Đẩy mạnh tiêu thụ nông sản hàng hoá tại trung tâm Tiếp thị - Triển lãm nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam

Tài liệu Đẩy mạnh tiêu thụ nông sản hàng hoá tại trung tâm Tiếp thị - Triển lãm nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam: ... Ebook Đẩy mạnh tiêu thụ nông sản hàng hoá tại trung tâm Tiếp thị - Triển lãm nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam

doc69 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1413 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Đẩy mạnh tiêu thụ nông sản hàng hoá tại trung tâm Tiếp thị - Triển lãm nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Më ®Çu Trong quá trình phát triển và hội nhập kinh tế thế giới, ngành nông nghiệp có những đóng góp vô cùng quan trọng. Nước ta từ một nước thiếu lương thực trầm trọng vào trước năm 1986 thì đến nay nông nghiệp trong nước được sản xuất ra không những đáp ứng cho nhu cầu của người dân trong nước mà còn có một lượng lớn để xuất khẩu thu ngoại tệ cho đất nước. Xong nước ta vẫn cơ bản là nước nông nghiệp, vì thế hàng nông sản của nước ta trở lên có vai trò rất quan trọng đối với phần lớn người dân. Người dân ngoài việc sản xuất ra sản phẩm nông sản thì qua nhiều quá trình những sản phẩm đó mới tới được tay người tiêu dùng, điều này gây thiệt hại về lợi ích cho người dân. Vì thế việc tiêu thụ nông sản là một việc cần thiết và quan trọng trong việc nâng cao giá trị hàng nông sản mà còn giúp cho các hộ nông dân có sự ổn định về thu nhập, đồng thời tăng số lượng cũng như chất lượng sản phẩm. Hội chợ triển lãm là một trong những hình thức xúc tiến của thương mại. Tại cuộc triển lãm hội chợ diễn ra đầy đủ các quá trình của xúc tiến như: quảng cáo, khuyến mại, bán hàng, tiêu thụ sản phẩm…Vì vậy mà hội chợ triển lãm có vai trò to lớn đối với việc thúc đẩy quá trình tiêu thụ nông sản. Trong quá trình hình thành và phát triển của Trung tâm tiếp thị và triển lãm nông nghiệp nông thôn (VAFEC) trung tâm đã đạt được nhiều thành tựu to lớn về doanh thu. Trung tâm là đơn vị chuyên tổ chức các cuộc triển lãm hội chợ về các sản phẩm nông nghiệp, góp phần quan trọng vào việc thúc đẩy quá trình tiêu thụ nông sản hàng hoá và đẩy nhanh quá trình phát triển sản xuất hàng hoá trong nông nghiệp trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế. Vì vậy tôi đã chọn đề tài: " Một số giải pháp chủ yếu nhằm đẩy mạnh tiêu thụ nông sản hàng hoá tại trung tâm Tiếp thị- Triển lãm nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam". để nghiên cứu chuyên đề tốt nghiệp. Mục đích của chuyên đề là đi sâu vào phân tích đánh giá thực trạng về tiêu thụ nông sản hàng hoá qua trung tâm tiếp thị triển lãm nông nghiệp. Qua đó rút ra được những kết quả đã đạt được và những còn mặt hạn chế cùng với các nguyên nhân của nó để làm cơ sở cho việc vạch ra phương hướng và các giải pháp tiếp tục hoàn thiện trong thời gian tới, nhằm đẩy mạnh hơn việc tiêu thụ nông sản hàng hoá góp phần thúc đẩy nông nghiệp nước ta phát triển nhanh sản xuất hàng hoá, hướng nhanh về xuất khẩu. Nội dung nghiên cứu của chuyên đề gồm 3 chương: Chương I: Những lý luận chung về tiêu thụ hàng hoá nông sản. Chương II: Thực trạng tiêu thụ nông sản hàng hoá qua triển lãm hội chợ của VAFEC. Chương III: Những biện pháp nhằm tiêu thụ nông sản thông qua triển lãm hội chợ của VAFEC. Đề tài đã sử dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu như: phương pháp duy vật biện chứng, phương pháp duy vật lịch sử, phương pháp thông kê, phương pháp phân tích kinh tế... Để phục vụ cho việc nghiên cứu thêm sâu sắc và toàn diện hơn, do thời gian thực tập và trình độ có hạn nên vài chuyên đề không tránh khỏi những thiếu xót rất mong được sự góp ý của thầy cô và các bạn. Ch­¬ng I: Nh÷ng lý luËn chung vÒ tiªu thô n«ng s¶n hµng ho¸. I. Vị trí, vai trò, đặc điểm của tiêu thụ nông sản hàng hoá. 1. Thực chất của tiêu thụ nông sản hàng hoá. Có nhiều cách hiểu khác nhau về nông sản hay nông phẩm. Theo nghĩa rộng thì nông sản (hay nông phẩm) là sản phẩm do nghành nông nghiệp cung cấp, còn “ nông sản hàng hoá ” lá nông sản được sản xuất ra để đưa ra thị trường để bán. Ở nước ta thì trước khi thực hiện đổi mới kinh tế vào năm 1986 thì hàng nông sản nước ta nói riêng, hàng hoá nước ta nói chung chủ yếu là sản xuất ra với mục đích chủ yếu là để đáp ứng nhu cầu của chính người dân, nếu người dân dùng đủ thì lượng sản phẩm thừa mới được mang ra bán trên thị trường. Khi đó hàng hoá nông sản nước ta có mặt trên thị trường rất ít. Nhưng từ khi nước ta tiến hành đổi mới kinh tế và từng bước hội nhập nền kinh tế thế giới, đặc biệt là nước ta vừa gia nhập tổ chức thương mại thế giới (WTO) thì hàng nông sản ở nước ta xuất hiện trên thị trường mới theo đúng bản chất là hàng hoá. Nông sản hàng hoá chủ yếu được giới hạn trong đề tài là một số mặt hàng nông sản hiện nay và trong giai đoạn 2001-2010 sẽ đóng vai trò quan trọng trong quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế và được thể hiện qua tỷ trọng kim ngạch xuất khẩu, vai trò cung cấp nguyên liệu cho công nghiệp chế biến và có lợi thế cạnh tranh trên thị trường. Tiêu thụ sản phẩm nông sản là một khâu trong quá trình sản xuất. Đây là khâu cuối cùng của quá trình sản xuất, trong đó giá trị của sản phẩm được thực hiện thông qua việc tiêu thụ. Thực hiện tốt việc tiêu thụ nông sản tức là kết thúc quá trình sản xuất hay chính là việc giải quyết đầu ra của quá trình xuất. Trong phạm vi nghiên cứu của đề tài tiêu thụ nông sản bao gồm các mặt hàng chủ yếu của nước ta: lúa gạo, cà phê, mía đường, cao su và thuỷ sản. Trong kinh tế thị trường, tiêu thụ sản phẩm luôn là vấn đề thường trực trong bất cứ người sản xuất nào. Vì vậy tiêu thụ nông sản hàng hoá cũng không phải là ngoại lệ. Vấn đề ở chỗ, trong quá trình đổi mới nước ta, khi mà sản phẩm nông nghiệp chưa làm ra nhiều, mức tiêu thụ tính theo đầu người về tất cả các loại sản phẩm nông nghiệp còn thấp… thì việc tiêu thụ nông sản còn rất thấp, điều này gây ảnh hưởng đến người sản xuất. Họ không an tâm vào sản xuất nông nghiệp, trong khi đó khi sản phẩm được sản xuất ra thì luôn bị chén ép và thua thiệt trên thị trường trong và ngoài nước. Tiêu thụ nông sản đã trở thành vấn đề hết sức bức xúc. Vì vậy cần phải có biện pháp đẩy mạnh tiêu thụ hàng hoá để kích cầu, nhằm góp phần vào sự tăng trưởng và phát triển kinh tế của đất nước. 2. Vị trí, vai trò của tiêu thụ nông sản hàng hoá. 2.1. Vị trí và vai trò của tiêu thụ nông sản hàng hoá. Tiêu thụ Sản phẩm Sản xuất Các yếu tố Sản xuất Tiêu thụ nông sản là khâu cuối cùng của quá trình sản xuất kinh doanh. Thước đo giá trị sản phẩm hàng hoá được thể hiện thông quá quá trình tiêu thụ. Đây là quá trình đưa sản phẩm từ nơi sản xuất đến tay người tiêu dùng. Quá trình sản xuất bao gồm: Tổ chức tốt khâu tiêu thụ sản phẩm sẽ có tác dụng rất mạnh mẽ đến quá trình sản xuất. Tiêu thụ hết và kịp thời sản phẩm kinh doanh là điều kiện rất tốt để quá trình sản xuất kinh doanh diễn ra liên tục, giảm bớt tình trạng ứ đọng sản phẩm. Trong kinh doanh việc tiêu thụ sản phẩm được thực hiện tốt sẽ kéo theo nhiều vấn đề tích cực như việc thúc đẩy các quá trình khác trong dây chuyền sản xuất được diễn ra nhịp nhàng và liên tục. Góp phần tạo ổn định việc làm cho người lao động, đồng thời sử dụng hợp lý nguồn vốn và nhanh chóng thực hiện quá trình tái sản xuất. Đồng thời làm giảm bớt thời gian lưu thông, rút ngắn được thời gian sản xuất. Vì thế có thể nói rằng tiêu thụ tốt sản phẩm nông sản là một tín hiệu tốt đối với nhà sản xuất. Ngược lại thì đó là tín hiệu không tốt đối với các cơ sở sản xuất kinh doanh. Chính vì thế mà các cơ sở sản xuất kinh doanh đều cố gắng thực hiện tốt khâu tiêu thụ. Trong nền kinh tế thị trường thì, sản xuất phải hướng tới người tiêu dùng và lấy tiêu dùng làm mục tiêu để sản xuất kinh doanh . Vì thế tiêu thụ sản phẩm hướng tới người tiêu dùng vậy nên các sản phẩm được sản xuất ra với mục tiêu chủ yếu là để bán ra thị trường .Do vậy khi sản xuất kinh doanh các cơ sở sản xuất đều chú trọng đến vấn đề tiêu thụ sản phẩm. Các sản phẩm tiêu thụ không những đáp ứng được nhu cầu của thị trường về mẫu mã, chủng loại mà cần phải đáp ứng cả về chất lượng sản phẩm. Tiêu thụ sản phẩm là hoạt động trong lĩnh vực lưu thông, có nhiệm vụ chuyển tải những kết quả của lĩnh vực sản xuất sang lĩnh vực tiêu dùng vì vậy tiêu thụ sản phẩm kịp thời và nhanh chóng là tiền đề quan trọng trong quá trình thực hiện phân phối sản phẩm và kết thúc quá trinh sản xuất nông nghiệp. 2.2 Sự cần thiết của việc tiêu thụ nông sản hàng hoá ở thị trường nông thôn. Kinh tế nông thôn có vai trò rất quan trọng trong quá trình Công nghiệp hoá- hiện đại hoá đất nước. Các nước đang phát triển sẽ không có sự phát triển quốc gia nếu không có sự phát triển nông thôn. Những vấn đề cốt lõi của nghèo đói, bất công tăng lên, dân số gia tăng nhanh chóng và thất nghiệp ngày càng tăng đều có nguồn gốc ở sự trì trệ và thụt lùi của hoạt động kinh tế nông thôn so với thành thị. Do vậy mà phát triển nông nghiệp và nông thôn là cơ sở để thúc đẩy phát triển kinh tế của đất nước. Đất nước ta có gần 80% dân cư sống ở nông thôn do vậy mà nhu cầu tiêu thuh hàng hoá là rất lớn, đặc biệt là hàng hoá nông sản. Nhưng hiện nay nhu cầu tiêu thụ hàng hoá nói chung và hàng hoá nông sản nói riêng còn rất hạn chế. Vậy muốn nền kinh tế nước ta phát triển ta phải kích cầu, muốn kích cầu phải chú trọng kích cầu nông thôn, mà muốn kích cầu nông thôn thì trước hết cần tiêu thụ nông sản với giá hợp lý và khôi phục các làng nghề, tạo công ăn việc làm để nông dân có nhu thu nhập, tăng sức mua và khả năng cạnh thanh toán. Chỉ có trên cơ sở đó thị trường nông thôn mới sôi động như chúng ta mong muốn. Khi thu nhập, sức mua và khả năng thanh toán của nông dân tăng, thị trường tiêu thụ các sản phẩm công nghiệp, dịch vụ cũng phát triển theo, tạo điều kiện thúc đẩy công nghiệp phát triển, nhanh chóng đưa nước ta trở thành nước công nghiệp. 3. Đặc điểm của tiêu thụ nông sản. 3.1 Đặc điểm của tiêu thụ nông sản đối với thị trường trong nước. Hàng nông sản gắn liền với điều kiện tự nhiên của mỗi vùng. Do đó các cơ sở sản xuất kinh doanh sản xuất nông sản cũng gắn liền với sản phẩm nông nghiệp của vùng. Những đặc điểm chính của việc tiêu thụ nông sản đối với thị trường trong nước đó là: - Sản phẩm nông nghiệp và thị trường nông sản mang tính chất vùng và khu vực. Với mỗi loại cây trồng chỉ thích ứng được với mỗi loại địa hình, khí hậu riêng do đó tạo nên lợi thế so sánh của vùng. Lợi thế so sánh và lợi thế tuyệt đối của vùng tạo ra sự đa dạng về sản phẩm nông nghiệp. Mặt khác đây là yếu tố quan trọng để lựa chọn phương hướng kinh doanh của các cơ sở sản xuất kinh doanh và tổ chức hợp lý quá trình tiêu thụ sản phẩm. Lợi thế của vùng tạo ra các đặc sản riêng của mỗi vùng như: bưởi Diễn, Đoan Hùng, chè Thái Nguyên, gạo tám Nam Định, vải thiều Thanh Hà... chính nhờ những lợi thế so sánh này mà mỗi loại sản phẩm khác nhau thì có phương pháp tiêu thụ khác nhau. Còn đối với những sản phẩm phổ biến thì việc tiêu thụ nông sản đòi hỏi mỗi cơ sở kinh doanh có chiến lược kinh doanh khác nhau. - Do sản phẩm nông nghiệp mang tính thời vụ rõ rệt nên việc tiêu thụ các sản phẩm của ngành cũng mang tính thời vụ. Quá trình sản xuất nông nghiệp đòi hỏi có thời gian, trong quá trình sản xuất nếu một khâu gặp vấn đề thì các khâu khác khó mà thực hiện được. Sự khan hiếm sản phẩm vào trái vụ dẫn đến giá cao, và dư thừa vào mùa vụ dẫn đến giá cả giảm, chính điều này gây ra tình trạng bất ổn giá cả trong tiêu thụ nông sản. Mặt khác việc bảo quản, chế biến nông sản cũng là một khó khăn lớn đối với các cơ sở sản xuất kinh doanh nông nghiệp đòi hỏi vốn lớn, trong khi đó thì thu nhập từ tiêu thụ nông sản lại mang hiệu quả kinh tế thấp. - Ở nước ta với đa dạng các sản phẩm nông nghiệp được nằm dải rác ở nhiều nơi. Trong khi đó thì nền kinh tế nước ta vẫn còn kém phát triển, các phương tiện chế biến, bảo quản, và vận chuyển hàng hoá nông sản gặp nhiều khó khăn. Nhiều loại mặt hàng có thời gian tiêu thụ ngắn trong khi đó thì thị trường tiêu thụ lại cách xa nơi sản xuất chính điều này gây ra việc hư hỏng và giảm giá trị các loại nông sản. Điều này gây khó khăn cho việc tiêu thụ nông sản. - Thị trường tiêu thụ trong nước không đòi hỏi cao về chất lượng sản phẩm nông sản. Xong với việc đất nước ngày càng phát triển thu nhập của người dân ngày càng tăng, người dân ngày càng chú ý đến chất lượng cũng như mẫu mã các sản phẩm nông sản. - Thị trường tiêu thụ nông sản chủ yếu diễn ra ở các thành phố lớn, ở những nơi có điều kiện kinh tế phát triển. Trong khi đó thì ở thị trường nông thôn mặc dầu là nơi sản xuất ra các loại sản phẩm nông sản thị việc tiêu thụ diễn ra chậm do nhu cầu của người dân không cao. 3.2 Đặc điểm của tiêu thụ nông sản đối với thị trường nước ngoài. - Tiêu thụ nông sản đối với thị trường nước ngoài đòi hỏi liên tục và với số lượng cao. Mặt khác đối với thị trường nước ngoài thì các sản phẩm nông sản nước ta phải đáp ứng những điều kiện của nước nhập khẩu, những điều kiện về chất lượng sản phẩm nông sản là điều kiện rất quan trọng để tiêu thụ nông sản. Một số thị trường có những yêu cầu khắt khe đối với các sản phẩm xuất khẩu nông sản của nước ta như Nhật Bản, EU, Mỹ... - Việc xuất khẩu nông sản thường mang tính ổn định cao. Việc tiêu thụ sản phẩm nông sản đối với thị trường nước ngoài đòi hỏi đúng tiến độ và chất lượng sản phẩm nông sản. Điều này đòi hỏi nền nông nghiệp nước ta phải nhanh chóng công nghiệp hoá và chuyên môn hoá nền nông nghiệp. - Với lợi thế về điều kiện khí hậu nước ta có điều kiện thuận lợi trong việc xuất khẩu nhiều loại mặt hàng có giá trị kinh tế cao với đa dạng các mặt hàng xuất khẩu. 3.3 Đặc điểm về nông sản. - Nông sản là hàng hoá không thể thay thế được trong đời sống của con người. Nhu cầu của con người về hàng nông sản ngày càng giảm về số lượng và cao hơn về chất lượng. Hàng nông sản không những là lương thực của con người mà còn là nguyên liệu đầu vào của một số ngành công nghiệp chể biến như: mía đường, đay, cao su... - Nông sản cũng giống như các sản phẩm từ ngành công nghiệp đều là hàng hoá. Do vậy chịu sự tác động của thị trường và do thị trường quyết định giá cả. - Nông sản là những sản phẩm được do ngành nông nghiệp cung cấp do đó hàng nông sản mang những đặc điểm của ngành nông nghiệp. Nó chịu sự ảnh hưởng to lớn của thời tiết và điều kiện tự nhiên của vùng đồng thời các sản phẩm nông sản chịu sự tác động to lớn của đặc điểm sinh học của từng loại cây trồng. - Hàng nông sản thường có thời gian tiêu thụ ngắn, khó bảo quản, trong khi đó phương tiện vận chuyển còn thô sơ, lạc hậu... dễ gây ra hư hỏng hàng nông sản... - Hàng nông sản có giá trị thường thấp hơn so với các mặt hàng công nghiệp, xong lại có vai trò vô cùng to lớn đối với cuộc sống của con người. Nhu cầu về số lượng các sản phẩm nông sản ngày càng giảm, xong nông sản là sản phẩm không thể thay thế được của con người. 4. Tình hình tiêu thụ nông sản của nước ta trong thời gian qua. Trong hơn 10 năm qua, sản xuất nông nghiệp nước ta liên tục tăng trưởng , tốc độ bình quân là hơn 4,5%/ năm. Nông nghiệp nước ta bước từ nền nông nghiệp tự cung tự cấp sang sản xuất hàng hoá và hướng tới xuất khẩu. Tỷ trọng hàng nông sản hàng hoá đã chiếm tới hơn 40% sản lượng nông nghiệp. Cơ cấu sản xuất trong nông nghiệp đã có sự chuyển dịch theo hướng sản xuất lớn, tăng diện tích và sản lượng các sản phẩm có giá trị cao, được thị trường ưa chuộng. Qua đó nâng cao hiệu quả trên mỗi đơn vị diện tích đất canh tác và từng loại cây con. Sản xuất lương thực phát triển vững chắc, ổn định về cả diện tích, năng suất và sản lượng, tăng trưởng bình quân hơn 5,2%/năm, bằng khoảng 1,4 triệu tấn/năm. Sản lượng này không ngừng tăng trong thời gian vừa qua, điều này được thể hiện qua sản lượng lúa gạo, hồ tiêu, cà phê, sản lượng thuỷ sản... đều tăng. Từ một nước trước kia chủ yếu là phải nhập lương thực, thực phẩm thì ngày nay nhiều mặt hàng nước ta đã đáp ứng đủ yêu cầu tiêu dùng trong nước và xuất khẩu. Trong mấy năm gần đây thì nước ta xuất khẩu hàng thuỷ sản đang được đẩy mạnh và ngày càng chiếm tỷ trọng to lớn trong việc xuất khẩu nông sản. Cùng với cây lương thực thì các loại cây công nghiệp dài ngày như chè, cà phê cao su , điều.. cũng đã phát triển rất nhanh. Hiện nay ở nước ta đã hình thành thị trường thống nhất, thông thoáng, với sự tham gia của nhiều thành phần kinh tế. Lưu thông hàng hoá được chuyển từ cơ chế hoá tập chung bao cấp sang cơ chế thị trường có sự điều tiết của nhà nước. Hàng hoá được tự do lưu thông trên thị trường nội địa, thị trường nước ngoài được mở rộng. Hoạt động thương mại của Việt Nam từng bước hội nhập với kinh tế khu vực và thế giới. Cùng với đó là hoạt động xuất khẩu các sản phẩm nông nghiệp nước ta đã đạt được những thành tựu đáng ghi nhận về tốc độ tăng trưởng về khối lượng và giá trị xuất khẩu cũng như mở rộng thị trường. Nhiều mặt hàng nông sản của Việt Nam đã có vị thế trên thị trường thế giới. Hiện nay thì xuất khẩu hạt tiêu của nước ta đứng vị trí thứ 1 thế giới, gạo đứng thứ 2 thế giới và chiếm hơn 20% thị phần gạo thế giới, cà phê đứng thứ 3 thế giới và chiếm hơn 10% thị phần cà phê thế giới. Sản xuất nông nghiệp phát triển sẽ kéo theo sự gia tăng các hoạt động công nghiệp chế biến, dịch vụ và thương mại ở nhiều vùng nông thôn. Giá trị công nghiệp chế biến đã tăng với tỷ lệ trung bình từ 13-15%/năm. Đã xuất hiện một số vùng sản xuất hàng hoá tập trung gắn liền với công nghiệp chế biến như: trồng mía- chế biến đường ở Thanh Hoá, trồng lúa xay sát gạo, trồng chè- chế biến chè... Chất lượng hàng nông sản tăng lên đáng kể về cả số lượng cũng như chất lượng, một số mặt hàng đã có sức cạnh tranh với thị trường thế giới như gạo, hồ tiêu, sản phẩm chế biến và nuôi trồng thuỷ sản. Những sản phẩm này ngày càng được thị trường trong và ngoài nước chấp nhận. II. Các nhân tố ảnh hưởng đến tiêu thụ nông sản hàng hoá. 1. Nhân tố cung - cầu hàng hoá. Trong nền kinh tế nước ta hiện nay phát triển theo cơ chế thị trường thì việc tiêu thụ hàng nông sản phải tuân theo các quy luật của thị trương. Việc tiêu thụ hàng nông sản trong giai đoạn hiện nay chịu sự ảnh hưởng rất lớn về nhân tố cung cầu nông sản. 1.1. Nhân tố cung hàng hoá. Cung sản phẩm nông nghiệp là khái niệm dùng để chỉ lượng hàng nông sản của các doanh nghiệp và hộ gia đình có khả năng sản xuất được và sẵn sàng bán ở mỗi mức giá ở trong mỗi thời điểm nhất định. Cung nông sản trên thị trường phụ thuộc nhiều vào các yếu tố: giá của hàng nông sản đó, giá của sản phẩm cạnh tranh, giá của các yếu tố đầu vào, giá của sản phẩm song đôi, trình độ khoa học kỹ thuật của sản xuất, các yếu tố môi trường tự nhiên, các chính sách kinh tế của nhà nước. Cung nông sản hàng hoá do thị trường quyết định. Cung hàng nông sản có khi đáp ứng được nhu cầu của thị trường xong cũng có khi không thế đãp ứng được nhu cầu của thị trường, nó còn phụ thuộc vào khả năng sản xuất của loại hàng hoá. Lượng hàng hóa được tiêu thụ nhiều hay ít do lượng cung hàng nông sản được đưa ra ngoài thị trường. Người sản xuất thì luôn muốn đẩy giá hàng nông sản của mình tăng lên. Trong khi đó thì người tiêu dùng lại muốn giá hàng nông sản xuống thấp trong khi chất lượng của hàng nông sản ngày một tăng lên. Giá cả hàng nông sản là yếu tố quan trọng nhất quyết định lượng hàng nông sản được đưa ra ngoài thị trường. Bởi vì giá cả nó thể hiện sự sản xuất có lỗ hay lãi, vì vậy nó thúc đẩy hay kìm hãm sự phát triển của sản xuất. Giá cả càng tăng thì lượng cung hàng hoá được đưa ra trên thị trường càng nhiều. Cung của sản xuất hàng hóa trên thị trường được hiểu là cung của thị trường, tức là cung đáp ứng được một cách tốt nhất nhu cầu của thị trường mà thị trường có thể chấp nhận mua ở mức giá nhất định. Xong cung thị trường lại được tập hợp từ nhiều cung cá nhân, do đó trong giai đoạn hiện nay cần phải tập hợp lại nhiều cung cá nhân để từ đó có thể đáp ứng được một cách tốt nhất những nhu cầu của thị trường. Không những vậy có thể mang lại lợi ích cao nhất cho người sản xuất. 1.2. Nhân tố cầu hàng hoá. Cầu hàng hoá nông sản là lượng hàng hoá nông sản mà người mua có khả năng mua và sẵn sàng mua ở mỗi mức giá trong những thời điểm nhất định. Cầu hàng hoá trên thị trường chịu tác động của nhiều nhân tố khách quan, các nhân tố này luôn luôn thay đổi. Trong khi cung hàng hoá thì người sản xuất có thể điều chỉnh được thì ở cầu hàng hoá nông sản thì không phải nhu cầu nào của người tiêu dùng có thể đáp ứng được. Người ta chỉ có thể mua hàng khi hàng đó phù hợp với túi tiền và thu nhập của mình. Cũng như cung hàng hoá thì cầu hàng hoá phụ thuộc vào giá. Giá sản phẩm quyết định lượng hàng hoá có thể được mua với số lượng và loại hàng hoá nào. Các yếu tố chính ảnh hưởng đến cầu hàng hoá gồm: giá cả của bản thân hàng hoá đó, giá của loại nông sản thay thế, tình hình phân phối thu nhập và mức thu nhập của các nhóm dân cư, thị hiếu của người dân và các phong tục tập quán của địa phương. 2. Chất lượng hàng hoá. Hàng nông sản phụ thuộc rất lớn vào điều kiện tự nhiên, mỗi một vùng sẽ cho ta một loại hàng nông sản riêng biệt mà người tiêu dùng có thể phân biệt được với các hàng nông sản cùng loại ở mỗi địa phương. Ngày nay trên thị trường ngày càng chú trọng hơn đến chất lượng hàng nông sản. Đòi hỏi mỗi doanh nghiệp kinh doanh nông sản và doanh nghiệp chế biến nông sản phải chú ý đến chất lượng nông sản. Với nhu cầu của thị trường ngày càng tăng về các loại nông sản tươi, những loại nông sản có nhiều vitamin...dễ dàng được thị trường chấp nhận. Chất lượng hàng nông sản còn phụ thuộc vào nhiều nhân tố: tùy thuộc vào địa hình khí hậu của địa phương mà có thể tiến hành nuôi trồng các loại nông sản nhất định, các nhân tố về cơ sở vật chất kỹ thuật và công nghệ chế biến sau thu hoạch... Nhân tố địa hình khí hậu của mỗi địa phương cho chúng ta có đa dạng và phong phú các loại hàng nông sản. Với một loại nông sản có thể trồng được ở nhiều nơi xong mỗi một địa phương lại cho ta một chất lượng nông sản khác nhau mang đặc tính riêng của mặt hàng nông sản đó. Nhân tố về khoa học công nghệ ảnh hưởng rất lớn đến việc tiêu thụ hàng nông sản. Khoa học công nghệ phát triển giúp làm tăng chất lượng hàng nông sản và dễ dàng cho việc tiếp cận thị trường của các mặt hàng nông sản. Công nghệ chế biến hàng nông sản sau thu hoạch giúp cho giá trị hàng nông sản tăng lên gấp nhiều lần, tăng khả năng sử dụng của hàng nông sản. Đồng thời công nghệ chế biến làm đa dạng các sản phẩm nông sản của cùng một sản phẩm, điều này có tác dụng rất tốt tới việc mở rộng thị trường tiêu thụ hàng nông sản. 3. Marketing. Marketing gắn liền với kinh tế thị trường, trong nền kinh tế hiện đại ngày nay thì marketing có tác dụng rất lớn trong việc thu hút, hấp dẫn, cung cấp thoả mãn mọi nhu cầu của khách hàng trong việc tiêu thụ nông sản. Đây là cầu nối quan trọng để các sản phẩm nông nghiệp nhanh chóng đến được tay người tiêu dùng. Làm tốt khâu marketing giúp cho việc mở rộng thị trường, tiêu thụ nông sản được diễn ra nhanh chóng. Giúp cho các doanh nghiệp kinh doanh có thể biết được nhu cầu các mặt hàng để rồi từ đó mà các doanh nghiệp có phương hướng điều chỉnh kịp thời sao cho tình hình tiêu thụ nông sản được diễn ra thường xuyên và liên tục. 4. Tổ chức kênh tiêu thụ. Trong quá trình tiêu thụ hàng nông sản thì việc kết nối sản xuất với tiêu dùng, kết nối các ngành kinh tế với nhau,các doanh nghiệp với nhau. Trong nền kinh tế thị trường hiện nay thì việc xã hội hoá sản xuất, tập trung hoá sản xuất ngày càng cao, thị trường ngày càng phát triển mạnh mẽ về cả chiều rộng và chiều sâu, qua đó hình thành nên một mạng lưới tiêu thụ ngày càng rộng lớn và phức tạp. Mỗi một doanh nghiệp khi tiến hành kinh doanh của mình đều lựa chọn cho mình một kênh tiêu thụ thích hợp tuỳ theo loại hình kinh doanh và sản phẩm kinh doanh của mình. Kênh tiêu thụ có mối quan hệ tốt với khâu Maketing. Do đó việc tổ chức tốt và sử dụng hiệu quả giữa các khâu trong kênh tiêu thụ là một bộ phận quan trọng trong chiến lược Maketing. Hoạt động tiêu thụ hàng hoá là khâu cuối cùng của sản xuất hàng hoá. Để hàng hoá đến được tay người tiêu dùng thì cần phải tiến hành tó kênh phân phối. Đó là quá trình mà các tổ chức, cá nhân, doanh nghiệp hoạt động kinh doanh, dịch vụ vận động và phân phối hàng hoá từ người sản xuất đến người tiêu dùng cuối cùng. Kênh tiêu thụ hàng hoá chính là tập hợp của các doanh thể gắn kết với nhau trong việc tổ chức kinh doanh dịch vụ đưa hàng hoá tùe người sản xuất tới tận tay người tiêu dùng. 5. Chính sách vĩ mô của nhà nước. Đây là nhân tố thể hiện vai trò tác động của nhà nước đến thị trường nông sản. Trong điều kiện kinh tế thị trường hiện nay thì tình hình tiêu thụ hàng nông sản tuân theo các quy luật kinh tế như: cung cầu, giá cả... Trong đó thì tác động của các chính sách kinh tế vĩ mô tới thị trường nông sản có tác dụng to lớn đối với quá trình sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp cũng như việc tiêu thụ nông sản của các doanh nghiệp này...Chính sách vĩ mô của nhà nước có tính chất điều chỉnh, ổn định giá cả thị trường. Các chính sách vĩ mô ảnh hưởng đến tiêu thụ nông sản: - Chính sách về giá cả, trợ cấp sản xuất và tiêu thụ. Lợi thế về giá giữa các loại nông sản có tác động to lớn đến việc tiêu thụ nông sản. Cùng một loại hàng nông sản chất lượng sản phẩm như nhau thì người tiêu dùng sẽ chọn sản phẩm nào mà giá thấp hơn .Trong điều kiện kinh tế hội nhập hiện nay thì chính sách về giá và trợ cấp các loại hàng hoá nông sản vẫn được thực hiện. Nước ta đã tham gia vào nhiều tổ chức kinh tế quốc tế như WTO, ASEAN...nên việc trợ cấp cho hàng hoá nông sản có giảm so với trước điều này gây ảnh hưởng đến việc tiêu thụ nông sản. Hàng nông sản nước ta đang phải đối mặt với sự cạnh tranh gay gắt hàng nông sản của các nước trong khu vực và trên thế giới một cách sòng phẳng và công bằng. Đồng thời cũng tạo cho hàng hoá nông sản của nước ta có thể mở rộng thị trường tiêu thụ. - Chính sách về đầu tư và ứng dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật và nông nghiệp. Đầu tư vào cơ sở hạ tầng như cơ sở hạ tầng, đường giao thông, hệ thống điện và các ứng dụng khoa học công nghệ vào sản xuất, thực hiện chuyển đổi cơ cấu nông nghiệp, nông thôn theo hướng sản xuất hàng hoá. - Chính sách về sự tham gia của các thành phần kinh tế. Trong việc tham gia vào hoạt động kinh tế có nhiều thành phần tham gia như: kinh tế nhà nước, kinh tế hợp tác, kinh tế hộ gia đình, kinh tế trang trại, kinh tế tư nhân, kinh tế có sự liên doanh liên kết với nước ngoài... Điều này cho ta thấy rằng với mỗi thành phần kinh tế có hướng hoạt động kinh doanh riêng, xong đều chịu sự chi phối của thị trường. Càng có nhiều thành phần kinh tế tham gia hoạt động tiêu thụ hàng nông sản thì chất lượng hàng nông sản ngày càng được tăng lên do sự cạnh tranh của các thành phần này. Chính điều này đỏi hỏi mỗi doanh nghiệp kinh doanh đều phải không ngừng tự hoàn thiện mình sao cho đáp ứng ngày càng tốt nhất nhu cầu của thị trường. III. Sự cần thiết đẩy mạnh tiêu thụ hàng hoá thông qua hội chợ- triển lãm. 1. Thực chất và đặc điểm của hội chợ. *Hội chợ Triển lãm. Khái niệm Hội chợ Triển lãm đã hình thành từ rất lâu. Trong nền kinh tế đã phát triển đến một trình độ nhất định, trong xã hội xuất hiện nhu cầu trao đổi, mua bán hàng hoá. Để thuận tiện cho việc trao đổi mua bán hàng hoá người ta quy định một số địa điểm cố định. Tại nơi này người mua và người bán có thể thực hiện trao đổi hàng hoá với nhau, đó chính là các chợ. Tại đây các thương nhân, nhà sản xuất, người tiêu dùng tụ họp và mua bán. Theo cách phân chia thông thường thì có 2 loại chợ chính là chợ ngày và chợ phiên. Chợ ngày là nơi tụ họp mua bán (còn gọi là họp chợ ) diễn ra vào hàng ngày. Chợ này thì được hình thành phổ biến ở nhiều nơi. Chợ phiên : chỉ họp vào một thời điểm và địa điểm nhất định. Xong chợ phiên là hình thái ban đầu của các Hội chợ Triển lãm ngày nay. Cùng với sự phát triển của sản xuất và trao đổi hàng hoá, có một số phiên chợ có quy mô ngày càng lớn. Những người tham gia không chỉ để mua bán hàng hoá mà còn vì những mục đích khác nữa như gặp gỡ các thương nhân khác, tìm kiếm bạn hàng mới, hay cũng có khi đến để học hỏi kinh nghiệm của các bạn hàng...Cho đến khi chủ nghĩa tư bản ra đời thì khái niệm về hội chợ đã cơ bản đã hình thành. Có thể hiểu hội chợ là một hoạt động mang tính định kỳ được tổ chức tại một điểm, thưòi gian nhất định và là nơi người mua và người bán trực tiếp giao dịch mua bán. Khái niệm về Triển lãm xuất hiện sớm hơn hội chợ. Triển lãm có hình thái khà gần với Hội chợ nhưng tại triển lãm mục đích của người tham dự không phải là bán hàng tại chỗ mà chủ yếu là giới thiệu quảng cáo. Các triển lãm thường không có tính định kỳ như hội chợ. Luật thương mại đã đưa ra một số định nghĩa sau về Hội chợ Triển lãm thương mại: Hội chợ thưong mại là một hoạt động xúc tiến thương mại tập trung trong một thời gian và địa điểm nhất định, trong đó tổ chức, các cá nhân sản xuất kinh doanh trưng bày hàng hoá của mình nhằm mục đích tiếp thu,ký kết hợp đồng mua hàng. Triển lãm thương mại là hoạt động xúc tiến thương mại thông qua việc trưng bày hàng hoá, tài liệu về hàng hoá để giới thiệu, quảng cáo nhằm mở rộng và thúc đẩy việc tiêu thụ hàng hoá. Như vậy Hội chợ Triển lãm là một loại hình xúc tiến thương mại,được diễn ra dưới hình thức một thị trường hoạt động tập trung tại một địa điểm nhất định mà tại đó các nhà sản xuất kinh doanh trưng bày,quảng cáo và bán sản phẩm của mình nhằm giới thiệu trực tiếp với người tiêu dùng, tìm kiếm đối tác làm ăn, ký kết hợp đồng và kêu gọi đầu tư. Về bản chất thì Hội chợ Triển lãm đều có mục đích là quảng cáo, giới thiệu sản phẩm hàng hoá trực tiếp ra thị trường. Nhưng trong hội chợ các nhà tham gia được phép bán trực tiếp hàng hoá cho người tiêu dùng. Còn triển lãm thì hoạt động này chỉ diễn ra khi triễn lãm kết thúc. Chính vì vậy đối tượng chính tham gia Triển lãm là các nhà sản xuất cung ứng hoặc đại lý của họ, còn tham gia hội chợ thì cả nhà sản xuất và thương mại. Thời gian diễn ra hội chợ bao giờ cũng dài hơn thời gian tổ chức triển lãm. Vì mục tiêu chính của các nhà tham gia Triển lãm là tập trung quảng cáo giới thiệu sản phẩm trong một vài ngày đầu theo kế hoạch, còn các nhà thương mại thì cần nhiều thời gian để có thể đạt được một trong những mục tiêu chính là doanh thu và lợi nhuận bán hàng. * Những đặc điểm của Hội chợ Triển lãm. Địa điểm tổ chức hội chợ triển lãm không được quy định rõ ràng mà tuỳ thuộc vào tính chất của từng cuộc. Nếu là hội chợ triển lãm trong nước thì tuỳ thuộc vào điều kiện hoàn cảnh của đơn vị tổ chức và tính chất của hội chợ triển lãm mà có nơi đặt địa điểm phù hợp. Ví dụ như hội chợ triển lãm nông nghiệp đặt tại địa bàn nông thôn hoặc nơi giao dịch lớn có uy tín đế bà con nông dân và các doanh nghiệp, tổ chức có nhu cầu mua, trao đổi, tham khảo hàng hoá dễ dàng hơn. Hội chợ triển lãm thương mại là hình thức xúc tiến thương mại trực tiếp, đem lại hiệu quả cao. Đến với hội chợ triển lãm các doanh nghiệp có cơ hội tiếp xúc trực tiếp với lượng khách hàng đông đảo đầy tiềm năng. Đó là cơ hội tốt cho doanh nghiệp giới thiệu sản phẩm để lôi cuốn khách hàng mua hàng trong hiện tại và khách hàng trong tương lai. Tại hội chợ triển lãm các doanh nghiệp có thể bán hàng trực tiếp hoặc đưa ra các hình thức khuyến mại phù hợp và xin ý kiến góp ý của khách hàng một cách trực tiếp. Thông qua việc tham gia hội chợ triển lãm doanh nghiệp và các tôt chức._. liên quan đưa ra nhận xét tổng quát về thị trường và khách hàng, sản phẩm... Hội chợ triển lãm còn là nơi các doanh nghiệp, đơn vị trao đổi thông tin và giao dịch trực tiếp với đối tác và khách hàng. Hội chợ triển lãm còn là nơi lôi cuốn quảng đại quần chúng thuộc mọi tầng lớp đến thăm quan và tham gia. Thông qua hội chợ triển lãm có thể hướng quần chúng tham gia sẽ có điều kiện tham khảo hàng hoá một cách khá đầy đủ và ra quyết định mua hàng phù hợp với nhu cầu... 2. Vai trò của hội chợ đối với tiêu thụ sản phẩm hàng hoá. 2.1 Lợi ích của các đơn vị tham gia Hội chợ triển lãm đối với tiêu thụ nông sản hàng hoá. Các đơn vị tham hội chợ triển lãm là các doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh có khả năng đạt được những lợi ích sau: Tham gia hội chợ triển lãm góp phần thực hiện chiến lược maketing của doanh nghiệp. Tiếp theo là thông qua hội chợ triển lãm các doanh nghiệp có cơ hội tiếp cận với các khách hàng mục tiêu của mình nói chung và người tiêu dùng nói riêng. Ở hội chợ triển lãm doanh nghiệp có thể củng cố danh tiếng và hình ảnh của mình. Thông qua hội chợ triển lãm doanh nghiệp có cơ hội để thu thập những thông tin cần thiết về nhu cầu của khách hàng, về đối thủ cạnh tranh, qua đó doanh nghiệp có cơ hội mở rộng thị trường. Kết thúc mỗi đợt tham gia hội chợ triển lãm doanh nghiệp có cơ sở tự hoàn thiện chính sách tiêu thụ của doanh nghiệp mình thông qua kết quả đánh giá, nhận xét từ hội chợ triển lãm. Từ những hiểu biết về khách hàng và đối thủ cạnh tranh cùng sự nhìn nhận về ưu nhược điểm của sản phẩm của mình doanh nghiệp sẽ tăng cường hiệu quả của quá trình tiêu thụ bán hàng hoá hơn nữa, đẩy mạnh quá trình tiêu thụ hàng hoá. Các doanh nghiệp tham gia hội chợ triển lãm mở rộng quan hệ trao đổi buôn bán với các doanh nghiệp khác. Từ đây mà doanh nghiệp có thể liên doanh, liên kết với các doanh nghiệp đó để đẩy mạnh quá trình tiêu thụ hàng hoá nông sản. 2.2 Quảng bá, tiêu thụ sản phẩm nông sản. Hội chợ triển lãm là nơi mà mỗi doanh nghiệp tham gia đều mang đến sản phẩm ưu thế của mình. Với mỗi đợt hội chợ triển lãm có nhiều lượng khách đến thăm quan, mua bán... Mặt khác trước và trong mỗi đợt hội chợ triển lãm thì đơn vị tổ chức đều có các cuộc quảng cáo, giới thiệu hội chợ rộng rãi cho các cá nhân, doanh nghiệp biết được.Hội chợ triển lãm có tác dụng truyền đạt thông tin rộng rãi và trực tiếp đến nhiều đối tượng. Các hình thức quảng cáo thường gặp trước mỗi cuộc triễn lãm hội chợ như: treo băng rôn, biển hiệu, catalogua, quảng cáo trên các phương tiện thông tin đại chúng như báo, đài truyền hình, đài tiếng nói, hay cho phát các tờ rơi...Trong quá trình diễn ra hội chợ có thể tiến hành các hình thức hội thảo, thi tiến hành bình chọn các mặt hàng nông sản đạt tiêu chuẩn tốt... từ đó có thể thu hút sự chú ý của khách hàng, lôi kéo sự tham gia của người dân đối với những sản phẩm tham gia hội chợ triển lãm. Chi phí doanh nghiệp tham gia hội chợ thấp hơn rất nhiều so với việc quảng cáo trên các phương tiện thông tin đại chúng như ti vi, radio...khi muốn giới thiệu một sản phẩm tham gia hội chợ triển lãm. Vì tham gia hội chợ và triển lãm là cơ hội giới thiệu một cách đầy đủ nhất về sản phẩm cho một khối lượng khách hàng lớn. Thông qua việc triển lãm hội chợ các đơn vị kinh doanh tiêu thụ nông sản có thể nhận được các đơn đặt hàng ngay trong thời gian hội chợ. Thông qua hội chợ triển lãm các hãng nhỏ có cơ hội trưng bày các sản phẩm của mình trước những công ty mua lớn. Tại hội chợ triển lãm có thể thúc đẩy nhanh quá trình tiêu thụ sản phẩm do sự chấp nhận của người tiêu dùng được hình thành một cách nhanh chóng. Hội chợ triển lãm là nơi thu thập thông tin về thị trường hiệu quả. Trong quá trình tham gia hội chợ triển lãm các đơn vị tham gia có thể lấy được thông tin về khách hàng như tên, địa chỉ, nhu cầu, sở thích tiêu dùng, cũng như đánh giá sơ bộ của khách hàng về sản phẩm từ đó hoàn thiện công tác maketing hơn nữa. Từ những thông tin về khách hàng các đơn vị tham gia có thể gửi tới các thư giới thiệu và quảng cáo sản phẩm của mình tới khách hàng sau thời gian diễn ra hội chợ và triển lãm. Điều này chứng tỏ hiệu quả của việc tiêu thụ nông sản thông qua triển lãm hội chợ không chỉ trong thời gian diễn ra hội chợ mà còn sau thời gian hội chợ triển lãm. Các cuộc triển lãm hội chợ về các sản phẩm nông sản thường có các cuộc hội thảo, bình chọn các sản phẩm nông sản một cách chính xác và hiệu quả nhất của người tổ chức và người tiêu dùng đối với mỗi loại sản phẩm. Hội thảo là nơi có nhiều chuyên gia nghiên cứu trong lĩnh vực thị trường, có kinh nghiệm đàm phán kinh doanh, do đó có tác dụng rất lớn đối với quá trình tiêu thụ sản phẩm nông sản. 2.3 Quảng cáo về sản phẩm nông sản. Triễn lãm hội chợ là nơi mà hàng hoá nông sản được trưng bày với nhiều chủng loại sản phẩm hàng hoá. Tại đây người tham gia triển lãm có thể thấy được nhiều loại sản phẩm được tham gia hội chợ, mà từ đó giúp cho người tiêu dùng có thể lựa chọn và so sánh các mặt hàng nông sản với nhau. Triển lãm hội chợ là nơi tốt nhất để hàng nông sản được người tiêu dùng biết đến và tiêu dùng. Với số lượng người tham gia hội chợ triển lãm thường đông nên sự ấn tượng về sản phẩm nông sản đối với khách hàng là rất cao. Khách hàng tại đây có thể tuỳ chọn loại sản phẩm mình có thể cần mua mà không cần phải tốn nhiều công đi lại hay công tìm kiếm sản phẩm. Tại hội chợ triển lãm có rất nhiều mặt hàng nông sản được trưng bày triển lãm mà nếu không có cuộc triển lãm hội chợ thì người tiêu dùng rất khó có thể biết và mua được những mặt hàng đó hay sẽ mất rất nhiều công sức để có thể biết và mua được sản phẩm hàng hoá đó. Có thể nói rằng triển lãm hội chợ là nơi tốt nhất để quảng cáo về sản phẩm nông sản. 2.4 Quảng cáo về thương hiệu, nhãn hiệu nông sản. Tại các cuộc hội chợ triển lãm hình ảnh sản phẩm được trưng bày giới thiệu trực tiếp qua các phương tiện thông tin đại chúng như: tivi, radio, tờ rơi, băng rôn, catalogua...Vì thế hình ảnh sản phẩm không chỉ được giới thiệu mà các tiêu thức như chất lượng và cách sử dụng được đưa đến khách hàng thông qua các hình thức cho dùng thử, phát quà khuyến mại... Hội chợ triển lãm còn là dịp đông đảo khách hàng tận mắt xem hàng và lựa chọn, là nơi giao tiếp trực tiếp giữa khách hàng và các hãng doanh nghiệp. Đối với sản phẩm lần đầu tiên xuất hiện trên thị trường hội chợ triển lãm là nơi tốt nhất để quảng cáo rộng rãi cho khách hàng mà tốn chi phí nhỏ nhất. 2.5 Định vị sản phẩm Chúng ta có thể tiến hành định vị vị trí sản phẩm trên thị trường thông qua triển lãm hội chợ bằng các thông tin từ khách hàng và sản phẩm của đối thủ cạnh tranh. Thông qua thái độ của đông đảo khách hàng đến tham quan hội chợ và ý kiến đóng góp trực tiếp của họ giúp cho các đơn vị tham gia thấy được ưu và nhược điểm của sản phẩm từ đó mà hoàn thiện sản phẩm sao cho phù hợp. Tại hội chợ triển lãm các doanh nghiệp định vị sản phẩm của mình thông qua sự so sánh sản phẩm của mình với đối thủ cạnh tranh. Trong hoạt động maketing của bất cứ đơn vị nào định vị sản phẩm là công việc quan trọng. Từ việc xác định được vị trí của sản phẩm trên thị trường, cùng mặt mạnh và tồn tại doanh nghiệp sẽ có chiến lược sản phẩm phù hợp. 2.6 Trao đổi và học tập kinh nghiệm giữa các doanh nghiệp trong và ngoài nước trong quá trình tham gia triển lãm hội chợ nhằm thúc đẩy nhanh quá trình tiêu thụ các mặt hàng nông sản. Thúc đẩy nhanh quá trình ký kết hợp đồng giữa các đơn vị mua-bán. Hội chợ triển lãm là nơi giúp cho các doanh nghiệp có cơ hội giao lưu, học hỏi kinh nghiệm sản xuất, tổ chức lẫn nhau, đồng thời giúp cho các hãng có cơ hội ký kết được nhiều hợp đồng kinh tế có giá trị lớn. Hội chợ triển lãm có tác dụng rất quan trọng trong lĩnh vực tiêu thụ nhất là hội chợ chuyên về các mặt hàng nông nghiệp được tổ chức bởi trung tâm tiếp thị triển lãm nông nghiệp và phát triển nông thôn như: hội chợ giống cây trồng và vật nuôi, hội chợ nông nghiệp quốc tế Agroviêt, hội chợ làng nghề và thi sản phẩm thủ công Việt Nam crafviet , hội chợ triển lãm Quốc tế và công nghiệp chế biến, đóng gói và bảo quán nông sản thực phẩm Việt Nam AP/P/S... Hội chợ triển lãm là nơi thu hút nhiều các doanh nghiệp trong và ngoài nước tham gia. Sự tham gia ngày càng nhiều các doanh nghiệp nước ngoài tham gia vào các hội chợ có liên quan đến nghành nông nghiệp. Đây thường là những cuộc hội chợ lớn lôi kéo được rất nhiều đơn vị tham gia.Tại đây các doanh nghiệp trong nước có dịp gặp gỡ trao đổi kinh nghiệm với nhau mà còn có thể tiếp xúc trực tiếp với các doanh nghiệp nước ngoài, từ đó giúp cho các doanh nghiệp trong nước có thể học hỏi kinh nghiệp, cũng như tận dụng được các tiến bộ khoa học công nghệ của các hãng tiên tiến trên thế giới. Trong quá trình diễn ra hội chợ các doanh nghiệp có thể tìm thấy được khách hàng chính của mình và có thể dẫn đến ký kết các hợp đồng thông qua các đơn đặt hàng. Không những vậy thông qua triển lãm hội chợ các hãng nhỏ có thể trưng bày các sản phẩm của mình trước các công ty mua lớn. Tại hội chợ triển lãm có thể thúc đẩy nhanh quá trình tiêu thụ sản phẩm do sự chấp nhận sản phẩm của người tiêu dùng được hình thành nhanh chóng. Trong hội chợ triển lãm các khách hàng xem hội chợ còn có thể trở thành nhà phân phối hay đại lý cho các hãng. Hội chợ triển lãm có tác dụng là nơi bán hàng trực tiếp. Thông qua hội chợ triển lãm các hãng lôi cuốn được đông đảo quần chúng tham dự, đây là ưu điểm đáng kể của hội chợ triển lãm so với các hình thức xúc tiến tiêu thụ khác. Tại hội chợ triển lãm khách hàng tham dự dễ chấp nhận mua sản phẩm hơn so với các điều kiện mua bán khác. Cho nên hội chợ triển lãm là nơi tiêu thụ được khối lượng hàng hoá và dịch vụ lớn thông qua bán hàng trực tiếp. Ch­¬ng 2: Thùc tr¹ng tiªu thô n«ng s¶n hµng ho¸ qua triÓn l·m héi chî cña trung t©m tiÕp thÞ triÓn l·m n«ng nghiÖp vµ ph¸t triÓn n«ng th«n ViÖt Nam ( VAFEC). I. Những vấn đề chung về trung tâm triển lãm hội chợ. 1. Khái quát quá trình hình thành và phát triển của trung tâm VAFEC. Trụ sở của Trung tâm tại: số 2 đường Hoàng Quốc Việt-Quận Cầu Giấy- Thành phố Hà Nội Tổng diện tích: 4,5ha. Trung tâm được có hai khu trưng bày triển lãm hội chợ là khu A và khu B. Khu nhà triển lãm A hiện đại với diện tích mặt sàn sử dụng của ba tầng là trên 10.000m2 , 3.600m2 nhà kho với tổng diện số vốn đầu tư trên 100 tỷ đồng. Trung tâm VAFEC có vị trí địa lý thuận lợi, nằm trên 2 trục đường lớn: phía Bắc giáp với đường Hoàng Quốc Việt, phía Tây giáp đường Phạm Văn Đồng trên đường đi sân bây quốc tế Nội Bài. Trung tâm có quá trình hình thành và phát triển phức tạp điều đó được thể hiện qua những căn cứ sau: Căn cứ Nghị định số 73/CP ngày 01/11/1995 của Chính phủ vế chức năng, quyền hạn và tổ chức bộ máy của Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn. Công ty tiếp thị và thương mại Nông nghiệp và công nghiệp thực phẩm thuộc Bộ nông nghiệp và phát triển nông thôn được thành lập. Đến ngày 6/3/1997 công ty này được chuyển đổi thành công ty tiếp thị thương mại và xây dựng Nông nghiệp và phát triển nông thôn được thành lập theo yêu cầu thực tiễn của Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn thời kỳ đó. Tiếp đến ngày 04/07/1997 theo quyết định số 1589/TCCB/QĐ Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn công ty được đổi thành công ty tiếp thị và đầu tư Nông nghiệp và phát triển nông thôn (NN&PTNT). Căn cứ vào Quyết định số 2218/QĐ/BNN-TCCB ngày 08/07/2003 của Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn về việc tổ chức lại công ty Tiếp thị đầu tư nông nghiệp và phát triển nông thôn. Dựa trên cơ sở quyết định đó thì công ty tiếp thị và đầu tư NN&PTNT chia tách thành: chuyển một bộ phận vào Tổng công ty vật tư nông nghiệp (chức năng kinh doanh), một bộ phận ở lại chuyên làm công tác hỗ trợ tiêu thụ cho ngành nông nghiệp và PTNT đó là Trung tâm tiếp thị và triển lãm nông nghiệp và phát triển nông thôn (viết tắt là VAFEC) trực thuộc Bộ NN&PTNT. Tủng tâm là đơn vị sự nghiệp có thu tự đảm bảo chi phí. Ngoài những lý do trên thì sự ra đời của trung tâm còn do nhiều nguyên nhân khác như tình hình trong nước và quốc tế, thực trạng của nghành nông nghiệp nước ta. Trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế nền kinh tế Việt Nam đã và đang gặp phải nhiều thuận lợi cũng như thách thức to lớn. Sự cạnh tranh ngày càng khốc liệt của các nước trong khu vực và trên thế giới, đặc biệt là những nước có mặt hàng nông nghiệp giống ta. Đồng thời với thách thức thì việc hội nhập kinh tế thế giới cũng góp phần mở rộng thị trường cho hàng nông sản của chúng ta. Trong tình hình như hiện nay thì hàng hoá nước ta đâng phải đối phó gay gắt và cạnh tranh về nhiều mặt của hàng nông sản như: số lượng, chất lượng, thương hiệu, mẫu mã...Từ tình hình thực tiễn đó mà chính phủ chỉ đạo cho nghành nông nghiệp và PTNN thành lập một đơn vị chuyên trong lĩnh vực tiếp thị xúc tiến thương mại và triển lãm hội chợ cho nghành nông nghiệp và phát triển nông thôn, từ đó Trung tâm tiếp thị triển lãm NN&PTNT ra đời. Từ khi thành lập đến nay trung tâm đã thực hiện được các chỉ tiêu mà Bộ NN&PTNT đề ra góp phần quan trọng trong việc hỗ trợ các cá nhân, đơn vị sản xuất, kinh doanh trong ngành nông nghiệp... Bộ giao cho nhiều nhiệm vụ, cục chức năng quản lý theo dõi, đôn đốc các nhiệm vụ kinh tế chính trị của Trung tâm. Cụ thể là các đơn vị sau: vụ kế hoạch, Vụ tổ chức cán bộ, Vụ pháp chế, Vụ tài chính và Vụ khoa học công nghiệp, Văn phòng Bộ. 2. Cơ cấu tổ chức bộ máy của Trung tâm VAFEC. 2.1. Cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý của Trung tâm. Trung tâm hoạt động theo hình thức đơn vị sự nghiệp có thu tự đảm bảo chi phí, hạch toán độc lập, có tài khoản 129757000- tại Ngân hàng đầu tư và phát triển Thăng Long, có mã số riêng. Đây là hình thức hoạt động mới, khá linh hoạt giúp cho đơn vị phát huy tính chủ động và sáng tạo của mình. Để quản lý và điều hành mọi hoạt động sản xuất kinh doanh của Trung tâm bộ máy quản lý được tổ chức như sau: Sơ đồ tổ chức bộ máy quản lý: Phó giám đốc (Nghiệp vụ) Phó giám đốc (Nội chính) Giám đốc Phòng tổ chức Hành chính Phòng tài chính kế toán Phòng triển lãm Hội chợ Phòng xúc tiến Thương mại Phòng Kế hoạch Kinh doanh Tổ nước ngoài Ban quản lý chợ Tổ dịch vụ Tổ trong nước Tổ thiết kế dàn dựng Tổ bảo vệ Giám đốc trung tâm do Bộ trưởng Bộ nông nghiệp và phát triển nông thôn quyết định bổ nhiệm, khen thưởng và kỷ luật. Giám đốc là đại diện pháp nhân của trung tâm, chịu trách nhiệm trước Bộ trưởng Bộ nông nghiệp và phát triển nông thôn và trước pháp luật về mọi hoạt động của Trung tâm. Ngoài việc uỷ quyền cho phó giám đốc còn chỉ đạo trực tiếp thông qua các trưởng phòng, phó phòng, tổ trưởng. Phó giám đốc chuyên môn: do Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn quyết định bổ nhiệm, bãi nhiệm, khen thưởng và kỷ luật. Phó Giám đốc có nhiệm vụ giúp việc cho Giám đốc và cùng chỉ đạo các bộ phận được phân công, uỷ quyền , các vấn đề kỹ thuật sản xuất, kinh doanh, tiếp thị, đàm phán kinh doanh ngoại giao. Phó giám đốc chị trách nhiệm trước Giám đốc và trước pháp luật về nhiệm vụ được Giám đốc phân công thực hiện. Phó Giám đốc nội chính: do Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn quyết định bổ nhiệm, bãi nhiệm, khen thưởng và kỷ luật. Phó giám đốc có nhiệm vụ giúp cho Giám đốc, tham mưu và trực tiếp chỉ đạo các bộ phận được phân công uỷ quyền. Thường trực xử lý các công việc khi Giám đốc đi vắng bên cạnh đó còn giúp Giám đốc điều hành và quản lý nhân sự, phụ trách kiểm kê tài sản, thanh tra, kiểm tra, phụ trách thi đua, khen thưởng và kỷ luật. 2.2. Các phòng chức năng: a) Phòng tổ chức hành chính: - Quản lý nhân sự, theo dõi thực hiện nội quy, quy chế người lao động đảm bảo mọi lợi ích cho người lao động. - Đề nghị điều động, đề nghị bổ nhiệm, tuyên truyền công tác đối với người lao động trong trung tâm. - Tham mưu cho Ban Giám đốc công tác thi đua, khen thưởng hàng tháng, hàng quý, hàng năm. - Tổ chức lực lượng dân quân tự vệ, dự bị động viên, tổ chức lực lượng phòng chống thiên tai, phòng chống cháy nổ... - Mua sắm quản lý và phân bổ thiết bị văn phòng, máy tính, máy photo, máy fax- cho các phòng, ban. - Công tác văn thư, tạp vụ: tiếp nhận công văn đến, gửi công văn đi, đưa đón khách, chăm lo cho các phòng làm việc của Giám đốc, phòng họp. - Duy trì, bảo vệ, tu sửa tài sản nhỏ của trung tâm. Tổ bảo vệ: Do đặc thù hoạt động của đơn vị nên lực lượng bảo vệ đòi hỏi có trình độ chuyên môn cao, số lượng lớn (chiếm 20% trong tổng số cán bộ công nhân viên của Trung tâm). Tổ bảo vệ được đào tạo kiến thức anh ninh ( vì trung tâm thường xuyên đón các vị lãnh đạo cao cấp của Đảng, Nhà nước, Chính phủ ), đồng thời cũng được đào tạo cơ bản về phòng cháy chữa cháy. b) Phòng tài chính kế toán: Thực hiện phản ánh và giải quyết một cách chính xác, kịp thời, đầy đủ và trung thực tình hình tài chính của Trung tâm trong hoạt động sản xuất kinh doanh hàng hoá, dịch vụ hàng tháng quý, hàng năm để cho Ban giám đốc nắm được tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh trong mỗi chu kỳ hạch toán. Báo cáo công tác kế toán hàng tháng, quý gửi về Vụ Tài chính của Bộ. Thực hiện nghĩa vụ đối với nhà nước (nộp thuế ). c) Phòng Triển lãm hội chợ: - Xây dựng kế hoạch Triển lãm hội chợ dài hạn, trung hạn và cho từng cuộc hội chợ trong nước và ngoài nước. - Làm công tác tổ chức cho từng cuộc hội chợ và triển lãm. - Mời khách hàng trong và ngoài nước tham gia hội chợ và triển lãm. Đây là phòng quan trọng, chủ yếu thực hiện nhiệm vụ chính trị của Trung tâm, hàng năm thực hiện khá tốt các đơn đặt hàng của Nhà nước và ngành nông nghiệp trong việc tổ chức các cuộc hội chợ và triển lãm trong nước và quốc tế. Phòng được hình thành từ 3 tổ như sau: Tổ trong nước: chuyên xây dựng và tổ chức các cuộc triển lãm hội chợ, hội thảo trong nước. Tổ nước ngoài: Chuyên xây dựng và tổ chức đưa đón các doanh nghiệp Việt Nam đi tham gia Triển lãm hội chợ, hội thảo và tham quan du lịch ở nước ngoài. Tổ thiết kế dàn dựng: Chuyên thiết kế, thi công trang trí tổng thể, dàn dựng các gian hàng cho các cuộc hội chợ và triển lãm, các hoạt động hội nghị hội thảo trong nước và nước ngoài. d) Phòng kế hoạch. - Tập hợp, tìm kiếm thông tin và căn cứ vào kế hoạch của các phòng ban để xây dựng kế hoạch hàng năm cho Trung tâm trình lãnh đạo Bộ duyệt. - Xây dựng và bảo vệ tính khả thi của các đề án chương trình xúc tiến thương mại trọng điểm quốc gia hàng năm ( nguồn ngân sách do chính phủ duyệt thông qua Bộ thương mại ). - Tìm kiếm đối tác và thự hiện các hợp đồng kinh tế, liên doanh, liên kết cung cấp hàng hoá và dịch vụ. e) Phòng xúc tiến thương mại: - Thực hiện quảng cáo, truyên truyền các chính sách của Chính phủ, Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn. Cung cấp thông tin thị trường cho các đơn vị trong ngành nông nghiệp, nông thôn. - Hỗ trợ và tìm kiếm giải pháp hỗ trợ các hoạt động xúc tiến thương mại cho các đơn vị trong ngành nông nghiệp, nông thôn. - Xây dựng và theo dõi, trao đổi hệ thống thông tin trên trang Web. Phòng xúc tiến thương mại hình thành 02 tổ chức sau: Ban quản lý chợ: Được sự chỉ đạo của Bộ Nông nghiệp và tại Trung tâm có tổ chức chợ phiên vào chủ nhật hàng tuần. Đây là địa chỉ tin cậy để mọi người có thể lựa chọn được các loại cây giống, con giống có chất lượng cao, đảm bảo uy tín. Chợ phiên có trên 100 dơn vị doanh nghiệp và hộ nông dân trực tiếp sản xuất, kinh doanh giống cây trồng, vật nuôi, vật tư nông nghiệp, rau sạch đăng ký tham gia. Tổ dịch vụ: Đây thực chất là hoạt động đại lý hàng hoá nông sản của các tỉnh thành, những hoạt động mang tính hỗ trợ các đơn vị doanh nghiệp là chính. Thực hiện chủ trương của Bộ biến Trung tâm thành một trung tâm giao dịch, trao đổi hàng hoá, chuyên ngành của các tỉnh thành. 3. Cơ sở vật chất và nhân lực của trung tâm. Trung tâm có cơ sở vật chất kỹ thuật rất khang trang và rộng rãi đủ để trưng bày triển lãm và tổ chức hội chợ cho ngành nông nghiệp và phát triển nông thôn. Trung tâm có toà triển lãm hội chợ nằm trên đường Hoàng Quốc Việt có khu triển lãm lên đến 3900m2. Đây là toà nhà lớn và hiện đại của Việt Nam, mặt khác trung tâm còn có một tầng hầm rộng. Còn về mặt phía đường Phạm Văn Đồng thì khu triển lãm có diện tích là 7800m2. Về nguồn nhân lực: trước nhu cầu của công việc nguồn nhân lực của trung tâm không ngừng tăng qua các năm. Không những tăng về số lượng, thì chất lượng của các cán bộ công nhân viên của trung tâm tăng lên. Thể hiện ở trình độ của các cán bộ trung tâm có bằng cấp và trình độ ngày một nhiều. Nguồn nhân lực của trung tâm qua một số năm: Bảng 1: Tình hình lao động của Trung tâm qua một số năm. Năm Trình độ Số lượng Tiến sĩ Thạc sĩ Đại học Cao đẳng, trung cấp 2004 1 2 31 13 46 2005 1 3 32 10 46 2006 2 3 40 10 55 ( Nguồn: phòng tổ chức hành chính). Qua bảng ta thấy rằng tình hình về nhân lực của trung tâm không ngừng thay đổi. Xong trình độ của lao động trong trung tâm chưa đồng đều. Mấy năm gần đây trình độ của các lao động trong trung tâm tăng lên do trung tâm đã tuyển được những lao động có trình độ đại học tăng lên, cùng với đó là trung tâm đã tổ chức cho lao động đi học thêm nhằm tăng cường kiến thức, nâng cao khả năng chuyên môn của mình. 4. Hoạt động của trung tâm trong thời gian qua. 4.1. Lĩnh vực hoạt động của trung tâm. Trung tâm là đơn vị chuyên doanh trong lĩnh vực tiếp thị, xúc tiến thương mại, tổ chức hội chợ và triển lãm cho ngành nông nghiệp và phát triển nông thôn. Từ khi thành lập đến nay Trung tâm hoạt động chủ yếu trên những lĩnh vực mà Bộ NN&PTNT giap cho, ngoài ra còn có một số hoạt động dịch vụ khác nhằm thực hiện chức năng nhiệm vụ của một trung tâm tiếp thị triển lãm NN&PTNT của quốc gia. Hoạt động đó bao gồm: xây dựng cá kế hoạch dài hạn, hàng năm, các dự án đầu tư, đàm phán kinh doanh, trình bộ NN&PTNT xem xét phê duyệt, phục vụ hội nghị, hội thảo của Bộ và của các cơ quan trong và ngoài ngành, tiến hành xúc tiến caá hoạt động thương mại, tiếp thị, triển lãm hội chợ trong và ngoài nước. Tổ chức dịch vụ vui chơi giải trí theo quy định của pháp luật phục vụ cho tiếp thị, triển lãm và dịch vụ triển lãm, hội chợ ( như thiết kế dàn dựng, trưng bày giới thiệu sản phẩm). Trung tâm còn đứng ra làm đại lý giới thiệu, tiêu thụ hàng hoá NN&PTNT và tiến hành các hoạt động dịch vụ kinh doanh. 4.2. Kết quả hoạt động của trung tâm trong thời gian qua. 4.2.1 Các cuộc triển lãm hội chợ của trung tâm. Những năm vừa qua trung tâm đã tổ chức được nhiều cuộc triển lãm trong và ngoài nước, đã đạt được những kết quả nhất định. Điều này thể hiện ở các cuộc triển lãm hội chợ mà trung tâm tự tổ chức, phối hợp với các cuộc triển lãm hội chợ ở nước ngoài mà trung tâm là đơn vị đứng ra tập hợp các đơn vị sản xuất kinh doanh trong nghành nông nghiệp tham gia. Những số liệu sau về các cuộc hội chợ triển lãm được tổ chức ở trung tâm trong thời gian qua thể hiện điều này. Bảng 2: Các cuộc triển lãm hội chợ của trung tâm qua các năm. Tên cuộc triển lãm hội chợ Năm 2004 Năm 2005 Năm 2006 Dự kiến năm 2007 Tổ chức ở trong nước 7 6 8 4 Tổ chức ở nước ngoài 2 3 4 2 Phối hợp với đơn vị bạn 4 3 3 7 Tổng 13 12 15 14 (Nguồn:phòng hội chợ triển lãm ). Nhìn vào bảng ta thấy rằng số cuộc triển lãm hội chợ có sự biến động qua các năm. Các cuộc triển lãm trong nước chiếm vai trò chủ yếu, số cuộc triển lãm năm 2005 có giảm 1 cuộc so với năm 2004 tương ứng là 8%, sang đến năm 2006 lại tăng lên 3cuộc tương ứng là 25%. Sang đến năm 2007 dự kiến trung tâm sẽ tổ chức 14 cuộc triển lãm. Số cuộc triển lãm trong nước có nhiều biến đổi ở mấy năm gần đây là do trung tâm đã gộp một số cuộc triển lãm với nhau để có điều kiện tổ chức diễn ra được tốt hơn. Ngoài hoạt động trên trung tâm còn thường xuyên tổ chức các phiên chợ vào chủ nhật hàng tuần cho các doanh nghiệp và bà con nông dân tham gia trưng bày và triển lãm. Đặc biệt trung tâm còn phối hợp với các cơ sở sản xuất hàng nông nghiệp để thường xuyên giới thiệu, trưng bày triển lãm tại trung tâm. Tại đây khách hàng có thể mua được hàng với nhiều chủng loại mẫu mã khác nhau. Trung tâm có diện tích khu trưng bày lớn do đó có hoạt động làm đại lý cho doanh nghiệp, cho thuê mặt bằng... 4.2.2 Tình hình hoạt động kinh doanh của trung tâm. Hoạt động sản xuất kinh doanh và dịch vụ của trung tâm trong những năm vừa qua từ việc cho thuê mặt bằng và cho các đơn vị thuê gian hàng trong hội chợ triển lãm , cho các đại lý ký gửi để trung tâm giới thiệu sản phẩm... trung tâm có những khoản thu nhất định, khoản thu này bao gồm cả phần ngân sách được nhà nước hỗ trợ. Phần chi gồm các khoản chi phí để tổ chức các cuộc triển lãm hội chợ, giới thiệu khách hàng và hỗ trợ cho các đơn vị tham gia hội chợ từ nguồn hỗ trợ cấp trên, các khoản chi phí phát sinh... Bảng 3: Tình hình thu chi tổng thể của trung tâm qua các năm. ĐVT: 1000đ STT Nội dung Năm 2004 Năm 2005 Năm 2006 % so sánh 2006/2005 1 Tổng thu 3.425.513 4.590.333 7.200.000 +56,9% 2 Chênh lệch thu chi 17.092 94.508 850.000 +838,5% 3 Khấu hao 92.039 284.431 1.200.000 +357% 4 Nộp NSNN 512.497 479.941 500.000 -14,6% 5 Tổng quỹ lương 698.730 842.020 1.250.000 +48,5% 6 Thu nhập bình quân tháng/người 1.250 1.525 1.970 29% Nguồn : Phòng Tài chính - Kế toán Từ bảng trên ta thấy rằng tổng doanh thu của trung tâm tăng qua các năm. Doanh thu của năm 2005 so với năm 2004 là 1.664.820.000 đồng tức là tăng 56,91%. Năm 2006 tăng 2.609.667.000 đồng so với năm 2005, tức là trung tâm có tổng doanh thu tăng 56,85%. Có được kết quả như trên ta thấy rằng quy mô hoạt động , kinh doanh của trung tâm ngày càng được mở rộng. Tình hình thu chi của trung tâm không ngừng tăng qua các năm. Ngày càng có nhiều phần thu từ Bộ hỗ trợ và phần thu từ các đơn vị tham gia hội chợ triển lãm và một số dịch vụ khác do tăng hoạt động hội chợ, triển lãm cùng hoạt động khác như đại lý, ký gửi, cho thuê gian hàng, chợ phiên... Tổng chi tăng với tốc độ nhanh hơn so với tốc độ của tổng thu vì chủ yếu các đơn vị tham gia triển lãm hội chợ và các dịch vụ khác tại trung tâm đều là các doanh nghiệp, hợp tác xã, tổ sản xuất kinh doanh, hộ gia đình... trong lĩnh vực nông nghiệp nên cần sự hỗ trợ tham gia là chủ yếu. Năm 2003 trung tâm mới thành lập nên chủ yếu là tiếp thị hoạt động sản xuất kinh doanh là chính. Trung tâm hoạt động chủ yếu dựa trên các chỉ tiêu của Bộ NN&PTNT giao cho, được Bộ cung cấp kinh phí để hỗ trợ hoạt động tiếp thị sản phẩm cho các doanh nghiệp và đơn vị sản xuất, kinh doanh trong ngành nông nghiệp. Phần chênh lệch thu chi là phân dôi ra do Bộ quy định cho trung tâm thu một số hoạt động kinh doanh dịch vụ nhất định. II. Thực trạng triển lãm và việc tiêu thụ nông sản thông qua hội chợ triển lãm của trung tâm VAFEC. 1. Tình hình triển lãm hội chợ của trung tâm. 1.1 Hội chợ triển lãm trong nước. Các cuộc triển lãm hội chợ trong nước có vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy tiêu thụ hàng nông sản trong nước. Tại đây có thể thu hút được nhiều thành phần hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp. Ngay từ khi mới thành lập thì việc tổ chức các cuộc triển lãm hội chợ đã có vai trò rất quan trọng. Hiện nay trung tâm thực hiện các cuộc triển lãm theo những yêu cầu của Bộ đồng thời thường xuyên lên kế hoạch trình Bộ để xin phép tổ chức các cuộc hội chợ- triển lãm trong nước và quốc tế cần thiết trong từng giai đoạn. Trong quá trình tổ chức các cuộc triển lãm hội chợ Trung tâm được Bộ hỗ trợ một phần kinh phí để tổ chức,ngoài ra một số chi phí còn lại Trung tâm được phép thu của khách hàng tham gia để trang trải và phục vụ các hoạt động khác của trung tâm. Tuy vây tình hình thu chi của trung tâm qua các năm từ các cuộc hội chợ và triển lãm không ổn định phụ thuộc vào nhiều yếu tố. Các chỉ tiêu thu, chi đều tăng qua các năm chỉ có tốc độ tăng không đồng đều dẫn đến chênh lệch thu chi từ các cuộc hội chợ triển lãm trong nước có tốc độ tăng không đồng đều. Tốc độ các khoản thu đều tăng lên qua các năm cụ thể là phần thu trực tiếp từ các cuộc hội chợ và triển lãm và từ nguồn hỗ trợ của Bộ tăng lên. Bảng 4: Tổng kết thu chi qua các hội chợ triển lãm trong nước. Đơn vị: triệu đồng Chỉ tiêu Năm Thu Chi Chênh lệch % tăng Trực tiếp Bộ hỗ trợ Tổng thu 2004 1.530 1.010 2.540 2.308 232 2005 1.675 1.025 2.700 2.435 265 14,2 2006 1.739 1.040 2.779 2.487 292 10,2 2007(Dự kiến) 1.942 1.090 3.032 2.700 332 13,7 ( Nguồn: phòng Hội chợ- triển lãm) Qua bảng ta thấy rằng mức thu-chi của trung tâm qua các năm đều không ngừng tăng lên. Năm 2004 tổng nguồn thu của trung tâm đạt 2.540 triệu đồng và chi là 2.308 triệu đồng, số chênh lệch là 232 triệu đồng. Qua các năm thì số chênh lệch tăng liên tục, đến năm 2005 là 265 triệu, còn sang năm 2006 là 85 triệu. Phần thu trực tiếp của năm 2005 so với năm 2004 là 14,2%, năm 2006 so với năm 2005 là 10,2%. Dự kiến năm 2007 thì trung tâm có chênh lệch từ nguồn thu chi tăng 13,7%. Ta thấy rằng năm 2006 tình hình thu chi của trung tâm có tăng lên là do trung tâm đã có nhiều nguồn thu thêm từ nhiều hoạt động khác ngoài hội chợ triển lãm. Các cuộc triển lãm hội chợ ở trong nước với nguồn hỗ trợ của Bộ đóng vai trò quan trọng để tiến hành cuộc hội chợ. Việc đa dạng hoá các đối tượng tham gia hội chợ sẽ giúp cho sự đa dạng hoá các mặt hàng nông sản của trung tâm, điều này thuận lợi cho việc thăm quan của khách hàng đối với các sản phẩm có nguồn gốc từ nông nghiệp. Các cuộc triển lãm hội chợ trong nước, trong những năm vừa qua thì trung tâm đã tổ chức được 7 cuộc năm 2004, 6 cuộc năm 2005 và 8 cuộc năm 2006, dự kiến năm 2007 là 5 cuộc. Đối với trung tâm thì ngoài việc tổ chức nhiều hay ít các cuộc hội trợ có thành công hay không còn phụ thuộc vào số gian hàng mà các nhà doanh nghiệp,các cá nhân tham gia. Số gian hàng tham gia hội chợ tại trung tâm trong những năm vừa qua: Bảng 5 Số gian hàng triển lãm hội chợ trong nước trong thời gian qua của trung tâm. Năm Chỉ tiêu 2004 2005 2006 2007 (Dự kiến) Số cuộc hội chợ triển lãm 7 6 8 5 Tổng số gian hàng 1150 1008 1320 860 Trung bình gian/cuộc 165 168 165 172 (Nguồn : phòng hội chợ- triển lãm) Nhìn bảng trên ta thấy rằng bình quân số gian hàng của một cuộc hội chợ đạt từ 165- 172 gian hàng. Điều này chưa phản ánh được chính xác về mỗi cuộc hội chợ, chỉ phản ánh về số lượng của tổng thể trong năm.Tuỳ thuộc ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc32086.doc
Tài liệu liên quan