Đổi mới cơ chế chính sách nhằm khuyến khích phát triển kinh tế tư nhân ở Việt Nam hiện nay

LỜI NÓI ĐẦU Kết thúc hai cuộc kháng chiến chống Pháp,Mĩ thắng lợi , đất nước ta đi vào công cuộc cải tạo và xây dựng Chủ nghĩa xã hội trong cả nước. Vì rập khuôn máy móc, mang tính lí luận Chủ nghĩa Mác-Lenin dẫn đến kinh tế nước ta chỉ tồn tại hai thành phần kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, đặc biệt là chủ trương xoá sạch thành phần kinh tế tư nhân. Điều này đã làm cho đất nước bước vào cuộc khủng hoảng và càng tụt hậu so với thế giới. Từ đại hội Đảng lần VI (12-1986) Đảng và Nhà nước đã c

doc27 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1217 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Đổi mới cơ chế chính sách nhằm khuyến khích phát triển kinh tế tư nhân ở Việt Nam hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hủ trương phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo cơ chế thị trường, nhằm khôi phục lại nhiều thành phần kinh tế (đặc biệt trong đó có kinh tế tư nhân). Sau đổi mới, nền kinh tế có những bước phát triển vượt bậc, kéo theo sự phát triển của chính trị, xã hội.... Ngày nay đứng trước xu thế vận động chung của quy luật toàn cầu hoá, tính chất xã hội hoá ngày càng cao. Đứng trước nguy cơ của sự tụt hậu, và sự cạnh tranh khốc liệt. Chúng ta càng khảng định được tầm quan trọng, vị trí của kinh tế đất nước. Trong đó phải kể đến sự đóng góp to lớn của thành phần kinh tế tư nhân. Đó cũng chính là lí do vì sao em chọn đề tài: “Đổi mới cở chế, chính sách nhằm khuyến khính phát triển kinh tế tư nhân ở Việt Nam hiện nay”. Em xin chân thành cám ơn thầy Mai Hữu Thực đã giúp đỡ em hoàn thành để án này. NỘI DUNG PHẦN I: MỘT SỐ LÍ LUẬN VỀ VẤN ĐỀ KINH TẾ TƯ NHÂN I.1. Bản chất của Kinh tế tư nhân. Kinh tế tư nhân là thành phần kinh tế dựa trên sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất và sử dụng lao động làm thuê. I.2. Các bộ phận của Kinh tế tư nhân. Kinh tế tư bản tư nhân, nếu xét về thành phần kinh tế, chỉ bao gồm 2 thành phần kinh tế: kinh tế cá thể, tiểu chủ và kinh thế tư bản tư nhân, hoạt động dưới hình thức hộ kinh doanh cá thể và các loại hình doanh nghiệp của tư nhân. I.2.a.Kinh tế cá thể, tiểu chủ. Kinh tế cá thể, tiểu chủ bao gồm những đơn vị kinh tế dựa trên hình thức sở hữu tư nhân quy mô nhỏ về tư liệu sản xuất và hoạt động dựa vào sức lao động của từng hộ là chủ yếu. Trong một số ngành, nghề ở nông thôn và thành thị, kinh tế cá thể và tiểu chủ có vị trí quan trọng. Nó có khả năng tận dụng tiềm năng về vốn, sức lao động, tay nghề của từng gia đình, từng người lao động. Nhưng đến một trình độ nhất định việc mở rộng sản xuất, kinh doanh của kinh tế cá thể, tiểu chủ sẽ bị hạn chế vì thiếu vốn, trình độ công nghệ thấp và khó tìm thị trường tiêu thụ, bởi vậy cần được sự hỗ trợ của Nhà nước để khắc phục những hạn chế nói trên. Các đơn vị kinh tế cá thể, tiểu chủ có thể tồn tại độc lập, hoặc tham gia các loại hình kinh tế tập thể, hay liên doanh liên kết với các doanh nghiệp nhà nước dưới nhiều hình thức. I.2.b. Kinh tế tư bản tư nhân. Kinh tế tư bản tư nhân là các đơn vị kinh tế mà vốn do một hoặc một số nhà tư bản góp lại để sản xuất – kinh doanh và thuê mướn nhân công. Kinh tế tư bản tư nhân có nhiều hình thức là xí nghiệp tư doanh hay công ty trách nhiệm hữu hạn. Kinh tế tư bản tư nhân dựa trên sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liêụ sản xuất và có sử dụng lao động làm thuê. Trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội, kinh tế tư bản tư nhân không giữa vai trò thống trị như dưới chế độ tư bản chủ nghĩa, vì nó không nắm giữa các mạch máu kinh tế quan trọng, dù nó còn chiếm tỷ trọng lớn về vốn kinh doanh và giá trị tổng sản lượng. Kinh tế tư bản tư nhân được kinh doanh trong các ngành, nghề có lợi cho quốc kế dân sinh mà pháp luật không cấm. Nhà nước xã hội chủ nghĩa có thể góp vốn cổ phần hoặc cho thuê tài sản, hoặc liên doanh với tư nhân trong và ngoài nước dưới nhiều hình thức: tô nhượng, đại lý gia công, đặt hàng, xây dựng xí nghiệp chung... trên cơ sở bảo đảm lợi ích kinh tế của các nhà tư bản. I.3.Vai trò của kinh tế tư bản. Hơn 10 năm qua, thực hiện đường lối, chính sách đổi mới của Đảng và Nhà nước, được sự đồng tình hưởng ứng tích cực của nhân dân, kinh tế tư bản đã phát triển rộng khắp trong cả nước; đóng góp quan trọng vào phát triển kinh tế, huy động các nguồn lực xã hội vào sản xuất, kinh doanh, tạo thêm việc làm, cải thiện đời sông nhân dân, tăng ngân sách nhà nước, góp phần giữ vững ổn định chính trị - xã hội của đất nước. Cùng với các thành phần kinh tế khác, sự phát triển của kinh tế tư nhân đã góp phần giải phóng lực lượng sản xuất, thúc đẩy phân công lao động xã hội, chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá, phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, tăng thêm số lượng công nhân , lao động và doanh nhân Việt Nam, thực hiện các chủ trương xã hội hoá y tế, văn hoá, giáo dục.. I.3.1. Khơi dậy và phát huy tiềm năng của 1 bộ phận lớn dân cư tham gia vào công cuộc phát triển đất nước, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, tạo việc làm. I.3.1.a. Tạo việc làm, toàn dụng lao động xã hội. Các doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế tư nhân là lực lượng tham gia tích cực và có hiệu quả đối với vấn đề giải quyết việc làm. Tính đến năm 1996 đã giải quyết việc làm cho 4.700.724 lao động, chiếm gần 70% lực lượng lao động xã hội trong khu vực sản xuất phi nông nghiệp. Trong khi doanh nghiệp nhà nước chỉ thu hút được 11,5 lao động/1 tỷ đồng vốn, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài thu hút được 1,7 lao động/1 tỷ đồng vốn. Riêng các doanh nghiệp tư nhân trong 5 năm qua ( 1991-1996 ) tuy số vốn huy động chưa lớn nhưng bình quân mỗi năm giải quyết thêm khoảng 72.020 việc làm; Đến năm 1998 tổng số lao động thuộc khu vực kinh tế tư nhân chiếm 90,1% tổng số lao động toàn xã hội ( khu vực nhà nước chỉ giải quyết việc làm cho khoảng 9% và khu vực có vốn đầu tư nước ngoài là 0,67% lao động xã hội)- đây thức sự là khu vực kinh tế có vai tro quan trọng trong việc tạo việc làm cho lao động xã hội cả hiện tại và trong tương lai. I.3.1.b. Đóng góp quan trọng trong GDP và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Bên cạnh mục tiêu cơ bản là huy động tiềm năng về vốn và giải quyết việc làm cho lao động xã hội, khu vực kinh tế cá thể, tiểu chủ và kinh tế tư bản tư nhân còn đóng góp đáng kể vào tổng sản phẩm xã hội. Năm 1995, khu vực kinh tế tư tư nhân đóng góp 43,50% GDP. Mặc dù năm 1996,1997 có sự giảm sút nhưng năm 1998 khu vực này vẫn chiếm tỷ trọng 41,1% GDP. Năm 2000 chiếm 42,3% GDP trong khi khu vực doanh nghiệp ngoài quốc doanh chỉ chiếm 39%. Không chỉ đóng góp lớn vào tổng sản phẩm quốc nội và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, khu vực kinh tế nhân còn góp phần quan trọng tăng nguồn thu cho ngân sách nhà nước, góp phần giải quyết nhiều vấn đề kinh tế - xã hội đặt ra. Nếu năm 1990, khu vực kinh tế ngoài quốc doanh (không kể kinh tế có vốn đâu tư nước ngoài) nộp ngân sách ( qua thu thuế) là 969 tỷ đồng, chiếm 2,3% GDP, thì đến năm 1998 đã tăng lên 11,086 tỷ đồng, chiếm 3,5% GDP; Năm 2000 là 5900 tỷ đồng. Năm 2001 khu vực kinh tế tư nhân đóng góp vào ngân sách 6370 tỷ đồng. Điều đấy cho thấy đóng góp của khu vực kinh tế tư nhân có đóng góp lớn vào nguồn thu ngân sách, tăng tiềm lực cho nền kinh tế. I.3.1.c. Huy động mọi nguồn vốn đâu tư phát triển. Kinh tế cá thể, tiểu chủ tuy quy mô nhỏ nhưng với số lượng cơ sở sản xuất kinh doanh lớn nên đã động viên được nhiều nguồn vốn vào sản xuất kinh doanh từ 14.000 tỷ đồng năm 1992 đã tăng lên 26.500 tỷ đồng vào năm 1996, chiếm tới 8,5% tổng vốn đầu tư sản xuất kinh doanh của toàn xã hội. Các doanh nghiệp tư bản tư nhân đã huy động được lượng vốn vào kinh doanh là 20.665 tỷ đồng (tính đến hết năm 1996), bình quân mỗi năm trong giai đoạn 1991 – 1996 tăng thêm 3.940 tỷ đồng, chiếm khoảng 5% tổng số vốn đầu tư phát triển của toàn xã hội và 6,9% vốn kinh doanh của các ngành. Tính đến thời điểm năm 1996, khu vực kinh tế tư nhân đã huy động được tổng số lượng vốn lên đến 47.155 tỷ đồng chiếm tới 15% tổng số vốn đầu tư và phát triển toàn xã hội. Mặc dù trong những năm đổi mới vừa qua với chính sách mở cửa, kêu gọi đâu tư nước ngoài của Nhà nước đã thu hút thêm nguồn FDI ngày một tăng (từ 13.7% tổng số vống đầu tư phát triển của cả nước năm 1990 lên đến trên 25% năm 1998), nhưng khu vực trong nước vẫn đóng góp lượng vôn đầu tư rất đáng kể cho nền kinh tế: 49% tổng lượng vốn đầu tư toàn xã hội năm 1990 và trên 21% năm 1998, tức là chiếm trên 1/5 tổng lượng vốn đầu tư toàn xã hội – là tỷ trọng không nhỏ. I.3.2. Thúc đẩy việc hình thanh các chủ thể kinh tế và đổi mới cơ chế quản lí theo hướng thị trường, tạo sự cạnh tranh trong nên kinh tế. Trước đây hầu hết các lĩnh vực kinh tế, các ngành sản xuất kinh doanh, v.v. đều do kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể đảm nhân. Hiện nay, trừ một số lĩnh vực, ngành nghề mà nhà nước độc quyền, kinh tế tư nhân không được kinh doanh, còn lại hầu hết các ngành nghề, lĩnh vực sản xuất, kinh doanh khác khu vực kinh tế tư nhân đều tham gia. Trong đó, nhiều lĩnh vực, ngành nghề, khu vực kinh tế tư nhân chiếm tỷ trọng áp đảo như: sản xuất lương thực, thực phẩm, nuôi trồng thủy sản hải sản, đánh cá, lâm nghiệp, hàng hoá bán lẻ, chế biến, sành sứ, giày dép, dệt may, v.v...Lĩnh vực sản xuất lương thực, đặc biệt là xuất khẩu gạo và các sản phẩm nông nghiệp, thuỷ hải sản, lĩnh vực dệt may, giày dép xuất khẩu; thủ công mỹ phẩm xuất khẩu... đã mang về hàng tỷ đôla ngoại tệ cho nền kinh tế tư nhân. Thực tế nêu trên đang đặt ra vấn đề cần xem xét lại vai trò chủ của kinh tế nhà nước trong những ngành nghề, lĩnh vực nào là thích hợp khi mà khu vực kinh tế tư nhân đã tham gia và chiếm tỷ trọng lớn trong không ít ngành sản xuất, các ngành nghề, các loại sản phẩm dịch vụ, các hình thức kinh doanh, v.v của khu vực kinh tế tư nhân đã tác động mạnh đến các doanh nghiệp nhà nước, buộc khu vực kinh tế nhà nước phải cải tổ, sắp xếp lại, đầu tư đổi mới công nghệ, đổi mới phương thức kinh doanh, dịch vụ,v.v. để tồn tại và đứng vững trong cơ chế thị trường. Qua đây, khu vực kinh tư nhân đã thúc đẩy sự cạnh tranh giữa các khu vực kinh tế, làm cho nền kinh tế trở nên căng động; đồng thời cũng tạo nên sức ép lớn buộc cơ chế quản lí hành chính của các doanh nghiệp nói riêng và nền kinh tế thị trường nói chung. Sự phát triển của khu vự kinh tế tư nhân đã góp phần quan trọng hình thành và xác lập vai trò, vị trí của các chủ thể sản xuất kinh doanh theo yêu cầu của cơ chế thị trường, phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, thúc đẩy cải cách doanh nghiệp nhà nước, cải cách cơ chế quản lý theo hướng thị trường, mở của hợp tác với bên ngoài. I.3.3. Góp phần xây dựng đội ngũ các nhà doanh nghiệp Việt Nam. Công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa trước đây xoá bỏ các thành phần kinh tế phi xã hội chủ nghĩa và cả những nhà doanh nghiệp tư nhân, chỉ còn lại các doanh nghiệp trong khu vực kinh tế quốc doanh và hợp tác xã. Đội ngũ các nhà doanh nghiệp trong khu vực kinh tế quốc doanh được đào tạo trong cơ chế cũ - mặc dù đã được đào tạo, đổi mới, trưởng thành trong cơ chế thị trường những năm gần đây và đã đạt được những thành công đáng kể trong sản xuất kinh doanh, nhưng nhìn chung vẫn còn nhiểu yếu kém bất cập trước yêu cầu nhiệm vu và đòi hỏi của nền kinh tế thị trường nhất là trước yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước thời mở của nền kinh tế. Nhờ đổi mới và phát triển khu vực kinh tế tư nhân, chúng ta đã từng bước hình thành được đội ngũ các nhà doanh nghiệp hoạt bát trong hầu hết các lĩnh vực, các ngành nghề của nền kinh tế quộc dân với số lượng ngày một lớn: khoảng 40.000 chủ doanh nghiệp và trên 120.000 chủ trang trại. Đây thực sự là một thành quả có ý nghĩa lớn trong việc xây dựng đội ngũ các nhà doanh nghiệp và phát huy nguồn lực con người cho đất nước thời mở của của khu vực kinh tế tư nhân. Mặc dù được hình thành một cách tự phát nhưng nhờ được đào luyện trong cơ chế thị trường, đội ngũ các nhà doanh nghiệp tư nhân đã tỏ rõ, bản lĩnh tài năng, thích ứng khá kịp thới cới sự chuyển đổi của nền kinh tế. Họ đã vươn lên tham gia vào hầu hết các lĩnh vực, ngành nghề sản xuất kinh doanh mà luật pháp không cấm. I.3.4. Thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển, góp phần xây dựng quan hệ sản xuất mới và thực hiện công bằng xã hội. Chính nhờ phát triển kinh tế tư nhân với nhiều loại hình kinh tế khác nhau, đã góp phần làm cho quan hệ sản xuất chuyển biến phù hợp với lực lượng sản xuất trong giai đoạn chuyển đổi nền kinh tế nước ta. Trước hết là sự chuyển biến trong quan hệ sở hữu. Nếu trước đây quan hệ sở hữu ở nước ta chỉ gồm sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể thì giờ đây quan hệ sở hữu đã được mở rộng hơn: còn có sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất và sở hữu hỗn hợp. Sự chuyển biến trong quan hệ sở hữu nói trên kéo theo sự chuyển biến trong quan hệ quản lý: hình thành tầng lớp chủ doanh nghiệp tư bản tư nhân bên cạnh đội ngũ giám đốc các doanh nghiệp nhà nước; hình thành đội ngũ những người lao động làm thuê trong các doanh nghiệp tư bản tư nhân bên cạnh những người làm công ăn lương trong các doanh nghiệp nhà nước...; xuất hiện quan hệ chủ thơ, quan hệ mướn lao động thông qua hợp đồng kinh tế; thị trường lao động bước đầu được hình thành và ngày càng mở rộng, tạo cơ hội tìm kiếm việc làm cho mọi người thay cho việc phân bổ lao động vào các doanh nghiệp theo chỉ tiêu ( cơ chế kế hoạch hoá tập trung trước đây)v.v. Quan hệ phân phối giờ đây càng trở nên linh hoạt, đa dạng: ngoài phân công chủ yếu dựa trên lao động, còn sử dụng các hình thức phân phối theo vốn góp, theo tài sản, theo cổ phần và các hình thức khác.v.v. Chính sự chuyển biến của các quan hệ sở hữu, quản lý và phân phối nói trên đã làm cho quan hệ sản xuất trở nên mềm dẻo, đa dạng, linh hoạt, dễ được chấp nhận và phù hợp với thực trạng nền kinh tế và tâm lý xã hội ở nước ta hiện nay. PHẦN II THỰC TRẠNG CỦA KINH TẾ TƯ NHÂN VÀ CƠ CHẾ CHÍNH SÁCH ĐỐI VỚI KINH TẾ TƯ NHÂN II.1. Thực trang phát triển kinh tế tư nhân trong thời gian qua. II.1.1.Kinh tế tư bản tư nhân. - Về vốn sản xuất: Theo số liệu thống kế năm 1995, trong tổng số 15.276 doanh nghiệp tư nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn và công ty cổ phần thì có tới 87,2% số doanh nghiệp có mức vốn điều lệ dưới 1 tỷ đồng, trong đó 29,4% số doanh nghiệp có mức vốn dưới 100 triệu đồng. Những doanh nghiệp có mức vốn dưới 10 tỷ đồng chiếm 10% trên 10 tỷ đồng trở lên chiếm 1%, trong đó từ 100 tỷ đồng trở lên chỉ có 0,1%. -Về tài sản cố định: Trong ba loại hình doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế tư nhân thì doanh nghiệp tư nhân có giá trị tài sản cố định bình quân chung thấp nhất: 0,1 tỷ đồng (năm 1991), nhưng có xu hướng tăng lên và giữa ổn định ở mức 0,2 tỷ đồng (từ 1992 đến 1996); -Về lực lượng lao động: Số lượng lao động bình quân một doanh nghiệp tư nhân là 8 lao động năm 1991 tăng lên 9 lao động năm 1996, 17 lao động năm 1997 và 19 lao động năm 1998. Theo số liệu của Tổng cục Thống kê năm 1999 thì: 432 doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế tư nhân có tư 100 – 299 lao động; 89 doanh nghiệp có 300 – 499 lao động và 101 doanh nghiêp có từ 500 lao động trở lên; số cọn lại 25.399 doanh nghiệp( trong tổng số 26.021 doanh nghiệp) có số lao động dưới 100. -Về doanh thu: Năm 1991, bình quân doanh thu của một cơ sở thuộc khu vực kinh tế tư nhân là 2,7 tỷ đồng, sau 5 năm doanh thu đạt 2,8 tỷ đồng (năm 1996), có tăng chút ít. Nếu tính đến yếu tố trượt giá và lạm phát thì thực tế bình quân doanh thu của một cơ sở sau 5 năm là giảm. -Về chỉ tiêu nộp ngân sách: Bình quân chung cả 3 loại hình doanh nghiệp trên là 0,12 tỷ đồng/ cơ sở năm 1991, sau 5 năm mức bình quân này giảm còn 0,07 tỷ đồng (năm 1996); Như vậy, so với chỉ tiêu doanh nghiệp vừa và nhỏ của Chính phủ và một số nước trên thế giới thì rõ ràng các doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế tư nhân ở nước ta chủ yếu thuộc loại hình doanh nghiệp nhỏ. II.1.2. Kinh tế cá thể, tiểu chủ Các cơ sở sản xuất kinh doanh cá thể, tiểu chủ ở nước ta về quy mô có những đặc trưng chủ yếu sau: Vốn sản xuất kinh doanh khoảng 11 triệu đồng. Sử dụng khoảng 3,3 lao động (kể cả chủ) ở nông thôn và 6,3 lao động ở thành phố (năm 1996). Doanh thu hàng năm khoảng 18 triệu đông. Có thể kết quả điều tra trên chưa phản ánh thật đầy đủ, nhưng cũng cho thấy phần nào thực trạng quy mô vốn, lao động, doanh thu... của loại hinh kinh tế cá thể, tiểu chủ ở nước ta, nhìn chung là nhỏ bé. Sản xuất kinh doanh của loại hình kinh tế này phần lớn chỉ đủ tái sản xuất giản đơn, khả năng tích luỹ tái sản xuất mở rộng vươn lên chuyể đổi sang các loại hình doanh nghiệp có quy mô lớn hơn rất khó khăn. Nó không phải là loại hình kinh tế chủ yếu để làm giàu, nhưng lại cần thiết cho bước quá độ sang nền kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay - nhất là trong việc giải quyết việc làm, huy động nguồn lực nhỏ lẻ, phân tán trong dân và phát triển sản xuất, hình thành các chủ doanh nghiệp nhỏ và vừa và đội ngũ lao động cho nền kinh tế thị trường,v.v. II.1.3. Hiệu quả sản xuất kinh doanh. Năm 1994, bình quân một doanh nghiệp thuộc 3 loại hình công ty cổ phần, công ty trách nhiêm hữu hạn, doanh nghiệp tư nhân có số vốn thực tế sử dụng là 193,6 triệu đồng, tạo ra doanh thu khoảng 312,2 triệu đồng, tức là 1 đồng vốn sử dụng mang lại 1,6 đồng doanh thu; nộp ngân sách 91 triệu đồng (2,9% doanh thu). Nếu tính cho từng loại hình doanh nghiệp thì mang lại 1,3 đồng doanh thu và nộp ngân sách nhà nước 0.03 đồng; tương tự: công ty cổ phần là 0,3 đồng doanh thu và 0.04 đồng nộp ngân sách; doanh nghiệp tư nhân là 5.45 đồng doanh thu và 0,01 đồng nộp ngân sách. Xem xét theo ngành thì thấy rằng: ngành công nghiệp khai thác bình quân 1 đồng vốn tạo ra được 1 đồng doanh thu và nộp ngân sách 0,02 đồng; tương tự: công nghiệp chế biến là: 1,47 đồng và 0.03 đồng; ngành xây dựng là: 1,42 đồng và 0,05 đồng; ngành vận tải 0,46 đồng và 0,013 đồng; ngành nông – lâm nghiệp là: 0,9 đồng và 0,02 đồng. Căn cứ vào chỉ tiêu doanh thu và nộp ngân sách có thể thấy rằng: doanh nghiệp tư nhân là loại hình doanh nghiệp hoạt động có hiệu quả nhất (5,45 đồng doanh thu / 1 đồng vốn) tiếp đó là công ty trách nhiêm hữu hạn 1,3 đồng doanh thu/ 1 đồng vốn và sau cùng là công ty cổ phần; doanh nghiệp tư nhân và công ty trách nhiệm hữu hạn cũng có tỷ lệ nộp ngân sách trên doanh thu cao. Còn xét theo ngành sản xuất thấy rằng: ngành công nghiệp chế biến và xây dựng có doanh thu cao (doanh thu 1,47 đồng và 1,42 đồng/ 1 đồng vôn) và đóng góp ngân sách (0,03 đồng/ 1 đồng doanh thu) cao hơn so với công nghiệp khai thác và vận tải (doanh thu 0,46 đồng và 1,0 đồng, nộp ngân sách 0,03 đồng và 0,02 đồng). Các ngành có hiệu quả hơn cả vẫn là thương nghiệp, sửa chữa và công nghiệp chế biến; ngành nông – lâm nghiệp vẫn có hiệu quả nhất. Kết quả điều tra năm 1995 của Tổng cục Thống kê và những khảo sát nghiên cứu gần đây cũng cho thấy: trong các doanh nghiệp tư nhân, tính bình quân một đồng vốn đem lại 3,2 đồng doanh thu và mức sinh lời trên 1 đồng vốn là 0.057 đồng; công ty trách nhiệm hữu hạn tương ứng là 1,94 đồng và 0,018 đồng; doanh nghiệp nhà nước một đồng vốn tạo được 1,43 đồng doanh thu, mức sinh lời trên một đồng vốn là 0,054 đồng và lợi nhuận trên 1 đồng doanh thu là 0,0378 đồng. Điều đó nói lên rằng: hiệu quả hoạt động của các loại hình doanh nghiệp tư bản tư nhân, doanh nghiệp ngoài quốc doanh ở nước ta cũng như doanh nghiệp nhà nước còn rất thấp. Mặc dù năng lực sản xuất kinh doanh của kinh tế cá thể và tiểu chủ hạn chế so với các loại hình doanh nghiệp tư nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn và công ty cổ phân, nhưng lại là loại hinh kinh tế có số lượng lớn, trải rộng trên nhiều vùng, hoạt động trên nhiều lĩnh vực khác nhau nên trong cơ cấu doanh thu của khu vực kinh tế tư nhân lại chiếm tỷ trọng lớn nhất. Cụ thể là: trong tổng doanh thu của cả khu vực kinh tế tư nhân năm 1996, kinh tế cá thể, tiểu chủ chiếm 40,6%, thứ hai là công ty trách nhiêm hữu hạn chiếm 36,04% , thứ ba là doanh nghiệp tư nhân chiếm 17,18%, thứ tư là công ty cổ phần chiếm 3,78%. Riêng trong việc giải quyết việc làm cho lao động thì kinh tế cá thể là nơi thu hút số lượng lớn nhất so với các loại hình kinh tế khác. Cụ thể là: kinh tế cá thể, tiểu chủ chiếm 81,2%; công ty trách nhiệm hữu hạn chiếm 7,98%; doanh nghiệp tư nhân chiếm 5,54%; và thấp nhất là công ty cổ phân chiếm 0,84%. Như vậy có thể thấy rằng: doanh nghiệp tư nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn và công ty cổ phần là những loại hình kinh tế có khả năng huy động nguồn vốn lớn vào sản xuất kinh doanh (khoảng 70% nguồn vốn), nhưng loại hình kinh tế cá thể và tiểu chủ lại chủ yếu giải quyết việc làm cho lao động xã hội trên diện rộng ( hơn 81% lực lượng lao đông), tuy nhiên khả năng huy động vốn hạn chế. II.1.4.Tốc độ tăng trưởng, phát triển của kinh tế tư nhân. -Các loại hình kinh tế tư bản tư nhân: có tốc độ tăng cao vào năm 1994 với mức tăng 60% so với năm 1993, nhưng các năm tiếp theo tốc độ tăng giảm dần, đạt bình quân khoảng 37%/năm (giai đoạn 1994 - 1997) và giảm còn 4%/năm vào năm 1998. Như vậy, nếu xét về số lượng cở sở sản xuất kinh doanh thì các doanh nghiệp tư bản tư nhân có tốc độ tăng mạnh và cao hơn so với các loại hình kinh tế cá thể, tiểu chủ khoảng 3 lần(37%/13%). Cụ thể là: doanh nghiệp tư nhân có tốc độ tăng trưởng giai đoạn năm 1997 là 36%, năm 1998 còn 7%; công ty trách nhiêm hữu hạn tương ứng là 49% và 3%; công ty cổ phần tương ứng là 138% và 13% và mực bình quân chung của khu vực kinh tế tư nhân vào khoảng 20%. - Các loại hình kinh tế cá thể, tiểu chủ: có tốc độ tăng về số lượng không đều, bình quân giai đoạn 1992 – 1997 tăng khoảng 13%/năm. Năm 1990 có khoảng 800.000 cơ sở kinh tế cá thể, tiểu chủ, năm 1992 có 1.498.600 cơ sở tăng 87% so với năm 1990, năm 1994 có 1.533.100 cơ sở, tăng 2,3% so với năm 1992, năm 1995 lên đến 2.050.200 cơ sở, tăng 34% so với năm 1994, và sang năm 1996 có 2.215.000 cơ sở, tăng 8% so với năm 1995 Nhờ có tốc độ phát triển và tăng trưởng nhanh nên khu vực kinh tế tư nhân đã đóng góp ngày càng quan trọng vào GDP của nền kinh tế: từ 102.468 tỷ đồng năm 1995 đã tăng lên 151.388 tỷ đồng vào năm 1998, chiếm tỷ trọng 41,06% GDP. Tuy nhiến đáng lưu ý là tốc độ phát triển của khu vực kinh tế cá thể, tiểu chủ và tư bản tư nhân cũng như toàn bộ nền kinh tế nước ta đã có dấu hiệu chững lại vào năm 1997 – sau một thời gian phát triển có thể nói khá ngoạn mục. Sự suy giảm của khu vực kinh tế tư nhân một mặt là do tác động của cuộc khủng hoảng tài chính khu vực – đây được coi là nguyên nhân trực tiệp trước mắt; còn nguyên nhân sau xa bên trong lại chính do cơ chế, chính sách quản lý điều hành vĩ mô của Nhà nước tỏ ra chưa phù hợp với đòi hỏi của khu vực kinh tế tư nhân đã có nhiều đổi khác sau hơn 10 năm đổi mới; đồng thời cũng do những hạn chế về năng lực nội tại của bản thân khu vực kinh tế tư nhân. Mặc dù vậy, thành tựu phát triển của khu vực kinh tế tư nhân gắn liền với công cuộc đổi mới là to lớn và rất có ý nghĩa, góp phân tạo tiền đề quan trọng cho bước phát triển mới của đất nước trước thềm thế kỷ XXI và là thành tựu đáng ghi nhân của một chặng đường phát triển và những tồn tại cũng là tất yếu. Nhiệm vụ của giai đoạn tới là phải tiếp tục khắc phục những tổn tại nhằm thúc đẩy khu vực kinh tế tư nhân phát triển phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước theo cương lĩnh, chiến lược đã đề ra. II.1.5. Cơ cấu ngành nghề, lĩnh vực kinh doanh và xu hướng đầu tư của kinh tế tư nhân. Từ sau Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI năm 1986, khu vực KTTN đã được nhìn nhận dưới ánh sáng đổi mới. Luật Doanh nghiệp tư nhân được ban hành năm 1990, Nghị định số 221/HĐBT ngày 23/7/1991 của Hội đồng Bộ trưởng cungc nhiều chính sách khác của Đảng và Nhà nước đã tạo điều kiện khuyến khích sự phát triển nhanh chóng của khu vực kinh tế năng động này qua bảng 1. Năm 1990 mới có khoảng 800.000 cơ sở kinh tế cá thể, tiểu chủ, đến năm 1992 sau một năm thực hiện Nghị định số 221/HĐBT, đã có 1.497.600 hộ cá thể, tiểu chủ, đăng kí kinh doanh. Đến năm 1994, đã lên tới 1.533.100 cơ sở, năm 1995 có 2.050.200 cơ sở. Bình quân giai đoạn 1990 – 1996, mỗi năm tăng 533.775 cơ sở, và tốc độ tăng hàng năm hơn 20% xét về số lượng. Tính bình quân giai đoạn 1991 -1998, mỗi năm tăng thêm hơn 3.200 doanh nghiệp, tức là khoảng 32% trong đó, năm 1992 các doanh nghiệp tư nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn và công ty cổ phần có tốc độ tăng về số lượng rất cao 1,225%. Năm 1999, Luật Doanh nghiệp đã được Quốc hội thông qua và có hiệu lực thi hành kể từ năm 2000. Tính đến tháng 12- 2000, sau 12 tháng thực hiện Luật Doanh nghiệp, số lượng doanh nghiệp đăng ký trong cả nước lên đến 13.500 doanh nghiệp (tăng gấp 5 lần số doanh nghiệp được thành lập trong năm 1999), trong đó có 3.736 công ty TNHH và 3,559 doanh nghiệp tư nhân. Mức tăng số lượng của mỗi loại hình doanh nghiệp tư nhân, công ty TNHH và công ty cổ phần cũng khác nhau. Bảng 1: Số cơ sở kinh tế tư nhân giai đoạn 1991 – 1998. Loại hình 1994 1995 1996 1997 1998 Tư bản tư nhân 10.881 15.276 18.894 25.002 26.021 % so năm trước 59,8 40,4 23,7 32,4 4,1 DN tư nhân 7.794 10.916 12.464 17.500 18.750 % so năm trước 34,1 40,1 14,2 40,4 7,1 Cty TNHH 2.968 4.242 6.303 7.350 7.100 % so năm trước 84,7 42,9 48,6 16,7 -3,4 Cty Cổ phần 119 118 127 152 171 % so năm trước 626,3 -0,8 7.6 19,7 12,5 Số cơ sở KT cá thể 1.533.100 2.050.200 2.215.000 % so năm trước 102,3 133,7 108 Trong tổng số 31.519 doanh nghiệp thuộc khu vực KTTN năm 2000, cơ cấu phân bổ như sau: Hộ kinh doanh gia đình 75,67%, công ty TNHH chiếm 22,84%, công ty cổ phần chiếm 1,49%. Như vậy, doanh nghiệp hộ kinh doanh là hình thức tổ chức phổ biến nhất của khu vực KTTN. Xu hướng tập trung vào lĩnh vực thương mại dịch vụ của khu vực KTTN không chỉ thể hiện về mặt số lượng, mà còn thể hiện qua cơ cấu vốn đầu tư và số lượng lao động sử dụng, doanh thu, nộp thuế... Theo Viện Nghiên cứu quản lý kinh tês Trung ương: trong số 170.495 tỷ đồng vốn kinh doanh của khu vực KTTN(1996) ngành thương nghiệp, sửa chữa xe máy chiếm 38,8%; ngành công nghiệp chế biến có 27%; lĩnh vực vận tải, kho bãi, thông tinh liên lạc chiếm 9%; các lĩnh vực khác chiếm 26%. Trong khu vực sản xuất, khu vực KTTN chiếm tỷ trọng thấp, tiềm lực còn nhỏ bé, khả năng cạnh tranh thấp. Năm 1998, khối sản xuất của khu vực Nhà nước còn chiếm tới 53% tổng giá trị sản lượng, khối kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài từ 15% năm 1995 đã tăng lên 18% năm 1998, khối KTTN chiếm 28% năm 1995 đã giảm xuống còn 27,8% vào năm 1998, trong đó khu vực KTTN chính thức (có đăng ký kinh doanh) từ 10,5% năm 1995 giảm xuống 9,6% năm 1998. Nếu xét về tốc độ tăng trưởng giá trị tổng sản lượng thì : khu vực nhà nước từ 11,7% năm 1995 giảm xuống 5,5% năm 1998; khu vực KTTN từ 16,8% năm 1995 xuống đến 9% năm 1998; riêng khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài tư 14,9% năm 1995 tăng lên 28,1% vào năm 1998. Xét về cơ cấu ngành nghề, lĩnh vực kinh doanh: phần lớn các doanh nghiệp tư nhân trong nước thuộc các lĩnh vực thương nghiệp, dịch vụ, tiểu thủ công, lắp ráp, chế biến thực phẩm, sản xuất hàng tiêu dùng... II.1.6. Những tồn tại, yếu kém của thành phần kinh tế tư nhân. Một là, phần lớn các cơ sở kinh tế tư nhân đều có quy mô nhỏ, năng lực và sức cạnh tranh hạn chế, dễ bị tổn thương trong cơ chế thị trường. Hiện nay có tới 87,2% số doanh nghiệp có mức vốn dưới 1 tỷ đồng, trong đó 29.4% có mức vốn dưới 100 triệu đồng; những doanh nghiệp có mức vốn từ 10 tỷ đồng trở lên chỉ chiếm 1%, trong đó từ 100 tỷ đồng trở lên có 0,1%.Thiếu vốn để sản xuất và mở rộng sản xuất là hiện tượng phổ biến đối với toàn bộ các doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế tư nhân hiện nay và được coi là một trong những cản trở lớn nhất (sau vấn đề thị trường tiêu thụ và cạnh tranh) đến sự phát triển sản xuất kinh doanh của các cơ sở kinh tế tư nhân. Hầu hết các doanh nghiệp khởi sự hoàn toàn bằng vốn tự có ít ỏi của mình. Ngân hàng thì luôn ở trong tình trạng thủ thế “chở doanh nghiệp đến vay với đầy đủ các điều kiện về tài sản thế chấp” chứ không phải là “tìm các phương án kinh doanh có hiệu quả để cho vay”. Mặc khác bản thân doanh nghiệp cũng có những hạn chế nhất định trong việc tiếp cận các nguồn vốn, tiếp cận thông tin. Thành lập doanh nghiệp chủ yếu là dựa trên kinh nghiệm chứ chưa tính toán đầy đủ nhu cầu thị trường và khả năng tiêu thụ chắc chắn, nên hầu hết các chủ doanh nghiệp trong khu vực kinh tế tư nhân ( nhất là hộ cá thể và tiểu chủ) hoạt động thiếu phương án cũng như kế hoạch kinh doanh, vì vậy dễ đổ vỡ trước biến động của thị trường. Hệ thống ngân hàng, kể cả hệ thống tài chính trung gian yếu kém cùng với những thủ tục thế chấp phức tạp và nạn quan liêu đã khiến cho hơn 20% các doanh nghiệp tư nhân nhỏ và vừa không muốn vay ngân hàng. Không có được các điều kiện vay thuận lợi như các doanh nghiệp nhà nước nên chỉ có 18% các doanh nghiệp tư nhân vừa và lớn vay được vốn dài hạn; đối với doanh nghiệp tư nhân nhỏ và vừa con số này chắc chắn sẽ còn thấp hơn. Hai là, máy móc, thiết bị, công nghệ lạc hậu và nguồn nhân lực còn nhiều hạn chế. Mặc dù nhận thức dược nhu cầu cấp bách phải nâng cao khả năng cạnh tranh của sản phẩm hàng hoá, song khả năng đổi mới thiết bị, công nghệ của các cơ sở sản xuất tư nhân hạn chế (do thiếu vốn đầu tư) vì vậy phần lớn đều đang sử dụng máy móc thiết bị cũ, lạc hậu; rất ít doanh nghiệp sử dụng máy móc, công nghệ mới cũng như thuê máy móc thiếu bị. Đa số các cơ sở sản xuất tư nhân cũng như hộ cá thể, tiểu chủ đều sử dụng máy móc, thiết bị cũ, lạc hậu 2-3 thế hệ. Số doanh nghiệp được trang bị máy móc công nghệ hiện đại chưa nhiều, chỉ có khoảng 24% doanh nghiệp tư nhân và 25% công ty trách nhiệm hữu hạn là đầu tư mua sắm thiết bị hiện đại; còn lại 37,2% số doanh nghiệp tư nhân và 20% số công ty trách nhiệm hữu hạn sử dụng công nghệ truyền thống; 34% số doanh nghiệp tư nhân và 57% số công ty trách nhiệm hữu hạn sử dụng công nghệ hiện đại và truyền thống. Các hộ cá thể, tiểu chủ sử dụng công nghệ thủ công và truyền thống là phổ biến, việc đổi mới trang thiết bị, công nghệ hiện đại còn rất hạn chế. Do đó đã hạn chế năng suất lao động, chất lượng sản phẩm của phần lớn các cơ sở sản xuất kinh doanh. Lao động trong các doanh nghiệp nhỏ và vừa của kinh tế tư nhân chủ yếu là lao động phổ thông, ít được đào tạo, thiếu kỹ năng, trình độ văn hóa thấp. Số liệu điều tra cho thấy: trong khu vực kinh tế tư nhân chỉ có 5,13% lao động có trình độ đại học, khoảng 48,4% số chủ doanh nghiệp không có bằng cấp chuyên môn. Trong số lao động có trình độ cao đẳng và đại học trở lên thì doanh nghiệp tư nhân chiếm 1,9%, công ty cổ phần là 1,3%, công ty trách nhiệm hữu hạn là 8.6%, trong các cơ sở kinh tế cá thể, tiểu chủ là 0.5%. Cùng với sự lạc hậu về công nghệ, kỹ thuật, sự yếu kém của đội ngũ lao động là nguyên nhân làm hạn chế hiệu quả sản xuất kinh doanh của khu vực kinh tế này. Ba là, thiếu mặt bằng sản xuất và mặt bằng sản xuất không ổn định là tình trạng phổ biến đã tác động bất lợi tới chiến lược kinh doanh của các doanh nghiệp. Luật Đất đai chỉ quy định quyến sử dụng đất, không cho phép tư nhân có quyền sở hữu và hạn chế nghiêm ngặt việc mua bán đ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc35527.doc