Định hướng và một số giải pháp đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam sang Mỹ

Lời mở đầu Ngành dệt may đang được xem như là một trong những ngành công nghiệp mũi nhọn, với những lợi thế mà các ngành công nghiệp khác không có được như: vốn đầu tư không lớn, thời gian thu hồi vốn nhanh, thu hút được nhiều lao động. Đặc biệt đây là ngành có rất nhiều lợi thế để mở rộng thị trường trong cả nước cũng như thị trường nước ngoài. So với một số nước trong khu vực, ngành dệt may Việt Nam thậm chí còn có hệ số so sánh vượt trội. Mỹ được coi là thị trường nhập khẩu hàng dệt may lớn

doc65 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1345 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Định hướng và một số giải pháp đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam sang Mỹ, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
nhất thế giới. Trung bình một năm một người phụ nữ Mỹ dùng 56 bộ quần áo và 6 đôi dày. Như vậy đây là thị trường rộng lớn và hữa hẹn đầy tiềm năng cho Việt Nam. Đặc biệt là sau khi hiệp định song phương Việt Nam - Hoa kỳ tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp xuất khẩu hàng dệt may. Tuy nhiên do sức ép mới của việc Trung Quốc gia nhập WTO cũng là cản trở lớn cho Việt Nam trong quá trình buôn bán, thương mại với Mỹ nói chung và hoạt động dệt may nói riêng. Chính vì vậy, em đã chọn đề tài "Định hướng và một số giải pháp đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam sang Hoa Kỳ". Cơ cấu đề án. Chương I: Một số vấn đề lý luận về xuất khẩu hàng hoá. Chương II: Thực trạng hoạt động xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam sang thị trường Mỹ trong 10 năm trở lại đây. Chương III: Giải pháp và kiến nghị chủ yếu đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam sang Mỹ. Em đã thực hiện đề án này với sự hướng dẫn của thầy PGS. TS Đỗ Đức Bình. Em xin chân thành cảm ơn thầy giáo PGS. TS Đỗ Đức Bình đã giúp em hoàn thành đề án này. chương I những vấn đề chung về hoạt động xuất khẩu I. khái niệm, vai trò và các hình thức xuất khẩu chủ yếu. 1. Khái niệm. Xuất khẩu là việc cung cấp hàng hoá hoặc dịch vụ cho nước ngoài trên cơ sở dùng tiền tệ làm phương tiện thanh toán. Cơ sở của hoạt động xuất khẩu là hoạt động mua bán và trao đổi hàng hoá (Bao gồm cả hàng hoá hữu hình và hàng hoá vô hình) trong nước. Khi sản xuất phát triển và trao đổi hàng hoá giữa các quốc gia có lợi, hoạt động này mở rộng phạm vi ra ngoài biên giới của các quốc gia hoặc thị trường nội địa và khu chế xuất ở trong nước. Xuất khẩu là một hoạt động cơ bản của hoạt động ngoại thương, xuất hiện từ lâu đời, ngày càng phát triển mạnh mẽ cả về chiều rộng và chiều sâu. Hình thức cơ bản ban đầu của nó là hoạt động trao đổi hàng hoá giữa các quốc gia, cho đến nay nó đã rất phát triển và được thể hiện thông qua nhiều hình thức. Hoạt động xuất khẩu ngày nay diễn ra trên phạm vi toàn cầu, trong tất cả các ngành, các lĩnh vực của nền kinh tế, không chỉ là hàng hoá hữu hình mà cả hàng hoá vô hình với tỷ trọng ngày càng lớn. 2. Vai trò. Xuất khẩu là một trong những hoạt động kinh tế đối ngoại chủ yếu của một quốc gia. Hoạt động xuất khẩu là một nhân tố cơ bản thúc đẩy tăng trưởng và phát triển của một quốc gia. Thực tế lịch sử đã chứng minh, các nước đi nhanh trên con đường tăng trưởng và phát triển là những nước có nền ngoại thương mạnh và năng động. - Đẩy mạnh xuất khẩu được xem như là một yếu tố quan trọng kích thích sự tăng trưởng kinh tế. Như chúng ta biết, việc đẩy mạnh xuất khẩu cho phép mở rộng quy mô sản xuất, nhiều ngành nghề mới ra đời phục vụ hoạt động xuất khẩu, do đó gây phản ứng dây chuyền giúp cho các ngành kinh tế khác phát triển theo. Và như vậy kết quả sẽ là: Tăng tổng sản phẩm xã hội và nền kinh tế phát triển nhanh. Chẳng hạn như gia công, sản xuất, xuất khẩu hàng may mặc phát triển thì nó tất yếu nó sẽ kéo theo sự phát triển của ngành dệt, ngành trồng bông, và các ngành sản xuất máy móc thiết bị, tư liệu ... phục vụ cho ngành may mặc. - Xuất khẩu có vai trò kích thích đổi mới trang thiết bị và công nghệ sản xuất. Để đáp ứng yêu cầu cao của thị trường thế giới về quy cách phẩm chất mẫu mã... của sản phẩm thì một mặt sản xuất phải đổi mới trang thiết bị công nghệ, mặt khác người lao động phải nâng cao tay nghề, phải học hỏi kinh nghiệm. Thực tiễn cho thấy khi thay đổi thị trường buộc chúng ta phải tìm hiểu, nghiên cứu và việc đòi hỏi phải thay đổi mẫu mã, chất lượng sản phẩm sẽ tất yếu xảy ra, điều này kéo theo sự thay đổi trang thiết bị, máy móc, đội ngũ lao động. Xuất khẩu tạo ra những tiền đề kinh tế - kỹ thuật nhằm đổi mới thường xuyên năng lực sản xuất trong nước. Nói cách khác, xuất khẩu là cơ sở tạo thêm vốn kỹ thuật công nghệ tiên tiến từ thế giới bên ngoài vào Việt Nam nhằm hiện đại hoá nền kinh tế đất nước. - Đẩy mạnh xuất khẩu có vai trò tác động đến sự thay đổi cơ cấu kinh tế ngành theo hướng sử dụng có hiệu quả nhất lợi thế so sánh của đất nước. Đây là yếu tố then chốt trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Đồng thời với sự phát triển của ngành công nghiệp chế tạo cho phép công nghiệp chế biến hàng xuất khẩu áp dụng kỹ thuật tiên tiến, sản xuất ra hàng hoá có tính cạnh tranh cao trên thị trường thế giới, giúp cho ta có nguồn lực công nghiệp mới. Điều này, không những cho phép tăng sản xuất về mặt số lượng, tăng năng suất lao động mà còn tiết kiệm chi phí lao động xã hội. - Đẩy mạnh và phát triển xuất khẩu có hiệu quả thì sẽ nâng cao mức sống của nhân dân vì nhờ mở rộng xuất khẩu mà một bộ phận người lao động có công ăn việc làm và có thu nhập. Ngoài ra một phần kim ngạch xuất khẩu dùng để nhập khẩu các hàng tiêu dùng thiết yếu góp phần cải thiện đời sống nhân dân. Đẩy mạnh xuất khẩu có vai trò tăng cường sự hợp tác quốc tế giữa các nước, nâng cao vị thế, vai trò của đất nước trên thương trường. Nhờ có những mặt hàng xuất khẩu mà đất nước có điều kiện để thiết lập và mở rộng các mối quan hệ với các nước khác trên thế giới trên cơ sở đôi bên cùng có lợi. Xuất khẩu có ảnh hưởng rất lớn đến sản xuất và tiêu dùng của một nước, nó cho phép một nước tiêu dùng tất cả các mặt hàng với số lượng lớn hơn mức tiêu dùng mà khả năng sản xuất trong nước có thể cung cấp được. Trong điều kiện nền kinh tế lạc hậu, sản xuất nhỏ là phổ biến, khu vực nông nghiệp chiếm đại bộ phận dân cư, khả năng tích luỹ của công nghiệp thấp, xuất khẩu có vai trò ngày càng to lớn. Xuất khẩu trở thành nguồn tích luỹ chủ yếu trong giai đoạn đầu của công nghiệp hoá. Thực tế chứng minh rằng, thu nhập hoạt động xuất khẩu vượt xa các nguồn vốn khác. Điều đó chứng tỏ rằng trong quan hệ kinh tế giữa các nước có trình độ phát triển chênh lệch rất lớn thì hoạt động ngoại thương đóng vài trò rất quan trọng, chủ yếu, chứ không phải những điều kiện ưu ái khác như viện trợ chẳng hạn. Xuất khẩu còn đóng vai trò chủ đạo trong việc sử lý vấn đề sử dụng có hiệu quả hơn các nguồn tài nguyên thiên nhiên.Việc đưa ra những nguồn tài nguyên thiên nhiên và sự phân công kinh doanh quốc tế thông qua các ngành chế biến xuất khẩu đã góp phần nâng cao giá trị hàng hoá, giảm bớt những thiệt hại do điều kiện ngoại thương ngày càng trở nên bất lợi cho hàng hoá và nguyên liệu xuất khẩu. Như vậy, phải thông qua xuất nhập khẩu góp phần nâng cao hiệu quả sản xuất bằng việc mở rộng trao đổi và thúc đẩy việc tận dụng các lợi thế, các tiềm năng, các cơ hội của đất nước trong việc tham gia vào phân công lao động quốc tế. Nó không chỉ đóng vai trò xúc tác, hỗ trợ phát triển mà nó có thể trở thành yếu tố bên trong của sự phát triển, trực tiếp vào việc giải quyết những vấn đề bên trong của nền kinh tế: vốn, kỹ thuật, lao động, nguyên liệu, thị trường.... 3. Các hình thức xuất khẩu chủ yếu. Với mục tiêu đa dạng hoá các hình thức kinh doanh xuất khẩu nhằm phân tán và chia sẻ rủi ro, các doanh nghiệp ngoại thương có thể lựa chọn nhiều hình thức xuất khẩu khác nhau. Điển hình là một số hình thức sau: 3.1. Xuất khẩu trực tiếp. Xuất khẩu trực tiếp là việc xuất khẩu hàng hoá và dịch vụ do chính doanh nghiệp sản xuất ra hoặc thu mua từ các đơn vị sản xuất trong nước hoặc từ khách hàng nước ngoài thông qua tổ chức của mình. Xuất khẩu trực tiếp yêu cầu phải có nguồn vốn đủ lớn và đội ngũ cán bộ công nhân viên có năng lực và trình độ để có thể trực tiếp tiến hành hoạt động kinh doanh xuất khẩu. Về nguyên tắc, xuất khẩu trực tiếp có thể làm tăng thêm rủi ro trong kinh doanh nhưng nó lại có những ưu điểm nổi bật sau: - Giảm bớt chi phí trung gian do đó tăng lợi nhuận cho doanh nghiệp. - Có thể liên hệ trực tiếp và đều đặn với khách hàng và với thị trường nước ngoài, từ đó nắm bắt ngay được nhu cầu cũng như tình hình của khách hàng nên có thể thay đổi sản phẩm và những điều kiện bán hàng trong điều kiện cần thiết. 3.2. Xuất khẩu uỷ thác. Là hình thức kinh doanh, trong đó đơn vị kinh doanh xuất khẩu đóng vai trò là người trung gian thay cho đơn vị sản xuất tiến hành ký kết hợp đồng mua bán hàng hoá, tiến hành các thủ tục cần thiết để xuất khẩu hàng hoá cho nhà sản xuất qua đó thu được một số tiền nhất định (theo tỷ lệ % giá trị lô hàng ). Ưu điểm của hình thức này là mức độ rủi ro thấp , đặc biệt là không cần bỏ vốn vào kinh doanh, tạo được việc làm cho người lao động đồng thời cũng thu được một khoản lợi nhuận đáng kể. Ngoài ra trách nhiệm trong việc tranh chấp và khiếu nại thuộc về người sản xuất . Phương thức xuất khẩu uỷ thác có nhược điểm phải qua trung gian và phải mất một tỷ lệ hoa hồng nhất định, nắm bắt thông tin về thị trường chậm.Vì vậy doanh nghiệp phải lựa chọn phương thức phù hợp với khả năng của chính mình sao cho đạt hiêụ quả cao nhất, tiết kiệm được chi phí, thu hồi vốn nhanh, doanh số bán hàng tăng, thị trường bán hàng được mở rộng thuận lợi trong quá trình xuất nhập khẩu của mình. 3.3. Buôn bán đối lưu. Buôn bán đối lưu là phương thức giao dịch, trong đó xuất khẩu kết hợp với nhập khẩu, người bán đồng thời là người mua và hàng hoá mang ra trao đổi thường có giá trị tương đương. Mục đích xuất khẩu ở đây không nhằm mục đích thu ngoại tệ mà nhằm mục đích có được lượng hàng hoá có giá trị tương đương với giá trị lô hàng xuất khẩu. Lợi ích của buôn bán đối lưu là nhằm tránh những rủi ro về biến động tỷ giá hối đoái trên thị trường ngoại hối. Đồng thời còn có lợi khi các bên không đủ ngoại tệ để thanh toán cho lô hàng nhập khẩu của mình. Thêm vào đó, đối với một quốc gia buôn bán đối lưu có thể làm cân bằng hạng mục thường xuyên trong cán cân thanh toán. Tuy nhiên buôn bán đối lưu làm hạn chế quá trình trao đổi hàng hoá, việc giao nhận hàng hoá khó tiến hành được thuận lợi. 3.4. Giao dịch qua trung gian. Đây là giao dịch mà mọi việc kiến lập quan hệ giữa người bán với người mua đều phải thông qua một người thứ ba. Người thứ ba này là đại lý môi giới hay là người trung gian. Đại lý là một tổ chức hoặc một cá nhân tiến hành một hay nhiều hành vi theo sự uỷ thác của người uỷ thác, quan hệ này dựa trên cơ sở hợp đồng đại lý. Có rất nhiều đại lý khác nhau như đại lý hoa hồng, đại lý toàn quyền, tổng đại lý... Môi giới là thương nhân trung gian giữa người mua và người bán. Khi tiến hành nghiệp vụ, người môi giới không đứng tên của chính mình mà đứng tên của người uỷ thác. Do quá trình trao đổi giữa người bán với người mua phải thông qua một người thứ ba nên tránh được những rủi ro như: do không am hiểu thị trường hoặc do sự biến động của nền kinh tế .Tuy nhiên phương thức giao dịch này cũng phải qua trung gian và phải mất một tỷ lệ hoa hồng nhất định, nó làm cho lợi nhuận giảm xuống. 3.5. Gia công quốc tế. Gia công quốc tế là một hình thức kinh doanh, trong đó một bên (gọi là bên nhận gia công) nhập khẩu nguyên liệu hoặc bán thành phẩm của một bên (bên đặt gia công) để chế biến ra thành phẩm, giao lại cho bên đặt gia công và qua đó thu lại một khoản phí gọi là phí gia công. Đây là hình thức kinh doanh chủ yếu áp dụng cho những nước nơi có nhiều lao động, giá rẻ, nhưng lại thiếu vốn, thị trường. Khi đó các doanh nghiệp có điều kiện cải tiến và đổi mới máy móc thiết bị nhằm nâng cao năng lực sản xuất và thâm nhập vào thị trường thế giới. Mặc dù đây là hình thức kinh doanh mang lại khoản tiền thù lao thấp nhưng nó giải quyết được công ăn việc làm cho nước nhận gia công khi không có đủ điều kiện sản xuất hàng hoá xuất khẩu cả về vốn ,công nghệ và có thể tạo được uy tín trên thị trường thế giới. đối với nước thuê gia công có thể tận dụng được lao động của các nước nhận gia công và thâm nhập vào thị trường của nước này. 3.6. Tái xuất khẩu. Tái xuất khẩu là xuất khẩu những hàng hoá mà trước đây đã nhập nhưng không tiến hành các hoạt động chế biến. Ưu điểm là doanh nghiệp có thể thu được lợi nhuận cao mà không phải tổ chức sản xuất. Chủ thể tham gia hoạt động tái xuất khẩu nhất thiết phải có sự tham gia của ba quốc gia: nước xuất khẩu, nước nhập khẩu, và nước tái xuất khẩu. Hình thức này góp phần nâng cao hiệu quả kinh doanh xuất nhập khẩu, bởi không phải lúc nào hàng hoá cũng được xuất khẩu trực tiếp, hoặc thông qua trung gian như trường hợp bị cấm vận, bao vây kinh tế. Khi đó thông qua phương pháp tái xuất các nước vẫn có thể tham gia buôn bán được với nhau. II. nội dung chính của hoạt động xuất khẩu. 1. Nghiên cứu thị trường. 1.1. Lựa chọn mặt hàng xuất khẩu. Đây là một trong những nội dung ban đầu, cơ bản nhưng rất quan trọng và cần thiết để tiến hành hoạt động xuất khẩu. Để lựa chọn được mặt hàng mà thị trường cần, đòi hỏi doanh nghiệp phải có một quá trình nghiên cứu, phân tích có hệ thống nhu cầu thị trường. 1.2. Lựa chọn thị trường xuất khẩu. Sau khi đã lựa chọn được mặt hàng xuất khẩu, doanh nghiệp cần phải tiến hành lựa chọn thị trường xuất khẩu mặt hàng đó. Việc lựa chọn thị trường đòi hỏi doanh nghiệp phải phân tích tổng hợp nhiều yếu tố bao gồm cả những yếu tố vi mô cũng như yếu tố vĩ mô và khả năng của doanh nghiệp. Đây là một quá trình đòi hỏi nhiều thời gian và chi phí. 1.3. Lựa chọn bạn hàng. Lựa chọn bạn hàng căn cứ khả năng tài chính, thanh toán của bạn hàng và căn cứ vào phương thức, phương tiện thanh toán. Việc lựa chọn bạn hàng luôn theo nguyên tắc đôi bên cùng có lợi. Thông thường khi lựa chọn bạn hàng, các doanh nghiệp thường trước hết lưu tâm đến những mối quan hệ cũ của mình. Sau đó, những bạn hàng của các doanh nghiệp khác trong nước đã quan hệ cũng là một căn cứ để xem xét lựa chọn ở các nước đang phát triển. Các bạn hàng thường được phân theo khu vực thị trường mà tuỳ thuộc vào sản phẩm mà doanh nghiệp lựa chọn để buôn bán quốc tế, mà các quốc gia ưu tiên. 1.4. Lựa chọn phương thức giao dịch. Phương thức giao dịch là những cách thức mà doanh nghiệp sử dụng để thực hiện các mục tiêu và kế hoạch kinh doanh của mình trên thị trường thế giới. Hiện nay, có rất nhiều phương thức giao dịch khác nhau như giao dịch thông thường, giao dịch qua trung gian, giao dịch thông qua hội chợ hay triển lãm. Tuỳ vào khả năng của mỗi doanh nghiệp mà lựa chọn phương thức giao dịch sao cho đảm bảo các mục tiêu của sản xuất kinh doanh. 2. Đàm phán và ký kết hợp đồng. Đây là một khâu quan trọng trong kinh doanh xuất khẩu, vì nó quyết định đến tính khả thi hoặc không khả thi của kế hoạch kinh doanh của doanh nghiệp. Kết quả của đàm phán sẽ là hợp đồng được ký kết. Đàm phán có thể thông qua thư tín, điện tín và trực tiếp. Tiếp theo công việc đàm phán, các bên tiến hành ký kết hợp đồng xuất khẩu, trong đó, quy định người bán có nghĩa vụ chuyển quyền sở hữu hàng hoá cho người mua, còn người mua có nghĩa vụ trả cho người bán một khoản tiền ngang giá trị theo các phương tiện thanh toán quốc tế. Thông thường trong một hợp đồng xuất khẩu có những nội dung sau: a./ Phần mở đầu của hợp đồng xuất khẩu: - Số hợp đồng - Ngày và nơi ký kết hợp đồng. - Tên, và địa chỉ đầy đủ, tel, fax, đại diện của các bên. b./ Điều kiện tên hàng. c./ Điều kiện số lượng d./ Điều kiện về quy cách phẩm chất của hàng hoá. e./ Điều kiện về giá cả. f./ Điều kiện về bao bì , đóng gói , ký mã hiệu. g./ Điều kiện về cơ sở giao hàng. h./ Điều kiện về thời gian, địa điểm, phương tiện giao hàng. i./ Điều kiện về thanh toán. k./ Điều kiện bảo hành (nếu có). l./ Điều kiện về khiếu nại và trọng tài. m./ Điều kiện về các trường hợp bất khả kháng. n./ Chữ ký của các bên. Với những hợp đồng phức tạp, nhiều mặt hàng thì có thể thêm các phụ kiện là bộ phận không tách rời của hợp đồng. 3. Thực hiện hợp đồng xuất khẩu, giao hàng và thanh toán. Sau khi đã ký kết hợp đồng hai bên thực hiện những gì mình đã cam kết trong hợp đồng. Với tư cách là nhà xuất khẩu, doanh nghiệp sẽ thực hiện những công việc sau: Sơ đồ: Trình tự các bước thực hiện hợp đồng. Giục mở L/C và kiểm tra L/C Xin giấy phép xuất khẩu Chuẩn bị hàng hoá xuất khẩu Kiểm tra hàng hoá Uỷ thác thuê tàu Mua bảo hiểm hàng hoá Làm thủ tục hải quan Giao hàng lên tàu Làm thủ tục thanh toán Giải quyết tranh chấp (nếu có) Đây là trình tự những công việc chung nhất cần thiết để thực hiện hợp đồng xuất khẩu. Tuy nhiên trên thực tế tuỳ theo thoả thuận của các bên trong hợp đồng mà người thực hiện hợp đồng có thể bỏ qua một hoặc một vài công đoạn * Giục mở L/C và kiểm tra L/C đó Trong hoạt động buôn bán quốc tế hiện nay, việc sử dụng L/C đã trở thành phổ biến hơn cả ,do lợi ích của nó mang lại. Sau khi người nhập khẩu mở L/C, người xuất khẩu phải kiểm tra cẩn thận, chi tiết các điều kiện trong L/C xem có phù hợp với những điều kiện của hợp đồng hay không. Nếu không phù hợp hoặc có sai sót thì cần phải thông báo cho người nhập khẩu biết để sửa chữa kịp thời. *Xin giấy phép xuất khẩu. Trong một số trường hợp, mặt hàng xuất khẩu thuộc danh mục nhà nước quản lý, doanh nghiệp cần phải tiến hàng xin giấy phép xuất khẩu do phòng cấp giấy phép xuất khẩu của Bộ Thương mại quản lý. *Chuẩn bị hàng xuất khẩu. Đối với những doanh nghiệp, sau khi thu mua nguyên phụ liệu sản xuất ra sản phẩm, cần phải lựa chọn, kiểm tra, đóng gói bao bì hàng hoá xuất khẩu, kẻ ký mã hiệu sao cho phù hợp với hợp đồng đã ký và phù hợp với luật pháp của nước nhập khẩu. *Kiểm định hàng hoá. Trước khi xuất khẩu, các nhà xuất khẩu phải có nghĩa vụ kiểm tra số lượng, trọng lượng của hàng hoá. Việc kiểm tra được tiến hành ở hai cấp: cơ sở và ở cửa khẩu nhằm bảo đảm quyền lợi cho khách hàng và uy tín của nhà sản xuất. * Thuê phương tiện vận chuyển. Doanh nghiệp xuất khẩu có thể tự thuê phương tiện vận chuyển hoặc uỷ thác cho một công ty uỷ thác thuê tàu. Điều này phụ thuộc vào điều kiện cơ sở giao hàng trong hợp đồng. Cơ sở pháp lý điều tiết mối quan hệ giữa các bên uỷ thác thuê tàu với bên nhận uỷ thác là hợp đồng uỷ thác thuê tàu. Có hai loại hợp đồng uỷ thác thuê tàu: Hợp đồng uỷ thác thuê tàu cả năm và hợp đồng thuê tàu chuyến. Nhà xuất khẩu căn cứ vào đặc điểm của hàng hoá để lựa chọn hợp đồng thuê tàu cho thích hợp. *Mua bảo hiểm hàng hoá. Hàng hoá trong buôn bán quốc tế thường xuyên được chuyên chở bằng đường biển, điều này thường gặp rất nhiều rủi ro, do đó cần phải mua bảo hiểm cho hàng hoá. Công việc này cần được thực hiện thông qua hợp đồng bảo hiểm. Có hai loại hợp đồng bảo hiểm: hợp đồng bảo hiểm bao và hợp đồng bảo hiểm chuyến. Khi mua bảo hiểm cần lưu ý những điều kiện bảo hiểm và lựa chọn công ty bảo hiểm. *Làm thủ tục hải quan. Hàng hoá khi vượt qua biên giới quốc gia để xuất khẩu đều phải làm thủ tục hải quan. Việc làm thủ tục hải quan gồm ba bước chủ yếu sau: - Khai báo hải quan: Doanh nghiệp khai báo tất cả các đặc điểm hàng hoá về số lượng, chất lượng, giá trị, tên phương tiện vận chuyển, nước nhập khẩu. Các chứng từ cần thiết, phải xuất trình kèm theo là: Giấy phép xuất khẩu, phiếu đóng gói, bảng kê chi tiết... - Xuất trình hàng hoá. - Thực hiện các quyết định của hải quan. *Giao hàng lên tàu. Trong bước này doanh nghiệp cần tiến hành các công việc sau: - Lập bản đăng ký hàng chuyên chở. - Xuất trình bản đăng ký cho người vận tải để lấy hồ sơ xếp hàng . - Trao đổi với cơ quan điều độ cảng để nắm vững ngày giờ làm hàng. Bố chí phương tiện vận tải đưa hàng vào cảng, xếp hàng lên tàu. - Lấy biên lai thuyền phó, sau đó đổi biên lai thuyền phó lấy vận đơn đường biển hoàn hảo và chuyển nhượng được, sau đó lập bộ chứng từ thanh toán. * Thanh toán. Thanh toán là bước cuối cùng của việc thực hiện hợp đồng nếu không có sự tranh chấp, khiếu nại. Trong buôn bán quốc tế, có rất nhiều phương thức thanh toán khác nhau. - Phương thức chuyển tiền. - Phương thức thanh toán mở tài khoản. - Phương thức thanh toán nhờ thu. - Phương thức thanh toán tín dụng chứng từ. Đối với nhà xuất khẩu, về phương tiện thanh toán cần phải xem xét những vấn đề sau: - Người bán muốn bảo đảm rằng, người mua có các phương tiện tài chính để trả tiền mua hàng theo đúng hợp đồng đã ký. - Người bán muốn việc thanh toán được thực hiện đúng hạn. Trên bình diện quốc tế, hai phương tiện thanh toán là nhờ thu ( D/P và D/A) và thư tín dụng (chủ yếu là L/C không huỷ ngang ) được áp dụng phổ biến hơn cả. Đến đây nếu không có sự tranh chấp và khiếu lại, một thương vụ xuất khẩu coi như đã kết thúc và doanh nghiệp lại tiến hành một thương vụ mới. III- Các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động xuất khẩu. Nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động mua bán hàng hóa quốc tế nói chung và hoạt động xuất khẩu nói riêng cho phép các nhà kinh doanh thấy được những gì họ sẽ phải đối mặt và đứng trước tình thế đó thì họ phải xử lý như thế nào? ở đây chúng ta có thể nghiên cứu ảnh hưởng của các nhóm yếu tố chủ yếu sau: 1. Môi trường quốc gia Các yếu tố kinh tế ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động kinh doanh xuất khẩu, hơn nữa các yếu tố này rất rộng nên các doanh nghiệp có thể lựa chọn và phân tích các yếu tố thiết thực nhất để đưa ra các biện pháp tác động cụ thể. 1.1. Tỷ giá hối đoái và tỷ suất ngoại tệ của hàng xuất khẩu Tỷ giá hối đoái là giá cả của một đơn vị tiền tệ này thể hiện bằng một số đơn vị tiền tệ của nước kia. Tỷ giá hối đoái là phương tiện so sánh giá trị hàng hóa trong nước và trên thị trường quốc tế, là một trong những căn cứ quan trọng để doanh nghiệp đưa ra quyết định liên quan đến hoạt động mua bán hàng hóa quốc tế nói chung và hoạt động xuất khẩu nói riêng. Trong trường hợp tỷ giá hối đoái của đồng Việt Nam giảm so với ngoại tệ mạnh (USD, GBP, FRF, DEM...) thì các doanh nghiệp có thể thu được nhiều lợi nhuận từ hoạt động xuất khẩu và ngược lại. Chính vì vậy, các doanh nghiệp có thể thông qua nghiên cứu và dự đoán xu hướng biến động của tỷ giá hối đoái để đưa ra biện pháp xuất khẩu phù hợp, lựa chọn thị trường có lợi, lựa chọn nguồn hàng, đồng tiền thanh toán..... Tương tự, tỷ suất ngoại tệ hàng xuất khẩu cũng như “một chiếc gậy vô hình” đã làm thay đổi, chuyển hướng giữa các mặt hàng, các phương án kinh doanh của doanh nghiệp xuất khẩu. 1.2. Mục tiêu và chiến lược phát triển kinh tế Thông qua mục tiêu và chiến lược phát triển kinh tế thì Chính phủ có thể đưa ra các chính sách khuyến khích hay hạn chế xuất nhập khẩu. Chẳng hạn chiến lược phát triển kinh tế theo hướng công nghiệp hóa- hiện đại hóa đòi hỏi xuất khẩu để thu ngoại tệ đáp ứng nhu cầu nhập khẩu các trang thiết bị máy móc phục vụ sản xuất; mục tiêu bảo hộ sản xuất trong nước đưa ra chính sách khuyến khích xuất khẩu và hạn chế nhập khẩu hàng tiêu dùng.... 1.3 Các chính sách thuế Một số chính sách chủ yếu cần quan tâm đối với nhà xuất khẩu: *Thuế quan: trong hoạt động xuất khẩu thuế quan là loại thuế đánh vào từng đơn vị hàng xuất khẩu. Việc đánh thuế xuất khẩu được Chính phủ ban hành nhằm quản lý xuất khẩu theo chiều hướng có lợi nhất cho nền kinh tế trong nước và mở rộng các quan hệ kinh tế đối ngoại. Tuy nhiên, thuế quan cũng gây ra một khoản chi phí xã hội do sản xuất trong nước tăng lên không có hiệu quả và mức tiêu dùng trong nước lại giảm xuống. Nhìn chung, công cụ này thường chỉ áp dụng đối với một số ít mặt hàng nhằm hạn chế số lượng xuất khẩu và bổ sung cho nguồn thu của ngân sách. *Trợ cấp xuất khẩu: Trong một số trường hợp Chính phủ phải thực hiện chính sách trợ cấp xuất khẩu để tăng mức độ xuất khẩu hàng hóa của nước mình, tạo điều kiện cho sản phẩm có sức cạnh tranh về giá trên thị trường thế giới. Trợ cấp xuất khẩu sẽ làm tăng giá nội địa của hàng xuất khẩu, giảm tiêu dùng trong nước nhưng tăng sản lượng và mức xuất khẩu. * Hạn ngạch: được coi là một công cụ chủ yếu trong hàng rào phi thuế quan, nó được hiểu như quy định của Nhà nước về số lượng tối đa của một mặt hàng hay một nhóm hàng được phép xuất khẩu trong một thời gian nhất định thông qua việc cấp giấy phép. Sở dĩ có công cụ này vì không phải lúc nào Nhà nước cũng khuyến khích xuất khẩu mà đôi khi vì quyền lợi quốc gia phải kiểm soát một vài mặt hàng hay nhóm hàng như sản phẩm đặc biệt, nguyên liệu do nhu cầu trong nước còn thiếu.... 2. Môi trường quốc tế Hoạt động của con người luôn luôn tồn tại trong một điều kiện xã hội nhất định. Chính vì vậy, các yếu tố xã hội ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động của con người. Các yếu tố xã hội là tương đối rộng, do vậy để làm sáng tỏ ảnh hưởng của yếu tố này ta có thể nghiên cứu ảnh hưởng của yếu tố văn hóa, đặc biệt là trong ký kết hợp đồng. Nền văn hóa tạo nên cách sống của mỗi cộng đồng sẽ quyết định cách thức tiêu dùng, thứ tự ưu tiên cho nhu cầu mong muốn được thoả mãn và cách thoả mãn của con người sống trong đó. Chính vì vậy, văn hóa là yếu tố chi phối lối sống nên các nhà xuất khẩu luôn luôn phải quan tâm tìm hiểu yếu tố văn hóa ở các thị trường mà mình tiến hành hoạt động xuất khẩu. 1. Môi trường quốc gia Các yếu tố chính trị pháp luật ảnh hưởng trực tiếp tới hoạt động xuất khẩu. Các công ty kinh doanh xuất khẩu đều phải tuân thủ các quy định của các Chính phủ có liên quan, tập quán và luật pháp quốc gia, quốc tế: Các quy định của luật pháp Việt Nam đối với hoạt động xuất khẩu (thuế, thủ tục quy định về mặt hàng xuất khẩu, quy định quản lý về ngoại tệ...) Các hiệp ước, hiệp định thương mại mà Việt Nam tham gia Các quy định nhập khẩu của các quốc gia mà doanh nghiệp có quan hệ làm ăn Các vấn đề pháp lý và tập quán quốc tế có liên quan tới việc xuất khẩu (Công ước Viên 1980, Incoterm 1990....) Ngoài những vấn đề nói trên, các chính phủ còn thực hiện các chính sách ngoại thương khác như: hàng rào phi thuế quan, ưu đãi thuế quan... Chính sách ngoại thương của Chính phủ trong mỗi thời kỳ có sự thay đổi. Sự thay đổi đó là một trong những rủi ro lớn đối với nhà làm kinh doanh xuất khẩu. Vì vậy, họ phải nắm được chiến lược phát triển kinh tế của đất nước để biết được xu hướng vận động của nền kinh tế và sự can thiệp của Nhà nước. Khoảng cách địa lý giữa Việt Nam và các nước sẽ ảnh hưởng đến chi phí vận tải , tới thời gian thực hiện hợp đồng, thời điểm ký kết hợp đồng do vậy, nó ảnh hưởng tới việc lựa chọn nguồn hàng, lựa chọn thị trường, mặt hàng xuất khẩu.... Vị trí của các nước cũng ảnh hưởng đến việc lựa chọn nguồn hàng, thị trường tiêu thụ. Ví dụ: việc mua bán hàng hóa với các nước có cảng biển có chi phí thấp hơn so với các nước không có cảng biển. Thời gian thực hiện hợp đồng xuất khẩu có thể bị kéo dài do bị thiên tai như bão, động đất... Sự phát triển của khoa học công nghệ, đặc biệt là công nghệ thông tin cho phép các nhà kinh doanh nắm bắt một cách chính xác và nhanh chóng thông tin , tạo điều kiện thuận lợi trong việc theo dõi, điều khiển hàng hóa xuất khẩu, tiết kiệm chi phí, nâng cao hiệu quả hoạt động xuất khẩu. Đồng thời yếu tố công nghệ còn tác động đến quá trình sản xuất, gia công chế biến hàng xuất khẩu, các lĩnh vực khác có liên quan như vận tải, ngân hàng.... Các yếu tố hạ tầng phục vụ hoạt động xuất khẩu ảnh hưởng trực tiếp đến xuất khẩu, chẳng hạn như: Hệ thống giao thông đặc biệt là hệ thống cảng biển: mức độ trang bị, hệ thống xếp dỡ, kho tàng.... . Hệ thống cảng biển nếu hiện đại sẽ giảm bớt thời gian bốc dỡ, thủ tục giao nhận cũng như đảm bảo an toàn cho hàng hóa xuất khẩu. Hệ thống ngân hàng: Sự phát triển của hệ thống ngân hàng cho phép các nhà kinh doanh xuất khẩu thuận lợi trong việc thanh toán, huy động vốn. Ngoài ra ngân hàng là một nhân tố đảm bảo lợi ích cho nhà kinh doanh bằng các dịch vụ thanh toán qua ngân hàng. Hệ thống bảo hiểm, kiểm tra chất lượng hàng hóa cho phép các hoạt động xuất khẩu được thực hiện một cách an toàn hơn, đồng thời giảm bớt được mức độ thiệt hại khi có rủi ro xảy ra.... 2. Môi trường quốc tế Trong xu thế khu vực hóa, toàn cầu hóa thì sự phụ thuộc giữa các nước ngày càng tăng. Chính vì thế mỗi biến động của tình hình kinh tế- xã hội trên thế giới đều ít nhiều trực tiếp hoặc gián tiếp ảnh hưởng đến nền kinh tế trong nước. Lĩnh vực xuất khẩu hơn bất cứ một hoạt động nào khác bị chi phối mạnh mẽ nhất. ở đây cũng do một phần tác động của các mối quan hệ kinh tế quốc tế. Khi xuất khẩu hàng hóa từ nước này sang nước khác, người xuất khẩu phải đối mặt với các hàng rào thuế quan, phi thuế quan. Mức độ lỏng lẻo hay chặt chẽ của các hàng rào này phụ thuộc chủ yếu vào quan hệ kinh tế song phương giữa hai nước nhập khẩu và xuất khẩu. Ngày nay, đã và đang hình thành rất nhiều liên minh kinh tế ở các mức độ khác nhau, nhiều hiệp định thương mại song phương, đa phương được kí kết với mục tiêu đẩy mạnh hoạt động thương mại quốc tế. Nếu quốc gia nào tham gia vào các liên minh kinh tế này hoặc kí kết các hiệp định thương mại thì sẽ gặp nhiều thuận lợi trong hoạt động xuất khẩu của mình. Ngược lại, đó chính là rào cản đối với việc thâm nhập vào thị trường khu vực đó. 3. Bản thân doanh nghiệp 3.1. Tiềm lực tài chính Là một yếu tố tổng hợp phản ánh sức mạnh của doanh nghiệp thông qua khối lượng (nguồn) vốn mà doanh nghiệp có thể huy động vào kinh doanh, khả năng phân phối (đầu tư) có hiệu quả các nguồn vốn. Khả năng quản lý có hiệu quả các nguồn vốn trong kinh doanh của doanh nghiệp thể hiện qua các chỉ tiêu: Vốn chủ sở hữu (vốn tự có) Vốn huy động Tỷ lệ tái đầu tư về lợi nhuận Khả năng trả nợ ngắn hạn và dài hạn Các tỷ lệ về khả năng sinh lợi 3.2. Tiềm năng con người Trong kinh doanh (đặc biệt là trong lĩnh vực thương mại- dịch vụ, hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu) con người là yếu tố quan trọng hàng đầu để đảm bảo thành công. Chính con người với năng lực thật của họ mới lựa chọn đúng được cơ hội và sử dụng sức mạnh khác mà họ đã và sẽ có: vốn, tài sản, kỹ thuật, công nghệ...một cách có hiệu quả để khai thác và vượt qua cơ hội. 3.3. Tiềm lực vô hình (tài sản vô hình) Tiềm lực vô hình tạo nên sức mạnh của doanh nghiệp trong hoạt động thương mại. Tiềm lực vô hình không phải tự nhiên mà có. Tuy có thể được hình thành một cách tự nhiên, nhưng nhìn chung tiềm lực vô hình cần được tạo dựng một cách có ý thức thông qua các mục tiêu và chiến lược xây dựng tiềm lực vô hình cho doanh nghiệp và cần chú ý đến khía cạnh này trong tất cả các hoạt động của doanh nghiệp. Tiềm lực của doanh nghiệp có thể là: Hình ảnh và uy tín của doanh nghiệp trên thương trường Mức độ nổi tiếng của nhãn hiệu hàng hóa Uy tín và mối quan hệ xã hội của lãnh đạo doanh nghiệp. 3.4. Khả năng kiểm soát, chi phối, độ tin cậy của nguồn cung cấp hàng hóa và dự trữ hợp lý hàng hóa của doanh nghiệp. Yếu tố này ảnh hưởng tới “đầu vào” của doanh nghiệp và tác động mạnh mẽ đến kết quả thực hi._.ện các chiến lược kinh doanh cũng như ở khâu tiêu thụ sản phẩm. Không kiểm soát hoặc không đảm bảo được sự ổn định, chủ động về nguồn cung cấp hàng hóa cho doanh nghiệp thì việc thực hiện các hợp đồng xuất khẩu không thể đảm bảo, có thể phá vỡ hoặc làm hỏng hoàn toàn kế hoạch kinh doanh của doanh nghiệp. 3.5. Trình độ tổ chức, quản lý Mỗi một doanh nghiệp là một hệ thống với những mối liên kết chặt chẽ với nhau hướng tới mục tiêu. Một doanh nghiệp muốn đạt được mục tiêu của mình thì đồng thời phải đạt đến một trình độ tổ chức, quản lý tương ứng. Khả năng tổ chức, quản lý doanh nghiệp dựa trên quan điểm tổng hợp, bao quát, tập trung vào những mối liên hệ tương tác của tất cả các bộ phận tạo thành tổng thể tạo nên sức mạnh thật sự cho doanh nghiệp 3.6. Trình độ tiên tiến của trang thiết bị, công nghệ, bí quyết công nghệ của doanh nghiệp. ảnh hưởng trực tiếp đến năng suất, chi phí, giá thành và chất lượng hàng hóa được đưa ra đáp ứng khách hàng trong và ngoài nước. 3.7. Cơ sở vật chất- kỹ thuật của doanh nghiệp Cơ sở vật chất - kỹ thuật phản ánh nguồn tài sản cố định doanh nghiệp có thể huy động vào kinh doanh: thiết bị, nhà xưởng... Nếu doanh nghiệp có cơ sở vật chất kỹ thuật càng đầy đủ và hiện đại thì khả năng nắm bắt thông tin cũng nhưn việc thực hiện các hoạt động kinh doanh xuất khẩu càng thuận tiện và có hiệu quả. Chương II Thực trạng hoạt động xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam sang thị trường Mỹ trong 10 năm trở lại đây 1. Quy định của Mỹ đối với hàng dệt may Việt Nam. * Hạn ngạch nhập khẩu: Là việc kiểm soát về khối lượng hàng hóa nhập khẩu trong một thời gian nhất định. Phần lớn các hạn ngạch nhập khẩu do Cục Hải quan Mỹ (US Custom Service) quản lý. Hội đồng Hải quan (Conisioner of custom) kiểm soát việc nhập khẩu hàng theo quota, nhưng không có quà cáp, thay đổi quota. Có thể chia các hạn ngạch nhập khẩu của Mỹ thành 2 loại: tuyệt đối và loại thuế suất. - Quota hàng dệt may: Hải quan Mỹ kiểm soát việc nhập khẩu bông, len, sợi; dệt, tơ lụa các loại và các mặt hàng làm từ các sợi lấy từ cây hoặc được sản xuất từ một số nước. Việc kiểm soát quota hàng dệt dựa trên những văn bản hướng dẫn của Chủ tịch Uỷ ban Hải quan trong quá trình thực hiện các hiệp định hàng dệt (Textile agreements) tức là việc đóng dấu vào một hóa đơn hoặc đóng dấu vào một giấy phép kiểm soát xuất khẩu do mọt cơ quan của chủ nước xuất khẩu thực hiện. Visa có thể áp dụng cho hàng nhập vào theo hạn ngạch hoặc ngoài hạn ngạch, hàng theo hạn ngạch có thể cần hoặc không cần visa tùy thuộc vào nước xuất xứ được Hoa Kỳ chấp thuận theo một visa agreement ký với từng nước. Hàng từ các nước chưa có visa agreement không cần có visa nhưng sẽ được tính theo hạn ngạch phù hợp. Tuy nhiên, cần lưu ý rằng có visa không có nghĩa là hàng chắc chắn được làm thủ tục nhập khẩu vào Hoa Kỳ. Nếu hạn ngạch bị hết hạn (close) trong thời gian vận chuyển (tức là giữa thời gian sau khi hàng đã được đóng dấu visa ở nước xuất khẩu và thời gian hàng đến Hoa Kỳ) thì người nhập khẩu ở Hoa Kỳ cũng không được làm thủ tục nhập hàng cho đến khi hạn ngạch được bổ sung hoặc gia hạn lại. * Quy định về mác, nhãn thương mại, xuất xứ của hàng hóa. Khi nhập hàng hóa vào nước Mỹ, cần lưu ý quy định sau đây của Hải quan Mỹ. Hàng dệt may: - Các sản phẩm sợi dệt nhập khẩu phải có tem, mark, mã theo quy định trong Luật xác định sản phẩm may mặc (Textile Fiber Products Identification Act), trừ khi được miễn trừ theo như điều khoản 12 của luật này. + Tên và tỷ lệ trọng lượng: của các thành phần sợi lớn hơn 5% trong sản phẩm các thành phần sợi nhỏ hơn 5% được ghi là "các sợi khác". + Tên hãng sản xuất và tên hoặc số đăng ký do Uỷ ban Thương mại Liên bang (Federal Trade Mission - FTC) cấp, của một hoặc nhiều người bán các sản phẩm sợi này. Tên nhãn hiệu đã được đăng ký tại Mỹ có thể ghi trên nhãn mark, nếu nhãn mark này đã được gửi đến FTC. + Tên của nước nơi đã gia công hoặc sản xuất. Để thi hành luật xác định sản phẩm may mặc, phải có một hóa đơn thương mại cho toàn bộ chuyến hàng may hoặc trị giá trên 500 USD và theo đúng các yêu cầu nhãn hiệu của luật này cung cấp các thông tin quy định trong chương 6, ngoài các thông tin thông thường quy định trên hóa đơn. Có thể xin các quy định và hướng dẫn về luật xác định sản phẩm may mặc ở Uỷ ban Thương mại Liên bang, Washington D.C.20580. * Thực hiện SA - 8000. TBKTVN - 07/01/2002 không phải ngẫu nhiên mà Tổng Công ty Dệt may Việt Nam mới đây lại có văn bản yêu cầu các doanh nghiệp phải thực hiện hệ thống tiêu chuânr chất lượng SA - 8000. Bởi hệ thống tiêu chuẩn này rất quan trọng với việc doanh nghiệp Việt Nam muốn đưa sản phẩm vào thị trường Bắc Mỹ và cần thực hiện còn khá ít doanh nghiệp - Việt nam thực hiện tiêu chuẩn SA - 8000. Ông Vũ Đức Thịnh, Phó Giám đốc Vinatex cho hay "May Nhật Bản đã xuất bản được hàng sang Mỹ. Trước khi xuất, các đối tác đã sang tận nơi phỏng vấn công nhân và tìm hiểu về việc thực hiện tiêu chuẩn SA - 8000 tại đây. Sau khi kiểm tra, họ mới ký hợp đồng làm ăn. Tại Tổng Công ty Dệt may Việt Nam, Thắng Lợi cũng đã thực hiện SA - 8000. Đây là Công ty có nheieù đẩy mạnh việc xuất khẩu hàng sang Mỹ nên rất coi trọng các rào cản phi thuế quan như SA - 8000 trước cả khi hợp đồng Việt - Mỹ được ký kết. 2. Tiềm năng dệt may Việt Nam. Thuận lợi Chỉ có những ngành sản xuất nào làm ra sản phẩm tốt, giá thành ạh, được nước ngoài hỏi mua nhiều với giá khá cao thì mới có điều kiện để phát triển. So với một số ngành có giá thành cao hơn giá hàng nhập khẩu như xi măng và mía đường, cơ hội lớn của ngành dệt và làm hàng may mặc xuất khẩu nằm ở hai điểm: Thứ nhất là hàng dệt may và may mặc của Việt Nam khá tốt và giá rẻ hơn so với hàng nước ngoài. Ưu điểm này nằm trong bản chất ngành và thế so sánh giữa tiền lương nhân công nước ngoài. Về bản chất, ngành dệt và may chỉ đòi hỏi đầu tư ít, kỹ thuật ít thay đổi, những máy may Sinco cũ từ 20 - 30 về trước vẫn hoạt động tốt và làm ra các sản phẩm tốt. Ngành dệt và may mặc cần rất nhiều nhân công và mỗi nhân công dệt chỉ coi được một số máy dệt hạn chế, các công nhân may mặc cũng chỉ may được một số rất ít sản phẩm mỗi ngày. Giá nhân công rẻ là khâu quyết định trong ngành dệt và hàng may mặc. ở các nước công nghiệp phát triển, giá nhân công trên 10 USD/ giờ và ở các nước công nghiệp mới giá nhân công cũng 3 - 5 USD/ giờ. So với giá nhân công trong ngành dệt và may mặc ở Việt Nam khoảng 500.000 đến 1.500.000 đồng tháng - tính theo tỷ giá 15.000đ/ USD thì tiền lương nhân công hàng may mặc Việt Nam chỉ 33 đến 100 USD/ tháng. Thứ hai là số cầu hàng may mặc có tính co dãn: số cầu không bao giờ tiến đến mức bão hòa vì mức sống càng được cải thiện thì con người càng muốn mặc đẹp và đúng thời trang hơn. Giá các kiểu áo quần đẹp được trưng bày tại Mỹ, Anh, Pháp, Nhật lên đến hàng chục USD mỗi bộ. Từ điểm thứ hai này, lượng hàng may mặc xuất khẩu của Việt Nam có thể tăng gia gấp bội lần, mà không vấp hải tác dụng King như trong ngành nông sản: gạo hay cà phê, cây ăn trái. Khó khăn: 1. Các doanh nghiệp Việt Nam cạnh tranh với nhau kéo giá gia công của nước ngoài vốn đã thấp xuống một mức thấp hơn. 2. Do nhận gia công với nước ngoài với giá thấp, nên quan hệ tiền lương với nhân công chưa được giải quyết thỏa đáng. 3. Ngoài quan hệ tiền lương, các doanh nghiệp còn có quan hệ giá gia công đối với từng nhóm công nhân làm việc tại nhà. Quan hệ này được tiến hành như sau: công nhân nhận hàng đem về nhà gia công và doanh nghiệp thanh toán tiền gia công sau khi kiểm tra chất lượng. Quan hệ trên thường có lợi cho doanh nghiệp hơn là việc thuê nhân công hàng tháng vì những người gia công phải có mặt, một số máy và do có thể ở nhà làm việc trông nom con cái, nên những người gia công thường bằng lòng với mức thù lao thấp. Dodn không có phí đầu tư mặt bằng, máy móc, nên có thể tăng gia sản xuất gấp bội lần, khi được đơn đặt hàng của nước ngoài. Để có quota xuất khẩu, doanh nghiệp thường nhận gia công thấp và tính lại tiền công gia công cho các nhóm nhân công tại nhà với mức thù lao rất thấp nên hình thức "gia công tại nhà" chưa được phổ biến rộng rãi. 4. Trở lại vấn đề đầu tiên, các doanh nghiệp Việt Nam cạnh tranh với nhau và chấp thuận một giá gia công thường thấp, giá này đưa đến việc ép công nhân làm nhiều giờ với mức lương thấp và việc trả thù lao cho các nhóm thợ lãnh hàng đem về nhà làm với mức thù lao chưa thỏa đáng có nguyên nhân vì các nước kém mở mang cạnh tranh rất gắt với nhau để giành thị trường hàng may mặc của các nước phát triển. Trong việc này, lá bài "hạ giá gia công" được các nước kém mở mang cộng với các doanh nghiệp trong chính các nước này đồng áp dụng và đưa đến thiệt hại quan trọng cho chính các nước kém mở mang. Vì vậy, các doanh nghiệp Việt Nam phải ngồi lại với nhau, thỏa thuận một giá gia công tối thiểu, để doanh nghiệp đạt được mức lời vừa phải và công nhận cũng được số tiền lương vừa phải. Tất nhiên, Nhà nước có vai trò trọng tài và xử lý những doanh nghiệp xé rào chịu giá gia công quá thấp và như vậy làm thiệt hại chung cho ngành may mặc trong xứ. 5. Hàng may mặc hiểu theo nghĩa rộng rất đa dạng. Việt Nam muốn có thị trường rộng phải có những kiểu hàng thích hợp cho tất cả tuổi, tất cả khổ người từ những đàn ông, đàn bà trẻ em đến những người già, từ các người công nhân áo xanh đủ loại đến các sinh viên, nữ sinh hay các em bé. Ngoài quần áo may sẵn, còn mùng mền, chăn gối, drap trải giường, màn treo... Điều đáng lưu ý là hiện nay các doanh nghiệp may mặc Việt Nam mới sản xuất chỉ một số ít kiểu hàng. Cơ hội lớn đã đến với ngành dệt làm hàng may mặc của Việt Nam nhờ các đơn đặt hàng tăng mạnh đầu năm 2002. Một số doanh nghiệp đã có đủ đơn đặt hàng để làm việc 3 ca đến quý 3/2002. Cơ hội phát triển sẽ trở thành hiện thực, đảm bảo cho ngành phát triển bền vững, nếu các doanh nghiệp Việt Nam tăng gia đầu tư, mở rộng sản xuất, đa dạng hóa các mặt hàng, các mẫu mã, tìm cách thỏa mãn nhu cầu hàng may mặc của hơn 2 triệu đồng bào Việt Nam ở nước ngoài. Lợi thế của ngành dệt may nước ta, đặc biệt là ngành may xuất khẩu đang có những lợi thế cần phải nhanh chóng tận dụng thời cơ đó để khai thác. So với các nước ASEAN, Việt Nam có đội ngũ lao động trình độ văn hóa khá, có khả năng tiếp thu nhanh khoa học kỹ thuật, công nghệ hiện đại. Hơn nữa, giá công lao động Việt Nam rẻ nhất khu vực Châu á từ 0,16 - 0,35 USD/ giờ so với 0,32 USD/ giờ của Indonêsia, 0,37 USD/ giờ của Pakistan, 0,58 USD/ giờ của ấn Độ, 0,70 USD/ giờ của Trung Quốc, 1,13 USD/ giờ của Malaysia, 1,18 USD/ giờ của Thái Lan; 3,16 USD/ giờ của Singapore, cho thấy các doanh nghiệp có khả năng tạo ra những yếu tố cạnh tranh cao cho hàng dệt may Việt Nam (xem bảng 5). Bảng 5. Hệ số lợi thế so sánh giữa các nước ASEAN Sợi, chỉ, vải dệt Quần áo Indonêsia 1,6 2,1 Malaysia 0,4 1,4 Philippines 0,4 4,4 Singapore 0,2 0,5 Thái Lan 1,2 2,2 Việt Nam 1,8 3,1 Nguồn: Báo cáo của WB, Đánh giác tác động của việc Việt Nam gia nhập. Hiện nay, ngành dệt may Việt Nam đang mất dần lợi thế chủ yếu là giá lao động thấp so với khu vực và thế giới. Trong khi đó, chi phí đầu vào lại có xu hướng gia tăng. Nói chung, quan hệ lao động trong các doanh nghiệp Dệt May Việt Nam, nhất là doanh nghiệp sở hữu Nhà nước tốt, là tiêu chuẩn quan trọng cho các khách hàng lớn của Hoa Kỳ và các nước Tây Âu đặt quan hệ kinh tế lâu dài, nhưng năng suất lao động còn thấp, giá thành của nhóm sản phẩm thông dụng chưa cạnhtranh được với các nước. Phần lớn nguyên liệu, phụ liệu cung ứng cho ngành may mặc đều phải mua ở nước ngoài. Nhiều doanh nghiệp của ta còn gia công là chủ yếu, xúc tiến thương mại mờ nhạt; vẫn còn thụ động trong việc tìm kiếm thị trường và chưa thật sự "bung" mạnh ra ngoài để giới thiệu sản phẩm của mình. Công tác thiết kế mẫu mã của ngành Dệt May và từng doanh nghiệp còn yếu... Khắc phục những yếu kém trên, các doanh nghiệp Dệt May đã tìm cách tổ chức sản xuất hợp lý, tăng năng suất lao động, nâng cao chất lượng sản phẩm, giảm mọi chi phí, hạ giá thành, tăng sức cạnh tranh. Nhờ vậy, doanh nghiệp đã giữ được khách hàng truyền thống tăng tỷ lệ hàng xuất (FOB). Riêng các doanh nghiệp thuộc Tổng Công ty Dệt May Việt Nam (VINATEX) đã tăng tỷ lệ hàng xuất khẩu FOB thêm 16,4% so với cùng kỳ năm ngoái. Các Công ty Dệt may Việt Thắng, Dệt Đông Nam đã xuất khẩu tăng khá các sản phẩm dệt kim, khăn bông... VINATEX đã triển khai 26 dự án dệt, 6 dự án may và 10 dự án khác với tổng số vốn đầu tư 968 tỷ đồng, bằng các nguồn vốn ODA, vay tín dụng ưu đãi, tự bổ sung, vay thương mại và ngân sách cấp. Trong đó, đến nay vốn ưu đãi Nhà nước giải ngân đạt 54% và vốn ngân sách cấp đạt 75%. Tổng Công ty đã đưa vào hoạt động 4 dây chuyền kéo sợi và dệt mới tại các Công ty Dệt Vĩnh Phú, Dệt may Hà Nội, Dệt Phong Phú, Dệt Huế. Tổng Công ty cũng đang chỉ đạo triển khai lắp đặt dây chuyền 11.000 cọc sợi tại Công ty Dệt May Hòa Thọ. Dây chuyền 10.080 cọc sợi tại Công ty Dệt Phong Phú và lắp đặt bổ sung thiết bị đồng bộ cho các Công ty Dệt 8 - 3, Dệt Nam Định, Dệt Việt Thắng, Dệt May Thắng Lợi... VINATEX đã thành lập Văn phòng đại diện tại New York (Hoa Kỳ), chính thức đi vào hoạt động từ tháng 10 năm nay; đưa hàng dệt may Việt Nam tham gia 2 Hội chợ Bonbin World (Florida) và Magic Show (Las Vesga); đồng thời làm việc với các tập đoàn dệt may như Nike, JC Jenny... để chuyền đơn hàng vào Việt Nam. VINATEX là đầu mối giao nhận, tổ chức sản xuất, giám sát chất lượng và giao hàng cho khách, bước đầu triển khai 3 đơn vị ở miền Nam với đơn hàng dự kiến trị giá 200.000 USD/ tháng, sắp tới sẽ triển khai ở các đơn vị miền Bắc. VINATEX đã tổ chức đưa hàng chục đoàn khách nước ngoài vào khảo sát, đặt hàng tại các doanh nghiệp, góp phần tăng kim ngạch xuất khẩu năm nay và những năm tới. Đến nay, VINATEX đã có 18 doanh nghiệp thành viên được cấp chứng chỉ hệ thống quản lý cltheo tiêu chuẩn quốc tế ISO 9002. VINATEX đang chỉ đạo các Công ty Dệt Nha Trang, Dệt Hoa Thọ, May Đáp Cầu, May Chiến Thắng và Viện Kinh tế Kỹ thuật Dệt May hoàn thiện hệ thống quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn quốc tế để trong quý 4 năm nay được cơ quan chức năng kiểm tra đánh giá cấp chứng chỉ ISO 9002, nhằm tăng khả năng cạnh tranh trên thị trường. Tình hình xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam. Từ năm 1991 đến nay, kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may nước ta không ngừng tăng. Năm 1991, tổng giá trị xuất khẩu hàng dệt may chỉ đạt 158 triệu USD, đến năm 1998 đã gấp 9,18 lần, đạt 1450 triệu USD, tương đương với tốc độ tăng trưởng bình quân hàng năm là 43,5% tức khoảng 160 triệu USD/ năm. Bên cạnh đó, tỷ trọng hàng dệt may xuất khẩu trong tổng kim ngạch xuất khẩu của nước ta luôn tăng từ 7,6% năm 1991 lên 15% năm 1998. Đến nay, hàng dệt may đứng thứ nhất trong số 10 mặt hàng xuất khẩu hàng đầu của Việt Nam. Tình hình xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam trong 10 năm qua được thể hiện trong biểu đồ sau: Kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam (KH) Năm Triệu USD Hai năm gần đây, tốc độ tăng trưởng hàng dệt may xuất khẩu đã chững lại. Điều này đòi hỏi cần phải có sự phân tích và điều chỉnh hợp lý trong thời gina tới để ngành dệt may đứng vững trong điều kiện cạnh tranh ngày càng khốc liệt. Mặc dù hàng dệt may của Việt Nam là một mặthàng xuất khẩu trọng yếu nhưng so với các nước trong khu vực và với tiềm năng của nó thì kim ngạch đạt được còn khiêm tốn. Năm 1994, riêng Trung Quốc cũng đã xuất khẩu được 15 tỷ USD hàng dệt may, ấn Độ là 5,9 tỷ USD và Thái Lan là 4,2 tỷ USD. Về cơ cấu xuất khẩu hàng dệt may: So với ngành may thì công nghiệp dệt của Việt Nam còn rất hạn chế. Đây là ngành yêu cầu lượng máy móc thiết bị hiện đại đồng bộ và tốn kém. Do vậy ngành dệt chưa đủ khả năng phục vụ ngay chính ngành may trong nước. Nguyên liệu cho ngành may xuất khẩu của ta chủ yếu vấn phải nhập ngoại, như vậy kim ngạch xuất khẩu khá cao nhưng lợi nhuận từ hoạt động xuất khẩu chưa tương ứng, hiện có tới gần 60% kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may là để chi trả cho việc mua nguyên liệu, phụ kiện từ nước ngoài. Một vấn đề đáng lưu ý là giá trị gia công chiếm tới 80% kim ngạch xuất khẩu hàng may mặc. Hơn nữa, các hợp đồng gia công không ổn định, giá gia công thấp và sự phụ thuộc về nguyên vật liệu đã khiến không ít doanh nghiệp may mặc nước lúng túng, bị động trong hoạt động sản xuất kinh doanh. Những mặt hàng xuất khẩu khó làm như quần âu, áo vetston chiếm tỷ lệ nhỏ vì rất ít doanh nghiệp đầu tư đổi mới công nghệ để có đủ khả năng đáp ứng yêu cầu của sản xuất. Các mặt hàng xuất khẩu truyền thống của ngành dệt may Việt Nam chủ yếu là áo Jacket, áo váy, sơ mi đơn giản. Đến nay, những mặt hàng cao cấp đòi hỏi công nhân lành nghề, máy móc hiện đại còn nhiều hạn ngạch như chỉ một số ít doanh nghiệp có khả năng thực hiện. 3. Tình hình xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam sang Mỹ. Theo thống kê của thế giới, Hoa Kỳ luôn đứng đầu thế giới về nhập khẩu hàng dệt và hàng may mặc. Nếu gộp các loại hàng dệt may nhập khẩu vào Hoa Kỳ thì trong năm 1998 kim ngạch nhập khẩu mặt hàng này đạt 600 tỷ USD, chiếm 6,6%. Tổng kim ngạch nhập khẩu của Hoa kỳ (913 tỷ USD). Hiện nay, hàng dệt may Việt Nam xuất khẩu vào Hoa Kỳ mới chỉ có 8: 331, 338, 340, 435, 438, 444, 636, 644 và chỉ mới có hàng may chứ chưa có hàng dệt. Năm 1999, xuất khẩu hàng may của Việt Nam vào Hoa Kỳ mới đạt gồm 30 triệu USD, tăng 13% so với năm 1998. Việt Nam chủ yếu xuất khẩu sang Mỹ một số mặt hàng dệt thoi - găng tay sơ mi trẻ em, hàng dệt kim: sơ mi trẻ em, sơ mi nam, nữ, găng gệt kim, áo len.. (chiếm khoảng 85% tổng kim ngạch). Mặc dù Mỹ có nhu cầu về hàng dệt kim lớn nhưng Việt Nam chưa xuất khẩu được nhiều hàng dệt kim sang thị trường này do mức chênh lệch và thuế suất đối với các nước được hưởng GSP và NTR cao cũng như sự khác biệt về tiêu chuẩn sợi dệt và quy trình ráp sản phẩm. Năm 1998, trong khi nhiều thị trường xuất khẩu phi hạn ngạch của Việt Nam giảm mạnh thì thị trường Mỹ khá ổn định và đạt kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may sang thị trường này là 26,343 triệu USD trong năm 1998, 34,7 triệu USD năm 1999. Tuy nhiên kim ngạch xuất khẩu của hàng dệt may Việt Nam sang thị trường Mỹ còn rất nhỏ bé so với tổng kim ngạch nhập khẩu hàng dệt may của Mỹ. Với lợi thế của nước có lực lượng lao động dồi dào, có tay nghề và chi phí nhân công rẻ nên dệt may là ngành có nhiều khả năng sản xuất và xuất khẩu. Tuy nhiên với mức thuế nhập khẩu phân biệt đối với loại hàng hóa này làm cho hàng hóa của Việt Nam mất tính cạnh tranh so với các nước. - Những mặt hàng may mặc của Việt Nam vào được thị trường Hoa Kỳ trong thời gian qua phần lớn là do các Công ty nước ngoài hiện đang gia công ở Việt Nam để xuất khẩu đi EU, Nhật Bản, Đài Loan... và một số công ty mới của Hoa Kỳ hoặc của các những khác, chuẩn bị thị trường Hoa Kỳ khi có Hiệp định thương mại nên một số lô hàng nhỏ bị thuế cao họ cũng chấp nhận chịu lợi nhuận thấp để sẵn sàng cho thị trường Hoa Kỳ khi mở cửa sẽ đưa vào được với số lượng lớn trong thời gian ngắn. - Một trong những đặc điểm của ngành dệt may Việt Nam là trong vòng 10 năm qua, các Công ty Việt Nam chủ yếu làm gia công cho các Công ty nước ngoài, lấy công làm lãi, phần lớn nguyên phụ liệu là do các công ty nước ngoài đưa vào, một phần là do nguyên liệu trong nước chưa sản xuất được hoặc chất lượng thấp. - Lượng hàng các công ty mang xuất khẩu của Việt Nam tự lo nguyên liệu, bán thành phẩm, gọi là bán FOB còn rất hạn chế. Còn đối với thị trường Mỹ, thị trường nhập khẩu hàng dệt may lớn nhất thế giới, trong những năm qua, do chưa có quy chế tối huệ quốc (MFN) nên hàng dệt may Việt Nam vẫn còn chịu thuế suất nhập khẩu cao nên khó cạnh tranh được với các nước khác (xem bảng 2). Bảng 2. Thuế nhập khẩu hàng dệt may vào Mỹ. Thuế suất % Thuế MFN Thuế phi MFN Sản phẩm may mặc 43,4% 68,5% Sản phẩm dệt 10,3% 55,1% Nguồn: Bộ Thương mại Mỹ. Nhìn chung, xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam vào cả 2 khu vực thị trường có sử dụng hạn ngạch và phi hạn ngạch có tăng nhưng taưng chưa tương xứng với tiềm năng, mặc khác do mặt hàng dệt may nước ta tiếp tục chịu sự cạnh tranh gay gắt của các mặt hàng cùng loại của các nước Trung Quốc, Pakistan, ấn Độ, Philippin, Đài Loan về giá thành và chất lượng sản phẩm. Đặc biệt, Trung Quốc vẫn là đối thủ cạnh tranh lớn của nước ta, hơn nữa Trung Quốc vừa mới trở thành thành viên chính thức của Tổ chức Thương mại thế giới WTO nên hàng dệt may xuất khẩu của Việt Nam đã khó khăn lại càng khó khăn hơn (xem bảng số 3). Về mặt hàng sản xuất theo phương thức gia công vẫn chiếm chủ yếu và giá gia công xuất khẩu thường có xu hướng biến động giảm từ 15 - 20%/ năm nên đã làm giảm sút đáng kể kim ngạch xuất khẩu của hàng dệt may. Nguyên phụ liệu phục vụ cho ngành dệt may nước ta chủ yếu vẫn phụ thuộc vào nguồn nhập khẩu nên luôn thiếu sự chủ động trong đầu vào. Chất lượng của nguyên phụ liệu sản xuất trong nước còn kém so với các nước trong khu vực, giá thành lại cao và số lượng không đáp ứng đủ nhu cầu ngành may xuất khẩu, tỷ lệ vải trong nước có chất lượng chỉ mới đáp ứng được 12,15% nhu cầu của ngành may, còn các loại nguyên phụ liệu dệt may như: xơ sợi, hóa chất thuốc nhuộm, phụ liệu may hầu hết là nhập khẩu. Bảng 3: So sánh quy mô ngành dệt may Việt Nam với các nước trong khu vực Tên nước Sản lượng sợi (1.000 tấn) Sản lượng vải lụa (1 triệu m2) Sản phẩm may (1 triệu SP) Kim ngạch xuất khẩu (triệu USD) Trung Quốc India Bangladesh Thái Lan Indonesia Việt Nam 5.300 2.100 200 1.000 1.800 85 21.000 23.000 1.800 4.200 4.400 304 10.000 - - 2.500 3.000 400 50.000 12.500 4.000 6.500 8.000 2.000 Nguồn: VINATEX * Cơ hội và thách thức: Ngày 23.4.2001 Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt chiến lược phát triển hàng dệt may Việt Nam đến năm 2010 với các cơ chế chính sách cởi mở cho ngành dệt may phát triển (xem Bảng 4). Bảng : Các chỉ tiêu phát triển ngành dệt may Việt Nam đến 2010. Chỉ tiêu ĐVT Đến 2005 Đến 2010 1. Sản xuất Bông xơ Xơ sợi tổng hợp Sợi các loại Vải lụa thành phẩm Dệt kim May mặc 2. Kim ngạch xuất khẩu 3. Sử dụng lao động 4. Tỷ lệ giá trị sử dụng nguyên phụ liệu nội địa trên sản phẩm may xuất khẩu 5.- Nhu cầu vốn đầu tư phát triển - Vốn đầu tư mở rộng - Vốn đầu tư chiều sâu Trong đó: VINATEX 6. Vốn đầu tư phát triển trồng bông Tấn Tấn Tấn Triệu m2 Triệu SP Triệu SP Triệu USD Triệu người % Tỷ đồng Tỷ đồng Tỷ đồng Tỷ đồng Tỷ đồng 30.000 60.000 150.000 800 300 780 4.000-5.000 2,5 - 3 > 50 35.000 23.200 11.800 12.500 80.000 120.000 300.000 1.400 500 1.500 8.000-9.000 4 - 4,5 > 75 30.000 20.000 10.000 9.500 1.500 Nguồn: VINATEX Hiệp định thương mại Việt - Mỹ (BTA) ký kết ngày 13.7.2000 được Quốc Hội 2 nước phê chuẩn và có hiệu lực từ ngày10.12.2001 là cơ hội bằng vàng cho ngành dệt may Việt Nam. Hiệp định BTA có hiệu lực và thị trường được mở rộng sẽ cho phép hàng dệt may Việt Nam xuất khẩu sang Mỹ được hưởng quy chế tối huệ quốc (MFN hoặc NTR) và có khả năng phía Mỹ sẽ dành cho Việt Nam quy chế thuế quan ưu đãi phổ cập - GSP với thuế suất 0%. Đây là cơ hội tiên quyết để hàng dệt may Việt Nam xuất khẩu vào thị trường Mỹ mà không bị hạn chế bởi hạn ngạch hoặc giấy phép nhập khẩu của Chính phủ Mỹ đang áp dụng với các nước khác, lợi thế này chỉ có thể kéo dài trong vòng 1 năm kể từ khi Hiệp định thương mại Việt - Mỹ có hiệu lực. Song nếu biết tận dụng cơ hội thì các doanh nghiệp dệt may Việt Nam có thể đẩy mạnh xuất khẩu hàng dệt may vào thị trường này. Cơ hội quý báu để hàng dệt may Việt Nam thâm nhập vào thị trường Mỹ kể từ sau sự kiện 11.9, nhiều đơn hàng dệt may của Mỹ từ những nước có đạo Hồi có kim ngạch xuất khẩu lớn đang được chuyển dịch sang những nước có tình hình chính trị ổn định nhất như Trung Quốc và Việt Nam. Các tập đoàn lớn của Mỹ như JC Penny, NIKE đã chính thức đặt quan hệ với các doanh nghiệp may Việt Nam may quần áo thể thao, xuất khẩu sang Mỹ. Đồng thời các nhà đầu tư nước ngoài sẽ tập trung triển khai nhanh các dự án dệt may tại Việt Nam. Có thể nói đây là tín hiệu đáng mừng cho ngành dệt may Việt Nam. Tuy nhiên bên cạnh những cơ hội, ngành dệt may Việt Nam đang phải đối mặt với những thách thức lớn cần đặc biệt quan tâm là: - Sức cạnh tranh của hàng dệt may Việt Nam còn thấp khi tiến hành hội nhập thị trường khu vực và thế giới. Một trong những nguyên nhân dẫn tới hiện tượng trên là hầu hết các loại chi phí cho 1 đơn vị sản phẩm đều cao hơn từ 15 - 20% nên giá thành của sản phẩm dệt may chưa cạnh tranh được với Trung Quốc, Bangladesh, Pakistan. Năng suất lao động của ngành dệt may Việt Nam nhìn chung chỉ bằng 2/3 so với mức bình quân của các nước ASEAN, là do hoạt động kỹ năng của người lao động không đồng đều nên dẫn đến năng suất lao động thấp. Các chi phí về nguyên phụ liệu đều cao do công nghệ lạc hậu, mức tiêu hao lớn, hệ thống cung cấp đầu vào chưa kiểm soát chặt chẽ, chi phí trung gian cao nên giá thành cao làm giảm đi khả năng cạnh tranh của hàng dệt may Việt Nam. - Theo lịch trình cần giảm thuế quan theo Hiệp định về ưu đãi thuế quan có hiệu lực chung (CEP) cho khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA) nhiều mặt hàng hiện đang được hướng bảo hộ bằng thuế xuất cao như sợi 20%, vải 40%, may 50% sẽ có sự cắt giảm liên tục và tương đối nhanh còn 5% vào năm 2006. Thách thức lớn nhất và cũng là mối quan tâm lớn nhất hiện nay của Chính phủ lẫn các doanh nghiệp dệt may Việt Nam chính là sự đối mặt không chỉ là sự cạnh tranh của các doanh nghiệp xuất khẩu sang các nước ASEAN mà ngay cả trên thị trường Việt Nam khi bắt đầu từ 2003, phải bỏ cả hạn ngạch định lượng nhập khẩu và từ 1.6.2006 bỏ toàn bộ các biện pháp bảo hộ bằng phi thuế quan. - Theo Hiệp định về hàng dệt may ATC, các nước công nghiệp phát triển như Mỹ, EU, Candada, sẽ bỏ dần hạn ngạch nhập khẩu hàng dệt may từ các nước là thành viên của Tổ chức thương mại thế giới (WTO) theo lộ trình vạch sẵn: giai đoạn 2002 - 2004 bỏ tiếp đợt 3: 18% (đợt 1: 16%, đợt 2: 17%) hạn ngạch so với năm xảy ra, hầu hết các đối thủ cạnh tranh xuất khẩu dệt may lớn của Việt Nam như Trung Quốc gia nhập WTO sẽ có nhiều lợi điểm hơn nước ta. - Theo Hiệp định về buôn bán hàng dệt may giữa Việt Nam và EU cho 3 năm 2000 - 2002 trong đó EU đồng ý tăng 30% hạn ngạch cho hàng dệt may Việt Nam xuất khẩu vào thị trường EU nhưng đổi lại Việt Nam cũng phải mở cửa thị trường và giảm thuế nhập khẩu để tạo điều kiện cho hàng dệt may sản xuất ở các quốc gia thuộc EU xuất khẩu vào Việt Nam cũng như dành cho các doanh nghiệp EU những ưu đãi như dành cho các doanh nghiệp Mỹ được quy định trong Hiệp định thương mại Việt - Mỹ. Hơn nữa, Việt Nam chưa được EU đưa vào danh sách các nước nghèo (trong số 48 nước) để được hưởng các ưu đãi thuế quan của EU và dỡ bỏ hạn ngạch đang là những bất lợi lớn cho việc xuất khẩu hàng dệt may. - Phần lớn nguyên phụ liệu cho may xuất khẩu còn phải nhập khẩu, dẫn đến phần giá trị gia tăng lợi nhuận thu về quá thấp chưa tương xứng với tiềm năng và không thuận lợi cho việc sản xuất kinh doanh theo hình thức FOB. - Công tác thiết kế mẫu mốt còn yếu, chưa được chú trọng, ặc dù nước ta có một đội ngũ các nhà thiết kế mẫu trẻ, giàu năng lực, thế nhưng mẫu mã thiết kế chưa thật sự đi vào cuộc sống, chủ yếu còn nặng về phần trình diễn, còn thời trang hàng ngày phần lớn lại được sưu tầm từ các catalogue nước ngoài, khâu thiết kế còn nhiều hạn chế, mẫu mã nghèo nàn, chưa xây dựng được thương hiệu mang nét đặc trưng và đạt tầm cỡ quốc tế và đó cũng chính là một trong những nguyên nhân khiến hàng dệt may Việt Nam dù có ưu thế nhưng vẫn chưa thể tự chủ để phát triển và hội nhập với thương trường quốc tế. - Hầu hết các doanh nghiệp dệt may chưa có kinh nghiệm và thụ động trong hoạt động tiếp thị, chưa có chiến lược tiếp thị đối với hàng dệt may Việt Nam. Công tác xúc tiến thương mại chưa kết hợp khai thác sử dụng triệt để 4 công cụ quảng cáo, xúc tiến bán hàng, bán hàng trực tiếp và tuyên truyền. Như vậy, chỉ mới sau một thời gian ngắn thực hiện Hiệp định thương mại Việt - Mỹ, kim ngạch xuất khẩu dệt may vào thị trường này đã tăng với một tốc độ "chóng mặt", vượt xa dự đoán của các nhà quản lý. Với số kim ngạch đạt được trên 600 triệu USD trong 10 tháng, Mỹ đã vượt qua thị trường EU, Nhật Bản và vươn lên trở thành thị trường xuất khẩu chính của hàng dệt may Việt Nam hiện nay. Theo số liệu thống kê của Bộ Thương mại, tổng kim ngạch xuất khẩu dệt may 9 tháng đầu năm đạt 1.880 triệu USD, trong đó thị trường Mỹ đạt 540 triệu USD, chiếm 28,7% tổng kim ngạch; thị trường DEU đạt 476 triệu USD, chiếm 25,3% tổng kim ngạch, thị trường Nhật Bản chỉ đạt 350 triệu USD, giảm 25% so với cùng kỳ 2001; Hồng Kông giảm 13% so với cùng kỳ 2001. Theo ông Lê Hoàng Thắng, Vụ phó Vụ XNK Bộ Thương mại, nguyên nhân chính là do các doanh nghiệp chủ động chuyển hướng xuất khẩu sang thị trường Mỹ để tận dụng cơ hội do Hiệp định mang lại, hoặc giảm xuất hàng qua thị trường trung gian như Hồng Kông, Đài Loan. Hiện nay có một số mặt hàng xuất mạnh vào Mỹ là hàng sơ mi dệt kim (cat 338 - 339); áo khoác (cat 334 - 335); sơ mi vải dệt thoi (cat 340 - 341); quần (cat 347- 348); vải tổng hợp (cat 637, 638, 641, 642)... Theo đánh giá của ông Lê Quốc Ân, Chủ tịch HĐQT Tổng Công ty dệt may Việt Nam (VINATEX) kiêm Chủ tịch Hiệp hội Dệt may Việt Nam, những mặt hàng xuất mạnh vào Mỹ hiện nay chắc chắn sẽ là đối tượng để Mỹ áp đặt quato trong thời gian tới. 10 năm qua ngành Dệt may nước ta đã có những bước phát triển mạnh mẽ, kim ngạch xuất khẩu không ngừng tăng nhanh, nhiều năm liền đứng hàng thứ hai trong số những mặt hàng xuất khẩu chủ lực, tạo thêm việc làm cho hàng trăm ngàn lao động, uy tín, chất lượng các sản phẩm dệt may Việt Nam được đánh giá cao trên thị trường thế giới. Có sự tăng trưởng liên tục và vững chắc như vậy là nhờ đường lối đổi mới của Đảng, tạo môi trường đầu tư, kinh doanh thuận lợi cho mọi thành phần kinh tế, sự nỗ lực của nhiều cấp, nhiều ngành trong việc tìm kiếm, mở rộng thị trường, sự năng động, sáng tạo của các doanh nghiệp. Năm 2000, kim ngạch xuất khẩu dự kiến đạt 1,85 đến 1,90 tỷ USD, tăng khoảng 8 - 9% so với năm 1999, thấp hơn so với kế hoạch ban đầu, nhưng tăng gấp 10 lần so với năm 1991. Tình hình thị trường năm 2000 có những diễn biến phức tạp, đồng EURO của Châu Âu sụt giá so với đồng USD đã ảnh hưởng không nhỏ đến nhập khẩu và tiêu thụ hàng hóa nói chung, hàng ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc29537.doc
Tài liệu liên quan