Định hướng phát triển ngành công nghiệp điện lực Việt Nam đến năm 2010

lời nói đầu Năng lượng là một lĩnh vực hết sức quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế xã hội của bất kỳ quốc gia nào trên thế giới. Trong đó ngành điện hiện nay là ngành giữ vị trí then chốt cung cấp năng lượng cho nhu cầu đời sống xã hội cũng như sản xuất. Đối với Việt Nam, trong thời kỳ thực hiện đẩy mạnh công cuộc công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước. Song song với việc thúc đẩy sự phát triển kinh tế xã hội đòi hỏi phải cung cấp đẩy đủ nguồn năng lượng phục vụ cho việc thực hiện m

doc67 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1460 | Lượt tải: 1download
Tóm tắt tài liệu Định hướng phát triển ngành công nghiệp điện lực Việt Nam đến năm 2010, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ục tiêu đó và trong thời kỳ tới điện năng vẫn là một nguồn năng lượng chủ chốt. Những năm qua ngành Điện Việt Nam vượt qua nhiều khó khăn thách thức, với những nỗ lực của đất nước cũng như sự giúp đỡ quan tâm của bạn bè quốc tế, đặc biệt là LIÊN XÔ (cũ) đã có những bước trưởng thành và không ngừng phát triển. Chúng ta đã có một hệ thống điện quốc gia khá hoàn chỉnh từ các nhà máy cho đến hệ thống truyền tải. Tuy nhiên, bên cạnh đó vẫn còn nhiều mặt yếu kém so với các nước trên thế giới cũng như khu vực: cơ câú sản xuất chưa hợp lý, sản xuất còn gặp khó khăn trong các thời điểm nắng nóng kéo dài, sự phân bố nguồn điện chưa hợp lý đặc biệt là sự thiếu điện ở khu vực nông thôn và các vùng sâu, xa vùng cao, việc cung cấp vẫn trong tình trạng không ổn định... Bởi vậy trong thời gian tới cần có những định hướng và giải pháp để khắc phục những tồn tại yếu kém đó. Qua một thời gian thực tập tại Vụ tổng hợp - Bộ kế hoạch và Đầu tư, qua việc phân tích và đánh giá thực trạng của ngành Điện lực Việt Nam, với mong muốn góp phần khắc phục những khó khăn đó tôi quyết định chọn đề tài: "Định hướng phát triển ngành công nghiệp điện lực Việt Nam đến năm 2010". Đề tài ngoài lời nói đầu và phần kết luận có kết cấu như sau: Chương I: Sự cần thiết phải định hướng phát triển ngành điện lực Việt Nam . Chương II: Thực trạng hoạt động sản xuất kinh doanh của ngành điện Việt Nam. Chương III: Định hướng phát triển ngành điện Việt Nam đến năm 2020. Tôi xin trân trọng cảm ơn thầy giáo Ts. Ngô Thắng Lợi, chú Đặng Văn Thuận cùng các CBCNVC Vụ tổng hợp- Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã giúp đỡ tôi thực hiện tốt đề tài này. Do điều kiện thời gian cũng như hạn chế về kinh nghiệm thực tế nên chắc rằng bài viết không tránh được những thiếu sót rất mong được sự đóng góp của thầy cô, bạn bè để đề tài được hoàn thiện hơn. Hà Nội, ngày 30/04/2001. Sinh viên: Đặng Thị Minh Thư. Chương I Sự cần thiết phải định hướng phát triển công nghiệp điện lực Việt Nam đến năm 2010 I. Ngành điện Việt Nam với phát triển kinh tế xã hội 1.Vài nét về ngành điện: Tổng Công ty Điện Lực Việt nam là một Tổng Công ty nhà nước gồm nhiều đơn vị của ngành điện tham gia vào khâu phát điện, truyền tải, phân phối điện và các dịch vụ liên quan. Những đơn vị này được nhóm lại dưới hai hệ thống kế toán: (I) Các đơn vị hạch toán độc lập; và (II) các đơn vị hạch toán phụ thuộc. Người ta phân loại các đơn vị kinh doanh như sau: - Các đơn vị tham gia vào phát điện và truyền tải điện phải hạch toán phụ thuộc. Có 17 đơn vị kinh doanh tham gia vào các hoạt động này trong đó có 13 đơn vị phát điện, 4 đơn vị truyền tải và 1 Trung tâm Điều độ Quốc gia. - Những đơn vị tham gia vào khâu phân phối và cung ứng điện là các doanh nghiệp hạch toán độc lập, ( nghĩa là các doanh nghiệp nhà nước như được quy định trong Luật Doanh nghiệp nhà nước ). Có 5 đơn vị phân phối điện: Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh, Công ty Điện Lực 1, Công ty Điện Lực 2, Công ty Điện Lực 3. - Nhóm các đơn vị tham gia vào cung cấp dịch vụ ( bao gồm tài chính, thiết kế và xây dựng, và lên kế hoạch ) hạch toán độc lập hoặc phụ thuộc. Về cơ cấu ngành, các chức năng chủ yếu phát điện và truyền tải điện hiện đang được gắn kết và chịu sự quản lý trực tiếp của Tổng Công ty Điện Lực Việt nam. Các đơn vị phát điện và truyền tải bán buôn điệncho namư công ty phân phối điện độc lập. Điện là một ngành thuộc lĩnh vực kết cấu hạ tầng và nằm trong hệ thống các ngành công nghiệp, nó giữ vị trí then chốt cung cấp năng lượng cho các ngành kinh tế quốc dân. Điện là loai năng lượng trung gian sinh ra từ các dạng năng lượng khác như: than, dầu, khí. Điện có qúa trình sản xuất và tiêu dùng diễn ra đồng thời, hiện nay hoàn toàn do trong nước sản xuất, được quản lý bởi một doanh nghiệp. Vì vậy, nó là loại hàng hoá có tính độc quyền tự nhiên cao. Giá bán lẻ điện cho khách hàng cuối cùng do Chính phủ xây dựng và được áp dụng thống nhất trên cả nước. Cơ chế hình thành giá bán buôn cho phép các công ty phân phối thu được lợi nhuận theo chỉ tiêu mức lợi nhuận do Tổng Công ty Điện Lực Việt nam quyết định. Do giá bán lẻ điện thống nhất và chi phí cho hệ thống phân phối điện của các công ty phân phối là khác nhau nên giá bán buôn của các công ty phân phối điện sẽ khác nhau. Việt nam hiện nay có tốc độ tăng trưởng nhu cầu về điện cao. Ké hoạch phát triển ngành điện của Việt Nam dự định có thêm 3.000MW khi bước sang thế kỷ mới và khoảng 6.000MW vào năm 2005. Để đáp ứng được cac chương trình phát triển đầy thách thức này, cần phải có sự kết hợp sử dụng của các nguồn ngân sách nhà nước, vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA), nguồn từ các tổ chức taì chính đa phương và các nguồn tài chính khác. 2. Vai trò của điện với sự tăng trưởng và phát triển kinh tế xã hội: Trong thời đại ngày nay, khoa học kỹ thuật phát triển nhanh chóng, nhu cầu tiêu thụ năng lượng ngày càng tăng. Điện, một ngành trong hệ thống các ngành năng lượng, giữ vị trí then chốt cung cấp năng lượng cho các ngành kinh tế quốc dân. Sản phẩm của ngành là một trong những nguồn động lực thúc đẩy sự phát triển của toàn bộ nền kinh tế xã hội. Mục tiêu của chiến lược kinh tế - xã hội Việt Nam đến năm 2010 là: ra sức phấn đấu đưa nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp vào năm 2020. Lúc đó lực lượng sản xuất của nước ta sẽ đạt trình độ tương đối cao, phần lớn lao động thủ công được thay thế bằng lao động sử dụng máy móc, điện khí hoá cơ bản được thực hiện trong cả nước, năng suất lao động xã hội và hiệu quả sản xuất - kinh doanh cao. Trong cơ cấu kinh tế, ngành công nghiệp và dịch vụ sẽ chiếm tỷ trọng rất lớn trong GDP và trong lao động xã hội. Đời sống vật chất của nông dân no đủ, có điều kiện thuận lợi về đi lại, có mức hưởng thụ văn hoá khá. Như vậy, ở nước ta hiện nay, vấn đề phát triển ngành điện chính là một trong những giải pháp cơ bản nhằm góp phần đạt được nhuững mục tiêu phát triển đó. Phát triển ngành điện là mục tiêu quan trọng để đảm bảo sự tăng trưởng và phát triển của hệ thống công nghiệp nói riêng và của toàn bộ nền kinh tế xã hội nói chung. Bác Hồ đã dạy: “... Dù trong trường hợp nào cũng phải chú ý đến điện, nước. Tiếp quản điện nước tốt thì ảnh hưởng tốt đến mọi công tác...”. Trong nền kinh tế quốc dân, điện thường chiếm khoảng 6-8% tổng vốn đầu tư cơ bản. Do đó việc quyết định xây dựng các công trình điện lực sẽ có ảnh hưởng đến nhịp độ phát triển sản xuất của các ngành khác. Ngược lại, để đảm bảo cho sự phát triển của mình, ngành điện sẽ đòi hỏi nền kinh tế quốc dân phải phát triển đồng bộ một số ngành khác. Vai trò của điện trong nền kinh tế quốc dân được thể hiện qua những mặt chủ yếu sau: 2.1.Điện lực với qúa trình xây dựng cơ sở vật chất kỷ thuật hiện đại: Trang bị điện lực cho việc sử dụng máy móc thiết bị hiện đại: Để đánh giá chất lượng điện năng, người ta dùng hai thông số đó là điện áp và tần số. +Về điện áp: Hệ thống điện Việt Nam dùng chỉ số điện áp định mức Un . Un dao động lên xuống trong khoảng (-5%,+5%).Nếu không đảm bảo chất lượng điện, điện áp sẽ giảm. Ví dụ đường dây 110KV vào đến Nghệ An nhiều lúc chỉ còn 93-95KV. Thông số điện áp có đảm bảo được hay không chủ yếu là do máy phát và đường dây. Để đảm bảo điện áp dao động trong phạm vi cho phép, trong hệ thống điện còn phải bù điện áp, chọn các chế độ như: một là chế độ phụ tải, bố trí các pha giữa phụ tải ba pha phải đều nhau; hai là công suất của phụ tải, bố trí đồ thị phụ tải sao cho chênh lệch giưã cao diểm và thấp điểm ít thôi. Về tần số: Hệ thống điện Việt Nam có tần số thống nhất là 50Hz. Thông số này đảm bảo được hay không chủ yếu do các nhà máy điện. - áp dụng các phương pháp công nghệ tiên tiến: Để đảm bảo chất lượng điện, phần nguồn thường áp dụng kỷ thuật mạng lưới, thay đổi từ các bộ điều khiển cơ học sang điện tử, tự ghi. 2.2 Điện lực với sự tăng trưởng kinh tế : Điện ra đời và phát triển, sản xuất được cải tiến, năng suất lao động được nâng cao, thu nhập bình quân đầu người tăng, mở rộng thị trường tiêu thụ và dịch vụ. Điện càng phát triển, các ngành kinh tế khác, đặc biệt là ngành công nghiệp sẽ ngày càng phát triển, càng đóng góp nhiều cho nền kinh tế quốc dân, là điều kiện để thu nhập quốc dân theo đầu người được nâng cao. 2.3 Điện với việc phát triển xã hội: Để đánh giá trình độ phát triển của một nước thường dùng ba tiêu chí chủ yếu là: Tổng sản phẩm quốc nội GDP theo đầu người, tỷ lệ số người biết chữ và tuổi thọ bình quân. Trong khi đó, điện lại là nguồn lực góp phần nâng cao dân trí và trình độ giáo dục, tạo nhu cầu tiêu dùng, kích thích sản xuất phát triển và tạo ra thị trường rộng lớn hơn. Mặt khác điện còn góp phần giảm bớt sự gia tăng dân số, tạo ra sự tập trung dân cư và định cư ở các bộ tộc ít người. Điện cũng có ảnh hưởng to lớn đến lối sống của con người. Điện làm cuộc sống con người trở nên văn minh, điều kiện sinh hoạt của người dân được cải thiện. Khi điện ra đời và phát triển thì các công cụ lao động dần dần được cơ khí hoá và điện tử hoá, các dịch vụ gia đình tiện lợi hơn như máy giặt, máy điều hoà nhiệt độ... Điện tạo tiền đề và là nguồn động lực cho toàn bộ nền kinh tế xã hội . Tóm lại, điện là một ngành cơ sở hạ tầng có vị trí rất quan trọng trong nền kinh tế quốc dân. Phát triển điện lực có ý nghĩa rất to lớn, đem lại nhiều lợi ích lâu dài như: nâng cao dân trí, góp phần giảm bớt sự gia tăng dân số, tạo nhu cầu tiêu dùng, kích thích sản xuất phát triển... Như vậy, việc phát triển ngành điện ở Việt nam là rất cần thiết. II. Sự cần thiết phải định hướng phát triển ngành điện Việt Nam đến năm 2010. 1. Sự cần thiết phát triển ngành điện: 1.1 Ngành năng lượng phải đối mặt với 4 thách thức chính: Trong quá trình Việt Nam chuyển sang một xã hội công nghiệp hiện đại, ngành năng lượng gặp những thách thức chính sau đây: Trước hết, để đạt được các chỉ tiêu tăng trưởng kinh tế, cung cấp năng lượng phải tăng nhanh hơn GDP 30% (Điện phải tăng nhanh hơn 70%). Để đạt được tốc độ tăng đó, cung cấp năng lượng phải có hiệu quả, đến năm 2010 phải tiết kiệm được 2.788 MW, tức là một nửa công suất lắp đặt hiện nay, và có thể là thông qua các chương trình giảm tổn thất và quản lý cầu. Năng lượng cũng phải được phân bố đều hơn, hiện 80% dân số là ở vùng nông thôn và mức tiêu thụ của họ chỉ chiếm 14% lượng điện được cung ứng. Thứ hai, mặc dù Việt Nam giàu về tài nguyên thiên nhiên, nhưng các nguồn tài chính hạn chế của đất nước đòi hỏi phải lập kế hoạch thận trọng trong lĩnh vực năng lượng. Thứ ba, Việt Nam sẽ phải đầu tư 5,3 - 5,5% GDP, gấp đôi mức của các nước láng giềng Đông Nam á khác vào cơ sở hạ tầng thiết yếu cho năng lượng. Hơn nữa mức và cơ cấu giá của năng lượng phải thay đổi để giải toả bớt những sức ép tài chính ngắn hạn và đảm bảo hiệu quả lâu dài trong các quyết định đầu tư và sử dụng tài nguyên. Hai phần ba lượng đầu tư cần thiết sẽ phải được tài trợ bằng nguồn Hỗ trợ phát triển chính thức (ODA), tín dụng ưu đãi và đầu tư nước ngoài trực tiếp. Phần còn lại sẽ lấy từ nguồn vốn tích lũy nội bộ, nguồn của dân, và bảo lãnh của Chính phủ cho đầu tư của tư nhân. Đầu tư của năng lượng phải được lựa chọn cẩn thận bởi vì qui mô của nó có ảnh hưởng đến khả năng vay nợ nước ngoài của Việt Nam. Thứ tư, thu hút đầu tư nước ngoài sẽ đòi hỏi phải tạo ra được một môi trường kinh doanh thuận lợi, bao gồm cả khuôn khổ pháp lý có tính hỗ trợ. Chính phủ phải sắp xếp lại và hợp lý hoá các doanh nghiệp năng lượng nhà nước, phát triển một hệ thống quản lý, và phối hợp các chính sách năng lượng và đầu tư. Cho đến nay, việc trao đổi thông tin giữa các bộ chủ quản và các doanh nghiệp vẫn chưa được thông thoáng và kịp thời, dẫn đến tình trạng chậm trễ kéo dài và có thể dẫn đến những hậu quả kinh tế bất lợi. 1.2. Đáp ứng nhu cầu năng lượng gia tăng: Nhu cầu về năng lượng sẽ do tăng trưởng kinh tế, công nghiệp hoá, đô thị hoá và toàn cầu hoá thương mại quyết định. Những thay đổi này đòi hỏi phải có cơ sở hạ tầng tốt hơn về điện, đường xá và viễn thông. Ngoài ra, khả năng cạnh tranh quốc tế cũng đòi hỏi phải có năng lượng với chất lượng cao hơn và phục vụ tốt hơn. Mặc dù có những thay đổi lớn trong những năm gần đây, nhưng Việt Nam vẫn là một trong những nước có mức sử dụng năng lượng thấp nhất Châu á. Tiêu thụ năng lượng hiện đại trên đầu người ở Châu á và Mỹ, 1996 Nước Năng lượng hiện đại (tương đương kg dầu) Điện (KWh) Trung Quốc 664 780 ấn Độ 248 420 Indonesia 366 315 Hàn Quốc 2.982 4.174 Malaixia 1.699 2.032 Philippin 316 399 Thái Lan 769 1.294 Việt Nam 144 161 Mỹ 7.819 12.171 (Nguồn: Báo cáo phát triển nhân lực 1997; Ước tính của chuyên gia WB) Năm 1996, ở Việt Nam, tiêu thụ năng lượng hiện đại đầu người tương đương 144 kg quy dầu và tiêu thụ điện năng là khoảng 161 KWh, mức này mặc dù vô cùng thấp song lại phù hợp với mức thu nhập của đất nước. Nếu tăng trưởng GDP hàng năm trung bình là 6% từ năm 1997 đến năm 2001 và 7,5% sau đó, thì tiêu thụ năng lượng hiện đại phải tăng với tốc độ trung bình là 9%/năm. Đến năm 2010, tổng nhu cầu về năng lượng hiện đại sẽ bằng 3 lần mức của năm 1997. Nhu cầu về năng lượng hiện đại ở Việt Nam, 1995 - 2010 Năng lượng 1995 2000 2005 2010 Điện (Triệu KWh) Xăng dầu (Nghìn thùng) Khí thiên nhiên (tỷ m3) Than (nghìn tấn) 14.636 38.144 0,199 5.069 25.706 53.994 2,111 7.166 44.491 79.431 4,663 9.142 77.406 117.841 7,717 11.115 Tổng cộng (nghìn tấn quy dầu) 10.663 16.975 24.267 36.973 (Nguồn : Ước tính của các chuyên gia WB) Theo bảng trên ta thấy: năm 2010 so với năm 1995, nhu cầu về điện sẽ tăng hơn 4 lần. Nhu cầu về các sản phẩm xăng dầu sẽ tăng 2,5 lần. Nhu cầu về khí đốt sẽ tăng gần 10 lần và nhu cầu trong nước về than sẽ tăng gấp đôi. Phát triển ngành năng lượng sẽ vừa hỗ trợ vừa thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Năm 1995, sản xuất và xuất khẩu dầu thô đạt hơn 1 tỷ USD. Xuất khẩu than tăng đáng kể và hiện đem lại khoảng 100 triệu USD doanh thu hàng năm. * Mở rộng khả năng tiếp cận cho người nghèo: Thực tế cho thấy rằng, người tiêu dùng ở nông thôn sử dụng điện chỉ bằng 1/5 người thành thị và phải trả với mức cao gấp đôi. Năm 1996, Tổng Công ty Điện lực Việt Nam đã bán được tổng số là 13.152 tỷ KWh, nhưng chỉ có 14% là đưa đến vùng nông thôn. Do đó, 20% dân số của đất nước tiêu dùng 86% lượng điện. Nếu không có một chương trình điện khí hoá nông thôn mạnh mẽ, thì hố ngăn cách giữa thành thị và nông thôn này sẽ làm tăng thêm những căng thẳng về xã hội và kéo tăng trưởng kinh tế đi xuống. Một chương trình điện khí hoá nông thôn đầy tham vọng đã được thảo ra nhằm cung cấp điện cho 80% số xã cho đến năm 2000, cho tất cả các xã đồng bằng và đến với 60% số hộ nông thôn vào năm 2010. Những đầu tư đó sẽ cần khoảng 3 tỷ USD. Vấn đề đặt ra là giá phải đảm bảo thu hồi được chi phí. Các vùng phải được lựa chọn bằng cách sử dụng các tiêu chuẩn công khai và khách quan, với trọng tâm đặt vào những vùng có tác động lớn. * Tiêu thụ điện sẽ tiếp tục tăng nhanh hơn GDP nhiều. Tiêu thụ điện 1985 - 1995 (Đơn vị tính: GWh) Khu vực 1985 1990 1995 Tốc độ tăng trưởng trung bình năm (1990-1995) % 14,7 10,2 21,1 7,1 Dân cư Công nghiệp Nông nghiệp Thương mại 985 2.108 303 464 2.305 2.845 587 718 4.046 4.619 1.522 1.010 14,7 10,2 21,1 7,1 12,6 Tổng cộng 3.860 6.455 11.197 12,6 Nguồn: Bảo đảm năng lượng cho sự phát triển của Việt Nam Trong những năm 1980 - 1995, lượng điện thương phẩm tăng nhanh hơn GDP thực tế. Mối quan hệ trong giai đoạn này chỉ ra hệ số co giãn trung bình của lượng điện thương phẩm theo GDP là 1,7 - tức là lượng bán điện tăng nhanh hơn 70% so với GDP. Mối quan hệ giữa điện và GDP này là điển hình trong những quốc gia Châu á có thu nhập thấp. Trong những năm 1980 chỉ có Trung Quốc và Mianma có độ co giãn dưới 1,7. Do vậy, nếu nền kinh tế Việt Nam tiếp tục phát triển còn lâu mới đến giai đoạn mà cầu về điện sẽ chậm so với GDP. Trong những năm 1990 - 1995, tiêu thụ điện tăng 12,6%/năm. Nông nghiệp có mức tăng cao nhất ( do xuất phát điểm thấp ) là 21,1%/năm. Nhu cầu điện sinh hoạt có mức tăng đứng cao thứ hai là 14,7%/năm. Nhu cầu điện công nghiệp trước năm 1990 tăng chậm hơn nhiều, nhưng từ đó đã tăng nhanh hơn với tốc độ 10,2%/năm. Lượng điện thương phẩm cho sinh hoạt trong tổng doanh số đã tăng lên và đạt mức 36% năm 1995. Đã tiến hành dự báo cầu về điện công nghiệp, điện sinh hoạt và các mục đích khác ( dịch vụ và nông nghiệp ) trên tất cả 5 vùng phân phối: Hà Nội, nông thôn miền Bắc, miền Trung, thành phố Hồ Chí Minh và nông thôn miền nam. Dự báo độ co giãn cho mỗi tiểu ngành và cho mỗi vùng đã cố gắng dựa trên mối quan hệ lịch sử đối với GDP của ngành. Việc dự báo này áp dụng phương pháp kịch bản. Trong cả ba kịch bản đưa ra - tăng trưởng thấp, kịch bản cơ sở và tăng trưởng cao - giá điện sẽ ở mức ổn định như đầu năm 1998. Dự báo cho kịch bản tăng trưởng thấp và kịch bản cơ sở sử dụng cùng số liệu độ co giãn; kịch bản tăng trưởng cao có độ co giãn thấp hơn chút ít đối với cầu điện sinh hoạt do giả định phát triển thương mại và công nghiệp nhanh hơn. Trong khi các dự báo sử dụng cùng độ co giãn của ngành, độ co giãn tổng lượng bán (so với GDP) là 1,74 cho kịch bản tăng trưởng thấp, 1,68 cho kịch bản cơ sở và 1,64 cho kịch bản tăng trưởng cao. 2. Các yếu tố cơ bản tác động đến nhu cầu tiêu thụ điện năng: Yếu tố chủ yếu ảnh hưởng đến việc tiêu dùng hàng hoá là cầu về nó. Sự thay đổi cầu đối với sản phẩm nào đó sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến tình hình tiêu thụ sản phẩm đó. Cầu là khối lượng hàng hoá mà người mua có khả năng và sẵn sàng mua ở các mức giá khác nhau trong một thời gian nhất định. Sản phẩm của ngành năng lượng nói chung và ngành điện nói riêng rất đặc biệt. Đó là một loại sản phẩm hàng hoá có công dụng kinh tế rộng rãi đối với toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Vì vậy, khi nền kinh tế - xã hội càng phát triển thì nhu cầu tiêu thụ với các loại sản phẩm này sẽ càng tăng. Có thể nói rằng, các nhân tố làm gia tăng sản lượng, các yếu tố ảnh hưởng đến sự phát triển của nền kinh tế quốc dân nói chung sẽ ảnh hưởng đến nhu cầu tiêu thụ điện năng. Nhưng nhìn chung lại, những yếu tố cơ bản có tác động mạnh mẽ làm tăng nhu cầu sử dụng điện năng trên thị trường hàng hoá có thể kể ra như sau: 2.1. Sự phát triển của sản xuất cả chiều rộng và chiều sâu: Nói chung, sự phát triển của sản xuất, theo chiều rộng hay chiều sâu đều làm tăng nhu cầu tiêu thụ điện. Đây là một điều hiển nhiên và dễ thấy, khi sản xuất phát triển, lao động thủ công của con người dần được thay thế bởi các máy móc thiết bị... với công nghệ sản xuất tiên tiến. Điều này đã làm tăng nhu cầu tiêu thụ điện để phục vụ cho các quá trình sản xuất đó. Nhưng ngược lại, điện phát triển lại tạo tiền đề và là nguồn lực cho sự ra đời các phát minh khoa học công nghệ nhằm phục vụ cho quá trình sản xuất. Hai quá trình này tuy trái ngược nhau nhưng lại có mối quan hệ chặt chẽ với nhau và cùng thúc đẩy sự phát triển chung của nền kinh tế xã hội. Vì điện là một trong những ngành cung cấp năng lượng cho mọi hoạt động của nền kinh tế quốc dân, nên mọi sự tăng lên trong tổng sản lượng đầu ra của nền kinh tế đều ảnh hưởng lớn đến nhu cầu tiêu thụ điện. Chính vì thế nên khi sản xuất phát triển đều làm cho sản lượng của nền kinh tế tăng lên, tức là cũng đã làm tăng nhu cầu tiêu thụ điện. Mặt khác, ta lại thấy, một nền kinh tế được gọi là phát triển tức là phải có tỷ trọng của ngành công nghiệp và dịch vụ cao trong cơ cấu kinh tế. Nhưng đây lại chính là những ngành có nhu cầu sử dụng năng lượng nhiều hơn cả. Năm 2000, nhu cầu sử dụng điện cho sản xuất công nghiệp chiếm 41,6% tổng nhu cầu tiêu thụ (8.908 triệu KWh/21.394 triệu KWh). Vậy, khi sản xuất phát triển nhằm thúc đẩy sự phát triển chung của nền kinh tế, thì nhu cầu tiêu thụ năng lượng, đặc biệt là nhu cầu về điện sẽ ngày càng tăng. 2.2 Mức sống của dân cư: Đây là yếu tố quan trọng ảnh hưởng tới cầu. Nó là một biến số của hàm cầu, quyết định khả năng thanh toán. nếu mức sống của dân cư ngày càng cao thì nhu cầu tiêu thụ điện ngày càng nhiều hơn. Đó là một điều hiển nhiên và dễ thấy. Khi mức sống của người dân được nâng cao, nhu cầu giải trí và sinh hoạt xã hội của họ được nâng lên, đời sống dần dần được cơ khí hoá và tự động hoá bằng các máy móc, thiết bị như vô tuyến, máy giặt, máy điều hoà nhiệt độ... Tất cả các dịch vụ đó đều làm tăng nhu cầu tiêu thụ điện năng. 2.3 Sự gia tăng dân số: Hiển nhiên thấy rằng sự gia tăng dân số có ảnh hưởng lớn đến sự tăng trưởng và phát triển kinh tế xã hội. Những nước có tốc độ tăng trưởng dân số cao thường là những nước kém phát triển, đời sống của nhân dân còn nghèo đói và lạc hậu. Các nước phát triển đều có mức tăng dân số tự nhiên dưới 2%/năm, còn các nước kém phát triển đều có mức tăng trên 2%/năm. Dân số gia tăng hạn chế sự tăng trưởng và phát triển kinh tế xã hội nói chung, do đó hạn chế tốc độ phát triển của ngành điện nói riêng. Nhưng sự gia tăng dân số lại kéo theo sự tăng lên trong nhu cầu sử dụng điện. Chính vì vậy mà ở những nước kém phát triển, tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế so với nhu cầu tiêu thụ điện có khoảng chênh lệch khá xa. Ngay như nước ta - một nước đang trên đà phát triển, giai đoạn 1996 - 2000, mặc dù tốc độ tăng trưởng kinh tế khá cao 6,7%/năm, nhưng vẫn là thấp hơn rất nhiều so với sự tăng lên trong nhu cầu tiêu thụ điện. Để rút bớt khoảng cách đó, nhằm tạo nguồn lực cho ngành điện phát triển, nhà nước cần có các chính sách nhằm hạn chế sự gia tăng dân số và thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế xã hội. Chương II Thực trạng hoạt động sản xuất kinh doanh của ngành điện Việt Nam I. Quá trình hình thành và phát triển ngành điện Việt Nam 1. Sơ lược quá trình hình thành và phát triển Ngành điện lực Việt Nam được thành lập ngày 15/8/1954. Nhìn lại chặng đường đã qua, ngành đã có những bước trưởng thành và không ngừng phát triển. Những năm tháng mới tiếp quản miền Bắc (1954 - 1955), ngành điện đã vật lộn với những khó khăn thử thách: Các nhà máy nhiệt điện lạc hậu, tổng công suất đạt không quá 30 MW, sản lượng điện khoảng 50 triệu KWh với vài trăm kilomet đường dây 30,5 KV. Từ đó, ngành điện đã chèo chống, khôi phục, hàn gắn vết thương chiến tranh bằng những nỗ lực của chính mình. Cải tạo, mở rộng, xây dựng một số nhà máy điện và đường dây tải điện mới (35 KV). Các nhà máy điện Vinh (8 MW), Lào Cai (8 MW), Việt Trì (16 MW), Thái Nguyên (24 MW) ra đời đón chào kế hoạch 5 năm lần thứ nhất (1961-1965). Tiếp đó phải đối phó với chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ (1964-1972). ở miền Bắc, hầu khắp các cơ sở điện lực là chiến trường: thế nhưng ta vẫn tiếp tục xây dựng, mở rộng các nhà máy điện mới: nhiệt điện Uông Bí ( từ 48 MW lên 153 MW ), Ninh Bình (100 MW), thuỷ điện Thác Bà (108 MW). ở miền Nam, sau đại thắng mùa xuân 1975, ta vào tiếp quản đã nhanh chóng củng cố các cơ sở điện lực, khôi phục đường ống thuỷ áp của thuỷ điện Đa Nhim và gần 200km đường dây 250KV từ Đa Nhim về Sài Gòn. Đến cuối năm 1975, công suất điện toàn quốc đạt 1.326,3MW, sản lượng điện 2,98 tỷ KWh với 15.390,2 km đường dây tải điện các loại. Tuy nhiên, hầu hết các cơ sở điện lực ở giai đoạn này đều xuống cấp nghiêm trọng do hậu quả của chiến tranh và yếu kém về quản lý. Trong công cuộc đổi mới, được Đảng lãnh đạo, Nhà nước quan tâm, bạn bè trên Thế giới và khu vực, đặc biệt là Liên Xô (Nga) cổ vũ, giúp đỡ, ngành điện đã vượt qua nhiều khó khăn trở ngại, xây dựng các định hướng chiến lược, quy hoạch và phát triển dài hạn, hệ thống điện lực trên cơ sở sự báo nhu cầu tiêu thụ điện năng gắn với cân bằng tổng thể năng lượng nhiên liệu quốc gia. Ngành điện đã trải qua bốn giai đoạn đầy thách thức trong việc xây dựng và thực hiện các tổng sơ đồ phát điện: Tổng sơ đồ phát triển giai đoạn I (1981 - 1985). Tổng sơ đồ phát triển giai đoạn II (1986 - 1990). Tổng sơ đồ phát triển giai đoạn III (1991 - 1995). Tổng sơ đồ phát triển giai đoạn IV (1996 - 2000). Ngày 01/01/1995, Tổng công ty Điện lực Việt Nam được thành lập, kế tục sự nghiệp vinh quang của ngành năng lượng Việt Nam. Tổng Công ty có trọng trách quản lý, điều hành toàn bộ nguồn và lưới điện toàn quốc. Bước sang cơ chế thị trương có sự quản lý của Nhà nước, Tổng Công ty tự lo cân đối tài chính, hạch toán kinh tế, tự trang trải nhằm bảo toàn và phát triển vốn, phấn đấu trở thành một tập đoàn kinh tế mạnh của Nhà nước. Nhiều nguồn mới, hiện đại như: Nhiệt điện Phả Lại (440 MW), thuỷ điện Hoà Bình (1920 MW), Trị An (400 MW), Thác Mơ (150 MW), Vĩnh Sơn (60 MW), tua-bin khí Bà Rịa (gần 300 MW)... và hàng vạn km đường dây cao, trung, hạ thế đã được xây dựng và đưa vào vận hành có hiệu quả. Đặc biệt là công trình tải điện 500 KV Bắc Nam xây dựng từ thàng 4/1992 đến tháng 11/1994 đã đưa vào hoạt động an toàn, thực hiện hợp nhất hệ thống điện toàn quốc, khắc phục được tình trạng mất cân đối giữa nguồn và lưới, giữa nguồn và các phụ tải. 2. Hệ thống tổ chức ngành điện Việt Nam: Tổng Công ty Điện lực Việt Nam là một doanh nghiệp lớn của Nhà nước được thành lập ngày 01/01/1995, bao gồm nhiều doanh nghiệp thành viên và dơn vị sự nghiệp hoạt động trong phạm vi cả nước về chuyên ngành sản xuất và kinh doanh điện và một số lĩnh vực sản xuất, dịch vụ khác liên quan đến ngành điện. Tổng Công ty chịu trách nhiệm đầu tư để phát triển ngành công nghiệp điện, tổ chức sản xuất và sinh hoạt để phù hợp với yêu cầu và định hướng chiến lược phát triển kinh tế xã hội của đất nước và theo nhiệm vụ được Thủ tướng Chính Phủ giao trong từng thời kỳ kế hoạch. Gắn với nhiệm vụ này, Tổng Công ty có cơ cấu tổ chức khá chặt chẽ từ trên xuống bao gồm: 1) Hội đồng quản trị. 2) Tổng giám đốc. 3) Các đơn vị thành viên của Tổng Công ty. II. Một số yếu tố nguồn lực của công nghiệp điện Việt Nam 1. Các cơ sở sản xuất điện năng ở Việt nam Mạng lưới nhà máy điện: Theo báo cáo kiểm điểm thực hiện kế hoạch năm 2000 và phương hướng nhiệm vụ kế hoạch năm 2001 của Tổng Công ty điện lực Việt Nam: Điện sản xuất Ước thực hiện năm 2000 và kế hoạch năm 2001 Đơn vị: Triệu KWh kế hoạch Năm 2000 (Điều chỉnh) Ước thực hiện năm 2000 Kế hoạch năm 2001 % so sánh Năm so KH năm 2000 2001 so TH năm 2000 A 1 2 3 4 = 2/1 5 = 3/2 A- Tổng điện s.xuất+mua 26.230,00 26.575,70 30.000,00 101,32 112,89 I - Điện sản xuất 24.300,00 24.919,30 27.700,00 102,55 111,16 Nhà máy + Thuỷ điện 13.969,00 14.568,44 15.516,50 104,29 106,51 Hoà Bình 8.100,00 8.083,51 7.530,00 99,80 93,15 Thác Bà 320,00 334,75 370,00 104,61 110,53 Trị An 1.980,00 2.220,45 1.680,00 112,14 75,66 Đa Nhim 1.230,00 1.335,66 1.040,00 108,59 77,86 Thác Mơ 860,00 938,61 610,00 109,14 64,99 Vĩnh Sơn 320,00 353,30 280,00 110,41 79,25 Yaly 855,00 943,92 2.730,00 110,40 289,22 Sông Hinh 160,00 212,20 320,00 132,62 150,80 Hàm Thuận 520,00 Đa Mi 280,00 *Thuỷ điện nhỏ 144,50 146,03 156,50 101,06 107,17 CT Điện Lực 1 46,50 48,59 45,50 104,49 93,64 CT Điện Lực 2 23,00 27,22 20,00 118,35 73,47 CT Điện Lực 3 75,00 70,22 91,00 93,63 129,59 +Nhiệt điện than 3.070,00 3.119,67 4.640,00 101,62 148,73 Phả Lại 2.120,00 2.141,27 2.090,00 101,00 97,61 Phả Lại 2 1.570,00 Uông Bí 420,00 426,94 480,00 101,65 112,43 Ninh Bình 530,00 551,46 500,00 104,05 90,67 + Nhiệt điện dầu 1.110,00 1.133,53 1.080,00 102,12 95,28 Thủ Đức 950,00 952,47 880,00 100,26 92,39 Cần Thơ 160,00 181,07 200,00 113,17 110,46 +Tuabin khí (chạy khí) 4.000,00 4.064,26 4.645,00 101,61 114,29 Bà Rịa 1.240,00 1.263,23 1.705,00 101,87 134,97 Phú Mỹ 2-1 2.760,00 2.801,23 1.030,00 101,49 36,77 Phú Mỹ 1 1.910,00 +Tua bin khí (chạy dầu) 1.649,00 1.494,38 1.265,00 90,62 84,65 Thủ Đức 320,00 316,03 235,00 98,76 74,36 Bà Rịa 179,00 182,26 60,00 101,82 32,92 Cần Thơ 450,00 448,42 235,00 99,65 32,41 Phú mỹ 2-1 580,00 547,68 415,00 94,43 75,77 Phú Mỹ 1 120,00 320,00 + Đuôi hơi 270,00 298,62 420,00 110,60 140,65 Bà Rịa 306-1 305,00 Phú Mỹ 1 115,00 + Điezel 231,50 240,39 133,50 103,84 55,54 Cần Thơ 40,50 45,23 0,00 111,69 0,00 CT Điện lực 1 3,50 3,64 3,50 103,93 96,22 CT Điện lực 2 48,00 47,73 50,00 99,43 104,76 CT Điện lực 3 73,00 73,79 50,00 101,08 67,76 CT ĐL TP Hồ Chí Minh 55,00 59,05 20,00 107,36 33,87 CT ĐL Đồng Nai 11,50 10,96 10,00 95,26 91,28 II-Điện mua ngoài 1.930,00 1.656,40 2.300,00 85,82 138,86 Hiệp Phước 1.600,00 1.473,00 1.650,00 92,06 112,02 Khác 330,00 183,40 650,00 55,58 354,41 Nguồn: Tổng Công ty Điện lực Việt Nam Nhận xét về mạng lưới nhà máy điện ở Việt Nam: theo kế hoạch năm 2001: Tổng điện sản xuất và điện mua đạt 30,0 tỷ Kwh. Bao gồm: * Điện sản xuất của Tổng Công ty điện lực Việt Nam : 27,7 tỷ kwh - Thủy điện : 15.516,5 triệu kwh - Nhiệt điện than : 4.640,0 triệu kwh - Nhiệt điện dầu : 1.080,0 triệu kwh - Tua bin khí chạy khí : 4.646,0 triệu kwh - Tua bin khí chạy dầu : 1.265,0 triệu kwh - Diesel : 133,5 triệu kwh - Đuôi hơi : 420,0 triệu kwh * Điện mua ngoài : 2,3 tỷ triệu kwh Về sản xuất và cung ứng điện năng: Thực hiện nghiêm phương thức huy động các tổ lò máy, đảm bảo các nguồn điện vận hành ổn định, hạn chế tối đa các sự cố để sẵn sàng huy động thiết bị với công suất và sản lượng cao, đáp ứng nhu cầu của phụ tại. Có phương án huy động nguồn hợp lý, vận hành tối đa các nguồn thuỷ điện trong mùa mưa, hạn chế huy động các nguồn điện dầu để giảm chi phí giá thành điện sản xuất. Theo số liệu ở trên ta thấy: Các nhà máy thuỷ điện có tổng công suất chiếm tỷ lệ cao nhất (51,72% tổng điện sản xuất và điện mua). Tiềm năng về thuỷ điện rất rồi dào. Đây là một trong những thế mạnh của ngành điện Việt Nam. Như vậy, ngoài lượng điện sản xuất của Tổng Công ty điện lực Việt Nam (chiếm 92,33% tổng điện sản xuất và điện mua), còn lại 7,6% là điện mua ngoài. 2. Nguồn lực lao động. Lao động là yếu tố quan trọng của quá trình sản xuất. Hiện nay toàn Tổng công ty Điện lực Việt Nam có 68.000 lao động, trong đó khối sản xuất kinh doanh điện có 55.000 người, các khối khác 13.000 người. Cơ cấu lao động của một ngành luôn phải đảm bảo cả về số lượng, chất lượngvà được sắp xếp sử dụng một cách hợp lý. Sau 47 năm hình thành và phát triển, ngành điện lực đã có một đội ngũ cán._. bộ khoa học kỹ thuật, cán bộ quản lý, kỹ sư, công nhân, khá lớn mạnh, đội ngũ lao động này có truyền thống đấu tranh cách mạng kiên cường, dũng cảm và sáng tạo trong sản xuất từ chỗ yếu kém về trình độ sản xuất, năng lực quản lý, thiếu kiến thức và kinh nghiệm trong kinh doanh thương mại, nay đã vươn lên có đủ trình độ, năng lực về quản lý vận hành hệ thống điện lực Việt Nam, nghiên cứu và lập các phương án, chiến lược, quy hoạch và xây dựng chính sách phát triển năng lượng quốc gia. Tóm lại, với đội ngũ cán bộ khoa học, công nhân kỹ thuật lành nghề, ngành điện lực đã làm chủ được công nghệ sản xuất, thích nghi dần với cơ chế thị trường và góp phần to lớn vào sự nghiệp phát triển kinh tế xã hội của đất nước. 3.Cơ sở vật chất và công nghệ của ngành: Công nghệ sản xuất là một yếu tố có tác động mạnh tới sản xuất. Theo đánh giá của Bộ Khoa học Công nghệ và Môi trường thì trình độ công nghệ của nước ta lạc hậu so với các nước tiên tiến nhất của thế giới. Trình độ công nghệ lạc hậu tới mức được đánh giá là gánh nặng của đất nước trên con đường công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập vào nền kinh tế thế giới và khu vực. Với ngành điện lực Việt Nam: các thiết bị của các nhà máy điện và lưới điện phần lớn là của liên xô (cũ) và các nước đông âu trước đây. nhiều nhà máy có mức độ tự động hoá thấp, thiết bị đo lường và kiểm tra chất lượng điện năng độ chính xác thấp đã làm tăng đáng kể suất tiêu hao nhiên liệu để sản xuất điện cũng như làm tăng tỷ lệ tổn thất điện năng trong quá trình truyền tải và phân phối điện. Do trình độ công nghệ thấp nên chất lượng điện ( tần số, điện áp ) chưa cao, lưới điện hay xảy ra sự cố làm cho việc cung cấp điện không đảm bảo liên tục Mặt khác, trình độ công nghệ thấp còn có ảnh hưởng không nhỏ đến môi trường. Trong tương lai, cùng với sự phát triển của nền kinh tế, ngành điện cần phải đổi mới công nghệ nhằm nâng cao năng lực sản xuất, đáp ứng nhu cầu và chất lượng điện cho sự phát triển của đất nước. 4 Tình hình các yếu tố đầu vào trong sản xuất điện năng: 4.1 Các nguồn đầu vào Vấn đề nguồn vốn Ngành điện là ngành công nghiệp đòi hỏi nguồn vốn rất lớn. Khác với các ngành khác, ở ngành điện, hầu như thiết bị và các loại vật tư thiết bị đều phải nhập ngoại bởi trong nước chưa tự sản xuất được. Vì vậy, vấn đề nguồn vốn đối với ngành điện là một vấn đề nan giải. Hiện nay, Tổng Công ty Điện lực Việt Nam có một số vốn khá lớn nhưng so với nhu cầu phát triển của ngành thì còn nhỏ. Nhu cầu vốn đầu tư của ngành điện trung bình từ 1-1,5 tỷ USD/năm, với tỷ lệ sinh lợi và tự cấp vốn thấp, đặc biệt vào giai đoạn đầu của thời kỳ quy hoạch. Vì thế, để giảm bớt gánh nặng đầu tư, tạo điều kiện cho ngành điện kinh doanh, Nhà nước đã cho phép ngành điện được hưởng các chính sách ưu đãi về thuế, lãi suất, về các hình thức đầu tư trong đó có xem xét đến khả năng đầu tư trực tiếp của nước ngoài (FDI) dưới dạng BOT, BTO, BT hoặc liên doanh, liên kết với nước ngoài. Mặt khác, Nhà nước cũng cho phép ngành điện được để lại toàn bộ phần khấu hao cơ bản tài sản cố định để tái đầu tư. Tổng Công ty Điện Lực Việt nam đã xây dựng và trình Chính phủ chiến lược giá điện đến năm 2005, nhưng tiến trình áp dụng như thế nào vừa để người tiêu dùng chấp nhận được phù hợp với mức thu nhập của người dân, vừa đảm bảo ngành điện kinh doanh có lãi là vấn đề hết sức bức xúc. Tiếp tục đầu tư tăng nguồn điện, không để tình trạng thiếu điện xảy ra đòi hỏi phải có giải pháp tích cực về vốn. Từ nay đến năm 2010, ngành điện không được thuận lợi như trước, vì vậy rất cần các Bộ, ngành tham gia hỗ trợ giúp cho ngành điện vượt qua những khó khăn thử thách đang đặt ra. 4.2 Thực trạng và khả năng cung cấp * Các nguồn Vốn đầu tư cho ngành điện : - Năm 1998, Tổng vốn đầu tư ước thực hiện là 10.467,059 tỷ đồng, bằng 87,96% so với kế hoạch điều chỉnh năm 1998. Phân theo nguồn vốn: + Vốn vay nước ngoài: 5.005,660 tỷ đồng, bằng 95,87% so với kế hoạch năm. + Vốn Ngân sách cấp: 15,00 tỷ đồng, bằng 100% kế hoạch năm. + Vốn vay tín dụng: 1.622,526 tỷ đồng, bằng 84,34% kế hoạch (kể cả phần vốn còn của năm 1997 chuyển sang ) + Vốn Khấu hao cơ bản: 3.441,218 tỷ đồng, bằng 85,06% kế hoạch năm ( kể cả phần vốn còn của năm 1997 chuyển sang và vốn trả nợ). + Vốn đầu tư phát triển: 365,320 tỷ đồng bằng 90,16% kế hoạch. + Vốn khác: 17,335 tỷ đồng, bằng 6,00% kế hoạch. - Năm 1999: + Vốn vay nước ngoài sẽ huy động vào đầu tư cho năm 1999 là: 7.013 tỷ đồng thực hiện đến 31/12/1999 là 6.448 tỷ đồng. + Vốn vay tín dụng Nhà nước đã giao cho các chương trình của năm 1999 là 2462 tỷ đồng /2944 tỷ đồng của nhà nước cho vay năm 1999. + vốn khấu hao cơ bản: 3.877 tỷ đồng, kể cả phần chuyển tiếp từ năm 1998 sang, ước thực hiện đến 31/12/1999 đạt được 3.027 tỷ đồng. - Năm 2000: Bảng: Ước thực hiện vốn đầu tư năm 2000 phân theo các nguồn vốn: Đơn vị: Triệu đồng Kế hoạch năm 2000 Ước thực hiện năm 2000 % thực hiện so với kế hoạch Tổng số 14.856.809 13.671.288 92.02 A. Vốn vay nước ngoài 8.637.166 8.518.890 98,63 B. Vốn trong nước: 6.219.643 5.152.398 82,84 1- Vốn khấu hao cơ bản 3.720.140 3.603.315 96,86 - Vốn KHCB đầu tư XD 2.220.140 2.103.315 94,74 - Vốn KHCB trả nợ vay 1.500.000 1.500.000 100,00 2- Vốn vay tín dụng 2.409.930 1.470.421 61,02 3- Vốn khác 89.573 78.662 87,82 Nguồn: Báo cáo kiểm điểm thực hiện kế hoạch năm 2000 và phương hướng nhiệm vụ kế hoạch 2001. Năm 2001: Tổng số kế hoạch Vốn đầu tư xây dựng: 16.295,0 tỷ đồng Phân theo nguồn vốn: - Vốn vay nước ngoài: 5.941.491 triệu đồng. - Vốn trong nước: 10.353.409 triệu đồng trong đó: Vốn Khấu hao cơ bản: 5.316.339 triệu đồng Vốn Vay tín dụng: 4.872.756 triệu đồng Nguồn vốn khác: 46.076 triệu đồng Vốn còn năm 2000 chuyển sang: 118.338 triệu đồng III. Phân tích thực trạng phát triển ngành điện lực Việt Nam (1996 - 2000) 1.Giới thiệu sơ qua về Tổng Sơ đồ giai đoạn IV (1996 - 2000): Toàn ngành Điệnlực đã vượt qua nhiều khó khăn trở ngại hoàn thành thắng lợi mục tiêu ba giai đoạn của Tổng sơ đồ phát triển Hệ thống Điện Quốc gia. Đến giai đoạn IV này, theo phương châm: “ Nhà nước và nhân dân, Trung ương và địa phương cùng làm” nhằm phát huy nội lực, đồng thời tranh thủ mọi khả năng về vốn bằng quan hệ hợp tác quốc tế, đầu tư của nước ngoài để phát triển nguồn và lưới điện. Một số nguồn điện mới đã và đang xây dựng thêm trong giai đoạn IV, đó là: Nhà máy điện tua bin khí Phú Mỹ 2/1 công suất 300MW được khởi công đầu năm 1997 và đưa vào vận hành tháng 4/1998. Đây là lần đầu tiên các tổ tua bin khí có công suất lớn 150 MW vận hành bằng khí được sử dụng ở Việt Nam. Nhà máy nhiệt điện Cần Thơ mở rộng 150MW, tăng cường đáng kể nguồn điện cho vùng đồng bằng sông Cửu Long. Nhà máy điện Bà Rịa, với công nghệ cao đã tăng thêm công suất và điện năng phát mà không phải tốn thêm nhiên liệu. Từ khi Hệ thống truyền tải điện 500 KV Bắc - Nam đưa vào vận hành, có nhiêù dạng năng lượng như thuỷ điện, nhiệt điện chạy than, dầu, khí...Điều này đã thể hiện tính ưu việt trong vai trò liên kết hệ thống điện quốc gia. Điện không những đã cung ứng đủv theo yêu cầu sản xuất công nghiệp, mà trong giai đoạn này, ngành điện còn mở rộng nhanh mạng lưới điện để đưa điện phục vụ nông thôn, miền núi. 2. Đánh giá tình hình thực hiện 2.1. về phát triển nguồn điện Theo Tổng sơ đồ IV, để đảm bảo cung cấp điện cho phụ tải năm 2000 và sau năm 2000 cần xây dựng 19 nhà máy điện, tổng công suất 6.784,5 MW, trong đó Tổng Công ty Điện lực Việt Nam đầu tư 10 nhà máy, với tông công suất 4.127,5 MW; đầu tư theo hình thức xây dựng - kinh doanh - chuyển giao (BOT) 5 nhà máy, tổng công suất 2.100 MW và các nguồn điện độc lập là 557 MW. Trong giai đoạn 1996á2000, các công trình nguồn điện đều chậm so với tiến độ đề ra nên mùa khô các năm 1997, 1998 bị thiếu công suất. Riêng năm 1999, do nhịp độ tăng trưởng phụ tải giảm so với giai đoạn 1997 á 1998, tại các nhà máy thuỷ điện nước lại về sớm hơn nên tình trạng cắt điện không xảy ra.Tiến độ đưa vào vận hành và dự kiến của các công trình nguồn cụ thể như sau: Các dự án nguồn điện của Tổng Công ty Điện Lực Việt nam: Tổng Công ty Điện Lực Việt nam đã và đang xây dựng 9 nhà máy với tổng công suất khoảng 4100 MW. Tính đến hết năm 2000, Tổng Công ty Điện lực Việt Nam đã và đang xây dựng 9 nhà máy và đưa vào vận hành với tổng công suất 1.961,5 MW, sẽ đưa vào sản xuất năm 2001 - 2003 với tổng công suất 2.141 MW. Các dự án BOT: Trong giai đoạn này, Chính phủ cho phép xây dựng 5 nhà máy điện BOT, các nguồn điện độc lập đưa vào vận hành trong kế hoạch phát triển nguồn điện 1996 - 2000 nhưng đến nay chưa có công trình nào được xây dựng. Các nguồn điện độc lập: Hiện nay, tại một số khu công nghiệp đã xây dựng nguồn điện độc lập với tổng công suất khoảng 554 MW. Nhìn chung, các nguồn này được xây dựng chủ yếu để cấp điện cho nhu cầu tại chỗ và có đấu nối trao đôi mua bán điện với Hệ thống điện Quốc gia. Theo ước tính của các chuyên gia Ngân hàng Thế giới (WB), sau năm 2000, nhu cầu về khí cho phát điện dự kiến sẽ lên tới 0,3 tỷ m3/năm. Chậm trễ một năm trong việc xây dựng đường ống dẫn khí Nam Côn Sơn buộc phải thay thế số điện thiếu hụt từ các nhà máy phát điện chạy khí bằng máy phát điện chạy diesel hoặc tua-bin khí dùng diesel. Chi phí khả biến cho máy phát điện chạy diesel cao hơn phát điện dùng tua-bin khí chu trình hỗn hợp là 4,5 cents Mỹ/KWh. Ngoài ra, chậm xây dựng đường ống một năm sẽ làm mất ít nhất 1.500GWh điện phát ra từ một nhà máy tua-bin khí chu trình hỗn hợp. Hơn nữa, khí cung cấp từ đường ống mới trong năm đầu vận hành có khả năng ít nhất bằng gấp hai khối lượng này (tức là 0,6 tỷ m3). Những yếu tố này có thể làm tăng chi phí của một năm chậm trễ lên tới gần 140 triệu USD. 2.2. Về thực hiện xây dựng lưới điện l Các công trình điện 500 KV: Tiến độ đưa vào đều chậm 1-2 năm so với dự kiến. Trạm biến áp 500 KV Hà Tĩnh có khả năng đến cuối năm 2001 mới đưa vào vận hành được Công trình đường dây 500KV Pleiku-Phú Lâm đồng bộ với thuỷ điện Yaly đến cuối năm 2001 sẽ đưa vào toàn bộ, nhưng công trình đường dây có thể phải giữa năm 2003 mới đưa vào được. l Lưới điện 220-110 KV: Các công trình lưới điện truyền tải 220-110 KV dự kiến xây dựng trong giai đoạn 1996á2000 theo Tổng sơ đồ giai đoạn IV đã được triển khai trong thời gian qua với khối lượng khá lớn. Nếu tính tất cả các công trình đang xây dựng để đến cuối năm 2000 vào vận hành thì khối lượng đạt khoảng 75% so với tổng khối lượng đã được phê duyệt. Nhiều công trình không được phê duyệt vì chưa có nhu cầu phụ tải như các khu chế xuất, khu công nghiệp tập trung. l Lưới điện phân phối (trung và hạ áp) đã được chú trọng phát triển nhưng chưa đáp ứng được nhu cầu tiêu thụ điện. Lưới bị quá tải ở nhiều khu vực, nhiều nơi lưới phân phối cũ nát nhưng chưa được cải tạo nâng cấp vì thiếu vốn đầu tư. Nhìn chung, lưới điện truyền tải và phân phối phát triển không đồng bộ với nguồn điện, chưa đáp ứng được nhu cầu tăng trưởng của phụ tải. 2.3. Về công tác khoa học công nghệ và bảo vệ môi trường Ngành điện luôn cố gắng thực hiện đầy đủ các quy định về môi trường. Đối với một số nhà máy nhiệt điện cũ, không bảo đảm các chỉ tiêu về bảo vệ môi trường, Tổng Công ty đã tiến hành cải tạo nâng cấp, bổ sung các thiết bị bảo vệ môi trường như lắp các bộ khử bụi ở các nhà máy nhiệt điện chạy than, xử lý nước thải của các nhà máy nhiệt điện; có kế hoạch điều tra, đánh giá hiện trạng của cá c công trình điện, trước hết là các nhà máy nhiệt điện để tiến hành nâng cấp, cải tạo nhằm nâng cao hiệu suất và cải thiện các chỉ tiêu bảo vệ môi trường. 3. Thực trạng tiêu thụ điện năng Trong những năm qua, sản lượng điện cung cấp cho các ngành kinh tế và sinh hoạt của nhân dân không ngừng tăng lên, tốc độ tăng trưởng bình quân giai đoạn 1996 á 2000 khoảng 14,3%. Năm 2000, lượng điện thương phẩm toàn quốc gần 21,862 tỷ KWh, Tốc độ tăng trưởng điện thương phẩm trong giai đoạn 1996 á 1999 bình quân đạt 14,3%/năm, cao hơn giai đoạn 1991 - 1995 (12,6%). Qua quá trình thực hiện, thực tế tiêu thụ điện thấp hơn so với phương án phụ tải cơ sở dự báo trong Tổng sơ đồ giai đoạn IV, nguyên nhân chủ yếu là do tiêu thụ điện trong ngành công nghiệp tăng chậm vì sản xuất công nghiệp trì trệ, phát triển không theo mong muốn, nhiều khu công nghiệp tập trung, khu chế xuất đã dự kiến không được triển khai hoặc triển khai chậm. Mặt khác, do nguồn vốn và lưới điện phát triển không đúng tiến độ dự kiến nên hạn chế một phần nhu cầu cung cấp điện cho ngươì tiêu thụ. Trong cơ cấu tiêu thụ điện, tỷ trọng điện cung cấp cho sinh hoạt gia đình tăng dần từ 45,9% năm 1996 lên 51,3% năm 1999, tới năm 2000 dự kiến là 48,9%, trong khi đó, tỷ trọng điện công nghiệp giảm từ 41,3% năm 1995 xuống còn 38,7% năm 1999, năm 2000 ước là 40,9%. Cơ cấu tiêu thụ điện giai đoạn 1996 - 2000 TT Cơ cấu tiêu thụ điện 1996 1997 1998 1999 2000 1 Công nghiệp (GWh) 5.503 6.163 6.781 7.568 8.948 Tỷ trọng (%) 41,1 40,3 38,4 38,7 40,9 2 Nông nghiệp (GWh) 643 691 715 574 467 Tỷ trọng (%) 4,8 4,5 4,0 3,0 2,1 3 ánh sáng sinh hoạt gia dụng (GWh) 6136 7.221 8.849 10.034 10.685 Tỷ trọng (%) 45,9 47,2 49,7 51,3 48,9 4 Tiêu thụ điện khác (phi công nghiệp , dịch vụ, vận tải ) (GWh) 1. 092 1.228 1.380 1.374 1.762 Tỷ trọng (%) 8,2 8,0 7,9 7,0 8,1 5 Tổng điện thương phẩm (GWh) 13.374 15.303 17.725 19.550 21.862 Tăng trưởng (%) 19,6 14,4 15,8 10,3 11,8 6 Bình quân đầu người (KWh/năm) 177 200 233 255 275 7 Tỷ lệ tổn thất điện năng(%) 19,3 18,2 6,09 15,33 15,00 ( Nguồn: Vụ tổng hợp - Bộ Kế hoạch và Đầu tư) Do cơ cấu tiêu thụ điện như trên, chênh lệch công suất giữa cao và thấp điểm lớn tới 2 - 3 lần, làm cho việc vận hành hệ thống điện rất khó khăn và không kinh tế, đồng thời tạo nên sức ép lớn về đầu tư nguồn và lưới điện chỉ để đáp ứng nhu cầu phụ tải trong 3 - 4 giờ cao điểm. Số lượng khách hàng ký hợp đồng mua bán điện trực tiếp với Tổng Công ty Điện lực Việt Nam đã tăng từ 1.923.839 khách hàng năm 1995 tới 3.193.806 khách hàng tại thời điểm tháng 5/2000, bình quân mỗi năm tăng 253.993 khách hàng. 4. Kết quả hoạt động tài chính: So với các ngành khác, ngành điện có thuận lợi hơn, không phải cạnh tranh về thị trường, không cần quảng cáo sản phẩm của mình. Nhưng điều đó cũng tạo ra những tồn tại yếu kém của ngành, một ngành được coi là độc quyền. Từ năm 1999 đến nay, tình hình sản xuất kinh doanh của Tổng Công ty năm nào cũng có lãi, năm 1999 lãi 2004 tỷ đồng. Đồng thời, Tổng Công ty đã luôn thực hiện đủ nghĩa vụ Ngân sách Nhà nước, năm 1999 nộp 2086 tỷ đồng. Vốn kinh doanh được bảo toàn và phát triển từ năm 1999 là 22.274 tỷ đồng, đến năm 2000 ước lãi đạt khoảng 800 tỷ đồng. Chỉ tiêu 1996 1997 1998 1999 2000 -Tỷ suất lợi nhuận trên vốn (%) -Tỷ lệ tự đầu tư (%) -Tỷ lệ thanh toán nợ (lần) 6,23 51,0 13,0 8,51 37,4 7,2 7,15 26,5 3,6 8,28 27,9 3,48 9,31 28,4 3,21 Nguồn: Vụ tổng hợp - Bộ Kế hoạch và Đầu tư Có thể nói, hoạt động sản xuất kinh doanh của ngành điện chưa cao. Mặc dù ngành hoạt động rất tích cực và có lãi nhưng tỷ lệ lợi nhuận trên vốn - một chỉ tiêu tài chính rất quan trọng để đánh giá một doanh nghiệp hoạt động có hiệu quả thực sự hay không thì rất thấp. Từ năm 1995 trở lại đây, do yêu cầu của công cuộc đổi mới, Nhà nước đã cho phép ngành điện tự lo cân đối tài chính, tự hạch toán kinh tế, tự trang trải nhằm phát triển vốn. Vì vậy, hoạt động sản xuất kinh doanh của ngành điện cũng được cải tiến. Tuy nhiên, trong vài năm trở lại đây, đặc biệt là năm 1998, do tình hình thời tiết bất lợi, các nhà máy thuỷ điện thiếu nước nên phải huy động tối đa công suất của các nhà máy nhiệt điện, tua-bin dầu và các tổ diesel, làm cho giá thành sản xuất điện năng tăng cao và ngành điện lực gặp nhiều khó khăn. Mặt khác, kinh tế trong nước lại bắt đầu bị ảnh hưởng bởi cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ khu vực nên đã phát triển chậm lại. Đầu tư nói chung cho nền kinh tế giảm, năng lực cạnh tranh cho các sản phẩm trong nước giảm, cộng thêm sự mất giá trị của các đồng tiền trong khu vực làm cho tình hình xuất khẩu trở nên khó khăn làm ảnh hưởng lớn đến tăng trưởng kinh tế nói chung và ngành điện lực nói riêng. Trước những khó khăn và thử thách gay gắt đó, ngành điện lực nói chung, đặc biệt là Tổng Công ty điện lực Việt Nam đã không ngừng vươn lên, sản xuất kinh doanh có hiệu quả đạt được lãi cao hơn so với kế hoạch đề ra và đã hoàn thành mọi kế hoạch nộp Ngân sách Nhà nước giao. Bảng: Kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh ngành điện Đơn vị : Tỷ đồng TT Chỉ tiêu 1996 1997 1998 1999 2000 1 2 3 4 Tổng doanh thu Tổng chi phí Thuế doanh thu Nộp NSNN 8.326,3 7.421,4 666,1 1.716,1 10.235,6 8.823,7 818,8 1.318,6 13.978,0 12.649,0 1.182 2.272 13.815,339 11.754,94 2.088,576 16. 072 709,895 2.245 Năm 2000, doanh thu ước thực hiện được 16.072 tỷ đồng, tăng 16,33% so với năm 1999 trong đó sản xuất kinh doanh điện ước thực hiện là 15.076 tỷ đồng. Các khoản thu nộp Ngân sách ước thực hiện được 2.245,87 tỷ đồng tăng 7,5% so với năm 1999. Trong đó, thuế VAT ( đã khấu trừ đầu vào ) là 853,879 tỷ đồng, thuế thu nhập doanh nghiệp là 709,895 tỷ đồng, thu sử dụng vốn là 470,04 tỷ đồng, thuế tài nguyên là 162,22 tỷ đồng, thuế xuất nhập khẩu là 26 tỷ đồng. Ước thực hiện lãi trong năm là 1.650 tỷ đồng, trong đó lãi do sản xuất kinh doanh điện ước thực hiện là 1.440 tỷ đồng. 5. Công tác tiếp nhận, phát triển và quản lý lưới điện nông thôn Cho đến nay, công trình đưa điện về nông thôn đã đạt được các mục tiêu đề ra. Tính đến 31/12/2000, điện lưới Quốc gia đã được đưa tới 484 huyện (đạt 96,6%%), 7315 xã (đạt 81,9%), trong đó có nhiều huyện, xã thuộc vùng núi, vùng sâu, vùng xa, vùng căn cứ cách mạng. Có 9.414.375/12.817.743 hộ nông dân đã được dùng điện lưới, đạt tỷ lệ 73,5%, so với mục tiêu của Chính phủ vượt 13,5%. Đây thực sự là tiền đề quan trọng để thực hiện công nghiệp hoá - hiện đại hoá nông thôn. Tuy nhiên, công tác phát triển và quản lý lưới điện nông thôn còn nhiều bất cập. Vấn đề phát triển lưới điện nông thôn là loại đầu tư kết cấu hạ tầng cơ sở nhằm thúc đẩy các hoạt động kinh tế, chính trị, xã hội, nhưng lại không có khả năng hoàn vốn vì mức vốn đầu tư để đưa điện về nông thôn đòi hỏi quá lớn, mức tiêu thụ điện lại không tương xứng, doanh thu tiền điện không đủ trang trải chi phí quản lý và khấu hao tài sản. Do thiếu vốn nên lưới điện nông thôn được xây dựng trước đây, nhất là những nơi dân hoặc các tổ chức tập thể tự lo kinh phí, phần lớn là không đảm bảo tiêu chuẩn kỹ thuật làm cho tổn thất điện năng cao. Mặt khác, do không được bảo trì, cải tạo, lưới điện xuống cấp nghiêm trọng. Đây là nguyên nhân chủ yếu dẫn đến giá bán điện đến hộ dân tăng cao. Do vậy, ngành điện không thể tiếp nhận quản lý lưới điện nông thôn một cách dễ dàng được. Về tổ chức bộ máy quản lý điện nông thôn, do các công trình điện nông thôn xây dựng từ nhiều nguồn vốn nên hiện tại có 6 mô hình quản lý. Quy chế tổ chức hoạt động, phân công trách nhiệm không được rõ ràng, nghiêm túc nên quá trình thực hiện còn nhiều vướng mắc, bất hợp lý thậm chí có nơi còn nảy sinh tiêu cực, nhất là việc quản lý tài chính, giá điện dẫn đến việc đẩy giá điện đến các hộ dân tăng giả tạo. Riêng giá điện ánh sáng sinh hoạt nông thôn, các công ty điện lực bán buôn qua công tơ tổng với giá 360 đồng/KWh, (sau 6 lần điều chỉnh tăng giá nhưng giá điện này vẫn giữ nguyên) và giá bán lẻ theo giá Nhà nước quy định ở các xã quản lý bán điện trực tiếp đến hộ dân nông thôn. Các tổ chức quản lý điện do địa phương thành lập đã bán điện đến hộ dân theo các mức giá khác nhau. ở các địa phương mà chính quyền quan tâm ban hành được các quy định về sử dụng điện và giá điện thì ở đó giá điện hợp lý. Những nơi mà chính quyền ít quan tâm chỉ đạo, kiểm tra giám sát cho Ban điện xã hoặc cai thầu tư nhân thì phần lớn giá điện tăng cao do phải chịu nhiều khoản chi phí bất hợp lý. Theo số liệu điều tra năm 2000 thì cả nước có 4.843/7.251 xã giá điện từ 500-700 đ/KWh (tỷ lệ 66,8%), giá điện từ 700 đ/KWh đến 900 đ/KWh có 1.922/7.251 xã (tỷ lệ 26,5%), từ 900 đ/KWh trở lên có 486/7.251 xã (tỷ lệ 6,7%). Về nguồn vốn đầu tư cải tạo tiếp nhận, các công ty điện lực không thể tiếp nhận nguyên hiện trạng lưới điện nông thôn như hiện nay mà không được đầu tư nâng cấp, sửa chữa tối thiểu vì sẽ không đảm bảo an toàn, chất lượng kém, tổn thất điện năng cao. Phương án tiếp nhận có đầu tư tối thiểu là đúng đắn và cũng chỉ đạt ở mức độ vận hành an toàn, với các chỉ tiêu về kỹ thuật có thể chấp nhận để hỗ trợ cho việc giảm giá điện xuống bằng giá trần. Trong khi nguồn vốn ngân sách không có, vốn khấu hao tài sản quá hạn hẹp, việc dùng vốn sửa chữa lớn để củng cố lưới điện của nông thôn sau khi tiếp nhận là giải pháp tình thế của năm 1998. Do hiện trạng lưới điện nông thôn phần lớn các không đạt tiêu chuẩn kỹ thuật: Dây dẫn lưới điện hạ thế tiết diện nhỏ lại kéo quá dài, các trạm biến áp lại không ở vùng trung tâm phụ tải, cần di chuyển hoặc cấy thêm trạm để cấp điện hợp lý.. thì những công việc này không được dùng vốn sửa chữa lớn theo quy định hiện hành. Nguồn vốn sửa chữa lớn chỉ được thực hiện trên cơ sở giữ nguyên khối lượng đường dây và trạm như khi nhận bàn giao tài sản. Nhà nước cần có các quy định mới về thủ tục đầu tư cải tạo cho phù hợp với các dự án đầu tư phát triển, cải tạo để tiếp nhận và quản lý tốt lưới điện nông thôn. Bên cạnh đó, ngành điện còn phải chịu sức ép về thiếu vốn do việc giải phónh mặt bằng, phát quang hành lang tuyến đường dây. Nhiều địa phương và hộ dân yếu cầu ngành điện phải chịu toàn bộ kinh phí. 6.Hợp tác quốc tế về đầu tư phát triển Thực hiện chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta: độc lập, tự chủ, rộng mở, đa dạng hoá, hợp tác song phương và đa phương. Việt Nam hợp tác với Cộng hoà Liên bang Nga để hoàn thành nốt hai tổ máy cuối cùng và hoàn thiện Nhà máy thuỷ điện Hoà Bình; với Ucraina để xây dựng thuỷ điện Thác Mơ; với Cộng hoà Pháp xây dựng thuỷ điện Vĩnh Sơn; hợp tác với Thuỵ Điển xây dựng công trình thuỷ điện sông Hinh; với Ngân hàng Thế giới trong việc lập tổng quan năng lượng cải tạo lưới điện ở thành phố Hồ Chí Minh và các thành phố khác, xây dựng nhà máy tua-bin khí Phú Mỹ; với Ngân hàng phát triển Châu á trong việc cải tạo lưới điện các thành phố Hà Nội, Hải Phòng, Nam Định. 7. Những tồn tại chủ yếu trong quá trình phát triển Bên cạnh những thành tựu đã đạt được, Tổng công ty Điện lực Việt Nam còn bộc lộ những tồn tại cần được nghiên cứu, giải quyết nhằm tiếp tục đưa ngành điện phát triển lên tầm cao: Tồn tại lớn nhất trong nhiều năm qua đối với ngành điện là thiếu vốn đầu tư cho cải tạo, nâng cấp và phát triển nguồn điện, lưới điện theo quy hoạch và kế hoạch dẫn đến mất cân đối giữa phát triển nguồn điện và phát triển lưới điện, giữa lưới truyền tải và lưới điện phân phối, thiết bị xuống cấp và lạc hậu kỹ thuật, hoạt động kém an toàn và kinh tế, tổn thất điện năng còn ở mức cao, cung ứng điện năng thiếu hụt trong một số vùng và một số năm. Cơ cấu nguồn giữa thuỷ điện và nhiệt điện chưa cân đối và hợp lý dẫn đến tình trạng vào mùa khô, khi thuỷ điện phát công suất thấp thì nhiệt điện không có khả năng thay thế để phủ biểu đồ phụ tải. Trong khi đầu tư phát triển nguồn điện mới, chưa coi trọng đầu tư chiều sâu để duy trì năng lực nguồn điện hiện có, do đó việc phục hồi, nâng cấp các nhà máy nhiệt điện (chạy bằng than) ở miền Bắc, các nguồn diesel và tua-bin khí cũng chưa được thực hiện theo đúng tiến độ và công suất khả dụng. Việc đầu tư phát triển lưới truyền tải và phân phối từ cấp điện áp 220KV trở xuống chưa đồng bộ với nguồn, chậm cải tạo nâng cấp đối với lưới điện của thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nội và các thành phố khác. Lưới điện ở các vùng nông thôn phát triển không theo quy hoạch, không đảm bảo chỉ tiêu kinh tế-kỹ thuật. Hậu quả là trên nhiều địa bàn, lưới điện phát triển không theo kịp nhu cầu tăng trưởng của phụ tải, dẫn đến tình trạng quá tải lưới điện và các trạm biến áp, tổn thất điện năng trong khâu phân phối còn lớn. Biểu đồ phụ tải hệ thống điện có chênh lệch giữa cao điểm và thấp điểm, nhất là ở lưới điện miền Bắc. Đây là một bất lợi cả về mặt kỹ thuật lẫn kinh tế trong công tác vận hành hệ thống điện . Hệ thống thông tin, đo lường, điều khiển, rơle bảo vệ trong hệ thống điện tuy gần đây có được nâng cấp, nhưng chỉ mới trong phạm vi hẹp. Tổng thể chung toàn hệ thống vẫn còn ở trình độ kỹ thuật thấp, thậm chí lạc hậu, nên hoạt động kém tin cậy và làm tăng suất sự cố. Hệ thống giá điện đã duy trì ở chế độ bao cấp quá lâu, chậm được đổi mới và hoàn thiện nên mộ mặt chưa có tác dụng khuyến khích sử dụng hợp lý, tiết kiệm điện năng cũng như góp phần cải thiện và điều tiết biểu đồ phụ tải, mặt khác làm cho việc chuyển sang cơ chế mới - cơ chế tự trang trải trong sản xuất-kinh doanh và đầu tư phát triển của ngành điện còn gặp nhiều khó khăn. Lĩnh vực khaỏ sát, thiết kế kỹ thuật và thi công xây lắp các công trình nguồn và lưới truyền tải, tuy đã có những bước trưởng thành lớn trong những năm qua, nhưng vẫn chủ yếu hoạt động theo cơ chế giao kế hoạch và chỉ định thầu. Để thích ứng với cơ chế đấu thầu trong nước và quốc tế về việc lựa chọn tư vấn kỹ thuật, thi công xây lắp, đòi hỏi phải nhanh chóng nâng cao trình độ mọi mặt của các đơn vị hoạt động ở lĩnh vực này đang tạo nên các tổ hợp đủ sức cạnh tranh trong đấu thầu. Về hoạt động sản xuất kinh doanh của ngành: Tuy có lãi nhưng tỷ suất lợi nhuận của ngành đạt rất thấp. Nguyên nhân chính của tình trạng này là do chi phí đầu vào của các loại vật tư nhiên liệu trên thị trường có nhiều biến động theo chiều hướng tăng giá mua điện ngoài ngành rất cao, trong khi giá bán điện giữ cố định từ một đến hai năm; tổn thất điện năng cao so với các nước tiên tiến. Điều đó nói lên rằng, việc kinh doanh để tạo ra một giá trị lợi nhuận của ngành điện đang gặp khó khăn. IV. Kết luận về năng lực và khả năng sản xuất điện Do ngành điện là một ngành kinh doanh rất đặc biệt, tính chất của điện năng là sản xuất ra phải tiêu dùng ngay, không thể dự trữ được nên qúa trình sản xuất và tiêu thụ phải diễn ra đồng thời, mọi phần tử trong dây chuyền sản xuất - truyền tải - phân phối - tiêu thụ đều có liên quan đến nhau , nếu thiếu một trong 4 hoạt động trên thì hoạt động kinh doanh của ngành điện sẽ bị ách tắc. Chính vì vậy, ngành điện cần phải quan tâm, đánh giá đúng khả năng phát triển của phụ tải. Những năm gần đây, nền kinh tế Việt Nam tăng trưởng khá và đời sống nhân dân được nâng lên, vì vậy điện dân dụng có chiều hướng gia tăng nhanh, chiếm trên 40% tổng điện năng tiêu thụ. Các thành phần phụ tải khác như nông nghiệp, giao thông vận tải... chiếm tỷ trọng tương đối thấp so với tổng điện năng tiêu thụ. Trong quá trình sản xuất và kinh doanh, ngành điện đã gặp không ít khó khăn và trở ngại, như là phải huy động nguồn vốn rất lớn để thực hiện tổng sơ đồ phát triển ngành điện Việt Nam giai đoạn V (bình quân hàng năm tới 1,5 tỷ USD). Khoản vôn snày tự ngành điện không thể giải quyết được. Đây là vấn đề lớn rất cần sự quan tâm, hỗ trợ tích cực từ phía Nhà nước và nhân dân. Nhà nước cần xem xét để có được cơ chế giá bán điện bảo đảm lợi nhuận để đầu tư cho việc phát triển nguồn, lưới điện nhằm đáp ứng đủ nhu cầu năng lượng điện cho nền kinh tế quốc dân và đời sống xã hội. Chương III định hướng phát triển ngành điện Việt Nam đến năm 2010 I. Căn cứ xây dựng định hướng 1. Định hướng phát triển kinh tế - xã hội Việt Nam đến năm 2010 Mục tiêu tổng quát của chiến lược 10 năm 2001 - 2010 là: Đẩy mạnh công nghiệp hoá - hiện đại hoá, tập trung xây dựng có chọn lọc một số cơ sở công nghiệp nặng quan trọng với công nghệ cao, sản xuất tư liệu sản xuất cần thiết để trang bị và trang bị lại kỹ thuật, công nghệ tiên tiến cho các ngành nông nghiệp, công nghiệp, dịch vụ và đáp ứng nhu cầu quốc phòng, đưa đất nước ra khỏi tình trạng kém phát triển, xây dựng nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp. Chất lượng đời sống vật chất, văn hoá, tinh thần của nhân dân được nâng lên một mức đáng kể.Thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa được định hình về cơ bản. Nguồn lực con người, năng lực khoa học và công nghệ, kết cấu hạ tầng, tiềm lực kinh tế, quốc phòng, an ninh được tăng cường. Vị thế trong quan hệ quốc tế được cũng cố và nâng cao. Nhiệm vụ và mục tiêu chủ yếu của kế hoạch phát triển kinh tế xã hội giai đoạn 2001 - 2010 là: 1.1. Về tăng trưởng kinh tế: Tập trung cho mục tiêu phát triển, đạt tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân là 8 - 9%. Đưa GDP năm 2010 ít nhất lên gấp đôi năm 2000. Phát triển toàn diện nông, lâm, ngư nghiệp gắn với công nghiệp chế biến thuỷ sản và đổi mới cơ cấu nông thôn theo hướng công nghiệp hoá - hiện đại hoá. Tốc độ tăng giá trị sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp bình quân hàng năm là 3,5 - 4,5%. Phát triển các ngành công nghiệp, trước hết chú trọng đến công nghiệp chế biến, công nghiệp hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu, xây dựng có chọn lọc một số cơ sở công nghiệp nặng về dầu khí, than, xi măng, cơ khí, điện tử. Tốc độ tăng giá trị sản xuất công nghiệp bình quân hàng năm giai đoạn này là 10 - 12%. Cải tạo, nâng cấp và xây dựng mới, có trọng điểm kết cấu hạ tầng. Phát triển các ngành dịch vụ, tập trung vào các lĩnh vực: vận tải, thông tin liên lạc, thương mại.Tốc độ tăng giá trị dịch vụ bình quân hàng năm là 9 - 10%. 1.2. Về cơ cấu kinh tế: Trong giai đoạn từ nay đến năm 2010, chúng ta phải đổi mới một cách mạnh mẽ và toàn diện cơ cấu kinh tế, từng bước xây dựng một cơ cấu kinh tế hợp lý, có khả năng thích ứng nhanh nhạy với thị trường, hiệu quả cao, tốc độ tăng trưởng lớn, ổn định và bền vững, đồng thời phù hợp với điều kiện tự nhiên, tài nguyên, nguồn nhân lực. Mục tiêu đến năm 2010: tỷ trọng nông - lâm - ngư nghiệp chiếm khoảng 10 - 12% GDP; công nghiệp và xây dựng chiếm khoảng 38 - 42% GDP; dịch vụ chiếm khoảng 47 - 50% GDP. Như vậy, để đáp ứng sự phát triển của nền kinh tế xã hội, nhu cầu năng lượng phục vụ cho sự phát triển kinh tế và đời sống sinh hoạt của nhân dân đang và sẽ tăng với khối lượng lớn. Đây là một căn cứ quan trọng trong định hướng phát triển ngành điện trong thời gian t._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc34452.doc
Tài liệu liên quan