Định lượng và kiểm soát rủi ro quốc gia Việt Nam

MỤC LỤC CHƯƠNG I: QUAN NIỆM VỀ RỦI RO QUỐC GIA 1.1 Khái niệm về rủi ro quốc gia: .............................................................................. 1 1.1.1 Khái niệm rủi ro quốc gia:........................................................................... 1 1.1.2 Phân loại rủi ro quốc gia: ............................................................................ 3 1.2 Các nhân tố tác động đến rủi ro quốc gia: ...........................................................

pdf97 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1676 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Định lượng và kiểm soát rủi ro quốc gia Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
7 1.2.1 Các nhân tố kinh tế vĩ mô............................................................................ 8 1.2.2 Môi trường xã hội, chính trị và pháp luật....................................................9 1.3 Vai trò và tác động của đánh giá rủi ro quốc gia: .............................................. 10 1.3.1 Vai trò của đánh giá rủi ro quốc gia: ......................................................... 10 1.3.2 Tác động của việc đánh giá rủi ro quốc gia: ............................................. 11 1.4 Xếp hạng rủi ro quốc gia: .................................................................................. 12 1.4.1 Xếp hạng rủi ro quốc gia: .......................................................................... 12 1.4.2 Những tồn tại của các hệ thống xếp hạng rủi ro quốc gia hiện nay: ......... 14 CHƯƠNG II: TÌNH HÌNH KINH TẾ VIỆT NAM DƯỚI GÓC ĐỘ RỦI RO QUỐC GIA 2.1 Nhận định về rủi ro kinh tế: ............................................................................... 18 2.1.1 Tăng trưởng kinh tế: .................................................................................. 18 2.1.2 Lạm phát.................................................................................................... 22 2.1.3 Thu chi ngân sách nhà nước và chính sách tài khóa ................................. 24 2.1.4 Chính sách lãi suất..................................................................................... 27 2.1.5 Cán cân tài khoản vãng lai: ....................................................................... 29 2.2 Nhận định về rủi ro tài chính ............................................................................. 31 2.2.1 Chính sách điều hành tỷ giá hối đoái và dự trữ ngoại hối:........................ 31 2.2.2 Nợ nước ngoài ........................................................................................... 35 2.2.3 Hệ thống tài chính – ngân hàng................................................................. 37 2.3 Nhận định về rủi ro chính trị:............................................................................. 41 2.3.1 Tham nhũng............................................................................................... 41 2.3.2 Thủ tục hành chính .................................................................................... 43 2.4 Các thách thức tăng trưởng................................................................................ 43 CHƯƠNG III: ĐỊNH LƯỢNG VÀ KIỂM SOÁT RỦI RO QUỐC GIA VIỆT NAM 3.1 Xây dựng mô hình định lượng rủi ro quốc gia Việt Nam – mô hình beta quốc gia: .................................................................................................................................. 45 3.1.1 Nền tảng lý thuyết cho mô hình: ............................................................... 45 3.1.2 Xây dựng mô hình beta rủi ro quốc gia của Việt Nam: ............................ 50 3.2 Một số đề xuất về chính sách kinh tế vĩ mô nhằm kiểm soát rủi ro quốc gia Việt Nam:......................................................................................................................... 62 3.2.1 Nhóm đề xuất cho rủi ro tài chính............................................................. 62 3.2.2 Nhóm đề xuất cho rủi ro kinh tế................................................................ 68 3.2.3 Nhóm đề xuất cho rủi ro chính trị ............................................................. 69 DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CHỮ VIẾT TẮT DN : Doanh nghiệp NH : Ngân hàng NHTM : Ngân hàng thương mại NHNN : Ngân hàng Nhà nước NSNN : Ngân sách Nhà nước TTCK : Thị trường chứng khoán XK : Xuất khẩu XNK : Xuất nhập khẩu ADB : Asian Development Bank IMF : International Monetary Fund WB : World Bank WTO : World Trade Organization DANH MỤC CÁC BẢNG, BIỂU Bảng 2.1: Tăng trưởng dịch vụ và công nghiệp chi tiết từng lĩnh vực .......................21 Bảng 2.2: Cán cân tài khóa Việt Nam giai đoạn 2001 – 2007 (% GDP)....................25 Bảng 2.3: Bù đắp bội chi NSNN (Đơn vị: tỷ đồng)....................................................26 DANH MỤC CÁC HÌNH VẼ, ĐỒ THỊ Hình 1.1: Các loại hình đầu tư quốc tế và rủi ro quốc gia ............................................3 Đồ thị 2.1: Tăng trưởng GDP từ 2002 đến 2008 ........................................................18 Đồ thị 2.2: Tăng trưởng doanh thu bán lẻ hàng hóa, dịch vụ .....................................19 Đồ thị 2.3: Đóng góp của từng khu vực trong tổng đầu tư .........................................20 Đồ thị 2.4: Đóng góp của từng lĩnh vực vào tăng trưởng GDP..................................20 Đồ thị 2.5: Lạm phát từ 2002 – 2007..........................................................................22 Đồ thị 2.6: Chỉ số giá tiêu dùng biến động theo tháng ...............................................23 Đồ thị 2.7: Tăng trưởng xuất khẩu và các nhóm hàng xuất khẩu...............................30 Đồ thị 2.8: Tăng trưởng nhập khẩu và các nhóm hàng nhập khẩu .............................30 Đồ thị 2.9: Cán cân tài khoản vãng lai (%/GDP)........................................................31 Đồ thị 2.10: Diễn biến tỷ giá hối đoái từ 01/2000 – 05/2007 .....................................32 Đồ thị 2.11: Dự trữ ngoại hối của Việt Nam từ 2003 – 2007 .....................................34 Đồ thị 2.12: Nợ nước ngoài và dịch vụ nợ của Việt Nam ..........................................35 Đồ thị 2.13: Diễn biến chỉ số VN-Index từ 2005 đến đầu 2008 .................................40 Đồ thị 3.1: Beta quốc gia biến đổi theo thời gian (ước tính từ mô hình)....................60 LỜI MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài: Xu hướng toàn cầu hóa trong các lĩnh vực đang diễn ra mạnh mẽ, trong đó toàn cầu hóa trong kinh tế là diễn ra mãnh liệt nhất. Với xu hướng này, các luồng vốn quốc tế sẽ chu chuyển liên tục giữa các quốc gia. Các luồng vốn này có thể là nợ hoặc vốn đầu tư. Vì vậy, khi quyết định có thực hiện đầu tư hay không thì các nhà đầu tư cần phải xem xét đánh giá rủi ro, rủi ro này gắn liền với một quốc gia cụ thể, rủi ro quốc gia. Rủi ro quốc gia sẽ bao hàm tất cả các nhân tố tác động đến đầu tư trong quốc gia đó. Việt Nam đang trong quá trình hội nhập mạnh mẽ. Các luồng vốn đầu tư nước ngoài đổ vào liên tục trong những năm vừa qua, góp phần phát triển kinh tế Việt Nam. Tuy nhiên, cùng với tăng trưởng kinh tế cao thì sự phức tạp trong đánh giá và phân tích rủi ro quốc gia cũng gia tăng. Do đó, vấn đề phân tích rủi ro quốc gia là cần thiết. Vì lý do này, tác giả quyết định lựa chọn đề tài “Định lượng và kiểm soát rủi ro quốc gia Việt Nam” để thực hiện luận văn thạc sỹ. 2. Mục tiêu, đối tượng, phương pháp nghiên cứu: Mục tiêu nghiên cứu: • Nhận diện các nhân tố của rủi ro quốc gia. • Phân tích và đánh giá các thành tố tác động đến rủi ro quốc gia Việt Nam. • Trên cơ sở phân tích, đưa ra một số đề xuất về kiểm soát rủi ro quốc gia Việt Nam Đối tượng nghiên cứu: • Các quan niệm về rủi ro quốc gia cũng như tác động của đánh giá rủi ro đối với nền kinh tế. • Các nhân tố kinh tế vĩ mô tác động thế nào đối với rủi ro quốc gia Việt Nam. Phương pháp nghiên cứu: • Tổng hợp, nghiên cứu lý luận trên thế giới. • Sử dụng phân tích định lượng (hồi quy tuyến tính). 3. Ý nghĩa của đề tài: Đề tài cung cấp nền tảng cho việc nghiên cứu chi tiết, định lượng rủi ro quốc gia. Thông qua kết quả phân tích, các nhà hoạch định chính sách kinh tế có thể đưa ra những quyết định hợp lý hơn. 4. Kết cấu của luận văn: Luận văn có kết cấu gồm 3 chương: Chương 1: Quan niệm về rủi ro quốc gia Chương 2: Tình hình kinh tế Việt Nam dưới góc độ rủi ro quốc gia Chương 3: Định lượng và kiểm soát rủi ro quốc gia Việt Nam Trang: 1 Chương I: Quan niệm về rủi ro quốc gia CHƯƠNG I: QUAN NIỆM VỀ RỦI RO QUỐC GIA 1.1 Khái niệm về rủi ro quốc gia: 1.1.1 Khái niệm rủi ro quốc gia: Đối với bất kỳ hoạt động đầu tư nào, vấn đề rủi ro luôn được đề cập đến khi đánh giá tính hiệu quả của hoạt động đầu tư đó. Ngày nay, trong quá trình toàn cầu hóa, sự chu chuyển vốn giữa các quốc gia càng diễn ra mạnh mẽ hơn. Vấn đề xem xét đánh giá mức độ rủi ro của từng quốc gia được đặt ra cũng trở nên phổ biến như việc đánh giá rủi ro của bất kỳ hoạt động đầu tư nào đó. Rủi ro quốc gia đề cập đến rủi ro mà một quốc gia sẽ không thể thực hiện, giữ đúng được lời hứa đối với các cam kết tài chính của mình. Khi mà một quốc gia không hoàn thành được nhiệm vụ đề ra thì nó sẽ gây hại đến hoạt động của tất cả các công cụ tài chính khác trong quốc gia đó cũng như đến những quốc gia mà nó có quan hệ. Rủi ro quốc gia áp dụng cho cổ phiếu, trái phiếu, quỹ tương hỗ, quyền chọn và hợp đồng tương lai mà được phát hành trong một quốc gia cụ thể. Loại rủi ro này hầu hết thường được thấy tại các thị trường mới nổi hay các quốc gia bị thâm hụt cán cân thương mại nghiêm trọng. Rủi ro quốc gia còn ám chỉ đến khả năng có thể xảy ra khi mà một chính phủ hay người đi vay từ một quốc gia cụ thể có thể không có khả năng hay không sẵn sàng để thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ nợ của họ đối với một hay nhiều người cho vay nước ngoài hay nhà đầu tư nước ngoài. Rủi ro quốc gia theo Bourke (1990) là khả năng của một quốc gia để tạo ra đủ dự trữ ngoại hối để đáp ứng cho những nghĩa vụ nợ bên ngoài. Những yếu tố quan trọng của rủi ro quốc gia là tình trạng hoạt động mậu dịch (xuất khẩu trừ nhập khẩu chia cho GNP) và mức độ nợ nước ngoài. Roy (1994) đã bổ sung định nghĩa này và mô tả rủi ro nợ của chính phủ. Đây là những khả năng tiềm tàng đối với những mất mát tài chính mà có nguồn gốc từ các sự kiện kinh tế hay chính trị. Rủi ro này có thể nảy sinh từ việc nắm giữ những trái quyền công hay tư nhân. Rủi ro quốc gia là một định nghĩa rộng hơn của rủi ro tín dụng và cho vay xuyên biên giới. Nếu rủi ro này được xem xét từ khía cạnh một danh mục cho vay thì nó bao gồm cả các yếu tố hệ thống (rủi ro không thể đa dạng hóa) và các yếu tố phi hệ thống (rủi ro có thể đa dạng hóa). Trang: 2 Chương I: Quan niệm về rủi ro quốc gia Một quan điểm chủ yếu của lý thuyết tài chính là rủi ro tổng hợp được cấu thành từ rủi ro hệ thống và rủi ro phi hệ thống. Rủi ro hệ thống cũng có thể xem như là rủi ro không thể tránh được hay rủi ro không thể đa dang hóa. Rủi ro phi hệ thống cùng một lúc có thể được mô tả như là rủi ro chính trị và rủi ro có thể đa dạng hóa. Rủi ro này là có thể tránh được nhưng nó làm giảm tỷ suất sinh lợi và rủi ro này có thể tiến tới 0 khi một lượng các chứng khoán (các tài sản vay mượn quốc tế) lựa chọn ngẫu nhiên được thêm vào danh mục. Rủi ro phi hệ thống có thể được giảm thiểu một cách đáng kể với một lượng vừa phải các chứng khoán được đa dạng hóa. Rủi ro quốc gia là rủi ro mà các điều kiện và các sự kiện kinh tế, xã hội, chính trị ở một quốc gia sẽ ảnh hưởng bất lợi đến lợi ích của một quá trình đầu tư. Rủi ro quốc gia cũng bao gồm các khả năng quốc hữu hóa hay sung công tài sản, sự từ chối trả nợ nước ngoài của chính phủ, việc kiểm soát ngoại hối, sự đánh giá thấp tiền tệ hay mất giá, phá giá tiền tệ. Thuật ngữ rủi ro quốc gia thường được sử dụng gắn với đầu tư xuyên biên giới và được phân tích từ viễn cảnh của nhà đầu tư nước ngoài. Rủi ro quốc gia là rủi ro đơn nhất mà nhà đầu tư nước ngoài phải đối mặt khi đầu tư vào một quốc gia khi so sánh đầu tư vào quốc gia khác. Rủi ro quốc gia là một phần đơn lẻ của rủi ro đầu tư, được gây ra trong một quốc gia. Việc hiểu về thuật ngữ rủi ro quốc gia đến mức độ nào là phụ thuộc vào dạng đầu tư. Có 3 dạng đầu tư nước ngoài phổ biến: cho vay, đầu tư vốn cổ phần, và đầu tư trực tiếp FDI. Cho vay bao gồm cho vay trực tiếp, hoặc mua trái phiếu của chính phủ hay trái phiếu các công ty tư nhân ở quốc gia đó. Vốn cổ phần bao gồm đầu tư vào những công ty được niêm yết trên thị trường chứng khoán hay không được niêm yết trên thị trường chứng khoán ở quốc gia đó. Đầu tư trực tiếp bao gồm việc đầu tư vào xí nghiệp và tài nguyên như hầm mỏ hay giếng dầu và các tài sản thực khác. Liên quan đến việc cho vay, người đi vay có thể phân loại thành hai nhóm: chính phủ vay và vay có bảo đảm của chính phủ, và vay từ các công ty tư nhân không có bảo đảm. Khi thuật ngữ rủi ro quốc gia được sử dụng trong cho vay xuyên biên giới và người đi vay là chính phủ thì rủi ro tín dụng được biết đến như là rủi ro thể chế (sovereign risk) hay rủi ro tín dụng quốc qia. Rủi ro tín dụng là rủi ro mà người đi vay sẽ không hoàn thành đầy đủ các nghĩa vụ trong hợp đồng vay mượn dẫn đến những mất mát cho người cung cấp tín dụng hay người cho vay. Rủi ro quốc gia đối với nhà đầu tư bao gồm cả khả năng “tăng giá” tiềm tàng và rủi ro “giảm giá” và có thể đo lường bằng phương sai của thu nhập. Trong hầu hết các trường hợp khả Trang: 3 Chương I: Quan niệm về rủi ro quốc gia năng các sự kiện tiêu cực sẽ làm tăng giá trị đầu tư là rất thấp. Do đó rủi ro quốc gia có thể xem như là những tác động mang tính quốc gia đến thu nhập từ đầu tư. Hình 1.1: Các loại hình đầu tư quốc tế và rủi ro quốc gia 1.1.2 Phân loại rủi ro quốc gia: Có nhiều quan niệm trong việc phân loại rủi ro quốc gia, trong đó có những quan niệm cơ bản như sau. a. Đứng trên góc độ đầu tư thì một phân loại khả dĩ đối với rủi ro quốc gia là rủi ro kinh tế, rủi ro thương mại và rủi ro chính trị. Rủi ro kinh tế là rủi ro liên quan tới việc phát triển kinh tế vĩ mô của một quốc gia, như sự phát triển lãi suất và tỷ giá hối đoái có thể ảnh hưởng tới khả năng lợi nhuận của đầu tư. Rủi ro thương mại là rủi ro liên quan đến một đầu tư xác định, chẳng hạn như rủi ro liên quan đến việc hoàn thành đầy đủ các hợp đồng với các công ty tư nhân hay đối tác địa phương. Rủi ro chính trị, đối với nhiều quốc gia là loại quan trọng nhất. Một quốc gia là một thực thể chính trị với những luật lệ và quy định áp dụng đối với đầu tư. Thêm vào đó những điều luật bảo vệ quyền đối với tài sản cá nhân, sự sẵn sàng và khả năng của Các tác động mang tính quốc gia đối với thu nhập từ đầu tư RỦI RO QUỐC GIA Vay mượn của tư nhân Vay mượn của chính phủ Đầu tư gián tiếp (đầu tư danh mục) FPI Đầu tư trực tiếp FDI Trang: 4 Chương I: Quan niệm về rủi ro quốc gia một chính phủ thay đổi những luật lệ và quy định này sẽ tạo thành một nguồn rủi ro đối với đầu tư. Rủi ro chính trị cũng có thể gây ra bởi hành vi của nhà nước hay các công ty sở hữu nhà nước trên thị trường, hay trong các trường hợp nguy kịch như chiến tranh và bạo loạn. b. Một quan điểm thứ hai trong phân tích rủi ro quốc gia là phân loại rủi ro quốc gia thành rủi ro chính trị, rủi ro kinh tế, rủi ro tài chính. Cách phân loại này là cách phân loại phổ biến nhất và thường được các tổ chức xếp hạng sử dụng. Rủi ro chính trị thể hiện tính ổn định về mặt chính trị của một quốc gia mà có thể ảnh hưởng đến khả năng và thiện chí trong việc đáp ứng các nghĩa vụ tài chính của mình. Rủi ro chính trị tăng lên từ các sự kiện như chiến tranh, xung đột nội bộ hay xung đột bên ngoài, khủng bố… dẫn đến những thay đổi trong chính phủ. Rủi ro chính trị còn được thể hiện thông qua những vấn đề bất ổn chính trị của quốc gia láng giềng. Chẳng hạn, nếu quốc gia đi vay nằm bên cạnh một quốc gia đang có chiến tranh thì mức độ rủi ro của quốc gia này sẽ cao hơn bởi vì mặc dù quốc gia đi vay không liên quan trực tiếp đến cuộc xung đột nhưng nguy cơ ảnh hưởng từ cuộc xung đột này là tồn tại. Rủi ro kinh tế thể hiện sức mạnh hay sự yếu kém hiện tại của nền kinh tế của một quốc gia. Rủi ro tài chính thể hiện khả năng của một quốc gia để đáp ứng cho việc thanh toán các khoản tín dụng chính thức, thương mại… nước ngoài. Rủi ro kinh tế và rủi ro tài chính phản ánh năng lực chi trả của một quốc gia đối với các khoản nợ của mình, trong khi đó rủi ro chính trị lại phản ánh thiện chí trả nợ đó. c. Quan điểm thứ ba đối với việc phân loại rủi ro quốc gia hướng cụ thể vào từng loại rủi ro như sau. Các nhà phân tích có khuynh hướng phân loại rủi ro quốc gia vào 6 loại chính được chỉ ra dưới đây. Nhiều loại trong số các rủi ro này chồng chéo lẫn nhau, dựa trên mối quan hệ quốc tế của nền kinh tế trong nước với hệ thống chính trị và cộng đồng quốc tế. Mặc dù nhiều nhà phân tích rủi ro có thể không đồng ý hoàn toàn với cách phân loại này nhưng các khái niệm này có khuynh hướng thể hiện rủi ro quốc gia. Sáu loại rủi ro này là: rủi ro kinh tế, rủi ro chuyển giao, rủi ro tỷ giá hối đoái, rủi ro vị trí hay vùng lân cận, rủi ro thể chế, rủi ro chính trị. Trang: 5 Chương I: Quan niệm về rủi ro quốc gia Rủi ro kinh tế là một sự thay đổi đáng kể trong cơ cấu kinh tế hay tỷ lệ tăng trưởng mà tạo ra một thay đổi chủ yếu trong thu nhập kỳ vọng của một đầu tư. Rủi ro này phát sinh từ khả năng tiềm tàng của những thay đổi bất lợi trong mục tiêu của các chính sách kinh tế chủ yếu (chính sách tài khoá, chính sách quốc tế, chính sách phân bổ của cải hay chính sách sản xuất) hay phát sinh từ một thay đổi đáng kể trong lợi thế so sánh của quốc gia (như cạn kiệt tài nguyên, suy thoái công nghiệp, dịch chuyển dân cư). Rủi ro kinh tế thường chồng chéo với rủi ro chính trị trong một vài hệ thống đo lường vì cả hai có quan hệ đến chính sách của một quốc gia. Sự đo lường rủi ro kinh tế bao gồm các đo lường truyền thống về chính sách tài khoá và chính sách tiền tệ, như quy mô và thành phần của chi tiêu chính phủ, chính sách thuế, tình trạng nợ của chính phủ, và chính sách tiền tệ và tính vững chắc về tài chính. Đối với đầu tư dài hạn, sự đo lường nhắm vào các nhân tố tăng trưởng dài hạn, mức độ “mở cửa” của nền kinh tế, và các nhân tố thể chế mà có thể tác động đến sản xuất của cải. Rủi ro chuyển giao là rủi ro phát sinh từ một quyết định bởi chính phủ một quốc gia về việc hạn chế sự di chuyển của dòng vốn nước ngoài. Những hạn chế này có thể là: gây khó khăn cho việc chuyển lợi nhuận, cổ tức, hay vốn về nước. Rủi ro chuyển giao cũng có thể hiểu là khả năng mà một tài sản không thể chuyển đổi sang một đồng tiền thanh toán (đồng tiền có khả năng chuyển đổi) bởi vì quốc gia vay nợ thiếu ngoại hối cần thiết hay kiềm chế khả năng này. Kiểm soát ngoại hối là một ví dụ của rủi ro chuyển giao. Định lượng rủi ro này khá khó khăn bởi vì quyết định hạn chế vốn có thể là một phản ứng hoàn toàn mang tính chính trị nhằm đối phó những khó khăn nhất định trong những thời kỳ kinh tế nào đó. Ví dụ như, quyết định của Malaysia thực hiện kiểm soát vốn và chế độ tỷ giá hối đoái cố định trong khoảng giữa cuộc khủng hoảng tiền tệ châu Á là một giải pháp mang tính chính trị đối với vấn đề tỷ giá. Đo lường rủi ro chuyển giao tiêu biểu thường bao gồm các tỷ lệ: • Tỷ lệ các khoản thanh toán nợ dịch vụ trên xuất khẩu; • Tỷ lệ các khoản thanh toán nợ dịch vụ trên xuất khẩu cộng đầu tư trực tiếp nước ngoài thuần; • Tỷ lệ nợ nước ngoài so với thu nhập; • Tỷ lệ dự trữ ngoại tệ so với nhập khẩu. Việc đo lường thường gắn liền với tình trạng của tài khoản vãng lai. Khi các đo lường định lượng này có xu hướng xấu, điều này sẽ bộc lộ sự mất cân bằng tiềm tàng Trang: 6 Chương I: Quan niệm về rủi ro quốc gia của cán cân tài khoản vãng lai, có thể đưa một quốc gia đến việc hạn chế vốn. Ví dụ như, một sự thâm hụt đang lớn dần lên trong tài khoản vãng lai ngụ ý một nhu cầu lớn hơn mãi mãi đối với ngoại tệ để bù đắp cho sự thâm hụt đó. Rủi ro này sẽ tăng thêm nếu không có sự thay đổi nào trong việc bù đắp sự thâm hụt này bằng tài khoản vốn. Rủi ro tỷ giá là một sự biến động bất lợi không mong đợi trong tỷ giá hối đoái. Rủi ro tỷ giá bao gồm một sự thay đổi không mong đợi trong chế độ tỷ giá như một thay đổi từ tỷ giá cố định sang thả nổi. Lý thuyết kinh tế chỉ ra việc phân tích rủi ro tỷ giá phải trải qua thời kỳ dài (hơn 1 đến 2 năm). Các áp lực ngắn hạn, bị chi phối bởi các các nguyên tắc kinh tế cơ bản, có khuynh hướng bị cuốn theo bởi các động lực mua bán tiền tệ được định giá một cách tốt nhất bởi các nhà kinh doanh tiền tệ. Trong ngắn hạn, rủi ro đối với nhiều đồng tiền có thể được loại bỏ ở một chi phí có thể chấp nhận được thông qua các cơ chế phòng ngừa khác nhau và các hợp đồng tương lai. Phòng ngừa tiền tệ trở nên phi thực tế đối với tuổi thọ của máy móc thiết bị hay các tài sản tương tự đầu tư trực tiếp. Vì thế rủi ro tỷ giá tăng lên trừ khi có các phòng ngừa mang tính tự nhiên (sự sắp xếp doanh thu và chi phí ở cùng một đồng tiền). Một chính sách tỷ giá hối đoái cố định của một quốc gia có thể giúp cô lập rủi ro rủi ro tỷ giá. Kiềm chế mức độ thả nổi tỷ giá cùng với việc chính phủ cố gắng kiểm soát đồng tiền trong một phạm vi chật hẹp, có khuynh hướng gây ra rủi ro cao hơn là hệ thống tỷ giá cố định hay tỷ giá chuẩn tiền tệ. Hệ thống tỷ giá hối đoái thả nổi thông thường duy trì rủi ro thấp hơn đối với việc gây ra một sự dịch chuyển tỷ giá bất lợi không mong đợi. Mức độ đánh giá cao hay thấp của một đồng tiền cũng có thể giúp cô lập rủi ro tỷ giá hối đoái. Rủi ro vị trí hay rủi ro vùng lân cận bao hàm các hiệu ứng dây chuyền gây nên bởi những khó khăn trong một khu vực, bởi một nước đối tác của một quốc gia, hay trong các quốc gia với những tính chất tương tự. Tính chất lây lan thể hiện tiêu biểu ở các quốc gia Latin vào những năm 1980, sự lây lan ở châu Á vào năm 1997-1998. Vị trí địa lý cung cấp sự đo lường đơn giản nhất về rủi ro vị trí. Các đối tác giao dịch, các đồng minh thương mại quốc tế (như Mercousur, NAFTA, và EU), quy mô, biên giới, và khoảng cách đối với các quốc gia quan trọng về kinh tế hay về chính trị hay các khu vực cũng có thể giúp xác định rủi ro vị trí. Rủi ro thể chế liên quan đến việc hoặc một chính phủ sẽ không sẵn lòng hay không thể đáp ứng được các nghĩa vụ nợ, hoặc là có thể bội ước các cam đoan đối với các khoản vay nợ. Rủi ro tự chủ có thể liên quan đến rủi ro chuyển giao mà một chính Trang: 7 Chương I: Quan niệm về rủi ro quốc gia phủ có thể cạn kiệt ngoại hối do sự tiến triển không thuận lợi trong cán cân thanh toán. Nó cũng liên quan đến rủi ro chính trị trong trường hợp mà một chính phủ có thể quyết định không thực hiện đúng hẹn những cam kết vì mục đích chính trị. Rủi ro này đặc biệt quan trọng đối với người cho vay cá nhân. Khi chính phủ một quốc gia quyết định không đáp ứng nghĩa vụ nợ của họ, người cho vay cá nhân thực tế không thể kiện chính phủ nước ngoài. Đo lường rủi ro tự chủ đối với khả năng chi trả của một chính phủ là tương tự như đo lường rủi ro chuyển giao. Đo lường thiện chí chi trả đòi hỏi một sự đánh giá lịch sử thể hiện thanh toán của một chính phủ, đòi hỏi một sự phân tích đối với các chi phí tiềm tàng của khoản nợ từ chối thực hiện của chính phủ vay mượn (quốc gia này sẽ bị ngăn chặn trong việc tiếp cận thị trường vốn quốc tế, uy tín quốc tế bị huỷ hoại…), và đòi hỏi một nghiên cứu về những tiềm tàng đối với việc tái lập thời hạn nợ bởi những hiệp hội các nhà cho vay cá nhân hay các định chế quốc tế. Rủi ro chính trị liên quan đến một thay đổi trong thể chế chính trị xuất phát từ một thay đổi trong quyền lực kiểm soát chính phủ, cơ cấu xã hội, hay nhân tố phi kinh tế khác. Loại rủi ro này bao hàm khả năng tiềm tàng đối với những xung đột bên trong và bên ngoài, rủi ro sung công. Đánh giá rủi ro này đòi hỏi phân tích nhiều nhân tố, bao gồm các mối quan hệ của các đảng phái khác nhau trong một quốc gia, quá trình ra quyết định trong chính phủ, và lịch sử của quốc gia đó. Việc bảo hiểm hiện có đối với các rủi ro chính trị, có thể đạt được từ một số các cơ quan chính phủ (như Công ty đầu tư tư nhân hải ngoại ở Mỹ) và các tổ chức quốc tế (như Cơ quan bảo đảm đầu tư đa phương của Ngân hàng Thế giới). Một vài đo lường dịnh lượng hiện nay giúp đánh giá rủi ro chính trị. Phương pháp đo lường xếp loại từ những phương pháp phân loại khác nhau (như kiểu cấu trúc chính trị, phạm vi và tính đa dạng của cấu trúc dân tộc, những rắc rối tranh chấp dân sự hay bên ngoài), được quan sát hay phân tích bởi các chuyên gia chính trị. Các nhà phân tích của công ty có thể phát triển các ước lượng rủi ro chính trị cho công việc kinh doanh của họ thông qua các cuộc thảo luận với các cơ quan địa phương hay các công ty khác hoạt động trên cùng lĩnh vực trong quốc gia đó. 1.2 Các nhân tố tác động đến rủi ro quốc gia: Các cuộc khủng hoảng nợ mà những quốc gia kém phát triển và các thị trường mới nổi trải qua trong 20 năm gần đây đã hướng sự chú ý đến một số các nhân tố mà có liên quan đặc biệt tới việc phân tích rủi ro quốc gia. Trang: 8 Chương I: Quan niệm về rủi ro quốc gia 1.2.1 Các nhân tố kinh tế vĩ mô a. Nhân tố đầu tiên trong các nhân tố này là quy mô và cấu trúc của nợ nước ngoài trong mối quan hệ với nền kinh tế của quốc gia đó. Một cách cụ thể hơn là: - Mức độ hiện tại của nợ ngắn hạn và khả năng tiềm tàng đưa đến một cuộc khủng hoảng thanh khoản - Quy mô nợ nước ngoài của khu vực công, khả năng của chính phủ để tạo ra đủ thu nhập, từ thuế và các nguồn khác, để đáp ứng nghĩa vụ nợ. b. Điều kiện và tính dễ tổn thương của tài khoản vãng lai của quốc gia cũng là một nhân tố quan trọng, bao gồm: - Mức dự trữ quốc tế. - Mức dự trữ nhập khẩu được cung cấp bởi dự trữ quốc tế của quốc gia. - Tính quan trọng của hàng hóa xuất khẩu với tư cách là một nguồn thu nhập, sự hiện hữu của bất kỳ cơ chế ổn định giá, và tính dễ tổn thương của quốc gia đối với một sự sụt giảm trong thị trường xuất khẩu hay trong giá cả của một hàng hóa xuất khẩu. - Khả năng tiềm tàng đối với những biến động đột ngột trong tỷ giá hối đoái và tác động lên giá trị xuất khẩu và nhập khẩu của quốc gia. c. Vai trò của các nguồn vốn nước ngoài trong việc đáp ứng nhu cầu tài trợ của quốc gia là một sự suy xét quan trọng khác trong việc phân tích rủi ro quốc gia, bao gồm: - Việc tiếp cận các thị trường tài chính quốc tế của quốc gia và những ảnh hưởng tiềm tàng của một tổn thất trong tính thanh khoản của thị trường. - Mối quan hệ của quốc gia với các nhà cấp tín dụng của khu vực tư nhân, bao gồm sự tồn tại của những cam kết vay mượn và thái độ của các chủ ngân hàng đối với quan hệ trong việc cho vay thêm đối với các nhà đi vay trong quốc gia đó. - Vị thế hiện thời của quốc gia đối với các nhà cấp tín dụng đa phương và chính thức, bao gồm khả năng của quốc gia để có đủ tư cách và chịu đựng được những chương trình điều chỉnh kinh tế của IMF hay các chương trình phù hợp khác. - Xu hướng trong đầu tư nước ngoài và khả năng của quốc gia trong việc thu hút đầu tư nước ngoài trong tương lai. Trang: 9 Chương I: Quan niệm về rủi ro quốc gia - Những cơ hội của tiến trình tư nhân hóa của các thực thể thuộc sở hữu nhà nước. d. Một số các nhân tố kinh tế vĩ mô quan trọng khác, bao gồm: - Mức độ mà nền kinh tế của quốc gia có thể bị tác động bất lợi thông qua sự lây lan các vấn đề khó khăn từ các quốc gia khác. - Quy mô và tình hình của hệ thống ngân hàng của quốc gia, bao gồm hệ thống giám sát hoạt động ngân hàng và bất kỳ gánh nặng tiềm tàng của các khoản nợ bất ngờ mà một hệ thống ngân hàng yếu kém có thể gây ra những hậu quả nghiêm trọng đối với chính phủ. - Quy mô của vay mượn trực tiếp từ chính phủ hay sự can thiệp khác của chính phủ có thể tác động bất lợi đến tính hoàn hảo của hệ thống ngân hàng, hay cơ cấu và khả năng cạnh tranh của các ngành công nghiệp hay các công ty được ưu đãi. - Mức độ tác động mà các điều kiện kinh tế vĩ mô có thể gây ra bất lợi đối với rủi ro tín dụng của các đối tác của nhà đầu tư trong quốc gia đó. - Viễn cảnh kinh tế của bất kỳ ngành công nghiệp mục tiêu của quốc gia. 1.2.2 Môi trường xã hội, chính trị và pháp luật Việc phân tích rủi ro quốc gia cũng nên đưa vào xem xét môi trường xã hội, chính trị, và pháp luật: - Tiềm lực tự nhiên và nguồn nhân lực của quốc gia. - Thiện chí và năng lực của chính phủ để nhận biết những vấn đề kinh tế và vấn đề ngân sách và hành động để sữa chữa bổ sung thích hợp. - Mức độ tác động của tư tưởng bè phái, chính trị hay xung đột vũ trang đến chính phủ của quốc gia đó. - Bất cứ xu hướng nào về việc đánh thuế giá cả, lãi suất, hay kiểm soát ngoại hối. - Mức độ mà hệ thống pháp luật có thể bảo vệ một cách công bằng lợi ích của các nhà tín dụng nước ngoài và nhà đầu tư. - Các chuẩn mực kế toán trong quốc gia và tính tin cậy, tính minh bạch của thông tin tài chính. Trang: 10 Chương I: Quan niệm về rủi ro quốc gia - Mức độ bảo vệ của luật pháp và các chính sách của chính phủ đối với các giao dịch điện tử và mức độ đẩy mạnh phát triển công nghệ theo một cách an toàn và hoàn chỉnh. - Các chính sách khuyến khích của chính phủ trong việc quản lý hiệu quả rủi ro của các tổ chức định chế. - Mức độ gia nhập của quốc gia vào hệ thống pháp luật và các chuẩn mực kinh doanh quốc tế. 1.3 Vai trò và tác động của đánh giá rủi ro quốc gia: Đánh giá rủi ro quốc gia là việc sử dụng các dữ liệu thống kê hay các nhận xét định tính của các chuyên gia nhằm đưa ra một xếp hạng cho từng quốc gia ứng với mức độ rủi ro quốc gia của quốc gia đó. Một chức năng chính của đánh giá rủi ro quốc gia là để lường trước khả năng bội ước, không thể trả nợ hay trì hoãn thanh toán của chính phủ đi vay. Đánh giá rủi ro quốc gia cũng là để dự báo các điều kiện tương lai đối với việc đầu tư trong một quốc gia. Đánh giá rủi ro quốc gia đo lường các nhân tố kinh tế, tài chính, chính trị và các tác động qua lại giữa các nhân tố này nhằm xác định rủi ro gắn liền với một quốc gia cụ thể. 1.3.1 Vai trò của đánh giá rủi ro quốc gia: Đánh giá rủi ro quốc gia có vai trò quan trọng vì nó biểu hiện mức độ rủi ro của một quốc gia. Do đó nó không chỉ quan trọng đối với chính phủ của quốc gia được đánh giá rủi ro quốc gia mà còn rất quan trọng đối với các nhà đầu tư và các nhà cho vay quốc ._.tế. a. Đối với chính phủ: Thông qua việc đánh giá rủi ro quốc gia, chính phủ tự đánh giá hay thông qua các cơ quan xếp hạng tín nhiệm, thì các chính phủ có thể nhận biết được thực trạng nền kinh tế, những yếu kém và triển vọng của quốc gia. Từ đó có thể đề ra các chính sách, biện pháp mang tính vĩ mô nhằm khắc phục để dần nâng cao mức tín nhiệm trên trường quốc tế, thu hút nhiều hơn vốn đầu tư quốc tế để đạt được mục tiêu tăng trưởng kinh tế. Thêm vào đó với việc cải thiện mức rủi ro quốc gia của mình thì chính phủ một quốc gia sẽ giảm thiểu được chi phí vay mượn trên thị trường quốc tế vì nguyên tắc tài chính cơ bản chỉ ra rằng rủi ro càng cao thì phần bù rủi ro càng cao. b. Đối với các nhà đầu tư: Trang: 11 Chương I: Quan niệm về rủi ro quốc gia Các nhà đầu tư trong nước cũng như chính phủ sẽ thông qua việc đánh giá rủi ro quốc gia để nhận biết được mức độ rủi ro chung của quốc gia từ đó so sánh với mức độ rủi ro của riêng mình để có các chiến lược đầu tư cụ thể và vững chắc nhằm thu được tỷ suất sinh lợi cao nhất. Đánh giá rủi ro quốc gia cung cấp cho các nhà cho vay quốc tế và các nhà đầu tư quốc tế biết được khả năng thu hồi các khoản vốn vay của mình và mức thu nhập thu nhập kỳ vọng có được từ đầu tư. Tiến trình đánh giá rủi ro quốc gia nhằm cung cấp các thông tin tốt nhất cho việc dự báo các khả năng có thể xảy ra, là một công cụ giúp các nhà cho vay và đầu tư quốc tế ra quyết định cho vay hay đầu tư vào một quốc gia cụ thể. 1.3.2 Tác động của việc đánh giá rủi ro quốc gia: Thứ nhất, xếp hạng rủi ro quốc gia ảnh hưởng đến mức lãi suất mà quốc gia có thể đạt được một khoản tín dụng trên thị trường quốc tế: xếp hạng cao (tức là mức độ rủi ro thấp) thì lãi suất sẽ thấp và ngược lại. Thực tế đã chứng minh là theo sau một sự hạ thấp mức xếp hạng, việc vay mượn của chính phủ Nhật đã trở nên đắt đỏ hơn do lãi suất tăng lên, phản ánh nguy cơ vỡ nợ cao hơn. Thứ hai, xếp hạng rủi ro quốc gia cũng ảnh hưởng đến xếp hạng tín dụng của các ngân hàng và các công ty ở quốc gia đó, và tác động đến khả năng thu hút các nhà đầu tư nước ngoài thông qua việc ảnh hưởng đến việc đánh giá chi phí kinh doanh. Ferri (2001) gọi xếp hạng rủi ro quốc gia là “điểm then chốt của tất cả các mức xếp hạng khác của quốc gia”. Tương tự trong quá khứ các tổ chức xếp hạng luôn biểu hiện sự miễn cưỡng trong việc xếp hạng một công ty cao quốc gia mà công ty đó hoạt động. Chẳng hạn, sau khi Moody’s hạ mức tín nhiệm của Nhật vào tháng 11/1998 (từ Aaa xuống Aa1), tất cả các nhà phát hành hạng Aaa ở Nhật cũng bị hạ mức tín nhiệm. Điều này dẫn tới việc xếp hạng rủi ro quốc gia được xem là “mức trần rủi ro tín dụng quốc gia”. Thứ ba, các định chế đầu tư thường giới hạn mức rủi ro mà họ có thể chấp nhận, điều này ngụ ý rằng họ không thể đầu tư vào các khoản nợ bị xếp hạng thấp hơn một mức đã định. Ferri (2001) chỉ ra sự tương phản giữa việc xếp hạng các ngân hàng hoạt động tại các quốc gia thu nhập cao và các quốc gia thu nhập thấp, điều này nghĩa là hạng mức tín nhiệm của các ngân hàng hoạt động tại các quốc gia thu nhập thấp bị tác động đáng kể bởi sự biến động của xếp hạng rủi ro quốc gia, trong khi đó hạng mức tín nhiệm của các ngân hàng hoạt động tại các quốc gia thu nhập cao không có Trang: 12 Chương I: Quan niệm về rủi ro quốc gia vẻ phụ thuộc đáng kể vào xếp hạng rủi ro quốc gia. Các nhà nghiên cứu nêu ra rằng xếp hạng rủi ro quốc gia chủ yếu dành cho các quốc gia đang phát triển, đây là những quốc gia có một nhạy cảm rất cao đối với những công bố xếp hạng. 1.4 Xếp hạng rủi ro quốc gia: 1.4.1 Xếp hạng rủi ro quốc gia: Kể từ cuộc khủng hoảng nợ vào đầu thập niên 80, các cơ quan xếp hạng tín nhiệm rủi ro quốc gia mang tính thương mại như Moody's, Standard and Poor's, Euromoney, Institutional Investor, Economist Intelligence Unit, International Country Risk Guide, và Political Risk Services đã cung cấp những hạng mức rủi ro quốc gia mang tính định tính và định lượng bằng việc kết hợp các thông tin đo lường về rủi ro kinh tế, rủi ro tài chính và rủi ro chính trị để đạt được một hạng mức tín nhiệm rủi ro quốc gia tổng hợp. Có nhiều mô hình đánh giá rủi ro quốc gia: đánh giá định tính, đánh giá định lượng hay kết hợp cả hai. Sau đây là một số các tổ chức xếp hạng rủi ro quốc gia: Institutional Investor thực hiện việc nghiên cứu xếp hạng rủi ro quốc gia theo nửa năm, dựa trên ý kiến của các ngân hàng quốc tế hàng đầu. Khoảng 75 đến 100 ngân hàng xếp hạng cho hơn 135 quốc gia với phạm vi từ 0 đến 100 điểm, 100 điểm đại diện cho mức rủi ro thấp nhất. Các hạng mức đơn lẻ được tính toán với quyền số bằng cách sử dụng một công thức của Institutional Investor, quyền số lớn hơn được ấn định dựa trên quy mô hoạt động trên thế giới và mức độ phức tạp của mô hình rủi ro quốc gia của ngân hàng. Tên tuổi của các ngân hàng tham gia được giữ bí mật hoàn toàn. Các nghiên cứu rủi ro quốc gia của Institutional Investor được phát hành vào tháng 3 và tháng 9. Trong tài liệu rủi ro quốc gia, đánh giá rủi ro quốc gia của Institutional Investor được xem như là đánh giá, nhận định của các ngân hàng. Euromoney cung cấp những đánh giá và xếp hạng rủi ro quốc gia cho 185 quốc gia và vùng lãnh thổ cứ 6 tháng một lần. Các quốc gia được cho điểm tương ứng dựa trên 9 thành phần, và sau đó được xếp hạng theo điểm số này. Để có điểm rủi ro quốc gia tổng hợp thì mỗi loại trong 9 thành phần sẽ có một quyền số (rủi ro chính trị 25%, mức thể hiện kinh tế 25%, các chỉ số nợ 10%, nợ không thanh toán hay giãn nợ 10%, xếp hạng tín dụng 10%, khả năng tiếp cận đối với tài trợ ngân hàng 10%, khả năng tiếp cận tài trợ ngắn hạn 5%, khả năng tiếp cận thị trường vốn 5%, và chiết khấu trượt giá 5%). Giá trị cơ sở tốt nhất cho mỗi loại rủi ro đạt được quyền số đầy Trang: 13 Chương I: Quan niệm về rủi ro quốc gia đủ, trong khi giá trị tệ nhất là 0. Tất cả giá trị được tính toán tương xứng với điểm số tốt nhất và tệ nhất. Các nghiên cứu được phát hành vào tháng 3 và tháng 9 trong các tạp chí tháng. Standard & Poor’s (S&P) cung cấp các hạng mức tín dụng được cập nhật hàng tuần của các chính phủ phát hành và vùng lãnh thổ. Hạng mức tín dụng quốc gia (rủi ro thể chế) không phải là hạng mức quốc gia vì nó chỉ thể hiện rủi ro tín dụng của chính phủ quốc gia, không phải là rủi ro tín dụng của các nhà phát hành khác trong nước. Tuy nhiên, xếp hạng tín dụng quốc gia thiết lập điểm chuẩn cho các hạng mức tín dụng cho các nhà phát hành khác trong nước. S&P cung cấp xếp hạng ngắn hạn và dài hạn, cũng như một cái nhìn định tính cho 7 phạm vi chính là nợ dài hạn, thương phiếu, cổ phiếu ưu đãi, chứng chỉ tiền gửi, quỹ thị trường tiền tệ, quỹ tương hỗ trái phiếu, và trái quyền của các công ty bảo hiểm. Việc xác định rủi ro tín dụng gắn liền với rủi ro chính trị (sự sẵn sàng trả nợ của chính phủ) và rủi ro kinh tế (khả năng của chính phủ đối với nghĩa vụ nợ). Xếp hạng các nhà phát hành ngoại tệ cũng được phân biệt với xếp hạng các nhà phát hành nội tệ để xác định các trường hợp mà rủi ro thể chế làm cho chính phủ khác biệt với các nhà phát hành khác. Các chữ cái được dùng để xếp hạng từ C (mức thấp nhất) đến AAA (mức cao nhất). Moody’s cung cấp phân tích rủi ro tín dụng quốc gia cho hơn 100 nước, hầu như là các nước này đều tham gia vào thị trường vốn thế giới. Đối với mỗi quốc gia, Moody’s có một số loại xếp hạng khác để nắm bắt các rủi ro khác, bao gồm xếp hạng quốc gia cho cả chứng khoán ngoại tệ ngắn hạn và dài hạn. Khi thiết lập rủi ro quốc gia, các nhà phân tích của Moody’s đánh giá cả các biến số chính trị và kinh tế để rút ra hạng mức rủi ro quốc gia, hạng mức này hành động như là một mức trần rủi ro tín dụng đối với chứng khoán ngoại tệ của bất cứ thực thể nào nằm trong sự kiểm soát của một chính phủ. Xếp hạng rủi ro quốc gia bao gồm rủi ro chuyển giao ngoại tệ và rủi ro hệ thống trong quốc gia. Bằng cách sử dụng hạng mức từ Aaa đến C của Moody’s, các trái phiếu ngoại tệ dài hạn của chính phủ và trái phiếu nội tệ dài hạn của chính phủ được xếp hạng. Political Risk Service (PRS) cung cấp các báo cáo cho 100 quốc gia. Mỗi báo cáo đánh giá rủi ro chính trị, tài chính, kinh tế đối với đầu tư kinh doanh và mậu dịch. Báo cáo quốc gia chỉ là nguồn dữ liệu cho các phân tích và dự báo rủi ro dựa trên hệ thống xếp hạng PRS mà đánh giá các kịch bản chính trị khác nhau. PRS cung cấp một mô hình rủi ro chính trị với dự báo cho 3 ngành công nghiệp là tài chính (ngân Trang: 14 Chương I: Quan niệm về rủi ro quốc gia hàng và cho vay), đầu tư trực tiếp (bán lẻ, sản xuất,và khai thác mỏ) và xuất khẩu đối với thị trường các nước. Các báo cáo được thực hiện định kỳ hàng quý. Economist Intelligence Unit (EIU) xuất bản các báo cáo rủi ro quốc gia từng quý với dữ liệu cập nhật từng tháng. Những báo cáo này tóm tắt hạng mức rủi ro cho 100 quốc gia đang phát triển và mắc nợ cao được quan sát bởi Country Risk Service (CRS). Phương pháp xếp hạng rủi ro của CRS xem xét 2 loại rủi ro: (1) rủi ro quốc gia, được xác định bởi nhân tố chính trị (22%), chính sách kinh tế (28%), cơ cấu kinh tế (27%), và thanh khoản (23%); thứ hai là (2) rủi ro đầu tư xác định. Có 3 loại rủi ro đầu tư xác định là rủi ro tiền tệ (gắn liền với việc chấp nhận mức nhạy cảm đối với USD), rủi ro vỡ nợ quốc gia (gắn liền với các khoản đi vay của quốc gia), và rủi ro khu vực ngân hàng (gắn liền với các khoản cho vay ngoại tệ đối với ngân hàng). Hạng mức rủi ro đầu tư xác định cũng được xác định bởi 4 nhân tố như trên nhưng với quyền số khác. Đối với rủi ro tiền tệ, chính sách kinh tế có quyền số cao nhất là 65%, các nhân tố cơ cấu kinh tế, chính trị, thanh khoản lần lượt có quyền số là 17%, 14%, và 4%. Trong trường hợp của rủi ro vỡ nợ quốc gia, thanh khoản có quyền số cao nhất là 31%, chính sách kinh tế và cơ cấu kinh tế có quyền số là 27%, và nhân tố chính trị là 15%. Cuối cùng, đối với rủi ro khu vực ngân hàng, cơ cấu kinh tế là nhân tố có quyền số cao nhất 44%, các nhân tố chính sách kinh tế, thanh khoản và chính trị có quyền số lần lượt là 35%, 15%, và 6% 1.4.2 Những tồn tại của các hệ thống xếp hạng rủi ro quốc gia hiện nay: Mục đích của xếp hạng là cô đọng sự đa dạng thông tin về một quốc gia vào một thông số đơn nhất mà có thể hiểu được một cách dễ dàng, do đó được sử dụng một cách tiện lợi trong quá trình ra quyết định liên quan đến việc so sánh giữa các quốc gia khác nhau. Tuy nhiên, việc tập hợp các chỉ tiêu đa dạng và không đồng nhất (tính ổn định về chính trị, lạm phát…) đã làm cho việc giải thích hạng mức rủi ro quốc gia trở nên phức tạp, dẫn đến một số điểm phê phán sau. - Tính dễ hiểu: xếp hạng rủi ro quốc gia được phát hành bởi các cơ quan xếp hạng khác nhau mà nội dung thực sự và ý nghĩa của hạng mức này là không được giải thích và khó hiểu. Điều này được minh chứng bởi sự bất mãn của thủ tướng Nhật Junichiro Koizumi về việc Nhật bị xếp hạng cùng mức với các quốc gia châu Phi (Botswana) mà đang được Nhật giúp đỡ. Các quan chức Bộ tài chính Nhật thêm vào rằng các cơ quan xếp hạng đã có những đánh giá định tính Trang: 15 Chương I: Quan niệm về rủi ro quốc gia không công bằng, trong khi Moody's phủ nhận và xác nhận rằng những lý do cho việc hạ thấp mức tín nhiệm là do "gánh nặng nợ tăng thêm" của Nhật. - Các nhân tố không xác định: thông thường việc xếp hạng đạt được bằng cách tổng hợp các biến số kinh tế, tài chính và chính trị. Một cách rõ hơn, mục tiêu chính của bất kỳ hệ thống xếp hạng rủi ro quốc gia là thể hiện tính tin cậy của các quốc gia, nghĩa là năng lực để thanh toán các khoản vay. Tuy nhiên, thật không rõ ràng để biết được nhân tố nào trong nhiều nhân tố khả thi ảnh hưởng thực sự đến năng lực hoàn trả của một quốc gia. Haque (1998) tuyên bố rằng phạm vi phân tích chỉ giới hạn ở các nhân tố kinh tế và tài chính, trong khi những người khác (Brewer và Rivoli, 1990) cho rằng cả nhân tố kinh tế, tài chính và chính trị ảnh hưởng đến xếp hạng rủi ro quốc gia. - Những thất bại trong việc xếp hạng: một vài thất bại gần đây đã thách thức sự tin tưởng đối với việc xếp hạng rủi ro quốc gia. Những phê phán nhắm vào các định chế xếp hạng đã trở nên đặc biệt dữ dội sau cuộc khủng hoảng châu Á và Mexico. Thực vậy, cuộc khủng hoảng ở Mexico (1994-1995) đã không được đến trước bởi một sự sụt giảm hạng mức tín nhiệm, nghĩa là khủng hoảng đã không được dự báo. Tương tự là cuộc khủng hoảng châu Á 1997-1999. Mặt khác, các cơ quan xếp hạng đã sáng suốt trong việc đoán trước các cuộc khủng hoảng ở Nga (1998), Brazil (1998), và Argentina (2001). - Khuynh hướng khu vực: các giải thích khác nhau đã được cung cấp cho thất bại của các cơ quan xếp hạng trong việc báo hiệu tình trạng khủng hoảng trong các quốc gia khác nhau. Có những xác nhận rằng một cơ quan xếp hạng ưu đãi, thiên vị một vài khu vực. Chẳng hạn, Haque (1997) lưu ý rằng Euromoney thường xếp hạng cao hơn đối với các quốc gia châu Á và châu Au so với các quốc gia Mỹ Latin và Caribê, trong khi Institutional Investors thì thường rộng rãi hơn đối với các quốc gia châu Á và châu Au so với các quốc gia châu Phi. - Sự chậm trễ: một tồn tại của hệ thống xếp hạng là thời gian để phản ứng đối với các sự kiện mới. Theo tờ "The Economist" (1/8/1998), các cơ quan xếp hạng có vẻ chậm chạp trong việc hạ thấp hạng mức tín nhiệm của Nhật. Thị trường đã di chuyển trước các cơ quan này. - Sự phản ứng thái quá: Quỹ tiền tệ quốc tế IMF chỉ trích các cơ quan xếp hạng rằng họ đã phản ứng trong hoảng loạn suốt cuộc khủng hoảng châu Á. Sau khi thất bại trong việc dự báo cuộc khủng hoảng châu Á, các cơ quan xếp hạng Trang: 16 Chương I: Quan niệm về rủi ro quốc gia phản ứng lại bằng cách hạ mức tín nhiệm một cách cay nghiệt đối với các quốc gia như Thái Lan hay Hàn Quốc, do đó làm tăng thêm sự rút vốn. Trong tình huống này, các cơ quan xếp hạng đem lại một cảm giác của sự phản ứng thái quá thay vì là một sức mạnh để tạo sự ổn định. Hình như tính khách quan và tính tin cậy của xếp hạng rủi ro quốc gia là đáng ngờ, chủ yếu bởi vì sự can thiệp cảm tính và mâu thuẫn trong mục tiêu và quyền lợi. - Tác động bất lợi của những thay đổi hạng mức tín nhiệm: có một sự lưỡng lự hay miễn cưỡng của các nhà xếp hạng khi hạ mức tín nhiệm của một quốc gia. Sự miễn cưỡng này xuất phát từ sự thật rằng một công bố hạ mức tín nhiệm có thể dồn một quốc gia vào khủng hoảng. Trong suốt cuộc khủng hoảng châu Á, các cơ quan xếp hạng đã tạo nên sự bất mãn của thủ tướng Malaysia, tiến sĩ Mahathir bin Mohamad, người lên án và buộc tội họ với việc đưa cuộc khủng hoảng thêm phần trầm trọng. "Các cơ quan xếp hạng, khi chúng ta cần vay tiền thì ngay lập tức họ hạ mức tín nhiệm, vì thế làm cho chi phí vay mượn đến 15%. Họ hoàn toàn chấm dứt việc vay mượn của chúng ta", thủ tướng Malaysia đã phát biểu (1999). Reisen và Von Maltzan (1999) tuyên bố rằng một sự hạ thấp mức tín nhiệm thình lình sẽ cản trở các ngân hàng thương mại phát hành thư tín dụng và buộc các nhà đầu tư trút gánh nặng vào tài sản châu Á để duy trì danh mục đầu tư ở cấp độ đầu tư. Họ cho rằng các cơ quan xếp hạng luôn chậm chễ phía sau khi lường trước tình trạng của thị trường tài chính nên khi hạ thấp mức tín nhiệm họ làm tăng thêm dòng vốn ra và khủng hoảng. - Các xung đột về lợi ích: các cơ quan xếp hạng đã bắt đầu thu phí đối với các quốc gia được xếp hạng. Vì vậy có thể hoài nghi về việc miễn cưỡng hạ thấp mức tín nhiệm của các quốc gia này (bởi vì khả năng gây giảm sút nguồn thu của các cơ quan xếp hạng). Chảng hạn, điều này được tuyên bố bởi Tom McGuire, trợ lý phó chủ tịch Moody's, rằng "áp lực từ phí chi trả của nhà phát hành (người được xếp hạng) cho mức xếp hạng cao luôn trong một sự cân bằng mỏng manh với nhu cầu của cơ quan xếp hạng giữ được sự tín nhiệm trong các nhà đầu tư". Sự cần thiết phải làm hài lòng những người chi trả cho việc xếp hạng, nhà đầu tư cũng như nhà phát hành, dẫn tới việc Robert Grossman, giám đốc tín dụng của cơ quan xếp hạng Fitch, gọi là "một khuynh hướng được thực hiện đối với nhà đầu tư - các uỷ ban xếp hạng, viễn cảnh,hội nghị, sau đó là thông cáo báo chí - tất cả để làm mềm lòng tai họa của việc thay đổi xếp hạng". Trang: 17 Chương I: Quan niệm về rủi ro quốc gia Nghiên cứu việc chuyển tiếp xếp hạng, Altman và Saunders (1998) cho rằng một sự hạ thấp mức tín nhiệm của một quốc gia thông thường được tiếp nối theo sau bởi những điều chỉnh đi xuống thêm nữa. Giả thích được đưa ra là các cơ quan xếp hạng dần dần hạ mức xếp hạng của một quốc gia vì họ không muốn làm tổn thương quốc gia đó, vì quốc gia này cũng là khách hàng của họ. Kunczik (2001) chỉ ra rằng IMF (1999) lo sợ mối nguy hiểm "các nhà phát hành và các trung gian có thể bị khuyến khích thu hút vào quá trình tranh đua xếp hạng - một quá trình mà nhà phát hành tìm kiếm cho việc xếp hạng với chi phí thấp nhất và điều kiện đòi hỏi ít nhất. KẾT LUẬN CHƯƠNG 1 Rủi ro quốc gia là các nhân tố trong một quốc gia tác động đến quá trình đầu tư của nhà đầu tư nước ngoài. Trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay, sự chu chuyển vốn quốc tế diễn ra mạnh mẽ. Vì thế rủi ro quốc gia trở thành một vấn đề cần phải được xem xét tại các quốc gia, nhất là các quốc gia đang phát triển như Việt Nam. Các phân loại rủi ro quốc gia cũng giúp chúng ta hiểu ro bản chất và sự tác động của các nhân tố vĩ mô. Thêm vào đó, những hiểu biết về xếp hạng rủi ro quốc gia sẽ giúp kiểm soát được những tác động bất lợi do việc xếp hạng mang lại. Tuy nhiên, các xếp hạng rủi ro quốc gia chủ yếu mang tính chất trình bày thông tin tóm gọn về rủi ro quốc gia chứ chưa mang tính phân tích rủi ro quốc gia và đôi khi việc xếp hạng phụ thuộc quá nhiều vào cơ quan xếp hạng. Do đó, một phương pháp có thể sử dụng để đánh giá rủi ro quốc gia là beta quốc gia mà nền tảng được dựa trên mô hình định giá tài sản vốn quen thuộc trong lĩnh vực đầu tư. Đề tài sẽ trình bày việc sử dụng mô hình này trong chương 3. Trang: 18 Chương II: Tình hình kinh tế Việt Nam dưới góc độ rủi ro quốc gia CHƯƠNG II: TÌNH HÌNH KINH TẾ VIỆT NAM DƯỚI GÓC ĐỘ RỦI RO QUỐC GIA Trong thập niên vừa qua, kinh tế Việt Nam đã có những bước phát triển nổi bật, trở thành một địa điểm đáng ý trên bản đồ kinh tế khu vực châu Á. Sau đây, chúng ta sẽ nhận xét về một số thành quả đáng chú ý về kinh tế - xã hội Việt Nam đạt được trong thời gian qua dưới góc độ nhận định rủi ro quốc gia. 2.1 Nhận định về rủi ro kinh tế: 2.1.1 Tăng trưởng kinh tế: Tăng trưởng kinh tế của Việt Nam trong những năm vừa qua rất ấn tượng. GDP tăng trưởng bình quân trên 7%/năm, đứng thứ 2 về tốc độ tăng trưởng chỉ sau Trung Quốc. Chẳng hạn, nền kinh tế đã phát triển 8% trong năm 2006 (so với ước tính của chính phủ là 8,2%), cao hơn xu hướng tăng trưởng trong 5 năm trước đó. Đồ thị 2.1: Tăng trưởng GDP từ 2002 đến 2008 Nguồn: Asian Development Outlook 2007 (số liệu 2008 là dự báo) Cầu lớn đối với xuất khẩu hàng hóa, dầu thô, và hàng sản xuất. Đầu tư tư nhân và tiêu dùng cá nhân được ghi nhận ở mức tăng cao. Tăng trưởng trong tiêu dùng cá nhân có được là nhờ sự gia tăng thu nhập và lượng kiều hối khoảng 4 tỷ USD. Doanh thu bán lẻ hàng hóa dịch vụ cũng tăng 20% trong năm 2006 (tức khoảng 13% sau khi điều chỉnh cho lạm phát, đồ thị 2.2). Trang: 19 Chương II: Tình hình kinh tế Việt Nam dưới góc độ rủi ro quốc gia Đồ thị 2.2: Tăng trưởng doanh thu bán lẻ hàng hóa, dịch vụ Nguồn: Asian Development Outlook 2007 Mức độ đầu tư vẫn duy trì ở mức cao vào khoảng 39,4% GDP trong năm 2006. Đầu tư tư nhân được khuyến khích bởi việc đơn giản hóa thủ tục hành chính trong lĩnh vực kinh doanh và hướng tới đối xử công bằng giữa các doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp tư nhân, giữa doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp nước ngoài. Khu vực tư nhân trong nước ghi nhận khoảng 33,6% tổng mức đầu tư trong năm 2006 (đồ thị 2.3). Tỷ lệ này tăng nhanh chóng từ mức 22,6% trong 5 năm trước. Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) cam kết tăng đến 10,2 tỷ USD trong năm 2006, mức cao nhất kể từ khi mở cửa nền kinh tế. Với mức tăng trưởng cao hơn so với năm trước, nền kinh tế đã đạt được 7,9% tăng trưởng trong nữa đầu năm 2007 với gần như là từ công nghiệp (3,9%) và dịch vụ (3,4%) giá trị sản xuất. Giá trị sản xuất công nghiệp tư nhân gia tăng 20,5%, lớn hơn gấp đôi so với các doanh nghiệp quốc doanh. Ngành công nghiệp chế tạo tăng 12,3%, ngành công nghiệp khai thác chỉ ở mức 7,4% do sự thu nhỏ sản lượng dầu thô vì lượng khai thác tại mỏ Bạch Hổ, mỏ dầu lớn nhất Việt Nam giảm xuống. Trong lĩnh vực dịch vụ, thương mại và tài chính tăng trưởng 10,4% và khách sạn - nhà hàng, đang được lợi từ lượng khách du lịch gia tăng, đã tăng 12,7%. Trang: 20 Chương II: Tình hình kinh tế Việt Nam dưới góc độ rủi ro quốc gia Đồ thị 2.3: Đóng góp của từng khu vực trong tổng đầu tư Nguồn: Asian Development Outlook 2006 Trong lĩnh vực sản xuất, khu vực công nghiệp và dịch vụ đóng góp hơn 90% tổng tăng trưởng GDP trong năm 2006 (đồ thị 2.4). Công nghiệp phát triển 10,4%, hơi thấp so với tốc độ năm trước. Ngành chế tạo và dịch vụ công nghiệp duy trì mức tăng trưởng cao (12,4% và 11,6%, bảng số liệu 2.1). Nhưng ngành khai thác mỏ tăng trưởng thấp bởi vì sự sụt giảm khối lượng sản xuất dầu thô từ 18,5 triệu tấn trong năm 2005 xuống 17 triệu tấn trong năm 2006. Các kế hoạch phát triển các mỏ dầu mới trong những năm tới được hy vọng sẽ nâng mức khối lượng khai thác lên. Đồ thị 2.4: Đóng góp của từng lĩnh vực vào tăng trưởng GDP Nguồn: Asian Development Outlook 2006 và 2007 Lĩnh vực dịch vụ, thương mại, vận tải, viễn thông và tài chính, tăng trưởng khoảng 8,2% (bảng số liệu 2.1). Nhu cầu tăng cao của điện thoại di động đã giúp gia tăng sự tăng trưởng. Với doanh thu tăng nhanh, số điện thoại trên mỗi 100 người tăng lên Trang: 21 Chương II: Tình hình kinh tế Việt Nam dưới góc độ rủi ro quốc gia khoảng 31 trong 2006 so với 19 trong năm 2005, và được kỳ vọng đạt tới mức 50 vào cuối 2009. Bảng 2.1: Tăng trưởng dịch vụ và công nghiệp chi tiết từng lĩnh vực 2002 2003 2004 2005 2006 Dịch vụ 6.5 6.5 7.3 8.5 8.3 Thương mại 7.3 6.8 7.8 8.4 8.5 Khách sạn, nhà hàng 7.1 5.1 8.1 17.0 12.4 Vận tải, viễn thông, du lịch 7.1 5.5 8.1 9.6 10.1 Dịch vụ tài chính 7.0 8.0 8.1 9.4 8.2 Dịch vụ khác 5.5 6.4 6.2 6.4 6.5 Công nghiệp 9.17 10.45 10.55 10.60 10.19 Khai thác 1.10 6.26 8.86 0.92 0.89 Sản xuất chế tạo 11.60 11.53 10.86 13.14 12.38 Điện, gas, nước 11.42 11.91 11.97 12.24 11.56 Xây dựng 10.57 10.58 9.03 10.81 11.11 Nguồn: Asian Development Outlook 2006 Sản xuất nông nghiệp tăng 2,9% trong 2006, dưới mức trung bình trong những năm vừa qua do lũ lụt và bão. Lượng gạo giảm, phần nào do sự sụt giảm diện tích canh tác. Đất nông nghiệp đang bị chuyển đổi thành khu công nghiệp, thể hiện sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế: tỷ trọng nông nghiệp trong GDP giảm xuống còn 20,4% trong năm 2006 so với 24,5% trong năm 2000. Sản lượng trà, cà phê và cao su tăng nhanh do giá xuất khẩu cao. Nhu cầu bên ngoài cao cũng là nền tảng cho ngành thủy sản. Nông nghiệp năm 2007, bị tác động bởi hạn hán, cúm gia cầm, và các bệnh dịch khác, đã có thành quả kém trong nửa đầu năm nay, và chỉ đóng góp 0,5% vào tổng tăng trưởng. Lĩnh vực này tuy nhiên vẫn sử dụng khoảng 55% tổng lao động. Như vậy, nhìn vào cơ cấu tăng trưởng kinh tế được phân tích ở trên, chúng ta thấy rằng nền kinh tế Việt Nam đang được phát triển theo hướng công nghiệp hóa – hiện đại hóa đã được đề ra trong mục tiêu phát triển. Tuy nhiên cũng cần quan tâm đến việc hơn 50% lực lượng lao động lại dang làm việc trong lĩnh vực nông nghiệp. Trang: 22 Chương II: Tình hình kinh tế Việt Nam dưới góc độ rủi ro quốc gia 2.1.2 Lạm phát Giai đoạn 2000 và 2001 nền kinh tế Việt Nam ở trong tình trạng giảm phát nhưng trong những năm sau đó thì chỉ số CPI tăng lên rất nhanh. Năm 2005 thì đã tăng bằng tốc độ tăng GDP và chỉ trong 11 tháng đầu của năm 2007 chỉ số CPI đã tăng 9.45% so với tháng 12/2006. Một mức tăng cao kỉ lục trong vòng 5 năm trở lại đây. Sự tăng giá lương thực là một nguyên nhân, gia tăng giá xăng dầu trong nước và chi phí vận chuyển cũng là các nguyên nhân gây ra tình trạng này. Đối với người sử dụng lao động, tăng trưởng nhanh chóng trong nhu cầu đối với nhân công và chuyên gia đã đẩy chi phí tiền lương lên. Mức lương tối thiểu đã tăng lên 30% trong tháng 10/2006. Giá xăng dầu tăng trong tháng 4 và tháng 8 năm 2006, khoảng 18,5%, và sau đó giảm 2 lần khoảng 12,5%. Để kiềm chế lạm phát, Ngân hàng nhà nước đã thiết lập mục tiêu tăng trưởng tín dụng là 20% trong năm 2006, so với mức tăng trưởng nhanh trong năm 2005 là 40% (tuy nhiên mức tăng trưởng tín dụng thực sự là khoảng 24% trong năm 2006, đồ thị 2.8). Tỷ lệ tăng trưởng tín dụng thấp hơn trong năm 2006 đã góp phần làm việc cho vay thận trọng hơn của các ngân hàng thuộc sở hữu nhà nước đang theo các tiêu chuẩn an toàn mới. Đồ thị 2.5: Lạm phát từ 2002 – 2007 Nguồn: Asian Development Outlook 2007 Có 3 nguyên nhân chính dẫn đến mức lạm phát cao kỉ lục của năm 2007: Thứ nhất, tình trạng dịch bệnh gia súc, gia cầm và vàng lùn (lúa) nghiêm trọng, cộng với thời tiết không thuận lợi, trong khi việc nhập khẩu các mặt hàng này bị hạn chế, đã làm giảm mạnh nguồn cung lương thực, thực phẩm, đẩy giá lương thực thực phẩm tăng cao. Giá một số hàng hóa đầu vào cơ bản trên thế giới tăng mạnh, đặc biệt là giá xăng dầu, phôi thép, than đá, cà phê hạt v.v. Trang: 23 Chương II: Tình hình kinh tế Việt Nam dưới góc độ rủi ro quốc gia Thứ hai, tốc độ tăng trưởng kinh tế cao làm tăng khối lượng nhập khẩu các loại sản phẩm đầu vào cơ bản. Cụ thể là, trong tổng mức tăng nhập khẩu 12 loại nguyên liệu chủ yếu (gồm xăng dầu, phân bón, chất dẻo nguyên liệu, cao su, sắt thép, phôi thép và kim loại thường khác, giấy và bột giấy, bông và sợi, lúa mì là những mặt hàng có đủ số liệu thống kê về khối lượng và giá trị) năm 2004 là 3,277 tỷ USD và 48,75%, thì chỉ có vỏn vẹn 823 triệu USD và 12,24% là do tăng khối lượng, còn lại 2,454 tỷ USD và 36,51% là do sốt nóng giá cả thế giới khuyếch đại lên. Tương tự với các năm 2005, 2006, và 8 tháng 2007. Thứ ba, sự tăng trưởng nhanh chóng của cả hai dòng tiền từ bên ngoài là kiều hối và đầu tư nước ngoài. Kết quả là, để giữ cho đồng Việt Nam không lên giá quá nhanh, NHNN Việt Nam đã mua vào trong sáu tháng đầu năm 2007 khoảng hơn 7 tỷ USD (14% GDP). Chính sách này đã làm tăng mạnh lượng tiền đồng được đưa vào lưu thông. Điều này đuợc coi là nguyên nhân hàng đầu gây nên tình trạng lạm phát hiện nay. Đồ thị 2.6: Chỉ số giá tiêu dùng biến động theo tháng Nguồn: Asian Development Outlook 2007 Mặc dù đang được đánh giá là một trong những quốc gia có tốc độ tăng trưởng cao và ổn định trong khu vực Châu Á, song nhìn nhận một cách khách quan thì Việt Nam vẫn phải đối phó với một số mặt yếu kém căn bản và những tồn tại lớn: • Chi phí sản xuất hàng hóa và dịch vụ vẫn ở mức cao, làm giảm khả năng cạnh tranh của nền kinh tế. Nguyên nhân là do trình độ thiết bị, công nghệ kỹ thuật thấp, tỷ trọng nhập khẩu nguyên vật liệu còn khá cao, năng lực quản lý vốn và tài sản quốc gia chưa kiểm soát chặt chẽ đã gây nên thất thóat lam tăng chi phí sản xuất. Trang: 24 Chương II: Tình hình kinh tế Việt Nam dưới góc độ rủi ro quốc gia • Đầu tư kém hiệu quả do cơ cấu chưa phù hợp và chuyển dịch chậm, do yếu kém trong quản lý đầu tư và xây dựng, có phân cấp quản lý vốn đầu tư chưa đi đôi với kiểm tra, kiểm soát, chế tài v.v. • Việt Nam còn yếu ở khâu chỉ đạo thực hiện với những cơ chế, chính sách chậm đi vào cuộc sống và không đồng bộ, đội ngũ cán bộ chưa đáp ứng được đòi hỏi của tình hình hiện nay. Nhìn chung, tăng trưởng kinh tế Việt Nam đã và đang có tốc độ rất cao, được đánh giá là có những bước tiến ngoạn mục. Tuy nhiên, lạm phát cao luôn là một mối đe dọa tính ổn định và bền vững của phát triển kinh tế, nó cũng là một thách thức cho các cơ quan điều hành kinh tế vĩ mô trong việc hoạch định cách chính sách kinh tế sao cho vừa thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, tiếp tục đẩy nhanh quá trình tự do hóa tài chính mà vẫn đảm bảo ổn định và tăng cường phúc lợi xã hội. 2.1.3 Thu chi ngân sách nhà nước và chính sách tài khóa Với mục tiêu cân đối ngân sách một cách tích cực, theo hướng ổn định về mặt chính sách thu chi, giữ bội chi ở mức hợp lý, tăng dần dự trữ, đảm bảo ổn định kinh tế vĩ mô và phù hợp với lộ trình hội nhập quốc tế, dự kiến tổng thu ngân sách trong 5 năm 2006 – 2010 đạt khoảng 1.437 nghìn tỷ đồng, bằng 193% tổng thu ngân sách 5 năm 2001 – 2005 và bằng khoảng 23% GDP. Tốc độ tăng thu ngân sách bình quân hàng năm đạt 12,9%. Cơ cấu thu hút dự kiến sẽ chuyển dịch theo hướng tỷ trọng các nguồn thu nội địa tăng lên và tỷ trọng thu hút từ dầu thô và hoạt động xuất nhập khẩu giảm xuống. Dự kiến đến năm 2010, tỷ trọng thu nội địa trong tổng thu ngân sách đạt 58,3%, trung bình 5 năm đạt 56,6% (bình quân 5 năm 2001 – 2005 là 52,2%). Tỷ trọng thu hút từ dầu thô đạt 25,1% vào năm 2010, trung bình 5 năm đạt 25,1% (bình quân 5 năm 2001 – 2005 là 24,2%). Tỷ trọng thu từ xuất nhập khẩu giảm xuống còn 16,0% vào năm 2010, trung bình 5 năm đạt 17,6% (bình quân 5 năm 2001 – 2005 là 22,1%). Mặc dù năm 2006 là năm Hiệp định về thuế quan ưu đãi có hiệu lực chung để xây dựng Khu vực mậu dịch tự do ASEAN (CEPT/AFTA). Theo đó Việt Nam phải tiến hành giảm thuế theo lộ trình đã cam kết đối với hàng loạt mặt hàng ảnh hưởng không nhỏ đến nguồn thu từ thuế xuất nhập khẩu nhưng trong năm 2006, thu ngân sách nhà nước (NSNN) vẫn đạt 260,642 nghìn tỷ đồng tăng 10,6% so với năm 2005 và đã hoàn thành vượt mức dự toán 10,72%. Bên cạnh đó, tỷ lệ động viên vào NSNN bình quân từ năm 2003-2006 cũng đạt trên 25% GDP. Điều đó chứng tỏ cơ cấu thu NSNN đã có những bước chuyển biến ._. là sự ổn định của chính phủ. Nhân tố này nhằm nắm bắt quy mô mà chính phủ có thể tiến hành các chính sách cũng như khả năng tại vị của nội các. • Thành phần thứ hai là các điều kiện kinh tế – xã hội đánh giá các áp lực kinh tế – xã hội mà có thể chế ngự hành động của chính phủ hay gây ra bất mãn trong xã hội. • Thành phần thứ ba, tiểu sử đầu tư, đánh giá các nhân tố tác động đến rủi ro cho đầu tư mà không bao gồm các thành phần khác của rủi ro chính trị, rủi ro kinh tế và rủi ro tài chính. • Các xung đột bên trong và bên ngoài là một thành phần tác động đến khả năng điều hành của chính phủ. • Tham nhũng, hối lộ đe dọa đến việc đầu tư thông qua khả năng làm bóp méo môi trường kinh tế và tài chính, làm giảm hiệu quả của chính phủ, hiệu quả kinh doanh. • Anh hưởng của quân đội cũng như tôn giáo đối với chính trị là hai nhân tố có thể đóng góp vào việc làm giảm bớt tính dân chủ. • Luật pháp và khả năng thực thi pháp luật đánh giá sức mạnh và tính công bằng của hệ thống pháp luật cũng như sự tuân thủ của quần chúng đối với pháp luật. • Sự căng thẳng dân tộc là một thành phần nhằm đánh giá mức độ căng thẳng đó bên trong một quốc gia mà có thể là sự chia rẽ chủng tộc, quốc tịch hay ngôn ngữ. Trang: ii • Cuối cùng, mức độ dân chủ và mức độ quan liêu đánh giá sự đáp ứng chính phủ và chất lượng của bộ máy công quyền. Giá trị cao nhất của rủi ro chính trị tổng hợp là 100. Xếp hạng rủi ro kinh tế hướng tới việc cung cấp một phương tiện đánh giá điểm mạnh, điểm yếu hiện thời của nền kinh tế một quốc gia, bao gồm năm thành phần chuẩn được sử dụng rộng rãi bởi hầu hết các cơ quan xếp hạng rủi ro. Các nhân tố này là : GDP trên đầu người, tỷ lệ tăng trưởng GDP thực, tỷ lệ lạm phát năm, % cán cân ngân sách trên GDP, % tài khoản vãng lai trên GDP. Giá trị cao nhất của hạng mức rủi ro kinh tế là 50. Xếp hạng rủi ro tài chính cung cấp phương tiện đánh giá năng lực của một quốc gia để đáp ứng cho các nghĩa vụ nợ chính thức, thương mại và mậu dịch. Rủi ro tài chính gồm : % nợ nước ngoài trên GDP, % tài khoản vãng lai trên xuất khẩu, dự trữ quốc tế ròng tính hằng tháng nhập khẩu, và tính ổn định của tỷ giá hối đoái. Giá trị cao nhất của hạng mức rủi ro tài chính là 50.  Xếp hạng rủi ro quốc gia tổng hợp : Hạng mức rủi ro tổng hợp từ rủi ro chính trị, rủi ro kinh tế và rủi ro tài chính được tính toán bằng cách sử dụng công thức : CR = 0,5 x ( PR + FR + ER ) Với CR ( composite risk ) : tổng hạng mức rủi ro tổng hợp PR ( political risk ) : tổng hạng mức rủi ro chính trị FR ( financial risk ) : tổng hạng mức rủi ro tài chính ER ( economic risk ) : tổng hạng mức rủi ro kinh tế Giá trị xếp hạng cao nhất là 100 điểm và thấp nhất là 0 điểm. Hạng mức rủi ro tổng hợp cao thể hiện rủi ro thấp và hạng mức thấp thể hiện rủi ro cao. Bảng các loại rủi ro và bộ phận cấu thành : XẾP HẠNG RỦI RO CHÍNH TRỊ XẾP HẠNG RỦI RO KINH TẾ XẾP HẠNG RỦI RO TÀI CHÍNH Mức tối đa Mức tối đa Mức tối đa Sự ổn định của chính phủ 12 GDP trên đầu người (tính theo mức trung bình) 5 Nợ nước ngoài (% của GDP) 10 Sự thống nhất trong chính 4 Trang: iii phủ Sức mạnh của cơ quan lập pháp 4 Sự ủng hộ của công chúng 4 Điều kiện kinh tế – xã hội 12 Tỷ lệ tăng trưởng thực 10 Dịch vụ nợ (% trên xuất khẩu) 10 Thất nghiệp 4 Niềm tin tiêu dùng 4 Sự nghèo đói 4 Tiểu sử đầu tư 12 Tỷ lệ lạm phát 10 Tài khoản vãng lai (% trên xuất khẩu) 15 Khả năng kéo dài của hợp đồng 4 Chuyển lợi nhuận về nước 4 Trì hoãn thanh toán 4 Xung đột nội bộ 12 Cán cân ngân sách (% trên GDP) 10 Dự trữ chính thức (tính theo tháng nhập khẩu) 5 Nội chiến 4 Xung đột chính trị, khủng bố 4 Mất ổn định nội bộ 4 Xung đột bên ngoài 12 Cán cân vãng lai (% trên GDP) 15 Tính ổn định của tỷ giá hối đoái 10 Chiến tranh 4 Xung đột biên giới 4 Ap lực nước ngoài 4 Tham nhũng, hối lộ 6 Anh hưởng của quân đội 6 Trang: iv Anh hưởng của tôn giáo 6 Luật pháp 6 Căng thẳng tôn giáo 6 Mức dân chủ hóa 6 Chất lượng bộ máy chính phủ 4 Tổng 100 50 50 Bảng phạm vi thể hiện rủi ro Rủi ro chính trị Rủi ro kinh tế Rủi ro tài chính Rủi ro rất cao Rủi ro cao Rủi ro trung bình Rủi ro thấp Rủi ro rất thấp 0-49.9 50-59.9 60-69.9 70-79.9 80-100 0-24.9 25-29.9 30-34.9 35-39.9 40-50 0-24.9 25-29.9 30-34.9 35-39.9 40-50 Trang: v PHỤ LỤC 2 PHÂN TÍCH RỦI RO QUỐC GIA THEO MÔ HÌNH ICRG Trên cơ sở phân tích rủi ro quốc gia trong các cuộc khủng hoảng, xin trình bày ba trường hợp nghiên cứu rủi ro quốc gia Brazil, Argentina và Peru thông qua mô hình ICRG. Chúng ta nghiên cứu như sau : đầu tiên là khủng hoảng tỷ giá hối đoái và sau đó là sự phá giá đồng real vào tháng 1/1999. Thứ hai, ta nghiên cứu khủng hoảng nợ và chính trị ở Argentina vào tháng 12/2001. Đây là một sự suy sụp kinh tế bắt nguồn từ mô hình kinh tế cứng nhắc của “ Luật chuyển đổi “ năm 1991. Thứ ba, khủng hoảng chính trị ở Peru gây ra bởi cuộc bầu cử tháng 4/2000, khi tổng thống Alberto Fujimori ganh đua cho nhiệm kỳ thứ ba. • “ Vũ điệu Samba” của Brazil : Kể từ khi tại chức vào năm 1995, tổng thống Fernando Henrique Cardoso bắt đầu cải cách nền kinh tế Brazil. Kế hoạch đồng real được đưa ra vào năm 1994 tỏ ra thành công một cách nhanh chóng sau khi ông được bổ nhiệm làm bộ trưởng tài chính, hướng tới việc cắt giảm lạm phát và đẩy mạnh thu nhập. Tuy nhiên, kế hoạch cải tổ khu vực công và hệ thống thuế, an sinh xã hội mà rất cần thiết cho việc hồi phục cán cân tài khóa và cải thiện khả năng cạnh tranh ngành công nghiệp, đã vấp phải sự chống đối mạnh mẽ ở Quốc hội. Thiếu đi sự cải tổ tài khóa đã đẩy Brazil trở nên nhạy cảm đối với các ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính Đông Á năm 1997 và tiếp sau là khủng hoảng ở Nga năm 1998. Do đó, khi lãi suất tăng lên đột ngột vào tháng 9/1998 để bảo vệ cho tỷ giá hối đoái thì nền kinh tế Brazil đi vào suy thoái. Một thoả thuận với Quỹ tiền tệ quốc tế ( IMF ) vào tháng 11/1998 đã giúp làm nhẹ bớt một vài áp lực tài chính. Tuy nhiên, một vụ bê bối tham nhũng vào tháng 11/1998 liên quan đến ba nhân vật thân cận với tổng thống trong chính phủ đã làm tăng thêm những căng thẳng chính trị và hơn nữa làm yếu kém thêm khả năng của chính phủ trong việc thực thi các chính sách. Sự bác bỏ của cơ quan lập pháp đối với một trong những biện pháp chủ yếu của chương trình hỗ trợ trọn gói của IMF một lần nữa đã tạo nên sự náo loạn trên thị trường. Một phần hậu quả cuối cùng là công bố hoãn trả nợ của Minas Gerais vào tháng 1/1999. Các cố gắng của ngân hàng trung ương Brazil để chống đỡ áp lực trên tiền tệ đã thất bại, và đồng real cuối cùng đã được cho thả nổi tự do từ ngày 15/1/1999. Mặc dù thất nghiệp tăng và tiền lương thực giảm đã làm suy yếu chính phủ Cardoso và gây ra sự sụt giảm trong niềm tin đối với tổng thống, những nỗi lo gia tăng lạm Trang: vi phát và suy thoái kinh tế sâu sắc là không có cơ sở. Hơn nữa, một vài biện pháp còn lại của gói hỗ trợ tài chính của IMF đã được thực hiện trong suốt nửa đầu năm 1999, và chính sách tài khóa khắc khổ kết hợp với chính sách tiền tệ thận trọng đã giúp ổn định nền kinh tế và kiềm chế lạm phát. Luật “ trách nhiệm tài chính “ năm 1998 cũng giúp ổn định tài chính công của hệ thống tài chính phân quyền. Cuộc suy thoái chỉ kéo dài trong chín tháng và sự phục hồi sản lượng đã bắt đầu trong quý 4 năm 1999. Như đã chứng tỏ trong hình, hạng mức rủi ro tổng hợp của Brazil giảm thình lình vào cuối năm 1998 và thể hiện rủi ro cao vào đầu 1999. Hạng mức này trở lại mức rủi ro trung bình vào cuối năm 1999, thể hiện sự cải thiện trong rủi ro tổng hợp. Tuy nhiên, hình như một cảnh báo về rủi ro cao lại xuất hiện vào đầu năm 1999 có thể không là một chỉ số đầy đủ về các thách thức phía trước. Hạng mức rủi ro tổng hợp của Brazil đi xuống dưới 60 điểm ( dưới mức này, rủi ro được cho là cao ) trong một thời gian ngắn năm 1999 so với mức 75 điểm mà Brazil đã từng đạt được vào cuối năm 1998. Cuộc khủng hoảng Brazil chủ yếu là một cuộc khủng hoảng tài chính, và thực vậy mức xếo hạng rủi ro tài chính đã sụt giảm trầm trọng, rơi từ một mức rủi ro thấp xuống một mức rủi ro rất cao chỉ trong một vài tháng khoảng giữa cuối năm 1998 và đầu năm 1999. Mức xếp hạng rủi ro kinh tế cũng bắt đầu sụt giảm đột ngột cuối năm 1998 cho đến đầu năm 1999. Trong trường hợp của hạng mức rủi ro kinh tế và rủi ro tài chính, mức 30 trong đồ thị chỉ ra rằng dưới mức này rủi ro là cao. Dưới mức 25, rủi ro là rất cao và trên 35, rủi ro được cho là thấp. nhìn vào các thành phần của xếp hạng rủi ro tài chính, một số các chỉ tiêu thể hiện sự yếu kém tiềm tàng. Chẳng hạn, với áp lực tăng lên của đồng real xuất phát từ nhận thức đồng real đang bị đánh giá cao, cán cân thương mại của Brazil bị tổn thất và khi chính phủ cố gắng chống đỡ cho tỷ giá hối đoái cố định thì cuối cùng dự trữ quốc tế mất đi. Thâm hụt tài khoản vãng lai tăng lên nhưng sau đó bắt đầu giảm bớt sau khi phá giá đồng real vào tháng 1/1999. Mức xếp hạng rủi ro chính trị có sụt giảm đôi chút vào lúc bắt đầu khủng hoảng nhưng vẫn ở mức rủi ro vừa phải. Xem xét các thành phần khác nhau của xếp hạng rủi ro chính trị, sự ổn định của chính trị sụt giảm một chút ( chỉ mức độ rủi ro cao hơn ) vào đầu năm 1999, nhưng sau đó giữ vững cho đến năm 2000. Chỉ tiêu về điều kiện kinh tế – xã hội sụt giảm vào tháng 12/1998 xuống mức rủi ro cao và duy trì cho đến 2001. Nói chung, có vẻ như mô hình ICRG đã cho cảnh báo chính xác và tương đối đúng lúc về khủng hoảng và phản ánh bản chất tài chính của cuộc khủng hoảng đó. Trang: vii “ Điệu tango cuối cùng “ của Argentina : Cuộc khủng hoảng tài chính ở Argentina vào những năm 2001 – 2003 là một cuộc khủng hoảng kinh tế bởi vì một sự thất bại chính trị, phần nào do sự yều kém của các thể chế chính phủ. Sau một cuộc suy thoái kéo dài mà bị trầm trọng thêm bởi việc phá giá đồng real vào tháng 1/1999, chính phủ Argentina cuối cùng đã không thể thanh toán các khoản nợ 132 tỷ USD vào cuối năm 2001. Các khó khăn kinh tế tăng lên, gây ra tình trạng náo loạn xã hội và cuối cùng dẫn tới sự sụp đổ của chính phủ tổng thống Fernando De La Rua vào ngày 24/12/2001. Ngay sau đó, tổng thống lâm thời Adolfo Rodriguez Saa tuyên bố hoãn trả nợ nước ngoài. Tuy nhiên, Rodriguez Saa đã nhất định rằng đồng peso sẽ không bị phá giá. Đồng peso đã được neo với mức ngang giá đồng đô la trong mười năm theo chế độ tỷ giá chuẩn tiền tệ, cuối cùng đã bị phá giá, và sau đó là thả nổi hoàn toàn. Với 70% các khoản nợ tư nhân là bằng USD, điều này quả thực là một thảm họa thực sự đối với người dân thường Argentina. Những tai họa lo lắng kinh tế của quốc gia, đặc biệt là người dân Argentina cúôi cùng đã lan tràn và khởi xướng một cuộc khủng hoảng chính trị vào cuối năm 2001 đầu năm 2002 với việc quyền lực được trao tay qua ba tổng thống lâm thời sau thời kỳ của De La Rua, cho đến khi Senator Eduardo được lựa chọn để giữ vị trí này trong vòng hai năm. Các nhân tố khác nhau được cho là đã gây ra cuộc khủng hoảng Argentina, như chế độ tỷ giá chuẩn tiền tệ cứng nhắc, thâm hụt do chi tiêu của chính phủ và tính dễ tổn thương của các thể chế chính trị. Tuy nhiên, theo Hector Schamis ( năm 2002 ), các nhân tố này được xem xét trong khung cảnh các điều kiện bất lợi đặc thù, biến động Trang: viii quốc tế và một tiến trình chính trị nội địa phức tạp. Các thể chế chính trị của nền dân chủ rất mong manh và dễ bị tổn thương sau một thập niên được điều hành bởi hai nhiệm kỳ liên tiếp của Carlos Sacil Menem trong những năm 1990. Hơn nữa, Argentina đã trải qua suy thoái trong bốn năm, làm xói mòn nền tảng tài chính và suy yếu khả năng chi trả nợ. Trong phạm vi của chế độ tỷ giá chuẩn tiền tệ, chính phủ đã không thể can thiệp với các chính sách để kích thích nền kinh tế và chỉ số rủi ro thanh toán nợ của Argentina trở nên ngày càng tệ hơn. Điều này dẫn tới lãi suất bị đẩy lên và các khó khăn chi trả nợ. Theo Schamis (năm 2002), cuộc khủng hoảng năm 2001 có nguồn gốc từ đầu những năm 1990 khi các tham vọng chính trị của tổng thống Menem đã hạn chế việc thiết lập các chính sách kinh tế vĩ mô lành mạnh và việc thành lập các thể chế vững chắc. Các ưu tiên tiếp diễn của mục tiêu chính trị và môi trường bên ngoài bất lợi đã tích lũy tính “ mong manh “ của nền kinh tế Argentina. Các nhà cấp tín dụng quốc tế bắt đầu tăng lãi suất vào mùa thu năm 2000, và đến mùa xuân năm 2001, Argentina đã phải trả lãi suất 12% trên hầu hết nợ, mặc dù vào mùa hè năm 2001 tỷ số nợ trên GDP và tỷ số nợ trên xuất khẩu là không tệ hơn Brazil. Khi Mỹ tuyên bố vào mùa xuân năm 2001 rằng sẽ không có sự trợ giúp nào cho Argentina, làm cho quốc gia này rơi vào khó khăn nghiêm trọng, tình trạng vỡ nợ trở nên không thể tránh khỏi. Nhìn vào mức xếp hạng rủi ro tổng hợp của Argentina ở đồ thị bên dưới, hình như không có sự biểu hiện rõ ràng của một cuộc khủng hoảng đang nghiêm trọng. Hạng mức rủi ro tổng hợp bắt đầu giảm vào giũa năm 1999. Vào đầu năm 2001, chỉ số xếp hạng chỉ một mức rủi ro thấpvới hạng mức rủi ro tổng hợp trong suốt tháng 1 đến tháng 5 ở mức 69,5 ( rủi ro vừa phải ) đến 71,5 vào tháng 5 ( rủi ro thấp ). Cuộc khủng hoảng Argentina chủ yếu là một cuộc khủng hoảng kinh tế, tài chính và cũng bắt nguồn tiềm tàng âm ỉ trong chính trị. Nhìn vào hạng mức rủi ro kinh tế, một vài chỉ số yếu kém trong nhiều năm dẫn đến khủng hoảng. Argentina đã trong suy thoái trong một thời gian và việc chi tiền vô trách nhiệm, đặc biệt là ở các tỉnh, đã làm xói mòn nghiêm trọng cán cân ngân sách. Hơn nữa, xuất khẩu yếu kém đã làm mất đi cơ hội cải thiện nền kinh tế. Trong điều kiện của xếp hạng rủi ro tài chính, khả năng đáp ứng nợ nước ngoài của Argentina ngày càng bị hủy hoại bởi sự xói mòn nền tảng tài chính, và khi áp lực đối với đồng peso tăng lên, dự trữ quốc tế tiếp tục cạn kiệt. Trang: ix Tuy nhiên, xếp hạng rủi ro kinh tế của mô hình ICRG vẫn ở mức cao và thể hiện rủi ro thấp từ tháng 1/2000 cho đến nửa đầu năm 2001. Sau đó, nó giảm xuống mức rủi ro trung bình nhưng tăng lên một chút vào tháng 1/2002. Điều này có vẻ trái ngược với trực giác đôi chút khi mà các thành phần của rủi ro kinh tế: GDP trên đầu người, tăng trưởng GDP thực, tỷ lệ lạm phát hàng năm, tỷ lệ % của cán cân ngân sách và tài khoản vãng lai trên GDP, đã biểu hiện khả năng nắm bắt được khủng hoảng sắp xảy ra. GDP trên đầu người đã giảm từ lúc bắt đầu cuộc khủng hoảng và tăng trưởng GDP thực là âm trong suốt hầu hết năm 2001 và 2002. Hơn nữa, cán cân ngân sách và các chỉ tiêu tài khoản vãng lai cũng rất bất lợi. Do đó, dường như nhờ chỉ tiêu này nên phát hiện ra các vấn đề và đem lại một vài cảnh báo. Tuy nhiên, xếp hạng rủi ro tài chính có vẻ đã nắm bắt được những lo lắng tài chính đang đến khi mà khả năng đáp ứng nợ của Argentina trở nên yếu kém hơn. Nhìn vào các thành phần của hạng mức rủi ro tài chính, tỷ lệ % nợ nước ngoài trên GDP, % lãi chi trả trên xuất khẩu, % của tài khoản vãng lai trên xuất khẩu, dự trữ ngoại hối thuần và sự ổn định tỷ giá hối đoái, rõ ràng là các chỉ tiêu này trở nên tệ hơn. Hạng mức rủi ro tài chính của Argentina theo mô hình ICRG, sự giảm xuống tình trạng rủi ro cao vào tháng 1/2000 từ một xu hướng hạ thấp vào cuối năm 1997. Cảnh báo mức rủi ro cao này vẫn còn cho đến tháng 10/2001 khi hạng mức tăng lên mức rủi ro trung bình nhưng sau đó lại giảm xuống mức rủi ro cao vào tháng 1/2002. Xếp hạng rủi ro chính trị đem lại dấu hiệu nhỏ cho khó khăn phía trước. Hạng mức rủi ro này tương dối bằng phẳng từ giữa năm 1993 cho đến giữa năm 2001. Ngay cả khi nội các chính phủ từ chức vào cuối năm 2001, và có những khó khăn trong việc tìm ứng cử viên tổng thống sẵn sàng tại vị trong bất cứ thời gian nào, thì hạng mức Trang: x rủi ro chính trị thể hiện mức rủi ro trung bình. Xem xét các thành phần của chỉ số rủi ro chính trị thì có lẽ nên có những thể hiện mạnh mẽ hơn các khó khăn. Sự ổn định chính phủ với các thành phần trong chính phủ là thống nhất trong chính phủ, sức mạnh lập pháp và sự ủng hộ của nhân dân là chắc chắn đáng ngờ nhất, trong khi các điều kiện kinh tế – xã hội cấu thành bởi thất nghiệp, niềm tin tiêu dùng và nghèo đói đang trở nên tệ hơn một cách nhanh chóng. Hơn nữa, tham nhũng là một vấn đề đáng quan tâm từ lâu ở Argentina, một yếu tố chỉ phản ánh phần nào trong mô hình ICRG. Trường hợp của Argentina làm nổi bật sự khó khăn của mô hình ICRG trong việc nắm bắt một cách phù hợp những yếu kém của các thể chế chính phủ trong phạm vi nền dân chủ. Vì mô hình có xu hướng cho quyền số đáng kể đối với các nhân tố không có liên quan đến các quốc gia đang dân chủ hóa như Argentina (mức độ xung đột nội bộ và bên ngoài, sự tham gia của quân đội và tôn giáo trong chính trị, và tình trạng căng thẳng dân tộc chiếm 42% của hạng mức rủi ro chính trị), do đó mô hình bắt gặp khó khăn trong việc đánh giá một cách chính xác chất lượng của chính phủ trong kiểu chế độ này. Hầu hết các nhà phân tích mong đợi tình trạng vỡ nợ của Argentina được kiềm chế vì quốc gia này đã cảnh báo cộng đồng quốc tế về nền kinh tế đang sa sút trong suốt một thời gian trước khi tình trạng vỡ nợ thực sự xảy ra. Do đó, các nhà đầu tư đã có nhiều cơ hội để giảm rủi ro và mức độ nhạy cảm của họ. Trong khi mức độ rủi ro của cuộc khủng hoảng được phản ánh trong hạng mức rủi ro tài chính thì mức độ các bất ổn về kinh tế và chính trị lại có vẻ như không được phản ánh chính xác trong hạng mức rủi ro kinh tế và rủi ro chính trị, dẫn đến hạng mức rủi ro tổng hợp ở mức quá lạc quan. Theo mô hình ICRG, một hạng mức tồi trong số các rủi ro quốc gia ( rủi ro chính trị, rủi ro kinh tế, rủi ro tài chính ) có thể được bù đắp bằng các hạng mức tốt hơn trong các loại còn lại. Điều nay là chắc chắn trong trường hợp xếp hạng cho Argentina khi mà hạng mức rủi ro tổng hợp không hàng thể hiện rủi ro cao mặc dù rủi ro tài chính cao. Quả vậy, mô hình ICRG ( cũng như các mô hình khác ) luôn tồn tại một rủi ro cao trong việc giải thích và tính sai rủi ro chính trị. Như đã trình bày ở trên, tỷ trọng không cân xứng đối với một vài chỉ tiêu có thể không thích đáng trong tình huống của Argentina cũng như trường hợp hai nước còn lại. Vấn đề tham nhũng là quan trọng ở Argentina và nó không được phản ánh chính xác trong hạng mức rủi ro chính trị. Hậu quả của việc đánh giá không đầy đủ là rất quan trọng trong khi hạng mức rủi ro chính trị chiếm một nửa hạng mức rủi ro quốc gia tổng hợp. Trang: xi • Trường hợp Peru : Fujimori nắm quyền ở Peru sau cuộc bầu cử năm 1990. Khi đó, Peru đang đứng trên bờ vực suy sụp về kinh tế và xã hội sau nhiều năm siêu lạm phát và quản lý kinh tế yếu kém dưới thời chính phủ tổng thống Alan Garcia, kết hợp với đấu tranh du kích, đã tàn phá nghiêm trọng cơ sở hạ tầng của đất nước và xói mòn niềm tin của nhà đầu tư. Fujimori đưa ra một chương trình ổn định triệt để bao gồm : bãi bỏ sự kiểm soát giá cả, ổn định tiền lương khu vực công và cắt giảm chi tiêu xã hội. Ông ta quản lý để đưa siêu lạm phát về mức kiểm soát được, nhưng cũng đưa đất nước vào một cuộc khủng hoảng sâu sắc. Mặc dù rất thành công trong cuộc chiến chống lại khủng bố, sự độc tài ngày càng tăng của chính phủ Fujimori nhanh chóng trở thành một nguy cơ. Vào tháng 4/1992, khi cơ quan lập pháp phản đối các chính sách kinh tế cũng như chiến lược chống khủng bố của Fujimori, ông ta giải tán quốc hội và đình chỉ bộ máy tư pháp nhờ sự ủng hộ của quân đội. Thông qua việc ban hành bản hiến pháp mới vào năm 1993 và lợi dụng uy tín sụt giảm của các đảng phái, ông ta đã củng cố chính phủ tập quyền và đề cao quyền lực cá nhân. Mặc dù được tái đắc cử vào năm 1995, ông ta đã phải cố gắng để duy trì mức độ yêu mến của công chúng như trước đây. Sự bất mãn đối với việc lạm dụng quyền lực của chính phủ và nhiều trường hợp tham nhũng gia tăng đã gây ra sự phản đối ở Lima cũng như ở các tỉnh. Vào tháng 12/1999, Fujimori tuyên bố là ông sẽ tìm kiếm một nhiệm kỳ tổng thống thứ ba và hình thành một liên minh tranh cử mới. Trong suốt năm 1999, chính quyền đã có nhiều nỗ lực nghiêm trọng để làm mất uy tín bất kỳ ai được xem là mối đe dọa chính đối với chiến thắng của Fujimori. Phe đối lập bị phân hóa sâu sắc và đã không thể thống nhất để tìm ra một ứng cử viên để đối đầu với tổng thống đương nhiệm. Cuối cùng, chín ứng cử viên Trang: xii của phe đối lập chạy đua cho chức vụ tổng thống, do đó có vẻ như bảo đảm cho chiến thắng của Fujimori. Tuy nhiên, vào những tháng cuối cùng của chiến dịch tranh cử, phe đối lập kết hợp lại và ủng hộ cho một ứng viên Alejandro Toledo. Toledo vận động xoay quanh vấn đề một nền dân chủ rộng rãi và sự tiếp nối của những cải tổ thị trường tự do. Tổng thống Fujimori đã thắng ( hay thật ra là gian lận, điều này được xác minh sau đó ) trong vòng một cuộc bầu cử tổng thống tháng 4/2000 và cuối cùng cũng giành được đa số phiếu trong quốc hội cho liên minh tranh cử. Tuy nhiên, có một sự hoài nghi rộng rãi rằng chiến thắng của ông ta là kết quả của gian lận bầu cử, lôi kéo truyền thông và đe dọa. Hơn nữa, Toledo đã rút lui trước vòng hai của cuộc bỏ phiếu, điều này nói lên sự bầu cử thiếu tự do và không công bằng. Tổ chức OAS ( Organization of American States ) giám sát quá trình bầu cử đã tuyên bố cuộc bầu cử không hợp lệ và chấm dứt nhiệm vụ quan sát viên của họ. Những ngờ vực về hành vi sai trái của Fujimori và những cộng sự của ông ta được xác minh vào tháng 9/2000 khi một đoạn băng video được đưa ra, chiếu cảnh cố vấn an ninh của Fujimori và một nhân vật cấp cao của cơ quan tình báo , Vladimiro Montesinos, đang trao tay số tiền mặt 15.000 USD cho một nghị sĩ của phe đối lập, người này sau đó đã đi theo liên minh của Fujimori. Vụ bê bối đã buộc Fujimori yêu cầu cuộc bầu cử mới và sau đó dẫn tới việc chạy trốn sang Nhật. Quốc hội đã lựa chọn một tổng thống lâm thời, Valentin Paniagna, với trách nhiệm chính là chuẩn bị cho cuộc bầu cử mới vào tháng 4/2001. Cuộc khủng hoảng năm 2000 của Peru chủ yếu là một cuộc khủng hoảng chính trị. Hạng mức rủi ro chính trị phản ánh mức độ thấp của sự ổn định trong chính phủ kéo dài từ những năm thời Garcia và tiếp diễn khi Fujimori trở thành một nhà độc tài. Từ tháng 1/1993 trở đi, khi mà Fujimori công khai sử dụng đến chính phủ độc tài, thì hạng mức rủi ro chính trị bắt đầu cải thiện bởi chiến lược thành công của Fujimori trong việc dập tắt nội loạn, và đạt được mức độ cao hơn trong sự ổn định chính trị, luật pháp. Đến nửa cuối những năm 1990, tình trạng rủi ro chính trị đã tăng lên mức trung bình, trong khi những năm trước là cao hoặc rất cao. Tuy nhiên, mức độ rủi ro khoảng trên dưới 60 điểm. Vào đầu năm 2000, hạng mức rủi ro lại rơi xuống ở mức rủi ro cao, đó là lúc bắt đầu náo loạn chính trị quanh cuộc bầu cử năm 2000. Thật ra, cũng có nhiều thành phần khác của xếp hạng rủi ro chính trị trở nên tệ hại vào lúc đó. Các vụ bê bối lạm dụng quyền lực và tham nhũng làm cho tình hình bất ổn tăng cao. Tỷ lệ nghèo đói gia tăng trong giai đoạn cuộc chạy đua bầu cử năm 2000 đã góp phần làm giảm sự ủng hộ đối với Fujimori. Hơn nữa, việc dựa vào quân đội của Trang: xiii Fujimori tiếp tục là nhân tố gây lo lắng. Mô hình ICRG nắm bắt được mầm mống của khủng hoảng chính trị Peru năm 2000 mà đã phát triển từ vài năm trước; mầm mống này cũng được hầu hết các nhà phân tích dự đoán trước. Tuy nhiên, mức độ rủi ro chính trị dường như đã giảm vào đầu năm 2000, đạt mức trung bình vào mùa xuân năm 2000, sau đó rơi xuống một lần nữa vào cuối 2001. Sau cuộc bầu cử 2001 và chiến thắng của liên minh tranh cử Toledo, xếp hạng rủi ro chính trị đã tăng lên, ở mức trung bình hay thấp. Tuy nhiên, hạng mức rủi ro tổng hợp vẫn ở điểm cao (rủi ro thấp) vào năm 2000 và tiếp tục tăng lên trong suốt cuộc khủng hoảng. Các hạng mức rủi ro kinh tế và rủi ro tài chính ở mức rủi ro thấp suốt năm 2000, vì vậy ảnh hưởng tích cực đến rủi ro tổng hợp. Tuy nhiên hạng mức rủi ro chính trị đã kết thúc thời kỳ “trăng mật” ngay khi Toledo thắng cử vào giữa 2001. Trang: xiv PHỤ LỤC 3 MÔ HÌNH TOBIT – MỘT ĐẠI DIỆN CỦA PHƯƠNG PHÁP ĐỊNH LƯỢNG RỦI RO QUỐC GIA Mô hình Tobit dựa trên việc đo lường rủi ro không thể trả nợ hay rủi ro giãn nợ của một quốc gia để phản ánh rủi ro của quốc gia đó. Mô hình này được xây dựng trên những dữ liệu thống kê. Mô hình này nhằm xác định tỷ lệ giãn nợ trên tổng nợ trong năm tới của một quốc gia. Tỷ lệ này kí hiệu là TR(+1)EDT và là biến phụ thuộc của mô hình. Do đó mô hình nhắm vào số nợ phải giãn nợ để ước lượng rủi ro quốc gia. Để xác định các nhân tố ảnh hưởng đến tỷ lệ này thì mô hình Tobit sử dụng 6 biến sau: - Biến số thứ nhất là tỷ số lãi chi trả trên xuất khẩu (INTXGS). Tỷ lệ này có được bằng cách chia tổng lãi phải chi trả cho giá trị xuất khẩu hàng hóa dịch vụ (bao gồm cả thu từ xuất khẩu lao động) trong một năm cho trước. Một tỷ lệ lãi chi trả cao chỉ ra một gánh nặng đối với nền kinh tế của một quốc gia và làm tăng rủi ro giãn nợ. Do đo, nhân tố này mang dấu dương (+). - Biến số thứ hai được sử dụng trong việc xác định khả năng trả nợ của một quốc gia là tỷ lệ các khoản vay ưu đãi trên tổng nợ (CEDT). Các khoản vay ưu đãi dài hạn được đinh nghĩa bởi World Bank là các khoản vay ưu đãi từ 25% trở lên. Tỷ lệ này một biến quan trọng đo lường ảnh hưởng của chi phí vay mượn lên nhu cầu giãn nợ. Vì vậy, biến này mang dấu âm (-). - Biến số thứ ba là tỷ lệ tổng dự trữ trên tổng nợ (RESEDT). Dự trữ ngoại hối phục vụ như là môt bộ đệm chống lại những cú sốc bất ngờ và cho thấy khả năng thanh khoản của chính phủ vay nợ. Dự trữ là tổng số nắm giữ của quốc gia đó gồm quyền rút vốn đặc biệt SDR, vị thế dự trữ tại IMF, ngoại hối và vàng. Một vị thế dự trữ quốc tế mạnh thể hiện khả năng đáp ứng nhu cầu ngoại tệ trong trường hợp có các cú sốc bất lợi. Vì thế, với một tỷ lệ dự trữ trên tổng nợ lớn, một mặt loại trừ khả năng vỡ nợ và mặt khác giảm bớt nhu cầu giãn nợ của quốc gia đó. Do vậy, biến số này mang dấu âm (-). - Biến số thứ tư được dùng để giải thích khả năng giãn nợ trong mô hình là tỷ lệ tổng nợ trên tổng sản phẩm quốc gia (EDT GNP). Chỉ tiêu này thể hiện gánh nợ của chính phủ đi vay. Nếu nợ của một quốc gia tăng lên trong mối quan hệ với GNP, khả năng xảy ra giãn nợ tăng lên. Trong trường hợp này, quốc gia mắc nợ sẽ có những khó khăn trong việc chi trả Trang: xv nợ nước ngoài theo đúng với lịch trình trả nợ. Biến số này sẽ mang dấu dương (+). - Biến số thứ năm là tỷ lệ nợ tư nhân trên tổng nợ (PRVEDT). Một quốc gia với khu vực tư nhân được thiết lập tốt và tỷ lệ nợ tư nhân trên tổng nợ cao thì ít có khả năng vỡ nợ hay giãn nợ hơn là tình huống ngược lại. Chỉ tiêu này mang dấu âm (-). - Biến số cuối cùng chính là tỷ số giãn nợ trên tổng nợ. Khi người mắc nợ rơi vào khủng hoảng nợ và thực hiện giãn nợ, họ sẽ khó khăn trong việc đáp ứng được nghĩa vụ nợ tương lai trong những năm sắp tới. Trong trường hợp này, người mắc nợ (chính phủ một quốc gia) cũng sẽ gặp khó khăn để đạt được mức tín dụng mới từ các nhà cấp tín dụng quốc tế. Điều này có vẻ như là lý do chính tại sao hầu hết các chính phủ rất lưỡng lự khi không thanh toán nợ nước ngoài. Cuộc khủng hoảng châu Á gần đây là một minh chứng cho điều này. Chỉ hai trong số nhiều quốc gia bị ảnh hưởng nghiêm trọng là thực hiện giãn nợ. Do đó, mô hình ước lượng như sau: TREDT(t+1) = INTXGS(t) + CEDT(t) + RESEDT(t) + EDTGNP(t) + PRVEDT(t) + TREDT(t) Giá trị của mô hình sẽ nhận giá trị từ 0 đến 1. Giá trị ước lượng là tỷ số giãn nợ cho năm (t+1), có được bằng cách sử dụng giá trị của các biến giải thích trong năm (t). Nói cách khác, mô hình hướng vào dự báo năng lực chi trả nợ trong tương lai của một quốc gia trong một năm sắp tới. Trang: xvi DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO Tài liệu tiếng Việt Tài liệu sách: “Tài chính doanh nghiệp hiện đại”, PGS. TS. Trần Ngọc Thơ chủ biên, Nhà xuất bản Thống kê, 2005. “Tài chính quốc tế”, PGS. TS. Trần Ngọc Thơ & PGS. TS. Nguyễn Ngọc Định chủ biên, Nhà xuất bản Thống kê, 2005. Tạp chí và website: Tạp chí Phát triển kinh tế Tổng cục thống kê www.gso.gov.vn Bộ tài chính www.mof.gov.vn Tài liệu tiếng Anh Tài liệu sách International Financial Markets: Prices and Policies, Levich Richard, McGraw – Hill, 2000. Tài liệu nghiên cứu Abell, J. and Krueger, T., 1989. Macroeconomic influences on beta. Journal of Economics and Business Applegate, C., 1996. Sovereign risk and the external cost of both public and private sector foreign debt in Australia. Economic Papers. De Haan, J., Siermann, C.L.J. and Van Lubek, E.V., 1997. Political instability and country risk: New evidence. Applied Economics Letters Diamonte, R., Liew, J., and Stevens, R. 1996. Political risk in emerging and developed markets. Financial Analysts Journal May–June Trang: xvii Dumas, B., 1994. A test of the international CAPM using business cycle indicators as instrumental variables. In: Frankel, J. Editor, , 1994. The Internationalization of Equity Markets University of Chicago Press, Chicago Erb, C.B., Harvey, C. and Viskanta, T., 1996. Political risk, economic risk and financial risk. Financial Analysts Journal Godfrey, S. and Espinosa, R., 1996. A practical approach to calculating costs of equity for investments in emerging markets. Journal of Applied Corporate Finance Gangemi, Brooks, and Robert, 2000. Modeling Australia’s country risk: a country beta approach. Journal of Economics and Business Jagannathan, R. and Wang, Z., 1996. The conditional CAPM and the cross-section of expected returns. Journal of Finance Website Asian Development Bank www.adb.org International Monetary Fund www.imf.org Wikipedia www.wikipedia.org www.repec.org www.google.com.vn ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfLA1825.pdf