không ngừng tự hoàn thiện mình, chúng ta cần học hỏi kỹ thuật của nước ngoài, do vậy phải tiếp tục ưu tiên hơn nữa việc nhập khẩu máy móc thiết bị. Thời gian qua do chạy theo lợi nhuận, nghiệp vụ nhập khẩu còn yếu nên đã nhập khẩu nhiều thiết bị cũ, không có giá trị kinh tế từ nước ngoài về. Trong hoạt động kinh doanh nói chung và hoạt động ngoại thương nói riêng thủ tục hành chính đóng vai trò rất quan trọng trong việc quyết định hiệu quả hoạt động kinh doanh của doanh ngiệp. Thủ tục hành chính là cơ sở pháp lý, là đường dẫn giúp doanh ngiệp thực hiện nhiệm vụ của mình. Chính sách nhập khẩu của Việt Nam trong thời gian qua đã có những chuyển biến tích cực nhằm phù hợp với tình hình phát triển của nền kinh tế quốc dân và để phục vụ cho chiến lược kinh tế. Nhưng có một thực tế đó là: khi chính sách được ban hành ra sau một thời gian ngắn lại có sự thay đổi đột ngột không ổn định trong khi các văn bản hướng dẫn thực hiện thường ra chậm và phổ biến chưa kịp thời gây ra cản trở cho các công ty kinh doanh. Nhiều chủ trương, chính sách của Nhà nước có Công ty không biết để chấp hành. Chính vì vậy trong thời gian tới để góp phần hoàn thiện hoạt động nhập khẩu của doanh ngiệp Việt Nam nói chung và của chi nhánh nói riêng Nhà nước cần có những biện pháp sau: - Nhanh chóng ban hành đồng bộ các văn bản hướng dẫn luật thương mại, chính sách được ban hành cần phải nhất quán, minh bạch, rõ ràng, có thể phán đoán trước được và phù hợp với thông lệ quốc tế đồng thời phải tổ chức tuyên truyền nhanh chóng, kịp thời có như vậy mới giúp cho các Công ty không bị mất phương hướng trong hoạt động kinh doanh nhập khẩu - Giảm bớt sự chồng chéo trong việc kiểm tra, kiểm soát các hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu. - Tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh ngiệp tiến hành nghiên cứu, tìm kiếm thị trường nhập khẩu, hỗ trợ và khuyến khích cử cán bộ ra nước ngoài tìm kiếm và thiết lập quan hệ với đối tác nước ngoài. Trong những năm qua, môi trường kinh doanh ở Việt Nam đã có nhiều đổi mới. Nhà nước không ngừng đưa ra các chủ trương chính sách nhằm khuyến khích, thúc đẩy hoạt động kinh doanh phát triển song so với các quốc gia trong khu vực và trên thế giới thì môi trường kinh doanh của chúng ta cần được cải thiện hơn nữa trong thời gian tới. Để làm được đIều này trước hết chúng ta cần tiếp tục giữ vững sự ổn định về kinh tế, chính trị-luật pháp, kiên trì và đẩy mạnh hơn nữa việc phát triển nền kinh tế theo cơ chế thị trường. Chú trọng thu hút các nguồn vốn từ bên ngoài và các nguồn vốn hiện có trong dân để cải thiện và xây dựng cơ sở hạ tầng phục vụ đắc lực cho hoạt động sản xuất kinh doanh. Đơn giản hóa các thủ tục hành chính bằng cách thực hiện chính sách một cửa một dấu. Nhất quán thực hiện chủ trương đa dạng hóa sự tham gia của các chủ thể kinh doanh trong lĩnh vực xuất nhập khẩu. Tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh và bình đẳng giữa các Công ty thuộc mọi thành phần kinh tế, không phân biệt kinh tế Nhà nước hay kinh tế tư nhân. Các quy định, nghị định, thông tư ban hành phải được thống nhất từ trên xuống dưới và cần phải được thực hiện một cách nghiêm túc. 2. Hoàn thiện hệ thống luật pháp Chính phủ Việt Nam trong suốt những năm qua đã cố gắng hết mình để tạo ra một hành lang pháp lý thông thoáng nhằm tạo điều kiện cho việc tự do hóa hoạt động kinh tế đối ngoại. Chính sách của Nhà nước đối với lĩnh vực ngoại thương ngày càng tỏ ra dễ chịu hơn cho các doanh ngiệp. Nếu như trước đây nhà nước thực hIện chính sách độc quyền ngoại thương thì sang thời kỳ đổi mới chính sách này càng được nới lỏng. Sau năm 1998, với nghị định 57/CP, các doanh ngiệp trong nước được tự do xuất khẩu tất cả các mặt hàng không có trong danh mục mà Nhà nước quản lý. Đây thực sự là một thay đổi mang tính chất bước ngoặt đối với ngành thương mại nước ta. Tuy nhiên ngoài chủ trương đúng đắn rất kịp thời đó thì những chính sách đi vào cụ thể vẫn còn nhiều bất cập. Nhà nước trao quyền xuất nhập khẩu trực tiếp cho tất cả các doanh ngiệp nhưng thực tế không phải doanh ngiệp nào cũng có thể tham gia xuất nhập khẩu trực tiếp được. Thủ tục giấy tờ Hải quan phức tạp và những đòi hỏi khắt khe của các ngân hàng trong việc thanh toán là những cản trở chính đối với các doanh ngiệp tư nhân non trẻ. "Pháp lệnh về hợp đồng kinh tế " ra đời từ năm 1989 và cho đến nay được áp dụng trong hầu hết các hợp đồng kinh tế và hợp đồng ngoại thương song hành với luật và tập quán TMQT. Thế nhưng hiện nay các DN VIệt Nam thường không tuân thủ những điều kiện được ghi rõ trong hợp đồng. Do khó khăn về vốn và không coi trọng chữ tín nên sự chiếm dụng vốn bất hợp pháp là tình trạng rất phổ biến. Những vi phạm các điều khoản của hợp đồng nhất là điều khoản thanh toán nhiều khi rất rõ ràng nhưng người bị vi phạm thường phải "ngậm bồ hòn làm ngọt". Cách tốt nhất cho các DN bị vi phạm hợp đồng để đòi được tiền là chia sẻ lợi nhuận cho họ mới mong được thanh toán sớm. Số tiền "hoa hồng" đó có thể không lớn so với việc đi kiện mà thủ tục hết sức phức tạp, có khi tiền được kiện còn không đủ bù đắp những chi phí bỏ ra. Để giải quyết được vấn đề này thì các nhà làm luật phải xuất phát từ thực tế để khắc phục những chỗ chưa kín kẽ. Hệ thống luật của chúng ta hiện thay đổi liên tục và còn nhiều chồng chéo. Sự ăn khớp giữa các cơ quan thực thi pháp luật còn rất tương đối. Dĩ nhiên người chịu thiệt thòi ở đây là các DN. Đặc biệt là các doanh ngiệp nhập khẩu. 3. Cải cách hệ thống thuế nhập khẩu Hệ thống thuế của Việt Nam trong những năm gần đây mặc dù đã có sửa đổi nhưng vẫn còn tồn tại một số điểm bất hợp lý, có ảnh hưởng tiêu cực đến hoạt động sản xuất kinh doanh và hoạt động XNK. Do đó, vấn đề cấp bách hiện nay là phải tạo được một chính sách thuế hoàn hảo. Để phù hợp với chiến lược phát triển kinh tế xã hội trong giai đoạn mới, việc cải tạo hệ thống thuế trước hết phải đảm bảo sự tăng nguồn thu cho ngân sách quốc gia, tạo vốn để thực hiện CNH-HĐH nền kinh tế đồng thời phải đảm bảo việc động viên hợp lý, khuyến khích mọi thành phần kinh tế đầu tư góp phần thúc đẩy kinh doanh. Hơn nữa, chính sách thuế phải đảm bảo đơn giản, dễ hiểu, dễ thực hiện, khuyến khích XNK và đầu tư đối ngoại. Chính vì vậy hệ thống thuế nói chung và hệ thống NK nói riêng phải bao gồm được nội dung: Ban hành một hệ thống thuế đồng bộ xem xét lại các nội dung, phạm vi điều hành hoàn chỉnh và thuế suất. Bên cạnh đó Quốc hội cũng cần xem xét và điều chỉnh việc miễn giảm thuế đối với một số mặt hàng NK. Như vậy đối với tất cả các DN sản xuất và kinh doanh hàng hóa dịch vụ khi được hoạt động trong một môi trường vĩ mô với các điều kiện thuận lợi chắc chắn sẽ đạt được thành công hơn. Kết luận Xu hướng toàn cầu hoá, hội nhập với nền kinh tế thế giới đang là trào lưu, là cơ hộI cho các nước phát triển cũng như các nước đang phát triển tăng cường sức mạnh kinh tế, thoát khỏi sự nghèo đói, Việt nam cũng không nằm ngoài quy luật trên. Tuy nhiên hội nhập hoàn toàn cũng đặt ra nhiều vấn đề cho nền kinh tế thị trường non trẻ của nước ta. Để phát huy hết những thuận lợi mà xu hướng hội nhập và toàn cầu hóa đem lại, hạn chế những khó khăn thì hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu chính là một biện pháp tích cực để giải quyết vấn đề trên. Nhập khẩu đóng một vai trò rất quan trọng trong nền kinh tế quốc dân, nó giúp nền kinh tế còn lạc hậu của nước ta nắm bắt được những kỹ thuật tiên tiến trên thế giới, đi tắt đón đầu. Tuy nhiên để làm được điều đó thì vấn đề hiệu quả của hoạt động kinh doanh nhập khẩu cần phải đựơc nghiên cứu kỹ. Chính vì vậy với đề tài “ Đẩy mạnh hoạt động nhập khẩu vật tư thiết bị ngành giao thông vận tải tại chi nhánh Tracimexco Hà nội “ . Em mong được phần nào đóng góp một số ý kiến cá nhân của mình qua những gì đã học ở nhà trường để góp một phần nhỏ vào quá trình kinh doanh của chi nhánh. Được sự hướng dẫn nhiệt tình của GS.TS Đặng Đình Đào và Ths. Nguyễn Minh Sơn cùng với sự giúp đỡ của các anh chị trong chi nhánh,Em đã hoàn thành chuyên đề tốt nghiệp trên, tuy nhiên với vốn kiến thức còn nhiều hạn chế nên chuyên đề không tránh khỏi những sai sót, rất mong nhận được những ý kiến đóng góp từ thầy cô để chuyên đề được hoàn chỉnh hơn. tàI lIệu tham khảo Báo cáo tài chính của chi nhánh công ty xuất nhập khẩu và hơp tác đầu tư giao thông vận tải Hà nội. năm 2002, 2003, 2004 Báo cáo kế hoạch kinh doanh năm 2002, 2003, 2004 Giáo trình quản trị doanh nghiệp – Trường Đại học KTQD Giáo trình quản trị kinh doanh xuất nhập khẩu - Trường Đại học KTQD Giáo trình kinh tế thương mại - Trường Đại học KTQD – Khoa TM Quản trị Marketing - Trường Đại học KTQD Tạp chí giao thông vận tải – Bộ GTVT Thời báo kinh tế Việt Nam ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc28961.doc
Tài liệu liên quan