Định hướng và các giải pháp phát triển công nghiệp vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ

LỜI MỞ ĐẦU Vân, và đặc biệt là sự hướng dẫn của thầy giáo TS. Phạm Văn Vận, tôi chọn đề tài nghiên cứu: "Định hướng và các giải pháp phát triển công nghiệp vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ thời kì 2000 - 2010" Nội dung và kết cấu của chuyên đề: Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo; chuyên đề gồm 3 chương: Chương I: Những vấn đề lí luận chung về công nghiệp và vai trò của công nghiệp trong nền kinh tế quốc dân. Chương II: Thực trạng phát triển công nghiệp vùng kinh tế trọng điểm Bắc

doc98 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1175 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Định hướng và các giải pháp phát triển công nghiệp vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Bộ thời gian qua (1995-1999) Chương III: Mặc dù đã có nhiều cố gắng, nhưng do hạn chế về thời gian, tài liệu tham khảo, về trình độ kiến thức cho nên chuyên đề chắc chắn còn nhiều hạn chế. Tôi mong nhận được sự góp ý, phê bình của Ban Vùng và lãnh thổ - Viện Chiến lược Phát triển; của các thầy giáo, cô giáo Khoa Kinh tế Phát triển trường Đại học Kinh Tế Quốc Dân, để chuyên đề được hoàn thiện hơn. Tôi xin chân thành cảm ơn. Chương I Những vấn đề lí luận chung về công nghiệp và vai trò của công nghiệp trong nền kinh tế quốc dân I-/ Công nghiệp và sự phân loại sản xuất công nghiệp. 1.Công nghiệp và những đặc trưng chủ yếu của sản xuất công nghiệp. 1.1. Khái niệm công nghiệp. Công nghiệp là một ngành sản xuất vật chất cơ bản, là khu vực chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân. Công nghiệp bao gồm ba loại hoạt động chủ yếu: Khai thác tài nguyên thiên nhiên tạo ra nguồn nguyên liệu nguyên thuỷ, sản xuất và chế biến sản phẩm của công nghiệp khai thác và của nông nghiệp thành nhiều loại sản phẩm nhằm thoả mãn các nhu cầu khác nhau của xã hội, khôi phục giá trị sử dụng của sản phẩm được tiêu dùng trong quá trình sản xuất và trong sinh hoạt. Để thực hiện ba hoạt động cơ bản đó dưới sự tác động của phân công lao động xã hội trên cơ sở của tiến bộ khoa học và công nghệ, trong nền kinh tế quốc dân hình thành hệ thống các ngành công nghiệp: khai thác tài nguyên khoáng sản, động, thực vật; các ngành sản xuất và chế biến sản phẩm và các ngành công nghiệp dịch vụ sửa chữa: - Hoạt động khai thác là hoạt động khởi đầu của toàn bộ quá trình sản xuất công nghiệp. Nó cắt đứt các đối tượng ra khỏi môi trường tự nhiên. - Chế biến là hoạt động làm thay đổi hoàn toàn về chất của các nguyên liêu nguyên thuỷ, để tạo ra sản phẩm trung gian và tiếp tục chế biến để tạo ra sản phẩm cuối cùng. - Sửa chữa là một hoạt động không thể thiếu được nhằm khôi phục, kéo dài tuổi thọ của các tư liệu lao động trong các ngành sản xuất. Từ những nội dung đã trình bày trên có thể hiểu công nghiệp là một ngành kinh tế to lớn thuộc lĩnh vực sản xuất vật chất, bao gồm một hệ thống các ngành sản xuất chuyên môn hoá hẹp, mỗi ngành sản xuất chuyên môn hoá hẹp đó lại bao gồm nhiều đơn vị sản xuất kinh doanh thuộc nhiều loại hình thức khác nhau. Trên góc độ trình độ kĩ thuật và hình thức tổ chức sản xuất,công nghiệp còn được cụ thể hoá bằng các khái niệm khác nhau như: công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp, công nghiệp lớn và công nghiệp vừa và nhỏ, công nghiệp nằm trong nông nghiệp, công nghiệp nông thôn, công nghiệp quốc doanh và công nghiệp ngoài quốc doanh... 1.2. Đặc trưng của sản xuất công nghiệp. a) Các đặc trưng về mặt kĩ thuật-sản xuất của công nghiệp - Đặc trưng về công nghệ sản xuất: Trong công nghiệp chủ yếu là quá trình tác động trực tiếp bằng phương pháp cơ lí hoá của con người làm thay đổi các đối tượng lao động thành các sản phẩm thích ứng với nhu cầu của con người. Khác với nông nghiệp quá trình tác động chủ yếu là bằng phương pháp sinh học, các tác động cơ, lí, hoá trong nông nghiệp chỉ là những tác động tạo điều kiện môi trường sinh thái để cây trồng, vật nuôi có thể phát triển. Nghiên cứu đặc trưng về công nghệ sản xuất có ý nghĩa rất quan trọng trong việc tổ chức sản xuất và ứng dụng khoa học công nghệ thích ứng với mỗi ngành. Trong công nghiệp ngày nay phương pháp công nghệ sinh học cũng được ứng dụng ngày càng rộng rãi đặc biệt là công nghiệp thực phẩm. - Đặc trưng về sự biến đổi của các đối tượng lao động sau mỗi chu kì sản xuất: Các đối tượng lao động của trình sản xuất công nghiệp sau mỗi chu kì sản xuất được thay đổi hoàn toàn về chất từ công dụng cụ thể này chuyển sang các sản phẩm có công dụng cụ thể hoàn toàn khác. Hoặc một loại nguyên liệu sau quá trình sản xuất có thể tạo ra nhiều loại sản phẩm có công dụng khác nhau. Trong khi đó đối tượng lao động của sản xuất nông nghiệp sau quá trình sản xuất chỉ có sự thay đổi về lượng là chủ yếu. Nghiên cứu đặc trưng này của sản xuất công nghiệp có ý nghĩa thực tiễn rất to lớn trong việc tổ chức quá trình sản xuất và chế biến, trong việc khai thác và tổng hợp nguyên liệu. - Đặc trưng về công dụng kinh tế của sản phẩm: sản phẩm công nghiệp có khả năng đáp ứng nhiều loại nhu cầu ở các trình độ ngày càng cao của xã hội. Sản xuất công nghiệp là hoạt động sản xuất duy nhất tạo ra các sản phẩm làm chức năng tư liệu lao động trong các ngành kinh tế. Đặc trưng này cho thấy vị trí chủ đạo của công nghiệp trong nền kinh tế quốc dân là một tất yếu khách quan, xuất phát từ bản chất của quá trình sản xuất đó. b) Đặc trưng về kinh tế xã hội của sản xuất. - Do các đặc điểm về mặt kĩ thuật của sản xuất trong quá trình phát triển, công nghiệp luôn là ngành có điều kiện phát triển về mặt kĩ thuật, tổ chức sản xuất, lực lượng sản xuất phát triển nhanh ở trình độ cao, nhờ đó mà quan hệ sản xuất có tính tiên tiến hơn. - Cũng do đặc điểm kĩ thuật của sản xuất, trong quá trình sản xuất công nghiệp đào tạo ra được một đội ngũ lao động có tính tổ chức, tính kỉ luật cao, có tác phong lao động "công nghiệp". - Cũng do đặc trưng kĩ thuật sản xuất về công nghệ và sự biến đổi của đối tượng lao động, trong công nghiêp có điều kiện và cần thiết phải phân công lao động ngày càng sâu tạo điều kiện, tiền đề để phát triển nền sản xuất hàng hoá ở trình độ cao. Nghiên cứu các đặc trưng về kinh tế-xã hội có ý nghĩa thiết thực trong tổ chức sản xuất, trong việc phát huy vai trò chủ đạo của công nghiệp đối với các ngành kinh tế quốc dân của mỗi quốc gia 2. Các phương pháp phân loại sản xuất công nghiệp. Một trong những nội dung quan trọng của tổ chức quản lí ngành công nghiệp là tổ chức sắp xếp hoạt động sản xuất công nghiệp thành các lĩnh vực các loại hình sở hữu và thành các ngành có đặc trưng chuyên môn hoá để hình thành các đối tượng quản lí có đặc trưng khác nhau, từ đó tổ chức hợp lí và có hiệu quả quá trình chuyên môn hoá trong hoạt động quản lí. Để thực hiện được điều này cần phải có phương pháp phân loại sản xuất dựa trên những căn cứ khoa học nhất định. 2.1.Phân loại công nghiệp thành hai ngành sản xuất: tư liệu sản xuất và tư liệu tiêu dùng. - Căn cứ của phương pháp phân loại này là dựa vào công dụng kinh tế của sản phẩm, phương hướng sản xuất kinh doanh chủ yếu và tỷ trọng sản phẩm là tư liệu sản xuất hay tư liệu tiêu dùng. người ta chia công nghiệp thành các ngành sản xuất tư liệu sản xuất và các ngành sản xuất tư liệu tiêu dùng. Các sản phẩm có chức năng là tư liệu sản xuất thuộc nhóm A, các sản phẩm là tư liệu tiêu dùng thuộc nhóm B. Vận dụng phương pháp phân loại này để sắp xếp các cơ sở sản xuất công nghiệp vào hai nhóm ngành tương ứng là công nghiệp nặng và công nghiệp nhẹ. Ngành công nghiệp nặng là tổng hợp của các đơn vị sản xuất kinh doanh sản xuất ra các sản phẩm là tư liệu sản xuất, đặc biệt là tư liệu lao động. Còn ngành công nghiệp nhẹ là tổng hợp các đợn vị sản xuất kinh doanh sản xuất ra các sản phẩm là tư liệu tiêu dùng trong sinh hoạt là chủ yếu. - Phương pháp phân loại này có ý nghĩa rất lớn trong việc vận dụng quy luật tái sản xuất mở rộng để xây dựng mô hình cơ cấu công nghiệp phù hợp cho đất nước trong mỗi thời kì phát triển của nền kinh tế. 2.2. Phân loại công nghiệp thành ba nhóm ngành: khai thác, chế biến, điện ga và nước. - Đặc điểm của công nghiệp khai thác, chế biến, điện ga và nước. Công nghiệp khai thác có nhiệm vụ cắt đứt đối tượng lao động khỏi môi trường tự nhiên, tạo thành các loại nguyên liệu nguyên thuỷ. Công nghiệp chế biến làm thay đổi về chất của các đối tượng lao động là nguyên liệu nguyên thuỷ thành các sản phẩm trung gian và tiếp tục chế biến thành các sản phẩm cuối cùng. Cùng với quá trình phát triển của công nghiệp thì điện, ga và nước cũng được tách ra thành một phân ngành độc lập với công nghiệp khai thác và chế biến. Việc tách công nghiệp điện, ga và nước ra thành một ngành chuyên môn hoá độc lập vừa phù hợp với quá trình phát triển công nghiệp, khẳng định vai trò của công nghiệp điện, ga và nước; đồng thời làm cho sự phân loại trở nên chính xác hơn. - Căn cứ của phương pháp phân loại này là dựa vào tính chất khác nhau của sự biến đổi đối tượng lao động, sự tác động của lao động và công dụng sản phẩm của các hoạt động trên. - Phương pháp phân loại này có ý nghĩa rất lớn đối với việc thực hiện cân đối trong quá trình sản xuất ra sản phẩm cuối cùng, cân đối giữa nguồn nguyên liệu và chế biến nguyên liệu, xây dựng mô hình cơ cấu kinh tế cân đối giữa khai thác tài nguyên và chế biến tài nguyên trong nền kinh tế quốc dân. 2.3. Phân loại công nghiệp thành các ngành sản xuất chuyên môn hoá hẹp. - Ngành chuyên môn hoá hẹp là tổng hợp các xí nghiệp mà hoạt động sản xuất chủ yếu của chúng có những đặc trưng kĩ thuật sản xuất giống nhau hoặc tương tự nhau: + Cùng thực hiện một phương pháp công nghệ hoặc công nghệ tương tự (cơ, lí, hoá hoặc sinh học). + Sản phẩm được sản xuất từ một loại nguyên liệu hay nguyên liệu đồng loại. + Sản phẩm có công dụng cụ thể giống nhau hoặc tương tự nhau. Trong ba đặc trưng này thì đặc trưng về công dụng cụ thể là quan trọng nhất. -Căn cứ của phương pháp phân loại này được dựa vào các đặc trưng kĩ thuật sản xuất giống nhau hoặc tương tự nhau để sắp xếp các đơn vị sản xuất kinh doanh thành các ngành chuyên môn hoá. Phân loại theo phương pháp này có ý nghĩa rất lớn trong việc xây dựng các mô hình cơ cấu cân đối liên ngành, đặc biệt đối với các sản phẩm chủ yếu, quan trọng của công nghiệp trong việc lựa chọn các hình thức tổ chức mối liên hệ sản xuất giữa các ngành. 2.4. Phân loại công nghiệp dựa và sự khác nhau về quan hệ sở hữu, hình thức tổ chức sản xuất xã hội và trình độ kĩ thuật của sản xuất công nghiệp. -Theo phương pháp này, hình thành các loại hình công nghiệp như: công nghiệp quốc doanh, công nghiệp ngoài quốc doanh với các loại hình sở hữu khác nhau, công nghiệp lớn vừa và nhỏ, tiểu thủ công nghiệp và đại công nghiệp.... -Các phương pháp phân loại này có ý nghĩa lớn trong việc hoạch định các giải pháp xây dựng nền kinh tế nhiều thành phần, trong việc tổ chức và đầu tư vào việc ứng dụng khoa học và công nghệ trong công nghiệp. II-/ Vị trí, vai trò của công nghiệp trong nền kinh tế quốc dân. 1.- Vị trí của công nghiệp trong nền kinh tế. Công nghiệp là ngành sản xuất vật chất có vị trí quan trọng trong nền kinh tế quốc dân, vị trí đó xuất phát từ các lí do chủ yếu sau: - Công nghiệp là một bộ phận hợp thành cơ cấu công nghiệp - nông nghiệp -dịch vụ. Do những đặc điểm vốn có của nó, trong quá trình phát triển nền kinh tế lên sản xuất lớn, công nghiệp phát triển từ vị trí thứ yếu trở thành ngành có vị trí hàng đầu trong cơ cấu kinh tế đó. - Mục tiêu cuối cùng của nền sản xuất xã hội là tạo ra sản phẩm thỏa mãn nhu cầu ngày càng cao của con người. Trong quá trình sản xuất ra của cải vật chất, công nghiệp là ngành không những chỉ khai thác tài nguyên, mà còn tiếp tục chế biến các loại nguyên liệu nguyên thuỷ được khai thác và chế biến từ các loại tài nguyên khoáng sản, động thực vật thành các sản phẩm trung gian, để sản xuất ra sản phẩm cuối cùng, nhằm thoả mãn nhu cầu vật chất và tinh thần cho con người. - Sự phát triển của công nghiệp là một yếu tố có tính quyết định để thực hiện quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Trong quá trình phát triển nền kinh tế lên nền sản xuất lớn, tuỳ theo trình độ phát triển của công nghiệp và của toàn bộ nền kinh tế quốc dân, xuất phát từ những đặc điểm và điều kiện cụ thể của đất nước trong mỗi thời kì cần phải xác định đúng vị trí của công nghiệp trong nền kinh tế quốc dân, hình thành phương án cơ cấu công nghiệp-nông nghiệp-dịch vụ và định hướng từ chuyển dịch cơ cấu đó một cách có hiệu quả. Đó là một trong những nhiệm vụ quan trọng của nền kinh tế, nhằm đạt được những mục tiêu chiến lược phát triển kinh tế-xã hội của mỗi quốc gia. 2.- Vai trò và tác động của công nghiệp trong quá trình phát triển nền kinh tế. 2.1. Vai trò của công nghiệp trong quá trình phát triển kinh tế -Vai trò chủ đạo của công nghiệp trong quá trình phát triển nền kinh tế lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa là một tất yếu khách quan. Tính tất yếu khách quan đó xuất phát từ bản chất và những đặc điểm vốn có của sản xuất công nghiệp. Trong quá trình phát triển nền kinh tế nước ta theo định hướng xã hội chủ nghĩa, công nghiệp luôn giữ vai trò chủ đạo. Vai trò chủ đạo của công nghiệp được hiểu là: trong quá trình phát triển kinh tế, công nghiệp là ngành có khả năng tạo ra động lực và định hướng sự phát triển các ngành kinh tế khác lên nền sản xuất lớn. Vai trò chủ đạo đó dược thể hiện trên các mặt sau: - Do đặc điểm của sản xuất công nghiệp, công nghiệp có điều kiện tăng nhanh tốc độ phát triển khoa học công nghệ, ứng dụng các thành tựu khoa học công nghệ đó vào sản xuất, có khả năng và điều kiện sản xuất hoàn thiện. Nhờ đó lực lượng sản xuất trong công nghiệp phát triển nhanh hơn các ngành kinh tế khác. Do quy luật "quan hệ sản xuất phải phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất", trong công nghiệp có được hình thức quan hệ sản xuất tiên tiến. Tính tiên tiến về các hình thức quan hệ sản xuất, sự hoàn thiện về các mô hình tổ chức sản xuất đã làm cho công nghiệp có khă năng định hướng cho các ngành kinh tế khác tổ chức sản xuất đi lên nền sản xuất lớn theo "hình mẫu", theo "kiểu" công nghiệp. - Cũng do đặc điểm của sản xuất công nghiệp, đặc biệt là đặc điểm về công nghệ sản xuất, đặc điểm về công dụng sản phẩm công nghiệp, công nghiệp là ngành duy nhất tạo ra sản phẩm làm chức năng tư liệu lao động trong các ngành kinh tế, từ đó mà công nghiệp có vai trò quyết định trong việc cung cấp các yếu tố đầu vào để xây dựng cơ sở vất chất cho toàn bộ các ngành kinh tế quốc dân. - Trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, trình độ trang bị cơ sở vật chất- kĩ thuật, và trình độ hoàn thiện về tổ chức sản xuất, hình thành một đội ngũ lao động có tính tổ chức, tính kỉ luật và trình độ kĩ thuật cao, cộng với tính đa dạng của hoạt động sản xuất, công nghiệp là một trong những ngành đóng góp phần quan trọng trong việc tạo ra thu nhập quốc dân, tích luỹ vốn để phát triển nền kinh tế, từ đó công nghiệp có vai trò quan trọng góp phần vào việc giải quyết những nhiệm vụ có tính chiến lược của nền kinh tế như: tạo việc làm; xoá bỏ cách biệt thành thị nông thôn, giữa miền xuôi với miền núi... - Trong quá trình phát triển nền kinh tế nước ta hiện nay Đảng có chủ trương "coi nông nghiệp là mặt trận hàng đầu" giải quyết vấn đề cơ bản về lương thực cung cấp nguyên liệu động thực vật để phát triển công nghiệp. Để thực hiện được những nhiệm vụ cơ bản đó, công nghiệp có vai trò quan trọng cung cấp các yếu tố đầu vào và giải quyết đầu ra đưa nông nghiệp lên nền sản xuất hàng hoá. 2.2. Những tác động của phát triển công nghiệp trong quá trình phát triển kinh tế. 2.2.1. Phát triển công nghiệp với các mục tiêu phát triển kinh tế xã hội. Phát triển công nghiệp là chìa khoá để phát triển kinh tế bởi năng xuất lao động cao trong công nghiệp sẽ dẫn đến sự gia tăng thu nhập bình quân đầu người, tăng sức mua, mở rộng thị trưòng hàng tiêu dùng và dịch vụ. Đặc biệt là sự phát triển của công nghiệp chế biến.Vì đây là ngành tạo ra khả năng thay thế nhập khẩu có hiệu quả và cũng là ngành có khả năng tăng xuất khẩu, giải quyết đầu ra cho sản xuất nông nghiệp, tạo công ăn việc làm, giảm tỉ lệ thất nghiệp, cải thiện các chỉ tiêu kinh tế xã hội. Thúc đẩy phát triển kinh tế. 2.2.2. Phát triển công nghiệp với quá trình đô thị hoá. Thông qua phân bố công nghiệp mà phân bố lại dân cư ở các vùng, thúc đẩy quá trình phát triển kinh tế hàng hoá ở các vùng, thực hiện quá trình đô thị hoá đất nước. Quá trình phát triển công nghiệp và đô thị hoá thường diễn ra song song bởi các lí do sau: a) Các yếu tố có tính chất tiết kiệm. - Dân số đông sẽ giảm được chi phí tuyển dụng nhân công vào làm công nghiệp, đặc biệt là cán bộ giỏi, công nhân lành nghề. - Không phải tăng thêm chi phí xã hội trong việc xây dựng thêm kết cấu hạ tầng. - Dịch vụ y tế giáo dục đã được và có điều kiện phát triển cao ở thành phố. b) Hiệu quả kinh tế của việc hôi tụ nhiều công ty của nhiều ngành vào gần nhau. -Gần nơi cung cấp nguyên vật liệu sẽ giảm chi phí vận chuyển và cung cấp kịp thời. - Gần các dịch vụ sửa chữa giảm chi phí. - Tài chính ngân hàng cũng tập trung ở thành phố thuận lợi cho hoạt động công nghiệp. - Có điều kiện tốt cập nhật thông tin trong nước và quốc tế. c) Tiện nghi ở thành phố tốt hơn dễ thu hút mọi người. Trong xã hội công nghiệp nhu cầu về tiện nghi sinh hoạt rất cao và ở khu vực thành thị có khả năng đáp ứng tốt hơn, thu hút được mọi người và chính lực lượng này sẽ đóng vai trò quan trọng trong phát triển công nghiệp 2.2.3. Phát triển công nghiệp với giải quyết việc làm. Ngoài việc tạo ra công cụ lao động, phương tiện sản xuất trang bị kĩ thuật cho các ngành là cơ sở vất chất cho các ngành tạo ra việc làm thì quá trình phát triển công nghiệp cũng yêu cầu một lực lượng lớn lao động mà đặc biệt là lao động có trình độ cao cho quá trình phát triển. Công nghiệp càng phát triển thì yêu cầu về lao dộng càng cao, giải quyết được việc làm, giảm tỉ lệ thất nghiệp của nền kinh tế. 2.2.4. Phát triển công nghiệp với những mối liên kết trong nền kinh tế. Quá trình phát triển công nghiệp đòi hỏi sự liên kết ngược từ các ngành khác với công nghiệp cũng như giữa các ngành công nghiệp sản xuất tư liệu sản xuất và các ngành công nghiệp sản xuất tư liệu tiêu dùng. - Trước hết nông nghiệp có ảnh hưởng qua lại rất lớn đối với phát triển công nghiệp. Nâng cao năng xuất lao động trong nông nghiệp giúp cho công nghiệp phát triển thuận lợi hơn và ngược lại. Mối quan hệ được thể hiện ở các mặt sau: + Thu nhập cao của nông dân sẽ làm tăng cầu về hàng hoá công nghiệp. + Năng xuất lao động nông nghiệp tăng sẽ làm tăng nguồn nguyên liệu cung cấp cho công nghiệp. + Năng xuất lao động nông nghiệp tăng sẽ tăng nhanh lượng nông sản xuất khẩu, thu ngoại tệ tăng tạo điều kiện nhập khẩu nguyên vật liệu làm đầu vào cho công nghiệp. + Thu nhập của nông dân tăng sẽ tăng khả năng tiết kiệm, tăng khả năng đầu tư phát triển kinh tế. + Năng xuất lao động nông nghiệp tăng lên cho phép rút bớt lao động ra khỏi khu vực nông nghiệp. Đây là lực lượng lao động bổ sung cho công nghiệp. + Công nghiệp cung cấp đầu vào và giải quyết đầu ra cho nông nghiệp, công nghiệp phát triển thu nhập người dân tăng kích thích giá nông sản tăng có lợi cho nông dân, kích thích mở rộng sản xuất nông nghiệp, tăng năng xuất cây trồng vật nuôi... -Sự liên kết ngược từ những ngành công nghiệp chủ yếu sản xuất hàng hoá tiêu dùng qua các ngành công nghiệp sản xuất tư liẹu sản xuất. Sự liên kết ngược trực tiếp cho bất kì một ngành công nghiệp j nào đó được xác định như sau: Lbj= ồaij Trong đó: Lbj là chỉ số liên kết ngược. aij là hệ số leontief (hệ số đầu vào-đầu ra) Công thức trên cho ta cách tính sự liên kết ngược một cách đơn giản bằng cách công các hiệu số đầu vào trong nước của nó. Ví dụ: Nếu ngành công nghiệp dệt tăng giá trị sản lượng lên 30% và nhập khẩu tương đương 15% giá trị sản phẩm thì chỉ số liên kết ngược Lbj sẽ là 55% bằng phần chi phí mua nguyên liệu trong nước: (100%-30%-15%=55%). Chỉ số này chỉ nói lên mối liên kết ngược trực tiếp. Nhưng nếu ngành dệt khuyến khích trồng bông thì liệu việc trồng bông có tác dụng kích thích lại sản phẩm phân bón và thuốc trừ sâu không? Ta có thể xác định sự tác động gián tiếp này bằng cách cộng những hệ số gián tiếp và hệ số trực tiếp của phần đảo ma trận của Leontief kí hiệu hệ số Rij, ta có: Ltj = ồRij . Trong đó: Ltj = hệ số trực tiếp cộng hệ số gián tiếp, hay là toàn bộ liên kết ngược từ ngành công nghiệp j. Phương pháp đơn giản để xác định những liên kết thuận, trực tiếp: Lft = ồj Xij / Zi . Trong đó: Lft là hệ số liên kết thuận cho ngành công nghiệp i. Xij là sản phẩm của ngành công nghiệp thứ i có được bởi ngành công nghiệp sử dụng thứ j (dãy thống kê bảng đầu ra-đầu vào). Zi là sản phẩm i cho khâu sử dụng trung gian và khâu sử dụng cuối cùng. 2.2.5. Phát triển công nghiệp với bảo vệ môi trường tự nhiên. a) Một số hậu quả của quá trình phát triển công nghiệp tới môi trường tự nhiên. Môi trường tự nhiên có vai trò quan trọng đối với phát triển công nghiệp. Từ khí quyển, thuỷ quyển, địa quyển đều có những tác động lớn nhỏ tới phát triển công nghiệp. Môi trường tự nhiên cung cấp và đảm bảo không gian cần thiết, cũng như các loại tài nguyên làm nguyên liệu đầu vào cho phát triển công nghiệp. Sản xuất công nghiệp là quá trình biến đổi vất chất từ dạng tự nhiên của nó thành dạng vật chất có giá trị sử dụng khác nhau đáp ứng nhu cầu của con người, đồng thời làm biến đổi môi trường tự nhiên. Toàn bộ chu trình biến đổi mà công nghiệp tác đông vào môi trường có thể thấy rõ qua sơ đồ: Môi trường tự nhiênốSản xuất công nghiệpốChất thải công nghiệp ờ Sản phẩm có ích ờ Quá trình tiêu dùng ờ Chất thải ờ Cùng với quá trình phát triển công nghiệp, mức độ tác động của nó tới môi trường tự nhiên cũng tăng lên. Những thành tựu của khoa học kĩ thuật được nhanh chóng đưa vào phát triển sản xuất công nghiệp và cùng với quá trình này công nghiệp phát triển nhanh chóng tăng cả về quy mô, phạm vi, tốc độ, cơ cấu đã tác động rất mạnh đển môi trường, làm biến đổi môi trường. Sự phong phú đa dạng của hoạt động sản xuất công nghiệp với một hệ thống ngành nghề ngày càng tăng, đã tạo ra hàng loạt những sự tác động khác nhau vào môi trường tự nhiên. Con người thông qua sản xuất công nghiệp trở thành nhân tố tác động mạnh mẽ nhất đến môi trường tự nhiên, làm cho môi trường không chỉ đơn thuần vận động theo quy luật tự nhiên nữa. Thể hiện ở các mặt sau: Quy mô của sản xuất công nghiệp tăng không ngừng và với tốc độ nhanh hàng loạt các ngành công nghiệp mới ra đời, đã khai thác sử dụng tài nguyên với một khối lượng lớn hơn trước rất nhiều, làm cho nguồn tài nguyên trở nên cạn kiệt. Hậu quả tất yếu không thể tránh khỏi là diện tích đất đai dành cho nông nghiệp và nguồn động, thực vật giảm đi nhanh chóng, phá vỡ thảm thực vật bao phủ bề mặt trái đất, làm giảm độ màu mỡ gây bạc màu chua mặn.... Tốc độ khai thác, sử dụng các loại tài nguyên động, thực vật dùng cho chế biến công nghiệp nhanh hơn rất nhiều lần khả năng tự tái sinh của thế giới động thực vật, đã làm giảm màu xanh trên trái đất. Tình trạng khai thác rừng ồ ạt với quy mô tốc độ lớn đã làm giảm tài nguyên rừng nghiêm trọng. Nhiều loại động, thực vật trên thế giới bị diệt chủng, khoảng 60000 loài động, thực vật đang trong tình trạng suy thoái. Đây là nguy cơ dẫn đến hậu quả khôn lường do môi trường tự nhiên tác động trở lại. Công nghiệp khai thác tài nguyên khoáng sản phát triển nhanh nhằm đáp ứng nhu cầu của công nghiệp chế biến đã tác động trực tiếp to lớn đến môi trường, phá huỷ bề mặt trái đất làm thay đổi địa hình nhiều nguồn tài nguyên bị sử dụng lãng phí. Một lượng chất thải lớn hàng năm được trả lại môi trường dưới các dạng lí hoá tính khác nhau. Tất cả những tác động đó của phát triển công nghiệp dẫn đến những hậu quả to lớn đối với môi trường cụ thể là: + Hiệu ứng nhà kính, do tăng lượng khí CO 2 dẫn đến tăng nhiệt độ môi trường. + Phá vỡ tâng ôzôn. + Bão từ. + Ô nhiễm đất, nguồn nước, không khí. Lượng ôxi và nguồn nước giảm trong khi đó các loại khí độc như NH4, CO2... tăng rất nhanh. b) Những biện pháp phát triển công nghiệp với bảo vệ môi trường. - Lựa chọn công nghệ thích hợp vừa đảm bảo tốc độ tăng trưởng và phát triển công nghiệp hợp lí vừa đảm bảo các tiêu chí bảo vệ môi trường. - Hoàn thiện hệ thống tổ chức sản xuất công nghiệp theo hướng kết hợp phát triển công nghiệp với bảo vệ môi trường tự nhiên. - Tổ chức công tác sử lí chất thải công nghiệp tăng cường vai trò và hoàn thiện các công cụ quản lí của Nhà nước, nhằm hạn chế tác động tiêu cực của phát triển công nghiệp tới môi trường. - Tiến hành thực hiện một số biện pháp bảo vệ môi trường theo cơ chế thị trường: + Đánh thuế ô nhiễm. + Cấp giấy phép ô nhiễm chuyển nhượng. + Thành lập quỹ bảo vệ môi trường. 2.2.6. Phát triển công nghiệp với nâng cao chất lượng cuộc sống. Một câu hỏi được đặt ra là: Công nghiệp hoá có thực sự nâng cao chất lượng cuộc sống hay không? Câu hỏi này được đặt ra bởi vì kết quả tăng trưởng kinh tế do công nghiệp mang lại thường dẫn đến sự tắc nghẽn giao thông, sự đi lại nơi làm việc ngày càng xa, gia tăng tội phạm, ô nhiễm môi trường. Nghĩa là tạo ra các yếu tố làm giảm chất lượng cuộc sống. Đó là một thực tế nhưng để đánh giá chất lượng cuộc sống thì có rất nhiều cách thức và rất nhiều yếu tố để đánh giá rất khó có thể đưa ra được kết luận đúng trên mọi giác độ. .Ngày nay phổ biến người ta dùng ba yếu tố cơ bản là: tuổi thọ bình quân, mức độ biết chữ, sức mua thực tế của người dân. Nhưng các yếu tố phản ánh chất lượng cuộc sống này đều phụ thuộc vào mức thu nhập quốc dân (GDP) trên đầu người. Tính quy luật là khi thu nhập quốc dân theo đầu người tăng lên thì tỉ lệ dân đô thị tăng lên, tỉ lệ học sinh tăng, tỉ lệ thầy thuốc trên 1000 dân tăng, tỉ lệ người dưới mức nghèo khổ giảm, tuổi thọ trung bình tăng....Những xu hướng trên khăng định rằng phát triển công nghiệp đã dẫn đến sự thay đổi căn bản về mức sống của dân cư, cải thiện chất lượng cuộc sống. 3.- Các chỉ tiêu đánh giá sự phát triển công nghiệp. Phát triển công nghiệp là sự chuyển đổi căn bản cả về chất và lượng của công nghiệp trên cơ sở đổi mới công nghệ, tạo ra sự vượt trội của công nghiệp trong cơ cấu kinh tế và cơ cấu lao động làm nền tảng cho sự phát triển nhanh, hiệu quả cao và bền vững của toàn bộ nền kinh tế. Kết quả của quá trình phát triển công nghiệp là sự chuyển đổi căn bản toàn diện các hoạt động sản xuất kinh doanh, dịch vụ và quản lí kinh tế-xã hội từ sử dụng lao động thủ công là chính sang sử dụng một cách phổ biến sức lao động hiệu quả và trình độ văn minh kinh tế xã hội cao. Quá trình phát triển công nghiệp được thể hiện ở các chỉ tiêu sau: 3.1. Quy mô và tốc độ phát triển. Trong qúa trình phát triển của công ngiệp thì quy mô và tốc độ phát triển của công nghiệp không ngừng tăng lên. Để đánh giá quy mô của công nghiệp người ta sử dụng các chỉ tiêu cụ thể như: giá trị tổng sản lượng, giá trị gia tăng hàng năm, số lượng lao động trong công nghiệp....Để đánh giá tốc độ tăng trưởng hàng năm của công nghiệp người ta thường dùng các chỉ tiêu: Tốc độ tăng của giá trị tổng sản sản lượng công nghiệp và tốc độ tăng của GDP công nghiệp. Trong quá trình phát triển của công nghiệp thì các chỉ tiêu này phải được duy trì ở tốc độ cao. Nhưng khi công nghiệp đã phát triển, nghĩa là giá trị tổng sản lượng và GDP công nghiệp lớn thì việc tạo ra được 1% giá trị gia tăng sẽ khó khăn hơn. 3.2. Cơ cấu công nghiệp chuyển đổi theo hướng hiện đại hoá. Chuyển đổi cơ cấu ngành. Chuyển đổi cơ cấu ngành công nghiệp biểu hiện dưới mặt lượng là sự thay đổi mối tương quan tỉ lệ của mỗi phân ngành trong công nghiệp. Sự thay đổi đó biểu hiện ở một trong hai yếu tố: Số lượng ngành thay đổi hoặc mối tương quan tốc độ phát triển giữa các ngành có sự thay đổi. Về mặt chất sự chuyển đổi cơ cấu ngành thể hiện ở sự thay đổi phương án bố trí các ngành trong chiến lược phát triển và vị trí từng phân ngành trong cơ cấu làm thay đổi tính cân đối cũ để chuyển sang một trạng thái cân đối mới ở trình độ cao hơn. Chuyển đổi cơ cấu theo thành phần kinh tế. Không có một lí thuyết chung đánh giá sự chuyển đổi cơ cấu công nghiệp theo thành phần kinh tế trong quá trình phát triển công nghiệp, bởi xác định cơ cấu công nghiệp theo thành phần kinh tế bị phụ thuộc rất nhiều vào các yếu tố chủ quan. Tuy nhiên ở nước ta trong quá trình phát triển công nghiệp thì cơ cấu công nghiệp theo thành phần kinh tế cần được chuyển đổi theo hướng tăng cường vị trí, vai trò của khu vực phi quốc doanh. Thực tế cho thấy trong những năm qua khu vực kinh tế quốc doanh ở trong tình trạng trì trệ kém phát triển và đã bộc lộ nhiều hạn chế về công nghệ, trình độ quản lí, trình độ lao động và “sức ỳ” trong khu vực quốc daonh là rất lớn. Như vậy tăng cường vị trí vai trò của khu vực phi quốc doanh trong quá trình phát triển là biểu hiện của sự chuyển đổi cơ cấu theo thành phần kinh tế trong quá trình phát triển công nghiệp. Tổ chức sản xuất công nghiệp theo lãnh thổ Tổ chức sản xuất công nghiệp theo lãnh thổ là sự phân công sản xuất sản phẩm giữa các vùng lãnh thổ để hình thành phương án sản xuất sản phẩm và bố trí các đơn vị sản xuất, các tổng hợp thể sản xuất trên phạm vi không gian lãnh thổ. Trên cơ sở nhận thức, vận dụng các quy luật tự nhiên, kinh tế xã hội nhất định. Tổ chức sản xuất theo lãnh thổ là một hoạt động nhằm xác định phương án cơ cấu sản xuất theo ngành trên mỗi vùng lãnh thổ kết hợp giữa chuyên môn hoá với đa dạng hoá các ngành sản xuất trên mỗi vùng lãnh thổ trên cơ sở phát huy lợi thế của mỗi vùng để định hướng chuyên môn hoá sản xuất giữa các vùng, nhờ đó nâng cao trình độ sản xuất giữa các đơn vị lãnh thổ trên vùng và giữa các vùng trong quá trình phát triển. Cơ cấu công nghiệp trong nước và nước ngoài. Qua hơn 10 năm thực hiện đổi mới thì khu vực công nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đã tăng lên đáng kể. Với một nền kinh tế nhỏ bé và ngành công nghiệp phần nào còn non trẻ của Việt Nam thì đầu tư nước ngoài đóng một vai trò hết sức quan trọng. Việc chuyển dịch cơ cấu công nghiệp trong nước và nước ngoài ở Việt Nam hiện nay cũng là một trong những tiêu chí để đánh giá sự phát triển của công nghiệp. Kể từ sau khủng hoảng kinh tế khu vực cho đến nay vấn đè đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam đang làm cho các nhà hoạch định chính sách, xây dựng chiến lược phải suy nghĩ, bởi đầu tư nước ngoài liên tục giảm trong những năm gần đây. Trong thời gian tới chúng ta cần phải có những biện pháp thích hợp để thu hút trở lại nguồn vốn này như trong giai đoạn đầu những năm 90. 3.3. Mức độ tập trung hoá. Sự ra đời và phát triển của các ngành sản xuất vật chất gắn liền với quá trình phân công lao động xã hội và tiến bộ khoa học công nghệ. Trong quá trình ấy trình độ tập trung hoá sản xuất của chúng cũng không ngừng được nâng cao. Thực chất của tập trung hoá sản xuất là quá trình tập trung lao động và các yếu tố vật chất vào một ngành chuyên môn hoá nhờ đó làm tăng GDP của ngành. Mức độ tập trung hoá được xác ._.định như sau: Trong đó: k là mức độ tập trung hoá. GDPi là GDP ngành i. GDPtn là GDP toàn ngành công nghiệp Li là lao động ngành i Ltn là lao động toàn ngành công nghiệp Công thức này cho ta cách tính mức độ tập trung hoá của công nghiệp. Mức độ tập trung hoá của ngành càng cao thể hiện ngành đó càng phát triển. 3.4. Sự phát triển của một số ngành sản phẩm chủ yếu. Sẽ là nhầm lẫn khi nói rằng để phát triển công nghiệp chúng ta tiến hành đầu tư phát triên tất cả các ngành sản phẩm công nghiệp . Điều này là không thể thực hiện được với các quốc gia đang phát triển và đồng thời thì nó cũng sẽ không đúng dưới cả góc độ lí thuyết là chúng ta luôn luôn giải bài toán kinh tế trong điều kiện khan hiếm nguồn lực. Chính vì vậy việc hình thành lên một số sản phẩm công nghiệp chủ yếu làm mũi nhọn cho sự phát triển chung của toàn ngành công nghiệp là đúng đắn và cần thiết. Trên cơ sở tất cả các lợi thế so sánh, căn cứ vào nhu cầu thị trườngvà căn cứ vào chiến lược phát triển của công nghiệp thì trên mỗi vùng và trên toàn bộ lãnh thổ sẽ hình thành lên các sản phẩm chủ lực cho mình. Sự hình thành lên các sản phẩm chủ lực sẽ giải quyết được bài toán khan hiếm về nguồn lực và đồng thời sẽ tạo ra sự phát triển chung cho toàn ngành công nghiệp cũng như sự phát triển của nền kinh tế và đây là một tiêu chí đẻ đánh giá sự phát triển chung của công nghiệp . Trong thời gian qua ở Việt Nam cũng như vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ đã hình thành lên được một số sản phẩm quan trọng thúc đẩy sự phát triển kinh tế xã hội. Nhưng cho đến nay một số sản phẩm quan trọng như sản xuất đường, ximăng, sản xuất và lắp ráp ôtô, xe máy đang đứng trước những khó khăn lớn, sản phẩm tồn kho rất cao và chưa có thị trường tiêu thụ. Chính phủ Việt Nam đã thực hiện một số giải pháp kinh cầu và cho đến nay cũng đã có một số kết qủa đáng kể. Nhưng nhìn chung thì các giải pháp đó cũng chưa đủ mạnh để giải quyết tình trạng “trì trệ” trong phát triển kinh tế của Việt Nam hiện nay. III-/ Các nhân tố ảnh hưởng tới quá trình phát triển công nghiệp vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ quá trình phát triển công nghiệp như đã phân tích ở trên ảnh hưởng rất lớn đến nhiều mặt của nền kinh tế trên cả hai phương diện tiêu cực và tích cực. Nhưng đồng thời với quá trình đó thì công nghiệp cũng chịu tác động của nhiều yếu tố tự nhiên, kinh tế, xã hội. Các yếu tố đó cụ thể như sau: 1.- Các điều kiện tự nhiên. -Vị trí địa lí đây là một nguồn lực cần được xem xét khi xác định cơ cấu công nghiệp để phát triển. Đó là một tất yếu trong quá trình xây dựng nền kinh tế mở tăng cường và mở rộng các quan hệ kinh tế quốc tế, hội nhập vào đời sống kinh tế của quốc gia, khu vực và thế giới. Vị trí địa lí thuận lợi là đầu mối giao lưu kinh tế quốc tế, sẽ tạo thành lợi thế so sánh với các vùng khác. Vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ có một vị trí địa lí hết sức thuận lợi, nếu tận dụng được lợi thế này thì đây là một yếu tố tác động mạnh mẽ tới quá trình phát triển kinh tế nói chung và tới phát triển công nghiệp nói riêng. - Các loại tài nguyên thiên nhiên (khoáng sản, lâm sản, hải sản) và các điều kiện tự nhiên (thổ nhưỡng, khí hậu, thời tiết, sông hồ, bờ biển, thềm lục địa...) tác động mạnh mẽ tới quá trình phát triển công nghiệp của vùng. Các yếu tố này hoặc trở thành đối tượng lao động để phát triển các ngành khai thác và chế biến, hoặc trở thành điều kiện để xây dựng và phát triển các ngành công nghiệp. Tài nguyên thiên nhiên phong phú, trữ lượng lớn, điều kiện khai thác thuận lợi sẽ cho phép xây dựng cơ cấu công nghiệp gồm nhiều ngành với nền tảng vững chắc để phát triển. Cần chú ý rằng các nguồn lợi tự nhiên trên có loại ảnh hưởng trực tiếp tới phát triển công nghiệp có loại ảnh hưởng gián tiếp đến cơ cấu công nghiệp qua sự ảnh hưởng đến phát triển các ngành kinh tế khác (nông, lâm, ngư nghiệp, kết cấu hạ tầng kĩ thuật...). Vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ không phải là vùng giầu tài nguyên nhất so với các vùng khác trong cả nước. Tuy vậy vùng có một số loại tài nguyên với trữ lượng lớn, quan trọng và một số chiếm tỉ trọng lớn so với cả nước. Địa bàn trọng điểm cần phải tận dụng tiềm năng này để tiềm năng có thể trở thành lợi thế so sánh cho phát triển công nghiệp. 2.- Các điều kiện về kinh tế xã hội. 2.1. Các điều kiện về lịch sử xã hội của vùng. Mỗi vùng đều có những ngành nghề truyền thống, kinh nghiệm, kĩ năng truyền thống và những tập quán sản xuất. Tất cả những yếu tố lịch sử xã hội của vùng là những nhân tố tác động tới phương án tổ chức sản xuất trên vùng, tới sự phát triển công nghiệp của vùng. Sự phát triển lâu đời còn tạo ra những mối quan hệ trong sản xuất cũng như trong đời sống xã hội của vùng. ở đây những người lao động với tâm lí, tập quán, thói quen với tiện nghi sinh hoạt đã tạo ra sự gắn bó với quê hương hình thành những nhu cầu mở rộng sản xuất, tạo việc làm tại chỗ cho số lao động tăng lên hàng năm. Dân tộc là biểu hiện tập trung của các yếu tố lịch sử xã hội có ảnh hưởng lớn đến tổ chức sản xuất trên vùng. Vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ với một lực lượng lao động có dân trí cao đa phần là dân tộc kinh với ba đỉnh là ba thành phố lớn. Chính vì vậy các yếu tố lịch sử xã hội đều mang tính chất tiên tiến, tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển. Tuy vậy cũng cần phải chú ý tới các yếu tố lịch sử xã hội này một cách đúng mức để nó luôn luôn tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển, tránh tình trạng có những tác động tiêu cực ngược chiều. 2.2. Dân số và nguồn nhân lực. Dân số và nguồn nhân lực được coi là một nguồn lực quan trọng để phát triển kinh tế nói chung, công nghiệp nói riêng. Trước hết dân số và mức sống của dân cư tạo thành thị trường to lớn mà các ngành công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng phải phát triển mạnh mẽ để đáp ứng nhu cầu. Thứ hai, trình độ dân trí, khả năng tiếp thu kĩ thuật mới của lao động tạo thành cơ sở quan trọng để phát triển các ngành kĩ thuật cao. ở những quốc gia có nguồn lao động dồi dào trong cơ cấu công nghiệp cần chú ý đúng mức việc phát triển các ngành sử dụng nhiều lao động để góp phần tạo thêm việc làm, giải quyết tình trạng thất nghiệp. Vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ có một lực lượng lao động với trình độ học vấn cao nhất cả nước, đây là một lợi thế rất lớn của vùng. Nếu như lợi thế này được phát huy đúng mức thì sẽ trở thành động lực để cho địa bàn trọng điểm phát triển hơn đúng với tiềm năng và yêu cầu đặt ra. 2.3. Tiến bộ khoa học công nghệ Trong điều kiện cuộc cách mạng khoa học công nghệ ngày nay, cơ cấu công nghiệp của một nước vừa phải phản ánh su thế phát triển khoa học công nghệ, vừa phải biểu thị khả năng ứng dụng những thành tựu mới của khoa học và công nghệ. Sự ảnh hưởng của tiến bộ khoa học công nghệ đến sự phát triển công nghiệp thể hiện trên các mặt chủ yếu sau: -Tiến bộ khoa học công nghệ thúc đẩy sự phát triển phân công lao động xã hội. Phân công lao động xã hội xã hội là tác nhân trực tiếp tác động tới sự phát triển công nghiệp, tới sự phân hoá nội bộ ngành công nghiệp thành những phân hệ khác nhau. Bởi vậy, trình độ tiến bộ khoa học và công nghệ ngày càng cao, phân công lao động xã hội càng sâu sắc, sự phân hoá công nghiệp diễn ra càng mạnh và cơ cấu công nghiệp càng phức tạp, đa dạng tạo điều kiện cho công nghiệp phát triển. -Việc thực hiện các nội dung của tiến bộ khoa học và công nghệ trong tất cả các lĩnh vức của đời sống kinh tế xã hội đòi hỏi phải phát triển mạnh một số ngành công nghiệp. Nói cách khác sự phát triển một số ngành công nghiệp then chốt, trọng điểm là điều kiện vật chất thiết yếu để thực hiện mạnh mẽ và có hiệu quả các nội dung của tiến bộ khoa học công nghệ. Đồng thời tiến bộ khoa học công nghệ tạo ra những khả năng sản xuất mới đẩy nhanh nhịp độ phát triển một số ngành, tạo ra những nhu cầu mới, làm hạn chế ảnh hưởng của tự nhiên cho phép phát triển công nghiệp ngay cả khi những điều kiện tự nhiên không thuận lợi. Về khoa học công nghệ của vùng kinh tế trọng điểm, đây là một hạn chế, công nghiệp trong vùng đã có từ rất lâu nhưng ít được đổi mới. Chính vì thế cho đến ngày nay công nghệ nhìn chung đã lạc hậu so với khu vực và thế giới. Địa bàn trọng điểm cần phải có sự đổi mới công nghệ, tránh tình trạng tụt hậu quá xa, hạn chế sự phát triển của công nghiệp cũng như sự phát triển chung của cả vùng. 2.4. Các điều kiện về vốn. vốn có loại cơ bản: vốn sản xuất và vốn đầu tư. -Vốn sản xuất được hiểu là giá trị của những tài sản được sử dụng làm phương tiện phục vụ cho quá trình sản xuất bao gồm vốn cố định và vốn tồn kho. Trong đó vốn cố định là bộ phận cơ bản. -Vốn đầu tư là tiền tích luỹ của xã hội, của các cơ sở sản xuất kinh doanh dịch vụ, là tiền tiết kiệm của dân và vốn huy động từ các nguồn khác được đưa vào sử dụng trong quá trình tái sản xuất xã hội nhằm duy trì tiềm lực sẵn có và tạo ra tiềm lực lớn hơn cho sản xuất, kinh doanh, dịch vụ sinh hoạt xã hội và sinh hoạt trong mỗi gia đình. Đầu tư là bộ phận lớn và hay thay đổi trong chi tiêu. Do đó những thay đổi trong đầu tư có thể tác động lớn đối với sự phát triển kinh tế nói chung và tới sự phát triển công nghiệp nói riêng. Hoạt động đầu tư tác động tới cả tổng cầu và tổng cung của nền kinh tế. Khi đầu tư tăng lên có nghĩa là nhu cầu về chi tiêu để mua sắm máy móc thiết bị, phương tiện vận tải, vật liệu xây dựng...tăng lên. Quá trình đầu tư này sẽ dẫn đến tăng vốn sản xuất, nghĩa là có thêm các nhà máy, thiết bị, phương tiện vận tải mới được đưa vào sản xuất, làm tăng khả năng sản xuất của nền kinh tế. Điều cần lưu ý là những tác động của vốn đầu tư và vốn sản xuất tới nền kinh tế mà cụ thể tới phát triển công nghiệp không phải là quá trình riêng rẽ mà nó là sự kết hợp, đan xen lẫn nhau, tác động một cách liên tục nhiều chiều. Ngày nay vốn đầu tư và vốn sản xuất được coi là yếu tố quan trọng của quá trình sản xuất. Nếu lao động và tài nguyên chỉ được coi là yếu tố đầu vào thì vốn đầu tư vừa được coi là yếu tố đầu vào, vừa được coi là yếu tố đầu ra của quá trình sản xuất. Vốn đầu tư không chỉ là cơ sở để tạo ra vốn sản xuất, tăng năng lực sản xuất của các doanh nghiệp, của ngành công nghiệp, của nền kinh tế, mà nó còn là điều kiện để nâng cao trình độ khoa học-công nghệ, góp phần đáng kể vào việc đầu tư theo chiều sâu, hiện đại hoá quá trình sản xuất. Việc tăng vốn đầu tư cũng góp phần giải quyết công ăn việc làm cho người lao động khi mở rộng ra các công trình xây dựng và mở rộng ra quy mô sản xuất. Cùng với quá trình đó là sự phát triển của ngành công nghiệp. Trên địa bàn trọng điểm Bắc Bộ trong những năm qua việc sử dụng vốn đầu tư đã góp phần vào quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế cũng như cơ cấu công nghiệp theo chiều hướng tích cực, tăng nhanh tỉ trọng của công nghiệp chế biến trong cơ cấu công nghiệp. Một số ngành kinh tế quan trọng như; thông tin, viễn thông, công nghiệp ximăng, sắt thép, điện tử, lắp ráp ôtô, xe máy đã có những bước phát triển đáng kể. Nhưng trong những năm gần đây, vốn đầu tư toàn xã hội trên vùng kinh tế trọng điểm có su hướng giảm sút. Việc giảm đầu tư này sẽ kéo theo những hậu quả nghiêm trọng ảnh hưởng trực tiếp tới sự phát triển công nghiệp cũng như phát triển kinh tế của vùng. Đây là một vấn đề mà phải sớm có biện pháp giải quyết. 2.5. Các điều kiện về kết cấu hạ tầng. Kết cấu hạ tầng có vai trò đặc biệt quan trọng đối với sự phát triển công nghiệp. Người ta không thể phát triển được công nghiệp trên một hệ thống kết cấu hạ tầng yếu kém. Hệ thống giao thông, các cảng biển, hệ thống cấp thoát nước, hệ thống điện, hệ thống thông tin liên lạc... đây là những yếu tố thuộc về kết cấu hạ tầng, tác động trực tiếp tới sự phát triển của công nghiệp. Đến lượt mình khi đã phát triển thì công nghiệp lại có những tác động trở lại thúc đẩy sự phát triển của kết cấu hạ tầng. ở đây ta có thể nói kết cấu hạ tầng là điều kiện, tiền đề, là cơ sở vật chất cơ bản thúc đẩy sự phát triển của công nghiệp. Chính vì vậy để phát triển công nghiệp thì việc đầu tư vào kết cấu hạ tầng là vô cùng cần thiết. Nhưng có một vấn đề cần phải lưu ý là việc đầu tư vào kết cấu hạ tầng thường đòi hỏi một lượng vốn lớn, thời hạn thu hồi vốn lâu, đây là lí do không khuyến khích tư nhân đầu tư vào lĩnh vực này. Chính vì thế Nhà nước cần phải có sự đầu tư phù hợp vào kết cấu hạ tầng, việc xây dựng một hệ thống kết cấu hạ tầng phù hợp là điều rất cần thiết, điều này đảm bảo nguyên tắc là phát triển kết cấu hạ tầng để đạt được mục tiêu cuối cùng là phát triển công nghiệp, phát triển kinh tế. Trong thời gian qua vùng kinh tế trọng điểm cũng đã được đầu tư thích đáng vào hệ thống kết cấu hạ tầng tuy nhiên cũng còn có nhiều vấn đề cần phải xem xét lại trên một giác độ tổng hợp. Điều này sẽ được trình bày cụ thể hơn trong chương II “ Thực trạng phát triển công nghiệp trên địa bàn trọng điểm” của chuyên đề. 2.6. Các vấn đề về thị trường. Thị trường là một vấn đề có vai trò hết sức quan trọmg cho quá trình phát triển công nghiệp. Thị trường ngày càng trở nên đa dạng ngoài thị trường truyền thống là thị trường hàng hoá thì ngày nay xuất hiện thêm nhiều loại thị trường mới như thị trường vốn, thị trường lao động, thị trường công nghệ....Để đánh giá ảnh hưởng của thị trường tới sự phát triển công nghiệp trên địa bàn trọng điểm ta chia các loại thị trường trên ra thành hai loại cơ bản là thị trường các yếu tố đầu ra và thị trường các yếu tố đầu vào. Nhìn chung sự phân chia này chỉ là tương đối nhưng cả hai loại thị trường này đều tác động mạnh mẽ đến sự phát triển của công ngiệp. Ngoài ra người ta còn chia thị trường thành thị trường trong nước và thị trường ngoài nước. Dưới đây chuyên đề sẽ đi sâu phân tích những tác động của thị trường trong nước và thị trường ngoài nước tới sự phát triển công nghiệp vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ. a) ảnh hưởng của thị trường trong nước. Theo thống kê cho thấy địa bàn trọng điểm có mối quan hệ trao đổi với tất cả các vùng và có thị trường trao đổi rộng khắp trong cả nước. Dự báo nhu cầu thị trường trong nước. Theo dự báo dân số cả nước đến năm 2005 khoảng 83-84 triệu người năm 2010 khoảng 87-88 triệu người. Đây là thị trường rất lớn cần tính đến cho sự phát triển công nghiệp trên địa bàn trọng điểm. Về nhu cầu hàng tiêu dùng Theo dự báo sơ bộ phát triển kinh tế xã hội đến năm 2005 GDP bình quân đầu người của Việt Nam đạt 600-800 USD và đến năm 2010 đạt 900-1200 USD, mức tiêu dùng hàng hoá bình quân đầu người đạt 250-300 USD/năm vào năm 2005 tăng 3-5 lần so với năm 1995, và đến năm 2010 đạt đạt 400-500 USD/năm tăng 6-8 lần so với năm 1995. Tuy nhiên nhu cầu hàng tiêu dùng không đơn thuần tăng lên về mặt số lượng mà thu nhập thay đổi thì cơ cấu tiêu dùng sẽ thay đổi, thu nhập càng cao thì yêu cầu về chất lượng hàng hoá, dịch vụ bán hàng, dịh vụ sau bán hàng đều phải nâng cao, đồng thời thì tỉ lệ thu nhập dành cho tiêu dùng các hàng hoá thứ cấp giảm và các hàng hoá tiêu dùng cao cấp sẽ tăng lên. Với những tính toán sơ bộ trên cho thấy công nghiệp trên địa bàn trọng điểm có một thị trương nội địa to lớn với sức mua ngày càng tăng, có cơ hội phát triển nhưng cúng sẽ phải cạnh tranh rất gay gắt với các địa bàn khác và hàng nhập khẩu. Về nhu cầu tư liệu sản xuất Từ nay đến năm 2010 cả nước đứng trước sự thay đổi to mlớn trên tất cả các mặt, đặt ra những nhu cầu cho ngành công nghiệp cả nước cũng như công nghiệp trên địa bàn trọng điểm. -Nhu cầu to lớn về thiết bị và phụ tùng cho các ngành sản xuất, đáp ứng nhu cầu đầu chiều sâu của các ngành. Đó là các thiết bị nhỏ lẻ, phụ tùng thay thế, các máy công tác, các loại động cơ điện... những sản phẩm thuộc các ngành cơ khí chế tạo mà trên địa bàn đặc biệt là Hà Nội đã có ưu thế. -Do yêu cầu về thay đổi cơ cấu trong nông nghiệp, tăng diện tích trồng cây công nghiệp ngắn ngày, cây công nghiệp và cây công nghiệp dài ngày, với một số lượng lớn nguyên liệu cần được chế biến làm tăng hiệu quả của sản xuất nông nghiệp và tạo ra sự phân công lao động mới trong nông nghiệp và nông thôn. Ngành cơ khí còn cần đáp ứng những thiết bị nhỏ, đáp ứng nhu cầu chế biến của nông nghiệp. -Vùng núi phía Bắc và Tây nguyên có nhu cầu phát triển các thuỷ điện nhỏ, do đó cần được đáp ứng nhiều thiết bị thuỷ điện nhỏ mà địa bàn có khả năng sản xuất. Vị trí địa bàn trọng điểm với hệ thống cảng biển và sông lớn có nhu cầu lớn về sửa chữa cũng như đóng mới các phương tiện thuỷ. Đó là tiền đề quan trọng để phát triển mạnh công nghiệp đóng, sửa chữa tàu biển trên địa bàn trọng điểm. b) ảnh hưởng của thị trường nước ngoài. - Thị trường Nhật Bản. Nhật Bản là nước ôn đới, hầu như không có tài nguyên khoáng sản, nằm gần ta, hệ thống giao thông thuận lợi, Nhật Bản lại là một cường quốc kinh tế hàng đầu thế giới, do đó quan hệ buôn bán giữa nước ta với Nhật Bản chiếm vị trí rất quan trọng. Hiện nay thị trường Nhật Bản đã chiếm một tỉ trọng cao giá trị hàng xuất khẩu của ta, những năm tới tỉ trọng này vẫn có thể được duy trì. Điều đó nói lên vị trí cực kì quan trọng đối với các mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam. Vùng kinh tế trọng điểm có thể xuất sang Nhật Bản các mặt hàng chủ yếu sau: + Về nông sản: Gạo, ớt, tỏi, đậu, rau, hoa quả tươi, nông sản chế biến... + Về lâm sản: Các sản phẩm đồ gỗ, hàng mây tre, các loại dược liệu, nhựa thông.... + Về hải súc sản: Thịt các loại, cá , tôm, mực.... + Về khoáng sản: Than đá và một số khoáng sản khác. Các mặt hàng Việt Nam cũng như vùng kinh tế trọng điểm có thể nhập khẩu từ Nhật Bản chủ yếu là máy móc thiết bị có kĩ thuật cao, các loại linh kiện điện tử, các loại máy móc thiết bị phục vụ sinh hoạt.... - Thị trường Trung Quốc. Trung Quốc nằm kề sát với nước ta về phía bắc, điều kiện giao thông thuận lợi, có nhiều cửa khẩu thông thương giữa hai nước. Quan hệ trao đổi buôn bán giữa hai nước đã có truyền thống lâu đời nhưng mấy năm gần đây quan hệ đó ở vào thời kì sôi động nhất. Hiện nay Trung Quốc đang có tỉ lệ tăng trưởng ổn định, bền vững, dân số khoảng 1.4 tỉ người, là một thị trường rất lớn. Việt Nam có thể xuất sang Trung Quốc các mặt hàng chủ yếu sau: + Hàng nông sản: Gạo, rau, đậu, hoa quả, đay, cói... +Hàng lâm sản: Hàng mây tre, cá sản phẩm đồ gỗ, các loại dược liệu... + Hàng thuỷ súc sản: Cá, tôm, thịt các loại... + Các loại hàng khác như: Than, muối.... Mặt khác Việt Nam có thể nhập về các mặt hàng chủ yếu như nhà máy xi măng, luyện cán thép, dệt, máy phát điện, các loại mô tơ, máy bơm nước và một số mặt hàng tiêu dùng khác. - Thị trường Hàn Quốc. Việt Nam có thể xuất khẩu các mặt hàng chủ yếu sau: + Về nông sản: Lạc, đậu tương, đậu xanh, lâu dài có thể cung cấp hoa quả tươi, nông sản chế biến. + Về lâm sản: Các sản phẩm đồ gỗ, hàng mây tre... + Về hải, súc sản: Thịt lợn, bò và gia cầm, tôm, mực, cá các loại. + Về khoáng sản có: Than đá Đối với Việt Nam chủ yếu là nhập nguyên liệu, nhiên liệu cho công nghiệp như sắt, thép, phân bón, hoá chất, máy móc thiết bị cho công nghiệp nhẹ, tơ sợi, linh kiện điện tử... - Thị trường EU. Thị trường EU là thị trường mà Việt Nam đã xâm nhập tuy chưa lâu nhưng cho đến nay Việt Nam đã có một số mặt hàng khẳng định được vị trí của mình trên thị trường EU. Đây là một thị trường lớn, yêu cầu cao về chất lượng, mẫu mã sản phẩm. Việt Nam có thể xuất khẩu các mặt hàng chủ yếu sau sang thỉtường EU. + Về nông sản: Gạo, lạc, đậu tương, đậu xanh, ớt, tỏi... + Về lâm sản: Các sản phẩm đồ gỗ, hàng mây tre... + Về hải súc sản: Thịt các loại, gia cầm, tôm, mực... + Về các hàng công nghiệp nhẹ: Hàng may mặc, dệt, giày dép, gốm, sứ... Việt Nam có thể nhập khẩu từ EU các loại mặt hàng như: Thiết bị toàn bộ hoặc thiếtbị lẻ, một số hàng tiêu dùng, thuốc tân dược,xe hơi, điện gia dụng, thiết bị khai thác dầu khí... - Thị trường ASEAN. Việt Nam là một thành viên của ASEAN. Thị trường ASEAN là một thị trường lớn ta có thể nhập hoặc xuất rất nhiều các mặt hàng, khi hàng rào thuế quan bãi bỏ thì đây vừa là cơ hội vừa là thách thức đối với ngành công nghiệp phần nào còn non trẻ của Việt Nam. Việt Nam cần phải có hướng đi đúng đắn để khai thác tối đa thị trường này, góp phần quan trọng vào việc khẳng định vị trí của Việt Nam trong trong khu vực và trên thế giới. - Thị trường Bắc Mỹ. Thị trường Bắc Mỹ là một thị trường mới đối với Việt Nam, quan hệ buôn bán giữa Việt Nam và thị trường này cho đến nay vẫn còn rất khiêm tốn. Hiện nay Chính phủ Việt Nam đang có những súc tiến mạnh mẽ để các doanh nghiệp của chúng ta có thể xâm nhập được vào thị trường này. Như vậy rất có thể khi hiệp định thương mại Việt - Mỹ thực sự đi vào hoạt động thì đây sẽ là một cơ hội cho công nghiệp của vùng trọng điểm. Chúng ta cần phải có những chuẩn bị trước về các mặt để có thể xâm nhập được vào thị trường mới hứa hẹn nhiều cơ hội phát triển nhưng cũng đầy những thách thức này. 3.- Các điều kiện về chiến lược - chính sách của Chính phủ. 3.1. Chiến lược phát triển kinh tế xã hội và chiến lược phát triển công nghiệp. Công nghiệp giữ vai trò chủ đạo trong phát triển kinh tế. Chiến lược phát triển công nghiệp có nhiệm vụ thể hiện rõ vai trò ấy, nghĩa là phải thể hiện rõ vai trò định hướng không phải chỉ của bản thân công nghiệp mà còn định hướng sự phát triển của các ngành kinh tế quốc dân theo mô hình phong cách của công nghiệp, bảo đảm cho các ngành những điều kiện vật chất để thực hiện định hướng ấy. Do vậy, chiến lược phát triển công nghiệp giữ vị trí trọng yếu trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội. Một mặt, nó là một nội dung cấu thành chiến lược phát triển kinh tế xã hội, mặt khác nó chi phối nhiều nội dung khác của chiến lược này. Trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội của đất nước phải định rõ phương hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá hiện đại hoá. Thực chất đây là việc xác định sự chuyển dịch vị trí của các ngành kinh tế quốc dân. Trong giai đoạn đầu của quá trình công nghiệp hoá thì nông nghiệp được coi là “mặt trận hàng đầu”. Song sang giai đoạn đẩy nhanh qúa trình công nghiệp hoá, công nghiệp dần chuyển lên vị trí hàng đầu. Nghĩa là cơ cấu kinh tế sẽ chuyển dịch từ cơ cấu nông - công nghiệp - dịch vụ sang cơ cấu công- nông nghiệp- dịch vụ. Chiến lược phát triển công nghiệp phải được định ra trên cơ sở phương hướng chung này và phải thể hiện rõ phương hướng này khi xác định quy mô, tốc độ phát triển các ngành công nghiệp chuyên môn hóa và các giải pháp cơ bản để thực hiện. Chiến lược chung về phát triển công nghiệp là cơ sở để xác định chiến lược, quy hoạch phát triển các ngành công nghiệp chuyên môn hoá có vị trí khác nhau trong hệ thống công nghiệp. Bởi vậy phương hướng, quy mô, tốc độ và bước đi phát triển của chúng cũng khác nhau. Điều này thể hiện trong chiến lược phát triển chung về phát triển công nghiệp và được cụ thể hoá trong quy hoạch phát triển từng ngành công nghiệp chuyên môn hoá. Những ngành then chốt, trọng yếu, những ngành mũi nhọn sẽ phải luôn được ưu tiên hơn về đầu tư, trang bị công nghệ. Mặt khác việc hình thành các loại hình khác nhau của khu công nghiệp cũng được hình thành trên cơ sở định hướng chung đã xác định trong chiến lược phát triển công nghiệp. Đồng thời chiến lược phát triển công nghiệp cũng là cơ sở để xác định chiến lược sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp. Tóm lại chiến lược phát triển công nghiệp có vị trí đặc biệt quan trọng với sự phát triển dài hạn của bản thân công nghiệp, của toàn bộ nền kinh tế quốc dân và các doanh nghiệp. Nó phải được xây dựng trên cơ sở các luận cứ khoa học, đến lượt mình nó lại hình thành các luận cứ khoa học không thể thiếu để thực hiện các nội dung quản lí chiến lược cũng như quản lí tác chiến như; xác định phương hướng và giải pháp huy động, phân bố nguồn lực, tạo thế chủ động để ứng phó với các tình huống bất thường xảy ra. Công nghiệp vùng kinh tế trọng điểm không nằm ngoài sự ảnh hưởng này. 3.2. Các điều kiện về cơ chế chính sách. Các nhân tố về cơ chế chính sách có thể ảnh hưởng tới sự phát triển kinh tế của cả nước, của công nghiệp cả nước cũng như sự phát triển chung của vùng trọng điểm và công nghiệp của vùng trọng điểm. Tuỳ theo những yếu tố như tài nguyên thiên nhiên, trình độ phát triển và các mục tiêu chính trị mà chính sách công nghiệp hoá ở các nước có mục tiêu khác nhau. Tuy vậy các công cụ chính sách được vận dụng để thực hiện các mục tiêu của công nghiệp hoá vẫn có những nét chung. Thông qua các công cụ chính sách Chính phủ thiết lập các quy tắc trò chơi cho các đơn vị sản xuất kinh doanh, dịch vụ trong nền kinh tế quốc dân. Đây là một tập hợp các chính sách quyết định đường lối phát triển và tăng trưởng của công nghiệp. Tác dụng định hướng của các chính sách này là nhân tố quyết định sự hài hoà cân đối giữa các mục tiêu khác nhau. Ví dụ giữa công ăn việc làm và tốc độ tăng trưởng, giữa công bằng và hiệu quả. Các chính sách phải tạo ra điều kiện thuận lợi cho sự phát triển công nghiệp đồng thời phải tính đến các mục tiêu về tài chính, tiền tệ cũng như các mục tiêu khác của Chính phủ. Một công cụ chính sách được đánh giá là tốt khi được đa số quần chúng hiểu và thực hiện. Trong phần này chuyên đề nghiên cứu các công cụ chính sách chủ yếu tác động đến sự phát triển công nghiệp của Việt Nam cũng như của vùng trọng điểm. 3.2.1. Các chính sách thương mại. Chính sách bảo hộ là một công cụ mạnh mẽ để khuyến khích phát triển công nghiệp ở các nước đang phát triển, chính sách bảo hộ không chỉ là sự kiểm soát trực tiếp đối với thương mại mà còn tác động qua chính sách tài chính, tiền tệ. Các chính sách đó liên hệ mật thiết với nhau. Việc sử dụng thuế, hạn ngạch nhập khẩu hay tỉ giá hối đoái đều kéo theo nhiều những tác động phức tạp đằng sau nó, ảnh hưởng trực tiếp tới quá trình sản xuất công nghiệp trong nước. Thực tế rất khó thực hiện một cách có hiệu quả tất cả các chính sách, trong nhiều trường hợp việc sử dụng các công cụ của chính sách thương mại lại có những tác động ngược chiều đối với sự phát triển công nghiệp. 3.2.2. Chính sách tiền tệ. ổn định tiền tệ là điều kiện để tăng mạnh đầu tư vào công nghiệp. Tuy nhiên không nên hi sinh sự tăng trưởng để đạt được sự ổn định tuyệt đối của giá cả. Các nhà doanh nghiệp có vẻ phát đạt khi giá cả tăng lên từ từ, nhưng khi tỉ lệ lạm phát gia tăng thì những rủi ro trong kinh doanh cũng gia tăng và nền kinh tế có thể bị nguy hại, công nghiệp không thể phát triển. Ví dụ cụ thể là cuộc khủng hoảng kinh tế Đông á vừa qua. 3.2.3. Chính sách tín dụng và ngân hàng. Lãi suất và đầu tư quan hệ chặt chẽ với nhau. Khi lãi suất tăng sẽ dẫn đến giảm đầu tư và ngược lại. Việc đưa ra được một lãi suất hợp lí là rất khó khăn. Nếu như lãi suất quá thấp thì khó có thể huy động được vốn trong dân cư, còn nếu như lãi suất cao thì việc đầu tư sẽ bị hạn chế. Đồng thời với cơ cấu nền kinh tế mở như hiện nay thì lãi suất trong nước phải phù hợp với lãi suất trên thị trường quốc tế. Những điều này đủ để khẳng định rằng chính sách tín dụng ngân hàng có một vị trí đặc biệt quan trọng đối với sự phát triển của công nghiệp và của cả nền kinh tế. Trên đây chỉ là những chính sách cơ bản tác động trực tiếp tới sự phát triển của công nghiệp, ngoài ra còn rất nhiều các chính sách khác như: các chính sách về khai thác, quản lí, sử dụng tài nguyên; chính sách về môi trường; chính sách về chất lượng sản phẩm... đều ít nhiều tác động tới sự phát triển của công nghiệp trên nhiều mặt. Trong thời gian qqua Chính phủ đã có rất nhiều các văn bản pháp quy về các chủ trương chính sách liên quan đến sự phát triển của vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ. Chương II Thực trạng phát triển công nghiệp vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ thời gian qua (1995-1999) I-/ Giới thiệu chung về vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ. Trong chiến lược ổn định và phát triển kinh tế – xã hội đến năm 2000 do đại hội Đảng lần thứ VII thông qua đã xác định cần thiết phải phát triển ba vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ, miền Trung và phía Nam. thủ tướng chính phủ đã có quyết định số 747/TTg ngày 11-9-1997; 1618/1997/QĐ-TTg; 44/1998/QĐ-TTg phê duyệt quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế xã hội của ba vùng kinh tế trọng điểm nói trên. Vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ gồm Hà Nội, Hải Phòng, Hải Dương, Hưng Yên và Quảng Ninh. Vùng kinh tế trọng điểm miền Trung gồm Thừa Thiên Huế, Đà Nẵng, Quảng Nam và Quảng Ngãi. Vùng kinh tế trọng điểm phía Nam gồm thành phố Hồ Chí Minh, Đồng Nai, Bình Dương và Bà Rịa-Vũng tàu. Việc hình thành lên ba vùng kinh tế trọng điểm Bắc-Trung-Nam của đất nước là hoàn toàn đúng đắn. Ba vùng kinh tế trọng điểm được hình thành với mục đích là thúc đẩy sự phát triển kinh tế của vùng trên cơ sở tận dụng các lợi thế so sánh, xây dựng các vùng kinh tế trọng điểm trở thành các vùng phát triển kinh tế năng động, có tốc độ tăng trưởng kinh tế nhanh, đi đầu trong một số lĩnh vực quan trọng, góp phần nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế, liên kết chặt chẽ giữa các vùng kinh tế trọng điểm với các vùng khác, tạo động lực cho quá trình phát triển kinh tế xã hội của cả nước. Với điều kiện nền kinh tế Viêt Nam còn lạc hậu, chưa phát triển thì chúng ta chưa thể tiến hành đầu tư toàn bộ, dàn trải, mà phải tiến hành đầu tư có trọng điểm, dựa trên cơ sở lí thuyết cực phát triển. Chính điều này sẽ tạo ra tính hiệu quả và hợp lí trong quá trình phát triển kinh tế. Vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ là một vùng kinh tế tổng hợp, là một tổng thể sản xuất theo lãnh thổ của nhiều ngành kinh tế phát triển cân đối và nhịp nhàng. Trên vùng có nhiều ngành sản xuất chuyên môn hoá, các ngành sản xuất chuyên môn hoá này thể hiện hướng chuyên môn hoá của vùng. Vùng được hình thành trên cơ sở tính toán kinh tế tác động tổng hợp của tất cả các yếu tố tự nhiên, kinh tế, lịch sử và xã hội của vùng 1.- Điều kiện tự nhiên. 1.1.Vị trí địa lí. Vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ với ba đỉnh là ba thành phố Hà Nội-Hải Phòng-Hạ Long và hai tuyến trục huyết mạch thông từ các nơi trong nội địa của Bắc Bộ ra biển và đi quốc tế, là tuyến đường 5 và đường 18 tạo nên sương sống cho toàn Bắc Bộ. Các trung tâm phát triển Vân Nam, Quảng Đông, Quảng Tây của Trung Quốc có quan hệ nhiều chiều với vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ. Theo ý kiến của nhiều chuyên gia, khối lượng hàng hoá quá cảnh khoảng 2,5-3 triệu tấn mỗi năm của Vân Nam và các tỉnh phía tây Trung Quốc qua các cửa khẩu phía Bắc ra biển thông qua cảng Hải Phòng và cảng Cái Lân chỉ với khoảng cách từ 800-1200 km rút ngắn được gần 2/3 đường đi so với đi về phía Đông Hưng-Phong T._. lương thực, thực phẩm. + Công nghiệp dệt may da giầy. + Công nghiệp nhiên liệu, năng lượng. + Công nghiệp sản xuất nguyên liệu cơ bản cho công nghiệp và nền kinh tế như sản xuất thép, xi măng, hoá chất... III-/ Một số giải pháp và kiến nghị chủ yếu phát triển công nghiệp vùng kinh tế trọng điểm Băc Bộ 1.- Các giải pháp. 1.1.Tiến hành quy hoạch chi tiết và thực hiện quy hoạch cụ thể: Tại hội nghị tổng kết công tác thực hiện quy hoạch vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ tổ chức vào tháng 3 - 2000 do Bộ Kế hoạch Đầu tư thực hiện, kết luận rằng: công tác thực hiện quy hoạch tại vùng trọng điểm rất chậm và chất lượng quy hoạch không cao. Chính vì thế để phát triển kinh tế xã hội nói chung và công nghiệp nói riêng cần phải tiến hành quy hoạch chi tiết đối với các thành phố, thị xã, thị trấn, các khu công nghiệp, du lịch, văn hoá cũng như các giải hành lang dọc các tuyến trục chính của vùng kinh tế trọng điểm. Trước hết cần nhanh chóng hiệu chỉnh quy hoạch chi tiết do thành phố Hà Nội, Hải Phòng, thành phố Hạ Long, thị xã Đồ Sơn, thành phố Hải Dương. Tiến hành ngay việc lập quy hoạch chi tiết cho các khu chế xuất, khu công nghiệp tập trung công nghệ cao, khu du lịch... để gọi vốn nước ngoài. Đồng thời các cấp, các ngành cần phải có sự phối hợp chặt chẽ, liên tục khẩn trương trong quá trình thực hiện công tác quy hoạch. 1.2. Giải pháp về vốn đầu tư. Để đạt được các mục tiêu và thực hiện phương án phát triển như trên, theo đánh giá của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, thì giai đoạn 2000 - 2010 nhu cầu tổng vốn đầu tư cho công nghiệp khoảng 30 tỷ USD, trong đó đầu tư trong nước đáp ứng được khoảng 60 - 70% phần còn thiếu sẽ vay và gọi vốn nước ngoài theo phương án tăng tỷ trọng vốn đầu tư trực tiếp và giảm tỷ trọng vốn vay nước ngoài. Đa dạng hoá các nguồn vốn theo hướng một mặt nhờ đó sẽ huy động được nhiều vốn, mặt khác sẽ tạo động lực để sử dụng có hiệu quả các nguồn vốn đó. Tăng nguồn vốn tự có và vốn liên doanh, liên kết. Cần có chính sách cho vay với lãi suất thể hiện chính sách khuyến khích phát triển những ngành, sản phẩm mục tiêu như đã nêu. Phát triển hình thức cổ phiếu, trái phiếu để huy động vốn của dân, tiến hành cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước làm cho người lao động thực sự trở thành người chủ doanh nghiệp. Mỗi doanh nghiệp cần tính toán đầy đủ các luận cứ khi gọi vốn đầu tư nước ngoài. Cần có các biện pháp sử dụng có hiệu quả các nguồn vốn. Với Ngân sách Nhà nước cấp, cần áp dụng hình thức đấu thầu, định mức cấp phát, có biện pháp thu phí từ người sử dụng. Ngân sách sẽ đầu tư qua tín dụng với lãi suất ưu đãi đối với các ngành, các sản phẩm, các công trình cần ưu tiên. Thực hiện việc cấp bách cho vay ưu đãi theo chương trình mục tiêu. Có chính sách và biện pháp tạo sự hấp dẫn nhiều hơn để thu hút mạnh vốn đầu tư nước ngoài nhất là vốn của các doanh nghiệp Nhật Bản, Tây Âu, Hàn Quốc, Đài Loan, Singapore. 1.3. Giải pháp sử dụng đất và bảo vệ môi trường. 1.3.1. Các giải pháp về sử dụng đất. Trên cơ sở định hướng quy hoạch chung, xác định quỹ đất dành cho xây dựng đô thị , các khu chế xuất, các khu công nghiệp, các khu du lịch, vui chơi giải trí, các tuyến đường giao thông ... lập bản đồ quy hoạch sử dụng cho các mục đích nêu trên để trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt. Trước hết cần thành lập quỹ đền bù đất đai. Quỹ này được hình thành do trích một phần vốn đầu tư xây dựng cơ bản một phần kinh phí do Nhà nưóc thu hồi đất (phần vượt quá nhu cầu thực hiện quyền quản lý của các cơ quan, đoàn thể, doanh nghiệp Nhà nước ), để bán quyền sử dụng đất cho tư nhân hoặc các tổ chức khác Sẽ hình thành hệ thống giá và thuế suất sử dụng đất cho các trung tâm đô thị một cách phù hợp để đủ sức giãn bớt dân cư, xí nghiệp công nghiệp ra khu vực khác. Nhà nước sớm ban hành quy chế về sử dụng đất để làm hành lang các tuyến giao thông và bố trí sản xuất một cách thích hợp các khu vực kề hành lang giao thông, để đảm bảo yêu cầu thông xe với vận tốc cao đối với một số tuyến trục quan trọng. Chuyển bớt ao hồ phân tán trong các khu dân cư hiện nay sang đất thổ cư để bớt lấy vào đất nông nghiệp. 1.3.2. Các giải pháp về môi trường. Lâu nay cơ sở kết cấu hạ tầng và nhất là các công trình sử lý chất thải, chống ô nhiễm chưa được đầu tư đúng mức, cộng với sự phát triển tương đối nhanh chóng của dân số, công nghiệp và sự tăng nhanh số lượng ô tô, xe máy... nên tình trạng ô nhiễm môi trường đang có xu hướng tăng lên và ở một số nơi đã đến mức báo động. ở Hà Nội lượng khói bụi, hơi độc do các nhà máy, bệnh viện và xe cộ thải ra đã gây ô nhiễm không khí, nguồn nước nặng nề. Nồng độ bụi và hơi động hại vượt 7-8 lần so với mức cho phép. Nước tại các hồ, sông ô nhiễm nặng. ở Hải Phòng hầu hết các xí nghiệp công nghiệp chưa có công trình xử lý chất thải, tình trạng ô nhiễm môi trường tăng lên, tình trạng cũng tương tự ở Quảng Ninh và các địa phương còn lại. Trước tình trạng như vậy và trong bối cảnh phát triển mạnh vào những năm tới, đối với vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ cần coi trọng và bảo vệ môi trường, thức hiện nghiêm ngặt các chính sách bảo vệ môi trường. ăĐối với khu vực đô thị . Có kế hoạch nhanh chóng chuyển những xí nghiệp gây ô nhiễm ra khỏi khu vực nội thành, tất cả các xí nghiệp công nghiệp, các bệnh viện đều phải xây dựng công trình xử lý chất thải. Đồng thời, với việc hoàn thiện hệ thống thoát nước, cải tạo các hồ nước, các dòng sông làm chức năng thoát nước thải, phát triển các dải cây xanh ... đối với một số khu vực dân cư trọng điểm cần có công trình xử lý nước thải trước khi cho nước thải thoát về các dòng sông . Các khu chế xuất, khu công nghiệp tập trung, khu vực vui chơi giải trí , khu vực sân bay, cảng biển cần phải có quy định bắt buộc các xí nghiệp xây dựng công trình xử lý chất thải, nước thải, chống ô nhiễm. ăĐối với khu vực ven biển. Phải có sự kết hợp hài hoà giữa phát triển công nghiệp, du lịch và bảo vệ môi trường. Trước hết, đối với tất cả các xí nghiệp có gây ô nhiễm các bệnh viện đều phải xây dựng công trình xử lý chất thải, nước thải. Hoàn thiện các công trình vệ sinh, hệ thống thoát nước sinh hoạt gắn với biện pháp xử lý nước thải trước khi cho thoát ra biển. Đối với các khu chế xuất, khu du lịch khu vui chơi giải trí, các khu nhà nghỉ, bãi tắm... phải có công trình xử lý chất thải để chống ô nhiễm. Tại khu vực các cảng biển cần có biện pháp chống ô nhiễm đối với các tác nhân gây ô nhiễm. Cần có biện pháp hữu hiệu đối với cảng dầu B12 ở khu vực cảng Cái Lân để chống ô nhiễm dầu. Phát triển các dải rừng sinh thái ven biển ngập mặn để vừa làm đẹp cảnh quan, cải tạo môi trường sống và bảo vệ nguồn lợi biển ven bờ và phòng hộ đối với sản xuất nông nghiệp. ăĐối với khu vực nông thôn. Hoàn thiện hệ thống các công trình cấp nước sinh hoạt, vệ sinh và có hướng dẫn sử dụng hợp lý thuốc trừ sâu, phân hoá học để ngăn chặn tình trạng ô nhiễm môi trường (nhất là môi trường nước và đất). Phát triển các dải cây xanh gắn với các điểm dân cư vừa để lấy gỗ củi vừa có tác dụng cải thiện môi trường sống. Để thực hiện chủ trương như đã trình bày ở trên, trên cơ sở luật Bảo vệ môi trường Nhà nước cần có quy chế về bảo vệ môi trường đối với địa bàn trọng điểm Bắc Bộ (nhất là xử phạt những đối tượng gây ô nhiễm). Chính quyền các cấp cần quan tâm và có hướng dẫn cụ thể cho các cơ quan xí nghiệp và toàn thể nhân dân tham gia bảo vệ môi trường. Khuyến khích các doanh nghiệp mua bảo hiểm môi trường. Đồng thời phát triển ngành kinh doanh nước ngọt, thu thuế sử dụng các nguồn nước tự nhiên đối với tất cả các doanh nghiệp. 1.4. Đẩy mạnh tiến bộ khoa học, công nghệ. Tiến bộ khoa học, công nghệ là yếu tố quyết định và là nền tảng không chỉ cho phát triển nâng cao hiệu quả sản xuất, kinh doanh của từng doanh nghiệp, mà còn cho sự phát triển nhanh, có hiệu quả các ngành công nghiệp cũng như nền kinh tế quốc dân. Nội dung chủ yếu của tiến bộ khoa học, công nghệ trong các ngành công nghiệp là: Thực hiện cơ khí hoá, tự động hoá, hoá học hoá là chủ yếu, đồng thời đi thẳng vào công nghệ cao (điện tử, tin học, vật liệu mới, sinh học) đối với một số ngành, một số dây chuyền, một số mặt hàng có nhu cầu, có điều kiện và mang lại hiệu quả kinh tế cao. Căn cứ vào chiến lược phát triển của doanh nghiệp và dựa vào điều tra nghiên cứu nhu cầu thị trường, cũng như xu thế tiến bộ khoa học, công nghệ và khả năng điều kiện mà mỗi ngành, mỗi doanh nghiệp cần xác định mục tiêu đổi mới công nghệ, lựa chọn trình độ, phương hướng đổi mới thích hợp. Cần giải quyết tốt mối quan hệ giữa nhu cầu thị trường về sản phẩm với phương án đổi mới công nghệ và giải pháp huy động, sử dụng vốn. Gắn đổi mới công nghệ, đổi mới sản phẩm, tìm đúng khâu đột phá cần đổi mới trong từng ngành, từng doanh nghiệp, từ đó tạo đà và lôi kéo đổi mới các khâu khác. Trong điều kiện hiện nay, chương trình khoa học cần phải tạo những cơ hội thuận lợi khi lợi ích vĩ mô và lợi ích vi mô chung của các cơ sở sản xuất đạt được sự nhất trí về vấn đề đổi mới công nghệ. Để vượt qua mô hình cũ, cần chú ý đến phát triển Kinh tế Quốc dân và đề cao ý nghĩa của tiến bộ. Các tỉnh và thành phố cần đặt tiến bộ khoa học là nhiệm vụ hàng đầu trong phát triển kinh tế và tạo ra môi trường chính sách tốt hơn cho công tác khoa học và công nghệ. Củng cố cơ sở và tăng cường các cơ quan nghiên cứu khoa học là cần thiết. Trong ngân sách hàng năm dành cho khoa học và công nghệ cần dành 15 - 20% cho nghiên cứu cơ bản và cần sử dụng vốn vay ODA khoảng 30 - 50 triệu USD để đầu tư bước đầu cho một số cơ quan nghiên cứu khoa học đạt trình độ trung bình trong khu vực, trên cơ sở tổ chức mới sau khi lựa chọn những cán bộ khoa học và kỹ thuật có trình độ kinh nghiệm trong một số ngành chủ chốt. Trước mắt cần tập trung vào các lĩnh vực sau: + Điện tử - Tin học - Viễn thông: trong đó chú trọng công tác thiết kế, chế tạo công nghệ phần mềm như kỹ thuật CNC (công nghệ gia công chính xác nhờ điện toán), CAD/CAM (thiết kế nhờ điện toán/chế tạo nhờ điện toán), công nghệ cơ khí chính xác, khuôn mẫu cho công nghệ chế tạo chất dẻo... để có thể làm chủ thiết kế, tạo được những sản phẩm Việt Nam trên cơ sở linh kiện điện tử nhập ngoại. Thúc đẩy đầu tư trong việc áp dụng các công nghệ cao, phát triển ngành tự động hoá. Hỗ trợ hoạt động nghiên cứu và phát triển trong khu vực và tư nhân liên kết trong việc sản xuất mẫu đầu tiên không đòi hỏi công nghệ cao, nhưng có tiềm năng thị trường lớn như máy tính cá nhân, điện thoại di động... Thúc đẩy tìm kiếm tay nghề và kiến thức trong thiết kế sản phẩm. + Ngành dệt: hỗ trợ sử dụng các máy móc hiện đại để giảm chi phí sản xuất trong công nghệ hoàn thiện, đặc biệt là trong công đoạn chuội và sấy các sản phẩm chất lượng cao cũng như phát triển công nghệ quản lý hiện đại. + Công nghiệp thực phẩm: hỗ trợ nghiên cứu về kiến thức cơ bản liên quan đến nguyên liệu, công nghệ sau thu hoạch, công nghệ chế biến, công nghệ thực phẩm. Nâng cao chất lượng thực phẩm để đảm bảo thực phẩm vệ sinh, thanh trùng và không ô nhiễm, tăng cường kiểm tra chất lượng và quản lý sản xuất cùng với việc nghiên cứu về tái sử dụng phế thải công nghiệp. + Công nghệ sinh học : chú trọng công nghệ vi sinh, gen và tế bào. Tập trung phục vụ nông nghiệp (tạo các giống cây, giống con có năng suất và chất lượng cao), thực phẩm và y tế, chú ý kết hợp các công nghệ cổ truyền trong nước. + Công nghệ vật liệu mới: tập trung đi thẳng vào các vật liệu mới như composit trên nền sợi thuỷ tinh, carbon, gốm, kim loại, vật liệu polyme, vật liệu siêu sạch dùng cho điện tử, thuỷ tinh cao cấp, luyện kim bột, các vật liệu có tính năng đặc biệt, vật liệu phủ và bảo vệ chống ăn mòn và xâm thực, vật liệu siêu dẫn, vô định hình, đồng thời chú ý vật liệu kim loại đặc chủng, chống cháy, chịu mài mòn... + Công nghệ chế tạo cơ khí: tập trung vào khâu tự động hoá thiết kế trên máy tính, công nghệ cơ bản: tạo phôi như các công nghệ đúc, đúc chính xác, tạo khuôn mẫu, nhiệt luyện xử lý bề mặt các công nghệ hàn và phun phủ các loại vật liệu, công nghệ chế tạo một số sản phẩm quy chuẩn, công nghệ chế tạo các máy canh tác trong nông nghiệp, công nghệ sau thu hoạch, chế tạo một số sản phẩm khí cụ điện. + Công nghệ sử lý môi trường: chú trọng các công nghệ xử lý chất thải môi trường, chất lỏng, khí, các thiết bị phân tích môi trường, nhanh chóng giải quyết toàn diện vấn đề sử lý và cấp nước sinh hoạt cho các vùng khó khăn, đẩy lùi một số bệnh hiểm nghèo. * Đầu tư thích đáng nâng cao hệ thống thư viện và mạng lưới thông tin trên cơ sở áp dụng tin học. + Các viện nghiên cứu cần được tạm thời miễn thuế đối với các hoạt động chuyển giao công nghệ, tư vấn, đào tạo, dịch vụ, ký hợp đồng và xuất khẩu. Các dự án phát triển sản phẩm mới ghi trong kế hoạch Nhà nước sẽ được miễn giảm thuế với sự nhất trí của các cơ quan thuế cùng cấp. Và thu nhập do nắm công nghệ tạm thời được miễn thuế thu nhập. + Tiếp tục cải tiến phương thức tổ chức và năng lực quản lý khoa học và công nghệ từ trung ương đến địa phương. Trong thời gian tới, để nâng cao hiệu quả đầu tư và gắn khoa học công nghệ với phát triển công nghiệp, trước hết cần chú ý tiếp tục hoàn thiện công tác tổ chức và kiện toàn bộ máy quản lý khoa học và công nghệ. Để đạt được mục tiêu này, cần sắp xếp lại các cơ quan nghiên cứu khoa học, cần tiếp cận theo phương pháp tạo môi trường hoạt động thích hợp cho các cơ quan đó thông qua các cơ chế các văn bản pháp quy ưu tiên đầu tư, cải cách hệ thống phân bổ kinh phí hoạt động khoa học và công nghệ. áp dụng cơ chế cạnh tranh trong các cơ quan nghiên cứu khoa học để tăng cường động lực của các cơ quan đó và áp lực bên ngoài, đồng thời thúc đẩy khoa học và công nghệ gắn với phát triển công nghiệp. +Đẩy mạnh xây dựng hệ thống quản lý đa dạng về trách nhiệm trong hợp đồng được thực hiện để hỗ trợ các cơ quan nghiên cứu khoa học chuyển nhanh từ quản lý hành chính sang nghiên cứu, tự phát triển và một phần tự trang trải. +Đặt giá công khai việc thực hiện mọi dự án trong các cơ quan nghiên cứu khoa học để lựa chọn sự quản lý và cán bộ chỉ đạo dự án thông qua tuyển chọn. +Lợi ích của cơ quan nghiên cứu khoa học và của các nhà khoa học kỹ thuật gắn liền với việc phân phối thực tế để kích thích họ thể hiện nhiều sáng tạo phục vụ phát triển kinh tế và cải thiện điều kiện làm việc. * áp dụng các biện pháp nhằm liên kết khoa học và công nghệ với kinh tế: + Vị trí và vai trò của các cơ quan nghiên cứu khoa học với sở hữu khác nhau cần được xác định rõ ràng. Liên kết khoa học và công nghệ với kinh tế bao gồm kích thích việc liên kết phát triển - sản xuất - tiêu thụ và cơ quan nghiên cứu khoa học được khuyến khích thương mại kỹ thuật mới. +Các cán bộ khoa học và kỹ thuật được hỗ trợ trong việc ký kết hợp đồng thuê các xí ngiệp nhỏ và vừa thông qua việc chuyển giao, đăng ký hoặc giữ nhiều chức vụ cùng một lúc. +Tiến bộ trong nâng cao trình độ kỹ thuật là yếu tố quan trọng để kiểm tra các xí nghiệp về mối quan tâm của các nhà quản lý xí nghiệp và những người sản xuất gắn với kết quả kinh tế thực tế từ tiến bộ khoa học kỹ thuật của xí nghiệp cũng như để thúc đẩy xí nghiệp hướng theo tiến bộ khoa học kỹ thuật. +Cải cách các đơn vị trực thuộc của Nhà nước thành các đơn vị kỹ thuật và kinh tế độc lập, thúc đẩy các cán bộ kỹ thuật chuyển giao trọn gói các dịch vụ sản xuất thay cho việc chỉ hướng dẫn kỹ thuật. 1.5. Các giải pháp về dân số và phát triển nguồn nhân lực: - Đẩy mạnh công tác kế hoạch hoá gia đình để giảm tỷ lệ sinh, góp phần tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình phát triển. - Thay đổi đáng kể cấu trúc dân số thành thị và nông thôn, trong mối quan hệ chặt chẽ với công nghiệp hoá. Đưa tỷ trọng nhân khẩu thành thị trong dân số chung của vùng từ 35,6% hiện nay lên 56% vào năm 2010. - Coi trọng công tác đào tạo và đào tạo lại đội ngũ lao động bao gồm cả kỹ sư, lao động quản lý, công nhân kỹ thuật và đào tạo mới theo hướng trẻ hoá đội ngũ, chú trọng cả cán bộ công nghệ và cán bộ quản lý kinh tế, quản trị kinh doanh, hình thành nhanh những cán bộ đầu đàn về công nghệ. Đảm bảo chất lượng đào tạo, và đa dạng hoá đào tạo cả về hình thành phát triển mạng lưới các trường, các trung tâm và quy định tiêu chuẩn, chất lượng ở các bậc đào tạo. Cần nhanh chóng có các chính sách phát triển nguồn nhân lực cụ thể để đáp ứng được yêu cầu phát triển. Đồng thời có kế hoạch đào tạo gấp đội ngũ công chức trong bộ máy tham mưu và quản lý Nhà nước của các tỉnh, thành phố cũng như các cán bộ quản lý đô thị và doanh nghiệp... làm chuyển biến căn bản tình trạng trì trệ thấp kém hiện nay, để đủ sức tiếp cận với sự phát triển năng động của nền kinh tế và đạt trình độ quản lý tiên tiến của thế giới. 1.6. Duy trì, xâm nhập, mở rộng thị trường. ăĐối với thị trường trong nước. - Nâng cao khả năng cạnh tranh sản phẩm của doanh nghiệp công nghiệp nhờ các biện pháp: đầu tư, đổi mới công nghệ marketing , tìm và xâm nhập các thị trường ngách, liên doanh, liên kết hoàn thiện tăng cường tổ chức sản xuất và tổ chức quản lý. Chiếm lĩnh, duy trì, xâm nhập, mở rộng thị trường trong nước, ưu tiên hướng vào Trung du, Miền núi, đồng bằng sông Hồng, khu IV, Tây nguyên, một số mặt hàng có thể đi tới Duyên Hải Khu V và đồng bằng sông Cửu Long. - Hiện nay và một số năm trước mắt quy mô và cường độ trao đổi hàng hoá và dịch vụ giữa vùng kinh tế trọng điểm với các tỉnh miền Bắc lớn hơn so với các tỉnh miền Nam. Song nhìn chung, trao đổi hàng hoá với các tỉnh miền Nam có xu hướng tăng lên. Nhìn tổng quát, các tỉnh đưa về vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ lương thực, thực phẩm, nguyên liệu và khoáng sản, nông lâm sản sơ chế... và sẽ nhận từ địa bàn trọng điểm chủ yếu là than, máy công cụ, các loại máy móc thiết bị phục vụ sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp và giao thông vận tải. Vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ cùng với vùng kinh tế trọng điểm phía Nam sẽ giữ vai trò rất quan trọng đối với việc đáp ứng phần lớn nhu cầu hàng hoá công nghiệp và dịch vụ đảm bảo cân đối về hàng hoá tiêu dùng và một phần đáng kể tư liệu sản xuất với khối lượng nông, lâm sản, hàng hoá của nông dân ở các vùng. Trên cơ sở đó vừa khuyến khích sản xuất hàng hoá của các vùng vừa tạo tiền đề cần thiết cho sự phát triển ổn định trên phạm vi toàn quốc. ă Đối với thị trường nước ngoài. + Tham gia các hiệp hội quốc tế ngành hàng. + Phát triển hợp tác, gia công cho người nước ngoài. Một số sản phẩm sản xuất tại Việt Nam theo bản quyền và thiết kế của các công ty nước ngoài, có thể mang nhãn hiệu của công ty nước ngoài và tiêu thụ ở thị trường nước ngoài. Thông qua gia công, hợp tác với nước ngoài mà tập dượt làm quen, xâm nhập, rồi vươn lên trực tiếp tiêu thụ ở thị trường nước ngoài. Trong quá trình hợp tác, gia công cho người nước ngoài cần phấn đấu để nâng dần tỷ trọng xuất khẩu trực tiếp, giảm tỷ trọng hợp tác gia công xuất khẩu. + Phát triển liên doanh với nước ngoài nhờ đó mà thâm nhập và mở rộng thị trường ở nước ngoài. Cần có những biện pháp để buộc công ty liên doanh nước ngoài phải có một tỷ lệ nhất định hàng hoá xuất khẩu ra nước ngoài. Để thay thế các thị trường truyền thống đã bị thu hẹp, cần tìm mọi cách tạo thêm thị trường mới trong đó chú ý thị trường khu vực Đông Bắc á, Đông Nam á, Nam Thái Bình Dương, Tây Âu, Trung Quốc... Trước hết cần tìm thêm thị trường xuất khẩu cho các sản phẩm như động cơ điện và đồ điện dân dụng, dụng cụ đồ nghề, xe đạp, quần áo may sẵn, quần áo dệt kim, đóng mới sữa chữa tàu biển, sơn chống gỉ, thực phẩm đồ hộp và đông lạnh. Mục đích là xâm nhập được vào thị trường mới đồng thời tiêu thụ được hàng hoá, kích thích sản xuất, phát triển công nghiệp 2.- Một số kiến nghị bước đầu. 2.1. Công tác tổ chức triển khai thực hiện quy hoạch chưa tốt. Sau đây là những nguyên nhân cơ bản: 2.1.1. Sau khi có quyết định phê duyệt quy hoạch phát triển đến năm 2010, chưa có cơ chế chung, chưa có kế hoạch hành động chung,.... cho các ngành và các địa phương. Do đó, các ngành, các địa phương tổ chức thực hiện quy hoạch vùng kinh tế trọng điểm đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt chủ yếu trên quan điểm và lợi ích cục bộ. Từ công tác đầu tư, công tác cấp phép thành lập doanh nghiệp mới, cho đến công tác điều hành cụ thể đều nặng chủ yếu về từng ngành, từng địa phương riêng lẻ. 2.1.2. Nhìn chung cho đến nay tồn tại tình trạng phổ biến là phát triển theo địa giới hành chính. Do đó có biểu hiện “chặt khúc, khép kín”, rõ nhất là trong lĩnh vực xây dựng kết cấu hạ tầng, đào tạo nghề, xây dựng khu công nghiệp, phát triển công nghiệp rượu bia, xe đạp... 2.1.3. Thiếu tổ chức điều phối chung nên tồn tại tình trạng các địa phương, các nghành đặt đại diện tuỳ tiện ở các thành phố dẫn đến sự hoạt động thiếu trật tự trong một số lĩnh vực như du lịch, thương mại... tranh chấp vô nguyên tắc trong lĩnh vực gia công, kêu gọi đầu tư, xuất khẩu sản phẩm, thu hút khách du lịch... nên dẫn đến phương hại cho thành công chung của vùng kinh tế trọng điểm. 2.1.4. Tư tưởng ham thành tích đã ảnh hưởng tới nhiều quyết định lựa chọn mục tiêu, xác định phương hướng đầu tư cũng như ảnh hưởng nhiều tới quy hoạch phát triển. Mõi nghành, mỗi địa phương đều muốn phàt triển nhanh và toàn diện nên trong khi chưa có cân đối chung làm cho sự phát triển thiếu đồng bộ, thiếu tập trung, dẫn tới hiệu quả thấp. Cần khắc phục ngay các tình trạng nêu trên. 2.2. Các cấp các nghành phối hợp chặt chẽ với nhau cùng thực hiện cụ thể hoá chủ trương chính sách phát triển và tổ chức thực hiện một cách kiên quyết, có hiệu quả. Vừa qua các chủ trương phát triển có liên quan tới vùng trọng điểm do Chính phủ đưa ra đều đúng về nguyên tắc và định hướng.Tuy nhiên một số chủ trương còn chung chung và lại chưa được cụ thể hoá nhanh cho phù hợp với điều kiện của các địa phương và bối cảnh phát triển chung (như các chủ trương về công nghiệp hoá , đô thị hoá, phát triển khu công nghiệp, huy động vốn nội lực... ). Trong quá trình tổ chức thực hiện các chủ trương ở vùng này có lúc, có nơi các cáp các ngành chưa phối hợp chặt chẽ nên các vướng mắc chưa được giải quyết kịp thời, hoặc khi đã phát hiện thì không cùng nhau thoá gỡ nên một số vấn đề bất hợp lí tồn tại lâu, gây ảnh hưởng lớn (rõ nhất là chủ trương huy động sức dân). Do đó, Chính phủ cần có cơ chế để các ngành phối hợp hành động. Quá trình thực hiện chủ trương chưa có sự tổng kết và kiểm tra thường xuyên. Các địa phương cần triển khai thực hiện Chỉ thị 32/1998/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ về công tác quy hoạch. 2.3. Nhiều địa phương mong muốn phát triển nhanh nhưng chưa tính toán đầy đủ các điều kiện đảm bảo, nên các mục tiêu đề ra đều quá cao không thực hiện được. Do mong muốn chủ quan và thiếu kinh nghiệm nên trong quá trình thực hiện chủ trương công nghiệp hoá các địa phương đều muốn phát triển công nghiệp , nhiều tỉnh đồng loạt xây dựng khu công nghiệp , phát trriển công nghiệp thuốc lá, bia, lắp ráp ô tô xe máy, sản xuất ximăng. Do đó, cần nghiên cứu điều chỉnh quy hoạch vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ, cần có công tác hướng dẫn cụ thể công tác thực hiện quy hoạch để khắc phục tình trạng nêu trên. 2.4. Trên địa bàn trọng điểm đạng còn tồn tai nhiều vấn đề xã hội gay gắt. Trong đó nổi bật lên là tệ nạn nghiện hút, buôn bán ma tuý, cờ bạc, trẻ em lang thang chưa thấy có xu hướng giảm; tình trạng ô nhiễm môi trường xảy ra phổ biến, ở nhiều nơi trong các thành phố còn nhiều ngôi nhà ổ chuột; tinh thần doanh nghiệp chưa được đề cao....Các cấp, các ngành cần phối hợp chặt chẽ với nhau và cố gắng hơn nữa để hạn chế, giảm bớt các tình trạng nêu trên. 2.5. Nhìn chung các ngành các địa phương đều đã xây dựng quy hoạch phát triển tổng thể dài hạn nhưng thiếu quy hoạch chi tiết, chưa tính toán kĩ bước đi 5 năm. Kế hoạch hàng năm chưa dựa vào quy hoạch dài hạn (thậm chí có trường hợp kế hoạch không dựa vào quy hoạch) nên xảy ra tình trạng bất hợp lí không đáng có. Đồng thời, do các ngành Trung ương chưa phối hợp chặt chẽ với nhau trong khâu xây dựng, thẩm định, phê duyệt và tổ chức thực hiện quy hoạch, chưa gắn với các địa phương nên có quy hoạch ngành không khớp với quy hoạch của địa phương gây nhiều chồng chéo và không đạt được sự đồng bộ cần thiết cho sự phát triển trên mỗi địa bàn lãnh thổ. 2.6. Đối với vùng trọng điểm sự thống nhất trong các chủ trương phát triển của các cấp, các ngành, sự thông suốt và đáp ứng đầy đủ, kịp thời các thông tin để điều chỉnh hoạch định các chủ trương là đòi hỏi cấp bách cần làm ngay. Chủ trương đô thị hoá cần gắn với chủ trương phát triển công nghiệp, dịch vụ; tách rời hai chủ trương này sẽ làm mất đi tính đúng đắn và làm giảm giá trị đích thực của quá trình đô thị hoá. Chủ trương đô thị hoá và phát triển nông thôn cũng cần được triển khai đồng hành với nhau. Nếu đô thị hoá mạnh mà không chú ý phát triển nông thôn thì xuất hiện luồng dân cư không nhỏ từ nông thôn vào thành thị làm mất đi tính ổn định cần thiết cho quá trình phát triển. Chủ trương phát triển công nghiêp chế biến nông, lâm, thuỷ sản phải đồng thời thực hiện với chủ trương chuyển đổi cơ cấu sẩn xuất nông nghiệp, nâng cao chất lượng sản phẩm nông nghiệp trên cơ sở thực hiện cuộc cách mạng công nghệ sinh học..... 2.7. Các tỉnh trong vùng trọng điểm Bắc Bộ cùng các ngành Trung ương phối hợp với các tổ chức quốc tế để quảng bá quy hoạch phát triển; có biện pháp xúc tiến đầu tư nước ngoài, tìm kiếm thị trường xuất khẩu theo quy hoạch và kế hoạch cụ thể; công bố các định hướng và danh mục các dự án đầu tư ưu tiên để thu hút mạnh hơn các nhà đầu tư nước ngoài. Tóm lại để đổi mới toàn diện, có được bứt phá mạnh mẽ các vấn đề kiến nghị ở trên cần được tổ chức nghiên cứu và sớm có những kết luận cụ thể cho từng vấn đề nhằm hoạch định đúng đắn các chính sách thiết thực để phát triển vùng trọng điểm. Kết luận Công nghiệp là một ngành kinh tế quan trọng có vai trò chủ đạo trong nền Kinh tế Quốc dân. Với Việt Nam, điều kiện kinh tế còn khó khăn, nền kinh tế nhỏ bé, việc hình thành lên ba vùng kinh tế trọng điểm là hoàn toàn đúng. Ba vùng kinh tế trọng điểm sẽ có những ảnh hưởng tích cực tới sự phát triển kinh tế chung của cả nước. Việc phát triển kinh tế ba vùng trọng điểm kéo theo sự phát triển kinh tế cả nước là mối quan tâm, là mục tiêu lâu dài của chúng ta. Trong thực tế hiện nay vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ còn tồn tại nhiều vấn đề phải khắc phục trong quá trình phát triển kinh tế, phát triển công nghiệp. Chuyên đề “Định hướng và các giải pháp phát triển công nghiệp vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ” đã thực hiện được một số vấn đề về lý luận và thực tiễn về phát triển công nghiệp trên địa bàn. * Về cơ sở lý luận, chuyên đề đã nêu được các vấn đề cụ thể: - Phân tích và làm rõ về khái niệm công nghiệp những đặc trưng chủ yếu của sản xuất công nghiệp. - Phân tích và làm rõ vai trò, vị trí của công nghiệp trong nền Kinh tế Quốc dân - Khái quát toàn bộ quá trình sản xuất công nghiệp, các nhân tố tác động tới phát triển công nghiệp. Từ đó đánh giá xu hướng và triển vọng của công nghiệp trên địa bàn trọng điểm trong thời gian tới. * Thực trạng phát triển công nghiệp trên địa bàn trọng điểm là nội dung cơ bản của chuyên đề: Chuyên đề đã đưa ra được một số những nét chung về công nghiệp cả nước và bức tranh toàn cảnh về công nghiệp trên địa bàn trọng điểm, đồng thời khẳng định các nguồn lực sẵn có và lợi thế so sánh trên địa bàn. Trên cơ sở đó đưa ra một số biện pháp khai thác, phát huy các lợi thế đẩy nhanh quá trình phát triển công nghiệp cũng như phát triển kinh tế trên địa bàn. Sản xuất công nghiệp trên địa bàn trọng điểm trong những năm gần đây đã đạt được kết quả không tốt, chưa tương xứng với tiềm năng và yêu cầu đặt ra. Trên cơ sở phân tích thực trạng, chuyên đề đã đưa ra một số ý kiến quan trọng về định hướng phát triển công nghiệp trên địa bàn trọng điểm đến năm 2010. * Một số kiến nghị và giải pháp chủ yếu là nội dung quan trọng của chuyên đề. Chuyên đề đã mạnh dạn đưa ra những kiến nghị và các giải pháp chủ yếu để phát triển công nghiệp trên địa bàn. Các kiến nghị tập trung nhiều vào sự tổ chức phát triển của một số phân ngành quan trọng của vùng dựa trên cơ sở về lợi thế sẵn có và vị trí của phân ngành trong cơ cấu công nghiệp. Các kiến nghị được tập trung giải quyết trong các giải pháp cụ thể. Trong sự nghiệp đổi mới kinh tế, sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước thì công nghiệp luôn là ngành có vị trí quan trọng, vị trí chủ đạo. Trong những năm tới cùng với sự phát triển kinh tế của đất nước, thì những biến động trên trường quốc tế sẽ tác động rất mạnh tới sự phát triển của công nghiệp. Thị trường quốc tế là một vấn đề phức tạp, là mối quan tâm của nhiều ngành, nhiều quốc gia trên thế giới. Đối với Việt Nam việc hội nhập mạnh mẽ vào thị trường quốc tế là một tất yếu. Đây sẽ là cơ hội và thách thức đối với sự phát triển của công nghiệp trên địa bàn trọng điểm. Do vậy cần phải tiếp tục nghiên cứu, đúc rút kinh nghiệm thực tiễn để hoàn thiện cơ chế chính sách vĩ mô cũng như định lượng và các giải pháp phát triển để đẩy mạnh sự phát triển của công nghiệp, cũng như sự phát triển kinh tế trên địa bàn là nhiệm vụ trọng tâm hiện nay. *************** Danh mục tài liệu tham khảo Trường Đại học Kinh Tế Quốc Dân; Giáo trình Kinh Tế Phát Triển, tập I, II; NXB Thống Kê,1998. Trường Đại học Kinh Tế Quốc Dân; Giáo trình Kinh tế và Quản lí công nghiệp; NXB Giáo Dục,1997. Trường Đại học Kinh Tế Quốc Dân; Giáo trình Kinh tế các ngành sản xuất vật chất; NXB Giáo Dục, 1996. Bộ Kế hoạch và Đầu tư ; Quy hoạch tổng thể kinh tế xã hội vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ thời kì 1996-2010, 1995. Bộ Kế hoạch và Đầu tư ; Quy hoạch phát triển công nghiệp trên địa bàn trọng điểm Bắc Bộ thời kì 1996-2010, 1994 Bộ Kế hoạch và Đầu tư ; Báo cáo tình hình thực hiện quy hoạch và phương hướng thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ, tháng 3-2000. Bộ Kế hoạch và Đầu tư ; Báo cáo tổng kết chuyển dịch cơ cấu và đầu tư, tháng 2-2000. Bộ Kế hoạch và Đầu tư ; Nghiên cứu tổng kết chủ chương phát triển các ngành công nghiệp chủ yếu giai đoạn 1991-2000, tháng 3-2000. Bộ Kế hoạch và Đầu tư ; Báo cáo tình hình phát triển công và thực hiện quy hoạch trên cá vùng trọng điểm, tháng 3-2000. Đặc san thời báo kinh tế Việt Nam, Kinh tế Việt Nam 1999-2000. 11) Tạp chí Nghiên cứu Kinh tế số 254-tháng 7/1999 12) Niên giám thống kê các năm từ 1994-1999. 13) Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII. mục lục Trang ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc29049.doc
Tài liệu liên quan