Điều kiện & khả năng huy động vốn trên thị trường chứng khoán. Thực tiễn ở Việt Nam

Điều kiện và khả năng huy động vốn trên thị trường chứng khoán. Thực tiễn ở Việt Nam PHẦN I: TỔNG QUAN VỀ THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN (TTCK) 1. Thị trường chứng khoán là gỡ? Thị trường chứng khoán là nơi diễn ra các hoạt động trao đổi, mua bán, chuyển nhượng các loại chứng khoán, qua đó thay đổi chủ thể nắm giữ chứng khoán. Chứng khoán là chứng chỉ hoặc bút toán ghi sổ, xác nhận các quyền và lợi ích hợp phát của người sở hữu chứng khoán đối với tài sản hoặc vốn của tổ chức phát hành, gồm: Cổ phi

doc42 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1533 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Điều kiện & khả năng huy động vốn trên thị trường chứng khoán. Thực tiễn ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ếu, trái phiếu, chứng chỉ quỹ đầu tư chứng khoán, các loại chứng khoán khác theo quy định của pháp luật. Khi một công ty gọi vốn, số vốn cần gọi đó được chia thành nhiều phần nhỏ bằng nhau gọi là cổ phần. Người mua cổ phần gọi là cổ đông. Cổ đông được cấp một giấy chứng nhận sở hữu cổ phần gọi là cổ phiếu và chỉ có công ty cổ phần mới phát hành cổ phiếu. Như vậy, cổ phiếu chính là một chứng thư chứng minh quyền sở hữu của một cổ đông đối với một công ty cổ phần. Trỏi phiếu là một loại chứng khoỏn nợ do doanh nghiệp phỏt hành, xỏc nhận nghĩa vụ trả cả gốc và lói của doanh nghiệp phỏt hành đối với người sở hữu trỏi phiếu. 2. Chức năng của TTCK - Huy động vốn đầu tư cho nền kinh tế: Khi các nhà đầu tư mua chứng khoán do các công ty phát hành, số tiền nhàn rỗi của họ được đưa vào hoạt động sản xuất kinh doanh và qua đó góp phần mở rộng sản xuất xã hội. Thông qua TTCK, Chính phủ và chính quyền ở các địa phương cũng huy động được các nguồn vốn cho mục đích sử dụng và đầu tư phát triển hạ tần kinh tế, phục vụ các nhu cầu chung của xã hội. - Cung cấp môi trường đầu tư cho công chúng: TTCK cung cấp cho công chúng một môi trường đầu tư lành mạnh với các cơ hội lựa chọn phong phú. Các loại chứng khoán trên thị trường rất khác nhau về tính chất, thời hạn và độ rủi ro, cho phép các nhà đầu tư có thể lựa chọn loại hàng hóa phù hợp với khả năng, mục tiêu và sở thích của mình. - Tạo tính thanh khoản cho các chứng khoán: Nhờ có TTCK, các nhà đầu tư có thể chuyển đổi các chứng khoán họ sở hữu thành tiền mặt hoặc các loại chứng khoán khác khi họ muốn. Khả năng thanh khoản là một trong những đặc tính hấp dẫn của chứng khoán đối với người đầu tư. Đây là yếu tố cho thấy tính linh hoạt, an toàn của vốn đầu tư. TTCK hoạt động càng năng động và có hiệu quả thì tính thanh khoản của các chứng khoán giao dịch trên thị trường càng cao. - Đánh giá hoạt động của doanh nghiệp: Thông qua chứng khoán, hoạt động của các doanh nghiệp được phản ánh một cách tổng hợp và chính xác, giúp cho việc đánh giá và so sánh hoạt động của doanh nghiệp được nhanh chóng và thuận tiện, từ đó cũng tạo ra một môi trường cạnh tranh lành mạnh nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn, kích thích áp dụng công nghệ mới, cải tiến sản phẩm. - Tạo môi trường giúp Chính phủ thực hiện các chính sách kinh tế vĩ mô: Các chỉ báo của TTCK phản ánh động thái của nền kinh tế một cách nhạy bén và chính xác. Giá các chứng khoán tăng lên cho thấy đầu tư đang mở rộng, nền kinh tế tăng trưởng; ngược lại, giá chứng khoán giảm sẽ cho thấy các dấu hiệu tiêu cực của nền kinh tế. Vì thế, TTCK được gọi là phong vũ biểu của nền kinh tế và là một công cụ quan trọng giúp Chính phủ thực hiện các chính sách kinh tế vĩ mô. Thông qua TTCK, Chính phủ có thể mua và bán trái phiếu Chính phủ để tạo ra nguồn thu bù đắp thâm hụt ngân sách và quản lý lạm phát. Ngoài ra, Chính phủ cũng có thể sử dụng một số chính sách, biện pháp tác động vào TTCK nhằm định hướng đầu tư đảm bảo cho sự phát triển cân đối của nền kinh tế. 3. Cấu trúc và phân loại cơ bản thị trường chứng khoán - Căn cứ vào sự lưu thông của chứng khoán trên thị trường, TTCK có hai loại: + Thị trường sơ cấp: là thị trường mua bán các chứng khoán mới phát hành. Trên thị trường này, vốn từ nhà đầu tư sẽ được chuyển sang nhà phát hành thông qua việc nhà đầu tư mua các chứng khoán mới phát hành. Thị trường sơ cấp còn gọi là thị trường cấp một hay thị trường phát hành. Thị trường sơ cấp thực hiện chức năng quan trọng nhất của thị trường chứng khoán là huy động vốn cho nhà đầu tư. Thị trường sơ cấp vừa có khả năng thu gom mọi nguồn vốn tiết kiệm nhỏ của từng hộ dân cư, vừa có khả năng thu hút nguồn vốn to lớn từ nước ngoài; các nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi từ các doanh nghiệp, các tổ chức tài chính, Chính phủ tạo thành một nguồn vốn khổng lồ tài trợ cho nền kinh tế mà các phương thức khác không thể làm được. Như vậy, thị trường sơ cấp tạo ra môi trường cho các doanh nghiệp gọi vốn để mở rộng sản xuất kinh doanh. + Thị trường thứ cấp: Là nơi giao dịch các chứng khoán đã được phát hành trên thị trường sơ cấp. Thị trường thứ cấp đảm bảo tính thanh khoản cho các chứng khoán đã phát hành. Dù công ty có được niêm yết nhưng nếu không phát hành (thêm) cổ phiếu mới thì cũng không huy động được xu vốn nào. Thị trường thứ cấp là nơi mua đi bán lại cổ phiếu đã được phát hành (chủ sở hữu cũ bán cho chủ mới). Các sở giao dịch chứng khoán chủ yếu hoạt động như thị trường thứ cấp. Trên thị trường thứ cấp không có xu vốn nào được huy động (cho các công ty hay cho nền kinh tế), lời lãi của một người đúng bằng lỗ của một người khác. Vậy, thị trường thứ cấp có ích lợi gì? Thứ nhất, nó làm cho việc trao đổi quyền sở hữu công ty dễ dàng (dễ biến cổ phiếu thành tiền mặt). Điều này rất quan trọng vì nó chính là cơ chế để giúp biến tài sản thành vốn, thành tư bản. Nó tạo cho các chủ sở hữu một thủ tục đơn giản, văn minh để “ bỏ phiếu bằng chân”, để “rút khỏi” công ty (hay khoản đầu tư) mà không phải cãi cọ, tranh chấp với các chủ sở hữu khác hay với ban lãnh đạo. Như thế khuyến khích người ta bỏ tiền đầu tư (tạo vốn thật khi mua cổ phiếu được phát hành lần đầu) do kỳ vọng được chia cổ tức và giá cổ phiếu lên. Thứ hai, giá cổ phiếu gây áp lực cho ban điều hành các công ty phải kinh doanh cho có hiệu quả, vì về dài hạn, một công ty làm ăn kém thì giá cổ phiếu sẽ thấp, ban lãnh đạo sẽ bị cổ đông sa thải. Chính vì thế những người lãnh đạo có khuyến khích lớn để giữ cho giá cổ phiếu cao (cả bằng phương pháp giả mạo, chính vì thế nên cần có sự kiểm soát chặt chẽ của Nhà nước bằng các thủ tục minh bạch). Thị trường chứng khoán vừa như thị trường sơ cấp và thứ cấp là một phát minh vĩ đại của con người, chúng ta nên cố gắng học để sử dụng hữu hiệu nó. - Căn cứ vào phương thức hoạt động của thị trường, TTCK có: Thị trường tập trung (Sở giao dịch chứng khoán), thị trường phi tập trung (OTC) và thị trường thứ 3. Tính tập trung ở đây là muốn nói đến việc các giao dịch được tổ chức tập trung theo một địa điểm vật chất. Hình thái điển hình của TTCK tập trung là Sở giao dịch chứng khoán. Tại Sở giao dịch chứng khoán, các giao dịch được tập trung tại một địa điểm; các lệnh được chuyển tới sàn giao dịch và tham gia vào quá trình ghép lệnh để hình thành nên giá giao dịch. TTCK phi tập trung còn gọi là thị trường OTC (over the counter). Trên thị trường OTC, các giao dịch được tiến hành qua mạng lưới các công ty chứng khoán phân tán trên khắp quốc gia và được nối với nhau bằng mạng điện tử. Giá trên thị trường này được hình thành theo phương thức thỏa thuận. - Căn cứ vào hàng hóa trên thị trường, TTCK có: Thị trường cổ phiếu, thị trường trái phiếu, thị trường các công cụ chứng khoán phái sinh. + Thị trường cổ phiếu: là thị trường giao dịch và mua bán các loại cổ phiếu, bao gồm cổ phiếu thường và cổ phiếu ưu đãi. + Thị trường trái phiếu: là thị trường giao dịch và mua bán các trái phiếu đã được phát hành, các trái phiếu này bao gồm các trái phiếu công ty, trái phiếu đô thị và trái phiếu chính phủ. + Thị trường các công cụ chứng khoán phái sinh: là thị trường phát hành và mua đi bán lại các chứng từ tài chính khác như: quyền mua cổ phiếu, chứng quyền, hợp đồng quyền chọn… 4. Các nguyên tắc hoạt động của TTCK - Nguyên tắc cạnh tranh: Theo nguyên tắc này, giá cả trên TTCK phản ánh quan hệ cung cầu về chứng khoán và thể hiện tương quan cạnh tranh giữa các công ty. Trên thị trường sơ cấp, các nhà phát hành cạnh tranh với nhau để bán chứng khoán của mình cho các nhà đầu tư, các nhà đầu tư được tự do lựa chọn các chứng khoán theo các mục tiêu của mình. Trên thị trường thứ cấp, các nhà đầu tư cũng cạnh tranh tự do để tìm kiếm cho mình một lợi nhuận cao nhất, và giá cả được hình thành theo phương thức đấu giá. - Nguyên tắc công bằng: Công bằng có nghĩa là mọi người tham gia thị trường đều phải tuân thủ những quy định chung, được bình đẳng trong việc chia sẻ thông tin và trong việc gánh chịu các hình thức xử phạt nếu vi phạm vào những quy định đó. - Nguyên tắc công khai: Chứng khoán là loại hàng hóa trừu tượng nên TTCK phải được xây dựng trên cơ sở hệ thông công bố thông tin tốt. Theo luật định, các tổ chức phát hành có nghĩa vụ phải cung cấp thông tin đầy đủ theo chế độ thường xuyên và đột xuất thông qua các phương tiện thông tin đại chúng, Sở giao dịch, các công ty chứng khoán và các tổ chức có liên quan. - Nguyên tắc trung gian: Nguyên tắc này có nghĩa là các giao dịch chứng khoán được thực hiện thông qua tổ chức trung gian là các công ty chứng khoán. Trên thị trường sơ cấp, các nhà đầu tư không mua trực tiếp của nhà phát hành mà mua từ các nhà bảo lãnh phát hành. Trên thị trường thứ cấp, thông qua các nghiệp vụ môi giới, kinh doanh, các công ty chứng khoán mua, bán chứng khoán giúp các khách hàng hoặc kết nối các khách hàng với nhau qua việc thực hiện các giao dịch mua bán chứng khoán trên tài khoản của mình. - Nguyên tắc tập trung: Các giao dịch chứng khoán chỉ diễn ra trên sở giao dịch và trên thị trường OTC dưới sự kiểm tra giám sát của cơ quan quản lý Nhà nước và các tổ chức tự quản. 5. Các thành phần tham gia TTCK: - Nhà phát hành: Là các tổ chức thực hiện huy động vốn thông qua TTCK dưới hình thức phát hành các chứng khoán - Nhà đầu tư: Là những người thực sự mua và bán chứng khoán trên TTCK. Nhà đầu tư có thể được chia thành hai loại: + Nhà đầu tư cá nhân: là những người có vốn nhàn rỗi tạm thời, tham gia mua bán trên TTCK với mục đích kiếm lời. + Nhà đầu tư có tổ chức: là các định chế đầu tư thường xuyên mua bán chứng khoán với số lượng lớn trên thị trường. Các định chế này có thể tồn tại dưới các hình thức sau: công ty đầu tư, công ty bảo hiểm, quỹ lương hưu, công ty tài chính, ngân hàng thương mại và các công ty chứng khoán. - Các công ty chứng khoán: Là những công ty hoạt động trong lĩnh vực chứng khoán, có thể đảm nhận một hoặc nhiều trong số các nghiệp vụ chính là môi giới, quản lý quỹ đầu tư, bảo lãnh phát hành, tư vấn đầu tư chứng khoán và tự doanh. - Các tổ chức có liên quan đến TTCK: + Uỷ ban chứng khoán Nhà nước: là cơ quan thuộc Chính phủ thực hiện chức năng quản lý Nhà nước đối với TTCK ở Việt Nam. + Sở giao dịch chứng khoán: là cơ quan thực hiện vận hành thị trường và ban hành những quyết định điều chỉnh các hoạt động giao dịch chứng khoán trên Sở phù hợp với các quy định của luật pháp và Uỷ ban chứng khoán. + Công ty dịch vụ máy tính chứng khoán: là tổ chức phụ trợ, phục vụ các giao dịch chứng khoán. + Công ty đánh giá hệ số tín nhiệm: là công ty chuyên cung cấp dịch vụ đánh giá năng lực thanh toán các khoản vốn gốc và lãi đúng thời hạn và theo những điều khoản đã cam kết của công ty phát hành đối với một đợt phát hành cụ thể. Ngoài ra còn có: Hiệp hội các nhà kinh doanh chứng khoán, tổ chức lưu ký và thanh toán bù trừ chứng khoán, các tổ chức tài trợ chứng khoán… PHẦN II: ĐIỀU KIỆN VÀ KHẢ NĂNG HUY ĐỘNG VỐN TRÊN THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM Các doanh nghiệp có thể huy động vốn trên thị trường chứng khoán bằng cách phát hành chứng khoán (cổ phiếu, trái phiếu hoặc các chứng chỉ quỹ) ra công chúng. Phát hành ra công chúng là quá trình trong đó chứng khoán được bán rộng rãi ra công chúng, cho một số lượng lớn người đầu tư, trong tổng lượng phát hành phải giành một tỷ lệ nhất định cho các nhà đầu tư nhỏ và khối lượng phát hành phải đạt được một mức nhất định. Việc phát hành cổ phiếu sẽ giúp cho công ty có thể huy động vốn khi thành lập hoặc để mở rộng kinh doanh. Nguồn vốn huy động này không cấu thành một khoản nợ mà công ty phải có trách nhiệm hoàn trả cũng như áp lực về khả năng cân đối thanh khoản của công ty sẽ giảm rất nhiều, trong khi sử dụng các phương thức khác như phát hành trái phiếu công ty… thì hoàn toàn ngược lại. Tuy nhiên mỗi phương thức huy động đều có những ưu nhược điểm riêng và nhà quản lý công ty phải cân nhắc, lựa chọn tuỳ từng thời điểm và dựa trên những đặc thù cũng như chiến lược kinh doanh của công ty để quyết định phương thức áp dụng thích hợp. I. Điều kiện huy động vốn trên thị trường chứng khoán Việc doanh nghiệp có thể huy động vốn trên thị trường chứng khoán hay không chịu ảnh hưởng của rất nhiều yếu tố: điều kiện về mặt pháp lý, điều kiện nền kinh tế, thị trường và bản thân doanh nghiệp. Để huy động vốn trên thị trường chứng khoán, về mặt pháp lý (theo Điều 12 Luật chứng khoán), các doanh nghiệp phải thoả mãn một số những điều kiện nhất định. Thông thường, điều kiện để phát hành chứng khoán ra công chúng gồm năm điều kiện sau: - Đảm bảo có quy mô vốn tối thiểu - Đảm bảo tính liên tục về hoạt động sản xuất kinh doanh - Hoạt động sản xuất kinh doanh có lãi (hoạt động có hiệu quả trong một số năm) - Có đội ngũ cán bộ đủ năng lực và trình độ quản lý hoạt động sản xuất kinh doanh - Có phương án khả thi về việc sử dụng số vốn huy động. Cụ thể, đối với Việt Nam: 1. Điều kiện để chào bán, phát hành cổ phiếu ra công chúng Điều kiện chào bán cổ phiếu ra công chúng: - Doanh nghiệp có mức vốn điều lệ đã góp tại thời điểm đăng ký chào bán từ 10 tỷ đồng Việt Nam trở lên tính theo giá trị ghi trên sổ kế toán - Hoạt động kinh doanh của năm liền trước năm đăng ký chào bán phải có lãi, đồng thời không có lỗ luỹ kế tính đến năm đăng ký chào bán - Có phương án phát hành và phương án sử dụng vốn thu được từ đợt chào bán được Đại hội cổ đông thông qua. Điều kiện phát hành cổ phiếu lần đầu ra công chúng: Theo quy định của Nghị định 48/1998/NĐ-CP về chứng khoán và thị trường chứng khoán và Thông tư 01/1998/TT-UBCK hướng dẫn Nghị định 48/1998/NĐ-CP, tổ chức phát hành phát hành cổ phiếu lần đầu ra công chúng phải đáp ứng được các điều kiện sau: - Mức vốn điều lệ tối thiểu là 10 tỷ đồng Việt Nam - Hoạt động kinh doanh có lãi trong 2 năm liên tục gần nhất - Thành viên Hội đồng quản trị và Giám đốc (Tổng Giám đốc) có kinh nghiệm quản lý kinh doanh. - Có phương án khả thi về việc sử dụng vốn thu được từ đợt phát hành cổ phiếu. - Tối thiểu 20% vốn cổ phần của tổ chức phát hành phải được bán cho trên 100 người đầu tư ngoài tổ chức phát hành; trường hợp vốn cổ phần của tổ chức phát hành từ 100 tỷ đồng trở lên thì tỷ lệ tối thiểu này là 15% vốn cổ phần của tổ chức phát hành. - Cổ đông sáng lập phải nắm giữ ít nhất 20% vốn cổ phần của tổ chức phát hành và phải nắm giữ mức này tối thiểu 3 năm kể từ ngày kết thúc đợt phát hành. - Trường hợp cổ phiếu phát hành có tổng giá trị theo mệnh giá vượt 10 tỷ đồng thì phải có tổ chức bảo lãnh phát hành. 2. Điều kiện chào bán, phát hành trái phiếu ra công chúng Điều kiện chào bán trái phiếu ra công chúng (Điều 12 Luật Chứng khoán) - Doanh nghiệp có mức vốn điều lệ đã góp tại thời điểm đăng ký chào bán từ 10 tỷ đồng Việt Nam trở lên tính theo giá trị ghi trên sổ kế toán - Hoạt động kinh doanh của năm liền trước năm đăng ký chào bán phải có lãi, đồng thời không có lỗ lũy kế tính đến năm đăng ký chào bán, không có khoản nợ phải trả quá hạn trên một năm. - Có phương án phát hành, phương án sử dụng và trả nợ vốn thu được từ đợt chào bán được Hội đồng cổ đông hoặc Hội đồng thành viên hoặc Chủ sở hữu công ty thông qua (phương án khả thi) - Có cam kết thực hiện nghĩa vụ của tổ chức phát hành đối với nhà đầu tư về điều kiện phát hành, thanh toán, bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của nhà đầu tư và các điều kiện khác. Điều kiện phát hành trái phiếu ra công chúng: - Doanh nghiệp có quy mô vốn tối thiểu: 10 tỷ đồng - Doanh nghiệp có thời gian hoạt động tối thiểu là 01 năm kể từ ngày chính thức đi vào hoạt động. - Kết quả hoạt động sản xuất, kinh doanh năm liền kề năm phát hành phải có lãi. - Có tổ chức bảo lãnh phát hành - Có dự án khả thi về việc sử dụng số vốn huy động 3. Điều kiện chào bán, phát hành chứng chỉ quỹ ra công chúng Điều kiện chào bán: - Tổng giá trị chứng chỉ đăng ký chào bán tối thiểu năm mươi tỷ đồng Việt Nam - Có phương án phát hành và phương án đầu tư số vốn thu được từ đợt chào bán chứng chỉ quỹ phù hợp với quy định của luật chứng khoán. Điều kiện phát hành: - Việc phát hành chắng chỉ quỹ lần đầu ra công chúng được thực hiện đồng thời với thủ tục xin phép lập Quỹ đầu tư chứng khoán - Việc phát hành chứng chỉ quỹ đầu tư chứng khoán để tăng vốn của Quỹ đầu tư chứng khoán phải được Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước chấp thuận. * Hồ sơ đăng ký chào bán chứng khoán 1. Hồ sơ đăng ký chào bán cổ phiếu ra công chúng bao gồm: - Giấy đăng ký chào bán cổ phiếu ra công chúng - Bản cáo bạch - Điều lệ của tổ chức phát hành - Quyết định của Đại hội cổ đông thông qua đợt phương án phát hành và phương án sử dụng vốn thu được từ đợt chào bán cổ phiếu ra công chúng. - Cam kết bảo lãnh phát hành (nếu có) 2. Hồ sơ đăng ký chào bán trái phiếu ra công chúng bao gồm: - Giấy đăng ký chào bán trái phiếu ra công chúng - Bản cáo bạch - Điều lệ của tổ chức phát hành - Quyết định của Hội đồng quản trị hoặc hội đồng thành viên hoặc Chủ sở hữu công ty thông qua phương án phát hành, phương án sử dụng và trả nợ vốn thu được từ đợt chào bán trái phiếu ra công chúng. - Cam kết thực hiện nghĩa vụ của tổ chức phát hành đối với nhà đầu tư về điều kiện phát hành, thanh toán, bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của nhà đầu tư và các điều kiện khác - Cam kết bảo lãnh phát hành (nếu có) 3. Hồ sơ đăng ký chào bán chứng chỉ quỹ ra công chúng - Giấy đăng ký chào bán chứng chỉ quỹ ra công chúng - Bản cáo bạch - Dự thảo điều lệ quỹ đầu tư chứng khoán - Hợp đồng giám sát giữa ngân hàng giám sát và công ty quản lý đầu tư chứng khoán - Cam kết bảo lãnh phát hành (nếu có) * Thủ tục phát hành chứng khoán ra công chúng: Gồm 3 bước cơ bản: - Chuẩn bị phát hành: + Tổ chức họp đại hội đồng cổ đông: Thống nhất về chủ trương phát hành chứng khoán ra công chúng + Lựa chọn tổ chức bảo lãnh, tổ chức kiểm toán + Định giá chứng khoán + Xây dựng hồ sơ đăng ký phát hành: Hồ sơ gồm nhiều tài liệu khác nhau (Giấy đăng ký chào bán chứng khoán ra công chúng, bản cáo bạch (dự thảo): công khai những thông tin chính xác, trung thực, khách quan liên quan đến chứng khoán chào bán đã phát hành) - Đăng ký chứng khoán: Hồ sơ đăng ký bao gồm: + Giấy đăng ký chào bán cổ phiếu ra công chúng + Điều lệ công ty + Nghị quyết của đại hội cổ đông thông qua việc phát hành cổ phiếu ra công chúng + Bản cáo bạch + Cam kết bảo lãnh phát hành (Nếu có) - Phân phối chứng khoán: + Sau khi có giấy phép phát hành, phải công bố trên các phương tiện thông tin đại chúng về đợt phát hành + Công bố công khai bản cáo bạch và thực hiện phân phối chứng khoán + Báo cáo Uỷ ban chứng khoán Nhà nước + Làm thủ tục niêm yết chứng khoán (nếu được yêu cầu) * Quy trình phát hành chứng khoán lần đầu ra công chúng: Thông thường gồm những bước sau: - Tổ chức đại hội cổ đông để xin ý kiến chấp thuận của đại hội cổ đông về việc phát hành chứng khoán ra công chúng, đồng thời thống nhất mục đích huy động vốn; số lượng vốn cần huy động; chủng loại và số lượng chứng khoán dự định phát hành; cơ cấu vốn phát hành dự tính phân phối cho các đối tượng: Hội đồng quản trị, cổ đông hiện tại, người lao động trong doanh nghiệp, người bên ngoài doanh nghiệp, người nước ngoài… - Hội đồng quản trị ra quyết định thành lập ban chuẩn bị cho việc xin phép phát hành chứng khoán ra công chúng. Chức năng chủ yếu của ban chuẩn bị là chuẩn bị các hồ sơ xin phép phát hành để nộp lên cơ quan quản lý nhà nước về chứng khoán và thị trường chứng khoán; lựa chọn tổ chức bảo lãnh phát hành (nếu cần), công ty kiểm toán và tổ chức tư vấn và cùng với các tổ chức này xây dựng phương án phát hành và dự thảo bản cáo bạch để cung cấp cho các nhà đầu tư. - Ban chuẩn bị lựa chọn người đứng đầu tổ hợp bảo lãnh phát hành. Trong phần lớn các trường hợp phát hành chứng khoán lần đầu ra công chúng, để đảm bảo sự thành công của đợt phát hành thì tổ chức phát hành phải chọn ra được một tổ chức bảo lãnh phát hành. Tổ chức bảo lãnh phát hành với uy tín và mạng lưới rộng lớn của mình sẽ giúp cho việc phân phối chứng khoán của tổ chức phát hành diễn ra một cách suôn sẻ. Chính vì vậy, khi tiến hành phát hành chứng khoán ra công chúng thì việc lựa chọn tổ chức bảo lãnh phát hành có ý nghĩa rất quan trọng, và mang tính quyết định đến sự thành bại của đợt phát hành. - Người đứng đầu tổ hợp bảo lãnh phát hành lựa chọn các thành viên khác của tổ hợp. Trong trường hợp khối lượng chứng khoán phát hành là quá lớn, vượt quá khả năng của một tổ chức bảo lãnh phát hành thì tổ chức bảo lãnh phát hành chính (tổ chức bảo lãnh phát hành đã được lựa chọn) sẽ đứng ra lựa chọn các thành viên khác để cùng với mình tiến hành bảo lãnh cho toàn bộ đợt phát hành. - Ban chuẩn bị cùng với tổ hợp bảo lãnh phát hành, công ty kiểm toán và tổ chức tư vấn tiến hành định giá chứng khoán phát hành. Định giá chứng khoán là khâu khó khăn nhất và phức tạp nhất khi tiến hành phát hành chứng khoán ra công chúng. Nếu định giá chứng khoán quá cao thì sẽ khó khăn trong việc bán chứng khoán, còn nếu định giá chứng khoán quá thấp thì sẽ làm thiệt hại cho tổ chức phát hành. Vì thế, việc định giá chứng khoán một cách hợp lý sao cho người mua và người bán đều chấp nhận được là hết sức quan trọng và cần phải được phối hợp của tổ chức bảo lãnh, công ty kiểm toán và tổ chức tư vấn của công ty. - Chính thức thành lập tổ hợp bảo lãnh phát hành và ký hợp đồng bảo lãnh phát hành với tổ chức phát hành. - Công ty kiểm toán xác nhận các báo cáo tài chính trong hồ sơ xin phép phát hành. - Tổ chức phát hành nộp hồ sơ lên Uỷ ban chứng khoán. Thông thường tổ chức phát hành sẽ được trả lời về việc cấp hay từ chối cấp giấy phép trong một thời hạn nhất định kể từ ngày nộp hồ sơ xin phép phát hành đầy đủ và hợp lệ. Trong thời gian chờ Uỷ ban chứng khoán Nhà nước xem xét hồ sơ, tổ chức phát hành có thể sử dụng nội dung trong bản cáo bạch sơ bộ để thăm dò thị trường. - Sau khi được cấp phép phát hành, tổ chức phát hành phải ra thông báo phát hành trên các phương tiện thông tin đại chúng, đồng thời công bố ra công chúng bản cáo bạch chính thức và việc thực hiện việc phân phối chứng khoán trong một thời gian nhất định kể từ khi được cấp giấy phép. Thời hạn phân phối được quy định khác nhau đối với mỗi nước. Ở Việt Nam, theo quy định tại Nghị định 48/Chính phủ về chứng khoán và thị trường chứng khoán thì thời hạn này là 90 ngày, trong trường hợp xét thấy hợp lý và cần thiết, Uỷ ban chứng khoán Nhà nước có thể gia hạn thêm. - Tiến hành đăng ký, lưu giữ, chuyển giao và thanh toán chứng khoán sau khi kết thúc đợt phân phối chứng khoán. - Sau khi hoàn thành việc phân phối chứng khoán, tổ chức phát hành cùng với tổ chức bảo lãnh phát hành phải báo cáo kết quả đợt phát hành cho ủy ban chứng khoán và tiến hành đăng ký vốn với cơ quan có thẩm quyền. - Trường hợp tổ chức phát hành có đủ điều kiện niêm yết thì có thể làm đơn xin niêm yết gửi lên Uỷ ban chứng khoán và Sở giao dịch chứng khoán nơi công ty niêm yết. Ngoài ra, để có thể huy động vốn trên thị trường chứng khoán, doanh nghiệp cần phải tạo dựng được uy tín, danh tiếng trên thị trường, tạo được hình ảnh đẹp trong mắt công chúng. Để đạt được điều đó, doanh nghiệp cần tuân thủ nguyên tắc công bố thông tin: đảm bảo cung cấp đầy đủ, kịp thời, chính xác các thông tin cần thiết cho người mua chứng khoán. Bản thân doanh nghiệp luôn phải tăng cường hiệu quả của chính mình, phải tăng cường việc quản trị công ty một cách minh bạch và phải bảo đảm yêu cầu niêm yết của thị trường vốn trong nước và quốc tế. Về thị trường: Doanh nghiệp có thể huy động vốn trên thị trường chứng khoán thông qua thị trường sơ cấp. Tuy nhiên, nếu không có thị trường thứ cấp (thị trường thứ cấp là nơi trao đổi, mua bán các chứng khoán đã được phát hành. Nhà đầu tư mua đi bán lại chứng khoán nhằm một trong các mục đích: cất giữ tài sản tài chính, nhân một khoản thu nhập cố định hàng năm, hưởng chênh lệch giá) thì không có thị trường sơ cấp: nếu chứng khoán phát hành ra mà không lưu chuyển được trên thị trường thứ cấp thì nhà đầu tư cũng không quan tâm đến việc mua, nắm giữ chứng khoán phát hành (nhất là cổ phiếu, một loại chứng khoán vô thời hạn). Cổ phiếu của một tổ chức niêm yết trên thị trường chứng khoán khi được mua bán nhiều là phản ánh lòng tin của người đầu tư vào tổ chức đó; do đó khi tổ chức niêm yết muốn tăng vốn, họ có thể tiếp tục phát hành cổ phiếu hoặc trái phiếu đợt mới. Vì vậy, thông thường, khi thị trường đang lên (chỉ số giá cổ phiếu đang ở xu hướng tăng), thì các công ty dễ dàng phát hành với khối lượng lớn. Khi thị trường đang xuống, thì các công ty rất khó phát hành chứng khoán. Ngược lại, nếu tổ chức phát hành các cổ phiếu có chất lượng cao ở thị trường sơ cấp thì việc mua bán trên thị trường thứ cấp mới sôi động, nếu phát hành cổ phiếu không có chất lượng thì cổ phiếu đó không giao dịch được trên thị trường thứ cấp. Nền kinh tế cũng có ảnh hưởng lớn đến việc huy động vốn trên thị trường chứng khoán. Trong điều kiện nền kinh tế bao cấp, các doanh nghiệp chưa có sức ép để phát hành chứng khoán ra thị trường thu hút vốn. Nhưng đến nay, trong điều kiện nền kinh tế thị trường, sức ép đối với các doanh nghiệp là rất lớn, nhu cầu vốn để mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp ngày càng tăng. Huy động vốn trên thị trường chứng khoán là trở thành kênh hữu hiệu giúp doanh nghiệp có thể giải quyết được nhu cầu vốn của mình. Trong thời gian qua, Việt Nam đã có những đổi mới nền kinh tế thị trường, phát triển nền kinh tế đa dạng với sự nỗ lực của các thành phần kinh tế, môi trường kinh doanh ngày càng bình đẳng, thông thoáng, thu hút mạnh vốn đầu tư trong và ngoài nước để phát triển kinh tế. Đây là điều kiện tốt để các doanh nghiệp có thể huy động vốn trên TTCK. Đặc biệt, việc Việt Nam gia nhập WTO khiến các doanh nghiệp có điều kiện hơn, chú trọng hơn đến việc huy động vốn ở thị trường quốc tế nhằm đầu tư, đổi mới trang thiết bị sản xuất. Như vậy, đối với Việt Nam, mới có một số doanh nghiệp có thể đáp ứng được những yêu cầu trên để có thể huy động vốn trên thị trường chứng khoán. Rất nhiều các công ty chưa có đủ điều kiện pháp lý và tạo được lòng tin trong công chúng để có thể huy động vốn bằng kênh này. II. Khả năng huy động vốn qua thị trường chứng khoán Việt Nam Trong nền kinh tế thị trường, do nhu cầu về vốn ngày càng tăng nên ngoài các kênh huy động vốn trước đây như vốn chủ sở hữu, tín dụng ngân hàng…, các doanh nghiệp ngày càng có nhu cầu huy động vốn trên thị trường chứng khoán. Đây là kênh huy động mới giúp doanh nghiệp có vốn lớn để thành lập mới hoặc mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh của mình. Xây dựng và phát triển TTCK nhằm xác lập một kênh huy động vốn mới cho đầu tư phát triển cũng là mục tiêu được Chính phủ Việt Nam định hướng từ những năm đầu thập kỷ 90. Qua một thời gian nghiên cứu, xây dựng đề án và chuẩn bị, ngày 20/7/2000 Trung tâm giao dịch chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh đã chính thức khai trương. TTCK Việt Nam đã chính thức hoạt động. Như phần “Tổng quan về thị trường chứng khoán” đã trình bày ở trên, TTCK bao gồm thị trường sơ cấp và thị trường thứ cấp. Thị trường sơ cấp đảm bảo nguồn vốn được huy động thông qua phát hành chứng khoán ra công chúng. Thị trường sơ cấp thực sự là một kênh huy động vốn trung và dài hạn cho nền kinh tế. Thị trường thứ cấp là nơi thu hút các nhà đầu tư mua đi bán lại chứng khoán, từ đó nâng cao tính thanh khoản cho các loại chứng khoán được giao dịch. Hai loại thị trường này có mối quan hệ rất chặt chẽ với nhau. Vậy, qua những năm qua, TTCK Việt Nam đã có vai trò như thế nào trong việc huy động vốn cho nền kinh tế, đặc biệt là cho các doanh nghiệp? Và các doanh nghiệp đã huy động được vốn trên TTCK Việt Nam đến mức độ nào? 1. Những thành tựu đạt được Sau 6 năm hoạt động, TTCK Việt Nam bước đầu đã hình thành một kênh huy động và phân bổ các nguồn vốn trung và dài hạn quan trọng cho nền kinh tế và các doanh nghiệp. Việc huy động vốn trên TTCK cho các doanh nghiệp đã có những thành công đáng kể. - Về tổ chức và phát triển thị trường: TTCK có tổ chức phát triển nhanh về quy mô, thể hiện: + Trong năm 2002, số vốn huy động được qua TTCK là 0,035 nghìn tỷ đồng. + Đến ngày 30/6/2003 có 5 Công ty niêm yết phát hành thêm cổ phiếu mới để mở rộng sản xuất kinh doanh, tăng vốn điều lệ với tổng vốn tăng thêm 155,4 tỷ đồng. + Tính đến tháng 11/2005: có 21 loại cổ phiếu được niêm yết với tổng số vốn lên 1086 tỷ đồng, hai loại trái phiếu Công ty (đều là của Ngân hàng Đầu tư và phát triển Việt Nam) với số vốn 157 tỷ đồng và 50 loại trái phiếu Chính phủ với 5.400 tỷ đồng, đã có tổng cộng 73 loại chứng khoán với tổng mức vốn hoá khoảng 6.600 tỷ đồng, gần 1,6% GDP. Tính đến ngày 30/6/2005 đã có 570 phiên giao dịch được tổ chức với tổng giá trị giao dịch đạt gần 3.700 tỷ đồng, trong đó giao dịch cổ phiếu chiếm khoảng 88% và giao dịch trái phiếu gần 12%. Có 12 Công ty chứng khoán với tổng vốn điều lệ là 465 tỷ đồng, thực hiện tất cả các nghiệp vụ chứng khoán. Có 28 công ty và chứng chỉ quỹ được niêm yết và giao dịch trên sàn chứng khoán. Có 7 tổ chức kiểm toán độc lập được Uỷ ban chứng khoán Nhà nước chấp thuận, trong đó có 01 đơn vị nước ngoài. Có 5 ngân hàng lưu ký, 3 trong nước và 2 nước ngoài, và có 01 ngân hàng chỉ định thanh toán là Ngân hàng Đầu tư và phát triển Việt Nam. Hơn 14.000 tài khoản giao dịch được mở tại các Công ty chứng khoán, trong đó có hơn 90 nhà đầu tư tổ chức, chiếm 0,6%, và 35 nhà đầu tư nước ngoài. Cùng với sự phát triển của thị trường chứng khoán, khung pháp lý cho hoạt động của thị trường này đã hình thành tương đối đầy đủ. Cuối năm 2005 đã có hơn 20.000 tài khoản giao dịch chứng khoán tại các công ty chứng khoán. + Tính đến hết năm 2006 sẽ có khoảng 170 cổ phiếu và chứng chỉ quỹ của các công ty và quỹ đầu tư được niêm yết và đăng ký giao dịch trên hai trung tâm giao dịch chứng khoán ở TPHCM và Hà Nội với tổng giá trị vốn hoá 10 tỷ USD bằng 17% GDP năm 2006 cộng khoảng 5 tỷ USD giá trị trái phiếu, con số này sẽ bẳng 25% GDP, 35% tổng dư nợ cho vay của các ngân hàng và chiếm 1/5 tổng tài sản tài chính của cả nước. Tổng mức vốn huy động qua cổ phiếu, trái phiếu, chứng chỉ quỹ, đấu giá cổ phần hóa trên 2 thị trường giao dịch chứng khoán là khoảng 27,9 nghìn tỷ đồng năm 2006 tăng 3,93 lần so với năm 2005. Ngân hàng thế giới chỉ ra rằng mức vốn hóa của TTCK Việt Nam tăng mạnh từ dưới 0,5 tỷ USD vào tháng 12 năm 2005 lên 13,8 tỷ USD (._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docL0943.doc
Tài liệu liên quan