Định hướng phân bổ vốn đầu tư từ Ngân sách nhà nước cho phát triển nông nghiệp nông thôn giai đoạn 2001 - 2005

Lời mở đầu J.M Keynes trong lý thuyết đầu tư và mô hình số nhân đã chứng minh: “Đầu tư sẽ bù đắp những thiếu hụt của cầu tiêu dùng, từ đó tăng số lượng việc làm, tăng thu nhập, tăng hiệu quả cận biên của tư bản và kích thích sản xuất tái phát triển”. Đầu tư là chìa khoá trong chiến lược phát triển của mỗi quốc gia, một nền kinh tế muốn giữ được tốc độ tăng trưởng nhanh nhất thiết phải được đầu tư thoả đáng. Điều đó càng đúng với các quốc gia có thu nhập thấp, tài nguyên hạn chế, phát triển ki

doc70 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1151 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Định hướng phân bổ vốn đầu tư từ Ngân sách nhà nước cho phát triển nông nghiệp nông thôn giai đoạn 2001 - 2005, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
nh tế từ nông nghiệp, nghèo nàn, lạc hậu như nước ta. Chính vì vậy, trong những năm cuối của thập kỷ 90, đầu tư cho tăng trưởng và phát triển kinh tế mà nhất là đầu tư cho phát triển nông nghiệp và kinh tế nông thôn đang được Đảng và Nhà nước quan tâm đặc biệt và đã đạt được những thành tựu đáng kể. Những thành tựu đó đã chứng minh con đường lựa chọn của Đảng và Nhà nước là đúng đắn. Để đẩy mạnh phát triển nông nghiệp nông thôn trong thời gian tới lĩnh vực này cần được đầu tư nhiều hơn nữa. Hiện nay nguồn vốn đầu tư cho nông nghiệp nông thôn có các nguồn như : chi NSNN, vốn tự có của dân, vốn tín dụng, vốn từ ngoài nước(ODA, FDI). Trong đó vốn đầu tư từ NSNN đóng vai trò rất quan trọng. Vậy làm sao để nguồn vốn này được phân bổ một cách có hiệu quả đảm bảo thực hiện mục tiêu phát triển nông nghiệp nông thôn, nâng cao đời sống của nông dân trong thời kỳ kế hoạch 5 năm tới và cũng là để tạo nên cơ sở vững chắc cho sự nghiệp phát triển lâu dài của đất nước. Đề tài này nghiên cứu trên cơ sở thực trạng đầu tư cho nông nghiệp nông thôn từ NSNN trong 5 năm từ 1996 đến năm 2000 và những “định hướng phát triển nông nghiệp nông thôn trong 5 năm tới của Đảng và Nhà nước ta đề ra, nhằm đưa ra các giải pháp phân bổ vốn NSNN cho phát triển nông nghiệp nông thôn giai đoạn 2001- 2005.” Luận văn gồm có ba phần lớn: Phần I: Vai trò của vốn đầu tư từ Ngân sách đối với sự nghiệp phát triển nông nghiệp nông thôn. Phần II: Đánh giá thực trạng đầu tư từ nguồn vốn Ngân sách nhà nước cho phát triển nông nghiệp nông thôn giai đoạn 1996-2000. Phần III: Định hướng phân bổ vốn đầu tư từ Ngân sách nhà nước cho phát triển nông nghiệp nông thôn giai đoạn 2001-2005. Luận văn của tôi được hoàn thành với sự giúp đỡ tận tình của thầy giáo TS. Ngô Thắng Lợi Trường ĐH KTQD và TS. Nguyễn Ngọc Tuyến cùng các anh, chị ở Phòng Chính sách Tài chính Vĩ mô- Vụ Chính sách Tài chính Bộ Tài Chính. Tôi xin chân thành cảm ơn ! Phần I: Vai trò của vốn đầu tư từ Ngân Sách Nhà Nước đối với sự phát triển Nông nghiệp nông thôn. Sự cần thiết của việc tăng cường đầu tư phát triển nông nghiệp nông thôn Việt Nam . Trong những năm qua, lĩnh vực nông nghiệp và kinh tế nông thôn đã liên tục phát triển toàn diện với tốc độ khá cao, ghóp phần ổn định tình hình kinh tế-xã hội. Nhờ có chính sách đầu tư đúng đắn cho nông nghiệp nông thôn của Đảng và Nhà nước ta mà sản xuất lương thực không ngừng tăng lên đã giải quyết vấn đề lương thực quốc gia, đưa nước ta lên vị trí thứ hai trên thế giới về xuất khẩu gạo (3,5 triệu tấn gạo năm 2000). Bộ mặt nông nghiệp nông thôn đã và đang có những thay đổi đáng mừng. Cơ cấu nghành nghề nông nghiệp đã bước đầu chuyển dịch theo hướng sản xuất hàng hoá, hình thành các vùng chuyên canh lớn trồng cây công nghiệp, cây ăn quả, thúc đẩy chăn nuôi gia súc, gia cầm. Việc trồng rừng bảo vệ rừng, khai thác và nuôi trồng thủy sản được chú trọng. Cơ sở hạ tầng nông thôn ở nhiều tỉnh, thành phố được quan tâm đầu tư cải tạo, nâng cấp và xây dựng mới. Chưong trình xoá đói giảm nghèo, tạo việc làm, tăng thu nhập, sức mua, khả năng thanh toán của khu vực dân cư nông thôn đã và đang được Chính phủ tích cực triển khai giải pháp kích cầu hiện nay. Tuy nhiên, trên tổng thể lực lượng sản xuất nông nghiệp và nông thôn nước ta còn bất cập so với yêu cầu sản xuất hàng hoá tập trung trên qui mô lớn. Sản xuất chưa thoát khỏi tình trạng sản xuất nhỏ, phân tán manh mún và chủ yếu vẫn là kinh tế hộ sản xuất nhỏ trồng lúa, cây công nghiệp, cây ăn quả, chăn nuôi, nuôi trồng thuỷ hải sản… những ngành nghề phụ thuộc rất lớn vào điều kiện thiên nhiên, đất đai, thổ nhưỡng… cơ sở vật chất kỹ thuật và kết cấu hạ tầng còn thấp kém và chưa phát triển đồng đều, chưa đáp ứng được yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Cơ cấu kinh tế nông thôn chuyển dịch chậm, lao động nông nghiệp vẫn dư thừa, việc làm thiếu, thu nhập của người nông dân thấp. Khoảng cách về thu nhập giữa nông dân giàu và nghèo, giữa nông thôn và thành thị ngày càng tăng. Nguyên nhân của tình trạng này một phần do thiếu những điều kiện và tiền đề cần thiết để phát triển nông nghiệp, nông thôn, trong đó quan trọng nhất là lực lượng sản xuất, một phần do việc đầu tư của Nhà nước chưa thoả đáng. Vốn và tích luỹ của khu vực này rất thấp vì vậy việc tăng cường đầu tư vào phát triển nông nghiệp nông thôn từ NSNN và các nguồn khác trong điều kiện hiện nay là hết sức cần thiết nhằm khắc phục những tồn tại nêu trên điều đó những thúc đẩy phát triển kinh tế- xã hội ở nông thôn mà nó còn tạo điều kiện quan trọng để tiến hành cải cách sâu rộng trong các lĩnh vực kinh tế-xã hội khác trong cả nước. Để phát triển kinh tế với tốc độ cao và có hiệu quả ở một số nước trên thế giới chủ yếu nhằm vào đầu tư phát triển các ngành công nghiệp họ coi đó là cách đầu tư mang lại hiệu quả kinh tế xã hội cao nhất. Sở dĩ họ lựa chọn như vậy vì đất nước họ có nền công nghiệp rất phát triển và có thành tựu đạt được từ các cuộc cách mạng khoa học kĩ thuật trước đó. Còn ở các nước Châu á và các nước Đông Nam á thì khi đầu tư cho phát triển kinh tế của đất nước họ lại rất coi trọng vào đầu tư phát triển nông nghiệp nông thôn như: Trung Quốc, Thái Lan, Đài Loan, Malaysia, Indonexia… và vì thế họ đã đạt được những thành công lớn. Hiện nay các nước này đều có nền nông nghiệp phát triển với tốc độ cao các sản phẩm nông nghiệp có giá trị xuất khẩu rất lớn. Trung Quốc là một nước khá thành công trong đầu tư phát triển nông nghiệp nông thôn. Hình thức đầu tư chủ yếu là đầu tư xây dựng hàng ngàn xí nghiệp vừa và nhỏ ở nông thôn, thu hút hàng trăm triệu lao độmg dư thừa. Bằng chính sách này vừa giải quyết được vấn đề việc làm cho lao động nông thôn vừa thực hiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn theo hướng công nghiệp và dịch vụ một cách nhanh chóng. Đối với các nước Đông Nam á như Thái Lan, Malaysia, Indonexia trong thời kì đầu nông nghiệp chiếm từ 70% tới 80% GDP nhưng hiện naycông nghiệp và dịch vụ lại chiếm 80% GDP, trong đó riêng công nghiệp chiếm tới 65% chủ yếu là chế biến nông lâm thuỷ sản. ở Thái Lan đầu tư phát triển nông nghiệp, nông thôn là tập trung đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng đặc biệt là thuỷ lợi và giao thông nông thôn. Độ dài đường giao thông nông thôn ở Thái Lan đã tăng từ 10.400km năm 1960 lên 28.200km năm 1980. Chất lượng các công trình giao thông nông thôn ở Thái Lan được đánh giá là tốt nhất trong khu vực. Thái Lan cũng đã tập trung vào cơ giới hoá nông nghiệp, cụ thể là tỉ lệ đất nông nghiệp được cơ giới hoá tăng từ 14,4% năm 1976 lên 19,6% năm 1986. Các máy móc phục vụ sản xuất nông nghiệp được trang bị thay thế sức kéo của trâu, bò. Những thành công của Thái Lan trong nông nghiệp đã chứng tỏ họ lựa chọn con đường là đúng đắn. Hiện nay Thái Lan là nước xuất khẩu gạo lớn nhất trên thế giới với chất lượng gạo rất tốt, ngoàI ra các mặt hàng chế biến từ nông, lâm, hải sản của Thái Lan cũng đều có mặt trên thị trường quốc tế. Hay như Đài Loan là đất nước nhỏ bé nhưng được coi là nước có tốc độ phát triển kinh tế rất cao. Đài Loan được đánh giá là đất nước thành công nhất về nông ngiệp. Họ đã huy động tiềm năng từ các doanh nghiệp vừa và nhỏ trong nước đầu tư vào nông nghiệp, thông qua việc sử dụng các công nghệ hiện đại để tạo ra các hoạt động sản xuất va dịch vụ thu hút được lao động dư thừa trong nông nghiệp. Mặt khác Đài Loan đã chuyển các xí nghiệp công nghiệp về nông thôn, tích cực đầu tư xây dựng các công trình cơ sở hạ tầng nông thôn, tạo ra điều kiện cho lao động nông thôn đễ dàng chuyển từ sản xuất nông nghiệp sang sản xuất công nghiệp mà vẫn không dời khỏi nông thôn. Xuất phát từ điều kiện kinh tế trong nước và kinh nghiệm của các nước trong khu vực có đặc điểm tự nhiên gần giống ta, Đảng chủ trương lấy nông nghiệp nông thôn làm nền tảng để công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước. Trong giai đoạn đầu của thời kì đổi mới, nền kinh tế nước ta là một nền nông nghiệp lạc hậu với cơ sở vật chất thấp kém. Khi đó chúng ta chỉ tập trung vào đầu tư các ngành công nghiệp nặng và các ngành công nghiệp nhẹ cuối cùng chúng ta đã không thành công mà còn kéo theo sự trì trệ, chậm phát triển của các ngành kinh tế khác. ở giai đoạn sau khi chúng ta nhìn nhận lại kết quả đạt được thì thấy rằng sở dĩ chúng ta không thành công là do cơ cấu đầu tư cho các ngành là không hợp lí. Không chú trọng đầu tư vào những ngành có lợi thế để tận dụng được những lợi thế này ví dụ như ngành nông nghiệp có lợi thế rất lớn về đất đai, điêù kiện khí hậu, kĩ thuật canh tác lâu đời thì lại không được quan tâm đầu tư đúng mức. Nhìn ra các nước trong khu vực đặc biệt là các nước Đông Nam á đã thực hiện thành công trong việc xác định nông nghiệp nông thôn làm mũi nhọn để đầu tư phát triển đất nước thì chúng ta tin tưởng rằng sự lựa chọn của Đảng và Nhà nước ta là đúng đắn. Thực hiện đầu tư phát triển nông nghiệp nông thôn chủ yếu đầu tư phát triển khoa học công nghệ như công nghệ hoá học, sinh học, cơ điện năng ứng dụng vào công tác trồng trọt, chăn nuôi gia súc, gia cầm. Đồng thời nâng cao thời gian cũng như hiệu quả sử dụng đất tạo điều kiện tăng sản lượng nông lâm ngư nghiệp. Bên cạnh đó đầu tư phát triển các ngành khác ghóp phần tác động vào việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp nông thôn như: công nghiệp chế biến, ngành nghề truyền thống, dịch vụ phục vụ sản xuất và đời sống dân cư trong lĩnh vực nông nghiệp nông thôn. Từ đó giải quyết được vấn đề lao động việc làm cho thanh niên nông thôn, tránh được hiện tượng di dân tự do từ nông thôn ra thành thị. Đồng thời nâng cao thu nhập cho người dân thúc đẩy cải tạo nông thôn mới. Ngoài ra khi kinh tế nông nghiệp phát triển mạnh sẽ cung cấp nguyên liệu sản xuất trong nước cho ngành công nghiệp nhẹ, công nghiệp chế biến và xuất khẩu. Đặc biệt là từ xuất khẩu nông sản thu ngoại tệ nước ta không những có điều kiện nhập khẩu những máy móc thiết bị hiện đại phục vụ cho sản xuất công nghiệp, nông nghiệp. Và nó cũng ghóp phần giảm thâm hụt ngoại tệ ổn định kinh tế vĩ mô. Để làm rõ vai trò của việc chú trọng đầu tư phát triển nông nghiệp nông thôn ta xét khía cạnh ngược lại. Giả sử chúng ta không quan tâm đến đầu tư phát triển nông nghiệp nông thôn thì nước ta sẽ khó đảm bảo được an ninh lương thực quốc gia vì: Nước ta có đến gần 80% dân số sống ở khu vực nông thôn tức là phần đông dân số nước ta sống phụ thuộc vào nông nghiệp, hàng năm tỉ lệ tăng dân số tự nhiên trong khu vực nông thôn khá nhanh cho nên nhu cầu về lương thực là rất lớn và tăng qua mỗi năm, trong khi đó diện tích đất nông nghiệp không tăng đáng kể.Vậy nếu không tiến hành đầu tư phát triển nông nghiệp để tăng năng suất cây trồng và vật nuôi thì sẽ không đáp ứng được nhu cầu ngày càng tăng đó. Mặt khác mặc dù nước ta là nước xuất khẩu gạo đứng thứ hai trên thế giới nhưng chất lượng gạo chế biến xuất khẩu chưa tốt. Gạo xuất khẩu của ta chưa đủ độ bóng, hạt gạo chưa thơm, chưa có độ dẻo như gạo của Thái Lan, Mĩ. Nên thường bị ép giá do chúng ta chưa có công nghệ chế biến hoàn hảo, giống lúa tốt để nâng cao chất lượng gạo, tăng tính cạnh tranh. Như vậy cần phải đầu tư một công nghệ chế biến, đầu tư cho công tác nghiên cứu giống lúa mới. Các loại nông sản xuất khẩu khác cũng như vậy. Tóm lại: Qua phân tích những nội dung trên đây ta thấy rõ được vai trò và sự cần thiết của đầu tư phát triển nông nghiệp nông thôn đối với sự phát triển kinh tế- xã hội của đất nước và càng khẳng định sự lựa chọn của Đảng ta trong đưòng lối phát triển đất nước là hoàn toàn đúng đắn, vấn đề là chúng ta phải tiếp tục đưa ra các giải pháp để nâng cao chất lượng cho đầu tư nông nghiệp nông thôn. các nguồn vốn cơ bản cho đầu tư phát triển nông nghiệp nông thôn. II.1. Nguồn vốn trong nước . II.1.1. Nguồn vốn từ NSNN. Huy động vốn có hiệu quả thông qua hoạt động của NSNN là điều kiện quan trọng để giải quyết yêu cầu vốn cho đầu tư, đặc biệt là đầu tư vốn theo các chương trình phát triển kinh tế-xã hội nông nghiệp nông thôn. Huy động vốn cho phát triển kinh tế-xã hội nông nghiệp nông thôn, một mặt phải dựa vào khả năng và tiềm lực tài chính của NSNN trung ương và địa phương trên cơ sở thu đúng, thu đủ và mở rộng diện thu thuế, phí, lệ phí; khai thác tiềm năng vốn từ các nguồn tài nguyên quốc gia, từ vay nợ, trong đó thu thuế và phí là nguồn thu đặc biệt quan trọng. Mặt khác nguồn vốn đầu tư cho khu vực nông nghiệp nông thôn chỉ được cấp phát hoặc cho vay tín dụng ưu đãi từ nguồn của NSNN trong các trường hợp: Các dự án đầu tư phát triển kinh tế-xã hội, đáp ứng mục tiêu quốc kế dân sinh, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, đổi mới nông thôn. Các dự án này Bộ Kế hoạch và Đầu tư được Chính phủ uỷ nhiệm thông báo danh mục hàng năm . Thông thường các dự án này bao gồm: dự án thuỷ lợi, cải tạo đất, đưa điện, nước sạch về nông thôn và tỉ lệ Nhà nước cấp phát vốn từ 30%-40% tổng vốn dự án. Hàng năm các địa phương được phân bổ một số vốn trung và dài hạn ưu đãi. Nguồn vốn này được Bộ Tài chính và Quỹ hỗ trợ đầu tư quốc gia chuyển vốn sang các NHTM quốc doanh để cho vay với lãi suất ưu đãi trong các lĩnh vực trọng điểm hoặc các lĩnh vực được Nhà nước khuyến khích. Các dự án thuộc danh mục Chính phủ chỉ định, nhưng hệ thống NHTM đầu tư vốn toàn bộ. Trường hợp này các đối tượng thực hiện dự án được hưởng lãi suất ưu đãi, chênh lệch giữa lãi suất ưu đãi và lãi suất cho vay trung và dài hạn của Ngân hàng được NSNN cấp bù. Có thể nói nguồn vốn từ NSNN cấp phát hoặc cho vay tín dụng ưu đãi trong các trường hợp trên đã ghóp phần tích cực trong việc thúc đẩy kinh tế nông nghiệp phát triển và chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở nông thôn, song nguồn vốn này có nhược điểm là cấp phát, giải ngân chậm, chưa đáp ứng yêu cầu vốn theo tiến độ thực hiện các dự án, nên ở mỗi mức độ nhất định, đã hạn chế việc phát huy tác dụng của vốn NSNN. Trong thời gian tới, để tăng cường sử dụng một các có hiệu quả và khai thác nguồn vốn từ NSNN, các dự án khả thi theo các chương trình kinh tế phải được xây dựng và công bố ngay từ đầu năm để làm cơ sở cho việc phân bổ, cấp phát chuyển vốn cho các NHTM thực hiện cho vay ưu đã trong năm kế hoạch. II.1.2. Nguồn vốn tín dụng. Trong các nguồn vốn đáp ứng cho yêu cầu phát triển kinh tế-xã hội ở nông thôn, có thể nói nguồn vốn tín dụng ngân hàng đóng vai trò đặc biệt quan trọng đối với chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, đổi mới nông thôn trên các mặt: phát triển nông nghiệp theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá; khai thác tiềm năng về lao động đất đai, tài nguyên thiên nhiên, phát triển sản xuất hàng hoá, thị trường, thúc đẩy phát triển các quan hệ tiền tệ và hình thành thị trường tài chính ở nông thôn; phát triển cơ sở hạ tầng, đổi mới bộ mặt nông thôn thu dần cách biệt giữa nông thôn và thành thị. Nguồn vốn cần thiết để đầu tư cho nông nghiệp nông thôn là rất lớn. Trong đó vốn tín dụng Ngân hàng chiếm tỉ trọng đáng kể, đặc biệt là vốn trung và dài hạn cho các dự án kinh tế-xã hội phát huy hiệu quả trong tương lai. Chính phủ ban hành Nghị định số 14/CP ngày 2/3/1993 về chính sách cho hộ sản xuất vay để phát triển nông-lâm-ngư-diêm nghiệp và kinh tế nông thôn với nội dung cơ bản sau: Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam được giao nhiệm vụ chủ yếu cho vay phát triển sản xuất nông nghiệp. Các hộ sản xuất nông-lâm-ngư-diêm nghiệp được vay vốn trực tiếp tại ngân hàng. Hộ sản xuất nông, lâm, ngư, diêm nghiệp trong giai đoạn nàybao gồm cả hộ gia đình, cá nhân, doanh nghiệp hoạt động sản xuất kinh doanh trong các lĩnh vực trên và tiểu thủ công nghiệp ở nông thôn. Các tổ chức tín dụng cho vay bổ sung vốn chủ yếu là ngắn hạn, đồng thời, căn cứ vào tính chất và khả năng nguồn vốn, dành một tỉ lệ thích hợp để cho vay vốn cố định, thời hạn dài hơn. áp dụng lãi suất không bao cấp, theo cung cầu thị trường. Tuy nhiên để mở rộng vốn tín dụng phục vụ phát triển sản xuất nông nghiệp nông thôn, khắc phục những vướng mắc của Nghị định trên Ngân hàng Nhà nước đã xây dựng dự án trình Chính phủ ban hành quyết định số 67/1999/QĐ-TTg ngày 30/3/1999 của Thủ tướng Chính phủ với nội dung sau: Về huy động nguồn vốn : Ngân hàng tự huy động vốn; NSNN hỗ trợ; vay của các tổ chức tài chính quốc tế và nước ngoài. Về đối tượng : Chi phí sản xuất cho trồng trọt, chăn nuôi như : vật tư, phân bón cây giống, con giống, thuốc trừ sâu, thuốc chữa bệnh… chi phí nuôi trồng thửy sản, chi phí sản xuất muối, làm thuỷ lợi nội đồng, tiêu thụ chế biến và xuất khẩu nông, lâm, thuỷ hải sản; phát triển công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, các ngành nghề dịch vụ ở nông thôn; mua sắm công cụ máy móc, thiết bị phục vụ cho phát triển nông nghiệp và nông thôn như: máy cày, máy tuốt lúa, máy xay sát; phát triển các cơ sở hạ tầng nông thôn như : điện, đường giao thông, cung cấp nước sạch và vệ sinh môi trường… Về bảo đảm tiền vay: Cho phép áp dụng mức cho vay đến 10 triệu đồng để đầu tư vào các đối tượng nêu trên đối với các hộ gia đình mà không phải thế chấp tài sản, chỉ nộp kèm đơn xin vay, giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Mới đây, thực hiện Nghị quyết 11 của Chính phủ , mức cho phép vay không có bảo đảm bằng tài sản được nâng lên đến 20 triệu đồng đối với hộ gia đình, chủ trang trại ; nâng mức cho vay không có bảo đảm bằng tài sản đến 50 triệu đồng đối với các tổ chức, hộ gia đình và cá nhân vay vốn để sản xuất giống thuỷ sản. Ngoài ra Chính phủ còn đưa ra một số chính sách tín dụng khác như chính sách về lãi suất tiền vay nhằm khuyến khích các hộ nông dân vay vốn đầu tư cho sản xuất nông nghiệp bởi đây là cách tốt nhất giúp đỡ cho các hộ nông dân tự làm giàu thúc đẩy nông nghiệp nông thôn phát triển. II.1.3. Nguồn vốn tích luỹ từ bản thân nội bộ nông nghiệp và nguồn từ các đơn vị kinh tế nông nghiệp Nông nghiệp nước ta đến nay về cơ bản vẫn chưa thoát khỏi tình trạng sản xuất nhỏ, nhưng lại được coi là nguồn tích luỹ vốn ban đầu quan trọng cho công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước; nghĩa là không phải chỉ cho sự phát triển của bản thân nông nghiệp, mà còn cho sự phát triển công nghiệp và một số ngành kinh tế quốc dân khác. Phải chăng đây là gánh nặng quá sức đối với nền nông nghiệp Việt Nam ? Thật ra, không nên chỉ nhìn vào đại lượng tuyệt đối về sự đóng ghóp của kinh tế nông thôn vào NSNN để đánh giá khả năng tích luỹ cho đầu tư và phát triển. Việc đánh giá vai trò của nông nghiệp và nông thôn trong tích luỹ vốn không phải chỉ ở chỗ bản thân chúng tạo được lượng tích luỹ là bao nhiêu, mà còn ở chỗ chúng tạo điều kiện cho các ngành kinh tế khác, tạo ra tích luỹ như thế nào và sự phát triển của chúng đem lại sự ổn định về kinh tế-xã hội của đất nước ra sao. Về nguyên tắc, để có tích luỹ và không ngừng tăng tích luỹ cho đầu tư phát triển cần tạo ra mức năng suất lao động xã hội ngày càng cao. Song, năng suất lao động trong ngành kinh tế nông thôn lại phụ thuộc vào nhiều nhân tố: cơ cấu kinh tế, trình độ trang bị kỹ thuật và công nghệ, tổ chức sản xuất và lao động, trình độ thành thạo của lao động, điều kiện tự nhiên. Do đó để tăng năng suất lao động trong các ngành kinh tế nông thôn, phải giải quyết đồng bộ nhiều biện pháp khác nhau mang tính tổng hợp và tuỳ thuộc vào điều kiện cụ thể của từng vùng. Tuy nhiên thực tế mà nói, nguồn vốn tích luỹ từ trong nông nghiệp nông thôn chiếm vai trò rất quan trọng bởi từ trước khi có chính sách đầu tư thích đáng của Nhà nước bằng nguồn vốn ngân sách và nguồn tín dụng thì nguồn này là nguồn vốn chính trong đầu tư phát triển nông nghiệp nông thôn. Đối với nguồn vốn đầu tư từ các đơn vị kinh tế nông nghiệp, đây là nguồn vốn đầu tư chủ yếu là của các đơn vị kinh doanh chế biến nông sản. Các đơn vị này đầu tư dưới hình thức là bỏ vốn ra mua giống mới có năng suất cao, có chất lượng tốt về bán cho người nông dân sau đó mua lại sản phẩm đầu ra. Hay hình thức đầu tư khác là mở lớp dạy kỹ thuật canh tác, kỹ thuật chăn nuôi mới cho nông dân để họ tự sản xuất để tạo ra sản phẩm… Như vậy đây cũng là nguồn vốn quan trọng cho phát triển nông nghiệp nông thôn bởi nó góp phần thúc đẩy sản xuất nâng cao đời sống người dân nông thôn. II.2. Nguồn vốn ngoài nước. II.2.1. Nguồn vốn ODA Nguồn vốn này do các Chính phủ, các tổ chức liên chính phủ và phi Chính phủ cung cấp, hàng năm tăng lên đáng kể và nó ghóp phần không nhỏ vào các thành tựu kinh tế-xã hội chung của cả nước trong đó có nông nghiệp nông thôn. Nằm trong vốn tài trợ phát triển nguồn quan trọng nhất là vốn ODA, trong đó vốn vay ưu đãi chiếm 3/4, được tập chung chủ yếu cho các dự án phát triển nguồn nhân lực, phục hồi và phát triển kết cấu hạ tầng kinh tế-xã hội, cải tạo môi trường, tăng cường thể chế. Trong những năm qua, ODA được sử dụng để cải tạo nâng cấp nhiều công trình quan trọng, đặc biệt là các công trình ở vùng nông thôn, đầu tư cho nông, lâm, ngư nghiệp, xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế. Ngoài vốn ODA còn các khoản tài trợ phát triển khác thể hiện bằng các khoản vay ưu đãi của Chính phủ từ các tổ chức tài chính tiền tệ quốc tế như: Quĩ tiền tệ thế giới(IMF), Ngân hàng thế giới(WB), Ngân hàng phát triển Châu á(ADB), trong đó nhà nước chỉ định Ngân hàng đầu tư và phát triển và một số Ngân hàng thương mại quốc doanh làm ngân hàng đại lý và ngân hàng phục vụ có trách nhiệm đưa vốn vay đến người sử dụng, đến người đầu tư cũng như theo dõi trả nợ, thu hồi nợ cho nhà nước. Nguồn vốn này trong những năm qua chúng ta thu hút được và một phần đưa vào phát triển nông nghiệp, nâng cấp hạ tầng nghề cá, thực hiện cơ giới hoá nông nghiệp, cải thiện hệ thống tài chính nông thôn… Song trong quá trình sử dụng nguồn tàI trợ phát triển, việc giải ngân diễn ra chậm chạp xuất phát từ nhiều lý do khach quan và chủ quan, do đó không huy động được toàn bộ số vốn mà các nhà tài trợ cho nước ta. II.2.2. Nguồn vốn FDI. Nguồn vốn này còn gọi là nguồn vốn đầu tư trực tiếp từ nước ngoài, và là nguồn vốn luôn có xu hướng tăng lên trong điều kiện kinh tế mở và phát triển giao lưu quan hệ với các Chính phủ, các tổ chức kinh tế và các nhà kinh doanh nước ngoài và được coi là quan trọng nhất trong tổng nguồn vốn huy động từ bên ngoài. Trong điều kiện cơ sở hạ tầng kinh tế-xã hội ở nông thôn còn yếu và chưa phát triển, việc hình thành các khu công nghiệp tập trung, khu chế xuất phục vụ cho phát triển nông nghiệp và đẩy mạnh ngành công nghiệp, đặc biệt là công nghiệp chế biến lương thực, thực phẩm ở khu vực là biện pháp thúc đẩy tăng trưởng tăng trưởng kinh tế, đồng thời cũng là biện pháp thu hút vốn đầu tư trực tiếp của nước ngoài bằng nhiều hình thức. Khuyến khích các dự án đầu tư phát triển năng lực chế biến nông sản, các dự án tận dụng đất đai, đIều kiện tự nhiên để trồng cây công nghiệp, cây ăn quả và chế biến sản phẩm, các dự án nuôi trồng, khai thác kết hợp chế biến thuỷ sản( đặc biệt là ở Đồng bằng Sông Cửu Long). Ngoài hai nguồn vốn ODA và FDI còn có nguồn vốn vay từ các ngân hàng nước ngoài. Để đảm bảo cho hoạt động kinh doanh và hỗ trợ nguồn vốn huy động trong nước, các Ngân hàng thưong mại ở nước ta thực hiện vay vốn của các ngân hàng nước ngoài(có chú ý đến nguồn vốn trung và dài hạn) rồi sau đó cho các tổ chức, các nhà đầu tư ở trong nước vay lại. Trước mắt các Ngân hàng thương mại, trong đó Ngân hàng Đầu tư và Phát triển, Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn phải đi tiên phong trong việc thực hiện vay vốn của các chi nhánh Ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam và tập trung rót vốn cho nông nghiệp nông thôn. Vai trò của nguồn vốn NSNN đối với phát triển nông nghiệp nông thôn III.1. Một số khái niệm về NSNN. III.1.1. Khái niệm NSNN. Mỗi một Nhà nước muốn duy trì được sự tồn tại và phát triển đều phải có một nguồn vật chất nhất định để duy trì hoạt động của bộ máy Nhà nước và thực hiện cung ứng các dịch vụ công cộng như: các dịch vụ về an ninh quốc phòng, về giáo dục đào tạo, văn hoá, y tế, và các dịch vụ về quản lý hành chính. Để có được nguồn vật chất này Nhà nước phải tạo nguồn thu từ các đối tượng trong xã hội thụ hưởng các dịch vụ công cộng của nhà nước và được đảm bảo bằng pháp luật của Nhà nước. Các nguồn mà Nhà nước qui định được tập chung vào một quĩ tiền tệ duy nhất thuộc sở hữu Nhà nước, và chỉ những khoản chi nào thuộc nhiệm vụ chung của Nhà nước mới được chi ra. Quĩ tiền tệ này được gọi là quĩ Ngân sách Nhà nước(NSNN). Vậy NSNN là một hệ thống các quan hệ kinh tế phát sinh trong quá trình phân phối các nguồn tài chính của xã hội nhằm hình thành quĩ tiền tệ tập chung của Nhà nước để đáp ứng các nhu cầu chi gắn với việc thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước. Một khái niệm khác thì NSNN là một bản tường trình về kế hoạch chi tiêu và trợ cấp tương ứng với khả năng thu của Nhà nước trong một khoảng thời gian nhất định. III.1.2. Cơ cấu chi tiêu của NSNN. Chi tiêu Ngân sách Nhà nước cho phát triển kinh tế-xã hội được chia thành bốn phần chính, đó là chi thường xuyên, chi đầu tư phát triển, chi trả nợ và chi dự trữ tài chính. Trong đó chi thường xuyên và chi đầu tư phát triển chiếm tỷ trọng lớn trong tổng chi của NSNN. Chi thường xuyên: bao gồm Chi cho các hoạt động sự nghiệp giáo dục, đào tạo, y tế, xã hội, văn hoá, thông tin, thế dục thể thao, sự nghiệp khoa học, công nghệ và môi trường và các sự nghiệp khác. Chi cho các hoạt động sự nghiệp kinh tế. Chi cho quốc phòng, an ninh và trật tự an toàn xã hội. Chi cho các hoạt động của các cơ quan Nhà nước. Chi cho các hoạt động của Đảng cộng sản Việt Nam. Chi cho hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Liên đoàn lao động Việt Nam, Đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Hội Cựu chiến binh Việt Nam, Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam, Hội Nông dân Việt Nam. Trợ giá theo chính sách của Nhà nước. Các chương trình quốc gia. Hỗ trợ quĩ bảo hiểm xã hội theo qui định của Chính phủ. Trợ cấp cho các đối tượng chính sách xã hội. Tài trợ cho các tổ chức xã hội, xã hội- nghề nghiệp theo qui định của pháp luật. Trả lãi tiền do Nhà nước vay. Viện trợ cho các Chính phủ và tổ chức nước ngoài. Các khoản chi khác theo qui định của pháp luật. Chi đầu tư phát triển: bao gồm Chi đầu tư xây dựng các công trình kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội không có khả năng thu hồi vốn. Chi đầu tư và hỗ trợ cho các doanh nghiệp Nhà nước, góp cổ phần liên doanh vào các doanh nghiệp thuộc các lĩnh vực cần thiết có sự tham gia của Nhà nước theo qui định của pháp luật. Chi cho Quĩ hỗ trợ đầu tư quốc gia và các Quĩ hỗ trợ phát triển đối với các chương trình, dự án phát triển kinh tế. Chi dự trữ Quốc gia. Cho vay của Chính phủ để đầu tư phát triển. Chi trả nợ gốc tiền do Nhà nước vay. Chi bổ xung quĩ dự trữ tài chính. III.2. Nội dung chi NSNN cho phát triển nông nghiệp nông thôn. Trong những năm tài chính tuỳ thuộc vào mục tiêu phát triển kinh tế đất nước, Nhà nước ta sẽ phân chia các khoản chi theo tỷ lệ hợp lý. Từ sau Đại hội Đảng lần thứ 6 năm 1986 con đường lựa chọn là tập chung phát triển nông nghiệp nông thôn tạo cơ sở vật chất cho công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước. Cho nên trong những năm gần đây phần NSNN dành cho nông nghiệp và kinh tế nông thôn đã được chú trọng hơn so với thời gian trước. Và càng đến những năm sau này mức chi cho nông nghiệp và kinh tế nông thôn càng tăng. Đi vào cụ thể ta thấy trong nội dung chi NSNN cho nông nghiệp và kinh tế nông thôn có những nội dung sau. III.2.1. Chi NSNN cho nông nghiệp. Các khoản chi trực tiếp để phát triển sản xuất nông nghiệp của Nhà nước bao gồm các khoản chi như: chi cho công tác nghiên cứu khoa học về nông nghiệp: Nghiên cứu phát minh ra các loại máy móc phục vụ sản xuất, tìm ra các phương pháp sản xuất mới, nghiên cứu và ứng dụng các giống cây trồng, vật nuôi mới vào sản xuất; chi cho công tác khuyến nông, khuyến lâm, khuyến ngư; chi cho sự nghiệp trồng cây, gây rừng, phủ xanh đất trống đồi núi trọc và công tác bảo vệ rừng, phòng cháy chữa cháy rừng; chi cho công tác duy tu, bảo dưỡng, sửa chữa đê điều, đầu tư xây dựng đê điều và hệ thống thuỷ lợi. Cụ thể như sau: Chi NSNN cho việc nghiên cứu, phát minh ra máy móc phục vụ sản xuất nông nghiệp, nghiên cứu tìm ra và đưa vào sản xuất các loại giống cây trồng, vật nuôi mới bao gồm các khoản chi như: Chi cho đội ngũ cán bộ làm công tác nghiên cứu: lương, thưởng, phụ cấp; chi cho các dự án nghiên cứu; chi để mua sắm các máy móc thiết bị phục vụ cho công tác nghiên cứu; chi cho việc sản xuất thí nghiệm các loại giống mới… Đây là một trong những khoản chi rất quan trọng đối với sự phát triển nông nghiệp vì thực chất khoản chi này ghóp phần phát triển sản xuất theo cả chiều rộng và chiều sâu, vừa đảm bảo chất lượng của nông sản mà vẫn tăng sản lượng nông sản sản xuất ra. Chi NSNN cho sự nghiệp khuyến nông, khuyến lâm, khuyến ngư bao gồm: chi lương, thưởng, phụ cấp cho các cán bộ làm công tác khuyến nông, khuyến lâm, khuyến ngư; chi để bồi dưỡng kỹ năng nghiệp vụ cho cán bộ như: chi kinh phí cho các lớp học ngắn ngày, chi cho các hội thảo, hội nghị chuyên đề. Khoản chi này nhằm nâng cao nghiệp vụ cho các cán bộ làm công tác khuyến nông, lâm, ngư, giúp họ tiếp thu nhanh chóng các tiến bộ khoa học kỹ thuật tiên tiến để áp dụng vào thực tế. Chi cho công tác tuyên truyền, phổ biến rộng rãi cho bà con nông dân về các giống cây trồng vật nuôi có năng suất, chất lượng cao, các phương pháp sản xuất hiệu quả và các loại máy móc phục vụ sản xuất chế biến sản phẩm nông nghiệp. Chi cho công tác tuyên truyền trên đài, báo, truyền hình; chi in ấn các tài liệu, ấn phẩm; chi cho các điểm trình diễn kỹ thuật, chi thao tác trình diễn, chi hỗ trợ về giống, phân bón, thuốc trừ sâu, thuốc bảo vệ thực vật, chi cho việc đưa giống mới vào sản xuất. Nội dung chi thứ ba được quan tâm là chi cho công tác trồng, chăm sóc, bảo vệ rừng. Các khoản chi này nhằm tăng độ che phủ của rừng, bảo vệ môi trường sinh thái, giảm tác hại của lũ lụt, hạn hán do nạn chặt phá rừng bừa bãi gây ra. Hàng năm Nhà nước đã đầu tư cho các chương trình trồng rừng phòng hộ, rừng chắn cát, rừng ngăn lũ, rừng đặc dụng; chương trình phủ xanh đất chống, đồi núi trọc; chương trình sử dụng bãi hoang hoá, bãi bồi ven sông, ven biển. Bên cạnh đó thông qua nguồn kinh phí thường xuyên Nhà nước đã chi cho công tác bảo vệ, phòng cháy, chữa cháy rừng. Đây là một nhiệm vụ chi quan trọng vì trồng mà không bảo vệ thì vừa không giữ được rừng mà lại tốn rất nhiều tiền của của Nhà nước. Chi cho công tác phòng cháy, chữa cháy rừng gồm các khoản chi như: chi đảm bảo ._.cho đội ngũ kiểm lâm,; chi mua sắm thiết bị phương tiện dùng cho công tác phong cháy, chữa cháy; chi xây dựng các đường rãnh, kênh mương cản lửa, chòi canh hồ chứa nước, các trạm dự báo cháy rừng; chi khắc phục hậu quả cháy rừng nếu có; chi để khen thưởng cho các tổ chức, cá nhân có thành tích xuất sắc trong việc bảo vệ rừng, phòng cháy, chữa cháy rừng. Nội dung thứ tư cũng có ảnh hưởng không nhỏ đối với phát triển nông nghiệp nông thôn đó là chi xây dựng hệ thống đê điều (bao gồm cả hệ thống đê biển và đê sông), xây dựng mới, hoàn thiện và nâng cấp các công trình thuỷ lợi như: xây dựng các hồ đập chứa nước lớn, vừa và nhỏ, các cống tưới tiêu nước, các trạm bơm nước. Các công trình thuỷ lợi này nhằm đảm bảo nước tưới phục vụ sản xuất ( đặc biệt trong những tháng hạn), và tiêu thoát nước kịp thời trong mùa mưa bão. Nhóm nội dung chi khác cũng tác động không nhỏ đối với hoạt động sản xuất nông nghiệp. Ví dụ như: chi công tác kiểm dịch động thực vật, chi cho công tác thú y, chi cho hoạt động điều tra, xây dựng quy hoạch nông nghiệp… III.2.2. Chi NSNN cho phát triển kinh tế nông thôn. Cùng với chủ trương đẩy mạnh phát triển nông nghiệp thì Đảng và Nhà nước ta cũng rất quan tâm đến việc phát triển kinh tế nông thôn. Do vậy ngoài việc bảo đảm kinh phí đối với những nội dung chi có tác động tích cực đến sự thay đổi diện mạo nông thôn như trên Nhà nước còn bố trí kinh phí thực hiện hàng loạt các giải pháp khác với những nội dung chủ yếu như: chi xây dựng cơ sở hạ tầng nông nghiệp nông thôn, chi chuyển dịch cơ cấu kinh tế từ thuần nông sang đa ngành, chi cho các chương trình định canh, định cư xây dựng vùng kinh tế mới. Đề cập đến chi NSNN cho kinh tế nông thôn ta có thể nói đến những lĩnh vực sau: - Chi đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng nông nghiệp nông thôn Cơ sở hạ tầng nông thôn bao gồm: giao thông nông thôn, nước sạch nông thôn, vệ sinh môi trường, điện nông thôn, trường học, y tế, phát thanh, truyền hình, bưu chính viễn thông và các công trình khác như: chợ, cửa hàng, sân thể thao, nhà văn hoá… Đầu tư xây dựng hệ thống giao thông nông thôn gồm: xây dựng mới và nâng cấp, duy tu, sửa chữa đường liên thôn, liên xã, liên huyện, các trục đường lớn đến trung tâm xã, xây và nâng cấp các cầu, cống, nạo vét sông, kênh rạch ở nông thôn. Đầu tư xây dựng hệ thống dây dẫn cột điện nối liền các thôn, xã và truyền tải điện từ trạm điện ở huyện, xã về vùng núi, vùng sâu, vùng xa. Đối với nhiều vùng do đặc điểm địa hình phức tạp không thể hoặc chưa có điều kiện xây dựng, trang bị hệ thống điện theo chuẩn qui định chung, Nhà nước đã trang bị cho người dân các vùng đó các thiết bị pin năng lượng mặt trời, tạo điện phục vụ đời sống sinh hoạt và sản xuất của bà con. - Chi NSNN cho phát triển các lĩnh vực văn hoá xã hội ở nông thôn như: vệ sinh môi trường, nước sạch, trạm y tế, phát thanh truyền hình và bưu chính viễn thông; Nhà nước đã quan tâm bố trí vốn xây dựng nhiều lớp học, trạm y tế; cải tạo ổn định hệ thống trường lớp, bảo đảm không còn những lớp học được tạo dựng tạm thời bằng tre, nứa, lá…; xây dựng mới nhiều trạm thu phát sóng các chương trình phát thanh, truyền hình quốc gia, trang bị, trang bị, hỗ trợ các máy radio, máy thu hình màu đối với đồng bào khó khăn vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo… qua đó ghóp phần nâng cao dân trí và mức hưởng thụ văn hoá của người dân nông thôn. Chi NSNN ghóp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn. Trong cơ cấu kinh tế nông thôn nước ta bộ phận nông dân sản xuất thuần nông chiếm tới 80% số hộ nông dân đang sản xuất. Công nghiệp ở nông thôn chủ yếu là công nghiệp chế biến các mặt hàng nông sản và sản xuất các công cụ sản xuất nhỏ. Các dịch vụ chủ yếu là các dịch vụ sửa chữa. Đại bộ phận các cơ sở sản xuất công nghiệp và dịch vụ ở nông thôn trình độ kỹ thuật còn lạc hậu, qui mô vốn ít, số lượng lao động hạn hẹp. Để có thể phát triển ngành công nghiệp và dịch vụ ở nông thôn Nhà nước cần phải đầu tư nhưng không phải là đầu tư trực tiếp mà thông qua kênh tín dụng Nhà nước. Đối với sự phát triển kinh tế nông thôn tín dụng Nhà nước đóng vai trò rất quan trọng, bằng các chương trình cho hộ nông dân vay vốn để sản xuất, Nhà nước đã từng bước tạo ra được sự chuyển dịch đúng hướng của kinh tế nông thôn. Ngoài sản xuất thuần nông các hộ gia đình đã chuyển sang mô hình sản xuất kinh tế vườn, chăn nuôi qui mô lớn, khôi phục các nghề truyền thống… Từ đó kinh tế của từng hộ gia đình nói riêng và kinh tế nông thôn nói chung từng bước đi lên. - Chi trợ giá, trợ cước cho các mặt hàng nông sản chế biến trong nước. Tạo điều kiện để các mặt hàng đó có thể xuất khẩu hoặc bán rộng rãi trong nước. Chính sách này rất có ý nghĩa đối với công nghiệp chế biến ở nông thôn vì trên thực tế người nông dân rất quan tâm đến đầu ra của sản phẩm và nếu chỉ tiêu thụ sản phẩm dưới dạng nguyên liệu thô thì giá bán rất rẻ thậm chí không đáng kể. - Chi NSNN cho các chưong trình định canh, định cư, xây dựng vùng kinh tế mới. Các khoản chi đó bao gồm: hỗ trợ về giống, kỹ thuật sản xuất để bà con dân tộc ổn định sản xuất không rời khỏi làng bản như trước đây. Hỗ trợ cho các hộ đi xây dựng vùng kinh tế mới về cơ sở vật chất ban đầu khi họ đến khai hoang và canh tác. Đây là chương trình kinh tế mang tính chất lâu dài của Đảng và Nhà nước ta. Việc Nhà nước thực hiện hàng loạt các chính sách, các chương trình nêu trên nhằm tăng thêm tỷ trọng sản xuất công nghiệp và dịch vụ ở nông thôn, xây dựng thêm nhiều cơ sở chuyên sản xuất nhiều máy móc phục vụ sản xuất nông nghiệp và những cơ sở chuyên cung cấp dịch vụ như: phân bón, các loại giống cây trồng, vật nuôi… Như vậy sẽ ghóp phần tăng tỷ trọng chăn nuôi trong sản xuất nông nghiệp và tăng tỷ trọng về giá trị cây công nghiệp, cây ăn quả trong tổng giá trị trồng trọt. Tóm lại: Nông nghiệp và kinh tế nông thôn là một lĩnh vực rất rộng bao gồm nhiều hoạt động kinh tế-xã hội. Vì thế phạm vi chi của NSNN cho lĩnh vực này rất lớn nhưng nó thực sự cần thiết vì nhà nước có quan tâm đầu tư thì mới có thể phát triển mạnh được nông nghiệp nông thôn. III.3. Vai trò của chi NSNN đối với sự phát triển nông nghiệp và kinh tế nông thôn. Với chức năng quản lý vĩ mô nền kinh tế, Nhà nước thông qua các chính sách kinh tế để tác động đến các hiện tượng kinh tế-xã hội theo một chiều hướng nhất định. Cũng với ý nghĩa như vậy chi NSNN đóng vai trò rất quan trọng cho nông nghiệp nông thôn. Cụ thể như sau: - Thứ nhất: Chi NSNN có tác động thúc đẩy sự phát triển kinh tế-xã hội nói chung và nông nghiệp nông thôn nói riêng. Thông thường chi NSNN cho các chương trình khuyến nông, khuyến lâm, khuyến ngư Nhà nước đã tạo điều kiện để nông dân có thể ứng dụng những tiến bộ kỹ thuật mới về giống cây, giống con, phân bón, thuốc trừ sâu… giúp nông dân biết được những phương pháp gieo trồng chăm bón mới đem lại hiệu quả cao hơn và chi phí thấp hơn. Từ đó năng suất và chất lượng nông sản được cải thiện đáng kể. Nhà nước đã đầu tư rất lớn vào các công trình khoa học mang tính ứng dụng thực tiễn của ngành nông nghiệp như: chương trình nghiên cứu về giống lúa lai F1 với sản lượng 1388 tấn, sản xuất ngô lai F1 với sản lượng 1791 tấn, chương trình nạc hoá đàn lợn, chương trình bông lai tiết kiệm ngoại tệ nhập giống… Các chương trình này đem lại hiệu quả rất lớn về thu nhập của bà con nông dân và cũng là hiệu quả về trình độ khuyến nông của cán bộ khuyến nông và bà con nông dân. -Thứ hai: Chi NSNN còn ghóp phần thiết lập một cơ cấu kinh tế cân đối giữa các ngành và các vùng trong nền kinh tế. Thông qua việc đầu tư để xây dựng cơ sở hạ tầng kinh tế như: đường xá, cầu cống, bưu chính viễn thông… Đặc biệt NSNN chi cho việc xây dựng cơ sở hạ tầng ở nông thôn sẽ tạo sức hút cho các nhà doanh nghiệp đến đặt trụ sở và hoạt động sản xuất kinh doanh. Vì lúc này chi phí của họ được giảm thiểu từ chi phí chuyên chở nguyên vật liệu, chi phí nhân công, chi phí về nhà ở tiền nhà ở cho người lao động … Cũng nhờ đó mà Nhà nước giải quyết được vấn đề việc làm, thu nhập cho người nông dân, và ghóp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn. Ngoài ra hàng năm NSNN còn chi rất nhiều tỉ đồng cho việc di dân định canh định cư, xây dựng các vùng kinh tế mới. Chương trình này nhằm phát triển kinh tế đến các vùng sâu, vùng xa và khai thác những tiềm năng còn dồi dào của đất nước. Thông qua chi NSNN cho việc tạo lập các quĩ bình ổn giá lương thực, trợ giá , trợ cước cho một số mặt hàng nông sản. Nhà nước đã khuyến khích được sức sản xuất trong nhân dân, tạo được sự gắn bó của người dân với đông ruộng. Cũng nhờ có sự đầu tư của Nhà nước các thành tựu công nghệ sinh học được áp dụng vào sản xuất ở nông thôn, thực hiện cơ giới hoá, thuỷ lợi hoá với những nội dung và mức độ thích hợp sẽ ghóp phần tăng năng suất lao động nông nghiệp, đảm bảo hiệu quả sản xuất cao. - Thứ ba: Chi NSNN cải thiện môi trường văn hoá xã hội, tạo điều kiện cho người nông dân tham gia các hoạt động văn hoá lành mạnh, khuyến khích họ xây dựng gia đình văn hoá, làng xã văn hoá mới. Nâng tầm hiểu biết của người nông dân góp phần ổn định chính trị xã hội của đất nước. Tóm lại: Trong nền kinh tế bất cứ ngành bất cứ ngành kinh tế nào,khu vực nào cũng đều cần phải có vốn để phát triển và ngành nông nghiệp nông thôn cũng vậy. Với các nguồn như: nguồn vốn từ NSNN, nguồn vốn này từ các hộ gia đình, nguồn viện trợ và hợp tác từ nước ngoài… Trong thời gian này, khi nền kinh tế nước ta còn đang phát triển thì nguồn vốn đầu tư từ NSNN đóng vai trò rất quan trọng. Nhưng về lâu dài thì ta phải coi nguồn lực từ trong dân là nguồn lực cơ bản. Để có thể huy động được một tiềm năng to lớn về vốn trong nhân dân, Nhà nước ta đã có nhiều chính sách khai thác tiềm lực từ trong dân để phát triển kinh tế. Các khoản chi của Nhà nước chỉ mang tính chất thu hút và hướng dẫn cho các thành phần kinh tế khác đầu tư vào nông nghiệp nông thôn mà thôi. Sự thu hút hướng dẫn ở đây chính là việc tạo ra cơ sở vật chất tốt, một hệ thống chính sách đồng bộ, tạo ra một hành lang thuận tiện cho các nhà đầu tư bỏ vốn để phát triển kinh tế nông thôn. phần II: Đánh giá thực trạng đầu tư từ nguồn vốn ngân sách nhà nước cho phát triển nông nghiệp nông thôn giai đoạn 1996-2000. I. Mục tiêu phát triển nông nghiệp nông thôn và nhu cầu đầu tư từ ngân sách Nhà nước cho phát triển nông nghiệp nông thôn thời kỳ 1996-2000. Thời kỳ 1996-2000 là thời kỳ thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế-xã hội mà Đại hội Đảng lần thứ VIII đề ra. Trong đó mục tiêu phát triển nông nghiệp và kinh tế nông thôn là một trong những mục tiêu quan trọng nhất. Mục tiêu phát triển nông nghiệp và kinh tế nông thôn thời kỳ này là phát triển nông nghiệp toàn diện hướng vào bảo đảm an toàn lương thực quốc gia trong mọi tình huống, tăng nhanh nguồn thực phẩm rau quả , cải thiện chất lưỡng bữa ăn, gảim suy dinh dưỡng. Chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp và kinh tế nông thôn có hiệu quả. Trên cơ sở bảo đảm vững chắc nhu cầu lương thực, chủ yếu là lúa, mở rộng diện tích trồng cây công nghiệp, cây ăn quả, tăng nhanh đàn gia súc, gia cầm, phát triển kinh tế biển, đảo, kinh tế rừng, khai thác có hiệu quả tiềm năng của nền nông nghiệp sinh thái, tăng nhanh sản lượng hàng hoá gắn với công nghiệp chế biến và xuất khẩu, mở rộng thị trường nông thôn tăng thu nhập của nông dân. Đẩy mạnh xây dựng, nâng cấp kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội. Tăng nhanh sản lượng lương thực hàng hoá ở những vùng đồng bằng có năng suất và có hiệu quả cao. Bố trí lại mùa vụ để né tránh thiên tai, chuyển sang các vụ có năng suất cao hoặc các cây khác có hiệu quả hơn. Nhân nhanh những giống mới có năng suất cao, phẩm chất tốt, thích ứng với từng vùng sinh thái, đặc biệt là giống lúa lai, ngô lai. Qui hoạch và phát triển một số vùng sản xuất các loại lúa gạo ngon có giá trị cao. Dự kiến năm 2000, sản lượng lương thực đạt khoảng 30 triệu tấn, bình quân đầu người 360-370 kg. Phát triển mạnh các loại cây công nghiệp, cây ăn quả, rau đậu có hiệu quả kinh tế cao; hình thành những vùng sản xuất tập trung gắn với công nghiệp chế biến tại chỗ. Trồng cây công nghiệp kết hợp vói chương trình phủ xanh đất chống đồi núi trọc theo hình thức nông lâm kết hợp. Coi trọng các biện pháp thâm canh tăng năng suất. Còn đối với các ngành chăn nuôi,thuỷ sản, lâm nghiệp cũng cần phải được tập chung phát triển cao. Đến năm 2000 nông nghiệp (cả lâm nghiệp và thuỷ sản )chiếm khoảng 19-20% GDP. Để thực hiện và đạt được các mục tiêu đề ra Nhà nước phải có chính sách đầu tư hợp lý cho các ngành kinh tế nói chung và cho nông nghiệp nói riêng. Dự tính trong 5 năm từ 1996 đến năm 2000 tổng nguồn vốn đầu tư toàn xã hội phải đạt được 41-42 tỷ USD (tính theo mặt bằng giá 1995) trong đó đầu tư từ NSNN (cả tích luỹ thu từ NSNN và một phần vốn ODA) chiếm 21%, vốn tín dụng Nhà nước 7%, vốn doanh nghiệp Nhà nước tự đầu tư 24%; vốn tự có của dân đầu tư khoảng 17%; còn lại 31%là vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài. Đầu tư cho nông nghiệp, ngư nghiệp, thuỷ lợi chiếm 20% tổng đầu tư xã hội. Riêng phần vốn Ngân sách Nhà nước thì phần vốn giành cho nông, lâm,ngư nghiệp, thuỷ lợi chiếm 22%. Theo Bộ Kế hoạch và Đầu tư thì tổng nhu cầu vốn cho phát triển Nông-Lâm-Ngư nghiệp như sau: Biểu1: Tổng nhu cầu vốn cho Nông-Lâm-Ngư nghiệp Đơn vị tính: tỷ đồng 1996 1997 1998 1999 2000 Tổng nhu cầu 12221 15420 1443,1 25815 29976,4 Từ NSNN 3191,6 4133,5 5373,4 9563,2 13750 Từ nước ngoài 4888,5 6168 7777,2 8250,4 8553,3 NH&nội bộ nt 4141,1 5118,5 6292,5 8001,4 8673,1 Nguồn: Bộ Kế hoach & Đầu tư Biểu 2: Kế hoạch của Chính phủ về đầu tư vào nông nghiệp 1996-2000 Đơn vị: nghìn tỷ đồng Đầu tư công cộng Đầu tư của DNNN Đầu tư của hộ GĐ FDI TS % Nông nghiệp 2,9 34,9 14,2 6,5 58,5 61,3% Thuỷ lợi 14,5 0,0 0,0 0,0 14,5 15,2% Lâm nghiệp 4,0 4,0 5,0 0,0 13,0 13,6% Kho tàng xay xát 0,5 4,0 5,0 0,0 9,5 9,9% Toàn ngành 21,9 42,9 24,2 6,5 95,5 100% Toàn ngành(%) 23% 45% 25% 7% 100% Toàn bộ KH đầu tư công cộng 96,8 142,2 76,5 144,3 460,0 Toàn bộ KH đầu tư công cộng(%) 21% 31% 17% 31% 100% Nguồn: Ngân hàng thế giới, Thúc đẩy phát triển nông thôn Việt Nam, 1998 Ta thấy phần lớn các khoản đầu tư công cộng được rót vào các DNNN mặc dù khu vực này kém hiệu quả hơn khu vực tư nhân. Kế hoạch đầu tư ủa Chính phủ vào các Doanh nghiệp nông nghiệp Nhà nước với khoảng 1,5 triệu lao động đòi hỏi hơn 3 tỷ USD trong giai đoạn 1996-2000, tức là gấp đôi số tiền Việt Nam dự định giành cho 10 triệu hộ nông dân. ĐIều này góp phần làm hạn chế các hoạt động công nghiệp và dịch vụ ở nông thôn. II. Phân tích Thực trạng đầu tư cho phát triển nông nghiệp nông thôn bằng nguồn vốn ngân sách Nhà nước giai đoạn 1996-2000. II.1. Phân tích tổng chi tiêu NSNN cho nông nghiệp nông thôn. Đánh giá thực trạng đầu tư của NSNN cho phát triển nông nghiệp nông thôn là cơ sở để so sánh với mục tiêu đầu tư phát triển nông nghiệp và kinh tế nông thôn mà Đại hội Đảng VIII đặt ra đối với thực tế mà NSNN đã đầu tư. Từ đó rút ra những kinh nghiệm và những bài học cần thiết để giai đoạn sau (2001-2005 ) thực hiện tốt hơn, mang lại hiệu quả cao hơn. Tuy vậy trước tiên ta phải ta cần phải xem xét các cơ chế chính sách phân bổ NSNN và nguồn thu của NSNN từ nông nghiệp, nông thôn trong giai đoàn 1996-2000 bởi đây là công cụ tiến hành phân bổ và nó cũng là yếu tố ảnh hưởng trực tiếp đến quá trình phân bổ. Chính sách phân bổ vốn đầu tư trực tiếp từ NSNN cho phát triển nông nghiệp nông thôn. Để đầu tư cho lĩnh vực nông nghiệp và nông thôn ngày càng tăng và hiệu quả, trong từng thời kỳ Nhà nước đã có những cơ chế tài chính và ngân sách phù hợp nhằm xác định rõ nhiệm vụ và trách nhiệm của các cấp chính quyền đối với việc bố chí ngân sách cho đầu tư phát triển nông nghiệp và nông thôn. Cùng với sự đổi mới cơ chế quản lý tài chính và kiểm soát các khoản chi NSNN nói chung, kiểm soát các khoản chi NSNN trong lĩnh vực nông nghiệp,nông thôn là một nội dung được Chính phủ quan tâm. Sau khi Luật Ngân sách Nhà nước ban hành ngày 20/3/1996, và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Ngân sách Nhà nước số 06/1998/QH10 ngày 20/5/1998 được ban hành, Chính phủ, Bộ Tài chính đã ban hành hệ thống các văn bản dưới luật qui định, hướng dẫn cụ thể qui trình quản lý, kiểm tra, kiểm soát, cấp phát, thanh toán các khoản chi NSNN. Đối với địa bàn nông thôn, việc thực hiện Luật Ngân sách ở cấp Ngân sách xã là vấn đề có ý nghĩa hết sức quan trọng, đảm bảo sự hoạt động của các cấp chính quyền cơ sở; đưa chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước đến với dân, thực hiện phát triển kinh tế-xã hội ở nông thôn. Riêng về vấn đề này, Bộ Tài chính đã có các thông tư số 01/1999/TT-BTC ngày 04/1/1999 hướng dẫn quản lý thu, chi ngân sách xã, thị trấn, phường. Luật NSNN với các qui định ổn định nguồn thu và nhiệm vụ chi của các cấp ngân sách trong từng thời kỳ, tạo điều kiện các cấp chính quyền địa phương chủ động khai thác thêm các nguồn thu và bố chí các nhiệm vụ chi phù hợp với đặc điểm của từng địa phương, do vậy có điều kiện trong việc tăng chi đầu tư cho nông nghiệp và nông thôn. Trong bố chí NSNN hàng năm cho đầu tư phát triển nông nghiệp, nông thôn ( cơ cấu đầu tư của ngân sách ). Nhà nước chú trọng ưu tiên đầu tư vốn xây dựng cơ bản tức là Nhà nước chủ yếu đầu tư cho phát triển cơ sở hạ tầng nông nghiệp nông thôn. Ngoài vốn đầu tư tập trung hàng năm, thực hiện Nghị quyết của Quốc hội, hàng năm Nhà nước còn bố trí vốn đầu tư phát triển nông nghiệp nông thôn tương ứng với nguồn thu thuế sử dụng đất nông nghiệp. Bên cạnh đó Nhà nước đã thực hiện các chính sách ưu tiên đầu tư vào một số vùng có điều kiện thuận lợi cho phát triển nông nghiệp như đầu tư vào các công trình khắc phục lũ lụt, hạn hán, các trung tâm kinh tế vùng đồng bằng sông Cửu Long. Thu Ngân sách Nhà nước từ nông nghiệp nông thôn. Trước khi nói tới tình hình chi NSNN cho nông nghiệp nông thôn ta đề cập tới nguồn thu của Nhà nước từ thuế nông nghiệp và một số khoản thu thuế từ kinh tế nông thôn. Hiện nay các loại thuế được áp dụng theo qui định của pháp luật liên quan đến nông nghiệp và kinh tế nông thôn là: thuế sử dụng đất nông nghiệp, thuế chuyển quyền sử dụng đất, thuế đất ở, đất xây dựng công trình, thuế môn bài, thuế sát sinh, … Nhưng về cơ bản nguồn thu chủ yếu của NSNN từ nông nghiệp là từ thuế sử dụng đất nông nghiệp, thuế chuyển quyền sử dụng đất, thuế đất ở và xây dựng các công trình. Trong những năm đầu thập kỷ 90, thu NSNN từ lĩnh vực nông nghiệp chiếm khoảng 5-7% trong tổng thu NSNN. Tuy nhiên, tỷ lệ này giảm dần qua các năm và ổn định ở mức 3,5-4% trong những năm gần đây. Đây là kết quả của chính sách giảm mức thu trong nông nghiệp nhằm khuyến khích khu vực này phát triển. Bảng 4 dưới đây cho thấy rõ điều này: Biểu 3 Tỷ trọng đóng góp của nông nghiệp trong tổng thu NSNN Đơn vị tính: % Năm Tỷ trọng 1995 1996 1997 1998 1999 DT2000 Tỷ trọng trong tổng thu của NSNN 4,0 4,3 3,7 3,6 3,4 3,1 Trong đó: thuế sử dụng đất nông nghiệp 2,9 3.0 2,8 2,6 2,5 2,3 Luật thuế sử dụng đất được ban hành ngày 10/7/1993 và có hiệu lực từ ngày 1/1/1994. Đặc trưng lớn nhất của Luật thuế này là nhằm giảm động viên đóng góp của người sản xuất nông nghiệp vào NSNN, tạo điều kiện cho họ có thêm nguồn vốn phục vụ cho tái đầu tư mở rộng, thâm canh tăng năng suất, chuyển đổi giống cây trồng. Đối tượng nộp thuế vẫn là các tổ chức cá nhân swr dụng đất vào sản xuất nông nghiệp, đất trồng rừng. Thuế sử dụng đất nông nghiệp được tính bằng thóc và nộp bằng tiền, giá thóc tính thuế do UBND cấp tỉnh qui định. Hàng năm thu từ thuế sử dụng đất nông nghiệp trên dưới 1500 tỷ đồng. Nhưng bắt đầu từ năm 1999 toàn bộ số thu từ thuế sử dụng đất nông nghiệp được để lại toàn bộ cho Ngân sách Địa phương và để đầu tư trở lại cho nông nghiệp. Thuế đất ở, đất xây dựng công trình ( gọi tắt là thuế đất) được thực hiện theo pháp lệnh thuế nhà đất ngày 31/7/1992 và sửa đổi vào tháng 5/1994. Thuế đất được tính và thu hàng năm đối với các tổ chức, cá nhân sử dụng đất ở, đất xây dựng công trình. Bằng việc sửa đổi và bổ sung pháp lệnh thuế đất đã hạ mức thuế đối với đất ở, đất xây dựng công trình ở nông thôn. Thuế được tính trên diện tích, hạng đất và mức thuế qui định cho một đơn vị diện tích, mức thuế đất được xác định trong khung từ 1-32 lần mức thuế sử dụng đất nông nghiệp. Hàng năm số thu từ thuế đất là khoảng 3.000 tỷ đồng. Đây là số thu đóng góp một phần không nhỏ trong tổng thu NSNN. Ngày 1/7/1994 Quốc hội đã ban hành Luật thuế chuyển quyền sử dụng đất thực hiện điều tiết vào việc chuyển nhượng quyền sử dụng đất hoặc chuyển đổi mà có chênh lệch về giá trị. Đối tượng nộp thuế chuyển quyền sử dụng đất là các tổ chức, cá nhân có quyền sử dụng đất khi chuyển quyền sử dụng đất theo qui địnhcủa pháp luật về đất đai. Thuế được tính căn cứ vào diện tích đất, giá tính thuế và thuế suất. Thuế suất có thể thay đổi từ 5-50% tuỳ theo việc chuyển qyền sử dụng đất có thay đổi mục đích sử dụng hay không. Hàng năm số tiền thu từ thuế chuyển quyền sử dụng đất về cho NSNN khoảng 1000 tỷ đồng. Tóm lại: Hệ thống chính sách thuế bao quát được toàn bộ quá trình sử dụng đất từ giao đất, cho thuê đất,, thu hồi đất đến sử dụng đất và chuyển nhượng quyền sử dụng đất. Hệ thống chính sách này đã góp phần nâng cao hiệu quả quản lý đất đai của Nhà nước, khuyến khích sử dụng đất đúng mục đích ( đặc biệt hạn chế chuyển đất nông nghiệp sang sử dụng cho mục đích khác), khuyến khích sử dụng đất tiết kiệm có hiệu quả, giúp khai thác tiềm năng đất đai và cuối cùng là tăng thu cho NSNN từ nông nghiệp nông thôn, tăng đầu tư cho nông nghiệp nông thôn từ chính nguồn thu đó. Đánh giá chung về cơ cấu vốn đầu tư cho nông nghiệp nông thôn từ nguồn vốn NSNN. Trong giai đoạn hiện nay, cần phải khẳng định là nguồn vốn đầu tư của NSNN giữ vị trí quan trọng trong tổng nguồn vốn đầu tư của toàn xã hội vào nền kinh tế. Vốn đầu tư phát triển của NSNN giữ vai trò định hướng, thu hút và tạo ra dòng chảy cho vốn đầu tư của các thành phần kinh tế và dân cư. Nguồn vốn NSNN đầu tư cho nền kinh tế có 2 nguồn cơ bản là vốn cấp phát và vốn tín dụng ưu đãi. Bên cạnh hình thức đầu tư cấp phát vốn vào các công trình kinh tế-xã hội không có khả năng thu hút vốn, Nhà nước tăng cường áp dụng hình thức tín dung ưu đãi thuộc NSNN để thực hiện đầu tư đối với các công trình có khả năng thu hồi vốn thông qua hoạt động của quỹ hỗ trợ đầu tư quốc gia, các quỹ hỗ trợ phát triển và hình thức góp vốn cổ phần của Nhà nước vào các doanh nghiệp. Đầu tư của NSNN cho nông nghiệp và phát triển kinh tế nông thôn cũng vậy, Nhà nước đầu tư dưới hai hình thức chính là cấp phát vốn và cho vay tín dụng ưu đãi đối với các chương trình quốc gia của Nhà nước ở khu vực nông nghiệp nông thôn, cho hộ nông dân vay vốn để phát triển kinh tế hộ gia đình và cho các doanh nghiệp hoạt động kinh doanh ở nông thôn vay vốn phát triển sản xuất. Trong những năm qua, đầu tư cho nông nghiệp và nông thôn luôn giành được sự chú ý ngày càng cao của Nhà nước. Điều này ta có thể thấy ở bảng 5 sau: Biểu 4A: Chi NSNN cho nông nghiệp nông thôn giai đoạn 1996-2000 (Số tuyệt đối) Đơn vị: Tỷ đồng Năm Lĩnh vực chi 1996 1997 1998 1999 DT2000 Tổng chi NSNN 70.539 78.057 81.995 89.400 96.535 Nông nghiệp-NT 7.053,9 8.820,4 12.545,2 18.237,6 23.651,1 Các ngành khác 63.485,1 69.236,6 69.449,8 71.162,4 72.883,9 Biểu 4B: Tỷ trọng chi NSNN chi nông nghiệp nông thôn giai đoạn 1996-2000 Đơn vị: % Năm Lĩnh vực chi 1996 1997 1998 1999 DT2000 Tổng chi NSNN 100 100 100 100 100 Nông nghiệp-NT 10 11,3 15,3 20,4 24,5 Các ngành khác 90 88,7 85,7 79,6 75,5 Theo bảng trên ta thấy qua các năm 1996, 1997, 1998, 1999, 2000 chi NSNN đều tăng cả về số tuyệt đối và số tương đối. Năm 1997 so với năm 1996 tăng không đáng kể xấp xỉ 1767 tỷ đồng tương ứng với 1,3%, như vậy từ năm 1996 đến 1997 tuy chi NSNN có tăng nhưng số tăng rất ít chưa thể đáp ứng nhu cầu chi vì thế chưa thể gọi đây là sự đầu tư cho một ngành kinh tế được coi là mặt trận hàng đầu, nếu ta so sánh tỷ lệ chi NSNN cho nông nghiệp nông thôn trong tổng chi NSNN với tỷ lệ dân số và lao động trong nông nghiệp với tổng dân số cả nước ta sẽ thấy một sự chênh lệch rất lớn. Trong năm 1996 dến 1997 tỷ lệ chi NSNN cho nông nghiệp nông thôn chỉ chiếm từ 10-11,3% NSNN trong khi dân số trong nông nghiệp chiếm tới 80% dân số cả nước, lao động nông nghiệp chiếm tới 73% lao động xã hội. Nhưng từ năm 1997 chi NSNN cho nông nghiệp nông thôn tăng rất nhanh, từ 11,3% năm 1997 tăng lên 15,3% năm 1998; 20,4% năm 1999 và 24,5% năm 2000. Điều này thể hiện việc phát triển nông nghiệp và kinh tế nông thôn đã thực sự được quan tâm đúng mức. Vì nguồn thu của NSNN hạn chế nên để tăng chi cho nông nghiệp nông thôn Nhà nước phải cắt giảm các khoản chi khác và phát động chính sách tiết kiệm toàn dân. Ta có thể thấy rõ ràng ở bảng trên, từ 90% năm 1996 giảm xuống còn 75,5% năm 2000. Riêng trong lĩnh vực nông nghiệp nông thôn từ năm 1999 Nhà nước đã để lại toàn bộ thuế sử dụng đất nông nghiệp cho Ngân sách Địa phương để đầu tư trở lại cho nông nghiệp nông thôn. Hình thức cấp phát vốn của Nhà nước cho phát triển nông nghiệp nông thôn thông qua hình thức cho vay tín dụng đối với các hộ nông dân liên tục tăng qua các năm nhất là từ khi có Quyết định số 67 của Thủ tướng Chính phủ (tháng 3/1999) với cơ chế mới là cho vay không cần thế chấp tài sản. Số liệu thống kê của Ngân hàng nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam (NHNN&PTNT) cho thấy: cho tới thời điểm tháng 8/2000, dư nợ tín dụng cho khu vực nông thôn đã tăng 10.339 tỷ đồng, tăng 41,85% so với thời điểm trước khi thực hiện Quyết định số 67. Dư nợ cho vay tăng chủ yếu là hộ sản xuất, trong khi dư nợ cho vay các hợp tác xã tăng không đáng kể và doanh nghiệp ( cả doanh nghiệp Nhà nước và ngoài quốc doanh phục vụ nông nghiệp và nông thôn ) cũng tăng 34,45%. Trong số này, NHNN&PTNT là ngân hàng cung cấp tín dụng nhiều nhất, chiếm tới 35.041 tỷ đồng (tính đến hết tháng 8/2000) , tăng 41,9% so với thời điểm tháng 3/1999. Đạt được kết quả khả quan trên một phần do quyết định mạnh dạn cho phép áp dụng cho vay đến 10 triệu đồng đối với các hộ gia đình không phải thế chấp tài sản. Mức cho vay cho đến thời điểm này cũng đã nâng lên 20 triệu đồng và đối với hộ sản xuất nuôi trồng thuỷ sản là 50 triệu đồng. Đây là một biện pháp thông thoáng nhất, tạo điều kiện cho nông dân tiếp cận vốn tín dụng để đầu tư sản xuất Tóm lại: Mặc dù tổng đầu tư của NSNN cho nông nghiệp nông thôn có tăng lên theo từng năm nhưng trong từng lĩnh vực từng ngành cụ thể chi vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu đầu tư. Nhất là trong nông-lâm-ngư nghiệp nhu cầu đầu tư đến năm 2000 phải đạt 15 nghìn tỷ đồng nhưng thực tế chỉ đạt có khoảng trên 10 nghìn tỷ đồng một chút mà thôi. Đây là vấn đề cần được xem xét trong thời gian tới. II.2. Phân tích cơ cấu chi NSNN trong sản xuất nông nghiệp Xét về tổng thể chi NSNN cho nông nghiệp và kinh tế nông thôn tăng. Nhưng vấn đề đặt ra là làm sao để có được một cơ cấu chi hợp lý, chi vào đâu và chi bao nhiêu để mang lại hiệu quả cho khoản chi đó cao nhất. ở phần trên ta đã nói chi NSNN cho nông nghiệp có thể chia thành hai mảng chính. Thứ nhất: chi NSNN cho sự nghiệp nông nghiệp đó là chi cho các chương trình khuyến nông, khuyến lâm, khuyến ngư, các chương trình định canh, định cư mới, nghiên cứu ứng dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất. Thứ hai chi NSNN cho xây dựng cơ bản trong đó chủ yếu là các công trình thuỷ nông, thuỷ lợi, đê điều, đường, cầu, điện, trường học… Đối với mỗi lĩnh vực chi NSNN đều có vai trò quan trọng trên các giác độ khác nhau nhưng đều cùng một mục đích chung đó là phát triển nông nghiệp và kinh tế nông thôn. Với các khoản chi cho sự nghiệp phát triển nông nghiệp, NSNN có tác động cả trực tiếp và gián tiếp tới sản xuất nông nghiệp. Tác động trực tiếp ở khía cạnh chi hỗ trợ về giống cây, giống con, phân bón, thuốc trừ sâu cho bà con nông dân ở một số vùng đặc biệt khó khăn giúp họ phát triển sản xuất, chi cho các chương trình định canh, định cư mới trong đó có những khoản chi về lương thực, giống cây, giống con ban đầu cho những bà con đi xây dựng vùng kinh tế mới. Tác động gián tiếp được thể hiện qua những khoản chi cho các việc nghiên cứu, cho cán bộ nghiên cứu, cho các chương trình nghiên cứu tìm ra giống cây, giống con mới có năng suất cao, phẩm chất tốt, sáng chế ra các nông cụ phục vụ sản xuất giảm bớt sự lao động nặng nhọc của lao động nông thôn và đồng thời cho năng suất cao hơn, hay tìm ra phương pháp sản xuất mới rút ngắn thời gian sản xuất và cho hiệu quả cao…Ngoài ra ta còn có thể kể đến chi ngân sách cho công tác khuyến nông, khuyến lâm, khuyến ngư với công việc chủ yếu là tuyên truyền, phổ biến cho bà con nông dân biết được những kết quả mới về công việc nghiên cứu các giống mới, các công cụ mới, phương pháp sản xuất mới giúp bà con có thể thực hiện sản xuất trong thực tế.Đây là hướng đầu tư mà Nhà nước cần phải quan tâm nhiều hơn nữa vì chỉ có đầu tư như vậy chúng ta có thể phát triển sản xuất nông nghiệp theo chiều sâu, đồng thời tiết kiệm được chi NSNN, vì thực tế Nhà nước không thể bỏ tiền ra để mua giống, mua công cụ thay cho bà con nông dân được mà vai trò của Nhà nước là tạo điều kiện tốt nhất để người sản xuất nông nghiệp phát huy hết khả năng của mình. Với các khoản chi cho lĩnh vực xây dựng cơ bản nông nghiệp, nông nghiệp nông thôn Nhà nước đã đầu tư gián tiếp để sản xuất nông nghiệp cũng như kinh tế nông thôn. Khi có được các công trình thuỷ lợi, thuỷ nông (kênh mương nội đồng) tốt giúp cho việc tưới tiêu nước một cách kịp thời phục vụ sản xuất nông nghiệp, đông thời khắc phục tình trạng nước sinh hoạt cho nhiều dân cư trong khu vực nông thôn. Ta có thể thấy được tình hình đầu tư xây dựng cơ bản của Nhà nước cho nông nghiệp như sau: ( Vốn ở đây là vốn đầu tư của Nhà nước bao gồm: vốn NSNN, vốn tín dụng của Nhà nước và vốn đầu tư của các doanh nghiệp Nhà nước ). Biểu 5: Đầu tư XDCB của Nhà nước trong ngành nông nghiệp giai đoạn 1996-1998. (*) Nguồn Niên giám thống kê 1996,1997,1998,1999_ NXB Thống kê Đơn vị: Tỷ đồng Năm Cơ cấu chi 1996 1997 1998 Số tuyệt đối Tỷ trọng Số tuyệt đối Tỷ trọng Số tuyệt đối Tỷ trọng Tổng chi 2384,3 100(%) 2981,._.Về cung-cầu lương thực: Tổng sản lượng lương thực 5 năm 2001-2005 dự kiến 170-175 triệu tấn (trong đó thóc 155-160 triệu tấn); lương thực hàng hoá khoảng 65-70 triệu tấn, trong đó sử dụng trong nước khoảng 25-30 triệu tấn, xuất khẩu 16-18 triệu tấn ( khoảng 33-36 triệu tấn thóc), đưa thêm vào dự trữ quốc gia. II. Nhu cầu vốn đầu tư cho phát triển nông nghiệp nông thôn Để tiến hành phát triển nông nghiệp và kinh tế nông thôn nhu cầu về vốn rất lớn. Nghị quyết hội nghị lần thứ 4 ban chấp hành trung ương Đảng khoá VIII đã nêu rõ: ” phải tăng tỷ lệ vốn đầu tư cho nông nghiệp và nông thôn “. Số vốn trên đây chủ yếu tập trung đầu tư một số cơ sở hạ tầng, xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ nông nghiệp và phát triển sản xuất, trồng rừng và bảo vệ rừng. Biểu 9 ước tính nhu cầu về vốn đầu tư đến năm 2005(*) Nguồn Viện kinh tế quy hoạch- Bộ Thuỷ sản Vụ Tổng hợp kinh tế quốc dân- Bộ Kế hoạch và Đầu tư Viện Ké hoạch &Qui hoạch- Bộ NN&PTNT Đơn vị tính: nghìn tỷ Tổng nhu cầu Bình quân mỗi năm Nông nghiệp 150.000 30.000 Lâm nghiệp 15.000 3.000 Thuỷ sản 16.500 5.500 Riêng nhu cầu vốn chỉ tính cho các vùng chuyên canh nông,lâm, ngư nghiệp, công nghiệp, dịch vụ và cơ sở hạ tầng nông thôn chưa kể đến vốn đầu tư ngoài các vùng chuyên canh và vốn chi cho các hoạt động sự nghiệp khác. Như vậy, tổng nhu cầu vốn ước tính bình quân hàng năm vào khoảng 38.500 nghìn tỷ đồng còn nếu tính tất cả khác khoản phải chi khác nữa thì tổng nhu cầu vốn đầu tư vào khoảng 45.000 đến 50.000 tỷ đồng. Vấn đề đặt ra ở đây là để có lượng vốn cần thiết đó thì phải huy động từ những nguồn nào và khả năng đáp ứng của các nguồn đó là bao nhiêu. Thực tế là ở lĩnh vực nông nghiệp và nông thôn việc thu hút các nhà đầu tư vào là rất khó, từ trước đến nay nguồn vốn ODA và FDI đầu tư vào nông nghiệp nông thôn chiếm tỷ trọng không cao do hiệu quả đầu tư thấp, tỷ suất lợi nhuận thấp. Theo tính toán của Bộ Kế hoạch và Đầu tư thì trong 5 năm tới nguồn vốn FDI đầu tư vào Việt Nam khoảng 13 tỷ USD ( Báo Đầu tư số 49/2001). Như vậy, bình quân mỗi năm đầu tư khoảng 2,6 tỷ USD, trong đó 8% nguồn vốn này sẽ đầu tư vào khu vực nông nghiệp nông thôn tức là 208 triệu USD ( tính theo tỷ giá hối đoái hiện hành thì bằng khoảng 3 nghìn tỷ đồng Việt Nam ). Nguồn vốn ODA thì đầu tư vào khu vực nông nghiệp nông thôn lại nhiều hơn, chủ yếu đầu tư vào phát triển cơ sở hạ tầng. Theo tính toán sơ bộ, nguồn vốn ODA trong 5 năm tới đầu tư vào nước ta khoảng 10 Tỷ USD, bình quân mỗi năm sẽ là 2 tỷ USD. Dự tính nguồn vốn nay đầu tư vào khu vực nông nghiệp nông thôn chiếm khoảng 15% tức là khoảng 300 triệu USD mỗi năm ( tính theo tỷ giá hối đoái hiện hành thì bằng khoảng 4.200 tỷ đồng Việt Nam ). Cho nên đầu tư cho lĩnh vực nông nghiệp nông thôn chiếm tỷ trọng lớn chỉ có nguồn vốn từ NSNN và nguồn vốn trong nước khác mà thôi. Do vậy trong thời gian tới ngoài các chính sách của Nhà nước khuyến khích đầu tư nước ngoài vào nông nghiệp nông thôn thì Nhà nước vẫn xác định nguồn vốn đầu tư từ NSNN và nguồn vốn tín dụng và nguồn từ các thành phần kinh tế khác trong nền kinh tế cộng với nguồn vốn tự có của người dân địa phương là nguồn vốn chính cho phát triển nông nghiệp nông thôn, nhất là nguồn vốn Ngân sách Nhà nước. Trong phần trên ta đã nêu ra, dự kiến tổng chi NSNN trong 5 năm (2001-2005) là 720-750 nghìn tỷ đồng ( mỗi năm chi bình quân khoảng từ 144-150 nghìn tỷ đồng) với cơ cấu chi là khoảng 25-26% chi đầu tư phát triển; chi thường xuyên khoảng 57-58% phần còn lại là chi trả nợ. Dự tính rằng để tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn Nhà nước phải tăng tỷ trọng đầu tư từ NSNN cho nông nghiệp lên khoảng 30% ( tức là vào khoảng từ 43,2-45 nghìn tỷ đồng) mỗi năm mới đáp ứng được nhu cầu. Nhưng trong thời gian tới mỗi năm Nhà nước dự kiến NSNN chi cho nông nghiệp nông thôn khoảng 26% tổng đầu tư mỗi năm tức là vào khoảng37 đến 39 nghìn tỷ đồng và phần còn lại sẽ huy động từ các thành phần kinh tế khác và vốn tự có cuả người dân. Nhà nước ta cũng dự báo rằng, trong 5 năm tới khả năng huy động từng nguồn vốn vào khoảng 780-840 nghìn tỷ đồng (theo giá năm 2000) tương đương 56-60 tỷ USD. Trong đó, đầu tư phát triển từ NSNN chiếm 19-20%, tăng 7%/ năm. Đầu tư bằng tín dụng Nhà nước chiếm 16-19%, tăng 6-9%/ năm, còn lại ở các khu vực khác kể cả nguồn huy động từ nước ngoài. Với tổng nguồn vốn đầu tư toàn xã hội đó dự kiến phân bổ: 15% đầu tư cho nông nghiệp và kinh tế nông thôn, tăng 3,5%so với mức bình quân thời kỳ 1996-2000. Điều này chứng tỏ rằng Đảng và Nhà nước vẫn luôn coi trọng vào đầu tư phát triển nông nghiệp nông thôn. Thực tế nhìn nhận rằng, khả năng đầu tư của Nhà nước không thể đáp ứng được nhu cầu về vốn của nông nghiệp và nông thôn. Bởi NSNN vốn đã hạn hẹp lại phải phân bổ cho nhiều ngành, nhiều lĩnh vực khác nhau của xã hội. Bên cạnh đó Nhà nước cũng phải giành một phần lớn NSNN để trả nợ cho nước ngoài ( khoảng 17-18% tổng chi Ngân sách Nhà nước trong 5 năm từ 2001-2005), điều đó có nghĩa là nước ta còn rất khó khăn về vốn cho đầu tư phát triển. Như vậy, chúng ta phải có một chính sách, một cơ chế phân bổ vốn hợp lý để đạt được mục tiêu phát triển kinh tế-xã hội đề ra trong 5 năm tới. Một cách khác, chúng ta có thể hiểu rằng: “Ngân sách Nhà nước như một cái bánh lớn, vấn đề đặt ra là phải chia làm sao cho hợp lý chứ không phải chia đều cho các ngành, các lĩnh vực khác nhau ” III. Định hướng phân bổ vốn đầu tư cho phát triển nông nghiệp nông thôn từ NSNN. III.1. Định hướng phân bổ vốn NSNN cho các lĩnh vực phát triển nông nghiệp nông thôn Nhưng vấn đề đặt ra ở đây là phải tạo ra một cơ cấu chi hợp lý trong tổng số chi NSNN cho nông nghiệp và kinh tế nông thôn. Tức là mặc dù vốn đầu tư cho nông nghiệp nông thôn có tăng lên trong thời gian tới nhưng không thể đầu tư mỗi nơi một ít được, vì thế chi NSNN chỉ nên tập chung cho một số lĩnh vực quan trọng. Trong nông nghiệp NSNN nên tập trung chi cho công tác nghiên cứu khoa học tìm ra và đưa vào sản xuất các loại giống cây, giống con mới có năng suất cao, phẩm chất tốt; đẩy mạnh chi cho công tác khuyến nông, khuyến lâm, khuyến ngư. Trong nông thôn thì NSNN nên tập chung chi cho một số lĩnh vực sau: + Cơ sở hạ tầng: Nhà nước nên tiếp tục hỗ trợ vốn, kỹ thuật để xây dựng và phát triển hoàn thiện kết cấu hạ tầng nông thôn như tiếp tục chi cho việc xây dựng, duy tu và bảo dưỡng các công trình thuỷ lợi; về vấn đề giao thông nông thôn và điện nông thôn Nhà nước chỉ nên đóng vai trò là người đưa ra các chính sách, các chế độ huy động vốn, huy động sức dân chứ không nên đầu tư 100% cho công trình; hỗ trợ thêm với NSĐP để xây dựng thêm các công trình phúc lợi xã hội như : trường học, trạm xá, nhà văn hoá…Đối với cơ sở hạ tầng Nhà nước vẫn duy trì ở mức 50-60% tổng đầu tư của Nhà nước vào khu vực nông nghiệp nông thôn + Để phát triển kinh tế nông thôn và góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn từ thuần nông sang đa ngành Nhà nước nên dần dần đưa các xí nghiệp sản xuất công nghiệp và dịch vụ về khu vực nông thôn. Về giải pháp ta có thể học kinh nghiệm của một số nước như Trung Quốc, Đài Loan. Bước đầu Nhà nước nên đưa các xí nghiệp chế biến về địa phương, như thế vừa gần vùng nguyên liệu vừa góp phần giải quyết công ăn việc làm cho lực lượng lao động dư thừa ở nông thôn. Đồng thời đầu tư phát triển các nhà máy cơ khí chế tạo, hoá chất phục vụ sản xuất nông nghiệp và kinh tế nông thôn. Ngoài ra Nhà nước cũng cần có những biện pháp để khuyến khích các loại hình thương mại và dịch vụ và các loại hình dịch vụ văn hoá phục vụ cho khu vực nông thôn nhằm nâng cao đời sống vật chất tinh thần cho bà con nông dân. + Đối với lĩnh vực nông nghiệp thì để phát triển lĩnh vực này Nhà nước tiếp tục đầu tư vào cho công tác nghiên cứu khoa học tìm ra các loại giống cây, giống con mới thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu cây trồng và nâng cao chất lượng nông sản. Bên cạnh đó Nhà nước cũng nên quan tâm đến công tác khuyến nông, khuyến lâm và khuyến ngư bởi đây cũng là tiền đề cho phát triển ngành nông nghiệp nước ta. III.2. Định hướng về phương thức sử dụng vốn NSNN Thông thường khi đầu tư vốn NSNN cho phát triển nông nghiệp nông thôn thì Nhà nước chủ yếu đầu tư dưới ba hình thức sau: Thứ nhất là phân bổ vốn đầu tư cho các chương trình phát triển kinh tế xã hội ở khu vực nông thôn. Trong những năm gần đây, đầu tư cho phát triển nông nghiệp nông thôn Nhà nước thường đầu tư dưới dạng các chương trình hay các dự án bởi các nguyên nhân sau: + Để phát triển toàn diện nông nghiệp nông thôn đòi hỏi đầu tư phát triển rất nhiều lĩnh vực khác nhau như về kinh tế, văn hoá, giáo dục, y tế…muốn vậy phải có sự kết hợp của nhiều ngành, nhiều vùng, nhiều lĩnh vực. Một số mục tiêu khác phản ánh những vấn đề kinh tế-xã hội bức xúc, nổi cộm ở nông thôn như nước sạch, vệ sinh môi trường…cần phải giải quyết trong một khoảng thời gian nhất định. Nói cách khác do có các đặc đIểm đó, việc thực hiện một số mục tiêu này không thể giải quyết bằng các cơ chế giải pháp thông thường, mà phải bằng cơ chế giải pháp đặc thù. Do vậy các chương trình, dự án đã ra đời để đáp ứng yêu cầu này. + Việc đầu tư của Nhà nước để phát triển nông nghiệp và kinh tế nông thôn bằng các chương trình thì Nhà nước rất dễ quản lý hoạt động của các chương trình đó. Cụ thể là quản lý về nhân sự, đối tượng thụ hưởng, quản lý về tiến độ thực hiện và đặc biệt là quản lý vốn sử dụng cho chương trình nhất là các chương trình sử dụng vốn NSNN vì thực tế vốn đầu tư cho các chương trình này có khối lượng rất lớn, chỉ có Nhà nước trực tiếp quản lý mới giảm bớt được thất thoát vốn và nâng cao hiệu quả sử dụng của đồng vốn Những kết quả đạt được trong phát triển kinh tế-xã hội ở nông thôn cho thấy được vai trò của hình thức đầu tư dưới dạng các chương trình rất quan trọng bởi chúng đều mang lại hiệu quả rất cao. Trong thời gian tới, để đạt được mục tiêu phát triển nông nghiệp nông thôn Nhà nước sẽ phải đầu tư nhiều và như vậy hình thức đầu tư này sẽ được vận dụng rất nhiều. Thứ hai là phân bổ vốn theo hình thức cấp phát vốn cho các vùng, các địa phương Đây là hình thức rất được phổ biến ở nước ta trong thời kỳ bao cấp bởi vì để thực hiện và đạt được các mục tiêu phát triển kinh tế xã hội Nhà nước trực tiếp cấp phát vốn cho các đơn vị, các ngành, các địa phương. Nhưng trong những năm trở lại đây (từ sau Đại hội Đảng VI) khi nền kinh tế nước ta thực hiện theo cơ chế phát triển nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa thì hình thức cấp phát vốn này giảm dần do trong quá trình cấp phát trực tiếp có thất thoát vốn mà hiệu quả sử dụng lại không cao. Tuy nhiên trong một số trường hợp Nhà nước vẫn phải duy trì hình thức phân bổ vốn này đặc biệt là cấp phát vốn cho đầu tư phát triển ở khu vực nông thôn, khu vực vùng sâu, vùng xa. Thứ ba là phân bổ vốn theo hình thức cho vay tín dụng Cấp phát vốn NSNN cho người nông dân vay thông qua hình thức cho vay tín dụng bằng hệ thống các ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn đến nay đã phát triển mạnh mẽ ở khắp các địa phương trên cả nước. Đây cũng là chủ trương của Nhà nước nhằm khuyến khích người nông dân mong muốn đầu tư phát triển kinh tế hộ gia đình nhưng không có vốn. Hình thức này đã mang lại hiệu quả rất cao vì khi chuyển nền sản xuất nông nghiệp sang sản xuất hàng hoá thì nhu cầu vốn cho sản xuất kinh doanh của các hộ gia đình cũng như các doanh nghiệp nhỏ ở nông thôn rất lớn, trong khi phần vốn tự có của họ bị hạn chế. Về phía Nhà nước việc phát triển hệ thống tín dụng sẽ đẩy nhanh vòng quay của tiền tệ trong nền kinh tế đồng thời giúp cho người nông dân tự làm giàu cho bản thân, cho xã hội góp phần ổn định kinh tế xã hội của đất nước. Các giải pháp và kiến nghị nhằm tăng cường hiệu quả của phân bổ và sử dụng vốn NSNN cho nông nghiệp nông thôn. Thứ nhất : Tăng cường quản lý việc sử dụng NSNN trong quá trình phân bổ nhằm bảo đảm nguyên tắc chi tiết kiệm, hiệu quả. Tăng cường quản lý sử dụng NSNN là hết sức cần thiết, nó thể hiện trách nhiệm của Chính phủ cũng như các cơ quan quản lý tài chính Nhà nước trong việc giảm thiểu tình trạng thất thoát ngân sách trong quá trình đầu tư và kết quả đạt được của mỗi dự án, chương trình phát triển nông nghiệp nông thôn. Quản lý chi NSNN cho nông nghiệp nông thôn được thực hiện ngay từ khâu lập dự toán cấp phát ngân sách đến việc giám đốc, kiểm tra các khoản chi bởi có chặt chẽ như vậy mới bảo đảm hiệu quả đầu tư của NSNN.Đây được coi là một chu trình quản lý NSNN hoàn chỉnh. * Lập, xét duyệt, phê duyệt dự toán NSNN Để lập dự toán phù hợp trước hết phải căn cứ vào tình hình cụ thể của địa phương đó, ngoài ra cần căn cứ vào định hướng phát triển của Nhà nước trong từng thời kỳ để chi đúng, chi đủ nhằm khai thác hết tiềm năng của địa phương đó. Cho nên nó là bước quan trọng nhất vì nó quyết định có đầu tư hay không.Đối với Ngân sách địa phương, quá trình lập dự toán qui định cụ thể trình tự lập và trách nhiệm của từng đơn vị địa phương từ cấp xã. Hàng năm dự toán Ngân sách địa phương do HĐND tỉnh phê duyệt còn UBND tỉnh là cơ quan điều hành Ngân sách cấp mình. Tuy nhiên, trong thực tế, việc xây dựng dự toán NSNN thường không bảo đảm yêu cầu mà thường rất chậm, rất phức tạp qua nhiều khâu, nhiều lần trong cùng một cấp. Quyết định dự toán Ngân sách do Quốc hội phê chuẩn vì vậy quyết định phê duyệt dự toán phê duyệt của HĐND chỉ mang tính hình thức.Từ đó mà có tình trạng dự toán Ngân sách mà chất lượng không cao, tính khả thi thấp . Vì vậy, thực hiện qui trình Quốc hội quyết định dự toán Ngân sách trung ương và trợ cấp cho Ngân sách cấp dưới còn HĐND quyết định dự toán Ngân sách cấp mình. Tạo điều kiện cho các cấp chính quyền chủ động hơn nữa trong khâu lập dự toán * Tổ chức thực hiện chi NSNN Sau khi dự toán NSNN đã được Quốc hội xem xét và phê duyệt, Bộ Tài chính sẽ phân bổ kinh phí ngân sách trung ương cho Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn theo dự toán, sau đó Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn sẽ tiếp tục phân bổ kinh phí tới tận các đơn vị cơ sở. Đối với NSĐP Bộ Tài chính sẽ phân bổ cho UBND các cấp và từ UBND các cấp đến các đơn vị cơ sở. Nhưng thường thì UBND các cấp điều hành chấp hành Ngân sách địa phương trong tình thế bị động, ở nhiều tỉnh, thành phố Ngân sách địa phương thu không đủ chi phải trông chờ vào sự trợ cấp của Ngân sách trung ương hoặc do nguồn thu NSNN trong những tháng đầu năm đạt thấp trong khi nhu cầu chi ở những tháng đầu năm lại nhiều, đặc biệt là tập chung đầu tư cho xây dựng cơ bản nhưng nguồn dự trữ tài chính chỉ có hạn, từ đó luôn đặt ngân sách địa phương trong tình trạng căng thẳng. Như vậy giải pháp ở đây là cải cách chế độ chi sao cho phù hợp, đảm bảo cân đối giữa thu và chi. Còn đối với những công trình XDCB vốn đầu tư lớn thì Ngân sách trung ương phải có trách nhiệm hỗ trợ một phần vốn cho Ngân sách địa phương. * Công tác thanh tra, kiểm tra Ngân sách Kết hợp với việc tổ chức chi NSNN là việc kiểm tra giám sát việc sử dụng kinh phí tại các phòng nông nghiệp huyện, xã, các cơ sở nông nghiệp. Quá trình kiểm tra cho thấy được nhưng hạn chế trong tổ chức chi Ngân sách ở cả địa phương và trung ương Có thể thực hiện kiểm tra thưỡng xuyên hoặc kiểm tra đột xuất. Kiểm tra thường xuyên: Sau khi cấp phát ngân sách và phân phối kinh phí cho các đơn vị sử dụng, các cơ quan tài chính như phòng tài chính, sở tài chính yêu cầu các đơn vị sử dụng kinh phí lập quyết toán chi tiết cụ thể từng nhu cầu chi, kết hợp với thời gian sử dụng kinh phí. Từ đó biết được tình hình và mức độ hoàn thành từng nhu cầu chi. Kiểm tra điểm, đột xuất: Khi có một vài đơn vị cơ sở thực hiện quản lý chưa tốt, có xảy ra thất thoát, lãng phí cơ quan tài chính phải tiến hành kiểm tra ngay, xử lý kịp thời để giảm bớt hậu quả gây ra. Hoặc kiểm tra đột xuất một đơn vị cơ sở nào đó về tình hình chi để thấy được tình hình thực tế nếu tốt cần phát huy và nếu quản lý còn chưa tốt phải đưa ra các biện pháp để giải quyết. Mặc dù vậy công tác kiểm tra, thanh tra cũng gặp không ít khó khăn. Do hệ thống luật pháp chưa đồng bộ, riêng pháp luật về tài chính còn thiếu nhiều. Những công cụ pháp luật chưa có thì việc thanh tra, kiểm trachưa có cơ sở pháp lý để xem xét. Hệ thông định mức. Tiêu chuẩn chi tiêu của Ngân sách địa phương chưa hính thành đầy đủ và chưa phù hợp với tình hình thực tế. Trong thời gian tới để làm tốt công tác kiểm tra cần có những định chế pháp luật về tài chính làm cơ sở cho công tác kiểm tra, thanh tra Ngân sách Nhà nước * Công tác quyết toán ngân sách Quyết toán Ngân sách là khâu cuối cùng trong chu trình quản lý ngân sách Nhà nước. Quá trình thực hiện như hiện tại xem như một quá trình khép kín, quản lý và phân tích đầy đủ tình hình thu chi của cả nước trong một năm. Nhưng thực chất còn mang nhiều tính hình thức trong quá trình thông qua quyết toán Ngân sách, đến nay gần như chưa có báo cáo quyết toán của cấp nào trình cấp có thẩm quyền phê chuẩn bị phản bác, hoặc ở một số địa phương quyết toán nhiều khoản chi không đúng với dự toán được phê duyệt , nhưng chưa có qui định ràng buộc về trách nhiệm trong điều hành ngân sách không đúng theo dự toán. Do vậy khâu quyết toán cần được tập trung cải tiến hoàn thiện các nội dung: Thực hiện chế độ kiểm soát trước, trong và sau khi chi ngân sách thông qua cơ chế phân định rõ trách nhiệm, quyền hạn của các cơ quan tài chính, kho bạc Nhà nước và cơ quan thụ hưởng NSNN. Cần điều chỉnh lại việc thực hiện cơ chế kiểm soát chi như hiện hành theo hướng tạo điều kiện cho đối tượng thụ hưởng NSNN được thuận lợi chủ động trong điều hành kinh phí. Tóm lại: Đây là các bước trong quản lý việc phân bổ vốn NSNN mang lại hiệu quả tối ưu nhất. Vì vậy, muốn quản lý tốt trước tiên phải tiến hành thật tốt từng bước trong chu trình. Hai là: Hoàn thiện qui trình sử dụng vốn đối với các chương trình, dự án phát triển nông nghiệp nông thôn Trong phần trên ta đã nêu ra sự cần thiết phải đầu tư cho phát triển nông nghiệp nông thôn bằng các chương trình hay dự án. Mặc dù vậy không phải muốn đầu tư bằng một chương trình là có thể thực hiện được ngay mà phải theo một trình tự nhất định từ bước xác định chương trình cho đến bước đánh giá kết quả thực hiện chương trình. Sở dĩ phải làm như thế là để xem xét xem chương trình hay dự án Nhà nước định đầu tư có tính khả thi hay không tức là có khả năng thực hiện và mang lại kết quả như mong muốn hay không. Thứ hai là để Nhà nước giám sát được tiến độ thi công của chương trình cũng như thời gian chương trình thực hiện. Thứ ba là để quản lý nguồn tài chính thực hiện đầu tư cho chương trình. Cụ thể, qui trình gồm các bước sau - Xác định chương trình : Đó là quá trình tìm hiểu, xác định các vấn đề cấp bách, khó khăn trong đời sống của người nông dân ở một khu vực, một vùng dân cư nào đó, đòi hỏi nhà nước phải tiến hành đầu tư bằng một chương trình hay dự án nào đó. Điều này đảm bảo rằng đó là những chương trình có khả năng tốt nhất có thể được thực hiện phù hợp với các hoàn cảnh cụ thể. - Xây dựng chương trình: Đối với các chương trình, dự án lớn, thì quá trình xây dựng phải được tiến hành theo hai bước là ngiên cứu tiền khả thi và nghiên cứu khả thi. Còn đối các chương trình, dự án nhỏ có thể bỏ qua nghiên cứu tiền khả thi và bắt tay vào nghiên cứu khả thi. - Thẩm định và quyết định đầu tư: Đây là giai đoạn đánh giá và lựa chọn những chương trình và dự án có nhất thiết phải đầu tư hay không đồng thời xác định ảnh hưởng của chương trình tới đời sống của dân cư trong vùng thực hiện chương trình hay dự án đó.Nếu thấy rằng thực sự nó mang lại hiệu quả nâng cao đời sống của nhân dân thì được chấp nhận và được Chính phủ phê duyệt. Khi được phê duyệt thì công việc tiếp theo là vạch ra kế hoạch tàI trợ, đó là khai thác các nguồn tài chính sao cho phù hợp và cần bao nhiêu nguồn vốn huy động từ NSNN. - Triển khai chương trình: đây là giai đoạn chiếm phần lớn thời gian trong vòng chu trình của chương trình. Giai đoạn này chủ yếu là thực hiện đầu tư. Việc thực hiện đầu tư đúng tiến độ, đảm bảo đúng chất lượng sẽ là tiền đề khai thác có hiệu quả chương trình nhằm đạt được mục tiêu phát triển kinh tế-xã hội nông nghiệp nông thôn. - Đánh giá kết quả thực hiện chương trình và rút ra kinh nghiệm: Khi thời gian hoạt đông của chương trình kết thúc cần phải tiến hành đánh giá kết quả đạt được cụ thể là: chương trình có đạt được mục tiêu đề ra không?; Nó có thực sự góp phần vào phát triển kinh tế- xã hội của vùng và đời sống của người dân có được cải thiện không; Những bài học cần rút ra. Nhưng để thực hiện hoàn chỉnh một chương trình Nhà nước phải tập hợp một đội ngũ chuyên viên, cán bộ kỹ thuật có trình độ, có năng lực và có đạo đức trong công việc. Tuỳ theo từng giai đoạn khác nhau mà đòi hỏi về nhân lực, vật lực khác nhau. Ba là: Quản lý có hiệu quả các nguồn tài chính khác đầu tư cho nông nghiệp nông thôn nhằm giảm bớt gánh nặng cho NSNN. Các nguồn tài chính đầu tư cho nông nghiệp và kinh tế nông thôn có thể kể đến là: nguồn vốn huy động từ trong dân, nguồn vốn đầu tư từ nước ngoài và trong nước. * Trước hết là nguồn huy động từ trong dân: Việc huy động sự đóng góp của nhân dân phải được thực hiện theo nguyên tắc tự nguyện, công bằng trên cơ sở bàn bạc thống nhất ý kiến của đông đảo quần chúng nhân dân dưới sự lãnh đạo của cấp uỷ Đảng và chính quyền các cấp. Trước khi huy động vốn phải xác định nhu cầu rõ ràng, nhu cầu đến đâu huy động đến đấy, không huy động tràn lan. Mức huy động phải công khai, phù hợp với thu nhập của dân. Nên phát triển các hình thức đóng góp bằng sức lao động, ngày công như thế vừa giải quyết được vấn đề lao động nhàn rỗi ở nông thôn vừa huy động được sức dân tham gia xây dựng nông thôn mới. Trong quản lý các khoản đóng góp của nhân dân, phải thực hiện quản lý chặt chẽ theo đúng qui định về quản lý tài chính Tránh thất thoát, lãng phí, tham ô, biển thủ của dân. Công khai các khoản đóng góp từ đó bảo đảm quyền làm chủ, quyền giám sát của dân với số tiền của mình. Chính phủ cần sớm ban hành các văn bản pháp lý làm cơ sở cho việc huy động sự đóng góp của dân, tạo ra được sự thống nhất trong việc huy động vốn từ dânn giữa các ngành, các địa phương, tránh việc tuỳ tiện ra mức huy động khác nhau, đồng thời thống nhất quản lý về các khoản huy động tạo được lòng tin cho nhân dân, góp phần huy động và phát huy hết các tiềm lực trong dân để phát triển kinh tế nông thôn. * Đối với các thành phần kinh tế trong nước đầu tư cho lĩnh vực nông nghiệp nông thôn, cần có những biện pháp để thu hút, khuyến khích, tạo ra được sự hấp dẫn để họ tăng đầu tư cho nông nghiệp nông thôn. Khuyến khích các thành phần kinh tế trong khu vực nông thôn như các hộ nông dân, các hợp tác xã, các doanh nghiệp nhỏ tích cực bỏ vốn đầu tư để sản xuất kinh doanh tại địa phương. Có thể kể đến một vài biện pháp sau: Nhà nước nên có chính sách hỗ trợ, ưu đãi về thuế, giá thuê đất cho các doanh nghiệp, các hợp tác xã, các hộ nông dân đầu tư phát triển các ngành sản xuất công nghiệp và dịch vụ ở nông thôn. Có thể cho phép chậm nộp tiền thuê đất, giảm thuế trong thời gian đầu cho các hợp tác xã mới thành lập hoặc các doanh nghiệp mới đi vào hoạt động nhằm giảm bớt chi phí hoạt động ban đầu của họ. Tạo ra mối liên hệ mật thiết giữa người sản xuất và người thu mua chế biến nông sản bằng cách tổ chức một mạng lưới thương nghiệp rộng khắp để có thể thu mua kịp thời bảo đảm giá cả các hàng hoá nông sản. Có thể hỗ trợ vốn cho các doanh nghiệp, các tổ chức thu mua nông sản cho bà con nông dân trong thời vụ. * Về các khoản vay và viện trợ nước ngoài phải quan tâm đến vấn đề vay và trả nợ trong tương lai. Không thể cứ vay để phát triển kinh tế mà không quan tâm đến tương lai sẽ phải trả nợ như thế nào. Cho nên chỉ duy trì các khoản vay nợ trong một giới hạn cho phép. * Đối với các nguồn đầu tư trực tiếp nước ngoàI cần khuyến khích nhiều hơn nữa. Để huy động được các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào nông nghiệp nông thôn nước ta cần phải có cơ chế quản lý hành chính của Nhà nước đơn giản, tránh gây phiền toái cho nhà đầu tư. Bên cạnh đó cũng cần hoàn thiện cơ sở hạ tầng, tạo ra một thị trường tiêu thụ sản phẩm rộng rãi. Thứ tư: Hoàn thiện các chính sách tài chính của Nhà nước đối với nông nghiệp nông thôn. * Chính sách tín dụng đối với nông nghiệp nông thôn: - Xây dựng chính sách đầu tư tín dụng cho nông nghiệp vừa thích ứng với cơ chế thị trường vừa tuân thủ sự điều tiết quản lý vĩ mô của Nhà nước. Tuân thủ nguyên tắc tín dụng trong sự kết hợp hài hoà với đầu tư phát triển theo qui hoạch, có trọng tâm, trọng điểm, coi trọng hiệu quả kinh tế-xã hội về lâu dài, khắc phục tư tưởng chạy theo lợi ích cục bộ, kinh doanh đơn thuần trước mắt. Dựa vào tăng trưởng nguồn vốn tín dụng ngân hàng (đặc biệt là trung và dài hạn) để phát triển sản xuất nông nghiệp nuôi dưỡng nguồn thu cơ bản và lâu dài cho NSNN. Từng bước tiến hành mọi bao cấp qua con đường tín dụng, lấy tín dụng là phương thức đầu tư chủ yếu, phân biệt rạch ròi tài trợ chính sách xã hội với đầu tư tín dụng kinh doanh. - Phát huy vai trò đòn bẩy lãi suất tín dụng một cách hợp lý và linh hoạt, giảm nhẹ gánh nặng cho lãi suất nông nghiệp, nông dân. Để khuyến khích huy động nhiều vốn đầu tư phục vụ nông nghiệp nếu cần thì tính toán và nâng lãi suất tiền gửi VND. Nhanh chóng kiện toàn cơ chế tín dụng để với lãi suất thị trường mà đồng vốn vẫn dễ dàng đến được với người nông dân. Nhà nước cũng cần có chính sách ưu đãi hoạt động tín dụng dài hạn trong nông nghiệp, chuyển dần từ bù lỗ lãi suất sang trợ giá lâu dài một số mặt hàng nông sản chiến lược hoặc miễn, giảm, dãn thuế cho hệ thống các tổ chức tín dụng phục vụ phát triển nông nghiệp nông thôn.Thậm chí có chính sách ưu đãi rõ ràng đối với bất kỳ chương trình đầu tư nào của mọi tổ chức tín dụng, doanh nghiệp trong, ngoài nước. - Kết hợp nguyên tắc tín dụng với các công cụ tài chính khác như nới lỏng thuế, bù lỗ lãi suất, trợ giá hàng nông sản… để giảm thiểu rủi ro, bảo toàn vốn tín dụng ngân hàng. Cải tiến đa dạng hoá phương thức cho vay nhằm rút ngắn quãng đường vận động của đồng vốn, giảm chi phí tín dụng, phòng ngừa tốt rủi ro bằng cách phát huy tín dụng đồng tài trợ theo dự án. - Thống nhất các loại hình tổ chức tín dụng nông dân theo một định chế thích hợp với điều kiện, địa bàn cụ thể: Ngân hàng nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Ngân hàng cấp tín dụng dài hạn, Ngân hàng phục vụ người nghèo, Quĩ tín dụng nhân dân…Tập chung quản lý các nguồn vốn đầu tư, tránh phân tán, giẫm đạt, trồng chéo trong việc bố trí vốn đầu tư thông qua phát triển thị trường vốn nông thôn có sự tham gia cạnh tranh bình đẳng và lành mạnh của mọi thành viên. * Chính sách thuế, phí, lệ phí đối với khu vực nông thôn: - Chính phủ nên nghiên cứu và xem xét các giải pháp để mở rộng mức miễn giảm thuế sử dụng đất nông nghiệp đối với một số đối tượng và khu vực khó khăn trong một giai đoạn nhất định để khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi cho người nông dân phát triển sản xuất nông nghiệp và kinh tế nông thôn. - Hiện nay do thực hiện chủ trương Nhà nước và nhân dân cùng làm; các ngành các cấp đang đặt ra nhiều khoản người nông dân phải đóng góp thậm chí đang là gánh nặng đối với nông dân. Vì vậy Nhà nước cần phải kiểm tra, rà soát lại các khoản thu này để thể chế hoá bằng qui định chính thức của Nhà nước và loại bỏ ngay một số khoản nộp không cần thiết. - Cần xem xét lại mức thu thuỷ lợi phí đồng thời chỉ thực hiện thu đủ trang trải cho bộ máy quản lý và sửa chữa thường xuyên. Không thu khấu hao cơ bản của các công trình đầu tư bằng nguồn vốn NSNN để bảo đảm đầu tư tốt nhất cho sản xuất nông nghiệp. - Thực hiện thu các khoản phí và lệ phí ở nông thôn theo đúng danh mục các loại phí, lệ phí được Nhà nước qui định và bỏ ngay một số khoản nộp không hợp lý như: Quĩ quốc phòng, Quĩ an ninh thôn xóm, Quĩ kinh tế mới … - Chấn chỉnh lại việc thực hiện giá bán điện ở nông thôn hiện nay, chấm dứt hiện tượng cung cấp đIện cho nông dân qua nhiều nấc trung gian ở xã. Tóm lại: Để thực hiện thành công công cuộc công nghiệp hoá và hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế-xã hội của cả nước Nhà nước cần có biện pháp thực hiện tốt các giải pháp nêu ra ở trên. Kết luận Giai đoạn 2001-2005 là giai đoạn có nhiều ý nghĩa nhất bởi đây là giai đoạn thực hiện mục tiêu phát triển kinh tế xã hội mà Đại hội Đảng lần thứ IX đề ra với nhiều thuận lợi và cũng không ít khó khăn trước mắt. Thuận lợi là nước ta vừa thực hiện thành công nhiệm vụ phát triển kinh tế-xã hội của kế hoạch 5 năm ( 1996-2000) và có rất nhiều kết quả đạt được. Đặc biệt là trong sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá nông thôn, đời sống nhân dân đã được cải thiện cả về vật chất và tinh thần. Khó khăn là vì đây là giai đoạn đầu của một thiên niên kỷ mới, thế kỷ XXI có nhiều biến động về kinh tế, chính trị thế giới tác động vào nền kinh tế nước ta. Đó là xu hướng khu vực hoá, toàn cầu hoá kinh tế thế giới (từ năm 2003 hiệp định thương mại AFTA được kí giữa các nước ASEAN bắt đầu có hiệu lực thi hành mà theo đó xoá bỏ hàng rào thuế quan. Đối với nền kinh tế nước ta điều này gây ra không ít khó khăn bởi nền kinh tế nước ta còn chậm phát triển, sức cạnh tranh của hàng hoá trong nước đối với hàng hoá các nước ASEAN còn kém). Vì vậy đòi hỏi chúng ta phải tập trung mạnh vào phát triển kinh tế mới có khả năng hội nhập. Tuy nhiên, trong điều kiện nước ta gần 80% dân số sống ở khu vực nông thôn cho nên tập trung phát triển đất nước chính là tập trung cho phát triển nông nghiệp nông thôn. Về mặt chính trị, thì trong khu vực nông thôn nhất là vùng sâu, vùng xa là những nơi mà kẻ thù và bọn phản động từ bên ngoài kích động, gây bạo loạn, nhằm chia rẽ tinh thần đoàn kết dân tộc, âm mưu lật đổ chính quyền. Bởi vì đây là những nơi đời sống nông dân còn khó khăn, trình độ hiểu biết đường lối chính sách của Đảng thấp. Như vậy, vấn đề đặt ra trong giai đoạn tới là phải tích cực đầu tư vào phát triển nông nghiệp nông thôn nhất là vùng sâu, vùng xa để nâng cao đời sống nhân dân, tạo dựng niềm tin của nhân dân vào đường lối lãnh đạo của Đảng và Nhà nước, bảo đảm trật tự, an ninh xã hội đưa nước ta vững bước đi lên con đường CNXH hoà nhập vào sự phát triển chung của toàn thế giới trong thế kỷ mới ./. ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docC0175.doc
Tài liệu liên quan