Định hướng và những giải pháp chủ yếu nhằm thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành nông nghiệp ở Việt Nam

MỤC LỤC DANH MỤC BẢNG Bảng 1: Cơ cấu ngành nông nghiệp Việt Nam thời kỳ 1986-2002 42 Bảng 2: Cơ cấu lao động ngành nông nghiệp (%) 43 Bảng 3: Chi ngân sách Nhà nước cho nông nghiệp, nông thôn 1996-2001 43 Bảng 4: Cơ cấu giá trị sản xuất trồng trọt- chăn nuôi- dịch vụ 49 Bảng 5: Tốc độ tăng trưởng trồng trọt- chăn nuôi và dịch vụ 1990-2002 51 Bảng 6: Giá trị sản xuất ngành trồng trọt 1986-2002 (theo giá so sánh 1994) 55 Bảng 7: Cơ cấu giá trị sản xuất ngành trồng trọt (%) 56 Bảng 8: Cơ

doc117 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1276 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Định hướng và những giải pháp chủ yếu nhằm thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành nông nghiệp ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
cấu diện tích lương thực 58 Bảng 9: Cơ cấu diện tích gieo trồng một số cây công nghiệp lâu năm 63 Bảng 10 : Diện tích trồng cây công nghiệp hàng năm 66 Bảng 11: Diện tích và giá trị sản xuất cây ăn quả 1990-2002 68 Bảng 12: Giá trị sản xuất ngành trồng trọt (theo giá so sánh 1994)/ha đất 70 Bảng 13: Giá trị sản xuất ngành chăn nuôi theo giá so sánh 1994 71 Bảng 14: Tốc độ tăng giá trị sản xuất ngành chăn nuôi (%) 71 Bảng 15: Tỷ trọng giá trị sản xuất ngành chăn nuôi (%) 72 DANH MỤC BIỂU ĐỒ Biểu đồ 1 - Cơ cấu kinh tế ngành của Việt Nam giai đoạn 1986-2002 36 Biểu đồ 2 - Sự gia tăng giá trị sản xuất ngành nông nghiệp 1986-2002 41 Biểu đồ 3 - Tỷ trọng nông nghiệp, lâm nghiệp và thuỷ sản trong giá trị sản xuất toàn ngành nông nghiệp của Việt Nam giai đoạn 1986-2002 41 Biểu đồ 4 - Cơ cấu giá trị sản xuất trồng trọt- chăn nuôi- dịch vụ 49 Biểu đồ 5- Tốc độ tăng trưởng trồng trọt- chăn nuôi và dịch vụ 1990-2002 (%) 51 Biểu đồ 6- Sự gia tăng giá trị sản xuất ngành trồng trọt 55 Biểu đồ 7- Cơ cấu các nhóm cây trồng 56 MỞ ĐẦU Tính cấp thiết của đề tài Trong những năm qua, thực hiện đường lối Đổi mới của Đảng, sản xuất nông nghiệp của Việt Nam đã có bước phát triển đáng kể. Trong một thời gian không dài, từ một nền nông nghiệp tự túc, lạc hậu Việt Nam đã bước đầu xây dựng được một nền nông nghiệp sản xuất hàng hóa; từ chỗ phải nhập khẩu lương thực, Việt Nam không những đảm bảo được an toàn lương thực quốc gia mà còn có xuất khẩu. Hơn thế nữa, một số mặt hàng nông nghiệp xuất khẩu còn có vị thế và thị phần cao trên thị trường quốc tế. Tuy nhiên, đánh giá một cách khách quan, hiện nay, sự phát triển của nông nghiệp Việt Nam vẫn chưa tương xứng với tiềm năng của đất nước. Các nguồn lực nông nghiệp của Việt Nam vẫn đang bị sử dụng một cách lãng phí và hiệu quả thấp. Với điều kiện khí hậu thuận lợi, đất đai màu mỡ... và với hơn 75% lực lượng lao động nhưng nông nghiệp chỉ đóng góp 23% vào tổng sản phẩm quốc dân. Để nâng cao hiệu quả sản xuất nông nghiệp, Nghị quyết hội nghị TW 5 khoá VII đã xác định: chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp là một trong những nhiệm vụ trọng tâm của quá trình “tiếp tục đổi mới và phát triển kinh tế nông thôn”. Quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp được coi là nội hàm của sự phát triển kinh tế nông nghiệp nông thôn. Trong bối cảnh đó, việc nghiên cứu thực trạng chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp Việt Nam, từ đó đưa ra các gợi ý về giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả phát triển của ngành nói riêng và phát triển kinh tế đất nước nói chung là rất cần thiết và có ý nghĩa cả về lý luận và thực tiễn. Tình hình nghiên cứu Chuyển dịch cơ cấu là nội hàm của sự phát triển kinh tế. Nông nghiệp lại là một ngành sản xuất vật chất quan trọng trong nền kinh tế vì vậy chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp để thúc đẩy kinh tế nông nghiệp phát triển theo hướng sản xuất hàng hoá đã thu hút sự quan tâm của nhiều nhà khoa học, kinh tế và quản lý. Điển hình là các công trình như: Tác động của cơ chế quản lý kinh tế với việc thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, Luận án PTS của Nguyễn Hữu Đức, 1996. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn, TS. Lê Đình Thắng, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội 1998. Chuyển dịch cơ cấu và xu hướng phát triển của kinh tế nông nghiệp Việt nam theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá từ thế kỷ XX đến thế kỷ XXI trong thời đại kinh tế tri thức, Chủ biên Lê Quốc Sử, NXB Thống Kê, Hà Nội 2001. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp tỉnh Yên Bái trong quá trình CNH, HĐH, Luận án PTS của Vũ Ngọc Kỳ, 1996. Tuy nhiên, do mục tiêu và yêu cầu nghiên cứu khác nhau, phần lớn các công trình nghiên cứu trên chỉ tập trung nghiên cứu quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế trên diện rộng là cơ cấu kinh tế nông thôn hoặc nếu có nghiên cứu chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp thì chỉ nghiên cứu ở phạm vi hẹp trong một tỉnh. Một vài nghiên cứu có đề cập đến xu hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp hay tác động của việc quản lý Nhà nước đến quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp nhưng việc khái quát và luận giải quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp của Việt Nam một cách rõ ràng, khoa học dường như chưa được đề cập đến. Đề tài này sẽ cố gắng lấp những chỗ trống kể trên. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của Luận văn Mục đích nghiên cứu: Trên cơ sở nghiên cứu những vấn đề lý luận về chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp và kinh nghiệm chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp ở một số nước, luận văn phân tích và làm rõ thực trạng quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp ở Việt Nam hiện nay, từ đó đề xuất những giải pháp chủ yếu nhằm thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp Việt Nam theo hướng hợp lý hơn, hiệu quả hơn. Nhiệm vụ nghiên cứu: Để thực hiện mục đích trên, luận văn có nhiệm vụ: Hệ thống hóa và phân tích một số luận điểm cơ bản về chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành nông nghiệp và kinh nghiệm chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp của một số nước; Phân tích thực trạng chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp Việt Nam từ 1986 đến nay và chỉ ra những mặt tích cực, hạn chế của quá trình đó; Đề xuất quan điểm định hướng và những giải pháp chủ yếu nhằm thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành nông nghiệp Việt Nam hiệu quả hơn. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu: Cơ cấu kinh tế nông nghiệp có thể xem xét trên nhiều góc độ khác nhau, song vì Luận văn nghiên cứu cơ cấu kinh tế nông nghiệp trên phạm vi rộng của cả nước nên chỉ giới hạn nghiên cứu về cơ cấu kinh tế nông nghiệp phân theo ngành (gọi tắt là cơ cấu kinh tế ngành nông nghiệp) và sự chuyển dịch cơ cấu ấy. Đồng thời, ngành nông nghiệp được hiểu theo nghĩa hẹp bao gồm ba nhóm ngành là: trồng trọt, chăn nuôi và dịch vụ nông nghiệp. Phạm vi nghiên cứu: sự dịch chuyển cơ cấu kinh tế ngành nông nghiệp Việt Nam trên phạm vi cả nước, có tham khảo kinh nghiệm chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp của các nước có nền nông nghiệp tiên tiến trong khu vực. Thời gian nghiên cứu: từ 1986 đến 2002 Phương pháp nghiên cứu: Luận văn sử dụng phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử làm phương pháp nghiên cứu cơ bản, đồng thời kết hợp với các phương pháp phân tích, thống kê, so sánh, tổng hợp... để làm rõ vấn đề nghiên cứu. Những đóng góp mới về khoa học của Luận văn Hệ thống hóa những lý luận cơ bản về chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành nông nghiệp Phân tích và đánh giá quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành nông nghiệp ở Việt Nam Đề xuất một số giải pháp thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành nông nghiệp của Việt Nam Kết cấu của Luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, Luận văn gồm 3 chương. Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn về chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành nông nghiệp Chương 2: Thực trạng chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành nông nghiệp ở Việt Nam 1986-2002 Chương 3: Định hướng và những giải pháp chủ yếu nhằm thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành nông nghiệp ở Việt Nam CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU KINH TẾ NGÀNH NÔNG NGHIỆP Cơ cấu kinh tế và chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành Khái niệm và đặc trưng của cơ cấu kinh tế Khái niệm cơ cấu thường được sử dụng để biểu thị cấu trúc bên trong, tỷ lệ và mối liên hệ giữa các bộ phận hợp thành của một hệ thống. Sau một thời gian biến đổi, các quan hệ giữa các bộ phận sẽ làm cho cơ cấu của hệ thống thay đổi, nó chuyển sang một trạng thái khác về chất hay trở thành một cơ cấu khác. Nếu hiểu biết cơ cấu của toàn bộ hệ thống thì sẽ nghiên cứu được quy luật để xác định các vấn đề có tính định lượng của hệ thống đó. Vì vậy, nghiên cứu về cơ cấu có vai trò cực kỳ quan trọng trong nghiên cứu hệ thống và khi nghiên cứu cơ cấu, cần tuân thủ các nguyên tắc sau: Không chỉ nghiên cứu về những yếu tố cấu thành hệ thống mà còn phải nghiên cứu về mối quan hệ, liên kết hữu cơ giữa các yếu tố đó (cả về tỷ trọng số lượng, chất lượng các yếu tố) và sự vận động, biến đổi cơ cấu của hệ thống. Điều này đòi hỏi phải nghiên cứu theo chuỗi thời gian. Phải đứng trên quan điểm hệ thống để nghiên cứu cơ cấu. Để nghiên cứu hệ thống kinh tế quốc dân, cần phải nghiên cứu về cơ cấu cấu thành hệ thống đó. Trên quan điểm hệ thống như vậy, có thể hiểu cơ cấu kinh tế của một nước là tập hợp các yếu tố cấu thành nền kinh tế của nước đó và mối quan hệ, những tác động qua lại giữa tất cả các yếu tố cấu thành nền kinh tế quốc dân. Trong cơ cấu kinh tế có sự thống nhất giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất. Theo Mác, cơ cấu kinh tế của xã hội là toàn bộ những quan hệ phù hợp với một quá trình phát triển nhất định của các lực lượng sản xuất vật chất. Khi quá trình tổ chức lao động phát triển mạnh mẽ sẽ làm thay đổi cơ cấu kinh tế của xã hội. Vì thế có thể hiểu cơ cấu kinh tế là tổng thể các mối quan hệ chủ yếu về chất lượng và số lượng tương đối ổn định của các yếu tố kinh tế hoặc các bộ phận của lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất trong một hệ thống tái sản xuất xã hội với những điều kiện kinh tế- xã hội và thời gian nhất định. Điều đó có nghĩa là khi xem xét cơ cấu kinh tế phải xem xét cấu trúc bên trong của nền kinh tế qua các mối quan hệ khác nhau. Các quan hệ này không chỉ là quan hệ tỷ lệ mang tính số lượng mà còn mang tính chất lượng thể hiện sự ràng buộc giữa quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất. Hơn thế nữa, hệ thống kinh tế có có đặc điểm: là hệ thống mở, phức tạp, động, đa cấu trúc, phân cấp, tự điều chỉnh và bị điều khiển bởi nhà nước, vì thế cơ cấu kinh tế có thể vận động theo những mục tiêu nhất định của nền kinh tế. Dưới dạng tổng quát, cơ cấu kinh tế (của một nước) có thể được hiểu là tập hợp các yếu tố kinh tế cấu thành nền kinh tế quốc dân, phản ánh mối quan hệ hữu cơ, những tác động qua lại giữa các yếu tố kinh tế đó, được thể hiện ra cả về số lượng và chất lượng, trong những không gian, điều kiện kinh tế- xã hội cụ thể và vận động hướng vào các mục tiêu nhất định của nền kinh tế. Đặc trưng của cơ cấu kinh tế Trước hết, cơ cấu kinh tế có tính khách quan và mang tính lịch sử, xã hội nhất định, được hình thành do trình độ phát triển sản xuất và phân công lao động xã hội. Khi sản xuất và phân công lao động càng phát triển thì cơ cấu kinh tế ngày càng chi tiết. Cơ cấu kinh tế được hình thành, tồn tại và phát triển theo quy luật khách quan nên có tính khách quan. Vì vậy, con người chỉ có thể vận hành nó trên cơ sở tuân theo quy luật khách quan của nó. Con người cũng không thể áp đặt cơ cấu kinh tế một cách giáo điều cho mọi nơi, mọi lúc vì nó có tính lịch sử, xã hội nhất định. Nền kinh tế chỉ phát triển khi các bộ phận của quá trình tái sản xuất xã hội giữ được mối liên hệ cân đối. Mỗi phương thức sản xuất có những yêu cầu về số lượng và tỷ lệ cân đối khác nhau do các quy luật kinh tế đặc thù mà trước hết là các quy luật kinh tế cơ bản của phương thức sản xuất đó quy định. Ngay trong cùng một hình thái kinh tế- xã hội nhưng ở những nước khác nhau thì cơ cấu kinh tế cũng khác nhau do có điều kiện kinh tế- xã hội khác nhau. Cơ cấu kinh tế thường biến động gắn với sự phát triển không ngừng của bản thân các yếu tố, bộ phận trong nền kinh tế và các mối quan hệ của chúng. Thứ hai, trong cơ cấu kinh tế, các yếu tố, các bộ phận kinh tế không tách rời một cách độc lập mà liên hệ với nhau hết sức chặt chẽ theo những quy luật đặc thù riêng. Thứ ba, một cơ cấu kinh tế có thể bao gồm nhiều bộ phận kinh tế khác nhau, có bộ phận kinh tế chủ yếu, có bộ phận kinh tế thứ yếu. Bộ phận kinh tế chủ yếu có thể được gọi là bộ phận then chốt, mũi nhọn quyết định chiều hướng, quy mô, nhịp độ phát triển của tổng thể nền kinh tế. Thứ tư, cơ cấu kinh tế không cố định, nó không ngừng vận động, biến đổi và phát triển theo xu hướng ngày càng hoàn thiện hơn, mở rộng hơn và hiệu quả hơn trong quá trình phân công và hợp tác lao động giữa các ngành, các vùng, các đơn vị kinh tế trong nước và trên phạm vi quốc tế. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành và những nhân tố ảnh hưởng tới quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành Hệ thống kinh tế quốc dân có thể được xem xét trên nhiều khía cạnh và tương ứng sẽ có những cơ cấu kinh tế khác nhau. Trong nghiên cứu kinh tế, ba loại cơ cấu kinh tế thường được đề cập là: cơ cấu kinh tế ngành (xét theo sự phân công lao động trong quá trình sản xuất xã hội), cơ cấu kinh tế thành phần (xét trên góc độ sở hữu và hình thức tổ chức, quản lý sản xuất kinh doanh) và cơ cấu kinh tế vùng (xét theo các đặc điểm sinh thái tự nhiên, phân bố theo không gian). Ba loại cơ cấu kinh tế này có sự ràng buộc lẫn nhau, có mối quan hệ tác động qua lại lẫn nhau, đan xen nhau, trong đó cơ cấu kinh tế ngành là cơ cấu cơ bản nhất, phản ánh rõ nhất trình độ phát triển của phân công lao động xã hội, trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, trình độ khoa học công nghệ của hệ thống kinh tế, Do đó, cơ cấu kinh tế ngành có vai trò quan trọng nhất trong việc phân tích, đánh giá, dự báo sự phát triển của nền kinh tế. Cũng chính vì vậy, luận văn cũng chủ yếu đề cập tới cơ cấu kinh tế ngành và sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành nông nghiệp trong nghiên cứu. Một cách đơn giản, có thể hiểu cơ cấu ngành của nền kinh tế là kết cấu hữu cơ theo ngành của nền kinh tế, nó phản ánh các mối quan hệ tương đối ổn định giữa các ngành hình thành nên nền kinh tế quốc dân. Sự thay đổi cơ cấu kinh tế ngành theo thời gian được gọi là chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành (chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo ngành). Theo Hệ thống tài khoản quốc gia (SNA), nền kinh tế được phân thành 3 nhóm ngành lớn là nông nghiệp, công nghiệp và dịch vụ. Trong mỗi nhóm ngành lại bao gồm nhiều ngành và phân ngành nhỏ hơn. Cũng giống như các cơ cấu kinh tế khác, cơ cấu kinh tế ngành không cố định. Sự thay đổi cơ cấu ngành hay sự chuyển dịch cơ cấu ngành là kết quả của quá trình: Xuất hiện thêm những ngành mới hay mất đi một số ngành đã có, tức là đã có sự thay đổi về số lượng cũng như loại ngành trong nền kinh tế. Tăng trưởng về quy mô với nhịp độ khác nhau của các ngành dẫn tới thay đổi cơ cấu hay nói cách khác, sự phát triển không đều của các ngành sau mỗi giai đoạn đã làm thay đổi cơ cấu kinh tế ngành. Thay đổi trong mối quan hệ tác động qua lại giữa các ngành. Mối quan hệ của một ngành với các ngành khác thể hiện qua quy mô đầu vào mà nó cung cấp cho các ngành khác hay nhận được từ các ngành đó. Khi công nghệ sản xuất thay đổi sẽ làm cho mối quan hệ này thay đổi, kéo theo những tác động hoặc thúc đẩy hoặc kìm hãm sự phát triển của các ngành có liên quan và vì thế dẫn tới sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành. Tóm lại, sự tăng trưởng của các ngành dẫn đến sự thay đổi cơ cấu ngành trong một nền kinh tế, làm cho cơ cấu kinh tế ngành không ngừng vận động, biến đổi và phát triển. Quá trình vận động, biến đổi đó chính là quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế và sự chuyển dịch đó luôn luôn gắn bó chặt chẽ với quá trình phát triển của lực lượng sản xuất và phân công lao động xã hội. Lực lượng sản xuất càng phát triển cao, càng hiện đại thì phân công lao động xã hội cũng phát triển cao hơn, tỉ mỉ hơn, theo quy luật quan hệ sản xuất luôn phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Và, như vậy, cơ cấu kinh tế dần được hoàn thiện hơn, hiệu quả hơn và mở rộng hơn. Cho nên chuyển dịch cơ cấu ngành xảy ra như là kết quả của quá trình phát triển. Đây là quy luật tất yếu dù xét trên phạm vi toàn bộ nền kinh tế hay trên phạm vi phân ngành hẹp hơn. Sự hình thành và tăng trưởng của các ngành kinh tế lại phụ thuộc vào nhiều yếu tố, cả chủ quan và khách quan. Có thể tổng hợp các nhân tố tác động tới quá trình hình thành, tăng trưởng của các ngành kinh tế, và do đó kéo theo sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành là: Các nhân tố địa lý - tự nhiên (như tài nguyên khoáng sản, nguồn nước, nguồn năng lượng, đất đai, khí hậu). Những yếu tố này tác động trực tiếp và mang tính khách quan đến sự hình thành cơ cấu kinh tế ngành. Những nước, những vùng khác nhau có ưu thế địa lý và khí hậu khác nhau sẽ có cơ cấu ngành khác nhau, tương ứng phù hợp với các điều kiện đó. Đồng thời, việc có tài nguyên khoáng sản hay không, nhiều hay ít cũng ảnh hưởng tới việc tạo ra cơ cấu kinh tế ngành và tốc độ tăng trưởng của mỗi ngành kinh tế. Các nhân tố kinh tế - xã hội (khoa học kỹ thuật và công nghệ, phong tục, tập quán, truyền thống dân tộc, thị trường, sức mua...). Những nhân tố này không chỉ có ảnh hưởng tới quá trình hình thành cơ cấu kinh tế ngành mà còn có tác động lớn đến năng suất, tốc độ tăng trưởng của mỗi ngành và do đó, sẽ dẫn tới sự thay đổi cơ cấu kinh tế ngành. Các nhân tố kinh tế đối ngoại và phân công lao động quốc tế. Trong môi trường toàn cầu hoá hiện nay, một nền kinh tế mở sẽ chịu nhiều tác động hơn của các yếu tố ngoài nước: sự biến động của giá cả thị trường thế giới, sự thay đổi nhu cầu, yếu tố luật pháp, các rào cản thương mại,... và vì vậy sự thay đổi của những yếu tố này cũng sẽ tác động tới việc tiêu thụ sản phẩm do đó ảnh hưởng trực tiếp đến quy mô sản xuất, ảnh hưởng trực tiếp đến sự phát triển của các ngành kinh tế dẫn tới thay đổi cơ cấu kinh tế ngành. Các chính sách kinh tế vĩ mô của Nhà nước: Trong nền kinh tế thị trường hiện đại ngày nay, Nhà nước thường trực tiếp tham gia vào điều tiết nền kinh tế đảm bảo cho nền kinh tế tăng trưởng cao và phát triển bền vững. Sự quản lý, điều tiết của Nhà nước được thực hiện thông qua việc ban hành các chính sách kinh tế vĩ mô. Các chính sách kinh tế vĩ mô sẽ ảnh hưởng tới các yếu tố đầu vào và đầu ra của quá trình sản xuất (huy động vốn, công nghệ, nguồn nhân lực, thị trường), do vậy sẽ tác động ngay đến tốc độ, khả năng phát triển của các ngành, sẽ làm cho cơ cấu kinh tế ngành thay đổi. Tóm lại, sự thay đổi cơ cấu hay sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế có thể do những nguyên nhân khách quan và chủ quan. Trong quá trình phát triển, nếu như không có những tác động chủ quan của con người, của Nhà nước thì cơ cấu kinh tế vẫn chuyển dịch. Tuy nhiên, nhà nước có thể chủ động tác động vào cơ cấu kinh tế, làm thay đổi nó phù hợp với những mục tiêu nhất định. Sự tác động của nhà nước nhằm chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo định hướng là để đạt được một mô hình cơ cấu có lợi thế so sánh nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng các nguồn lực. Tuy nhiên, trong quá trình can thiệp của nhà nước nhằm chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo một mục tiêu chủ quan nhất định thì cần phải chú trọng một số điểm sau: Trước hết, do cơ cấu kinh tế là phạm trù khách quan nên không thể áp đặt một cách chủ quan một cơ cấu kinh tế, cũng không thể nóng vội để xác lập tức thời cơ cấu kinh tế mới, tiến bộ khi điều kiện khách quan chưa cho phép. Sự duy trì quá lâu hoặc sự thay đổi quá nhanh chóng cơ cấu kinh tế mà không dựa vào những biến đổi của điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội đều gây nên những thiệt hại về kinh tế. Việc duy trì hay thay đổi cơ cấu kinh tế không phải là mục tiêu mà chỉ là phương tiện của việc tăng trưởng và phát triển kinh tế. Bên cạnh đó, trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế, việc xác định bộ phận kinh tế chủ yếu, then chốt, mũi nhọn có vai trò quan trọng. Việc lựa chọn này xuất phát từ nguyên tắc lợi thế so sánh để đạt hiệu quả cao nhất trong điều kiện các nguồn lực hạn chế. Việc phân tán nguồn lực, vốn đầu tư cho tất cả các bộ phận kinh tế sẽ đi ngược lại nguyên tắc hiệu quả, còn nếu quá tập trung vào một bộ phận sẽ lại gây ra sự mất cân đối của cơ cấu kinh tế, thậm chí còn dẫn đến một nền kinh tế què quặt, gây các hậu quả kinh tế, xã hội khác. Chúng ta cũng cần phân biệt khái niệm chuyển dịch cơ cấu với điều chỉnh cơ cấu và cải tổ cơ cấu. Trong ba khái niệm này, khái niệm “chuyển dịch cơ cấu” mang ý nghĩa khái quát nhất, nó nói đến sự thay đổi cơ cấu kinh tế qua thời gian do cả các nhân tố khách quan và chủ quan. Còn “điều chỉnh cơ cấu” và “cải tổ cơ cấu” là sự thay đổi cơ cấu kinh tế một cách chủ động của nhà nước, được thực hiện thông qua việc ban hành các chính sách kinh tế vĩ mô và chính sách kinh tế ngành để tác động vào quá trình hình thành và phát triển của các ngành khác nhau và do đó sẽ làm cho cơ cấu kinh tế ngành thay đổi theo mục đích của nhà nước. “Điều chỉnh cơ cấu” và “cải tổ cơ cấu” thường gắn với những thay đổi tương đối lớn của nhà nước (tương ứng trong ngắn hạn và dài hạn) khi việc thay đổi cơ cấu kinh tế trở thành một yêu cầu bức bách hoặc vì sự chậm trễ trong giai đoạn trước đó, hoặc vì kết quả đột biến của từng ngành, hoặc một phân ngành nào đó, đòi hỏi phải xác lập một cơ cấu mới, tạo ra sự đồng bộ trong toàn bộ nền kinh tế hay trong một ngành nào đó. Cơ cấu kinh tế ngành nông nghiệp và chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành nông nghiệp Cơ cấu kinh tế ngành nông nghiệp Nông nghiệp là một trong ba khu vực lớn cấu thành nền kinh tế quốc dân. Ngành nông nghiệp có đặc thù riêng so với hai khu vực còn lại thể hiện ở đối tượng lao động chủ yếu của ngành là những sinh vật sống (cây trồng, vật nuôi). Ngành nông nghiệp cũng được chia thành nhiều ngành và phân ngành chi tiết hình thành nên cơ cấu kinh tế ngành nông nghiệp. Cơ cấu kinh tế ngành nông nghiệp phản ánh sự phát triển của phân công lao động và lực lượng sản xuất trong lĩnh vực nông nghiệp. Trên cơ sở khái niệm cơ cấu kinh tế, dưới dạng tổng quát, có thể hiểu cơ cấu kinh tế ngành nông nghiệp (cơ cấu kinh tế nông nghiệp theo ngành) là tập hợp các ngành kinh tế cấu thành ngành nông nghiệp, phản ánh mối quan hệ hữu cơ, những tác động qua lại giữa các ngành kinh tế đó, được thể hiện ra cả về số lượng và chất lượng, trong những không gian, điều kiện kinh tế- xã hội cụ thể và vận động hướng vào các mục tiêu nhất định của nền kinh tế. Về việc phân ngành trong lĩnh vực nông nghiệp, theo nghĩa rộng, ngành nông nghiệp bao gồm ba ngành lớn là: nông nghiệp (theo nghĩa hẹp), lâm nghiệp và thuỷ sản. Ngành nông nghiệp theo nghĩa hẹp gồm trồng trọt, chăn nuôi và dịch vụ nông nghiệp. Trong lịch sử phát triển ngành nông nghiệp, hai ngành trồng trọt và chăn nuôi xuất hiện trước. Khi lực lượng sản xuất phát triển, phân công lao động phát triển đã làm xuất hiện thêm ngành lâm nghiệp và thuỷ sản nên cơ cấu ngành nông nghiệp truyền thống được mở rộng. Ngành trồng trọt và chăn nuôi trở thành những ngành bộ phận cấu thành ngành nông nghiệp theo nghĩa hẹp. Đối với nước ta hiện nay, mặc dù đã có sự xuất hiện và đang dần phát triển của các ngành lâm nghiệp và thuỷ sản, nhưng nông nghiệp theo nghĩa hẹp (chủ yếu bao gồm trồng trọt và chăn nuôi) vẫn đang chiếm tỷ trọng rất lớn trong tổng giá trị sản phẩm nông nghiệp nói chung và vì vậy vẫn giữ một vai trò quan trọng trong sự phát triển kinh tế nông nghiệp và kinh tế đất nước. Cũng chính vì lý do đó, trong luận văn này, tác giả chỉ giới hạn nghiên cứu cơ cấu ngành nông nghiệp theo nghĩa hẹp. Trong mỗi ngành bộ phận thuộc ngành nông nghiệp theo nghĩa hẹp lại được chia thành những ngành nhỏ hơn như ngành trồng trọt được chia thành các nhóm: cây lương thực, cây công nghiệp, cây ăn quả, rau đậu và các cây trồng khác; chăn nuôi được chia thành chăn nuôi gia súc, chăn nuôi gia cầm và chăn nuôi khác. Trong mỗi tiểu ngành ấy lại chia thành các tiểu ngành nhỏ hơn nữa hoặc thành các ngành sản phẩm cụ thể: trồng lúa, trồng sắn, trồng mía, trồng cây công nghiệp dài ngày, cây công nghiệp ngắn ngày..., chăn nuôi trâu, bò, cừu, lợn, gà, vịt, ngan, chim.... Mức độ phân ngành càng chi tiết phản ánh trình độ chuyên môn hoá và phân công lao động xã hội ngày càng cao. Có thể thấy rằng, cơ cấu kinh tế ngành nông nghiệp là một bộ phận của cơ cấu kinh tế ngành chung. Nó vừa chịu sự chi phối, ràng buộc bởi cơ cấu kinh tế chung vừa thể hiện các đặc thù của một ngành sản xuất lấy sinh vật sống làm đối tượng tác động và sản phẩm của nó lại có tính phổ biến ai ai cũng biết đến. Xã hội càng phát triển thì nhu cầu về các nông sản càng giảm, nhưng đặc biệt là không bao giờ giảm tới 0 như một số hàng hoá khác. Cơ cấu kinh tế nông nghiệp là nền tảng của cơ cấu kinh tế quốc dân vì trong quá trình phát triển của loài người, vấn đề đầu tiên cần đáp ứng phải là vấn đề ăn, ở rồi mới đến các nhu cầu khác. Điều đó cũng có nghĩa là cơ cấu kinh tế nông nghiệp vừa là chỗ dựa, vừa là động lực thúc đẩy và cũng vừa là nơi trì trệ, lạc hậu nhất trong toàn bộ nền kinh tế. Kinh nghiệm phát triển kinh tế đã chỉ rõ, không bao giờ các kỹ thuật và công nghệ sản xuất trong nông nghiệp vượt hơn các ngành khác. Cơ cấu kinh tế nông nghiệp có đầy đủ các đặc trưng chung là có tính khách quan, tính lịch sử xã hội nhất định, tính ổn định tương đối và luôn tác động lẫn nhau vận động biến đổi không ngừng và ngày càng hoàn thiện. Nó cũng chịu tác động của các nhóm yếu tố như địa lý, tự nhiên, kinh tế xã hội và các yếu tố quốc tế. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành nông nghiệp Cũng giống như các cơ cấu kinh tế khác, quá trình phát triển kinh tế nông nghiệp tất yếu cũng sẽ dẫn tới sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành nông nghiệp. Sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành nông nghiệp cũng là kết quả của sự tăng trưởng các ngành sản xuất trong nông nghiệp, là kết quả của quá trình phát triển phân công lao động xã hội và lực lượng sản xuất trong nông nghiệp. Trong quá trình phát triển, con số tỷ trọng phản ánh mối quan hệ giữa các ngành sẽ thay đổi, đồng thời sự phát triển có thể làm xuất hiện những ngành sản phẩm mới, hay mất đi những ngành sản phẩm không còn phù hợp, xã hội không có nhu cầu hoặc sản xuất không hiệu quả làm cơ cấu kinh tế ngành nông nghiệp thay đổi, chuyển dịch. Sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành nông nghiệp cũng có thể do các nguyên nhân khách quan và vừa có thể do các nguyên nhân chủ quan từ phía nhà nước. Để nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất nông nghiệp, nhà nước có thể can thiệp, chủ động tác động vào quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành nông nghiệp nhằm thay đổi cơ cấu kinh tế ngành theo hướng có lợi. Thực tiễn lịch sử phát triển kinh tế thế giới đã chỉ ra rằng, trong nền kinh tế thị trường không chỉ cần sự tác động của các quy luật thị trường như một “bàn tay vô hình” để điều tiết nền kinh tế. Để nền kinh tế hoạt động hiệu quả, còn cần đến bàn tay thứ hai đó là sự điều tiết của nhà nước. Trong điều kiện cụ thể của ngành nông nghiệp, sự tác động của Nhà nước vào quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành càng trở nên cần thiết nhằm nâng cao hiệu quả của sản xuất nông nghiệp. Để tác động vào cơ cấu kinh tế, trước hết nhà nước phải xác định được trong cơ cấu kinh tế mới, ngành nào sẽ là ngành chủ yếu, mũi nhọn, những ngành nào có vai trò quan trọng và những ngành nào có vai trò thứ yếu. Trong điều kiện vốn ít chúng ta không có điều kiện đầu tư vào nhiều ngành, nhiều lĩnh vực, vì vậy không cho phép chúng ta thực hiện phát triển cân đối. Lý thuyết tăng trưởng không cân đối đã chỉ ra rằng: Đối với các nước nghèo, các nước đang phát triển, do sự hạn chế về vốn, lao động kỹ thuật, khoa học - công nghệ, thị trường... việc phát triển với cơ cấu ngành không cân đối hay “cực tăng trưởng” là có lợi và cần thiết vì: Tạo ra sự kích thích đầu tư nhờ bất cân bằng cung cầu, như động lực khuyến khích đầu tư nâng cao năng lực sản xuất. Các “cực tăng trưởng” là các ngành, các lĩnh vực có tác dụng như “đầu tàu” lôi kéo toàn bộ nền kinh tế phát triển. Với ý nghĩa như vậy, trong mỗi thời điểm nhất định phải biết chọn lựa những lĩnh vực có lợi thế để tập trung những nguồn lực còn khan hiếm của mỗi quốc gia nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn lực. Trong lĩnh vực sản xuất nông nghiệp ở nước ta hiện nay, các nguồn lực phát triển là hạn chế, vì vậy, việc ứng dụng lý thuyết Tăng trưởng không cân đối là phù hợp. Theo lý thuyết này, Nhà nước cần tham gia vào quá trình điều tiết nhằm xác định các ngành có vai trò là “cực tăng trưởng” đóng vai trò là ngành mũi nhọn để tập trung đầu tư. Việc xác định “cực tăng trưởng” dựa trên nhiều cơ sở, trong đó đặc biệt coi trọng sự phân tích lợi thế so sánh của từng ngành. Việc phân tích lợi thế so sánh trong sản xuất nông nghiệp của từng ngành lại phụ thuộc vào những điều kiện cụ thể gắn với mỗi vùng địa lý cụ thể. Lý thuyết lợi thế so sánh đã chỉ ra rằng: Một nước nếu tập trung vào sản xuất những sản phẩm có lợi thế so sánh so với nước ngoài, sau đó thực hiện thương mại quốc tế, đem trao đổi lấy các sản phẩm khác của nước ngoài thì sẽ thu được lợi ích, hiệu quả cao hơn so với việc tự sản xuất tất cả các mặt hàng trong nước. Trong sản xuất nông nghiệp, vì sản xuất nông nghiệp chịu nhiều ảnh hưởng của tự nhiên, sản phẩm nông nghiệp mang tính đặc thù gắn với điều kiện thời tiết, khí hậu, đất đai, do đó, mỗi nước ở vào các vùng địa lý khác nhau, sẽ có các sản phẩm có lợi thế so sánh khác nhau. Vì vậy, việc xác định một cách chính xác sản phẩm mang lợi thế so sánh của quốc gia để tập trung sản xuất và tham gia vào thương mại quốc tế sẽ mang lại hiệu quả kinh tế cao cho quốc gia. Trong phạm vi một quốc gia, việc ứng dụng lý thuyết này cũng có thể đem lại lợi ích cao nhất cho mỗi vùng kinh tế, và vì vậy, đem lại hiệu quả cao nhất cho ngành sản xuất nông nghiệp cả nước nói chung. Trong phạm vi hẹp quốc gia, đặc biệt trong điều kiện địa hình trải dài của Việt Nam, mỗi vùng lãnh thổ lại có những điều kiện tự nhiên, đất đai, nguồn nước, thời tiết, khí hậu, truyền thống... khá khác biệt, do vậy, mỗi vùng sẽ có những sản phẩm lợi thế khác nhau. Việc xác định được chính xác sản phẩm có lợi thế so sánh của từng vùng và tập trung sản xuất, sau đó thực hiện trao đổi sản phẩm giữa các vùng sẽ đem lại hiệu quả, lợi ích cao hơn cho mỗi vùng (giống như lợi ích quốc gia có được khi tham gia vào thương mại quốc tế), và vì vậy, hiệu quả sản xuất nông nghiệp quốc gia cũng được tăng lên. Tuy nhiên, khi chủ động tác động vào quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp cần thấy rằng cơ cấu kinh tế nông nghiệp có một số đặc trưng riêng. Thứ nhất, sản xuất nông nghiệp lấy đối tượng là sinh vật sống nên chúng có quy luật sinh ra và lớn lên đồng thời lại chịu tác động lớn bởi sự thay đổi của thời tiết, khí hậu nên kết quả đầu ra với số lượng và chất lượng yếu tố đầu vào là không đều, hay thay đổi và nhiều khi không tỷ lệ thuận. Do vậy, việc tính toán hồi quy, sử dụng các mô hình Toán để định lượng xác định một cơ cấu kinh tế hiệu quả là việc khó khăn cũng như kết quả có được chỉ mang ý nghĩa rất tương đối. Thứ hai, việc hình thành cơ cấu kinh tế nông nghiệp luôn gắn với quan hệ cung cầu và giá cả ._.trên thị trường. Theo quy luật cung cầu thì giá tăng, lượng cung sẽ tăng và lượng cầu sẽ giảm. Khi cung cầu gặp nhau sẽ có điểm cân bằng và tại đó sẽ xác định được lượng hàng hoá sản xuất ra. Và như vậy sẽ tính toán được giá trị sản phẩm của từng ngành, từ đó dự đoán được cơ cấu kinh tế ngành. Đó là về nguyên tắc, còn đối với nông nghiệp có chu kỳ sản xuất dài, trong nhiều trường hợp nguồn lực khó di chuyển từ sản xuất mặt hàng này sang sản xuất mặt hàng khác nên việc hình thành cơ cấu kinh tế nông nghiệp bị chi phối bởi một quy luật gọi là “hiệu ứng trễ”. Có nghĩa là giá cả thời kỳ trước có ảnh hưởng tới cơ cấu kinh tế ngành nông nghiệp thời kỳ sau, điều đó tạo nên một chu kỳ theo một số vụ sản xuất nào đó. Trong cơ chế thị trường, muốn có một cơ cấu kinh tế nông nghiệp hợp lý và theo chủ đích thì phải tác động bằng nhiều cách như: qua các chính sách, dự trữ, hướng dẫn tiêu dùng, dự báo... Thứ ba, chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp phải coi trọng sự kết hợp đa dạng hoá và chuyên môn hoá. Sản xuất nông nghiệp là ngành phụ thuộc nhiều nhất vào nhóm điều kiện địa lý - tự nhiên so với các lĩnh vực khác, lại trải dài trên khắp cả nước, qua nhiều vùng địa lý khác nhau, với nhiều kiểu đất khác nhau, với nhiều trình độ khác nhau, nên phải thực hiện đa dạng hoá. Nếu đồng nhất hoá sản xuất nông nghiệp với các ngành kinh tế khác để vận hành theo kiểu chuyên môn hoá cao độ sẽ dẫn tới thất bại. Thứ tư, cơ cấu kinh tế nông nghiệp vừa lệ thuộc vào cơ cấu kinh tế nông thôn vừa có tác dụng thúc đẩy cơ cấu kinh tế nông thôn phát triển. Cơ cấu kinh tế nông thôn gồm ba bộ phận chủ yếu là nông nghiệp (theo nghĩa rộng), công nghiệp và dịch vụ. Kinh tế nông thôn bao trùm lên kinh tế nông nghiệp, các chương trình phát triển nông thôn sẽ quyết định sự phát triển của nông nghiệp, ngược lại, sự phát triển của nông nghiệp sẽ kéo theo các ngành công nghiệp nông thôn, đặc biệt là công nghiệp chế biến nông sản phát triển, các dịch vụ đầu vào, đầu ra, dịch vụ giao thông, môi giới phát triển. Thông thường, cụm từ kinh tế nông nghiệp nông thôn trở thành quen thuộc và dễ nhầm tưởng nông nghiệp và nông thôn là một. Thực ra, kinh tế nông thôn và kinh tế nông nghiệp có sự gắn bó hữu cơ, có sự đan xen vào nhau song không phải là một. Nông thôn là vùng sinh sống, làm việc của một cộng đồng chủ yếu là nông dân, là vùng chủ yếu sản xuất nông nghiệp, nông nghiệp chiếm tỷ trọng lớn nhất trong cơ cấu kinh tế nông thôn (điều này đã khiến chúng ta dễ đồng nhất nông thôn và nông nghiệp). Song, có thể hiểu nông thôn là một khu vực, cơ cấu kinh tế nông thôn là cơ cấu vùng lãnh thổ của nền kinh tế quốc dân còn cơ cấu kinh tế nông nghiệp là cơ cấu ngành của kinh tế nông thôn. Thứ năm, cơ cấu kinh tế ngành nông nghiệp nằm trong mối quan hệ hữu cơ với các cơ cấu kinh tế khác, đặc biệt có mối quan hệ chặt chẽ với cơ cấu kinh tế vùng. Do đặc điểm của sản xuất nông nghiệp chịu nhiều ảnh hưởng của yếu tố địa lý - tự nhiên, mà mỗi vùng kinh tế lại có những yếu tố địa lý - tự nhiên khác nhau nên trực tiếp sẽ ảnh hưởng tới việc hình thành cơ cấu kinh tế ngành trong nông nghiệp. Sự phân công lao động sản xuất nông nghiệp theo các vùng sẽ tạo nên cơ cấu vùng nông nghiệp. Cơ cấu vùng biểu hiện quan hệ của từng vùng so với tổng thể kinh tế nông nghiệp cả nước. Trong mỗi vùng lại có các cơ cấu ngành khác nhau, trong đó việc hình thành cơ cấu ngành sản xuất nông nghiệp gắn liền với điều kiện cụ thể của từng vùng. Vì vậy, trong quá trình tác động vào quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành nông nghiệp, sẽ không có một cơ cấu kinh tế thống nhất cho mọi vùng kinh tế, mỗi vùng cần phải có những chính sách riêng, cơ cấu kinh tế ngành riêng phù hợp. Tóm lại, chuyển dịch cơ cấu kinh tế là một quá trình, chịu sự tác động của nhiều yếu tố, cả chủ quan và khách quan. Một cơ cấu kinh tế mới ra đời được bắt nguồn, được chuyển dịch từ một cơ cấu trước đó, từ sự tích luỹ về lượng, đủ mức dẫn tới sự biến đổi về chất, nó kế thừa những tinh hoa của cơ cấu cũ và thay thế những mặt lỗi thời, lạc hậu của cơ cấu kinh tế cũ. Quá trình này sẽ được thúc đẩy nhanh thông qua sự tác động thông minh của con người bằng một hệ thống những chính sách và biện pháp đồng bộ tác động liên tục hợp quy luật. Đương nhiên, mọi sự chần chừ, bảo thủ đều là những trở lực làm hạn chế sự loại bỏ những cái cũ, lạc hậu, thúc đẩy nhanh chóng cơ cấu mới ra đời; song thái độ nóng vội, chủ quan không nhận thức được đầy đủ quy luật phát triển và chuyển dịch cơ cấu sẽ gây phương hại đến hiệu quả của cơ cấu kinh tế mới. Xu hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành nông nghiệp Quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế thể hiện ra ở quan hệ tỷ lệ giữa các ngành qua các mốc thời gian và chính quan hệ tỷ lệ này sẽ phản ánh cơ cấu kinh tế ngành có tiến bộ hay không, có đem lại hiệu quả cao hay không. Từ các giai đoạn phát triển nông nghiệp của thế giới và Việt Nam có thể tổng kết quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp diễn ra theo xu hướng mang tính quy luật như sau: Giá trị sản lượng nông nghiệp tăng lên song tỷ trọng giá trị sản lượng nông nghiệp trong tổng sản phẩm quốc dân ngày càng giảm. Từ nông nghiệp mở ra lâm nghiệp và thuỷ sản - những ngành có giá trị kinh tế cao song việc sản xuất khó khăn hơn, đòi hỏi một trình độ cơ sở vật chất nhất định và vốn đầu tư cao. Trong quá trình phát triển, tỷ trọng của lâm nghiệp và thuỷ sản sẽ tăng dần lên, còn tỷ trọng nông nghiệp sẽ giảm đi mặc dù ngành này vẫn phát triển. Trong nông nghiệp theo nghĩa hẹp, chăn nuôi ngày càng phát triển và dần chiếm tỷ trọng cao hơn trồng trọt. Sự phát triển trong trồng trọt trước hết sẽ thúc đẩy sản xuất thức ăn gia súc, chăn nuôi phát triển nhằm đáp ứng nhu cầu ăn ngon, đủ dinh dưỡng cho con người. Ngành chăn nuôi vì vậy ngày càng phát triển và ở các nền kinh tế phát triển tỷ trọng của nó còn lớn hơn cả tỷ trọng ngành trồng trọt. Trong trồng trọt, trên cơ sở phát triển lương thực, khi đã đạt được ngưỡng về nhu cầu lương thực, các ngành sản phẩm sản xuất các loại rau đậu cao cấp, cây ăn quả, cây công nghiệp phát triển nhanh và trở thành các ngành nông nghiệp hàng hóa lớn, thậm chí trở thành những ngành xuất khẩu quan trọng. Khi nền kinh tế phát triển, thu nhập và đời sống của nhân dân tăng lên thì nhu cầu ăn, ở, vui chơi giải trí, du lịch, nghỉ ngơi của con người tăng lên, do đó các ngành sản xuất các cây con đặc sản, hoa cây cảnh, chim thú, cá cảnh cũng được phát triển nhanh chóng trong giai đoạn này. Những xu hướng chuyển dịch cơ cấu ngành nông nghiệp như trên thể hiện ngành nông nghiệp phát triển ngày càng hợp lý, tiến bộ và văn minh. Tuy nhiên, cũng cần phải hiểu rằng, ngành nông nghiệp và cơ cấu các ngành là cụ thể với từng cơ sở sản xuất nông nghiệp, từng vùng nông nghiệp và mỗi quốc gia. Phát triển nông nghiệp hay lâm nghiệp và ngư nghiệp, sản xuất cây con gì, quy mô ra sao, sự kết hợp như thế nào, quan hệ tỷ lệ bao nhiêu là phụ thuộc vào nhiều nhân tố như điều kiện tự nhiên sinh thái, số lượng các nguồn lực, thị trường và nhu cầu thị trường, điều kiện cơ sở hạ tầng... của mỗi đơn vị kinh tế, mỗi vùng kinh tế và mỗi quốc gia. Mục tiêu của chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp nói riêng và cơ cấu kinh tế nói chung là nhằm đạt hiệu quả kinh tế, hiệu quả xã hội, hiệu quả môi trường cao. Một cơ cấu ngành có hiệu quả không chỉ cho hiệu quả kinh tế cao (được đo lường thông qua quan hệ đầu vào - đầu ra) mà phải gắn với phát triển bền vững, có hiệu quả xã hội (thể hiện ở việc phân phối thu nhập công bằng, dân số, văn hoá và giáo dục, việc làm, thay đổi cơ cấu xã hội) và hiệu quả môi trường cao (vấn đề bảo vệ tài nguyên đất, nước, giữ rừng, đa dạng hoá sinh học, tiếng ồn...). Do vậy, để đánh giá toàn diện về hiệu quả của một cơ cấu kinh tế cũng cần phải dựa vào tất cả các tiêu chí trên. Kinh nghiệm chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp ở một số nước. Kinh nghiệm Thái Lan Thái Lan có bình quân diện tích đất nông nghiệp là 0,39 ha/người và gần 50% lực lượng lao động đang tham gia sản xuất nông nghiệp. Quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp của Thái Lan trong những năm qua đã thu được những kết quả quan trọng. Cách đây 40 năm Thái Lan có xuất phát điểm tương đối thấp (chỉ gần bằng hoặc thấp hơn Việt Nam), nông nghiệp chiếm tỷ trọng lớn trong tổng sản phẩm quốc nội (trên30%), đến nay sản lượng nông nghiệp chỉ còn chiếm hơn 10% trong tổng sản phẩm quốc nội. Mặc dù tỷ trọng sản lượng ngành nông nghiệp giảm, nhưng nông nghiệp Thái Lan được đánh giá là một nền nông nghiệp mạnh, hiện nay đang dẫn đầu thế giới về xuất khẩu gạo và nhiều mặt hàng nông sản khác. Nông nghiệp Thái Lan vẫn đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế quốc dân với tư cách là một ngành cung cấp lương thực chủ yếu và nguyên liệu thô cho công nghiệp cũng như trao đổi hàng hóa với nước ngoài. Năng suất lao động nông nghiệp giai đoạn 1995 -1997 của Thái Lan đã lên đến 928 USD/người sản xuất (gấp 4,1 lần so với Việt Nam). Để có được những thành công trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp nông thôn, Thái Lan đã sử dụng các biện pháp sau: + Quan tâm chế độ sở hữu của các thành phần kinh tế, tạo điều kiện khuyến khích các thành phần kinh tế tham gia sản xuất. Kết hợp tốt các loại hình sản xuất nông trại gia đình, các hợp tác xã và các công ty quốc doanh, tư nhân hoặc liên doanh với nước ngoài, trong đó nông trại gia đình là lực lượng sản xuất nông nghiệp chủ yếu và hầu như thống trị ở các vùng nông nghiệp truyền thống. Các công ty quốc doanh và tư nhân kinh doanh nông sản xuất khẩu thường chỉ hoạt động chủ yếu trong các khâu cung ứng vật tư kỹ thuật, chế biến, bảo quản, tiêu thụ sản phẩm và chỉ trực tiếp làm nông nghiệp ở các vùng kinh tế mới. Nhà nước Thái Lan đã chủ trương chủ động tìm đối tác, thực hiện liên doanh với nhiều công ty nước ngoài trong lĩnh vực nông nghiệp. + Tập trung phát triển nông nghiệp và công nghiệp chế biến nông sản, để sản xuất những mặt hàng có thể cạnh tranh và đứng vững trên thị trường thế giới trên cơ sở khai thác ưu thế nguồn lao động dồi dào và rẻ, tài nguyên, sinh thái nhiệt đới ẩm. Ngay cả khi nền kinh tế chuyển sang giai đoạn sản xuất các mặt hàng công nghiệp kỹ thuật cao thì nông nghiệp vẫn được chú trọng phát triển một cách đúng mức và bền vững. + Thực hiện chiến lược đa canh kết hợp chuyên môn hóa một số sản phẩm có thế mạnh, trên cơ sở đảm bảo tiêu dùng trong nước và đẩy mạnh xuất khẩu. Xây dựng một cơ cấu kinh tế ngành gắn với kế hoạch sản xuất linh hoạt có thể chuyển đổi theo yêu cầu của thị trường thế giới. + Không chỉ dừng lại ở chủ trương mà Nhà nước Thái Lan trực tiếp giám sát triển khai về mặt tổ chức và hoạt động để xây dựng các vùng chuyên canh nông sản xuất khẩu lớn, xây dựng quy hoạch phát triển nông nghiệp đối với từng vùng và từng ngành sản xuất. + Ban hành các chính sách khuyến nông đối với từng vùng nông nghiệp: Với vùng nông nghiệp truyền thống: sau khi đã được qui hoạch, Nhà nước khuyến khích các công ty liên doanh, quốc doanh, tư nhân kinh doanh xuất khẩu thực hiện các dịch vụ về giống, kỹ thuật, cho vay vốn, xây dựng nhà máy chế biến nông sản tại chỗ và mua nông sản của nông dân theo hợp đồng trên nguyên tắc giá thỏa thuận và ổn định trong một số năm đối với các nông trại trong vùng và đảm bảo quyền độc lập trong kinh doanh của các nông trại gia đình. Với vùng kinh tế mới: sau khi đã có qui hoạch, nhà nước xây dựng cơ sở hạ tầng như đường sá, trường học, bệnh viện... tương đối hoàn chỉnh, và xây dựng nhà ở, sau đó tuyển lựa các hộ nông dân tình nguyện đi xây dựng vùng kinh tế mới theo các tiêu chuẩn cụ thể về số người trong gia đình, nghề chuyên môn, tuổi tác, sức khỏe,.... mỗi hộ nông dân được cấp nhà ở, đất vườn và số lượng diện tích trồng cây xuất khẩu với mức qui định. Nhà nước đầu tư xây dựng vườn ươm cây giống và cấp giống cho nông dân để trồng và chăm sóc trên đất đã được cày bừa sẵn theo qui định và dưới sự hướng dẫn của cán bộ chuyên môn. Trong thời gian đầu, nông dân được vay vốn để đảm bảo sinh hoạt của gia đình họ, ngoài phần được hỗ trợ họ có quyền vay vốn đầu tư để phát triển sản xuất và được trả dần bằng sản phẩm. Khi trả hết nợ thì họ được quyền sở hữu hoàn toàn. + Ban hành chính sách ưu đãi về thuế và trợ giá nông nghiệp: Để khuyến khích phát triển sản xuất nông nghiệp, và tập trung hướng về xuất khẩu, Thái Lan có chính sách ưu tiên, miễn giảm thuế sử dụng đất, thuế nông nghiệp để khuyến khích các mặt hàng cần đẩy mạnh sản xuất và xuất khẩu, có chính sách bảo hộ hàng xuất khẩu, giữ giá bán hàng tiêu dùng cao trong nước, nhà nước trợ cấp xuất khẩu để đảm bảo giá bán hàng ra nước ngoài thấp, thuận lợi trong cạnh tranh. Với những chính sách cụ thể trên, Nhà nước Thái Lan đã góp phần quan trọng vào chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong ngành nông nghiệp, đưa nền nông nghiệp phát triển lên trình độ cao. Tuy nhiên, ở Thái Lan kinh tế nông thôn vẫn còn nhiều hạn chế nếu không được quan tâm giải quyết và sẽ là những trở ngại cho quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn trong thời gian tới như kinh tế nông thôn còn lạc hậu so với thành thị, việc quản lý các nguồn tài nguyên nông nghiệp và hoạt động sản xuất nông nghiệp còn chưa hợp lý. Kinh nghiệm Malaysia Malaysia có bình quân đất nông nghiệp trên một nhân khẩu nông nghiệp là 1,83 ha và khoảng 16% tổng dân số trong độ tuổi lao động đang tham gia sản xuất nông nghiệp. Tương tự như Thái Lan, cách đây 40 năm Malaysia có xuất phát điểm kinh tế gần bằng hoặc thấp hơn nước ta, nhưng những năm qua kinh tế nông nghiệp đã phát triển mạnh. Cơ cấu kinh tế Malaysia đã có những chuyển biến tích cực, tỷ trọng nông nghiệp trong GDP giảm từ 29% năm 1970 xuống còn 18,66% năm 1990 và chỉ còn 12,7% năm 1998. Ngay từ đầu, Malaysia đã chọn lựa chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp theo hướng tập trung vào sản xuất một số cây công nghiệp có lợi thế để xuất khẩu: cao su, cọ dầu, ca cao, gỗ. Điều này đã làm tăng hiệu quả của sản xuất nông nghiệp Malaysia lên đáng kể. Nông nghiệp liên tục tăng trưởng 5,1%/năm trong những năm 1970 và 3,8%/năm trong những năm 1980. Năng suất lao động nông nghiệp của Malaysia đã lên đến 6.267 USD/người/năm (giai đoạn 1995 -1997) (gấp 27,7 lần của Việt Nam). Đến nay, Malaysia là nước sản xuất và xuất khẩu hàng đầu thế giới về dầu cọ, cacao, gỗ... Để thực hiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp nông thôn, Malaysia đã sử dụng các biện pháp chủ yếu sau: + Tập trung trồng một số cây công nghiệp dài ngày có lợi thế như cọ dầu, cao su và ca cao; có các chính sách hỗ trợ cho việc trồng các loại cây này, cụ thể đối với cây cọ dầu và cây cao su như sau: Hỗ trợ cho việc tái trồng cây cao su với mức 6.177 Ringgit/ha đối với các thửa ruộng có diện tích dưới 4,05 ha và 4.200 Ringgit/ha cho các thửa ruộng lớn hơn. Việc cấp tiền sẽ bị giảm nếu trồng xen cao su với các cây trồng khác. Chính sách này đã khuyến khích trồng cây cao su đồng thời khuyến khích việc trồng cao su giống mới có năng suất cao hơn thay cho các cây cao su giống cũ; chi phí hỗ trợ trồng lại cây cao su bao gồm cả chi phí thay thế cây trồng và khoản thu nhập của nông dân trong thời kỳ trồng mới (từ 4 đến 7 năm). Đối với cây cọ dầu: hỗ trợ cho việc tái trồng cây cọ dầu 4.447 Ringgit/ha đối với các thửa ruộng có diện tích dưới 4,05 ha và 3.459 Ringgit/ha cho các thửa ruộng lớn hơn, đồng thời cũng cho phép sử dụng trợ cấp tái trồng cây cao su để trồng cọ dầu. + Thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài bằng luật đầu tư nước ngoài "thông thoáng" với những cam kết quan trọng như không quốc hữu hóa, được hưởng ưu đãi về thuế xuất nhập khẩu, và tự do chuyển lợi nhuận ra nước ngoài... để sản xuất cao su và dầu cọ. Tạo điều kiện cho mọi hình thức tổ chức kinh doanh sản xuất trong nông nghiệp (nông trại gia đình và các công ty quốc doanh, tư nhân hoặc liên doanh với nước ngoài) phát triển, coi khu vực tư nhân là khu vực chủ đạo, là động lực của nền kinh tế. + Ban hành chính sách khuyến nông hỗ trợ các hộ nông dân (điền chủ nhỏ): Sản xuất của các hộ nông dân thường là thủ công hoặc công nghệ, thiết bị thông thường, năng suất không cao, khi giá cả giảm xuống, thì họ giảm bớt hoặc chuyển các hoạt động nông nghiệp sang hoạt động các ngành nghề khác. Năng suất của họ cũng chỉ bằng 60% năng suất sử dụng ruộng đất của các công ty bất động sản có vốn lớn và công nghệ hiện đại. Vì vậy, Chính phủ Malaysia rất quan tâm đến sự khác biệt về năng suất này và đã thiết lập các chương trình hỗ trợ dưới dạng các chương trình định cư đất đai và công tác khuyến nông, tái trợ cấp và cho vay của Chính phủ để hỗ trợ trực tiếp đến các hộ nông dân, đây cũng là những biện pháp trực tiếp trong chương trình xóa đói giảm nghèo và cấu trúc lại nền kinh tế xã hội. + Ban hành chính sách mậu dịch, chính sách tài chính để khuyến khích phát triển công nghiệp chế biến. Trước đây Malaysia chủ yếu xuất khẩu nguyên liệu thô, nông sản và dầu mỏ. Trong những năm 1970 để khuyến khích phát triển công nghiệp chế biến, Malaysia đánh thuế cao vào các loại nguyên liệu, nông sản thô xuất khẩu, và giảm thuế cho các cơ sở chế biến. Chính sách này đã tạo động lực triển khai đầu tư các nhà máy chế biến có công suất lớn vào giữa những năm 1980. Từ 1980 đến 1990, tỷ trọng xuất khẩu nguyên liệu thô giảm từ 90% xuống 45%, sản phẩm chế biến các loại tăng 22%. + Giải quyết vấn đề thiếu hụt lao động do người lao động nông nghiệp Malaysia di cư ra thành thị bằng việc thuê lao động nước ngoài đến làm việc trong các đồn điền cọ dầu, cao su, ca cao. Tuy nhiên, ở Malaysia kinh tế nông thôn vẫn còn nhiều hạn chế: Kinh tế nông thôn còn lạc hậu so với thành thị, công nghiệp nông thôn và dịch vụ nông thôn chưa được phát triển; bên cạnh những sản phẩm nông nghiệp xuất khẩu có qui mô lớn, thì còn nhiều loại cây - con phát triển quá yếu chưa đáp ứng được nhu cầu tiêu dùng trong nước. Sự chênh lệch về sản xuất và thu nhập giữa các vùng nông thôn, giữa các loại hộ nông trại, giữa nông dân giàu và nông dân nghèo còn lớn, môi trường sinh thái bị suy giảm, rừng bị chặt phá nhiều, đất đai bị xói mòn nghiêm trọng. Đây là những vấn đề đang gây trở ngại cho việc phát triển nông nghiệp Malaysia hiện nay và thời gian tới. Vì vậy, qua quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành nông nghiệp Malaysia, bài học rút ra là trong thời kỳ đầu có thể chỉ tập trung vào sản xuất những sản phẩm mũi nhọn, có lợi thế, song ở các giai đoạn tiếp theo cần phải kết hợp chuyên môn hóa với đa dạng hóa để xây dựng một nền nông nghiệp toàn diện; đồng thời trong phát triển nông nghiệp, cần kết hợp giải quyết bài toán về hiệu quả kinh tế với bài toán về hiệu quả xã hội và hiệu quả môi trường. Kinh nghiệm Indonesia Indonesia có bình quân diện tích đất nông nghiệp trên một nhân khẩu nông nghiệp là 0,33 ha (gấp 2,35 lần của Việt Nam) và gần 42% dân số trong độ tuổi lao động đang tham gia sản xuất nông nghiệp. Có thể nói trong hơn 30 năm qua, Indonesia đã khá thành công trong phát triển kinh tế và chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế của Indonesia đã biến Indonesia từ một nước nông nghiệp lạc hậu thành một nước công - nông nghiệp có mức tăng trưởng cao với mức thu nhập bình quân đầu người chỉ có 80 USD vào năm 1969 đã tăng lên 1.080 USD vào năm 1986. Tỷ trọng của nông nghiệp đã giảm từ 37% năm 1976 xuống còn 16% vào năm 1998. Trong nông nghiệp, năng suất lao động nông nghiệp tăng nhanh và đã đạt 745 USD/người sản xuất vào những năm 1995 -1997 (gấp 3,3 lần của Việt Nam), nhiều sản phẩm xuất khẩu có thị phần cao trên thị trường thế giới như: cao su đứng thứ 2 (sau Thái Lan), ca cao đứng thứ nhất, cà phê đứng thứ 3 thế giới (sau Braxin và Columbia). Để thực hiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp nông thôn Indonesia đã sử dụng các biện pháp sau: + Chủ trương chuyển đổi từ quá trình canh tác tự cung tự cấp sang phát triển sản xuất hàng hóa, thông qua đường lối chính sách thương mại nông nghiệp phù hợp với xu thế toàn cầu hóa. Chuyển từ một nền nông nghiệp nhập khẩu nông sản sang khuyến khích thúc đẩy xuất khẩu nông sản, có tính đến lợi thế so sánh dựa trên nguồn tài nguyên thiên nhiên và nguồn lực từ nông nghiệp địa phương. + Hỗ trợ và thúc đẩy phát triển nguồn nhân lực nhằm đảm bảo có sự tham gia tích cực của nông dân vào phát triển nông nghiệp bền vững. + Thực hiện chiến lược đa canh trên cơ sở chuyên môn hóa với những mặt hàng chiến lược, trên cơ sở đảm bảo tiêu dùng trong nước với mục tiêu tự túc lương thực. Nhà nước lập quy hoạch và tổ chức xây dựng các vùng chuyên canh sản xuất lúa và các loại cây công nghiệp có sản lượng xuất khẩu lớn. + Nhà nước giữ vai trò quan trọng hoặc quyết định trong các ngành sản xuất cơ bản như phân bón, hóa chất... còn hầu hết các sản phẩm của ngành công nghiệp chế biến, chế biến nông sản xuất khẩu đều do khu vực tư nhân đảm nhiệm. Trong nông nghiệp, nông hộ là lực lượng sản xuất nông nghiệp chủ yếu và hầu như thống trị ở các vùng nông nghiệp truyền thống. Các công ty tư nhân hoặc Nhà nước kinh doanh nông sản xuất khẩu thường chỉ hoạt động chủ yếu trong các khâu cung ứng vật tư kỹ thuật, chế biến. + Với mục tiêu tự túc lương thực, đi đôi với các mục tiêu xã hội, Nhà nước đã đề ra hàng loạt các chính sách khuyến khích nông dân áp dụng kỹ thuật canh tác tiên tiến, đồng thời Nhà nước đã đầu tư rất lớn vào việc xây dựng cơ sở hạ tầng cho nông nghiệp, chú trọng đầu tư vào các viện nghiên cứu nông nghiệp để nghiên cứu các công nghệ mới, thành lập Viện đánh giá công nghệ Nông nghiệp tại cấp cơ sở. Bên cạnh đó, Indonesia cũng đã thành lập các Trung tâm khuyến nông tại cấp huyện để đẩy nhanh quá trình chuyển giao công nghệ và áp dụng vào thực tiễn sản xuất. Tất cả những biện pháp đó đã làm cho sản lượng nông phẩm của Indonesia tăng nhanh: lúa tăng lên hơn 2 lần trong vòng 20 năm (1976 -1994); cao su tăng gần 2 lần (1977 -1998); dầu cọ tăng hơn 9 lần trong 16 năm (1977 -1993), sản lượng thịt tăng 3 lần (1970 - 1990; sữa tăng 6 lần (1974 - 1992). Trong kế hoạch 5 năm lần thứ VI (1994-1999), Indonesia đã lên kế hoạch phát triển nông nghiệp từ sử dụng công nghệ kỹ thuật thâm dụng lao động chân tay sang một nền nông nghiệp tập trung vào tay nghề, kỹ thuật và cơ khí hóa. Chiến lược phát triển nông nghiệp Indonesia trong thế kỷ 21 sẽ là một nền nông nghiệp hiện đại theo định hướng công nghiệp hóa nhằm phát triển một nền công - nông nghiệp dựa vào nông thôn. Qua nghiên cứu kinh nghiệm chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp nông thôn nhằm phát triển nông nghiệp của các nước có nhiều đặc điểm tương đồng với Việt Nam trong khu vực ASEAN, chúng ta có thể rút ra một số bài học sau: Vấn đề sở hữu luôn được coi trọng nhằm đảm bảo lợi ích cho người sản xuất nông nghiệp, Nhà nước trao quyền sử dụng đất lâu dài để người nông dân an tâm sản xuất. Kinh tế hộ được coi là cơ sở sản xuất quan trọng trong nông nghiệp, được tạo điều kiện phát triển. Có các chính sách phát triển nông nghiệp nói chung: cơ sở hạ tầng, thị trường, vốn đầu tư và đặc biệt chú trọng đào tạo nguồn nhân lực nông nghiệp và ứng dụng khoa học công nghệ vào sản xuất nhằm nâng cao năng suất, sản lượng trong nông nghiệp. Trong mỗi giai đoạn, do yêu cầu của mỗi giai đoạn không giống nhau nên có những mục tiêu khác nhau song tựu chung lại việc xây dựng cơ cấu kinh tế ngành nông nghiệp đều dựa trên cơ sở đánh giá lợi thế so sánh. Sau khi Chính phủ đã có những nghiên cứu đánh giá lợi thế, đã có các quy hoạch cây, con mũi nhọn hay vùng trọng điểm, vùng kinh tế mới thì có ngay các biện pháp cụ thể để tổ chức thực hiện và giám sát thực hiện. Vì vậy, cơ cấu ngành nông nghiệp chuyển dịch đúng hướng, làm cho hiệu quả sản xuất nông nghiệp ngày càng tăng. Gắn phát triển sản xuất nông nghiệp với phát triển công nghiệp chế biến: các mặt hàng chủ lực đều có định hướng chế biến, đặc biệt sản phẩm định hướng xuất khẩu đều được qui hoạch qua chế biến. Nhà nước có thể trực tiếp tham gia hoạt động chế biến nông sản thông qua việc thành lập các công ty nhà nước chế biến nông sản hoặc có các chính sách hỗ trợ phát triển công nghiệp chế biến nhằm nâng cao giá trị sản phẩm nông nghiệp, đáp ứng nhu cầu thị trường cả về chất lượng, mẫu mã và giá cả. Kinh nghiệm cũng cho thấy, nếu chỉ tập trung vào phát triển sản xuất, vào hiệu quả kinh tế mà không có kế hoạch bảo vệ môi trường sẽ dẫn đến việc môi trường đất, nước bị phá vỡ, tài nguyên rừng, tài nguyên đất cũng như tài nguyên nước bị cạn kiệt, kinh phí và thời gian để khôi phục rất lớn. Do vậy trong quá trình phát triển nông nghiệp, nhà nước cần đồng thời có các chính sách, biện pháp nhằm gìn giữ môi trường sinh thái đảm bảo phát triển bền vững. Tóm lại, cơ cấu kinh tế là phạm trù phản ảnh kết cấu hữu cơ của các yếu tố cấu thành hệ thống kinh tế, nó phản ánh mối quan hệ và sự tác động qua lại giữa các yếu tố đó. Cơ cấu kinh tế có thể được xem xét trên nhiều khía cạnh: cơ cấu kinh tế ngành, cơ cấu kinh tế thành phần, cơ cấu kinh tế vùng..., trong đó cơ cấu kinh tế ngành có ý nghĩa quan trọng nhất trong nghiên cứu về hệ thống kinh tế. Cơ cấu kinh tế cũng có thể xem xét trên phạm vi rộng là toàn bộ nền kinh tế hay ở phạm vi hẹp hơn - trong một lĩnh vực, một ngành kinh tế cụ thể. Trong quá trình phát triển, sự phát triển không đều của các yếu tố cấu thành hệ thống kinh tế, sự xuất hiện những yếu tố mới, sự mất đi của các yếu tố cũ hay sự thay đổi trong mối quan hệ giữa các yếu tố sẽ làm cho cơ cấu kinh tế của hệ thống thay đổi dẫn đến sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Kinh nghiệm phát triển kinh tế thế giới đã chỉ ra rằng, nhà nước có thể tác động vào cơ cấu kinh tế nhằm chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng có lợi để nâng cao hiệu quả hoạt động kinh tế. Trong lĩnh vực nông nghiệp cũng vậy, nhà nước có thể tác động vào quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành trong lĩnh vực nông nghiệp để nâng cao hiệu quả của sản xuất nông nghiệp. Để tác động một cách hiệu quả vào quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành nông nghiệp, cần hiểu biết những vấn đề lý luận về đặc trưng của cơ cấu kinh tế ngành nông nghiệp, xu hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành nông nghiệp. Việc nghiên cứu kinh nghiệm của một số nước trong khu vực cũng cho thấy, để chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp hợp lý cần có nhiều biện pháp, từ những biện pháp chung nhằm tạo điều kiện tiền đề cho sự phát triển nông nghiệp nói chung đến các biện pháp ngành cụ thể, các chính sách cụ thể trong từng thời kỳ gắn với các quy hoạch sản xuất đối với từng ngành sản phẩm, từng vùng sản xuất và từng đối tượng sản xuất cụ thể; đồng thời trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế cũng cần phải quan tâm đến bảo vệ môi trường và phát triển bền vững. CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU KINH TẾ NGÀNH NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM 1986 - 2002 Quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành nông nghiệp ở Việt Nam giai đoạn 1986 - 2002 Việc đánh giá cơ cấu kinh tế ngành nông nghiệp một cách toàn diện đòi hỏi phải sử dụng nhiều chỉ tiêu khác nhau. Do điều kiện thống kê của Việt Nam chưa cho phép nên trong phạm vi luận văn này chỉ giới hạn việc phân tích và đánh giá cơ cấu kinh tế theo ngành trong nông nghiệp trên các khía cạnh về một số chỉ tiêu tổng hợp như: cơ cấu giá trị sản lượng, tốc độ tăng giá trị sản lượng, cơ cấu lao động, cơ cấu đầu tư, cơ cấu diện tích... và trên cơ sở so sánh quy mô của nó với khả năng cung cấp các yếu tố đầu vào cũng như khả năng tiêu thụ của thị trường. Để phân tích, đánh giá thực trạng chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành nông nghiệp làm cơ sở cho việc xác định những giải pháp thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng hiệu quả, trong bản luận văn này, tác giả dựa vào sự phân chia các ngành sản xuất trong nông nghiệp mà các cơ quan thống kê ở nước ta hiện đang sử dụng để nghiên cứu. Trên giác độ nghiên cứu vĩ mô, tác giả tập trung nghiên cứu mối quan hệ cơ cấu giữa các ngành sản xuất chủ yếu trong lĩnh vực nông nghiệp, đó là: Cơ cấu giữa ngành trồng trọt - chăn nuôi - dịch vụ nông nghiệp Cơ cấu nội bộ ngành trồng trọt Cơ cấu nội bộ ngành chăn nuôi Trước khi tập trung vào phân tích thực trạng quá trình chuyển dịch cơ cấu ngành trong nông nghiệp bao gồm trồng trọt - chăn nuôi - dịch vụ nông nghiệp thì cần nghiên cứu về ngành nông nghiệp trong cơ cấu ngành lớn của nền kinh tế và cơ cấu ngành trong lĩnh vực nông nghiệp theo nghĩa rộng. Qua việc nghiên cứu các loại cơ cấu này, chúng ta sẽ thấy được vai trò của nông nghiệp cũng như sự thay đổi tỷ trọng của ngành nông nghiệp trong cơ cấu kinh tế nói chung qua những chặng thời gian nhất định và như vậy sẽ cho chúng ta thấy được bức tranh khái quát chung về tổng thể ngành nông nghiệp. Cơ cấu kinh tế công nghiệp - nông nghiệp - dịch vụ Kể từ năm 1986 đến nay, qua hơn 17 năm thực hiện chính sách đổi mới, tổng sản phẩm quốc dân của Việt Nam đã tăng được 2,87 lần (từ 109.189 tỷ đồng lên đến 313.135 tỷ năm 2002) và tốc độ tăng trưởng bình quân hàng năm đạt mức cao (6,58%/năm). Song, sự tăng trưởng diễn ra không đều ở ba khu vực (hay ba ngành): nông nghiệp, công nghiệp và dịch vụ đã làm cho cơ cấu kinh tế ngành của Việt Nam thay đổi đáng kể trong thời gian qua. Chúng ta có thể nhận thấy sự thay đổi rất lớn trong tương quan tỷ trọng giữa ba khu vực trong tổng sản phẩm quốc dân qua biểu đồ minh hoạ cơ cấu kinh tế ngành của Việt Nam giai đoạn 1986 -2002. Biểu đồ 1 - Cơ cấu kinh tế ngành của Việt Nam giai đoạn 1986 -2002 Nguồn: Số liệu thống kê kinh tế - xã hội Việt Nam 1975-2000, Nxb Thống kê, HN 2000. Kinh tế - xã hội Việt Nam 3 năm 2001-2003. Nxb Thống kê, HN 2003. Trong giai đoạn từ năm 1986 đến năm 2002, cơ cấu kinh tế ngành đã có những thay đổi lớn theo hướng giảm tỷ trọng ngành nông nghiệp, tăng tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ. Tỷ trọng ngành nông nghiệp đã giảm từ 38,06% năm 1986 xuống còn 22,99% năm 2002, tức đã giảm 15,07% tỷ trọng trong tổng sản phẩm quốc dân. Điều này đã làm cho nông nghiệp từ một ngành lớn nhất trong nền kinh tế đã trở thành ngành nhỏ nhất, có đóng góp ít nhất trong nền kinh tế quốc dân. Ngược lại, ngành công nghiệp tăng thêm 9,65% tỷ trọng trong GDP (từ 28,88% năm 1986 lên 38,55% năm 2002) và vươn lên trở thành ngành có đóng góp lớn nhất trong nền kinh tế. Đồng thời, trong những năm 2000 -2003 ngành dịch vụ cũng có bước tăng trưởng thêm 5,4% tỷ trọng đóng góp vào GDP so với tỷ trọng của nó ở năm 1986. Xem xét xu thế bản thân từng ngành ta thấy, ngành nông nghiệp những năm 1986 -1988 đã tăng tỷ trọng ._.dựng nông thôn ngày càng giàu đẹp, công bằng, dân chủ, văn minh, có cơ cấu kinh tế hợp lý, quan hệ sản xuất phù hợp, kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội ngày càng hiện đại. Muốn thực hiện mục tiêu trên, khoa học - công nghệ phải đi trước một bước theo phương châm "đi tắt, đón đầu” những thành tựu tiên tiến về công nghệ sinh học, chương trình giống cây con nhằm tăng năng suất, tăng chất lượng sản phẩm, giảm chi phí sản xuất, tăng sức cạnh tranh của hàng nông sản và khi đó, khoa học- công nghệ sẽ trở thành động lực để thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Trong những năm qua, ngành nông nghiệp đã có nhiều cố gắng trong việc đưa công nghệ về giống vào sản xuất như đã áp dụng thành công công nghệ nuôi cấy mô, nuôi nhân giống tế bào đối với một số loại cây trồng đã đem lại năng suất và chất lượng cao, đồng thời đã thành công trong quy trình nuôi cấy bao phấn nhân nhanh các dòng thuần, tạo tiền đề trong việc tạo các giống lai cho năng suất cao, thời gian cho sản phẩm được rút ngắn; trong chăn nuôi đã bước dầu áp dụng công nghệ gây siêu rụng trứng, hoàn thành quy trình sản xuất vắc xin tụ huyết trùng lợn, gia cầm... Tất cả những điều đó đã góp phần tăng sản lượng của nông nghiệp trong thời gian qua song nhìn chung trình độ về khoa học công nghệ trong sản xuất nông nghiệp vẫn còn rất thấp, năng suất cây trồng, vật nuôi chưa cao, chất lượng sản phẩm kém, nhất là các ngành rau quả, chăn nuôi, chế biến thịt trứng... đang tụt hậu xa so với thế giới. Theo UNDP, đầu tư vào lĩnh vực nghiên cứu cho nông nghiệp còn quá thấp. Kinh phí nghiên cứu trung bình tính trên mỗi cán bộ nghiên cứu thấp tới mức chỉ là 50 USD/năm (năm 1998), bằng 1/450 mức kinh phí của Ấn Độ và 1/40 mức kinh phí của Thái Lan [23]. Vì vậy cần tăng cường đầu tư cho nghiên cứu khoa học, tăng cường chuyển giao công nghệ và đẩy nhanh ứng dụng những thành tựu của khoa học - kỹ thuật vào sản xuất nông nghiệp, trong thời gian tới, cần tập trung vào các giải pháp chủ yếu là: Tổ chức lại các Viện nghiên cứu khoa học về nông nghiệp và kinh tế nông thôn theo hướng gọn, nhẹ, hiệu lực, hiệu quả lấy mục tiêu hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn Việt Nam làm nền tảng cho các đề tài, dự án trong những năm tới, khắc phục tình trạng phân tán, trùng lặp đề án, hiệu quả thấp, xa rời thực tế thường xảy ra ở các viện nghiên cứu hiện nay. Tăng kinh phí đầu tư cho khoa học công nghệ tương xứng với vai trò và vị trí của nó trong quá trình tạo ra bước đột phá của sự phát triển nông nghiệp và kinh tế nông thôn nước ta hiện nay và những năm tới. Đổi mới tư duy và phương pháp đầu tư về khoa học và công nghệ trong nông nghiệp, nông thôn theo hướng: Ưu tiên kinh phí để nhập khẩu công nghệ cao, thiết bị hiện đại, các loại giống cây, con tốt của thế giới nhưng thích hợp với điều kiện Việt Nam. Quan tâm đầu tư để đào tạo lại đội ngũ cán bộ khoa học, kỹ thuật nông, lâm nghiệp và thuỷ sản hiện có, đồng thời bồi dưỡng nâng cao trình độ kiến thức sản xuất hàng hoá đối với các chủ doanh nghiệp, chủ hợp tác xã, chủ trang trại, công nhân kỹ thuật và đào tạo nghề cho nông dân với nội dung và thời gian thích hợp. Thu hút cán bộ khoa học, cán bộ quản lý, công nhân lành nghề có trình độ về làm việc lâu dài ở nông thôn và nông nghiệp với chế độ liền lương, phụ cấp thoả đáng. Bên cạnh chế độ tiền lương của Nhà nước, cần có chế độ phụ cấp ưu đãi đối với đội ngũ cán bộ kỹ thuật, công nhân lành nghề tình nguyện làm việc lâu dài (trên 10 năm) ở lĩnh vực này. Đó chính là những biện pháp để đào tạo nguồn nhân lực cho sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá nói chung, công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn nói riêng. Bởi vì, rõ ràng rằng máy móc, thiết bị hiện đại, khoa học công nghệ tiên tiến chỉ có thể phát huy tác dụng tích cực và đem lại hiệu quả cao khi được con người biết sử dụng và sử dụng hợp lý. Đó là tiền đề quan trọng để thực hiện chuyển đổi sản xuất nông nghiệp sang kinh tế hàng hoá và thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn. Thực hiện phổ cập thông tin khoa học kỹ thuật và thông tin thị trường đến các huyện, xã, thôn thông qua hệ thống các phương tiện thông tin đại chúng, qua loa truyền thanh của xã, thôn, qua các cuộc gặp mặt nói chuyện ở trung tâm văn hóa xã... Đó là những giải pháp rẻ tiền, hiệu quả và có tính khả thi rất thuận lợi cho việc phổ cập kiến thức kinh tế và khoa học - kỹ thuật đến hộ sản xuất nông nghiệp cũng như hộ ngành nghề và dịch vụ ở nông thôn. Nhà nước cần dành kinh phí thỏa đáng để biên soạn, cung cấp các tài liệu hướng dẫn kỹ thuật phục vụ nông nghiệp, nông thôn đến các trung tâm văn hoá xã, thôn. Làm tốt biện pháp này sẽ khắc phục được sự bất cập về "đói" thông tin khoa học - công nghệ và thông tin thị trường ở nông thôn hiện nay. Phát triển công nghiệp chế biến giải quyết đầu ra cho hàng nông sản và nâng cao giá trị gia tăng của sản phẩm nông nghiệp. Một thực tế đã xảy ra ở Việt Nam trong những năm qua là người nông dân được mùa mà không vui, thu hoạch tăng mà vẵn nghèo túng, số lượng sản phẩm nông nghiệp xuất khẩu lớn song giá trị kim ngạch xuất khẩu không cao do sản phẩm xuất khẩu chủ yếu là sản phẩm thô chưa qua chế biến hoặc chỉ sơ chế. Để khắc phục tình trạng này cần đẩy mạnh sự phát triển của công nghiệp chế biến hàng nông sản. Sự phát triển của ngành công nghiệp chế biến hàng nông sản sẽ tác động đến thị trường đầu ra và vì vậy nó sẽ tác động đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, làm thay đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi. Việc phát triển công nghiệp chế biến gắn với các quy hoạch tổng quan của Nhà nước sẽ đảm bảo sản phẩm đáp ứng tốt nhu cầu thị trường, giải quyết đầu ra cho sản xuất và vì vậy sẽ góp phần đem lại thành công cho quá trình chuyển dịch cơ cấu cây trồng vật nuôi theo đúng định hướng, đúng quy hoạch của Nhà nước. Hiện nay, tỷ trọng công nghiệp chế biến một số hàng nông sản so với nguyên liệu hiện có còn thấp như mía đường 30%, chè 55%, rau quả 5%, thịt xuất khẩu 1%. Tỷ lệ thất thoát ở khâu thu hoạch và sau thu hoạch lớn (lương thực 13-15%, rau quả 15-20%) [26]. Công nghiệp chế biến chưa phát triển rộng về quy mô để đáp ứng sự phát triển của sản xuất nông nghiệp, thêm vào đó hiệu quả chế biến còn chưa cao, chất lượng sản phẩm chế biến kém, mặt hàng còn đơn điệu, mẫu mã chưa hấp dẫn nên khả năng cạnh tranh thấp. Tất cả những điều đó làm cho chi phí sản xuất của nông dân tăng lên, công nghiệp chế biến, bảo quản sau thu hoạch chưa tốt nên không giữ được hàng, người sản xuất buộc phải bán hàng ngay cả khi giá cả giảm mạnh (tình trạng thường xảy ra khi được mùa), còn trên thị trường xuất khẩu thì hàng bán bị trả lại, giá bán thấp (bình quân giá sản phẩm chế biến xuất khẩu của Việt Nam thấp hơn các nước trong khu vực 10-15%, chưa nói đến các nước phát triển). Vì vậy, để tăng hiệu quả sản xuất nông nghiệp, cần phải phát triển công nghiệp chế biến. Sự phát triển công nghiệp chế biến trước hết cần tập trung vào những mặt hàng chủ yếu trong quy hoạch cơ cấu ngành nghề, cơ cấu cây trồng - vật nuôi đồng thời gắn với các vùng sản xuất tập trung. Các vùng sản xuất theo quy hoạch sẽ là nơi cung cấp nguyên liệu cho các nhà máy chế biến, đảm bảo đầu vào cho các nhà máy này. Để nâng cao chất lượng cho sản phẩm chế biến, nâng cao sức cạnh tranh, cần phải mạnh dạn đầu tư cho các nhà máy công nghệ và thiết bị hiện đại, đặc biệt đối với một số sản phẩm nông nghiệp xuất khẩu chủ lực của Việt Nam như cà phê, gạo, cao su, điều, đồng thời cũng cần ưu tiên đầu tư để phát triển các ngành công nghiệp chế biến ngô, rau quả, nước giải khát, chăn nuôi - là những ngành có khả năng có thị trường lớn trong tương lai. Khuyến khích các hình thức tổ chức sản xuất nông nghiệp theo hướng phát triển kinh tế nhiều thành phần. Trong thời kỳ quá độ hiện nay của Việt Nam, để huy động tối đa mọi nguồn lực vào phát triển kinh tế đất nước cần phải phát triển kinh tế nhiều thành phần. Trong lĩnh vực nông nghiệp cũng vậy, việc phát triển đa dạng các thành phần kinh tế càng trở nên cần thiết, các thành phần kinh tế sẽ hỗ trợ cho nhau trong sản xuất và tiêu thụ nông sản. Hiện nay, việc huy động các thành phần kinh tế đầu tư vào lĩnh vực nông nghiệp còn hạn chế, vì vậy trong sản xuất nông nghiệp ở Việt Nam, hộ gia đình quy mô nhỏ là đơn vị chủ yếu sản xuất và cung cấp nông sản. Hộ gia đình gần như đảm nhiệm tất cả các khâu từ làm đất, gieo trồng, chăm sóc, thu hoạch và bảo quản, tiêu thụ. Với năng lực hạn chế, vốn ít, trình độ có hạn, cơ sở vật chất thô sơ nên chất lượng sản phẩm hạn chế và không đều, sản xuất quy mô nhỏ, manh mún, tự túc. Các hợp tác xã số lượng ít và quy mô cũng rất nhỏ, phần lớn lại hoạt động không hiệu quả, các hợp tác xã dịch vụ chưa đáp ứng được nhu cầu của các hộ gia đình; khả năng thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào lĩnh vực nông nghiệp rất hạn chế. Vì vậy, để tăng cường hiệu quả sản xuất nông nghiệp, góp phần thực hiện thành công định hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, cần phát triển kinh tế nhiều thành phần theo hướng: Thứ nhất, đối với doanh nghiệp nhà nước, cần tiếp tục đổi mới hoàn thiện hình thức tổ chức của doanh nghiệp nhà nước để các nông trường quốc doanh trở thành trung tâm dịch vụ và chuyển giao công nghệ cho các hộ nông dân, các doanh nghiệp nhà nước thì có đủ năng lực giữ vai trò chủ đạo về công nghệ chế biến, sử dụng có hiệu quả cơ sở kỹ thuật và tiền vốn, vươn lên trở thành trung tâm công nghệ, hướng dẫn hợp tác xã, hộ gia đình trong vùng phát triển công nghiệp chế biến, đồng thời là thị trường tiêu thụ nông sản ổn định cho các hộ gia đình. Thứ hai, đối với các hợp tác xã, cần củng cố và phát triển mạnh các hợp tác xã nông nghiệp dịch vụ kiểu mới cho kinh tế hộ, từ đó tạo nên mối quan hệ gắn bó giữa hợp tác xã nông nghiệp với hộ nông dân tự chủ theo các hợp đồng kinh tế là chủ yếu. Để làm được điều này, trước hết cần tiếp tục củng cố và phát huy vai trò tích cực, tính ưu việt của các hợp tác xã khá, khắc phục dần nhiều mặt yếu kém của các hợp tác xã trung bình hoặc yếu bằng các biện pháp phù hợp như đào tạo và bồi dưỡng đội ngũ cán bộ quản lý, cán bộ kỹ thuật, miễn các loại thuế và phí, tạo nguồn vốn cho các hoạt động dịch vụ bằng chính sách tín dụng với lãi suất ưu đãi ở những địa phương có điều kiện tiếp tục thành lập mới và chuyển đổi hợp tác kiểu cũ theo Luật Hợp tác xã. Một yêu cầu cơ bản đối với hợp tác xã cung ứng dịch vụ phục vụ sản xuất nông nghiệp cho các hộ là chất lượng dịch vụ và hiệu quả của các hợp tác xã kiểu mới phải cao hơn dịch vụ tư nhân hoặc kinh tế hộ tự làm. Có như vậy, hộ gia đình mới sử dụng dịch vụ của hợp tác xã cung ứng, sản xuất được chuyên môn hóa tạo điều kiện nâng cao hiệu quả sản xuất. Tuy nhiên, vấn đề cụ thể hiện nay còn vướng mắc là việc chuyển đổi phương thức sản xuất từ nhỏ lẻ, phi tập trung sang tập trung theo mô hình tập thể, hợp tác xã lại đang gặp vướng mắc lớn về vấn đề vốn. Để mở rộng và phát triển các hoạt động dịch vụ, các hợp tác xã nông nghiệp cần nhiều vốn, nhất là vốn lưu động. Thế nhưng, theo Luật Hợp tác xã nguồn vốn này chủ yếu hình thành từ vốn cổ phần do xã viên đóng góp và thực tế thì nguồn vốn góp cổ phần này rất hạn chế. Do vậy, sẽ hiệu quả hơn nếu Nhà nước sớm có cơ chế và chính sách đầu tư, tín dụng tích cực để hỗ trợ các hợp tác xã nông nghiệp thực hiện tốt chức năng dịch vụ cho kinh tế hộ nông dân trong quá trình chuyển đổi cơ cấu sản xuất nông nghiệp và kinh tế nông thôn. Trên cơ sở củng cố và phát triển mô hình hợp tác xã kiểu mới, các ngành, các địa phương cần tạo điều kiện để giúp các hộ nông thôn thực hiện quy hoạch sản xuất và dịch vụ theo định hướng của Nhà nước. Thứ ba, khuyến khích kinh tế trang trại phát triển mạnh. Kinh tế trang trại là hình thức tổ chức sản xuất tương đối mới ở Việt Nam (mới xuất hiện khoảng hơn 10 năm), so với kinh tế hộ, kinh tế trang trại có quy mô sản xuất (vốn, lao động, đất đai) lớn, có xu hướng chuyên môn hóa sản xuất cao, sử dụng công nghệ hiện đại hơn và được tổ chức quản lý tiên tiến, vì vậy sản phẩm của các trang trại thường có chất lượng cao hơn, khả năng cạnh tranh tốt hơn, đặc biệt trên thị trường xuất khẩu. Hơn 10 năm qua, kinh tế trang trại đã có đóng góp đáng kể trong việc tăng sức sản xuất trong nông nghiệp. Nhận thấy vai trò tích cực của hình thức tổ chức sản xuất này, trong thời gian vừa qua, Nhà nước đã có nhiều cơ chế, chính sách khuyến khích thành phần kinh tế này phát triển, tuy nhiên, vấn đề sản xuất và tiêu thụ sản phẩm của các trang trại còn nhiều khó khăn và bất cập, số lượng trang trại hiện có chưa nhiều, quy mô còn nhỏ, thiếu vốn, thiếu khoa học công nghệ, thiếu cơ sở pháp lý về đất đai đang sử dụng, thiếu thị trường... Vì vậy, để khuyến khích kinh tế trang trại phát triển, khắc phục tính manh mún, quy mô nhỏ trong sản xuất nông nghiệp, Nhà nước cần hỗ trợ kinh tế trang trại cả về cơ chế chính sách lẫn khoa học công nghệ và cơ sở hạ tầng. Đối với kinh tế hộ nông thôn - đơn vị kinh tế tự chủ và chủ yếu trong sản xuất nông nghiệp, cần đổi mới phương thức tổ chức sản xuất cho phù hợp với yêu cầu sản xuất hàng hoá quy mô lớn, khắc phục tình trạng phân tán nhỏ lẻ, tự cung, tự cấp, manh mún như hiện nay. Hộ nông dân mặc dù đã được trao quyền sử dụng đất lâu dài song quy mô đất được chia nhỏ, manh mún, phân tán nên đã cản trở quy trình tích tụ, tập trung ruộng đất theo yêu cầu sản xuất hàng hoá. Vì vậy, giải pháp trước mắt là thực hiện chủ trương "dồn điền đổi thửa” với sự quản lý và chỉ đạo thống nhất của Nhà nước, có đầu tư hỗ trợ kinh phí và kỹ thuật, khắc phục tính tự phát như hiện nay. Để làm việc này, ngành nông nghiệp và các bộ, ngành liên quan cần tổ chức tổng kết, rút kinh nghiệm để nhân rộng các mô hình tốt khắc phục mặt chưa tốt trong quá trình thực hiện “dồn điền đổi thửa”. Thứ tư, đẩy mạnh thu hút đầu tư nước ngoài vào lĩnh vực nông nghiệp. Hiện nay, đầu tư nước ngoài vào lĩnh vực nông nghiệp rất hạn chế. Nguyên nhân của tình trạng này là do sản xuất nông nghiệp luôn có nhiều rủi ro, lợi nhuận thấp và không ổn định, cơ sở hạ tầng nông thôn thấp kém nên thiếu hấp dẫn các nhà đầu tư nước ngoài. Trong quá trình phát triển nông nghiệp, kinh nghiệm các nước châu Á và thực tế ở Việt Nam những năm đổi mới cho thấy quy mô và tốc độ chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn phụ thuộc vào các yếu tố kết cấu hạ tầng ở nông thôn, nhất là đường giao thông, điện, nước, trạm trại nghiên cứu và thực nghiệm, thuỷ lợi, trình độ dân trí, giáo dục, đào tạo lao động lành nghề, khoa học công nghệ... Song tất cả các yếu tố đó đều đòi hỏi phải có vốn đầu tư để xây dựng mới, nâng cấp, hoàn thiện. Trong điều kiện vốn tích lũy trong nông thôn còn thấp, việc huy động nguồn vốn bên ngoài có vai trò chủ yếu. Vì vậy, để gia tăng vốn đầu tư trong nông nghiệp, cần huy động nguồn vốn đầu tư nước ngoài. Để huy động được nguồn vốn này, cần có cơ chế, chính sách của Nhà nước thông thoáng và hấp đẫn đối với các nhà đầu tư, khuyến khích đầu tư thoả đáng như: giảm mạnh tiền thuê đất, đơn giản thủ tục hành chính, giảm thuế và phí. Các lĩnh vực cần tập trung khuyến khích đầu tư trực tiếp nước ngoài vào nông nghiệp là xây dựng cơ sở hạ tầng, cung cấp các dịch vụ hỗ trợ nông nghiệp, xây dựng các nhà máy chế biến và nghiên cứu, triển khai, ứng dụng các tiến bộ khoa học - công nghệ vào sản xuất ... Việc phát triển các thành phần kinh tế sẽ góp phần phát triển một nền nông nghiệp toàn diện, chuyên môn hóa. Các thành phần kinh tế sẽ hỗ trợ cho nhau và có vai trò quan trọng trong việc thực hiện thành công quy hoạch chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp của Nhà nước. Tổng kết và nhân rộng các mô hình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp có hiệu quả. Trong những năm qua, Đảng và Nhà nước ta đã có nhiều Chỉ thị, Nghị quyết và các chính sách nhằm chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn, xây dựng nông thôn mới văn minh hiện đại, song kết quả đạt được còn hạn chế. Khoảng cách giữa Nghị quyết và thực tế còn xa. Đó là một trong những bất cập lớn làm chậm tốc độ chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn nước ta trong 17 năm vừa qua. Vì vậy cần khắc phục sự bất cập giữa thực tiễn với chủ trương của Đảng và Nhà nước về nông nghiệp, nông thôn nói chung, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu sản xuất nông nghiệp nói riêng trong những năm đổi mới vừa qua. Một giải pháp cần thiết cho vấn đề này là nhân rộng các mô hình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn, đồng thời uốn nắn xu hướng lệch lạc, bảo thủ của hộ nông dân. Thông qua tổng kết thực tiễn, Nhà nước cần có cơ chế và chính sách xây dựng, nhân rộng các mô hình tiên tiến về chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp nông thôn ở các vùng và các địa phương. Trong thời gian vừa qua, phong trào chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn đã tạo nên nhiều mô hình tốt: nông trường Sông Hậu, công ty mía đường Lam Sơn, hợp tác xã nông nghiệp Trực Thái (Nam Định)... Ưu điểm của các mô hình này là tự lực đi lên không dựa vào sự bao cấp của Nhà nước. Vì vậy, nếu được nhân rộng, chắc chắn sẽ có tác dụng lan tỏa sang nhiều vùng và địa phương khác, góp phần đẩy nhanh tốc độ chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn. Đi đôi với việc tổng kết, nhân rộng các mô hình điển hình tiên tiến, cần tổng kết cả những mặt không tốt, phân tích sâu nguyên nhân chủ quan làm chậm quá trình chuyển đổi cơ cấu kinh tế, phê phán xu hướng bảo thủ, cục bộ, tự cấp, tự túc còn rất phổ biến ở nông thôn và các hộ nông dân, phê phán các địa phương, đơn vị không nghiêm túc thực hiện quy hoạch, kế hoạch của Nhà nước, duy trì sản xuất tự cấp, tự túc, độc canh hoặc chuyển đổi cơ chế cây trồng tự phát, phá vỡ cân bằng sinh thái môi trường đất, nước, khí hậu, ảnh hưởng đến sự phát triển bền vững. Trong việc tuyên truyền, vận dộng các hộ nông thôn về đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước cần vận dụng những phương pháp linh hoạt, cụ thể, sát với diều kiện đặc thù của từng vùng, từng địa phương, tránh rập khuôn, máy móc. Để làm tốt giải pháp này, các cơ quan tuyên truyền ở các cấp có vai trò rất quan trọng trong việc biên soạn, phổ biến tài liệu tới từng địa bàn dân cư và từng hộ nông thôn. Đổi mới chính sâch và tăng cường hiệu lực quản lý của Nhà nước đối với nông nghiệp nói chung và chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành nông nghiệp nói riêng. Để nâng cao hiệu quả của sản xuất nông nghiệp và để chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành nông nghiệp theo hướng có lợi, vai trò của Nhà nước là quan trọng. Suy đến cùng, các giải pháp nêu trên nhằm khắc phục những bất cập trong cơ cấu kinh tế nông nghiệp nông thôn nước ta hiện nay đều liên quan đến cơ chế và chính sách của Nhà nước. Các cơ chế, chính sách của Nhà nước có tác động lớn đến tính khả thi của từng giải pháp riêng biệt cũng như hệ thống các giải pháp. Vì vậy, việc tăng cường vai trò của Nhà nước trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn nước ta trong giai đoạn công nghiệp hoá, hiện đại hoá có ý nghĩa quyết định. Khái quát lại, trong giai đoạn hiện nay, để thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng hiệu quả, trước hết Nhà nước cần tạo các điều kiện thuận lợi để phát triển nông nghiệp nói chung như tăng cường đầu tư cho nông nghiệp (đầu tư cho cơ sở hạ tầng nông thôn, đầu tư cho thủy lợi, cho nghiên cứu khoa học- công nghệ), rà soát lại các cơ chế và chính sách đã ban hành (chính sách về đất đai, về thuế và lệ phí, về đầu tư và cho vay, về tiêu thụ nông sản, về ngành nghề và dịch vụ nông thôn) để bổ sung hoàn thiện nó phù hợp với yêu cầu và điều kiện hiện nay; hoàn thiện cơ chế chính sách vĩ mô nhằm thu hút mạnh mẽ mọi nguồn vốn trong nước và vốn đầu tư nước ngoài vào nông nghiệp, nông thôn và trên hết Nhà nước phải lập được quy hoạch tổng thể phát triển các ngành, các vùng trong từng giai đoạn nhất định cũng như xây dựng các biện pháp cụ thể để thực hiện chiến lược đó. * * * Trên đây là một số giải pháp chủ yếu được xây dựng nhằm khắc phục những bất cập trong quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp thời gian qua, đồng thời tạo điều kiện để thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp theo định hướng nhằm nâng cao hiệu quả của sản xuất nông nghiệp trong thời gian tới. Để có được hiệu quả, các giải pháp cần phải được thực hiện đồng bộ, hỗ trợ cho nhau, đồng thời cần có sự kết hợp thực hiện từ trung ương đến từng địa phương và từng hộ sản xuất, trong đó Nhà nước có vai trò quan trọng. KẾT LUẬN Vấn đề chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành nông nghiệp đã được Đảng và Nhà nước ta quan tâm từ lâu. Tuy nhiên, việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành nông nghiệp như thế nào cho có hiệu quả và bằng những biện pháp gì để thực chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành nông nghiệp theo định hướng đã và đang là bài toán khó đối với Việt Nam. Để giải được bài toán đó cần phải có những cơ sở khoa học cả về lý luận và thực tiễn cho việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế nói chung và cơ cấu kinh tế ngành nông nghiệp nói riêng. Với mục đích góp phần xây dựng cơ sở cho chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp Việt Nam theo hướng hiệu quả, đề tài đã đề cập đến những vấn đề sau: Thứ nhất, hệ thống hóa và phân tích một số luận điểm cơ bản về cơ cấu kinh tế và cơ cấu kinh tế ngành nông nghiệp, trong đó có phân tích về đặc trưng của cơ cấu kinh tế cũng như các nhân tố ảnh hưởng tới quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành, đặc trưng của cơ cấu kinh tế ngành nông nghiệp và một số vấn đề mang tính nguyên tắc trong việc Nhà nước chủ động tác động vào cơ cấu kinh tế ngành nông nghiệp nhằm chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành nông nghiệp theo định hướng; đồng thời đề tài cũng đề cập đến xu hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành nông nghiệp. Thứ hai, nghiên cứu kinh nghiệm chuyển dịch cơ cấu kinh tế của một số nước trong khu vực đã từng có xuất phát điểm tương đồng với Việt Nam và hiện nay đã trở thành những nước có nền nông nghiệp tiên tiến, qua đó rút ra bài học về kinh nghiệm thành công cũng như các vấn đề cần lưu ý trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành nông nghiệp. Thứ ba, phân tích thực trạng chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành nông nghiệp của Việt Nam từ 1986 đến nay. Việc nghiên cứu về thực trạng chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành nông nghiệp trên nhiều mặt cho thấy từ sau đổi mới cơ cấu kinh tế ngành nông nghiệp đã có những chuyển biến theo xu hướng tích cực: các ngành có giá trị kinh tế cao dần tăng tỷ trọng, cơ cấu kinh tế được mở rộng và ngày càng hoàn thiện theo hướng hợp lý, hiện đại, xóa dần thế độc canh, tiến tới đa dạng hóa sản phẩm và ngày càng gắn nhiều hơn với thị trường nên đã làm cho nông nghiệp Việt Nam thu được những thành tựu quan trọng. Tuy nhiên, quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành nông nghiệp vẫn còn tồn tại nhiều bất cập: cơ cấu kinh tế ngành nông nghiệp vẫn nghiêng nặng về trồng trọt, chuyển dịch chậm, mang nặng tính độc canh, tự cấp, tự phát, phân tán và quy mô nhỏ. Trong nhiều ngành sản phẩm thường xuất hiện tình trạng mất cân đối giữa cung và cầu, giữa thực trạng phát triển và tiềm năng... Thứ tư, qua việc phân tích thực trạng cơ cấu kinh tế ngành nông nghiệp ở Việt Nam và từ việc tìm hiểu nguyên nhân dẫn đến những bất cập còn tồn tại trong quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, đồng thời trên cơ sở những vấn đề lý luận về cơ cấu kinh tế và chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế, có kết hợp tham khảo kinh nghiệm chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp của một số nước trong khu vực, luận văn đã đề xuất bảy giải pháp chủ yếu cả trên bình diện vĩ mô và vi mô: Một là, xây dựng các quy hoạch tổng quan phát triển các ngành sản xuất chủ yếu của ngành nông nghiệp. Hai là, củng cố và mở rộng thị trường cho hàng nông sản, đặc biệt quan tâm đến thị trường xuất khẩu. Ba là, tăng cường hoạt động chuyển giao công nghệ, đẩy nhanh ứng dụng những thành tựu của khoa học - kỹ thuật vào sản xuất nông nghiệp. Bốn là, phát triển công nghiệp chế biến giải quyết đầu ra cho hàng nông sản và nâng cao giá trị gia tăng của sản phẩm nông nghiệp. Năm là, khuyến khích các hình thức tổ chức sản xuất nông nghiệp theo hướng phát triển kinh tế nhiều thành phần. Sáu là, tổng kết và nhân rộng các mô hình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp có hiệu quả. Bảy là, đổi mới chính sâch và tăng cường hiệu lực quản lý của Nhà nước đối với nông nghiệp nói chung và chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành nông nghiệp nói riêng. Các giải pháp trên có mối liên hệ với nhau, giải pháp này hỗ trợ giải pháp kia. Vì vậy, để thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp theo hướng có hiệu quả nhất, các giải pháp cần phải được thực hiện đồng bộ, hỗ trợ cho nhau, đồng thời cần có sự kết hợp thực hiện của các cấp, các ngành từ trung ương đến từng địa phương và từng hộ sản xuất, trong đó Nhà nước có vai trò quan trọng. Do hạn hẹp về thời gian nghiên cứu, cũng như số liệu thống kê của Việt Nam về những tiểu ngành còn hạn chế, chưa chi tiết và chưa đầy đủ nên ở một số cơ cấu nhóm ngành hay ngành sản phẩm không thể có được phân tích về sự di chuyển lao động và cơ cấu đầu tư hay cơ cấu thu nhập của mỗi ngành trong suốt thời kỳ đổi mới. Vì vậy, đối với những nhóm cơ cấu này, luận văn mới chỉ dừng lại ở việc phân tích định tính, trên cơ sở cơ cấu giá trị tổng sản lượng, cơ cấu diện tích và trong tương quan so sánh với khả năng cung ứng các yếu tố đầu vào và khả năng tiêu thụ của thị trường. Đồng thời, trong khuôn khổ luận văn này, tác giả mới chỉ đề cập đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành nông nghiệp trên phạm vi cả nước, chưa gắn với chuyển dịch cơ cấu kinh tế vùng và cơ cấu thành phần kinh tế. Đây là những vấn đề quan trọng cũng cần phải được tiếp tục nghiên cứu để có được những giải pháp đồng bộ và cụ thể nhằm tạo khả năng tăng trưởng cao cho nông nghiệp, góp phần vào thắng lợi của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước./. TÀI LIỆU THAM KHẢO Lê Thị Vân Anh, Một số giải pháp kinh tế- tài chính thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở nước ta hiện nay, Tạp chí Nghiên cứu Kinh tế, số 1/2003. Lê Quốc Sử, Chuyển dịch cơ cấu và xu hướng phát triển của kinh tế nông nghiệp Việt Nam theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá từ thế kỷ XX đến thế kỷ XXI trong thời đại kinh tế tri thức, NXB Thống Kê, Hà Nội, 2001. Lê Đình Thắng chủ biên, Chính sách phát triển nông nghiệp và nông thôn sau Nghị quyết 10 của Bộ Chính trị, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội 1998. Lê Đình Thắng, Những giải pháp cơ bản nhằm mở rộng thị trường tiêu thụ chè của Việt Nam, Đề tài nghiên cứu cấp bộ - Hà Nội, 1997. Nguyễn Sinh Cúc, Nông nghiệp, nông thôn Việt Nam thời kỳ đổi mới, NXB Thống kê, Hà nội 2003 Nguyễn Sinh Cúc, Lê Mạnh Hùng, Hoàng Vĩnh Lê, Thực trạng công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn Việt Nam, NXB Thống kê, Hà nội, 1998. Nguyễn Đình Long, Nguyễn Tiến Mạnh, Chuyển đổi cơ cấu kinh tế nông nghiệp nông thôn vùng sinh thái bán sơn địa - Trung du phía Bắc, NXB Nông nghiệp, Hà Nội, 1996. Nguyễn Xuân Long, Lê Quang Chút, Phát triển cà phê vùng Duyên hải Nam Trung Bộ: Thuận lợi, khó khăn, và những giải pháp chủ yếu để mở rộng diện tích, Tạp chí Nông nghiệp công nghiệp thực phẩm, số 5 /1997. Nguyễn Thế Nhã, Bản chất và nội dung của cơ cấu kinh tế nông thôn, Đổi mới và phát triển nông nghiệp nông thôn, NXB Nông nghiệp, Hà Nội, 1996. Nguyễn Thế Nhã, Phát triển nông nghiệp, nông thôn Việt Nam thập niên đầu thế kỷ 21, Tạp chí Kinh tế phát triển, Số 41/2000. Nguyễn Đình Phan, Phát triển công nghiệp nông thôn trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, Tạp chí Kinh tế phát triển, Số 41/2000. Ban Tư tưởng - văn hóa Trung ương, Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn, Con đường công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn Việt Nam. NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002. Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn, Báo cáo thúc đẩy tiêu thụ nông sản hàng hóa để phát triển sản xuất nông nghiệp, chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn, Hà Nội, 2000. Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn, Chiến lược phát triển nông nghiệp, nông thôn trong CNH, HĐH thời kỳ 2001-2010, Bộ Thương mại, DA VIE 95/024/A/01/09 Phát triển năng lực vì sự hội nhập có hiệu quả: Tổng quan về ngành Nông nghiệp Việt nam: tác động của hiệp định WTO về nông nghiệp. Đại học Tài chính: Các giải pháp tài chính mở rộng thị trường tiêu thụ nông sản hàng hóa, NXB Tài chính, Hà Nội, 2003. Kinh tế 1999-2000 Việt Nam và Thế giới, Thời báo kinh tế Việt Nam (tập san năm 2000), Lịch sử Nông nghiệp Việt Nam, NXB Nông nghiệp, Hà Nôi, 1994. Ngân hàng Thế giới, Bước vào Thế kỷ 21, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1999. Nông dân, nông nghiệp, nông thôn Việt Nam, NXB Nông nghiệp, Hà Nội, 2001. Tổ chức Nông lương Liên hiệp quốc, DA UNDP/FAO VIE 98/019. 08, Kế hoạch tổng thể nghiên cứu nông nghiệp Việt Nam, Hà Nội 2001, Trung tâm châu Á- Thái Bình Dương, Nông nghiệp Việt Nam bước vào thế kỷ XXI, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nôi, 1998. UNDP, Việt Nam hướng tới 2010, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001. Vấn đề đa canh hoá trong sản xuất nông nghiệp, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1997. Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI, VII, VIII. NXB chính trị quốc gia, Hà Nội năm Viện Nghiên cứu chính sách lương thực quốc tế, Ngành rau quả ở Việt Nam: tăng giá trị từ khâu sản xuất đến khâu tiêu dùng, Hà Nội 2002. Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương, Kinh tế Việt Nam các năm 1998, 1999, 2000, 2001, 2002, 2003. Viện Qui hoạch và thiết kế nông nghiệp - Bộ NN & PTNT, Nông nghiệp các nước đang phát triển hướng tới năm 2010 và số liệu cơ bản nông nghiệp các nước ASEAN, Hà Nội, 2000. Viện Quy hoạch và thiết kế nông nghiệp - Bộ NN & PTNT, Phát triển nông nghiệp, nông thôn và vấn đề nông dân trong công nghiệp hóa, hiện đại hóa và chiến lược phát triển 2001- 2010 - Phần dự báo thị trường và phát triển các ngành sản xuất hàng hóa, Hà Nội, 1999. Viện Quy hoạch và Thiết kế Nông nghiệp - Bộ NN & PTNT, Tình hình phát triển nông nghiệp các nước Thái Lan, Indonesia, Malaysia, Philippin - tài liệu tham khảo, Hà Nội, 2000. Viện Quy hoạch và thiết kế nông nghiệp- Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn, Nông nghiệp Việt Nam 61 tỉnh, thành phố, NXB Nông nghiệp 2001 Vụ Kế hoạch và quy hoạch - Bộ nông nghiệp và phát triển nông thôn, Bảng cân đối lương thực - thực phẩm Việt Nam 1997 - 2001, Hà Nội, 2002. Vụ kinh tế địa phương và lãnh thổ - Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Thông tin về chuyển dịch cơ cấu kinh tế vùng thời kỳ 1990-2000, Hà Nội 2000. ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc37195.doc
Tài liệu liên quan