Doanh nghiệp Việt Nam trong tiến trình hội nhập AFTA - Vấn đề và giải pháp

Lời mở đầu 1. Sự cần thiết của đề tài Hội nhập Khu vực thương mại tự do của Hiệp Hội các quốc gia Đông Nam á (ASEAN) là một yêu cầu khách quan, là một nhiệm vụ mang tính cam kết quốc tế giữa Việt Nam với các nước thành viên tổ chức ASEAN. Quá trình này đã bắt đầu từ 1.1.1993, sẽ hoàn tất vào năm 2003. Do gia nhập ASEAN muộn hơn nên đối với Việt Nam, quá trình hội nhập khu vực thương mại tự do của ASEAN với những nội dung cơ bản của chương trình ưu đãi thuế quan có hiệu lực chung (CEPT) sẽ được

doc154 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1343 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Doanh nghiệp Việt Nam trong tiến trình hội nhập AFTA - Vấn đề và giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hoàn tất vào năm 2006. Từ năm 1995 đến nay, sau khi trở thành thành viên chính thức của Hiệp hội các quốc gia Đông Nam á (ASEAN), Việt Nam tuyên bố tham gia Khu vực thương mại tự do của ASEAN (AFTA), Chính phủ Việt Nam thông qua các cơ quan chức năng đã bắt đầu vạch ra lộ trình hợp tác kinh tế quan trọng như: chương trình hợp tác về thương mại (trong đó có việc thực hiện CEPT), hợp tác về phát triển công nghiệp, hợp tác về đầu tư, hợp tác về lương thực, nông nghiệp và lâm nghiệp... Thực hiện các chương trình hợp tác nói trên đòi hỏi sự cố gắng của các cơ quan chính phủ cũng như của tất cả các doanh nghiệp thuộc các khu vực kinh tế khác nhau. Trong những năm qua do sự cố gắng của các cơ quan Chính phủ và các doanh nghiệp, tiến trình hội nhập AFTA của Việt Nam đã đạt được những bước tiến quan trọng. Các doanh nghiệp nhìn thấy lộ trình hội nhập AFTA ngày càng đến gần và cũng rất băn khoăn, lo lắng khi hội nhập AFTA. Tuy nhiên riêng đối với các doanh nghiệp với nhiều lý do khác nhau vẫn còn lúng túng trong việc xác định phương hướng, bước đi và cách thức cụ thể thích ứng với đòi hỏi của tổ chức AFTA, đặc biệt là làm thế nào để nâng cao sức cạnh tranh của doanh nghiệp Việt Nam mà phần lớn là các doanh nghiệp có quy mô khá nhỏ bé. Trên giác độ đó, tác giả chọn đề tài “Doanh nghiệp Việt nam trong tiến trình hội nhập AFTA - Vấn đề và giải pháp” làm luận án Tiến sỹ kinh tế nhằm luận giải một số vấn đề lý luận và thực tiễn có liên quan, góp phần giúp các doanh nghiệp Việt nam có được câu trả lời cho vấn đề nói trên. 2. Mục đích, đối tượng, phạm vi, phương pháp nghiên cứu của luận án Mục đích của luận án là làm rõ yêu cầu và nội dung các công việc đặt ra đối với các doanh nghiệp Việt Nam, bước đi và đòi hỏi khách quan của quá trình thực hiện các chương trình hợp tác, đề xuất định hướng và các giải pháp để tạo điều kiện cho các doanh nghiệp Việt Nam thích ứng với những yêu cầu khách quan đặt ra đặc biệt là nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt Nam trong quá trình hội nhập vào AFTA. Đối tượng nghiên cứu của luận án: Các chương trình hợp tác của tổ chức AFTA và các yêu cầu đặt ra đối với các doanh nghiệp, các công việc cần phải thực hiện của doanh nghiệp Việt Nam về mặt định hướng cũng như giải pháp tổ chức và quản lý các hoạt động kinh doanh khi hội nhập vào AFTA để các doanh nghiệp Việt Nam đứng vững trong sự cạnh tranh và đáp ứng được các yêu cầu đặt ra trong hoạt động kinh doanh trên thị trường các quốc gia của tổ chức AFTA. Phạm vi nghiên cứu của luận án: tác động của các chương trình hợp tác AFTA đối với doanh nghiệp Việt Nam, thuận lợi và khó khăn của các doanh nghiệp Việt nam trước ngưỡng cửa của quá trình hội nhập, các vấn đề về chiến lược kinh doanh và tổ chức quản lý của các doanh nghiệp Việt Nam trong những năm tiến tới hoàn tất lộ trình hình thành tổ chức AFTA. Các giải pháp ở đây có ý nghĩa chung cho các doanh nghiệp Việt Nam nhưng cần được cụ thể hoá phù hợp với trình độ và đặc điểm của từng loại hình doanh nghiệp và từng doanh nghiệp cụ thể. Phương pháp nghiên cứu: trên cơ sở của phương pháp nghiên cứu là phương pháp duy vật biện chứng, duy vật lịch sử, luận án sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể là phương pháp phân tích và tổng hợp, phương pháp so sánh và mô hình hoá, các phương pháp đánh giá và so sánh nhằm tìm được cơ sở lý luận và phương pháp luận cho mỗi doanh nghiệp sao cho có thể thích ứng và đáp ứng trong quá trình hội nhập khu vực mậu dịch tự do của khối ASEAN (AFTA). 3. Nội dung nghiên cứu và yêu cầu đặt ra đối với đề tài Đã có nhiều công trình nghiên cứu có liên quan về cơ chế vận hành, nội dung các chương trình hợp tác trong tổ chức AFTA, nghiên cứu các cơ hội và thách thức đối với Việt Nam nói chung và đối với các doanh nghiệp nói riêng khi Việt nam quyết định gia nhập AFTA, các công trình nghiên cứu nói trên được thực hiện dưới dạng các đề tài khoa học, các sách chuyên khảo các đề án công tác của một số ngành. Các công trình và đề án nghiên cứu nói trên thường đứng trên giác độ chung hoặc trên giác độ các cơ quan quản lý Nhà nước ở góc độ vĩ mô hoặc góc độ ngành, còn góc độ doanh nghiệp có đề cập nhưng chưa được đầy đủ và cụ thể. Đến nay các doanh nghiệp Việt Nam vẫn còn lúng túng trong nhận thức cũng như thiếu cơ cở cho việc xây dựng chiến lược rõ ràng, chưa có chuẩn bị về phương án kinh doanh cụ thể và nhất quán trước tiến trình hoàn tất thời hạn thực thi Chương trình ưu đãi thuế quan có hiệu lực chung (CEPT) cũng như các yêu cầu khác trong khuôn khổ Khu vực mậu dịch tự do của khối ASEAN (AFTA). Trong khi đó hoạt động của doanh nghiệp chính là hạt nhân quyết định sự thành công của quá trình hội nhập của nước ta vào tổ chức AFTA. Đề tài luận án nhằm hỗ trợ cho các doanh nghiệp những cơ sở lý luận và phương pháp luận trước đòi hỏi bức xúc của quá trình hội nhập của doanh nghiệp vào AFTA để sao cho các doanh nghiệp thích ứng và xây dựng được chiến lược nâng cao sức cạnh tranh và đứng vững trong quá trình hội nhập AFTA. 4. Dự kiến đóng góp mới của luận án Hệ thống hoá các vấn đề lý luận về hội nhập kinh tế quốc tế, làm rõ vai trò của doanh nghiệp Việt Nam trong quá trình hội nhập vào khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA), nghiên cứu kinh nghiệm quốc tế trong quá trình tham gia vào tiến trình hội nhập AFTA của các doanh nghiệp các nước thành viên. Làm rõ lộ trình và nội dung các chương trình hợp tác giữa các nước thành viên trong khuôn khổ AFTA trong khoảng thời gian từ nay đến năm 2006 và một số năm tiếp theo và yêu cầu các công việc đặt ra đối với các doanh nghiệp Việt Nam. Phân tích những mặt mạnh và mặt yếu của doanh nghiệp Việt Nam trước các đòi hỏi trên, trước hết về năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt Nam. Đưa ra các giải pháp nhằm xây dựng cơ sở nhận thức và cơ sở phương pháp luận cho chiến lược kinh doanh và những chuẩn bị cần thiết cho các phương án kinh doanh nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt Nam trong tiến trình hội nhập thực sự vào AFTA, trên cơ sở đó đưa ra những kiến nghị với Nhà nước để bảo đảm cho quá trình hội nhập đó đạt được thành công. Kết cấu của luận án Ngoài lời mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, luận án bao gồm 3 chương sau đây: Chương I: Hội nhập quốc tế và vai trò của doanh nghiệp Việt nam trong tiến trình hội nhập AFTA. Chương II: Tình hình hội nhập AFTA và yêu cầu đặt ra đối với các doanh nghiệp Việt Nam. Chương III: Định hướng và những giải pháp chủ yếu nhằm tạo điều kiện cho các doanh nghiệp Việt nam thích ứng với tiến trình hội nhập AFTA trong thời gian tới. Chương I Những vấn đề lý luận về hội nhập kinh tế quốc tế và vai trò của doanh nghiệp Việt nam trong tiến trình hội nhập AFTA 1.1. bản chất và tính tất yếu của quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. 1.1.1. Khái niệm và bản chất của hội nhập kinh tế quốc tế [14], [15], [36], [62] Hội nhập kinh tế quốc tế (International integration) là một xu hướng vận động tất yếu của các nền kinh tế trên thế giới trong điều kiện hiện nay khi quá trình toàn cầu hóa và khu vực hóa nền kinh tế thế giới đang diễn ra nhanh chóng dưới sự tác động của cuộc cách mạng khoa học - công nghệ. Toàn cầu hóa - hội nhập kinh tế quốc tế là thuật ngữ xuất hiện trong một vài thập kỷ gần đây. Xu thế này ngày càng là một yếu tố quan trọng và tác động rất lớn đến tư duy và chính sách của các Chính phủ cũng như của các tổ chức quốc tế trong thế kỷ XXI. Theo tổ chức hợp tác phát triển kinh tế (OECD) thì “ toàn cầu hóa (globalisation) là quá trình diễn ra do sự thay đổi về công nghệ, tăng trưởng dài hạn liên tục về ĐTNN và nguồn lực quốc tế, và sự hình thành trên phạm vi rộng lớn với qui mô toàn cầu những hình thức mới về các mối liên kết quốc tế giữa các công ty và các quốc gia. Sự kết hợp này làm tăng quá trình hội nhập giữa các quốc gia và thay đổi bản chất của cạnh tranh toàn cầu… Toàn cầu hoá có thể được hiểu là quá trình hoàn thiện tính chỉnh thể của nền kinh tế thế giới để làm cho tính chất thống nhất và duy nhất của nó được gia tăng không ngừng. Toàn cầu hoá liên quan mật thiết với quá trình tự do hoá và việc loại bỏ dần tính tách biệt, khác biệt thành sự hội nhập tự giác và hình thành những mối quan hệ kinh tế tương đồng có tính chất quốc tế. Toàn cầu hoá trước hết được xem xét về mặt kinh tế nhưng nó cũng có những khía cạnh nhất định liên quan đến khía cạnh chính trị, lối sống, văn hoá và xã hội cũng như tâm lý, thói quen. Cho đến nay có nhiều khái niệm về hội nhập kinh tế quốc tế. Một cách thông thường, có thể hiểu: “Hội nhập kinh tế quốc tế là sự phản ánh quá trình các thể chế quốc gia tiến hành xây dựng, thương lượng, ký kết và tuân thủ các cam kết song phương, đa phương và toàn cầu ngày càng đa dạng hơn, cao hơn và đồng bộ hơn trong các lĩnh vực đời sống kinh tế quốc gia và quốc tế”[62]. Theo quan niệm của Hội đồng khoa học Đại học Kinh tế Quốc dân thì “Hội nhập kinh tế là quá trình loại bỏ dần các hàng rào thương mại quốc tế, thanh toán quốc tế và việc di chuyển các nhân tố sản xuất giữa các nước” [62]. Tuy nhiên, khái niệm tương đối phổ biến, được nhiều nước hiện nay chấp nhận, đó là: “Hội nhập kinh tế quốc tế là sự gắn kết nền kinh tế của một nước vào các tổ chức hợp tác kinh tế khu vực và toàn cầu, trong đó mối quan hệ giữa các nước thành viên có sự ràng buộc theo những qui định chung của khối” [62]. Nói cách khác, hội nhập kinh tế quốc tế là quá trình thực hiện chính sách kinh tế mở, tham gia vào các định chế kinh tế và tài chính quốc tế, thực hiện thuận lợi hoá và tự do hoá thương mại, đầu tư và các hoạt động kinh tế đối ngoại khác. Theo khái niệm này, hội nhập kinh tế quốc tế vừa là một trạng thái, vừa là một quá trình của sự phát triển nền kinh tế quốc gia trong mối quan hệ thống nhất với nền kinh tế thế giới. [4], [14], [21], [62] Tác giả luận án cho rằng, các khái niệm nêu trên cơ bản là thống nhất với nhau, sự khác nhau có chăng là do chúng xuất phát từ những khía cạnh khác nhau và nhấn mạnh một đặc trưng nào đó. Với cách tiếp cận của luận án này, hội nhập kinh tế quốc tế (international integration) được hiểu như là các chính sách, biện pháp mà chính phủ thực thi nhằm mở cửa kinh tế hay trở thành thành viên của một hệ thống tổ chức quốc tế. Chính sách hội nhập kinh tế quốc tế gắn liền với “mở cửa” và “trao đổi nguồn lực”, không những trên cả lĩnh vực kinh tế mà còn trên các lĩnh vực khác như văn hóa, khoa học kỹ thuật, và sẽ còn mở rộng sang các lĩnh vực khác của đời sống xã hội. Từ khái niệm trên, đối chiếu vào quá trình diễn biến của hội nhập kinh tế quốc tế trên thế giới, có thể thấy bản chất của hội nhập kinh tế quốc tế thể hiện ở một số khía cạnh sau: - Hội nhập kinh tế quốc tế là xoá bỏ từng bước và từng phần các rào cản về thương mại cũng như về đầu tư giữa các quốc gia theo hướng tự do hoá kinh tế. - Hội nhập kinh tế quốc tế là tạo điều kiện thuận lợi và đòi hỏi hệ thống doanh nghiệp phải thích ứng nhanh chóng với các đổi thay của nền kinh tế thế giới, qua đó mà nâng cao sức cạnh tranh của từng doanh nghiệp. - Hội nhập kinh tế quốc tế là tạo điều kiện thuận lợi và đòi hỏi sự cải cách nhất định về thể chế kinh tế, trước hết là các chính sách và phương thức quản lý kinh tế vĩ mô, qua đó phát triển và hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường. - Hội nhập kinh tế quốc tế là tạo dựng các nhân tố mới và điều kiện mới cho sự phát triển của từng quốc gia và cộng đồng quốc tế (khơi dậy nguồn lực bên trong và thu hút nguồn lực bên ngoài, mở rộng thị trường, chuyển giao công nghệ và kinh nghiệm quản lý tiên tiến). Tuy nhiên, bên cạnh những khía cạnh tích cực trên, hội nhập kinh tế quốc tế cũng có thể đưa tới tình trạng dễ tổn thương của nền kinh tế quốc gia, tình trạng lệ thuộc bên ngoài về kinh tế và chủ quyền quốc gia, tình trạng đối xử thiếu công bằng giữa các thành viên cũng như gây sức ép cạnh tranh đối với các doanh nghiệp. Từ khái niệm và bản chất của hội nhập kinh tế quốc tế nêu trên cần xác định rõ nội dung của quá trình hội nhập kinh tế để từ đó thấy rõ những công việc cần làm ở mỗi ngành, mỗi cấp, mỗi đơn vị. Trong thực tiễn, quá trình hội nhập kinh tế quốc tế diễn ra rất phong phú và đa dạng nhưng có thể thấy nó tập trung ở những nội dung chủ yếu sau đây: - Tiếp cận thị trường thế giới cả về bề rộng và bề sâu với các thông tin cập nhật và có khả năng dự báo được. Nội dung này đặt ra không những đối với cơ quản lý và hoạch định chính sách mà đối với tất cả các doanh nghiệp, các đơn vị sản xuất kinh doanh thuộc mọi thành phần kinh tế. - Thực hiện việc điều chỉnh cơ cấu kinh tế đề vừa đảm bảo cho sự tăng trưởng bền vững của nền kinh tế trong nước, vừa phát huy lợi thế so sánh và chủ động tham gia vào phân công lao động quốc tế, nâng cao khả năng xâm nhập thị trường quốc tế của hàng hoá dịch vụ. - Nâng cao khả năng cạnh tranh của nền kinh tế quốc gia, của từng ngành và từng doanh nghiệp thông qua việc áp dụng mọi biện pháp để giảm thiểu các chi phí đầu vào, các chi phí trung gian không cần thiết, áp dụng công nghệ mới để nâng cao chất lượng hàng hoá dịch vụ, thường xuyên cải tiến mẫu mã, kiểu dáng, bao bì hàng hoá để người tiêu dùng trong và ngoài nước chấp nhận. - Công tác quản lý và điều hành vĩ mô nền kinh tế phải tạo nên sự phản ứng linh hoạt, chuẩn xác trước những đòi hỏi và diễn biến của thị trường thế giới; phối hợp có hiệu quả giữa định hướng kế hoạch của Nhà nước với cơ chế thị trường; thực hiện tốt các cơ chế tự vệ, tránh sự lệ thuộc, tránh bị tổn thương trước tác động của thị trường thế giới. - Tạo điều kiện về thể chế, chính sách và tâm lý thuận lợi cho sự phát triển bình đẳng mọi thành phần kinh tế, trong đó một mặt chú trọng tiếp tục cải cách doanh nghiệp Nhà nước, một mặt khuyến khích phát triển kinh tế tư nhân, lành mạnh hoá và nâng cao sức cạnh tranh của tất cả các loại hình doanh nghiệp. - Tăng cường đầu tư cho việc phát triển nguồn nhân lực trong đó đặc biệt chú trọng đào tạo nguồn nhân lực có trình độ cao. Các nội dung nêu trên cần được cụ thể hoá trong kế hoạch, chương trình hoạt động của các ngành, các cấp, các tổ chức kinh tế, tổ chức chính trị - xã hội từ Trung ương đến địa phương sao cho có sự tính toán phù hợp với lộ trình hội nhập. 1.1.2. Các loại hình hội nhập kinh tế quốc tế [14], [25], [30] Hội nhập kinh tế quốc tế có nhiều hình thức khác nhau, thể hiện qua các biện pháp tự do hoá và mở cửa kinh tế đơn phương (nhất là về thương mại và nới lỏng kiểm soát FDI và các luồng vốn) hay qua việc tham gia các cam kết, thoả thuận song phương, khu vực và đa phương ở phạm vi toàn cầu. Các loại hình liên kết kinh tế song phương và khu vực có thể bao gồm việc nới lỏng hoặc xoá bỏ rào cản đối với thương mại hoặc sự di chuyển các nhân tố sản xuất (như vốn, lao động) cho đến việc thống nhất các chính sách kinh tế. Chính vì vậy các loại hình liên kết kinh tế quốc tế cũng chính là các hình thức của hội nhập kinh tế quốc tế. Xu thế này diễn ra sâu rộng và lan truyền trên phạm vi toàn cầu trong những thập kỷ cuối của thế kỷ XX đã tạo ra những xu thế mới như xu thế khu vực hóa và toàn cầu hóa (regionalisation - globalisation). Sau đây là các hình thức chủ yếu của hội nhập kinh tế quốc tế (hoặc liên kết kinh tế quốc tế). Bảng 1- Các hình thức hội nhập kinh tế quốc tế Đặc Đặc trưng Các loại hình Hàng hoá và dịch vụ di chuyển tự do Thống nhất chính sách thuế quan với các nước không phải thành viên Sức lao động và vốn đầu tư di chuyển tự do Thống nhất dự trữ tiền tệ, phát hành đồng tiền tập thể, thống nhất giao dịch tiền tệ và chính sách hối đoái Thống nhất và kết hợp hài hoà các chính sách kinh tế, tài khoá, tiền tệ, hình thành cơ cấu kinh tế khu vực Khu vực mậu dịch tự do Có Không Không Không Không Đồng minh thuế quan Có Có Không Không Không Thị trường chung Có Có Có Không Không Liên minh tiền tệ Có Có Có Có Không Liên minh kinh tế Có Có Có Có Có Nguồn: Franklin R.Root, International Trade and Investment South - Western Publishing Company, 1992 [67]. a-Khu vực mậu dịch tự do (The Free Trade Area - FTA) FTA là hình thức và mức độ hội nhập đầu tiên và thấp nhất của quá trình liên kết kinh tế quốc tế khu vực. Trong FTA, các hàng rào thương mại giữa các nước sẽ bị dẹp bỏ, tiến hành tự do trao đổi giữa các nước. Trên thực tế, FTA được hình thành do loại bỏ hàng rào thương mại đối với một số hàng hóa hay dịch vụ nào đó. Ví dụ, FTA không có hạn chế về mậu dịch đối với các sản phẩm nông nghiệp. Đặc điểm đáng chú ý nhất của FTA là mỗi nước có quyền định ra chính sách của chính mình có liên quan đến các thành viên không tham gia trong khu vực. Nói cách khác các thành viên sẽ đặt bất kỳ thuế quan, hạn ngạch, hoặc những hạn chế khác mà họ lựa chọn để buôn bán với các nước không thuộc FTA đó. FTA nổi tiếng nhất là Hiệp hội thương mại tự do Châu Âu (European Free Trade Association - EFTA). EFTA được hình thành vào năm 1960 với sự thỏa thuận của 8 nước châu Âu (Anh, áo, Đan Mạch, Na Uy, Bồ Đào Nha, Thụy Điển, Thụy Sĩ và Phần Lan); giữa các nước này không có hàng rào thương mại. Sau này, EFTA đã mất dần tầm quan trọng của nó vì sự ra đời của một tổ chức có mức độ hội nhập cao hơn là Cộng đồng Châu Âu (European Community) và tiếp theo là Liên minh Châu Âu (EU - European Union) . Hơn nữa, rất nhiều thành viên của EFTA tìm cách để tham gia vào Liên minh Châu Âu hoặc hợp tác trong khu vực kinh tế Châu Âu nói chung. Một Khu vực mậu dịch tự do điển hình khác là NAFTA (Khu vực thương mại tự do Bắc Mỹ - North American Free Trade Area) trên cơ sở hiệp ước thương mại giữa Mỹ, Canada có hiệu lực vào năm 1989, được mở rộng với sự tham gia của Mêhicô vào hiệp ước này năm 1994, còn AFTA chính là Khu vực mậu dịch tự do của các nước ASEAN được khởi đầu từ 1/1/1993 và cơ bản sẽ hoàn tất lịch trình hội nhập của nó vào năm 2003. Một số nước thành viên của khu vực này do gia nhập chậm hơn nên tiến trình này có thể kéo dài đến năm 2006 và năm 2008. Khu vực mậu dịch tự do là hình thức đơn giản nhất của hội nhập kinh tế quốc tế, tuy nhiên, để đi đến hình thức hội nhập ổn định này, các quốc gia thành viên có thể áp dụng một hình thức quá độ là xây dựng khu vực ưu đãi thương mại hoặc những hình thức tương tự. b- Đồng minh thuế quan (the Custom Unions) Đồng minh thuế quan là bước cao hơn trong việc hội nhập kinh tế quốc tế. Giống như các thành viên trong FTA, các thành viên trong đồng minh thuế quan cũng loại bỏ hàng rào về thương mại hàng hóa và dịch vụ giữa các nước này. Ví dụ, Cộng đồng kinh tế Châu Âu (EEC) ra đời vào năm 1957 bao gồm CHLB Đức, Pháp, ý, Bỉ, Hà Lan và Luxembourg. Trình độ liên kết cao hơn của loại hình đồng minh thuế quan cũng thể hiện ở việc thiết lập một chính sách thương mại chung đối với các thành viên không thuộc đồng minh thuế quan đó. Với hình thức liên kết kinh tế này, chính sách mậu dịch của các nước thành viên trở thành một bộ phận của chính sách mậu dịch của các nước trong cộng đồng. Ví dụ, một hình thức thuế nhập khẩu từ các nước không thuộc đồng minh thuế quan thì chịu cùng một thuế xuất nhập khẩu khi bán cho bất kỳ thành viên nào. Hiệp định chung về thương mại và thuế quan (GATT-General Agreement Trade and Tariffs) cũng là một hình thức của liên kết này. Việc chuyển từ Hiệp định chung về thương mại và thuế quan lên thành Tổ chức thương mại thế giới (WTO) có thể làm tăng cường hơn đặc trưng và mở rộng phạm vi của loại hình liên kết này. c- Thị trường chung (Common Market) Bước tiếp theo của chuỗi hội nhập kinh tế quốc tế là thị trường chung (Common Market). Giống như đồng minh thuế quan, thị trường chung không có hàng rào thương mại giữa các thành viên và có một chính sách đối ngoại chung. Tuy nhiên, các yếu tố lao động, sản xuất, vốn và công nghệ cũng được dịch chuyển tự do giữa các nước. Vì thế việc cấm nhập cư, di cư và ngăn cản đầu tư ra nước ngoài giữa các nước thành viên bị bãi bỏ. Tuy nhiên, tầm quan trọng của sự dịch chuyển giữa các yếu tố cho sự tăng trưởng kinh tế không thể đề cao quá mức. Mặc dù đạt được các lợi ích cụ thể, các thành viên trong thị trường chung phải chuẩn bị hợp tác chặt chẽ trong chính sách tiền tệ, tài chính và việc làm. Thị trường chung sẽ nâng cao phúc lợi của toàn thể thành viên nhưng không hẳn là bản thân mỗi nước đạt được lợi ích như nhau. Thị trường chung Châu Âu (EEC) trước đây là một ví dụ cho hình thức hội nhập này. d- Liên minh tiền tệ (Monetary Union) Liên minh tiền tệ là hình thức của liên kết kinh tế quốc tế diễn ra trên lĩnh vực tiền tệ. Liên minh tiền tệ là một hình thức hội nhập trong đó các nước thành viên cùng phối hợp và thống nhất các chính sách tiền tệ, giao dịch tiền tệ quốc tế, dự trữ tiền tệ, phát hành đồng tiền tập thể. Đồng thời, các quốc gia thống nhất chính sách tỷ giá hối đoái, duy trì chế độ tỷ giá hối đoái được điều tiết trong một giới hạn nhất định và có những biện pháp can thiệp trong những trường hợp nhất định để ổn định các quan hệ tiền tệ giữa các thành viên. Đây là hình thức hội nhập cao hơn so với các hình thức trên đây. Liên minh tiền tệ Châu Âu là một ví dụ điển hình của loại hình này. Liên minh tiền tệ Châu Âu đã cho ra đời đồng tiền chung của các nước châu Âu (EURO) kể từ 1/1/1999. Đồng tiền EURO ra đời đã góp phần làm giảm chi phí giao dịch, thúc đẩy quá trình tự do hoá tài chính và tự do hoá thương mại, đầu tư và lao động giữa các nước thành viên. Kể từ 1/7/2002, các đồng tiền quốc gia của các nước thành viên được thay thế bằng đồng EURO (12/15 quốc gia). e- Liên minh kinh tế (Economic Union) Liên minh kinh tế là hình thức phát triển ở trình độ cao của hội nhập kinh tế quốc tế và cũng là loại hình cao nhất của liên kết kinh tế. Việc tạo ra liên minh kinh tế cần sự hội nhập chính sách kinh tế hơn là sự di chuyển hàng hóa, dịch vụ và yếu tố sản xuất qua biên giới. Liên minh Châu Âu (EU - European Union) được thành lập từ năm 1993 được coi là một liên kết kinh tế. Thông qua liên minh kinh tế quốc tế, các thành viên sẽ hòa hợp chính sách tiền tệ, chính sách thuế và chính sách chi tiêu Chính phủ. Hơn nữa, tất cả các thành viên sẽ sử dụng chung một đơn vị tiền tệ thống nhất. Điều này có thể thực hiện trong thực tế bởi một tỷ giá hối đoái cố định. Rõ ràng việc hình thành liên minh kinh tế cần đòi hỏi các quốc gia bỏ qua một phần lớn chủ quyền quốc gia. Hệ thống chính trị toàn cầu cho đến nay vẫn dựa trên sự tự chủ và quyền lực tối cao của các quốc gia, bởi vậy việc giảm bớt quyền lực Nhà nước sẽ chắc chắn luôn gặp phải sự phản ứng gay gắt. Toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế là một xu thế tất yếu diễn ra đối với các tổ chức dưới góc độ là một quốc gia. Bởi vì hầu hết các nước trên thế giới đều nhận thức rằng muốn phát triển hệ thống kinh tế xã hội của mình thì phải mở cửa ra bên ngoài, tức là tất yếu phải tham gia vào hội nhập. Tuy nhiên, hội nhập kinh tế quốc tế không chỉ có những ảnh hưởng tích cực mà còn có những ảnh hưởng tiêu cực đến các quốc gia thành viên, và tất nhiên sự tác động tích cực hoặc tiêu cực này cũng ảnh hưởng tới các tổ chức có qui mô nhỏ hơn nằm trong hệ thống quốc gia đó. Do vậy, hoạt động quản lý các tổ chức hiện nay và tương lai tất yếu phải phân tích và gắn với xu thế toàn cầu hóa này. Các loại hình liên kết kinh tế quốc tế nêu trên là những nấc thang của quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. Chúng hoạt động dựa trên 5 nguyên tắc sau (đây cũng chính là 5 nguyên tắc hoạt động của WTO): - Nguyên tắc không phân biệt đối xử nhằm đảm bảo sự đối xử bình đẳng giữa các nước thành viên với nhau cũng như trên thị trường mỗi nước. Nguyên tắc này được cụ thể thành quy chế tối huệ quốc (tất cả hàng hoá, dịch vụ và công ty của các nước đối tác đều được hưởng một chính sách chung bình đẳng) và quy chế đối xử quốc gia (tức là không phân biệt đối xử giữa hàng hoá, dịch vụ và người sản xuất của mình với hàng hoá, dịch vụ và người sản xuất nước khác trên thị trường nội địa). - Nguyên tắc tiếp cận thị trường nhằm tạo ra một môi trường thương mại mà bất cứ thành viên nào cũng được tiếp cận (mở cửa thị trường cho nhau và công bố công khai chính sách và luật lệ thương mại). - Nguyên tắc cạnh tranh công bằng. - Nguyên tác áp dụng các hoạt động khẩn cấp trong trường hợp cần thiết (khi có đe doạ thái quá từ bên ngoài). - Nguyên tắc ưu đãi giành cho các nước đang và chậm phát triển (kéo dài thời gian hoặc mức độ cam kết thấp hơn). 1.1.3. Tính tất yếu của quá trình hội nhập kinh tế quốc tế Tự do hóa thương mại được xem là nhân tố quan trọng thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và nâng cao mức sống cho mọi quốc gia. Hầu hết các nước trên thế giới đều điều chỉnh chính sách theo hướng mở cửa, giảm và tiến tới dỡ bỏ các rào cản thương mại, làm cho việc luân chuyển hàng hóa và các nhân tố sản xuất trên thế giới ngày càng thông thoáng hơn. Để tránh bị tụt hậu, các nước trên thế giới đang ngày càng nỗ lực hội nhập vào xu thế chung để tăng cường sức mạnh kinh tế. Quá trình hội nhập kinh tế quốc tế diễn ra từ lâu, đi từ thấp lên cao với những mức độ và phạm vi khác nhau. Khu vực mậu dịch tự do được hiểu là một nhóm gồm hai hay nhiều lãnh thổ, trong đó thuế quan và các quy định hạn chế thương mại được xóa bỏ về cơ bản trong trao đổi thương mại các sản phẩm có xuất xứ từ các lãnh thổ lập thành Khu vực mậu dịch tự do. Các loại hình liên kết kinh tế tiếp theo ra đời phản ánh quá trình hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng phát triển cả về chiều rộng và chiều sâu, chúng là kết quả của quá trình quốc tế hoá, khu vực hoá mà động lực bên trong là sự phát triển của lực lượng sản xuất mà trước hết là của khoa học, kỹ thuật và công nghệ. Trên thế giới, quá trình quốc tế hóa tiếp tục đang diễn ra với quy mô ngày càng lớn, với một tốc độ ngày càng cao trong tất cả các lĩnh vực của đời sống kinh tế thế giới. Quá trình quốc tế hóa này diễn ra ở những cấp độ khác nhau với xu hướng toàn cầu hóa đi đôi với xu hướng khu vực hóa. Xu hướng khu vực hóa thể hiện ở việc hình thành các liên kết kinh tế khu vực với các hình thức đa dạng: Liên minh Châu Âu (EU), Khu vực mậu dịch tự do Bắc Mỹ (NAFTA), Diễn đàn kinh tế Châu á -Thái Bình Dương (APEC)... Xu hướng quốc tế hóa đặt ra một yêu cầu tất yếu: Mỗi quốc gia phải mở cửa ra thị trường thế giới và chủ động tham gia vào phân công lao động quốc tế, tham gia vào các tổ chức quốc tế và khu vực để phát triển bền vững. Hiện nay, xu thế hoà bình, hợp tác để phát triển ngày càng trở thành đòi hỏi bức xúc của các dân tộc và các nước trên thế giới. Các nước đều cần có môi trường hoà bình, ổn định và thực hiện chính sách mở cửa; các nền kinh tế ngày càng gắn bó, tuỳ thuộc lẫn nhau, tạo động lực cho tăng trưởng kinh tế; các thể chể đa phương trên thế giới và khu vực có vai trò ngày càng tăng cùng với sự phát triển của ý thức độc lập tự chủ, tự lực tự cường của các dân tộc. Toàn cầu hoá đang là một trong những xu thế phát triển chủ yếu của quan hệ quốc tế hiện đại. Cuộc cách mạng khoa học và công nghệ đã và đang thúc đẩy mạnh mẽ quá trình chuyên môn hoá và hợp tác giữa các quốc gia, làm cho lực lượng sản xuất được quốc tế hoá cao độ. Những tiến bộ khoa học công nghệ, đặc biệt là lĩnh vực công nghệ thông tin, đã đưa các quốc gia gắn kết lại gần nhau, dẫn tới sự hình thành những mạng lưới toàn cầu. Trước những biến đổi to lớn về khoa học công nghệ này, tất cả các nước trên thế giới đều thực hiện điều chỉnh cơ cấu kinh tế, điều chỉnh chính sách theo hướng mở cửa, giảm và tiến tới dỡ bỏ hàng rào thuế quan và phi thuế quan, làm cho việc trao đổi hàng hoá, luân chuyển vốn, lao động và kỹ thuật trên thế giới ngày càng thông thoáng hơn, mở đường cho kinh tế quốc tế phát triển. Đại diện cho xu thế toàn cầu hoá này là sự ra đời của Hiệp định chung về thuế quan và thương mại - GATT vào năm 1948 với 23 nước thành viên sáng lập với mục tiêu xác lập những nguyên tắc điều chỉnh và thúc đẩy thương mại quốc tế phục vụ cho phát triển kinh tế của mỗi nước thành viên. Kể từ 1/1/1995, GATT đã được đổi thành Tổ chức thương mại Thế giới (WTO) có vai trò điều tiết không chỉ thương mại hàng hoá mà mở rộng sang cả thương mại dịch vụ, đầu tư, quyền sở hữu trí tuệ. Đến nay, với 143 nước thành viên chiếm trên 90% tổng kim ngạch thương mại thế giới, WTO trở thành một tổ chức có qui mô toàn cầu và là nền tảng pháp lý cho quan hệ kinh tế quốc tế, là diễn đàn thường trực đàm phán thương mại và là thể chế giải quyết các tranh chấp thương mại quốc tế. Xu thế khu vực hoá xuất hiện ở những năm 1950, cũng đã và đang phát triển mạnh mẽ cho tới ngày nay, với sự ra đời của trên 40 tổ chức kinh tế, thương mại khu vực, trong đó đáng chú ý là sự ra đời của Liên minh châu Âu - EU năm 1993 với 12 nước thành viên (số thành viên dự kiến sẽ tăng lên 25 quốc gia), Hiệp hội các nước Đông Nam á - ASEAN năm 1967 với 10 nước thành viên, Diễn đàn hợp tác kinh tế Châu á - Thái Bình Dương APEC năm 1989 với 21 nước thành viên chiếm trên 60% GDP và 50% kim ngạch thương mại thế giới, Khu vực thương mại tự do Bắc Mỹ NAFTA năm 1994. Các tổ chức kinh tế - thương mại khu vực đều dựa trên nền tảng của WTO, tuân thủ các nguyên tắc của WTO, được WTO công nhận, đều nhằm mục tiêu đẩy mạnh hợp tác, thực hiện tự do hoá, thuận lợi hoá thương mại và đầu tư, tạo lập lợi thế cạnh tranh trên trường quốc tế. Các tổ chức khu vực đều đề cập tới các nội dung trùng với WTO, nhưng mỗi tổ chức đều chọn những lĩnh vực mà mình có lợi thế hơn để tập trung nguồn lực, hợp tác chiều sâu, theo những phương thức đa dạng nhằm tạo lợi thế cạnh tranh riêng cho khu vực. Có thể nói bản chất của các tổ chức quốc tế và khu vực là giải quyết vấn đề thị trường. Xu thế toàn cầu hoá và khu vực hoá là sản phẩm của quá trình cạnh tranh giành giật thị trường gay gắt giữa các nước và giữa các thực thể kinh tế quốc tế. Với sự phát triển mạnh mẽ của cuộc cách mạng khoa học công nghệ, sức sản xuất ngày càng phát triển kéo theo sự đòi hỏi cấp bách của vấn đề thị trường tiêu thụ. Với sự hợp tác quốc tế, những hàng rào cản trở giao lưu thương mại và đầu tư ngày càng giảm đi, kinh tế thế giới có xu thế ngày càng trở thành một thị trường chung. Tất cả các nước, để khỏi bị gạt ra ngoài lề của sự phát triển, đều phải nỗ lực hội nhập vào xu thế chung, ra sức cạnh tranh kinh tế vì sự tồn tại và phát triển của chính mình. Đây thực chất là quá trình vừa hợp tác vừa đấu tranh phân chia thị trường. Cuộc khủng hoảng kinh tế - tài chính - tiền tệ ở Châu á nửa cuối thập kỷ 90 không những không đảo ngược xu t._.hế liên kết khu vực, liên kết quốc tế về thương mại, đầu tư trên thế giới mà thậm chí còn có phần kích thích xu thế đó phát triển. Tính tuỳ thuộc lẫn nhau giữa các nước tăng lên làm cho tất cả các nước phải thường xuyên có những cải cách kịp thời trong nước để thích ứng với những sự biến động trên thế giới. Vì vậy, hội nhập kinh tế quốc tế thực chất là cuộc đấu tranh phức tạp để góp phần phát triển kinh tế và củng cố an ninh chính trị, độc lập kinh tế và bản sắc dân tộc của mỗi nước thông qua việc thiết lập các mối quan hệ tuỳ thuộc lẫn nhau, đan xen, nhiều chiều, ở nhiều tầng nấc với các nước khác. [3], [10], [24] 1.1.4. Những tác động của việc tham gia vào khu vực Mậu dịch tự do [14], [25], [30] Việc thành lập Khu vực mậu dịch tự do có những tác động nhất định đối với các nước tham gia. Những biểu hiện của các ảnh hưởng này rất đa dạng. Những ảnh hưởng chủ yếu của việc tham gia vào khu vực mậu dịch tự do của một nước được thể hiện ở việc tạo lập mậu dịch và chuyển hướng mậu dịch 1.1.4.1. Tạo lập mậu dịch Quá trình tạo lập mậu dịch thông qua việc tham gia vào Khu vực mậu dịch tự do thể hiện ở việc mở rộng khả năng xuất-nhập khẩu giữa các nước thành viên. Nhờ việc bãi bỏ các hàng rào thuế quan và phi thuế quan giữa các nước mà giá cả hàng hoá lưu chuyển giữa các nước trở nên rẻ hơn trước, nhu cầu của người tiêu dùng ở các nước vì thế có cơ hội tăng lên. Kết quả của quá trình này là khối lượng các hàng hoá và dịch vụ trao đổi giữa các nước được mở rộng. Việc mở rộng hoạt động xuất nhập khẩu đã làm tăng khả năng khai thác các nguồn lực của các quốc gia một cách có hiệu quả. Việc tạo lập mậu dịch còn làm tăng thêm phúc lợi của các ngành sản xuất nội địa do việc thay thế các ngành có chi phí sản xuất cao bằng các ngành có chi phí sản xuất thấp hơn. Cơ hội có việc làm của người lao động tăng lên. 1.1.4.2. Chuyển hướng mậu dịch Việc tạo lập Khu vực mậu dịch tự do còn dẫn đến chuyển hướng mậu dịch giữa các quốc gia. Điều này được thể hiện ở việc các quốc gia thành viên sẽ trở thành đối tác buôn bán với nhau thay cho cho các quốc gia không phải là thành viên. Các điều kiện buôn bán giữa các quốc gia trong một khu vực trở nên thuận tiện cho sự chu chuyển thương mại nội bộ khu vực. Một quốc gia thành viên sẽ thay thế việc nhập khẩu hàng hoá từ các nước ngoài thành viên có mức giá thấp hơn bằng việc nhập khẩu các hàng hoá có mức giá cao hơn từ các nước trong khu vực. Quá trình chuyển hướng mậu dịch do điều kiện thương mại ưu đãi đã tạo điều kiện để gia tăng lượng hàng hoá, dịch vụ được đưa ra trao đổi giữa các nước thành viên. Vì vậy, quá trình chuyển hướng mậu dịch còn bao hàm cả quá trình tạo lập mậu dịch. Tuy nhiên, việc chuyển hướng mậu dịch chỉ mang lại lợi ích cục bộ cho các quốc gia trong khu vực. Xét trên phạm vi toàn thế giới một cách tổng thể, khu vực mậu dịch tự do có thể làm giảm phúc lợi toàn thế giới nếu việc thành lập khu vực này khuyến khích phát triển các ngành sản xuất kém hiệu quả. Như vậy, quá trình thành lập khu vực mậu dịch tự do có thể gây ra những tác động nhất định cả trong sản xuất lẫn tiêu dùng. Sự thay thế giữa việc sản xuất các hàng hoá phục vụ nhu cầu nội địa bằng việc sản xuất các hàng hoá phục vụ cho xuất khẩu sang các nước bạn hàng thể hiện sự tác động đến sản xuất. Việc chuyển hướng tiêu dùng hàng hoá nội địa bằng hàng hoá nhập khẩu từ các nước đối tác thể hiện sự tác động đến tiêu dùng. 1.1.4.3. Các tác động khác Ngoài hai tác động chủ yếu trên đây, việc tham gia vào khu vực mậu dịch tự do còn tạo điều kiện để các nước tiếp nhận vốn đầu tư, công nghệ, kinh nghiệm quản lý từ các nước thành viên. Về lâu dài, tự do thương mại góp phần làm tăng năng suất lao động xã hội và tăng trưởng kinh tế thông qua khai thác các lợi thế so sánh quốc gia cũng như khai thác các điều kiện thương mại có lợi giữa các nước trong khu vực. Ngoài ra, tự do hoá thương mại góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế thông qua tăng xuất khẩu và tăng năng suất cận biên của hai yếu tố sản xuất cơ bản là lao động và tư bản. Việc đẩy mạnh xuất khẩu làm tăng hiệu quả sản xuất của từng quốc gia thể hiện: - Khi tham gia vào Khu vực mậu dịch tự do, các quốc gia có xu hướng chú trọng phát triển các ngành sản xuất có hiệu quả cao nhất trên cơ sở các lợi thế so sánh của các quốc gia trong quan hệ với các nước thành viên. Quá trình này còn được tăng cường thêm khi các ngành sản xuất được mở rộng được thị trường rộng quy mô và do đó còn tạo ra được hiệu quả kinh tế mới do quy mô sản xuất tăng lên mang lại. Kết quả của quá trình này còn được thể hiện ở việc tái cấu trúc nền kinh tế và phát huy những lợi thế của cơ cấu kinh tế hướng ngoại. - Các ngành sản xuất ở các nước có thể tham gia hoạt động thương mại quốc tế nội bộ khu vực có hiệu quả cần phải tìm mọi biện pháp để tăng năng suất lao động và hạ giá thành sản phẩm. Để đạt được mục tiêu đó, các ngành sản xuất phải nhanh chóng áp dụng khoa học – công nghệ mới, tiếp thu những kinh nghiệm quản lý tiên tiến và phải xây dựng các chiến lược kinh doanh thích hợp. - Việc mở rộng xuất khẩu sẽ góp phần làm thăng bằng cán cân thanh toán quốc tế của quốc gia, tăng dự trữ ngoại tệ và làm năng động hoá các hoạt động tín dụng, tài chính trong nội bộ và giữa các nước. Mở rộng xuất khẩu là cơ sở để tăng nguồn vốn tích luỹ cho đầu tư phát triển. Đây là cơ sở để tăng trưởng kinh tế ổn định và bền vững của các quốc gia. Bên cạnh những lợi ích kinh tế chủ yếu do tham gia vào Khu vực mậu dịch tự do mang lại trên đây, các quốc gia khi tham gia vào liên kết kinh tế khu vực cần xử lý không ít những vấn đề phát sinh bao gồm: - Điều chỉnh lại các cân đối lớn trong nền kinh tế khi xoá bỏ các hàng rào thuế quan và phi thuế quan, thay đổi chính sách tài khoá, chính sách tỷ giá hối đoái... - Giải quyết tình trạng việc làm cho người lao động và tái đào tạo lại đội ngũ lao động theo những mục tiêu phát triển đạt ra của các nước trong cộng đồng. - Thiết lập các khuôn khổ chung với các nước thành viên bao gồm hệ thống pháp luật chính sách, các loại quy định về thủ tục hải quan, tiêu chuẩn kỹ thuật, môi trường sinh thái, giáo dục đào tạo, văn hoá - khoa học... - Giải quyết những vấn đề liên quan đến sự bình đẳng, công bằng giữa các thành viên trong xã hội và giữa các nước trong nội bộ khu vực cũng như xử lý những vấn đề trong quan hệ giữa các nước thành viên trong khu vực với các nước ngoài khu vực. Tóm lại việc tham gia vào liên kết kinh tế quốc tế nói chung và khu vực mậu dịch tự do nói riêng luôn luôn mang lại cho các quốc gia những lợi ích, thiệt hại cũng như tạo ra cho chúng những cơ hội và những thách thức nhất định. Mỗi quốc gia cần phải cân nhắc, lựa chọn để đưa ra cách thức tham gia vào khu vực mậu dịch tự do một cách phù hợp để vừa tối đa hoá được các lợi ích, giảm bớt những thiệt hại, khai thác được các cơ hội và vượt qua được những thách thức nhằm đạt được những mục tiêu phát triển của quốc gia cả trước mắt và lâu dài. Sự khác nhau về điều kiện phát triển của các quốc gia đưa đến một cách thức hội nhập khác nhau giữa chúng. 1.2. Hợp tác kinh tế thương mại AFTA AFTA là tên viết tắt Tiếng Anh của Khu vực Mậu dịch Tự do ASEAN (ASEAN Free Trade Area - AFTA) bao gồm 10 nước ASEAN: Brunei Darussalam, Campuchia, Inđônêxia, Lào, Malaysia, Myanmar, Philippin, Singapore, Thái Lan và Việt Nam. Để hoàn thành AFTA, các nước ASEAN cùng thực hiện Chương trình thuế quan ưu đãi có hiệu lực chung CEPT (Common Effective Preferential Tariffs). Theo đó, các nước ASEAN sẽ dần dần cắt giảm thuế quan xuống 0-5%, dỡ bỏ các rào cản thương mại và hài hòa hóa các thủ tục hải quan trong vòng 10 năm để hàng hóa được tự do lưu thông giữa các nước thành viên. 1.2.1. Mục tiêu của AFTA [64], [65] Xu hướng toàn cầu hoá nền kinh tế thế giới đã đặt ra những thách thức to lớn đối với ASEAN trong việc nâng cao sức cạnh tranh của hàng hoá ASEAN trên thị trường quốc tế và tính hấp dẫn đối với đâù tư nước ngoài. Chính vì vậy, tại Hội nghị thượng đỉnh lần thứ tư tại Singapore, ngày 28/1/1992, nguyên thủ các nước ASEAN đã có một quyết định quan trọng nhằm nâng cao hơn nữa mức độ hợp tác trong lĩnh vực thương mại, đó là thành lập Khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA) thông qua việc ký kết Hiệp định về chương trình ưu đãi thuế quan có hiệu lực chung (CEPT). Những mục tiêu kinh tế trực tiếp của AFTA là: - Tự do hoá thương mại ASEAN thông qua việc giảm dần mức thuế quan trong nội bộ khu vực xuống 0-5%, đồng thời xoá bỏ các hàng rào phi thuế quan; - Thu hút các nhà đầu tư nước ngoài vào khu vực bằng việc đưa ra một khối thị trường thống nhất; - Tạo điều kiện để ASEAN thích nghi với những điều kiện kinh tế quốc tế đang thay đổi, đặc biệt là việc phát triển các thoả thuận thương mại khu vực (RTA) trên thế giới. Trong ba mục tiêu trên, mục tiêu đầu tiên không phải và mục tiêu quan trọng nhất của AFTA bởi vì thị trường của ASEAN không lớn vì nguồn cung các sản phẩm chế tạo nằm ngoài khu vực. Hơn nữa mặc dù có tốc độ tăng trưởng cao, song phần lớn các nước trong khu vực vẫn là các nước đang phát triển cho nên phụ thuộc nhiều vào đầu tư, công nghệ, bí quyết quản lý của nước ngoài. Mục tiêu thu hút đầu tư nước ngoài là mục tiêu trung tâm của AFTA. Điều này chủ yếu là do áp lực cạnh tranh trong thu hút đầu tư nước ngoài của các nước. Khi AFTA trở thành một khu vực sản xuất thống nhất, quá trình chuyên môn hoá sản xuất nội bộ khu vực và khai thác các thế mạnh của các nền kinh tế khác nhau trở nên hợp lý hơn. Mục tiêu thứ ba gắn với các yếu tố không thuận lợi của môi trường thương mại. Các nước phát triển trên thế giới thiên về phát triển các thoả thuận thương mại khu vực để bảo hộ thị trường đối với các sản phẩm của các nước Đông á. Sự ra đời của AFTA đáp lại khuynh hướng tăng lên của chủ nghĩa khu vực trên thế giới. Theo xu hướng mở rộng liên kết giữa các nước, đặc biệt là với sức ép của các tổ chức thương mại khác như tổ chức thương mại Thế giới (WTO), Diễn đàn hợp tác kinh tế Châu á - Thái Bình Dương (APEC) đã đẩy nhanh tốc độ thực hiện của AFTA và chắc chắn sẽ đưa AFTA tiến tới cấp độ liên kết kinh tế cao hơn theo đúng quy luật vận động kinh tế quốc tế. Các quy định chung về AFTA Khu vực mậu dịch tự do AFTA được hình thành thông qua các yếu tố sau đây: - Chương trình thuế quan ưu đãi có hiệu lực chung (CEPT - The Common Effective Preferential Tariff Scheme); - Thống nhất và công nhận tiêu chuẩn hàng hoá giữa các nước thành viên; - Công nhận việc cấp giấy xác nhận xuất xứ hàng hoá của nhau; - Xoá bỏ những quy định hạn chế đối với ngoại thương. - Hoạt động tư vấn kinh tế vĩ mô. Để thực hành thành công Khu vực mậu dịch tự do AFTA, Hội nghị Bộ trưởng kinh tế các nước ASEAN (AEM) đã quyết định ký Chương trình Thuế quan ưu đãi có hiệu lực chung (CEPT) vào năm 1992. Trong thời kỳ 15 năm kể từ 1/1/1993, thuế xuất - nhập khẩu giữa các nước trong khu vực sẽ được giảm xuống còn 0-5% và các hàng rào phi thuế quan sẽ được loại bỏ đối với một diện rộng các sản phẩm chế tạo. Vào năm 1994, ASEAN đã quyết định đẩy nhanh kế hoạch cắt giảm thuế quan này ở mức 0-5% vào năm 2003. Như vậy, công cụ chính để thực hiện AFTA là cắt giảm thuế quan trong thương mại nội bộ khu vực xuống còn 0-5%. Gắn với việc cắt giảm thuế quan, việc loại bỏ các hàng rào thương mại và việc hợp tác trong lĩnh vực hải quan cũng đóng vai trò quan trọng trong khi xây dựng một khu vực mậu dịch tự do. Điểm cần lưu ý ở đây là AFTA không phải và một liên minh thuế quan, vì vậy từng nước trong khu vực vẫn có quyền tự do thực hiện chính sách thuế của mình đối với từng phần còn lại của thế giới. AFTA được thành lập nhằm đạt được những mục đích kinh tế sau: - Tăng cường buôn bán trong nội khối ASEAN bằng việc cắt giảm thuế quan và dỡ bỏ các rào cản thương mại; - Biến ASEAN thành khu vực hấp dẫn đầu tư nước ngoài để hợp lý hóa sản xuất, chuyên môn hóa trong nội khối ASEAN và khai thác các thế mạnh của các nền kinh tế trong khu vực. 1.2.2. Cơ cấu tổ chức của AFTA [30], [32], [46], [55], [66] Hội đồng AFTA được thành lập theo quyết định của Hội nghị Thượng đỉnh ASEAN lần thứ tư ngày 28/1/1992 tại Singapore để theo dõi, phối hợp và báo cáo việc thực hiện Chương trình thuế quan ưu đãi có hiệu lực chung (CEPT). Hội đồng AFTA là cơ quan cấp Bộ trưởng, gồm đại diện của các nước thành viên và Tổng thứ ký ASEAN. Hội đồng họp khi cần thiết, nhưng ít nhất mỗi năm một lần và báo cáo trực tiếp lên Hội nghị Bộ trưởng kinh tế (AEM). Việt Nam cử Bộ trưởng Bộ Tài chính tham gia Hội đồng AFTA. Sơ đồ 1- Cơ cấu thể chế của hợp tác kinh tế ASEAN Hội nghị Bộ trưởng Kinh tế (ASEM) Các nước ASEAN UB Điều phối về đầu tư (AIA) Hội đồng AFTA (AFTA Council) Phòng Thương mại và công nghiệp ASEAN (CCI) UB Điều phối về CEPT để thực hiện AFTA (CCCA) Hội nghị các quan chức cấp cao ASEAN (SEOM) UB Điều phối về dịch vụ (CCS) Ban thư ký ASEAN (ASEAN Secretariat) Các thể chế khác Các nhóm công tác Các UB Tư vấn 1.2.3. Những đặc điểm chủ yếu của AFTA Khối mậu dịch tự do (AFTA) ban đầu gồm những thành viên của Hiệp hội các nước Đông Nam á (ASEAN) và sau đó kết nạp thêm Việt Nam, Lào, Campuchia và Mianma. Với 430 triệu dân, diện tích 3,5 triệu km2, thu nhập bình quân đầu người là 1.680USD (số liệu năm 2000), khu vực mậu dịch tự do AFTA lớn hơn Khu vực thương mại tự do Bắc Mỹ (NAFTA) và Liên minh Châu âu (EU) về dân số và diện tích nhưng thấp hơn về thu nhập bình quân đầu người từ 10-15 lần. Khu vực mậu dịch tự do ASEAN nằm trong vòng cung Châu á- Thái Bình Dương, là khu vực phát triển năng động nhất thế giới trong hai thập kỷ vừa qua. với vị trí đầy triển vọng này, khu vực AFTA là nơi thu hút sự chú ý của các liên minh kinh tế thế giới, các công ty, các tập đoàn đa quốc gia cũng như cả cộng đồng quốc tế. AFTA sẽ là khối mậu dịch “hạt nhân” của Diễn đàn hợp tác kinh tế Châu á - Thái Bình dương (APEC) Các nền kinh tế của các thành viên ASEAN vừa bổ sung cơ cấu kinh tế lẫn nhau, vừa cạnh tranh kinh tế với nhau. Thái Lan xuất khẩu gạo sang Malaysia. Việt Nam xuất khẩu gạo sang Phipippin. Thái Lan và Việt Nam có sự cạnh tranh với nhau trong xuất khẩu gạo ngay trong nội bộ khối AFTA. Việc thực hiện Hiệp định AFTA sẽ vừa mở rộng mậu dịch vừa chuyển hướng mậu dịch trong khối và giữa khối AFTA với các phần còn lại của thế giới. Lĩnh vực hợp tác trong khối AFTA rất đa dạng bao gồm hợp tác trong lĩnh vực thương mại, đầu tư dịch vụ, sở hữu trí tuệ, giao thông vận tải, bưu chính viễn thông, công nghiệp, nông nghiệp, lâm nghiệp, phát triển các xí nghiệp vừa và nhỏ, trao đổi thông tin... nhưng việc thực hiện tự do hoá thương mại thông qua việc tiến hành cắt giảm thuế quan theo Chương trình ưu đãi thuế quan có hiệu lực chung (CEPT) dự kiến sẽ hoàn tất việc cắt giảm thuế quan đến mức 0-5% vào năm 2003 (trừ Việt Nam kéo dài đến năm 2006) quyết định trực tiếp đến tiến trình liên kết thực tế của khối mậu dịch AFTA trong nền kinh tế thế giới. Chắc chắn rằng, AFTA không chỉ dừng lại ở một Khu vực mậu dịch tự do mà sự phát triển toàn diện các lĩnh vực đã được đặt ra sẽ dẫn AFTA đến một Liên minh kinh tế theo đúng quy luật của sự hội nhập kinh tế quốc tế. Các nền kinh tế thành viên trong khối mậu dịch tự do AFTA có sự chênh lệch về trình độ phát triển, khác nhau về khả năng xuất khẩu, về mức độ cạnh tranh của hàng hoá trên thị trường, tiềm lực tài chính, tiềm lực công nghệ, những nguyên tắc ứng xử tối cao trong nội bộ khối là nguyên tắc “đối đẳng”, “ tôn trọng lẫn nhau và các bên cùng có lợi”. AFTA đang ở trong giai đoạn đầu của sự thành lập và hoạt động do đó sẽ còn chịu sự ảnh hưởng của Tổ chức thương mại thế giới (WTO), Diễn đàn hợp tác kinh tế Châu á- Thái Bình Dương (APEC) có quy mô và phạm vi lớn hơn mà những tổ chức này đang trong quá trình hoàn thiện cho nên việc phát triển AFTA cũng gần với việc tạo ra những khuôn khổ mới cả về chiều rộng và chiều sâu cho sự phát triển lâu dài của khối thích hợp với điều kiện trong nội bộ khối và thích hợp với khuôn khổ chung của cơ chế thương mại liên châu lục và cơ chế thương mại toàn thế giới. Tiến trình hội nhập vào AFTA của các nước ASEAN Tiến trình hội nhập vào AFTA của các nước ASEAN thể hiện tập trung ở tiến trình cắt giảm thuế quan và các hạn chế phi mậu dịch. Tiến trình cắt giảm thuế quan được chia làm hai loại: - Đối với danh mục hàng hoá cắt giảm bình thường: Các loại sản phẩm có thuế suất trên 20% sẽ giảm xuống dưới 20% vào ngày 1/11/1998 và sau đó xuống còn 0-5% vào 1/1/2003. Các loại sản phẩm có thuế suất 20% hoặc dưới mức 20% được giảm xuống đến 0-5% vào 1/1/2000 - Đối với danh mục hàng hoá cắt giảm nhanh: Các sản phẩm có tỷ lệ thuế trên 20% được giảm xuống 0-5% vào 1/1/2000. Các sản phẩm có tỷ lệ thuế ở mức 20% hoặc thấp hơn được giảm đến 0-5% vào 1/1/1998. Điểm cần lưu ý ở đây là tiến trình cắt giảm thuế quan của AFTA đã rút xuống từ 15 năm đến 10 năm. Các nước trong khối AFTA ứng xử với tiến trình này ở những mức độ khác nhau. Đối với các nước như Malaixia, Sigapore, Thái Lan,, Brunei là những nước phát triển nhất trong khối có thu nhập bình quân đầu người trên 3.000 USD tham gia vào tiến trình hội nhập AFTA một cách khá thuận lợi. Hầu như sự chuẩn bị của các nước này đã khá ổn định và được sắp đặt theo một kế hoạch lâu dài và rộng lớn cho cả việc gia nhập vào AFTA lẫn cho APEC và WTO. Các nước này đang có khả năng đầu tư lớn ra nước ngoài (Brunây có dự trữ ngoại tệ khoảng 30 tỷ USD). Đây là những nước khá “bình tĩnh và hăng hái” trong gia nhập vào AFTA. Tiến trình hội nhập vào AFTA chủ yếu do các nước này thiết kế theo phương châm rút ngắn tối đa thời gian hội nhập. Hai nước Philippine và Indonesia có thu nhập bình quân đầu người thấp nhất trong khối trước khi có Việt Nam tham gia, nhưng vẫn trên 1.000 USD (nghĩa là cao hơn Việt Nam khoảng 4 lần) và mong muốn hội nhập vào AFTA một cách chậm hơn. Đây là những nước có tiến trình hội nhập sát với Việt Nam hơn do có những vấn đề của nền kinh tế trong nước phải tiếp tục giải quyết. Indonesia có số dân khoảng 200 triệu người, nước có số dân lớn nhất trong khối AFTA hiện đang có chính sách giảm nhập khẩu hàng tiêu dùng để giảm bớt thâm hụt ngân sách quốc gia. Indonesia vẫn còn thâm hụt ngân sách do nhập khẩu tư liệu sản xuất ở nước nước ngoài tăng lên . Chính sách cổ phần hoá đang được tăng cường ở Indonesia để tăng thu cho ngân sách của chính phủ. Philippin có thu nhập bình quân đầu người 1070 USD, dân số tương đương với Việt Nam đang cố gắng thực hiện cải cách hệ thống thuế và áp dụng thuế giá trị gia tăng (VAT). Theo tính toán của các chuyên gia kinh tế Philippin, 10% lượng thuế VAT sẽ áp dụng cho các hàng hoá và dịch vụ tính từ thời điểm có hiệu lực của AFTA (1/1/1996) lượng thuế này dự kiến sẽ thu được 300 triệu USD mỗi năm. áp dụng thuế VAT là điểm then chốt của cải cách hệ thống thuế của Philippin. Khoảng thời gian được tính toán để thực hiện thành công chính sách cải cách thuế này là 5 năm. trong hoạt động thu hút đầu tư nước ngoài, Philippin quy định một công ty nước ngoài muôn tham gia khu vực bán lẻ dưới hình thức doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài phải có số vốn ít nhất là 10 triệu USD. Đồng thời, Philippin còn cho phép các ngân hàng nước ngoài thành lập các chi nhánh trong nước và cải cách thị trường chứng khoán để thu hút vốn đầu tư dưới các kênh khác nhau. 1.2.4. Chương trình CEPT [2], [6], [7], [32], [49] a. Nội dung loại bỏ hàng rào thuế quan: Những nội dung chính trong việc loại bỏ hàng rào thuế quan của AFTA được hoạch định như sau: Các nước thành viên ASEAN sẽ thực hiện cắt giảm thuế nhập khẩu cho hàng hoá có xuất xứ ASEAN theo lộ trình trong vòng 15 năm để xuống tới 0-5%. Việc cắt giảm thuế bắt đầu từ ngày 1/1/1993 và hoàn thành vào ngày 1/1/2008. Tuy nhiên, trước xu hướng tự do hoá thương mại toàn cầu đang được thúc đẩy mạnh mẽ và xuất phát từ nhu cầu tăng cường hợp tác phát triển của các thành viên, ASEAN đã quyết định đẩy nhanh quá trình tự do hoá thương mại trong khu vực. Đặc biệt, sau Hội nghị thượng đỉnh lần thứ 6 năm 1998, thời hạn này đã được đẩy nhanh, đến ngày 1/1/2003 cho 6 thành viên cũ, bao gồm Indonesia, Malaysia, Philippines, Singapore, Thailand và Brunei. Với Việt Nam thời hạn hoàn thành cắt giảm thuế quan là năm 2006. Phạm vi áp dụng của Hiệp định CEPT trong AFTA bao gồm tất cả các hàng hoá có xuất xứ ASEAN, bao gồm hàng hoá công nghiệp, các sản phẩm nông nghiệp chế biến. Riêng đối với nông sản chưa chế biến mang tính chất nhạy cảm với nền kinh tế của các nước ASEAN, tới tận AEM - 26 ngày 22-23/9/1994, các nước mới đưa loại sản phẩm này vào phạm vi thực hiện Hiệp định CEPT với những qui định đặc biệt riêng về thời hạn bắt đầu và kết thúc cắt giảm thuế, mức thuế suất bắt đầu và khi hoàn thành cắt giảm. Các sản phẩm được xác định là cần thiết để bảo vệ an ninh quốc gia, bảo vệ đạo đức xã hội, bảo vệ sức khoẻ và cuộc sống của con người và động thực vật, bảo vệ các tác phẩm có giá trị nghệ thuật, lịch sử và khảo cố học của các nước thành viên ASEAN sẽ không được đưa vào Hiệp định CEPT. Các danh mục hàng hoá: Để triển khai AFTA, các nước ASEAN phân loại các hàng hoá trong biểu thuế nhập khẩu thành bốn danh mục với lộ trình cắt giảm được xây dựng cho từng danh mục cụ thể. Nội dung và lộ trình cắt giảm thuế của từng danh mục như sau: Danh mục cắt giảm ngay (IL-Inclusion list): gồm các sản phẩm mà các nước thành viên đã sẵn sàng cắt giảm thuế. Việc cắt giảm thuế của các sản phẩm thuộc Danh mục này được chia thành hai lộ trình: lộ trình cắt giảm bình thường và lộ trình cắt giảm nhanh. + Lộ trình cắt giảm bình thường: theo Hiệp định được ký kết, việc cắt giảm thuế xuống 0 – 5% sẽ được thực hiện trong vòng 15 năm, sau đó đẩy nhanh mốc hoàn thành vào ngày 1/1/2003 đối với ASEAN-6. Đối với các nước thành viên mới gia nhập ASEAN, thời hạn này chậm hơn, tới ngày 1/1/2006 cho Việt nam, ngày 1/1/2008 cho Lào, Mianma và ngày 1/1/2010 cho Campuchia. + Lộ trình cắt giảm nhanh: Hội nghị thượng đỉnh ASEAN lần thứ tư đã xác định 15 nhóm mặt hàng cần cắt giảm thuế nhanh trong vòng bảy năm, đó là: dầu thực vật, hoá chất, phân bón, sản phẩm cao su, giẩy và bột giấy, đồ gỗ và song mây, đá quí và đồ trang sức, xi măng, dược phẩm, chất dẻo, các sản phẩm bằng da, hàng dệt, các sản phẩm gốm và thuỷ tinh, điện cực đồng, hàng điện tử (Việt Nam không tham gia lộ trình cắt giảm nhanh). Danh mục loại trừ tạm thời (TEL- Temporary Exclusion List): là danh mục gồm các sản phẩm mà các nước chưa sẵn sàng cắt giảm thuế ngay. Theo quyết định của Hội nghị Bộ trưởng AEM – 26 từ ngày 22 đến 23/9/1994, danh mục này sẽ được chuyển dần sang Danh mục cắt giảm ngay trong vòng 5 năm, kể từ ngày 1/1/1996 đến ngày 1/1/2000 đối với ASEAN-6. Danh mục loại trừ hoàn toàn (GEL - General Exception List): là danh mục các sản phẩm sẽ không được đưa vào tham gia AFTA vì lý do bảo vệ an ninh quốc gia, bảo vệ đạo đức xã hội, bảo vệ sức khoẻ và cuộc sống của con người và động thực vật, bảo vệ các tác phẩm có giá trị nghệ thuật, lịch sử và khảo cổ học. Danh mục nhạy cảm (SEL - Sensitive Exception List): Hiệp định CEPT khi được ký kết không bao gồm các sản phẩm nông nghiệp chưa chế biến trong phạm vi từng nước. Tuy nhiên, xuất phát từ nhận thức về vai trò của hàng nông sản chưa chế biến đối với phần lớn các nước ASEAN, cũng như do số lượng các nhóm mặt hàng lớn, thuế quan nhập khẩu cao được các nước áp dụng đối với những mặt hàng này, tại hội nghị AEM–26 ngày 22-23/9/1994, các Bộ trưởng Kinh tế đã quyết định đưa nông sản chưa chế biến vào phạm vi của Hiệp định CEPT để thực hiện AFTA. Theo quyết định tại Hội nghị này, các sản phẩm nông sản chưa chế biến được phân loại thành ba danh mục: Danh mục cắt giảm ngay, Danh mục loại trừ tạm thời và Danh mục nhạy cảm. Đối với hai danh mục đầu, lộ trình cắt giảm thuế sẽ thực hiện theo lộ trình chung cùng với các mặt hàng khác thuộc danh mục, tức là sẽ đạt đến mức thuế 0 – 5% vào năm 2002 cho các nước ASEAN-6, năm 2006 cho Việt nam, năm 2008 cho Lào và Mianma. Đối với các sản phẩm trong Danh mục nhạy cảm, việc cắt giảm sẽ được xử lý theo cơ chế riêng. Các nước đã nhất trí về sự cần thiết phải có một thoả thuận đặc biệt đối với việc cắt giảm thuế cho Danh mục này. Tại Hội nghị Hội đồng AFTA lần thứ 4 năm 1996, các nước đã nhất trí thời hạn để đưa các sản phẩm hàng hoá trong Danh mục này vào Hiệp định CEPT từ 1/1/2010. Trên cơ sở các tiến triển từ Hội nghị này, tại Hội nghị AEM-31 tháng 9/1999, các Bộ trưởng kinh tế ASEAN đã chính thức ký kết Nghị định thư về các sản phẩm nhạy cảm và nhạy cảm cao để thể chế hoá lộ trình cắt giảm thuế quan các sản phẩm nông nghiệp nhạy cảm theo Hiệp định CEPT. Vấn đề dành thời gian cho thành viên mới để triển khai các chương trình hợp tác: Một nguyên tắc được các nước ASEAN chấp thuận đó là căn cứ vào thời điểm gia nhập, tình hình phát triển kinh tế – xã hội của các thành viên mới mà các nước thành viên luôn tạo điều kiện về mặt thời gian để các thành viên mới này có đủ thời gian thực hiện các chương trình hợp tác. Đối với Việt Nam, vì tham gia thực hiện Hiệp định CEPT chậm hơn các nước thành viên khác 3 năm (bắt đầu tư ngày 1/1/1996), do đó thời hạn thực hiện các lộ trình cho các danh mục bên trên, cũng như thời hạn hoàn thành AFTA được chấp nhận sẽ chậm hơn các nước thành viên cũ ở mức tương ứng. Thời hạn hoàn thành AFTA (tức là tất cả các dòng thuế trong IL đạt 0 – 5%) của Việt Nam là năm 2006. Cũng như vậy, thời hạn hoàn thành chuyển toàn bộ các dòng thuế từ TEL sang IL là năm 2003, mỗi năm 20% số sản phẩm trong Danh mục này phải được chuyển vào IL. Đối với các thành viên mới là Lào và Mianma sẽ bắt đầu thực hiện Hiệp định CEPT từ ngày 1/1/1998 và kết thúc vào ngày 1/12008. Campuchia bắt đầu thực hiện CEPT từ ngày 1/1/2000 và kết thúc vào ngày 1/1/2010. Vấn đề đẩy nhanh AFTA Hiện nay trong ASEAN có xu hướng thúc đẩy nhanh hơn nữa việc triển khai thực hiện AFTA để thúc đâỷ thương mại trong nội bộ khu vực, tăng tính cạnh tranh, thu hút đầu tư nước ngoài và đáp lại thách thức của các khu vực kinh tế khác. Cho tới nay, nội dung này tập trung vào một số điểm chính như sau: Đẩy nhanh mốc thời gian hoàn thành AFTA, tức là thời điểm mà các thành viên đạt thuế nhập khẩu CEPT từ 0 – 5% như vừa trình bày ở trên. Từ mốc thời gian là năm 2008 trước đây, đến nay các thành viên ASEAN đã đẩy nhanh thời hạn này tới năm 2002 cho ASEAN-6, năm 2006 cho Việt Nam và năm 2008 cho Lào và Mianma. Đẩy nhanh việc chuyển các dòng thuế trong Danh mục loại trừ tạm thời sang Danh mục cắt giảm ngay. Chuyển các mặt hàng trong Danh mục nhạy cảm sang các danh mục khác, đồng thời đẩy nhanh việc cắt giảm thuế cho các mặt hàng còn lại trong danh mục này. Rà soát lại và giảm các mặt hàng trong Danh mục loại trừ hoàn toàn, chỉ giữ lại những mặt hàng được xác định theo Điều 9 của Hiệp định CEPT. Giảm thuế các mặt hàng theo CEPT xuống 0% vào năm 2010 đối với các nước thành viên cũ ASEAN-6 và năm 2015 với các thành viên mới. Thực hiện các chương trình thuận lợi hoá thương mại, bao gồm các thoả thuận công nhận lẫn nhau về tiêu chuẩn và hợp chuẩn, hài hoà về hải quan và nhiều chương trình khác. Điều kiện để các sản phẩm được hưởng ưu đãi trong khuôn khổ CEPT/AFTA Để được hưởng ưu đãi về thuế nhập khẩu theo Hiệp định CEPT, các sản phẩm cần phải thoả mãn đồng thời các điều kiện cơ bản sau đây: Thực hiện nguyên tắc có đi có lại, tức là: một sản phẩm muốn được hưởng ưu đãi thuế nhập khẩu phải là sản phẩm đồng thời có trong danh mục cắt giảm thuế của cả nước xuất khẩu và nhập khẩu, và sản phẩm đó phải có thuế suất dưới 20%. Sản phẩm đó phải thoả mãn qui chế xuất xứ ASEAN, tức là phải có ít nhất 40% thành phần của nó có xuất xứ từ các nước ASEAN (tính gộp các nước). Trên cơ sở thành phần xuất xứ này, các sản phẩm phải có giấy chứng nhận xuất xứ (mẫu D) do cơ quan được chính phủ của từng nước cho phép cấp. b. Nội dung loại bỏ các hàng rào phi thuế quan (NTBs): Để tiến tới việc hoàn thành AFTA, Điều 5 của Hiệp định CEPT còn xác định mục tiêu loại bỏ các hàng rào phi thuế quan như hạn chế số lượng, hạn ngạch giá trị nhập khẩu, giấy phép nhập khẩu có tác dụng hạn chế định lượng… trong vòng 5 năm sau khi một sản phẩm được hưởng ưu đãi thuế quan. Với mục tiêu được đưa ra theo Hiệp định, năm 1995 các nước ASEAN đã thành lập Nhóm công tác về vấn đề các hàng rào phi thuế quan để xác định và xây dựng chương trình huỷ bỏ các hàng rào phi thuế quan ảnh hưởng đến thương mại khu vực. Dựa trên kết quả làm việc của Nhóm công tác, các nước đã xác định nhiều biện pháp ảnh hưởng rộng và chủ yếu đối với thương mại hàng hoá trong khu vực ASEAN là phụ thu haỉ quan và các hàng rào cản trở thương mại (TBT). Năm 1995, phụ thu hải quan được áp dụng trên 2683 dòng thuế và các hàng rào cản trở thương mại (bao gồm cả các yêu cầu về đặc điểm sản phẩm) ảnh hưởng tới trên 975 dòng thuế của các nước. Trên cơ sở đó, tại phiên họp Hội đồng AFTA lần thứ tám, các nước ASEAN đã thống nhất quyết định thời hạn loại bỏ các hàng rào cản trở thương mại là hết năm 2003. Bảng 2 - Các hàng rào phi thuế quan phổ biến nhất của ASEAN theo dòng thuế Hàng rào phi thuế quan Số dòng thuế bị ảnh hưởng Phụ thu hải quan 2683 Phụ phí 126 Nhập khẩu theo kênh độc quyền 65 Điều hành của thương mại nhà nước 10 Các hàng rào cản trở thương mại (TBT) 568 Yêu cầu về đặc điểm sản phẩm 407 Các yêu cầu về tiếp thị 3 Các qui định kỹ thuật 3 Nguồn: Ban Thư ký ASEAN (Năm 1995) Cùng với nhóm công tác về vấn đề các hàng rào phi thuế quan, các cơ chế tổ chức khác cũng được giao nhiệm vụ tham gia vào thực hiện mục tiêu này trong lĩnh vực cụ thể. Uỷ ban tư vấn ASEAN về tiêu chuẩn và chất lượng (ACCSQ) hỗ trợ cho việc thống nhất các tiêu chuẩn kỹ thuật và các thoả thuận thừa nhận lẫn nhau giữa các nước ASEAN. Hội nghị các quan chức cấp cao trong nông và lâm nghiệp (SOM AMAF) đảm nhiệm việc loại bỏ các hàng rào về kiểm dịch động, thực vật (SPS) trong lĩnh vực nông – lâm nghiệp. ACCSQ đã đưa ra 20 nhóm sản phẩm để ưu tiên hài hoà tiêu chuẩn ASEAN, đó là: Điều hoà không khí Tủ lạnh Radio Điện thoại TV Thiết bị Video Mạch in Các loại máy phát điện Màn hình và bàn phím máy tính Thạch anh điện – từ Đi ốt Linh kiện TV và radio Loa và linh kiện loa Linh kiện cảm ứng Tụ điện Điện trở Chuyển mạch Đèn hình Găng tay cao su Bao cao su Nhận thức được tầm quan trọng của các thoả thuận thừa nhận ._.o năng lực cạnh tranh, đảm bảo hội nhập có hiệu quả. Xây dựng chiến lược cạnh tranh, hình thành và phát triển đồng bộ các loại thị trường, chú trọng các thị trường cơ bản và những thị trường mới sơ khai như thị trường lao động, thị trường chứng khoán và thị trường bất động sản, thị trường khoa học công nghệ, thị trường tư vấn và hỗ trợ thông tin doanh nghiệp. Nhà nước cần có những chính sách cụ thể, hợp lý để khuyến khích các doanh nghiệp trong quá trình tham gia AFTA như: ưu tiên tín dụng, sửa đổi bổ sung những ưu đãi thuế cho sản xuất, xuất khẩu, thành lập quĩ bảo hiểm xuất khẩu, đặc biệt đối với các sản phẩm có tính chất nhạy cảm cao. Đối với các dự án đấu tư trong nước, lấy từ vốn ngân sách hay vốn ODA, phải chú trọng đến vấn đề hiệu quả đầu tư. Nhà nước cần có danh mục các ngành, lĩnh vực ưu tiên trong sử dụng các nguồn vốn này một cách rõ ràng, tránh đầu tư ồ ạt, đầu tư không hiệu quả sẽ không có khả năng hỗ trợ cao cho các doanh nghiệp nâng cao khả năng cạnh tranh khi AFTA được thực hiện. Đối với FDI, cần tập trung hơn nữa khuyến khích mạnh mẽ các nhà đầu tư nước ngoài liên doanh trong lĩnh vực công nghiệp sản xuất linh kiện, phụ tùng cho ngành công nghiệp cơ khí, điện, điện tử, công nghiệp đóng tầu. Cần dành cho những lĩnh vực này sự ưu tiên đặc biệt trước khi AFTA được thực thi để tạo ra sự thay đổi căn bản cục diện cạnh tranh với các nước ASEAN đặc biệt là về trình độ công nghệ. Tiếp tục hoàn thiện môi trường vĩ mô cho phù hợp với điều kiện hội nhập kinh tế: Một là, tiếp tục cải thiện chính sách thương mại và đầu tư, đặc biệt thay đổi chế độ nhập khẩu theo hướng hiện đại hoá và làm tăng tính minh bạch của hệ thống thuế quan và các hàng rào phi thuế quan. Chính phủ cần thiết lập hệ thống các biện pháp thuế quan và phi thuế quan hoàn chỉnh và đồng bộ cho phép sử dụng linh hoạt và hài hoà với mục tiêu bảo hộ nhưng có kỳ hạn giúp các doanh nghiệp tăng sức cạnh tranh ở những lĩnh vực sản xuất, kinh doanh quan trọng trong nền kinh tế. Trong đó, cần nghiên cứu áp dụng các biện pháp phi thuế quan phổ dụng trên thế giới, cần xây dựng các chế độ đãi ngộ tối huệ quốc (MFN), chế độ đãi ngộ quốc gia (NT), chế độ tự vệ và xây dựng qui chế xuất xứ hàng hoá làm cơ sở cho việc phát triển quan hệ thương mại với các quốc gia trong và ngoài khu vực ASEAN, tiếp tục tính toán và phân bố lại các mức thuế xuất nhập khẩu theo các nhóm hàng hoá để giảm độ phân tán của các mức thuế suất, chuyển dần các biện pháp phi quan thuế thành thuế suất tương đương có thể duy trì mức độ bảo hộ hợp lý cho các lĩnh vực sản xuất quan trọng trong nền kinh tế. Hai là, tiếp tục cải cách hệ thống ngân hàng để tăng sức cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt Nam. Để có thể thu được lợi nhuận từ quá trình tự do hoá thương mại, cần phải tăng tính linh hoạt của các nguồn lực quan trọng, đặc biệt là vốn từ ngân hàng. Do đó, hệ thống ngân hàng củaViệt Nam cần phải có những cải cách mới trong giai đoạn 2001 – 2005 như cải cách thủ tục thẩm định tín dụng, áp dụng các tiêu chuẩn kế toán được quốc tế thừa nhận, cải tiến các dịch vụ của ngân hàng thương mại, đảm bảo hoạt động ngân hàng thận trọng và an toàn bằng khuôn khổ pháp luật, qui định và giám sát. Về chính sách tín dụng cho xuất khẩu: Các doanh nghiệp sản xuất và kinh doanh hàng xuất khẩu hiện đang thiếu vốn để hiện đại hoá trang thiết bị hoặc thu mua hàng hoá. Tín dụng ưu đãi cho xuất khẩu thuộc các ngành trong nhóm sản phẩm có khả năng cạnh tranh có thể huy động từ hai nguồn Quỹ hỗ trợ xuất khẩu và Quỹ hỗ trợ đầu tư. Do mức lãi suất hiện nay đã được điều chỉnh so với thời gian ban hành Quy chế hoạt động của các quỹ này nên lãi suất của các quỹ này không còn mang tính ưu đãi. Vì vậy các quỹ này cần xem xét trình Chính phủ: Điều chỉnh mức lãi suất hỗ trợ cho các đối tượng được vay từ hai quỹ này trong thời gian tới; Cơ chế điều chỉnh lãi suất cho vay linh hoạt hơn trong điều kiện kinh doanh thay đổi nhanh; Mặt khác, cần xây dựng và ban hành Quỹ hỗ trợ tín dụng xuất khẩu làm tiền đề cho việc thành lập Ngân hàng chính sách xuất nhập khẩu. Ba là, hoàn thiện chính sách thuế. Về thuế giá trị gia tăng VAT, cần sửa đổi theo hướng mức thuế sẽ được rút gọn lại và chỉ còn một mức thống nhất cho các loại sản phẩm, dịch vụ. Các máy móc, thiết bị sản xuất trong nước hoặc nhập khẩu được xếp vào diện không chịu thuế giá trị gia tăng. Cải tiến cách thu thuế và hoàn thuế, đảm bảo thuận tiện cho người nộp thuế, đồng thời nhà nước không bị thất thu thuế. Về chính sách thuế thu nhập doanh nghiệp: Thuế thu nhập doanh nghiệp áp dụng bình đẳng cho các đối tượng theo hướng hạ mức thuế cao hiện đang áp dụng chứ không điều chỉnh mức thuế hiện đang tương đối thấp hơn nhằm đảm bảo đủ diện thu thuế; hạn chế mức chênh lệch lớn giữa các ngành nghề, lĩnh vực. Việc xác định mức thuế thu nhập doanh nghiệp không nên căn cứ vào mức lợi nhuận bình quân hiện tại của sản phẩm hay cách phân loại thành các ngành công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ. Mức thuế đề nghị căn cứ vào mục tiêu cần thúc đẩy ngành sản phẩm phát triển: mức thuế thấp được áp dụng cho những ngành có khả năng cạnh tranh cần khuyến khích, mức thuế trung bình được áp dụng cho những ngành có khả năng cạnh tranh trong tương lai và khả năng cạnh tranh thấp, mức thuế cao áp dụng cho những ngành không khuyến khích phát triển, có thể thuộc nhóm có khả năng cạnh tranh trong tương lai và nhóm khả năng cạnh tranh thấp. Mức lợi nhuận bình quân cao của ngành/sản phẩm sẽ thay đổi khi có nhiều doanh nghiệp tham gia kinh doanh. Xem xét sớm bãi bỏ chế độ thuế thu nhập bổ sung 25% trên phần thu nhập do lợi thế khách quan đem lại. Bộ Tài chính cho rằng các ngành dịch vụ phải chịu thuế suất cao hơn các ngành công nghiệp và nông nghiệp. Điều này không phù hợp với chủ trương phát triển ngành dịch vụ, một lĩnh vực kinh tế ngày càng quan trọng và theo xu hướng kinh tế chung trên thế giới sẽ có tỷ trọng ngày càng lớn so với các ngành nông nghiệp và công nghiệp. Tiếp tục hoàn thiện các chính sách thương mại Các kiến nghị đề xuất sau đây xuất phát từ quan điểm các sản phẩm và dịch vụ có năng lực cạnh tranh có thể tích cực cạnh tranh ngay và ít cần bảo hộ. Đồng thời, nếu cần, có thể có các chính sách khuyến khích đầu tư, hỗ trợ về khoa học, công nghệ v.v.. không liên quan đến các chính sách thương mại đã được cam kết trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. Thuế nhập khẩu: Việc nâng cao khả năng cạnh tranh của các sản phẩm, tận dụng lợi thế tự nhiên như đất đai, khí hậu, lao động, không đòi hỏi phải bảo hộ bằng thuế nhập khẩu ở mức độ cao. Để giúp cho doanh nghiệp sản xuất và cung cấp các sản phẩm, dịch vụ nâng cao khả năng cạnh tranh, nhất là trên thị trường thế giới, thuế nhập khẩu đối với đầu vào cho sản xuất, (thí dụ như phân bón, thuốc trừ sâu đối với sản xuất nông nghiệp hoặc vải, phụ liệu đối với ngành may mặc), nhất là những nguyên liệu, mặt hàng trong nước chưa sản xuất được- cần được hưởng thuế suất thấp nhất, có thể bằng 0. Mức bảo hộ cho nhóm có khả năng cạnh tranh phải thấp hơn mức bảo hộ cho các nhóm sản phẩm khác. Dự kiến trong tương lai chúng ta sẽ có 6 mức thuế nhập khẩu cơ bản với thuế suất tối đa là 60% nên cần giới hạn mức bảo hộ tối đa cho nhóm sản phẩm có khả năng cạnh tranh là 20% . Nhóm có khả năng cạnh tranh trong tương lai cần được bảo hộ ở mức cao nhất 50-60%, còn nhóm khả năng cạnh tranh thấp nên để ở mức trung bình 30-40%. So sánh với lịch trình AFTA, có thể thấy rằng về thuế suất đề nghị cho nhóm này cao hơn (tối đa 20 % trong khi của AFTA là 5%), còn về thời gian thì có thể rút ngắn hơn. Bộ Tài chính cho rằng cần bảo hộ đối với những mặt hàng chiến lược, những mặt hàng đã và sẽ được đầu tư sản xuất nhưng xét dưới góc độ khả năng cạnh tranh thì có thể thấy rằng một số mặt hàng chiến lược như xi măng chẳng hạn có khả năng cạnh tranh thấp, chi phí sản xuất cao hơn nhập khẩu. Việc bảo hộ đối với những mặt hàng như vậy cần có thời hạn nhất định, kéo dài thời gian bảo hộ không kèm theo các biện pháp nâng cao năng lực cạnh tranh chỉ kéo dài tình trạng trì trệ và ỷ lại vào nhà nước của doanh nghiệp và buộc người tiêu dùng phải trả giá. Tác động tiêu cực có thể diễn ra do việc cắt giảm thuế nhập khẩu đối với nhóm có khả năng cạnh tranh là hạn chế hơn cả so với nhóm ngành khác. Với chính sách thuế nhập khẩu thấp, nhất là đối với nguyên vật liệu phục vụ cho sản xuất các sản phẩm này thì các doanh nghiệp còn tăng thêm khả năng chiếm lĩnh thị trường quốc tế do đưa ra mức giá cạnh tranh, đáp ứng nhu cầu tương đối ổn định về hàng tiêu dùng thiết thực hàng ngày. Trên thực tế, nhiều sản phẩm đầu vào cho nhóm sản phẩm có khả năng cạnh tranh hiện tại đã có mức thuế danh nghĩa thấp hoặc không đánh thuế. Thuế nhập khẩu bình quân đơn giản và bình quân gia quyền hiện hành đối với một số mặt hàng như sau: Bảng 11 - Thuế nhập khẩu bình quân đối với một số mặt hàng Mặt hàng Thuế NK bình quân giản đơn Thuế NK bình quân gia quyền Cà phê hạt 20 20 Gạo 5 5 Mía 10 10 Đường 24 32 Thuỷ sản nguyên liệu 22 17 Sản phẩm từ thuỷ sản 34 32 Phân bón 3,1 3,1 Thuốc trừ sâu 2,3 0,6 Dệt 26 31 May 46 42 Da 13 7 Sản phẩm từ da 43 21 Thuế xuất khẩu Nhằm mục đích nâng cao khả năng cạnh tranh bằng giá cả đã giảm mạnh thuế xuất khẩu đối với toàn bộ nhóm, kể cả gạo, cà phê. Nếu giá thị trường thế giới cao đột biến, có thể điều tiết qua hình thức phụ thu được đề cập dưới đây. Thực hiện chế độ "hậu ưu đãi"- nếu doanh nghiệp xuất khẩu được sẽ được hoàn phần thuế nhập khẩu đã nộp và nếu tỷ lệ xuất khẩu cao thì được hưởng mức thuế thu nhập ưu đãi. Chế độ hoàn thuế nhập khẩu khi xuất khẩu được áp dụng cho doanh nghiệp trực tiếp xuất khẩu và doanh nghiệp sản xuất hàng phục vụ xuất khẩu. Phân bổ hạn ngạch Trong nhóm sản phẩm có khả năng cạnh tranh, hiện còn đang áp dụng hạn ngạch đối với hàng may mặc và gạo xuất khẩu. Chế độ hạn ngạch đối với hai mặt hàng này còn phải duy trì trong một thời gian nhất định do việc quy định chế độ hạn ngạch nhập khẩu của các quốc gia bạn hàng. Song, Bộ Thương mại đã có nghiên cứu cải tiến chế độ phân bổ hạn ngạch theo hướng mở rộng cơ hội cho các doanh nghiệp tham gia, công khai, minh bạch. Sau khi Chính phủ đàm phán ký kết hiệp định hàng năm sẽ giao cho Hiệp hội ngành hàng xác định quy chế phân bổ hạn ngạch. Chế độ phụ thu đối với hàng xuất khẩu Hiện nay tuy không đánh thuế xuất khẩu đối với hầu hết các mặt hàng xuất khẩu nhưng lại áp dụng chế độ phụ thu chênh lệch giữa giá xuất khẩu và giá vốn trong nước. Khoản phụ thu được đưa vào Quỹ khuyến khích xuất khẩu. Ngoài khoản phụ thu của cơ quan trung ương, một số địa phương cũng áp dụng chế độ phụ thu nông sản xuất khẩu. Theo cơ chế hiện hành, chế độ phụ thu khi giá xuất khẩu lên cao làm giảm động lực của người sản xuất và kinh doanh hàng xuất khẩu, mặt khác lại không kịp thời hỗ trợ cho người sản xuất khi giá thế giới giảm thấp xuống dưới mức giá thành. Vì vậy, có thể có các phương án: Tập trung nguồn phụ thu chênh lệch giá xuất khẩu ở Bộ chuyên ngành Hiệp hội sản xuất và xuất khẩu mặt hàng đó. Việc giao cho Bộ chuyên ngành hoặc Hiệp hội quản lý nguồn phụ thu khắc phục được tình trạng trợ cấp xuất khẩu và trợ cấp không kịp thời. Nếu giao cho Hiệp hội thì còn có một thuận lợi là đảm bảo nguyên tắc nhà nước chỉ thu thuế và các khoản phí mang tính chất thuế. Giấy chứng nhận xuất xứ Đối với những mặt hàng xuất khẩu yêu cầu phải có giấy chứng nhận xuất xứ để hưởng ưu đãi về thuế của nước nhập khẩu như may mặc, giày dép thì thì xem xét cải tiến rút ngắn thời gian xét cấp giấy chứng nhận xuất xứ và mức phí thích hợp. Xây dựng và áp dụng nguyên tắc xuất xứ đối với hàng nhập khẩu từ những nước được hưởng ưu đãi thuế quan Thủ tục hải quan Chấp nhận quy chế của WTO, đơn giản hoá thủ tục hải quan, giảm chi phí về thời gian và tiền bạc cho doanh nghiệp xuất và nhập hàng hoá, tập trung giải quyết khâu kiểm hoá và tính thuế hải quan. Đối với kiểm hoá, dựa trên kết quả hoạt động trong thời gian qua,Tổng cục Hải quan rà soát các cơ quan đã được cấp phép, lựa chọn những cơ quan không có sai sót trong việc cấp giấy chứng nhận để ban hành danh mục các cơ quan kiểm hoá được thừa nhận đảm bảo chất lượng. Một khi đã có xác nhận của các cơ quan thuộc danh mục này thì hải quan cửa khẩu chấp nhận để hoàn tất thủ thục, tránh tình trạng doanh nghiệp phải đưa đi nhiều nơi để kiểm hoá. Nếu Hải quan không chấp nhận kết quả kiểm hoá lần thứ nhất và yêu cầu kiểm hoá thêm thì Hải quan chịu chi phí cho lần kiểm hoá sau lần thứ nhất. áp dụng cách tính thuế hải quan thông dụng ở các nước là dựa trên giá trị thực tế ghi trong hợp đồng, xây dựng hệ thống dữ liệu giá tham khảo theo khu vực và thời điểm. Xúc tiến thương mại Bộ Thương mại phối hợp với các ngành có liên quan xây dựng chương trình triển khai kế hoạch xúc tiến thương mại giai đoạn 2001-2005, đề ra nhiệm vụ cho Chính phủ, ngành hàng, doanh nghiệp kinh doanh. Tổ chức tốt việc thu thập và phân tích thông tin về thị trường trong nước và thế giới, phổ biến qua mạng điện tử, qua các hiệp hội. 3.4.3. Về tăng cường đầu tư có trọng điểm cho xây dựng kết cấu hạ tầng Đối với một số lĩnh vực cụ thể, Nhà nước cần có sự quan tâm hỗ trợ mạnh mẽ hơn nữa ngay tại thời điểm này. Mặt khác, cần nghiên cứu một số phương án hỗ trợ gián tiếp cho các doanh nghiệp Việt Nam, như việc hỗ trợ về cơ sở hạ tầng kinh doanh, hỗ trợ về hệ thống thông tin… Cụ thể, trong một số lĩnh vực cơ bản như sau: Thứ nhất, phát triển hệ thống kinh doanh lương thực có tính cạnh tranh trong và ngoài nước với sự tham gia thu mua, chế biến, buôn bán lúa gạo để phát huy thế mạnh về vốn, kinh nghiệm tiếp thị và cơ sở vật chất kỹ thuật, mạng lưới quan hệ kinh doanh đã hình thành từ lâu năm. Củng cố và tăng cường hoạt động của hiệp hội xuất khẩu lương thực để làm tốt hơn vai trò tập hợp lực lượng, tăng cường sức mạnh cạnh tranh quốc tế của các doanh nghiệp xuất khẩu gạo, là trung tâm trao đổi và hỗ trợ về kỹ năng kinh doanh cho các thành viên… Nhà nước cần tham gia tích cực trong việc phát triển cơ sở hạ tầng và dịch vụ phục vụ công tác chế biến và xuất khẩu nông sản. Thứ hai, Nhà nước cần tạo mọi điều kiện thuận lợi cho tập trung huy động mọi nguồn vốn có thể để đầu tư cho lĩnh vực thuỷ hải sản, tìm thêm nguồn để tăng vốn tín dụng trung, dài hạn, đầu tư cho các phương tiện đánh bắt và nuôi trồng mới. Thứ ba, Nhà nước cần có những biện pháp hỗ trợ nhất định về công nghệ, cơ chế, thông tin, để các doanh nghiệp từng bước vươn lên xuất khẩu trực tiếp từ A đến Z, đặc biệt trong ngành may mặc. Bởi hiện nay, các doanh nghiệp trong ngành này, chủ yếu vẫn làm gia công xuất khẩu là chính. Nhà nước cần khuyến khích các nhà đầu tư nước ngoài tham gia mạnh mẽ vào tất cả các công đoạn của ngành dệt may, kể cả việc trồng dâu nuôi tằm. Thứ tư, đối với ngành rau quả, trong giai đoạn này Nhà nước cũng nên khuyến khích phát triển các cơ sở chế biến nhỏ và vừa để nâng cao khả năng cạnh tranh, xây dựng hệ thống cơ sở hạ tầng dịch vụ cho sản xuất và xuất khẩu rau quả. Giữ vững thị trường trong nước, tập trung vào phát triển những mặt hàng đang có thị trường tiêu thụ, tiến tới cạnh tranh với ASEAN trong việc xuất khẩu sang các nước ngoài khu vực. Thứ năm, Nhà nước cần thúc đẩy nhanh quá trình ký kết các hiệp định về thú y, giải quyết các vấn đề về vệ sinh dịch tễ, tiêu chuẩn thú y trong quan hệ thương mại song phương để khuyến khích cho việc xuất khẩu các sản phẩm chăn nuôi, đặc biệt là sang Singapore và Malaysia để có thể tận dụng được ưu đãi của AFTA. Thứ sáu, đối với ngành điện - điện tử: Các thiết bị điện công suất lớn, các thiết bị chuyên dùng, phụ tùng, thiết bị điện kỹ thuật cao hiện đã được đưa vào danh mục cắt giảm. Nói chung đây là những mặt hàng có thuế suất thấp, nên việc thực hiện AFTA không ảnh hưởng nhiều lắm đến các doanh nghiệp. Các thiết bị điện công suất nhỏ, các thiết bị nghe nhìn, đồ điện gia dụng khác, thiết bị chiếu sáng… được xếp trong danh mục loại trừ tạm thời. Nhìn chung đây là các mặt hàng hiện có mức thuế suất cao. Nhóm này chủ yếu được đưa vào thực hiện giảm thuế kể từ sau 2001. Để có thể giúp các doanh nghiệp giữ vững khả năng cạnh tranh, về phía Nhà nước, cần kịp thời áp dụng các biện pháp bảo hộ phi quan thuế một cách thích hợp căn cứ theo lịch trình giảm thuế, đồng thời cần có chính sách định hướng phù hợp: + Tích cực phát triển theo hướng chiến lược xuất khẩu, hội nhập nhanh vào mạng lưới sản xuất và thương mại khu vực và toàn cầu, đồng thời vẫn coi trọng khai thác thị trường nội địa. + Khuyến khích mọi thành phần kinh tế phát triển công nghiệp điện tử. Cần xác định rõ những khu vực mà Nhà nước có thể chủ động về vốn, thị trường thì ưu tiên đầu tư trong nước. Phần còn lại cần đẩy mạnh hợp tác với nước ngoài dưới mọi hình thức nhằm nhanh chóng đưa công nghiệp điện tử đạt trình độ quốc tế và khu vực. Cần có chính sách phù hợp trong việc khuyến khích gia tăng tỷ lệ nội địa hoá. Thứ bảy, đối với ngành hoá chất, cao su: Nhà nước nên khuyến khích thành lập các liên doanh vào lĩnh vực chế biến, sản xuất các sản phẩm từ nguyên liệu cao su như xăm lốp ô tô, đồ dùng cao su và các chi tiết sử dụng trong máy móc thiết bị hiện đại… Phát triển công nghiệp chế biến gỗ cao su, để nâng cao hiệu quả khai thác tổng thể toàn ngành. Thứ tám, đối với ngành cơ khí: Để thực hiện tốt được tiến trình giảm thuế, trong khi vẫn bảo đảm khả năng cạnh tranh, trong những năm tới cần chú ý một số nội dung sau: + Thời gian tới, ngành cơ khí cần được đầu tư mạnh hơn, trước hết là đầu tư chiều sâu nhằm khai thác tốt tiềm năng hiện có. Đồng thời, trong cơ khí phải lựa chọn đầu tư một số công trình trọng điểm, tạo điều kiện để ngành cơ khí tham gia nhiều hơn nữa vào thị trường khu vực bằng những sản phẩm có đủ sức cạnh tranh. Điều nàycũng phù hợp với kinh nghiệm các nước trong giai đoạn đầu phát triển công nghiệp. Đặc biệt cần tập trung cho cơ khí phục vụ nông nghiệp, tiến đến là các sản phẩm thay thế cho nhập khẩu và tiến tới tăng cường xuất khẩu. + áp dụng triệt để các biện pháp bảo hộ cho sản xuất trong nước đối với các thiết bị trong nước đã sản xuất được mà nước ngoài dùng vốn lớn để phá giá. Cần có các chính sách bảo hộ việc làm cho ngành cơ khí. Thực hiện hợp lý hoá biểu thuế, giảm triệt để thuế nhập khẩu cho nguyên liệu đầu vào. Thực hiện hỗ trợ tốt cho các chương trình nội địa hoá ngành cơ khí. + Hoàn thiện công tác quản lý vĩ mô, cần có kế hoạch, chiến lược phát triển rõ ràng và tổ chức theo dõi quản lý dự án. Cần thiết phải thiết lập một hệ thống thực thi kế hoạch chiến lược và một hệ thống quản lý của Bộ công nghiệp kết hợp với Bộ Kế hoạch và Đầu tư để có thể quản lý những mặt hàng trong nước có thể sản xuất được. Thực hiện tốt phối hợp kinh doanh qua các hiệp hội để tránh tình trạng cạnh tranh giữa các xí nghiệp trong nước gây bất lợi cho cạnh tranh quốc tế. 3.4.4. Tăng cường đào tạo đội ngũ cán bộ Kinh nghiệm của nhiều nước trên thế giới và khu vực (như Nhật Bản, Singapore…) cho thấy, công tác đào tạo, nâng cao năng lực cán bộ là một trong những nhân tố quyết định thành công đối với sự phát triển đất nước. Trong quá trình hội nhập ASEAN, nhân tố này lại càng có ý nghĩa quan trọng hơn bởi lẽ trình độ quản lý của doanh nghiệp Việt Nam còn nhiều hạn chế so với các nước thành viên khác trong khu vực, nhất là trong bối cảnh nền kinh tế tri thức đang hình thành và ảnh hưởng sâu rộng đến tư duy quản lý, tư duy kinh tế và phương thức sản xuất kinh doanh. Vì vậy, để thực hiện thành công các cam kết kinh tế – thương mại theo khuôn khổ ASEAN, Việt Nam cần tận dụng cơ hội này để phát triển nguồn nhân lực nâng cao năng lực doanh nghiệp của mình, do đó trong thời gian tới, chúng ta cần phải thực hiện các giải pháp sau: Thứ nhất, Nhà nước phải tiến hành qui hoạch lại, phân loại và đào tạo theo năng lực sở trường của đội ngũ cán bộ tại các doanh nghiệp, các cơ quan quản lý vì tiến trình hội nhập của Việt Nam vào ASEAN, đặc biệt trong các ngành hải quan, thương mại, quản lý đầu tư nước ngoài… Đào tạo lại và đào tạo mới cần được kết hợp chặt chẽ để đáp ứng được tốt nhất những đòi hỏi phát sinh trong quá trình thực hiện các cam kết của Việt Nam theo khuôn khổ ASEAN. Thứ hai, Nhà nước kết hợp với doanh nghiệp cần chú trọng đào tạo chuyên môn, tay nghề cho người lao động, phù hợp với chiến lược “phát triển văn hoá - xã hội và xây dựng con người”, lấy con người làm trung tâm trong phát triển kinh tế - xã hội mà Đại hội Đảng IX đã đề ra. Trước mắt, để chuẩn bị cho quá trình tham gia một cách đầy đủ vào ASEAN, chúng ta cần lưu ý đến việc đào tạo ba loại cán bộ sau đây: Đào tạo công nhân lành nghề theo từng lĩnh vực, chú trọng đào tạo trong những ngành sản xuất mũi nhọn mà Việt Nam sẽ phát triển để phục vụ cho xuất khẩu, thực hiện vai trò của Việt Nam trong phân công lao động quốc tế đối với ASEAN. Vấn đề này cần được nhấn mạnh trong thời điểm này khi chúng ta bị mất cân đối nghiêm trọng giữa đào tạo đại học và đào tạo công nhân kỹ thuật lành nghề so với các nước thành viên khác trong khu vực. Đào tạo đội ngũ cán bộ có trình độ kinh doanh quốc tế giỏi. Đây là loại hình cán bộ cần chuyên môn rất cao, rất am hiểu sản xuất, am hiểu thị trường, kỹ thuật đàm phán, giao dịch, ký kết hợp đồng và giỏi ngoại ngữ. Để hoàn thành quá trình hoà nhập một cách có hiệu quả vào ASEAN cũng như bảo vệ quyền lợi của quốc gia trong quá trình này, chúng ta đang rất thiếu và rất cần nhóm cán bộ chuyên môn này. Đào tạo cán bộ pháp lý, đặc biệt là trong lĩnh vực kinh tế và thương mại quốc tế, có sự am hiểu các luật lệ thông lệ trong ASEAN và cũng như các thông lệ quốc tế khác, để đủ trình độ tư vấn, trợ lý giúp đỡ các cơ quan quản lý và doanh nghiệp trong kinh doanh và hợp tác quốc tế. Thứ ba, xây dựng qui chế về đầu tư phát triển đội ngũ cán bộ ở các doanh nghiệp trong đó định rõ tỷ lệ lợi nhuận được sử dụng để nâng cao chuyên môn tay nghề cho người lao động. Nhà nước cần tiến hành các công trình nghiên cứu về tính cạnh tranh các ngành của ta để định hướng cho công tác đào tạo tập trung vào các ngành mà chúng ta có khả năng cạnh tranh trong ASEAN, liên kết các trung tâm đào tạo lớn, các trường đại học với doanh nghiệp để gắn kết học đi đôi với hành. Kết luận Hội nhập kinh tế quốc tế nói chung, hội nhập AFTA nói riêng là đòi hỏi tất yếu, là nhiệm vụ quan trọng đối với tất cả các doanh nghiệp Việt Nam thuộc mọi thành phần kinh tế, mọi qui mô hoạt động, là điều kiện quyết định cho sự tồn tại và phát triển của từng doanh nghiệp cũng như toàn bộ nền kinh tế quốc dân trong điều kiện hiện nay. Để hội nhập thành công cần có sự hỗ trợ, tạo điều kiện thuận lợi từ phía các cơ quan chính phủ, nhưng yếu tố quyết định vẫn là sự chủ động vươn lên tự thích ứng của các doanh nghiệp, là khả năng sáng tạo tìm mọi cách để nâng cao sức cạnh tranh của doanh nghiệp, là việc xây dựng và thực hiện một chiến lược kinh doanh phù hợp với đòi hỏi của tiến trình hội nhập. Trong những năm gần đây, với sự hướng dẫn và hỗ trợ của các cơ quan Nhà nước về khung khổ pháp lý, về đổi mới chính sách kinh tế vĩ mô, về thuận lợi hoá môi trường kinh doanh cũng như những hỗ trợ trực tiếp và gián tiếp về việc nâng cao các nguồn lực cho sự phát triển, các doanh nghiệp Việt Nam đã có những bước tiến nhất định trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế nói chung, hội nhập AFTA nói riêng. Tuy nhiên, tuỳ theo điều kiện và khả năng phát triển cụ thể, phần lớn các doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp vừa và nhỏ, vẫn còn lúng túng cả trong nhận thức cũng như xây dựng chiến lược, kế hoạch, bước đi cần thiết trong tiến trình hội nhập, trước hết là hội nhập AFTA. Luận án đã góp phần tạo nên cơ sở lý luận và phương pháp luận cho tiến trình hội nhập AFTA của các doanh nghiệp Việt Nam trong thời gian tới. Luận án đã thực hiện được một số công việc sau đây: - Đã hệ thống hoá một số vấn đề lý luận và cơ sở thực tiễn về hội nhập kinh tế quốc tế nói chung, hội nhập AFTA nói riêng đối với các doanh nghiệp thông qua việc làm rõ khái niệm, bản chất và các loại hình hội nhập kinh tế quốc tế; làm rõ mục tiêu, chương trình hoạt động của AFTA; khẳng định vai trò và những điều kiện cần thiết đối với doanh nghiệp Việt Nam trong tiến trình hội nhập AFTA và bước đầu rút kinh nghiệm về nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế của một số quốc gia trong khu vực. - Luận án đã phân tích tình hình thực hiện các cam kết chính của Việt Nam khi hội nhập AFTA, xem xét tình hình hoạt động của các doanh nghiệp Việt Nam từ khi diễn ra tiến trình hội nhập AFTA với những thành tựu đạt được và những hạn chế, yếu kém của các doanh nghiệp, đã xem xét năng lực cạnh tranh của các ngành/ doanh nghiệp Việt Nam khi diễn ra quá trình hội nhập nói chung và hội nhập AFTA nói riêng, đặc biệt xem xét năng lực cạnh tranh này ở một số sản phẩm chủ yếu và đánh giá năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt Nam trong một số ngành kinh tế - kỹ thuật. Trên cơ sở đó, Luận án đã đánh giá tổng quát về những khó khăn, thuận lợi đối với các doanh nghiệp Việt Nam trong tiến trình hội nhập AFTA và chỉ rõ những nội dung công việc chủ yếu cần thực hiện đối với doanh nghiệp Việt Nam để hoàn tất lộ trình hội nhập trong thời gian tới. - Luận án đã dự báo tiến trình hội nhập AFTA, nêu rõ định hướng chiến lược của Đảng và Nhà nước ta trong hội nhập kinh tế quốc tế nói chung, phân tích định hướng phát triển chủ yếu trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam trong việc thực hiện có hiệu quả các cam kết kinh tế - thương mại trong khuôn khổ AFTA và nêu lên các vấn đề đặt ra đối với doanh nghiệp Việt Nam trong tiến trình hội nhập AFTA trong thời gian tới. - Luận án đã nêu lên những giải pháp cả ở tầm vĩ mô và vi mô nhừm thúc đẩy tiến trình hội nhập AFTA của các doanh nghiệp Việt Nam trong thời gian tới, đồng thời đề xuất các kiến nghị với Nhà nước tiếp tục tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp để thực hiện thành công tiến trình hội nhập. Với những kết quả nghiên cứu nêu trên, Luận án có thể trở thành tài liệu tham khảo tốt cho các nhà hoạch định chính sách, cho các doanh nghiệp cũng như cho những ai quan tâm đến vấn đề này. Do điều kiện nghiên cứu và thời gian hạn chế, Luận án không tránh khỏi thiếu sót, tác giả rất mong nhận được sự chỉ bảo và đóng góp ý kiến của bạn đọc xa gần. Mục lục Lời mở đầu 1 Chương I: Những vấn đề lý luận về hội nhập kinh tế quốc tế và vai trò của doanh nghiệp Việt Nam trong tiến trình hội nhập AFTA 4 1.1. Bản chất và tính tất yếu của quá trình hội nhập kinh tế quốc tế 4 1.1.1. Khái niệm và bản chất của hội nhập kinh tế quốc tế 4 1.1.2. Các loại hình hội nhập kinh tế quốc tế 7 1.1.3. Tính tất yếu của quá trình hội nhập kinh tế quốc tế 11 1.1.4. Những tác động của việc tham gia vào khu vực Mậu dịch tự do 14 1.2. Hợp tác kinh tế thương mại AFTA 16 1.2.1. Mục tiêu của AFTA 17 1.2.2. Cơ cấu tổ chức của AFTA 19 1.2.3. Những đặc điểm chủ yếu của AFTA 19 1.2.4. Chương trình CEPT 22 1.2.5. Một số lĩnh vực hợp tác khác trong ASEAN có liên quan với AFTA 28 1.3. Vai trò và những yếu tố tác động đối với doanh nghiệp Việt Nam trong tiến trình hội nhập AFTA 32 1.3.1. Vai trò của doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế 32 1.3.2. Nội dung hội nhập kinh tế quốc tế và yêu cầu nâng cao sức cạnh tranh đối với doanh nghiệp khi hội nhập kinh tế quốc tế 37 1.3.3. Các yếu tố tác động tới khả năng cạnh tranh của Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế 42 1.4. Kinh nghiệm quốc tế về nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế 47 1.4.1. Kinh nghiệm của các nước phát triển 47 1.4.2. Kinh nghiệm của các nước đang phát triển 48 1.4.3. Kinh nghiệm của một số nước trong khu vực 50 1.4.4. Những bài học rút ra đối với Việt Nam trong tiến trình hội nhập vào AFTA 53 Chương II. Tình hình hội nhập AFTA và yêu cầu đặt ra đối với các doanh nghiệp Việt Nam 56 2.1. Tình hình thực hiện các cam kết chính của Việt Nam khi hội nhập AFTA 56 2.1.1. Tình hình thực hiện CEPT/ AFTA của Việt Nam 56 2.1.2. Tình hình thực hiện rỡ bỏ hàng rào phi quan thuế (NTBs) 64 2.2. Tình hình hoạt động của các doanh nghiệp Việt Nam từ khi diễn ra tiến trình hội nhập AFTA 64 2.2.1. Tình hình khai thác lợi ích của chương trình CEPT/ AFTA của các doanh nghiệp 64 2.2.2 Tình hình doanh nghiệp tham gia thực hiện AICO 65 2.2.3. Tình hình mở rộng thị trường giữa Việt Nam với các nước ASEAN 66 2.3. Xem xét năng lực cạnh tranh của Việt Nam từ khi diễn ra quá trình hội nhập AFTA 73 2.3.1. Xem xét năng lực cạnh tranh quốc gia 73 2.3.2. Xem xét năng lực cạnh tranh của ngành/doanh nghiệp 79 2.4. Đánh giá chung và những vấn đề đặt ra cần giải quyết 94 2.4.1. Đánh giá chung 94 2.4.2. Những vấn đề đặt ra cần giải quyết đối với doanh nghiệp trong tiến trình hội nhập AFTA 99 Chương III: Định hướng và những giải pháp chủ yếu nhằm thúc đẩy tiến trình hội nhập AFTA của các doanh nghiệp Việt Nam trong thời gian tới 107 3.1. Dự báo tiến trình hội nhập AFTA và định hướng chiến lược của Đảng và Nhà nước ta trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế 107 3.1.1. Dự báo bối cảnh quốc tế mới và tác động của chúng đến quá trình hội nhập AFTA 107 3.1.2. Định hướng chiến lược của Đảng và Nhà nước ta trong hội nhập kinh tế quốc tế 110 3.1.3. Định hướng phát triển trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam 113 3.2. Định hướng thực hiện các cam kết với AFTA và những nội dung công việc chủ yếu của doanh nghiệp Việt Nam trong thời gian tới 119 3.2.1. Định hướng chủ yếu cho việc thực hiện có hiệu quả các cam kết kinh tế thương mại với ASEAN và AFTA 119 3.2.2. Những nội dung công việc chủ yếu đối với doanh nghiệp Việt Nam trong thời gian tới 120 3.3. Những giải pháp chủ yếu nhằm thúc đẩy tiến trình hội nhập AFTA của các doanh nghiệp Việt Nam 128 3.3.1. Giải pháp ở tầm vĩ mô 128 3.3.2. Giải pháp ở tầm vi mô 132 3.4. Kiến nghị với Nhà nước về các điều kiện cần thiết bảo đảm cho các doanh nghiệp Việt Nam thích ứng với tiến trình hội nhập 138 3.4.1. Về hoàn thiện hành lang pháp lý 139 3.4.2. Về hoàn thiện chính sách vĩ mô 139 3.4.3. Về tăng cường đầu tư có trọng điểm cho xây dựng kết cấu hạ tầng 145 3.4.4. Tăng cường đào tạo đội ngũ cán bộ 148 Kết luận 150 ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docQT1006.doc