Đổi mới tổ chức và hoạt động của tòa án nhân dân ở nước ta trong giai đoạn hiện nay

Tài liệu Đổi mới tổ chức và hoạt động của tòa án nhân dân ở nước ta trong giai đoạn hiện nay: ... Ebook Đổi mới tổ chức và hoạt động của tòa án nhân dân ở nước ta trong giai đoạn hiện nay

doc219 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 2465 | Lượt tải: 1download
Tóm tắt tài liệu Đổi mới tổ chức và hoạt động của tòa án nhân dân ở nước ta trong giai đoạn hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỞ ĐẦU 1. Tính cấp bách của đề tài Cùng với sự đổi mới mạnh mẽ bộ máy nhà nước, vấn đề đổi mới tổ chức và hoạt động của cơ quan tư pháp luôn được Đảng và Nhà nước ta quan tâm. Điều đó, được phản ảnh trong các văn kiện Đại hội của Đảng Cộng sản Việt Nam (ĐCSVN) qua các kỳ Đại hội. Thực hiện chủ trương của Đảng những năm qua trên thực tế, việc đổi mới tổ chức và hoạt động của hệ thống Tòa án nhân dân (TAND) đã được tiến hành khá nhiều lần trong lịch sử lập pháp nước ta. Nhất là từ sau Hiến pháp 1992 Luật tổ chức TAND đã được Quốc hội liên tục sửa đổi bổ sung để đáp ứng yêu cầu đổi mới của đất nước. Thông qua việc sửa đổi bổ sung, đó mà TAND từng bước được nâng cao về vị trí, cùng với các cơ quan trong hệ thống các cơ quan Tư pháp. Tại Nghị quyết 08-NQ/TW của Bộ Chính trị Trung ương ĐCSVN khóa IX đã khẳng định: Trong những năm qua... công tác tư pháp đã đạt được nhiều kết quả, góp phần quan trọng vào việc giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa, phục vụ tích cực cho công cuộc đổi mới, phần lớn cán bộ làm công tác tư pháp giữ vững phẩm chất chính trị, có tinh thần trách nhiệm và hoàn thành nhiệm vụ... [20, tr. 1]. Tuy nhiên, so với nhiệm vụ đổi mới hoạt động lập pháp và nhiệm vụ cải cách hành chính thì tiến độ thực hiện đổi mới trên lĩnh vực tư pháp còn chậm và kết quả chưa đáp ứng yêu cầu. Chất lượng xét xử của TAND các cấp đã có thời gian còn để tình trạng oan, sai, tồn động kéo dài, tổ chức bộ máy TAND các cấp chậm được đổi mới, đội ngũ cán bộ nhất là đội ngũ Thẩm phán vừa thiếu về số lượng vừa yếu về trình độ chuyên môn nên ảnh hưởng nhiều đến chất lượng xét xử. Điều đó được phản ảnh trong Nghị quyết 08-NQ/TW của Bộ Chính trị Trung ương ĐCSVN khóa IX như sau: "... Chất lượng công tác tư pháp nói chung chưa ngang tầm với yêu cầu và đòi hỏi của nhân dân, còn nhiều trường hợp bỏ lọt tội phạm, làm oan người vô tội, vi phạm các quyền tự do dân chủ của công dân, làm giảm sút lòng tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước và các cơ quan tư pháp" [20, tr. 2]. Do vậy, công tác tư pháp trong thời gian tới phải có những biến chuyển mạnh mẽ, trong đó đổi mới tổ chức và hoạt động của TAND là một khâu quan trọng. Để đáp ứng yêu cầu đó Hiến pháp nước CHXHCN Việt Nam đã được sửa đổi bổ sung theo Nghị quyết số 51/2001/QH10 ngày 25/12/2001 của Quốc hội khóa X, tại kỳ họp thứ 10. Trên cơ sở đó Luật tổ chức TAND đã được Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam thông qua ngày 02/4/2002, so với Luật tổ chức TAND năm 1992 đã có những đổi mới nhất định như: về cơ cấu của TANDTC đã bỏ Ủy ban Thẩm phán TANDTC thay đổi về thành phần và số lượng Hội đồng Thẩm phán TANDTC và Ủy ban Thẩm phán TAND cấp tỉnh, giao TAND địa phương cho TANDTC quản lý... Tuy nhiên, sự thay đổi trên cũng mới chỉ dừng lại ở một số vấn đề nhất định. Những vấn đề rất cơ bản như thẩm quyền của Tòa án (TA) các cấp, về cơ cấu tổ chức bộ máy của TAND như thế nào cho hợp lý, về các biện pháp bảo đảm các nguyên tắc tổ chức và hoạt động của TAND... chưa được xem xét đầy đủ, và ngay cả các vấn đề đã sửa đổi cũng chỉ mới dừng lại ở tính chung nhất, làm cho việc nhận thức và thực hiện gặp khó khăn như: vấn đề quản lý TA địa phương kết hợp chặt chẽ với Hội đồng nhân dân (HĐND) địa phương như thế nào, và kết hợp đến đâu, việc bỏ Ủy ban Thẩm phán TANDTC, vậy tổ chức hoạt động của Hội đồng Thẩm phán TANDTC như thế nào để có hiệu quả, và để không còn án tồn đọng... Do vậy, mặc dù đã có những đổi mới nhất định trong tổ chức và hoạt động của TAND thông qua Luật tổ chức TAND năm 2002, nhưng chưa thể nói tổ chức và hoạt động của TAND hiện nay đã được hoàn thiện, đáp ứng được các yêu cầu đòi hỏi của công cuộc cải cách tư pháp theo các mục tiêu của việc xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN ở nước ta. Hàng loạt vấn đề lý luận, thực tiễn trong tổ chức và hoạt động của hệ thống TAND ở nước ta vẫn đang tiếp tục được đặt ra và cần giải đáp. Nên việc nghiên cứu lĩnh vực đổi mới tổ chức và hoạt động của TAND ở nước ta hiện nay vẫn là yêu cầu đòi hỏi bức thiết cả về lý luận và thực tiễn. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài TAND với vị trí là bộ phận quan trọng trong bộ máy nhà nước và là cơ quan có vai trò to lớn trong việc bảo vệ pháp luật, bảo vệ các quyền dân chủ và duy trì công lý, nên được Đảng và Nhà nước ta coi trọng và luôn chủ trương cải cách đổi mới. Để đáp ứng yêu cầu đó của Đảng và Nhà nước, những năm gần đây đã có nhiều công trình nghiên cứu nhằm góp phần thực hiện việc đổi mới TAND. Có thể chia các công trình theo các nhóm sau đây: Nhóm thứ nhất: Những công trình nghiên cứu về hệ thống tư pháp Việt Nam có liên quan đến TAND. Bao gồm những công trình nghiên cứu về thực trạng và phương hướng cải cách hệ thống tư pháp nước ta. Có thể kể đến những công trình khoa học sau: Cải cách hệ thống tư pháp Việt Nam, Đề tài cấp Nhà nước, mã số 92-98-353. Chủ nhiệm đề tài: Nguyễn Văn Yểu và Nguyễn Đình Lộc (đề tài chưa bảo vệ); Xây dựng mô hình quản lý ngành tư pháp, Đề tài cấp Bộ, mã số 96-98-028, Chủ nhiệm đề tài: Tiến Sĩ Nguyễn Ngọc Hiến (đề tài chưa bảo vệ); Năm mươi năm ngành tư pháp Việt Nam, Mã số 96-98-035, Đề tài cấp Bộ, Chủ nhiệm đề tài: Nguyễn Văn Thảo, năm 1996; Đại hội VII ĐCSVN và những vấn đề cấp bách của khoa học về nhà nước và pháp luật, Giáo sư Tiến sĩ khoa học Đào Trí Úc, Nxb khoa học xã hội, Hà Nội, năm 1997; Cơ sở lý luận và thực tiễn đổi mới tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư pháp (góp phần sửa đổi Hiến pháp năm 1992), Đề tài cấp Bộ, Chủ nhiệm đề tài: Hoàng Thế Liên, năm 2001; Một số vấn đề về hoàn thiện tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, PGS..TS Lê Minh Thông, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, năm 2001; Những vấn đề đổi mới hệ thống tư pháp ở nước ta, PGS.TS Phạm Hồng Hải, Tạp chí TAND, số 04 năm 1999; Những vấn đề đổi mới các cơ quan tư pháp trong bộ máy nhà nước Việt Nam, Luận văn Thạc sĩ của Lê Thành Dương (1996)... Nhóm thứ hai: Những công trình nghiên cứu về TAND ở những góc độ khác nhau. Có thể kể đến những công trình cơ bản sau: Cải cách tư pháp, Phần: Đổi mới tổ chức hoạt động của TA, Đề tài cấp Bộ, mã số: 86-90-011, Chủ nhiệm đề tài: Nguyễn Tất Viễn, tháng 12/1990; Vị trí vai trò và chức năng của TAND trong bộ máy nhà nước qua các thời kỳ cách mạng Việt Nam, Đề tài cấp Bộ, mã số 95-98-048/ĐT năm 1996, Chủ nhiệm đề tài: TS. Trịnh Hồng Dương; Xây dựng và hoàn thiện cơ chế quản lý Thẩm phán TA địa phương, Đề tài cấp Bộ, Mã số 96-98-029, Chủ nhiệm: Nguyễn Văn Sáu, năm 1996; Vai trò của TA trong hệ thống các cơ quan tư pháp, PGS.TS Phạm Hồng Hải, Tạp chí TAND, số 05 năm 2001; Cơ sở lý luận và thực tiễn tăng cường năng lực xét xử của TAND cấp huyện, Chủ nhiệm: TS. Nguyễn Văn Hiện, năm 2001... Những công trình nghiên cứu trên đã đánh giá một cách khá đầy đủ về lý luận và thực tiễn hệ thống tư pháp Việt Nam về quá trình phát triển của TA và vị trí của nó trong bộ máy nhà nước qua các giai đoạn; những cơ sở lý luận và thực tiễn cải cách các cơ quan tư pháp, trong đó đã đưa ra nhiều kiến nghị quan trọng về đổi mới TAND, bước đầu đặt nền móng cho việc nghiên cứu đề tài này. Tuy nhiên, những đề tài trên theo chúng tôi cũng còn những hạn chế sau: ở nhóm thứ nhất: đối tượng chính để nghiên cứu là hệ thống tư pháp, trong đó TAND được đề cập đến với góc độ là một bộ phận của hệ thống đó, nên chưa đề cập một cách đầy đủ về tổ chức và hoạt động của TAND và chưa có các giải pháp cụ thể cho quá trình đổi mới về tổ chức và hoạt động của TAND một cách toàn diện. Ở nhóm thứ hai, tuy các công trình đề cập trực tiếp đến TA nhất là đề tài "Đổi mới tổ chức hoạt động của TA" của chủ nhiệm Nguyễn Tất Viễn. Song đề tài được thực hiện ở những năm đầu của công cuộc đổi mới 1989 - 1990, cả về thực tiễn và pháp lý, đã thay đổi rất lớn trong tình hình hiện nay, các đánh giá về thực trạng và các giải pháp đến nay không còn phù hợp. Các đề tài khác chỉ đề cấp đến những khía cạnh cụ thể, từng mặt của TA như: "vị trí, vai trò, chức năng của TA trong bộ máy nhà nước qua các giai đoạn cách mạng", "cơ sở và thực tiễn tăng cường năng lực xét xử của TAND cấp huyện"... Do vậy cần thiết phải tiếp tục nghiên cứu về tổ chức và hoạt động của TAND trong giai đoạn hiện nay theo hướng có hệ thống hơn, toàn diện hơn làm cơ sở lý luận và thực tiễn cho quá trình đổi mới đáp ứng yêu cầu trong tình hình hiện nay. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án Mục đích của luận án là nghiên cứu một cách có hệ thống về mặt lý luận, đánh giá một cách có căn cứ và khoa học về thực trạng tổ chức và hoạt động của TA, để trên cơ sở đó hướng tới mục đích: Xác định được các yêu cầu khách quan của sự đổi mới TA, xây dựng được các nguyên tắc bảo đảm cho quá trình đổi mới của TA một cách đúng hướng và đạt hiệu quả cao. Đề xuất được một số nội dung thiết thực góp phần đổi mới mạnh mẽ về tổ chức và hoạt động của TAND ở nước ta trong giai đoạn hiện nay. Từ mục đích đó, luận án có nhiệm vụ: Làm rõ về mặt lý luận vị trí, chức năng các nguyên tắc tổ chức hoạt động của TAND. Đánh giá một cách khách quan, khoa học về thực trạng tổ chức và hoạt động của TAND. Từ đó xác định được những mặt mạnh, mặt yếu, những nguyên nhân của thực trạng, làm cơ sở vững chắc về mặt thực tiễn cho quá trình đổi mới. Trên cơ sở lý luận, thực tiễn và những nhu cầu khách quan, đề xuất những giải pháp thiết thực nhằm góp phần đổi mới tổ chức và hoạt động của TAND trong giai đoạn hiện nay. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án Đối tượng nghiên cứu của luận án: là lĩnh vực tổ chức và hoạt động của TAND trên cơ sở luật nước ta qua các giai đoạn và chủ yếu là giai đoạn hiện nay. Thực tiễn tổ chức và hoạt động của TAND ở nước ta. Cùng với những yếu tố kinh tế - xã hội, chính trị, pháp lý ảnh hưởng đến tổ chức và hoạt động của TA. Phạm vi nghiên cứu: Chủ yếu là nghiên cứu thực trạng về tổ chức và hoạt động của TA theo luật hiện hành và thực tiễn của nó hiện nay về mặt tổ chức và hoạt động những gì hợp lý, những gì chưa hợp lý, nguyên nhân của thực trạng; Trong một chừng mực nhất định, luận án cũng đề cập đến vị trí vai trò của TA thông qua việc tổ chức và hoạt động của nó trong các giai đoạn lịch sử, cũng như mối quan hệ của nó đối với các cơ quan trong bộ máy nhà nước, nhất là các cơ quan tư pháp khác. 5. Cở sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận án Cơ sở lý luận của luận án là quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, các quan điểm đường lối, chính sách của ĐCSVN và của nhà nước ta về nhà nước pháp quyền và hoạt động tư pháp; các học thuyết chính trị về nhà nước pháp quyền trên thế giới. Luận án cũng được trình bày trên cơ sở nghiên cứu Hiến pháp, Luật tổ chức TAND, Pháp lệnh về Thẩm phán và các văn bản pháp luật khác qui định về tổ chức và hoạt động của TAND. Dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, luận án đặc biệt coi trọng các phương pháp phân tích và tổng hợp, phương pháp so sánh, phương pháp hệ thống, kết hợp với phương pháp khảo sát thực tiễn để làm sáng tỏ những nội dung cần nghiên cứu của luận án. 6. Đóng góp mới về khoa học của luận án Luận án là công trình nghiên cứu một cách có hệ thống về vị trí vai trò, chức năng của TA làm sáng tỏ những cơ sở lý luận về các quan điểm đúng đắn của Đảng và Nhà nước ta về việc xác định vai trò "trọng yếu" của TA trong bộ máy nhà nước. Từ đó đưa ra các khái niệm, những luận cứ xác đáng tiếp tục góp phần làm thay đổi nhận thức về TA một cách đúng đắn hơn, khoa học hơn (vì lâu nay nhìn TA như các ngành, các bộ khác trong bộ máy nhà nước) đã làm cho TA chậm phát triển theo yêu cầu. Luận án trình bày và đánh giá thực trạng về cơ cấu tổ chức và cán bộ, về thực trạng hoạt động của TAND trong những năm qua một cách đầy đủ trên cơ sở tổng hợp các số liệu qua nhiều nguồn xác thực, phân tích được những mặt mạnh, mặt yếu của TAND cùng với những nguyên nhân của nó, làm cơ sở thực tiễn cho việc cải cách tổ chức và hoạt động của TAND. Dựa trên sự tổng hợp các quan điểm của Đảng và Nhà nước, luận án đã hệ thống một cách đầy đủ các nguyên tắc bảo đảm cho quá trình đổi mới TAND bao gồm các nguyên tắc chung và các nguyên tắc đặc thù xuất phát từ tính chất cũng như mục đích hoạt động của TAND. Luận án cũng đã đưa ra được những yêu cầu và những giải pháp thiết thực nhằm góp phần đổi mới tổ chức và hoạt động của TAND đáp ứng yêu cầu của công cuộc đổi mới hiện nay. 7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án Kết quả nghiên cứu của đề tài sẽ góp phần làm sáng tỏ quan điểm của Đảng và Nhà nước về vai trò của cơ quan tư pháp trong đó TAND giữ vai trò "trọng yếu" trong việc bảo vệ pháp luật, bảo đảm dân chủ, kỷ cương xã hội và duy trì công lý. Từ đó nâng cao nhận thức về vai trò và vị trí của TAND trong thời kỳ đổi mới. Qua phân tích cơ sở lý luận và đánh giá thực trạng của TAND hiện nay, luận án góp phần khẳng định một cách khoa học về tính tất yếu của việc cải cách hệ thống tư pháp, đổi mới TAND nhằm bảo đảm các nhu cầu khách quan của tình hình kinh tế - xã hội, đòi hỏi của nền dân chủ, nhu cầu đấu tranh chống vi phạm và tội phạm hiện nay nhằm góp phần xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN. Đồng thời các kết luận, kiến nghị trong luận án có ý nghĩa thiết thực trong việc xây dựng hệ thống đồng bộ các giải pháp nhằm nâng cao vị trí vai trò của TAND, nhằm đáp ứng yêu cầu của công cuộc đổi mới. Luận án là công trình tham khảo cần thiết cho các nhà tổ chức, các nhà quản lý và nó cũng là tài liệu cho việc nghiên cứu và giảng dạy cho các cơ sở đào tạo khoa học pháp lý. 8. Kết cấu của luận án Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận án gồm 3 chương, 7 mục. CHƯƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA TÒA ÁN 1.1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TÒA ÁN TRONG BỘ MÁY NHÀ NƯỚC 1.1.1. Vai trò và vị trí của Tòa án trong các kiểu Nhà nước (trước Nhà nước xã hội chủ nghĩa) Học thuyết Mác - Lênin đã vạch rõ: khi xã hội phát triển đến một trình độ nhất định, chế độ tư hữu ra đời, làm cho xã hội phân chia giai cấp và đấu tranh giai cấp không thể điều hòa được thì Nhà nước ra đời. Vì vậy, Nhà nước là kết quả tất yếu của xã hội có giai cấp và đấu tranh giai cấp không thể điều hòa được. Nhà nước là công cụ bạo lực của giai cấp thống trị, do giai cấp thống trị tổ chức ra nhằm đàn áp giai cấp khác. Nhờ có Nhà nước mà giai cấp thống trị về kinh tế đã trở thành giai cấp thống trị và nắm giữ quyền lực xã hội. Sự thống trị về mặt chính trị của giai cấp thống trị, trước hết đó là giai cấp thống trị thông qua Nhà nước biến ý chí giai cấp mình thành pháp luật và buộc các giai cấp khác trong xã hội phải chấp nhận và tuân theo. Quá trình đó được khoa học pháp lý gọi là hoạt động lập pháp và nó là lĩnh vực thể hiện quyền lực nhà nước cơ bản nhất nên bao giờ cũng giao cho cơ quan có quyền lực cao nhất nắm giữ và thực hiện. Trong các Nhà nước Quân chủ các đạo dụ, chiếu chỉ... của nhà vua là mệnh lệnh tuyệt đối, trong các chính thể Cộng hòa quyền lập pháp giao cho cơ quan Nghị viện hay Quốc hội. Tuy nhiên, ý chí của giai cấp thống trị sẽ không đạt được, nếu ý chí đó chỉ mới dừng lại ở những điều luật, thậm chí là những bộ luật hoàn thiện. Bởi lẽ những điều luật tự nó sẽ không đi vào cuộc sống, nếu không có sự tổ chức. Hơn nữa trong các xã hội có giai cấp thì pháp luật chính là ý chí của giai cấp thống trị, ý chí này đối lập với ý chí của các tầng lớp nhân dân lao động, nên bị nhân dân chống đối và không thực hiện. Do vậy, giai cấp thống trị phải tổ chức ra một bộ máy dựa trên sức mạnh vật chất như điều kiện kinh tế, quân đội, cảnh sát... và được giao cho nhiệm vụ lớn lao, đó là tổ chức thi hành pháp luật, kể cả hình thức đàn áp nhằm bắt buộc các tầng lớp xã hội phải chấp hành pháp luật. Đó là hệ thống cơ quan hành pháp, một bộ phận quan trọng nhất nắm giữ các yếu tố vật chất và có khả năng đàn áp mạnh mẽ để bảo đảm pháp luật được thực thi trong xã hội. Như vậy quyền lập pháp và hành pháp là những phạm vi quyền lực cơ bản và thể hiện sự gắn bó mật thiết giữa chúng trong quyền lực nhà nước. Đồng thời giai cấp nào khi ban hành pháp luật cũng mong muốn cho pháp luật của giai cấp mình được thực thi nghiêm chỉnh trong xã hội, do đó bao giờ cũng có nhu cầu cho sự hình thành một hệ thống bảo đảm trên cơ sở giám sát và xử lý các hành vi vi phạm pháp luật không chỉ từ phía giai cấp đối kháng, mà ngay cả việc giám sát, phát hiện và xử lý hành vi vi phạm pháp luật trong các cơ quan trong bộ máy nhà nước. Sự đảm bảo đó trước hết phải bằng hoạt động của các cơ quan trong hệ thống các cơ quan nhà nước. Các cơ quan này có quyền nhân danh quyền lực nhà nước xét xử các hành vi vi phạm các quy định của pháp luật nhà nước. Đó là hệ thống các cơ quan tư pháp và cơ quan giữ vai trò trọng trách đó chính là TA. Như vậy xét về mặt phạm vi quyền lực thì Nhà nước có ba loại quyền: quyền lập pháp, quyền hành pháp và quyền tư pháp, trong đó quyền tư pháp (chữ tư pháp ở đây chúng ta dịch từ tiếng Trung Quốc chính xác là "Xét xử") do TA thực hiện. Từ đó cho phép chúng ta khẳng định rằng hoạt động xét xử là hoạt động tất yếu, là chức năng không thể thiếu được của mọi Nhà nước. Điều đó đã thể hiện rõ ngay từ thời kỳ cổ Hy Lạp, La Mã, người ta đã khẳng định: ở đâu có pháp luật, thì ở đó phải có một hệ thống bảo đảm cho pháp luật được thi hành một cách nghiêm chỉnh. Sự bảo đảm đó trước hết phải bằng hoạt động của các cơ quan trong hệ thống cơ quan nhà nước, các cơ quan này có chức năng xét xử hành vi vi phạm pháp luật, chính là chức năng của TA một cơ quan trong bộ máy nhà nước. Tuy nhiên, ở mỗi kiểu Nhà nước với chế độ chính trị khác nhau, bộ máy nhà nước được tổ chức khác nhau, trong đó vị trí của TA cũng khác nhau. Ở chế độ Chiếm hữu nô lệ và Phong kiến, hình thức Nhà nước chủ yếu là Quân chủ, hoạt động xét xử cũng như các hoạt động lập pháp và hành pháp đều tập trung vào giai cấp Chủ nô và Phong kiến mà đại diện là nhà vua. Nhà vua là người ban hành các đạo luật, vừa là người quyết định tổ chức thực hiện, vừa là người có quyền lực xét xử cao nhất. Do vậy, TA cùng với hoạt động xét xử trong giai đoạn này chưa được tổ chức thành hệ thống rõ ràng và chưa trở thành một lĩnh vực hoạt động độc lập trong bộ máy nhà nước Chiếm hữu nô lệ và Phong kiến. Vào những năm của thế kỷ 17, 18, giai cấp tư sản phát triển mạnh mẽ trong xã hội phong kiến, đại diện cho phương thức sản xuất tiên tiến của thời đại, là giai cấp đại diện cho xu hướng, chính trị tiến bộ cần phải hạn chế quyền lực vô hạn định của nhà vua, tiến đến xóa bỏ Nhà nước phong kiến đã lỗi thời, các học giả tư sản đưa ra các luận điểm cần phải tách các hoạt động ban hành pháp luật, hoạt động thực hiện các văn bản pháp luật và hoạt động xét xử các hành vi vi phạm pháp luật và chia quyền lực nhà nước ra thành các loại quyền khác nhau. Đó là tư tưởng của các nhà Triết học, Xã hội học, và Luật học ở thế kỷ 17 – 18, mà đại diện là John Locce, Montesquieu... John Locce, nhà triết học người Anh phân hoạt động nhà nước thành ba nhánh quyền lực: Lập pháp, Hành pháp, và Bang giao quốc tế. Montesquieu thì lại chia thành: Lập pháp, Hành pháp và Tư pháp. Học thuyết của Montesquieu, đã trở thành hạt nhân của học thuyết "Tam quyền phân lập". Montesquieu viết: Khi quyền lập pháp được sáp nhập với quyền hành pháp và tập trung trong tay một người hay một tập đoàn, thì sẽ không có tự do được: bởi vì người ta có thể sợ rằng chính nhà vua hay nghị viện ấy sẽ làm những đạo luật độc đoán để thi hành một cách độc đoán. Sẽ không có tự do nếu quyền xét xử không được phân biệt với quyền lập pháp và quyền hành pháp. Nếu quyền xét xử được sáp nhập vào quyền lập pháp, thì sẽ không có tự do, nếu quyền xét xử được nhập vào quyền hành pháp thì Thẩm phán sẽ trở thành những kẻ áp bức [45, tr. 81]. Ông còn nhấn mạnh rằng: "Mọi thứ sẽ bị biến mất cả nếu chính một người, hay chính một tập đoàn các thân hào hay các quý tộc hay bình dân hành sự cả ba quyền: quyền làm luật, quyền thi hành các quyết nghị chung và quyền xét xử các tội phạm hay các vụ tranh chấp giữa các tư nhân" [45, tr. 85]. Để có một Nhà nước pháp quyền theo quan niệm phân lập các quyền lực của Nhà nước tư sản, cũng như các cơ quan nhà nước khác, cơ quan tư pháp, TA phải có vị trí xứng đáng, phải được tổ chức sao cho có tính độc lập, tham gia vào cơ chế đối trọng và chế ước; kiểm soát lẫn nhau giữa các bộ phận, các nhánh quyền lực nhà nước. Từ đó mà bảo vệ chế độ dân chủ, bảo đảm tự do cho các công dân phù hợp với ý chí của giai cấp tư sản và trong khuôn khổ pháp luật của nó. Cũng như các cơ quan nhà nước khác, TA nếu không được tổ chức thỏa đáng sẽ trở thành nguy cơ cho quốc gia và tự do của công dân. Một bộ máy nhà nước, một "cơ quan cầm quyền, vừa là kẻ thi hành luật, vừa cho mình là kẻ lập pháp. Họ có thể tàn phá quốc gia bằng những ý chí chung sai lầm của họ. Mà họ còn nắm cả quyền xét xử nữa thì họ có thể đè nát mỗi công dân theo ý muốn của họ" [45, tr. 87]. Như vậy, theo quan điểm của giai cấp tư sản thì TA là cơ quan bảo vệ pháp luật quan trọng nhất, bảo vệ công lý và là người trọng tài vô tư, khách quan để đánh giá các vi phạm pháp luật, giải quyết các tranh chấp. Đối tượng xét xử của TA không chỉ là hành vi của con người, của công dân mà còn cả hoạt động của Nhà nước, của công quyền. Đây cũng là điểm thể hiện rõ nét tính đối trọng giữa quyền Tư pháp với các quyền Lập pháp và Hành pháp, là điểm thể hiện rõ nét tính độc lập của TA trong bộ máy nhà nước tư sản. Vấn đề độc lập của TA, tách khỏi nhà vua, cùng với những vấn đề khác như nghị viện, tự do dân chủ, trở thành khẩu hiệu phương hướng và động lực cho việc lật đổ chế độ phong kiến thiết lập nên chế độ tư bản, phải nói một cách công bằng rằng, chế độ tư bản và nhất là thời kỳ cách mạng của nó bỏ rất nhiều công sức vào việc đấu tranh giành độc lập cho hoạt động của TA. Sự độc lập của TA khỏi lập pháp và hành pháp là một trong những đảm bảo quan trọng trong công việc bảo đảm quyền bình đẳng, quyền tự nhiên của con người, nhất là trong việc chống lại tình trạng tham nhũng, lợi dụng quyền lực của những nhà cầm quyền, vì đam mê quyền lực, vì vụ lợi mà họ xâm phạm đến quyền tự do, bình đẳng, quyền tự nhiên của quần chúng nhân dân lao động [11, tr. 249]. Có thể nói rằng, sự tách riêng và độc lập của TA khỏi hai nhánh quyền lực lập pháp và hành pháp, đã ảnh hưởng rất lớn đến việc xác lập chế độ dân chủ tư sản, nó là thành quả lớn lao phúc đáp phần nào nguyện vọng của quần chúng dân trong cuộc đấu tranh chống chế độ chuyên quyền phong kiến, khi mà ở đó mọi quyền con người bị chà đạp bởi sức mạnh tuyệt đối và vô hạn của nhà vua. Tuy nhiên, tính độc lập của TA trong Nhà nước tư sản cũng phụ thuộc rất nhiều vào chính thể. Nếu như chính thể cộng hòa Đại nghị (Cộng hòa Đại nghị là chính thể cộng hòa mà ở đó nghị viện do cử tri bầu ra và đảng nào chiếm đa số ghế nắm thủ tướng và thành lập chính phủ và do nắm đa số ghế và trực tiếp điều hành chính phủ, do đó chính cơ quan hành pháp là cơ quan thực quyền trong nhà nước Cộng hòa Đại nghị) thì nhánh quyền lực tư pháp mềm yếu hơn. Do vậy khi so sánh bản chất giữa ba nhánh quyền lực (lập pháp, hành pháp và tư pháp) trong bộ máy nhà nước tư sản chúng ta có thể thấy rằng: nhánh quyền lập pháp không những có quyền quy định cho mình khả năng kiểm soát tài chính, mà còn có quyền qui định ra các luật lệ chi phối sinh hoạt của công dân. Quyền hành pháp không chỉ có quyền ra các mệnh lệnh hành chính trực tiếp điều hành các quan hệ xã hội, mà còn được quyền chi phối tài sản lẫn sức mạnh của xã hội, quyền được sử dụng vũ lực để bảo đảm quyền lực nhà nước. Ngược lại, quyền tư pháp không có quyền nắm giữ và sử dụng các cơ quan cưỡng chế, không nắm và kiểm soát tài chính, cũng không có quyền chi phối tài sản lẫn sức mạnh xã hội. Khi nghiên cứu về bản chất của nó (quyền tư pháp), một học giả tư sản là A.Hamiton đã viết: "Có thể nói rằng ngành tư pháp vừa không có lực lượng, lại vừa không có ý chí mà chỉ có trí phán đoán mà thôi, và cần dựa vào trợ tá của ngành hành pháp mới có thể thi hành quyết định trí phán đoán của mình" [11, tr. 250]. Nhưng nếu là chính thể Cộng hòa tổng thống thì quyền tư pháp có khả năng bền vững hơn, vì với chính thể này sự phân định giữa quyền lập pháp và hành pháp rõ ràng hơn; trong đó Nghị viện và Tổng thống (thể hiện sự độc lập của mình thông qua việc bầu cử trực tiếp của cử tri và đại cử tri đối với hai cơ quan này, đồng thời hai cơ quan này cũng có sự chi phối cánh quyền lực thứ ba đó là quyền tư pháp, chính sự cùng chi phối của hai cơ quan tương đối độc lập, khiến cho quyền lực tư pháp không lệ thuộc vào cơ quan duy nhất nào, nên là cơ sở cho tính độc lập của nó, đồng thời các cơ quan này (lập pháp và tư pháp) đã có nhiều cố gắng làm cho cơ quan tư pháp bảo đảm tính độc lập. Mỹ là một nước thể hiện rõ sự phân quyền này. Vì vậy mà A.Hamiton đã viết: "Trong tất cả các yếu tố khiến cho ngành tư pháp có thể duy trì được tính độc lập và cương quyết của mình, nhiệm kỳ của vị Chánh án là yếu tố quan trọng nhất và chúng ta (Mỹ) có thể coi yếu tố đó là một thành trì bảo vệ công lý và an ninh cho công chúng vậy" [11, tr. 251]. Chẳng những thế đối tượng và phạm vi hoạt động của quyền tư pháp cũng phát triển theo thời gian và sự phát triển của nền dân chủ tư sản. Lúc đầu đối tượng xét xử TA chỉ là "dân đen" vì theo họ chỉ có thần dân mới vi phạm pháp luật của giai cấp tư sản, còn pháp luật là lợi ích là ý chí và công cụ của giai cấp tư sản. Và ngược lại những kẻ "áo dài, mũ cao" thì hoạt động của họ là những hoạt động mẫu mực không bao giờ có vi phạm pháp luật (đây là những lý do giải thích những quyền miễn trừ tư pháp của các quan lại cao cấp). Nhưng càng về sau các quan chức cũng phải chịu trách nhiệm về những hoạt động vi phạm pháp luật của mình và cũng là đối tượng xét xử của TA. Cũng tương tự như vậy, ban đầu phạm vi xem xét của TA là các hoạt động vi phạm các đạo luật thường nhưng về sau thì xem xét đến cả việc vi phạm Hiến pháp. Về vấn đề này ở Mỹ, David Cusman Coyle viết: Trong buổi ban đầu của nền Cộng hòa, TA không phải trực tiếp đương đầu với vấn đề phải làm gì khi chính quyền vi phạm Hiến pháp. Hiến pháp đã được chấp thuận như "luật pháp tối thượng của đất nước. Và bất cứ một hành động nào của Quốc hội hay Tổng thống mà vi phạm Hiến pháp thì theo lý thuyết, đó không phải là luật pháp [11, tr. 252]. Tuy nhiên, vì những lợi ích của các tập đoàn và các động cơ khác nhau, ngày càng thể hiện nhiều hoạt động vi phạm Hiến pháp nên cần có nhu cầu phán quyết của TA, do vậy mà TA Hiến pháp ra đời bên cạnh TA thường. Đồng thời cùng với sự phát triển của xã hội ngày càng xuất hiện nhiều quan hệ kinh tế, thương mại, điền địa và những quan hệ xã hội khác mà Nhà nước cần can thiệp, do đó ngoài TA tư pháp thường về hình sự tư pháp, đã ra đời các TA dân sự, TA thương mại, TA điền địa, TA hành chính... Đến đây chúng ta có thể thấy rằng, TA không chỉ là một bộ phận của bộ máy nhà nước để xét xử các hành vi là tội phạm, bảo vệ giai cấp thống trị mà nó còn là sự nối dài cánh tay Nhà nước can thiệp vào các quan hệ dân sự, kinh tế, thương mại, hành chính... Như vậy ngay từ khi Nhà nước xuất hiện nhu cầu phán quyết xét xử của Nhà nước đã ra đời và ngày càng trở nên quan trọng trong việc thực thi quyền lực nhà nước. Tuy nhiên, tùy theo kiểu Nhà nước và phương thức thực hiện quyền lực đối với xã hội khác nhau mà bộ máy được tổ chức khác nhau, và do vậy, mà quyền xét xử và cơ quan thực hiện quyền này trong mỗi kiểu Nhà nước cũng khác nhau. ở Nhà nước chiếm hữu nô lệ và phong kiến quyền này không tách rời quyền lập pháp và hành pháp và đều do giai cấp thống trị (giai cấp chủ nô và giai cấp phong kiến) nắm giữ và sử dụng thông qua người đại diện là nhà vua. Với đặc điểm và bản chất của xã hội tư bản, Nhà nước tư sản được tổ chức dựa trên nền dân chủ tư sản, do vậy để xóa bỏ tính chuyên quyền của Nhà nước phong kiến, giai cấp tư sản tổ chức Nhà nước dựa trên nguyên tắc "phân quyền" và thích ứng với nó bộ máy nhà nước được chia thành ba cơ quan có vị trí độc lập nhau đó là: cơ quan lập pháp, cơ quan hành pháp và cơ quan tư pháp. Trong đó, cơ quan tư pháp (TA) cùng với sự phát triển nền dân chủ tư sản, thì vai trò của nó càng trở nên quan trọng và vị trí độc lập của nó càng được xác lập và tăng cường. Đồng thời với sự tăng cường quyền lực nhà nước vào các quan hệ xã hội thì đối tượng xét xử, phạm vi xét xử của TA cũng càng được mở rộng hơn. Song "TA tư sản hiện đại là một trong những khâu đặc biệt độc lập của cơ cấu Nhà nước, tách khỏi nhân dân" [106, tr. 61], vì vậy, TA dưới chế độ tư bản cũng chỉ bảo vệ lợi ích của giai cấp tư sản mà thôi. Tuyệt nhiên với bản chất là Nhà nước XHCN, chúng ta không thể áp dụng cách tổ chức theo kiểu Nhà nước tư sản được và do vậy TA nước ta không thể áp dụng nguyên tắc "phân quyền" và "đối trọng" giữa cơ quan tư pháp (TA) với các cơ quan lập pháp và hành pháp như bộ máy nhà nước tư sản. Tuy nhiên, theo quan điểm đổi mới của Đảng ta tại Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX: "Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công và phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp". Thì những kinh nghiệm quý báu trong việc xác lập, mở rộng, nâng cao từng bước vị trí, vai trò và phạm vi tác động của TA vào các lĩnh vực đời sống xã hội, ở các kiểu Nhà nước, nhất là Nhà nước tư sản; đặc biệt là lĩnh vực đấu tranh không mệt mỏi của các nhà luật học nhằm bảo đảm cho sự độc lập của TA trong bộ máy nhà nước và trong hoạt động xét xử của nó, luôn là những kinh nghiệm tham khảo cần thiết và quý giá trong công cuộc cải cách tư pháp và đổi mới TA ở nước ta hiện nay. 1.1.2. Các nguyên tắc cơ bản về tổ chức, hoạt động của Tòa án trong các nước tư bản Với vị trí là cơ quan độc lập trong bộ máy nhà nước, thực hiện quyền tư pháp, hệ thống TA các nước đều phải được tổ chức theo những nguyên tắc nhất định. Những nguyên tắc này xuất phát từ tính chất đặc thù của hoạt động xét xử, nó là bộ phận quyền lực của Nhà nước, được quyền nhân danh Nhà nước để phán quyết các hành vi tranh tụng nhằm bảo vệ công lý. Những nguyên tắc này bảo đảm cho TA tổ chức để xét xử được công bằng, khách quan, công minh. Theo Hiến pháp mỗi nước, việc qui định các nguyên tắc tổ chức và hoạt động của TA có khác nhau, nhưng khái quát thì có những nguyên tắc mang tính phổ biến sau đây: Nguyên tắc bảo đảm tính độc lập của TA trong hoạt động xét xử Như phần trên đã trình bày hoạt động tư pháp là hoạt động quyền lực nhà nước, nhưng không phải là hoạt động ban hành pháp luật, cũng không phải là hoạt động điều hòa các quan hệ xã hội bằng việc ra các mệnh lệnh hành chính, mà là hoạt động áp dụng pháp luật thông qua sự phán đoán trên cơ sở đánh giá các chứng cứ. Do vậy muốn có sự đánh giá đúng đắn, khách quan nhằm đưa ra phán quyết công bằng, nh._.ất thiết các TA và các Thẩm phán phải được độc lập cả về tổ chức và cả "tư duy". Do vậy việc đấu tranh cho sự độc lập của TA là một thành quả đáng "kính trọng" của chế độ tư sản. Và cho đến nay, cuộc đấu tranh để cho hoạt động xét xử của TA hoàn toàn độc lập trước lập pháp và hành pháp vẫn còn đang tiếp diễn và... cũng không ít những khó khăn. Do vậy, "sự độc lập của TA đối với các cơ quan nhà nước khác, với các nhóm áp lực xã hội (đảng phái, tôn giáo...) là một trong những nguyên tắc cơ bản nhất của một chế độ pháp trị, một Nhà nước pháp quyền" [69, tr. 3-5]. Nguyên tắc bảo đảm sự độc lập của TA được thể hiện trước hết là sự cố gắng của các nhà lập pháp qui định trong Hiến pháp về thẩm quyền và trách nhiệm độc lập của cơ quan tư pháp không lệ thuộc vào cơ quan lập pháp và hành pháp. Sự phân định càng rành mạch trách nhiệm và thẩm quyền, thì tính độc lập càng bảo đảm. Đây là nguyên tắc cơ bản nhất bảo đảm cho hoạt động xét xử của TA mà tất cả Hiến pháp các nước tư sản đều ghi nhận. Hiến pháp của Hợp chủng quốc Hoa Kỳ tại Điều III, khoản 1 đã ghi: "Quyền tư pháp Hợp chủng quốc sẽ được trao cho một tối cao pháp viện" [11, tr. 590]. Tại bản Hiến pháp của Đệ ngũ Cộng hòa Pháp quốc (4.01.1958) Điều 64 qui định: "Tổng Thống bảo đảm sự độc lập của cơ quan tư pháp" [11, tr. 568], tương tự Hiến pháp Thụy Điển năm 1974 cũng đã thể hiện tại Chương XI, Điều 1: "TA tối cao là cơ quan xét xử cao nhất về pháp luật chung" và Điều 2 cũng ghi: "Không một cơ quan nhà nước nào, kể cả Quốc hội, được quyết định theo cách mà một TA đã xét xử và áp dụng luật trong một trường hợp riêng biệt" [11, tr. 626]. Biểu hiện nguyên tắc độc lập trong hoạt động xét xử của TA thể hiện ở nội dung thứ hai rất quan trọng đó là: đề cao vai trò độc lập của Thẩm phán trong xét xử, bởi vì hoạt động xét xử của Thẩm phán là hoạt động tư duy, mà tư duy con người: Thường bị ảnh hưởng bởi những ngoại cảnh như dư luận xã hội, các sức ép của các thế lực Nhà nước, tôn giáo, đảng phái và gay gắt của các đương sự. Công lý theo cách nói của các luật gia La Mã thì đó là tập quán của ý chí... Do đó nếu không có sự độc lập thì phán quyết của Thẩm phán có thể sẽ không khách quan, hành vi nói luật sẽ không thể là sự phân phát công lý... [11, tr. 261]. Hiến pháp Nhật Bản năm 1946 đã qui định tại Điều 76 chương VI như sau: "... Các Thẩm phán xét xử theo lương tâm và phải tôn trọng Hiến pháp và pháp luật một cách triệt để..." [11, tr. 588} Hiến pháp của Đệ ngũ Cộng hòa Pháp quốc năm 1958 Điều 64 đã thể hiện: "Một đạo luật biên chế ấn định qui chế của Thẩm phán. Các Thẩm phán xét xử có tính cách bất di bất dịch" [11, tr. 590] và Hiến pháp Cộng hòa Liên bang Đức năm 1959 tại Điều 97 qui định: "Thẩm phán xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật" [11, tr. 620]. Chính sự qui định khi xét xử Thẩm phán độc lập và chỉ tuân theo pháp luật, sẽ tạo điều kiện cho Thẩm phán tránh được mọi áp lực từ phía các quan chức nhà nước, kể cả các Thẩm phán của TA cấp trên. Đồng thời, sự ràng buộc này làm cho Thẩm phán nâng cao năng lực phán đoán cũng như tự chịu trách nhiệm và cũng hạn chế việc lợi dụng quyền lực của các Thẩm phán. Nó chính là yêu cầu của bảo đảm tính công lý. Mặt khác ở nhiều nước, một cơ chế nâng cao tính độc lập trong hoạt động của Thẩm phán đó là bảo đảm cho các vị Thẩm phán một chế độ bổ nhiệm và nhiệm kỳ đặc biệt. Hamiton đã viết: "Trong tất cả các yếu tố khiến cho ngành tư pháp có thể duy trì được tính độc lập và cương quyết của mình, nhiệm kỳ trường kỷ của các vị Chánh án là yếu tố quan trọng nhất..." [11, tr. 250]. Điều đó đã được thể hiện trong Hiến pháp Hợp chủng quốc Hoa Kỳ (tại khoản một Điều III): "... Các pháp quan tối cao pháp viện và của những pháp viện hạ cấp sẽ giữ chức vụ của mình vĩnh viễn nếu lúc nào cũng có một hành vi chính đáng. Và sẽ có quyền hưởng, trong những kỳ hạn nhất định một trợ cấp sẽ không bao giờ bị sút giảm suốt trong thời kỳ tại chức". Hiến pháp Cộng hòa Liên bang Đức năm 1959 tại Điều 97 qui định: "Những Thẩm phán được bổ nhiệm chính và theo kế hoạch chỉ có thể bị bãi miễn trước khi kết thúc nhiệm kỳ họ, hoặc bị tước cương vị lâu dài hay ngắn hạn... bằng một quyết định của TA và chỉ khi có lý do. Cơ quan lập pháp có thể qui định giới hạn tuổi hưu của các Thẩm phán được bổ nhiệm suốt đời...". Hiến pháp Nhật Bản năm 1946 tại Điều 78 ghi: "Các Thẩm phán chỉ bị cách chức theo thủ tục đặc biệt... không một cơ quan nào trong ngành hành pháp có thể áp dụng biện pháp kỷ luật đối với Thẩm phán". Ngoài những điều kiện đảm bảo trên, các Thẩm phán còn được hưởng chế độ vật chất tương đối cao so với các quan chức nhà nước khác, để giúp họ bảo đảm cuộc sống cho bản thân và gia đình tránh sự cám dỗ trong nghề nghiệp của họ. Đến đây chúng ta có thể nhận xét rằng, thông qua việc nghiên cứu một số Hiến pháp của các nước tư sản (như trên) thì chế định bảo đảm cho sự "độc lập" của TA được thực hiện ở các yếu tố cơ bản đó là: Bảo đảm cho TA độc lập không bị lệ thuộc về mặt tổ chức đối với cơ quan lập pháp và hành pháp. Bảo đảm cho hoạt động tư pháp không bị sự can thiệp của các tổ chức, cá nhân từ các cơ quan hành pháp và lập pháp. Bảo đảm cho các Thẩm phán được bổ nhiệm theo thủ tục đặc biệt và với nhiệm kỳ chung thân và được hưởng chế độ miễn trừ trách nhiệm tư pháp đặc biệt. Bảo đảm cho các viên Thẩm phán được hưởng chế độ vật chất tối ưu. Đó cũng là kinh nghiệm để chúng ta phân tích, đánh giá so sánh và vận dụng tính hợp lý và tránh những yếu tố hạn chế trong quá trình xây dựng cơ chế bảo đảm nguyên tắc độc lập trong xét xử của TA nước ta. Nguyên tắc xét xử tập thể Cùng với nguyên tắc độc lập xét xử của TA là nguyên tắc xét xử tập thể. Nguyên tắc này còn được gọi là nguyên tắc "Hội phán", tức là hoạt động xét xử được thông qua một hội đồng xét xử (thành phần hội đồng và số lượng tùy thuộc vào cấp xét xử mà luật mỗi nước qui định). Sự quy định nguyên tắc này, trong tổ chức và hoạt động của TA là bắt nguồn từ tính chất đặc thù của hoạt động xét xử của TA. Bởi vì quá trình xét xử là quá trình tiếp nhận và đánh giá chứng cứ và cuối cùng là được nhân danh quyền lực nhà nước đưa ra một phán quyết đối với chủ thể tham gia có thể là cá nhân, là pháp nhân... mà hậu quả của phán quyết này không chỉ liên quan đến quyền lợi vật chất, tự do, tinh thần mà cả sinh mạng con người, tính chất đặc thù này đòi hỏi việc xét xử của TA phải thận trọng và khách quan, nên cần có sự bàn bạc trao đổi tập thể để quyết định. Nội dung của nguyên tắc là việc xét xử được thông qua hội đồng tập thể bàn bạc và quyết định theo đa số nhằm đưa ra phán quyết với tính khách quan để bảo đảm được công lý. Công lý cũng đồng nghĩa với tính khách quan của bản án và được "tâm phục khẩu phục". Nguyên tắc xét xử tập thể cho phép các Thẩm phán có thể trao đổi, cọ xát ý kiến với nhau. Mọi tình tiết của vụ án được hội đồng xét xử thảo luận, xem xét kỹ lưỡng theo nhiều góc độ. Qua đó, vấn đề của vụ án được làm sáng tỏ và đưa ra được giải pháp của đa số. Công lý trong phán quyết của TA trước hết là sự vô tư của bản án, nếu bản án không vô tư thì không có công lý. Cơ chế hội phán sẽ tạo được sự vô tư của hoạt động xét xử ở chỗ nó hạn chế được sự tùy tiện hay thiên vị trong phán quyết của Thẩm phán; một Thẩm phán không thể áp đặt ý kiến riêng của mình bởi việc quyết định là một tập thể (và các thành viên hội đồng đều ngang quyền với nhau). Nhờ sự vô tư trong phán quyết của hội đồng xét xử, hoạt động xét xử của TA sẽ chiếm được lòng tin của công chúng. Nguyên tắc xét xử tập thể còn làm cho phán quyết của hội đồng xét xử trở nên "vô danh", bởi bản án là của một số đông không do một cá nhân tuyên xử nên tín nhiệm cũng được san sẻ, Thẩm phán cũng bớt e dè, ngần ngại trong việc đưa ra phán quyết, để tránh được các áp lực bên ngoài. Chính vì vậy nhiều luật gia cho rằng, nguyên tắc xét xử tập thể làm cho hoạt động xét xử bảo đảm được tính độc lập. Tuy nhiên, việc quy định nguyên tắc xét xử tập thể thì ở các nước tư bản hiện nay cũng rất khác nhau. Đối với Tòa phúc án (xét xử phúc thẩm) hoặc giám đốc thẩm thì chế độ xét xử là tập thể. Nhưng đối với cấp sơ thẩm thì thủ tục thường chỉ có một Thẩm phán xét xử, và nếu trong chừng mực nào đó vụ án có tính phức tạp thì thông thường luật qui định có đoàn bồi thẩm tham gia, bồi thẩm đoàn là những công dân bất kỳ ai được đề cử và lập danh sách nơi họ cư trú tại các địa phương của TA đó và khi bồi thẩm đoàn tham gia họ sẽ là "người" quyết định có việc phạm tội theo tội danh của cơ quan công tố truy tố hay không. Và khi quyết định là "tội danh được thành lập" thì quyền phán quyết cụ thể do Thẩm phán chủ tọa quyết định theo pháp luật. Như vậy ngay khi việc xét xử có bồi thẩm đoàn tham gia thì nguyên tắc xét xử tập thể và nguyên tắc độc lập xét xử của TA cũng được kết hợp một cách hài hòa và chặt chẽ. Ở nước ta nguyên tắc xét xử tập thể được thể hiện một cách nhất quán trong tất cả các phiên Tòa và ở tất cả các cấp; ở cấp phúc thẩm và giám đốc thẩm hội đồng tập thể bao gồm các Thẩm phán (từ 3 Thẩm phán trở lên), ở cấp sơ thẩm Hội đồng xét xử bao gồm Thẩm phán và Hội thẩm TAND và trong đó Hội thẩm bao giờ cũng chiếm đa số hơn (2/3 nếu là hội đồng 3; 3/5 nếu là hội đồng 5). Như vậy việc thực hiện chế độ xét xử tập thể là nguyên tắc xuất phát từ tính chất đặc thù của hoạt động xét xử của TA. Tuy nhiên, cơ chế này mục đích là bảo đảm cho hoạt động thận trọng, khách quan và chính xác, vì vậy, việc qui định như thế nào là tính đến hiệu quả của quá trình xét xử. Do vậy trong điều kiện hiện nay trình độ của Hội thẩm, Điều kiện tham gia nghiên cứu và chuẩn bị cho việc xét xử có nhiều hạn chế, nên chăng nghiên cứu hội đồng xét xử cấp sơ thẩm về thành phần tham gia hội đồng xét xử cho phù hợp và có hiệu quả, là một trong những nội dung cần bàn trong quá trình đổi mới TA ở nước ta hiện nay. Nguyên tắc xét xử hai cấp Khác với các phán quyết trong lĩnh vực hành chính, các quyết định hành chánh được ban hành đúng thẩm quyền đòi hỏi phải thực thi ngay. Người thi hành quyết định hành chính được khiếu nại nhưng vẫn phải thực hiện nghiêm chỉnh, không phải chờ kết quả khiếu nại, trừ khi có qui định hành chánh cấp trên quyết định hủy bỏ hoặc ngưng thi hành. Ngược lại, hoạt động xét xử của TA phải được thực hiện theo nguyên tắc xét xử hai cấp, bởi vì phán quyết của TA liên quan trực tiếp đến lợi ích của Nhà nước, tập thể và các quyền cơ bản của công dân. Mặt khác xét xử là hoạt động dựa trên sự phán đoán của các Thẩm phán và chỉ diễn ra trong một thời gian nhất định nên có thể bị sai sót. Do vậy cần có cơ chế nhằm bảo đảm cho phán quyết của TA phải thật thận trọng và chính xác, phải lắng nghe cả từ phía người bị phán quyết bất lợi để xem xét kỹ lưỡng và kiểm tra một cách khách quan. Có vậy phán quyết mới đạt chân lý. Vì vậy cần phải qui định nguyên tắc xét xử lại bản án sơ thẩm khi có kháng cáo, kháng nghị là cần thiết. Do vậy việc bản án được xét xử lại nhiều lần và qua nhiều cấp là nguyên tắc truyền thống trong hoạt động xét xử của TA các nước trên thế giới. Mặt khác, xét xử cũng đòi hỏi phải đáp ứng được nhu cầu giải quyết nhanh chóng. Quyền lợi của nhân dân cũng trở nên bị xâm hại nếu việc giải quyết của TA kéo dài không có kết thúc. Chính vì vậy, các quốc gia hoạch định cho ngành TA của mình một hệ thống xét xử gồm hai cấp. Một vụ án đã được xét xử có thể được xét xử lại một lần nữa theo thủ tục phúc thẩm. Với nguyên tắc này, pháp luật các nước đều qui định bị cáo, các đương sự... có quyền kháng cáo các bản án sơ thẩm để xét xử lại theo thủ tục phúc thẩm. Đồng thời, các bản án sơ thẩm đều không được phép đem ra thi hành ngay, mà còn phải chờ đến khi hết thời hạn kháng cáo của đương sự, bị cáo và họ không thực hiện quyền kháng cáo và cơ quan công tố không kháng nghị. Tuy nhiên, nói đến hai cấp xét xử không có nghĩa bản án chỉ được xét xử đến lần thứ hai là kết thúc không được xét xử nữa. Mà thực tế hoạt động xét xử có thể tiến hành nhiều lần, nhiều cấp và trong thời gian dài mới đạt chân lý. Do vậy nguyên tắc xét xử hai cấp chỉ có nghĩa là khi bản án được xét xử phúc thẩm (tức xử lại lần thứ hai) thì bản án phúc thẩm là chung thẩm có hiệu lực thi hành, bị cáo, đương sự không còn quyền kháng cáo; nhưng bị cáo, đương sự được quyền đề nghị với TA cấp trên có thẩm quyền, xem xét lại bản án phúc thẩm theo trình tự giám đốc thẩm hoặc tái thẩm. Nhưng việc có tái thẩm hoặc giám đốc thẩm hay không là thẩm quyền của TA cấp trên, về nguyên tắc các đương sự, bị cáo buộc phải chấp hành bản án phúc thẩm mà không phải chờ ý kiến của cấp giám đốc, trừ khi cấp giám đốc có quyết định khác. Như vậy, đối với nguyên tắc này vừa đảm bảo tính thận trọng, kỹ lưỡng, khách quan, trong việc xét xử cần có cơ chế xét xử nhiều lần đối với bản án đã xét xử. Nhưng để bảo đảm quyền lợi của công dân, tránh tình trạng thiệt thòi trong việc kéo dài và không thi hành được bản án, nên luật các nước đều qui định hai cấp xét xử. Tuy nhiên trong từng nước và ở từng trường hợp, nguyên tắc hai cấp xét xử cũng có khác, như nước ta trước đây có qui định chế định xét xử sơ chung thẩm, bản án xử sơ thẩm có hiệu lực ngay và bị cáo, đương sự không có quyền kháng cáo; một số nước thì ở tất cả các tranh chấp giản đơn, nhỏ nhặt... luật pháp cho phép TA xét xử sơ thẩm và cho thi hành ngay. Đặc biệt trong từng lĩnh vực có một số nước cho phép đương sự kháng cáo hai lần, có nghĩa là áp dụng chế độ "Ba cấp xét xử" chứ không phải hai cấp, đó là trường hợp của Nhật Bản, đương sự, bị cáo không đồng tình với phán quyết của TA sơ thẩm có thể đưa đơn kháng cáo lần thứ nhất (đối với vụ dân sự, hình sự gọi là kháng cáo Koso, đối với vụ việc hôn nhân, gia đình gọi là kháng cáo Kokoku), và nếu như cũng không đồng tình với phán quyết của TA các cấp phúc thẩm thì có quyền kháng cáo lần thứ hai (đối với vụ hình sự, dân sự gọi là kháng cáo Jokoku, đối với vụ hôn nhân, gia đình gọi là kháng cáo Kokoku đặc biệt) lên TA cấp cao hơn. Phán quyết của TA phúc thẩm lần thứ hai là chung thẩm. Qua phân tích trên có thể cho ta kết luận rằng hoạt động xét xử là hoạt động đặc thù và rất phức tạp. Người xét xử không trực tiếp chứng kiến sự việc xảy ra mà thông qua sự tái lập bằng các nguồn chứng cứ. Đối với các nước tư bản nhất là các nước theo luật án lệ thủ tục xét xử phụ thuộc vào các luật lệ công tố xuất trình tại Tòa (đối với các vụ án hình sự), đối với các tranh tụng dân sự, kinh tế... thông qua các chứng cứ do các luật sư các bên xuất trình, do vậy nếu những người giàu có họ sẽ được sự tích cực của các luật sư giỏi có kinh nghiệm trong việc thu thập và tham gia tranh tụng và ngược lại người nghèo bị thiệt thòi hơn, chưa kể đến hiện tượng "đi đêm" giữa các luật sư với nhau. Do vậy việc dẫn đến sai sót của các quan tòa là không tránh khỏi, nên thực hiện chế độ nhiều cấp xét xử trong thủ tục tố tụng của TA tư sản là cần thiết. So sánh với thủ tục xét xử nước ta có ưu điểm là các vụ án hình sự được khởi tố điều tra của cơ quan điều tra; kiểm sát, truy tố do Viện Kiểm sát; và xét xử được thực hiện bởi TA; đối với các vụ án dân sự, kinh tế, lao động, hành chính TA có trách nhiệm thụ lý, điều tra và xét xử. Do vậy quá trình xét xử tại Tòa là quá trình kiểm tra các chứng cứ đã được thu thập điều tra, đồng thời tiếp nhận các chứng cứ khác từ bị cáo, bị hại, người có liên quan, nhân chứng, luật sư... Nhưng hiện nay cũng có nhiều ý kiến đánh giá rằng chính vì lệ thuộc vào kết quả điều tra nên các Thẩm phán xét xử không chú trọng các chứng cứ mới được xuất trình tại Tòa và quá trình xét xử hướng theo kết quả đã xác định trước (án bỏ túi), vì vậy cần bảo đảm quá trình xét xử dân chủ công khai và tôn trọng kết quả xét xử tại Tòa nên Nghị quyết của Bộ Chính trị số 08-NQTW ngày 02-01-2002 "Về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới" đã chỉ rõ: Khi xét xử, các TA... phải căn cứ chủ yếu vào kết quả tranh tụng tại phiên Tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện các chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, của người bào chữa, bị cáo, nhân chứng, nguyên đơn, bị đơn và những người có quyền, lợi ích hợp pháp để ra những bản án, quyết định đúng pháp luật, có sức thuyết phục... [20, tr. 3]. Đồng thời bảo đảm quyền kháng cáo của bị cáo, bị hại cũng như kháng nghị của Viện Kiểm sát cần bảo đảm tốt việc tiến hành xét xử phúc thẩm và nâng cao hiệu quả về thủ tục giám đốc thẩm các bản án đã có hiệu lực pháp luật có sai sót nghiêm trọng. Là những nội dung cơ bản trong đổi mới, tổ chức và hoạt động của TA nước ta trong giai đoạn hiện nay. 1.1.3. Các mô hình chung về tổ chức Tòa án của các nước trên thế giới Tùy thuộc vào điều kiện lịch sử, tính chất của Nhà nước, đặc điểm mỗi quốc gia và quan điểm giai cấp của giai cấp thống trị thông qua các nhà cầm quyền... mà hệ thống TA của các nước được tổ chức theo những cách thức khác nhau: Đối với các quốc gia có lãnh thổ rộng lớn như Hoa Kỳ, Trung Quốc, việc tổ chức TA không thể không chú ý đến vấn đề địa lý lãnh thổ, nhưng ở Nhật Bản tuy TA cũng tổ chức theo từng cấp như TA tối cao, các Tòa thượng thẩm và Tòa cơ sở, nhưng các TA được đặt tập trung ở các thành phố lớn, hoặc các thủ phủ của mỗi vùng lãnh thổ lớn. Còn ở Anh quốc đạt được sự phù hợp đó khi không coi trọng các yếu tố địa lý, dân cư mà lại nhấn mạnh việc tổ chức TA theo thẩm quyền xét xử vụ việc, để thuận tiện nhà cầm quyền Anh quốc qui định những vụ việc quan trọng thì được xét xử ở Luân Đôn. Ở nước Đức là một nước rất khắt khe với các công dân của mình, các bộ trưởng thì lại càng phải là những công dân gương mẫu, quan niệm trên qui định mọi tội trạng cùng hình phạt mà các quan chức cao cấp được liệt kê trong bộ luật và họ cũng bị TA xét xử. Nhưng ở Anh quốc với truyền thống các quan chức chỉ chịu trách nhiệm trước nghị viện, chứ không chịu quyền xét xử ở bất kỳ TA nào, do vậy Thượng nghị viện là Tòa thượng thẩm tối cao. Tuy có sự khác nhau đó song khái quát thì TA các nước cũng có những đặc điểm chung theo những mô hình nhất định. Hệ thống TA được tổ chức theo các cấp TA Dù có những khác biệt nhất định, các quốc gia đều thành lập khắp lãnh thổ của mình một cơ cấu TA có tính chất thứ bậc gọi là các cấp TA. Có nhiều lý do để giải thích việc thành lập hệ thống TA theo cơ cấu thứ bậc. Thứ nhất: Hệ thống TA được tách ra từ các cơ quan hành chính mà vốn dĩ, hệ thống này có tính chất thứ bậc từ trung ương đến địa phương. Thứ hai: Do bản chất của hoạt động xét xử có ảnh hưởng trực tiếp đến quyền lợi của dân chúng; đến sinh mạng con người mà nó còn là vấn đề uy tín của Nhà nước. Một phán quyết sai trái không chỉ đưa đến sự thiệt hại cho người bị kết án, mà còn đem lại sự mất tín nhiệm của nhân dân vào Nhà nước và sự phản ứng của xã hội đối với hệ thống chính trị. Vì vậy cần phải có sự xem xét, cân nhắc thận trọng. Giải pháp của các quốc gia cho nhu cầu này là qui định việc xét lại bản án đã được xử bằng những Thẩm phán khác. Nếu để các Thẩm phán của chính TA đó xử lại thì không ổn, vì xét cho cùng vẫn là do TA đó xét lại, uy tín của Tòa sẽ bị ảnh hưởng nếu phán quyết của họ là tiền hậu bất nhất. Hơn nữa, nó còn có thể gây ra những khó xử giữa những Thẩm phán của cùng một TA với nhau. Nếu đưa sang Tòa khác cùng cấp xử lại cũng do những Thẩm phán cùng hạng thực hiện và dân chúng có thể sẽ không tin tưởng, sẽ gây ra tâm lý cho rằng địa hạt khác có công lý địa hạt này thì không... Do vậy tính phổ biến hiện nay của các nước là việc xét lại bản án do TA cấp trên xét xử. Vì vậy, mô hình chung nhất của hệ thống TA các nước là tổ chức theo nhiều cấp từ thấp đến cao. Thông thường cơ cấu hệ thống TA các nước bao gồm: TA sơ thẩm (Tòa cấp thấp); Tòa đệ nhị cấp (Tòa cấp trung); Tòa thượng thẩm (Tòa cấp cao). Tòa sơ cấp hay còn gọi là Tòa cấp thấp thẩm quyền giải quyết các vụ việc ít nghiêm trọng và không phức tạp. Tòa đệ nhị cấp Tòa này vừa có thẩm quyền giải quyết các vụ việc quan trọng, phức tạp, đồng thời các Tòa này xét xử lại các vụ việc do Tòa sơ cấp chuyển lên khi có sự yêu cầu xét xử lại của bị cáo, đương sự hay cơ quan nhà nước thẩm quyền khác. Tòa Thượng thẩm: Tòa có thẩm quyền cao nhất xử lại các bản án do Tòa đệ nhị cấp chuyển lên. Và thông thường những quyết định của Tòa thượng thẩm là chung thẩm. Như vậy mô hình của hệ thống TA theo các cấp: Sơ cấp, đệ nhị cấp và thượng thẩm là cơ cấu phổ biến nhất của các nước trên thế giới. Bất cứ quốc gia nào TA cũng được tổ chức theo mô hình này. Điều này có thể thấy qua tổ chức TA một số nước như sau: Hệ thống TA Anh quốc: + TA cấp cao. + Tòa hoàng gia. + TA cấp thấp. * TA cấp cao bao gồm: Tòa phúc thẩm (ở Anh chỉ có một Tòa phúc thẩm) và TA cấp cao theo qui định của luật nước Anh thì Tòa phúc thẩm, TA cấp cao đều là TA cấp cao và Thẩm phán của các Tòa này tương đương nhau. Tòa phúc thẩm xét xử các vụ có kháng cáo, kháng nghị do Tòa Hoàng gia chuyển lên. Tuy vậy trong trường hợp Tòa Hoàng gia tuyên bị cáo vô tội thì Tòa phúc thẩm không có quyền sửa bản án, mà chỉ có quyền hoặc là y án của TA Hoàng gia hoặc nếu có căn cứ thì tuyên bị cáo phạm tội và trả lại toàn bộ hồ sơ vụ án để thụ lý lại. TA cấp cao được hình thành từ rất lâu, mang tính chất lịch sử. TA cấp cao thụ lý kháng cáo, kháng nghị về dân sự do Tòa thẩm quyền hẹp (Tòa cấp quận, huyện) chuyển lên. Việc xét xử của Tòa cấp cao có sự tham gia của đoàn bồi thẩm. Tòa cấp cao còn được gọi là phiên Tòa của Nữ hoàng Anh, tồn tại ở Anh từ cách đây hơn 700 năm. * Tòa Hoàng gia: Tòa Hoàng gia là TA xét xử sở thẩm tất cả các vụ án có cáo trạng. Khi xét xử ở Tòa Hoàng gia có đoàn bồi thẩm tham gia. * TA cấp thấp (Tòa có thẩm quyền hẹp): TA cấp thấp là TA cấp quận, có thẩm quyền xét xử những vụ án ít nghiệm trọng (với mức án dưới 12 tháng tù giam). Các TA này không có thẩm quyền trên phạm vi toàn quốc như Tòa cấp cao, mà chỉ có thẩm quyền trong phạm vi địa hạt của mình. Việc xét xử ở TA cấp thấp không có bồi thẩm đoàn tham gia, mà chỉ do 1 Thẩm phán đảm nhiệm. Hệ thống TA ở Đan Mạch: Hệ thống TA ở Đan Mạch gồm ba cấp, đó là: + TA tối cao. + TA cấp cao (gồm 2 Tòa: Miền Đông và Miền Tây) + TA cấp khu vực (gồm 82 Tòa). Về thẩm quyền xét xử của TA các cấp, theo qui định của luật về tư pháp hình sự Đan Mạch, việc phân định thẩm quyền của các TA căn cứ vào mức án và tính chất của tội phạm, cụ thể là: - TA cấp khu vực sơ thẩm những vụ án hình sự có mức án từ 4 năm tù, những vụ án về tội phạm chính trị hoặc những vụ án mà bị cáo không nhận tội. Xét xử phúc thẩm những bản án sơ thẩm của TA cấp khu vực bị kháng cáo, kháng nghị. - TA tối cao xét xử phúc thẩm những bản án sơ thẩm của TA cấp cao bị kháng cáo, kháng nghị. Xét lại bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật theo trình tự giám đốc thẩm trong những trường hợp do luật định. Hệ thống TA của Hàn Quốc: + TA tối cao. + TA cấp khu vực. + TA cấp địa hạt (quận, huyện, thị xã) Thẩm quyền xét xử: - TA cấp địa hạt: xét xử các vụ án có giá trị tài sản bị xâm hại dưới 50 triệu Won hoặc có mức hình phạt tù dưới 1 năm - TA cấp khu vực: xét xử các vụ án có giá trị tài sản bị xâm hại hơn 50 triệu Won hoặc có mức hình phạt tù trên 1 năm và Hội đồng bao gồm 3 thẩm phán xét xử sơ thẩm - phúc thẩm các vụ án do Tòa cấp địa hạt xét xử có kháng cáo. - TA tối cao: · Xét xử phúc thẩm các vụ án sơ thẩm của Tòa khu vực do một Hội đồng Thẩm phán xét xử có kháng cáo. Thẩm quyền này do các Tòa phúc thẩm (có 5 Tòa phúc thẩm) TA tối cao Hàn Quốc xét xử. · Giám đốc thẩm lại các án đã có hiệu lực pháp luật. Hệ thống TA Trung Quốc: + TA cấp huyện: được thành lập ở tất cả các huyện và cấp tương đương: xét xử sơ thẩm những vụ án hình sự có mức án dưới 15 năm tù trừ những vụ việc thuộc thẩm quyền của TA trung cấp. + TA trung cấp: được thành lập ở tất cả các thành phố thuộc tỉnh: xét xử sơ thẩm những vụ án hình sự liên quan đến an ninh quốc gia; những vụ án mà bị cáo là người nước ngoài và những vụ khác có mức án trên 15 năm tù; xét xử phúc thẩm những vụ án của TA cấp huyện có kháng cáo, kháng nghị. + TA cấp cao: Được thành lập ở tất cả các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, khu tự trị: xét xử sơ thẩm những vụ án hình sự gây ảnh hưởng nghiêm trọng trong khu vực, phúc thẩm những bản án sơ thẩm của TA trung cấp có kháng cáo, kháng nghị. + TA tối cao: xét xử sơ chung thẩm những vụ án hình sự có ảnh hưởng đến toàn quốc; phúc thẩm những bản án sơ thẩm của TA cấp cao có kháng cáo, kháng nghị. Hệ thống TA Liên bang Nga: + TAND quận, huyện (thành phố cấp quận): Có thẩm quyền xét xử mọi tội phạm, trừ những tội phạm thuộc thẩm quyền xét xử của TA cấp trên hoặc TA quân sự. + TA khu, tỉnh, thành phố cấp tỉnh, tỉnh tự trị, khu tự trị, cộng hòa tự trị: Xét xử sơ thẩm những vụ án thuộc thẩm quyền và xét xử phúc thẩm các bản án của quận, huyện (thành phố cấp quận) có kháng cáo, kháng nghị. + TA tối cao Liên bang Nga có thẩm quyền xét xử sơ thẩm những vụ án đặc biệt phức tạp hoặc có ý nghĩa xã hội đặc biệt mà TA tự mình lấy lên hoặc theo đề nghị của Viện trưởng, Phó viện trưởng kiểm sát Cộng hòa Liên bang; phúc thẩm các vụ án của TA tối cao cộng hòa tự trị, TA khu, TA tỉnh, TA thành phố, TA tỉnh tự trị; TA khu tự trị; giám đốc thẩm các bản án đã có hiệu lực pháp luật. Như vậy qua việc nghiên cứu hệ thống TA một số nước nêu trên tuy TA tổ chức có khác nhau theo mỗi nước nhưng ở góc độ khái quát có thể thấy điểm chung nhất là hệ thống phân chia các cấp độ khác nhau theo đó cấp thấp nhất xét xử những vụ việc đơn giản ít quan trọng. Cấp thứ hai vừa xét xử sơ thẩm những vụ việc quan trọng và phức tạp đồng thời xử lại án cấp thấp. Cấp cao nhất phúc xử lại án sơ thẩm cấp thứ 2 và giám đốc thẩm tất cả án đã có hiệu lực pháp luật. Tuy đó là mô hình chung nhất nhưng trên thực tế việc tổ chức hệ thống TA tùy thuộc nhiều yếu tố mỗi nước và mỗi giai đoạn ở từng nước cũng có những thay đổi khác nhau cho phù hợp. Hệ thống TAND ở nước ta cũng được tổ chức theo ba cấp (TAND cấp huyện; TAND cấp tỉnh; TAND tối cao) song về thẩm quyền TAND các cấp còn là vấn đề bất hợp lý – nên là nội dung quan trọng trong các giải pháp cải cách TAND. Việc nghiên cứu đầy đủ nghiêm túc kinh nghiệm các nước vẫn có ý nghĩa thiết thực để xây dựng mô hình TA nước ta trong công cuộc đổi mới. Hệ thống TA được tổ chức theo cấp hành chính hoặc theo khu vực Thông thường TA là bộ phận gắn liền với bộ máy nhà nước, do vậy việc hình thành hệ thống TA được xây dựng theo cấp hành chính (trừ cấp cơ sở thấp nhất là xã, phường). Từ cấp quận, huyện... là cơ sở xây dựng hệ thống TA sơ cấp và cấp hành chính trên cấp quận như tỉnh, thành phố, khu vực tự trị... là cấp thứ hai và cấp trung ương là TA tối cao. Việc tổ chức này thể hiện tính thống nhất cao trong bộ máy nhà nước; tạo điều kiện cho việc phân cấp quản lý và thực hiện chế độ bổ nhiệm, chế độ đãi ngộ Thẩm phán cũng như áp dụng chế độ vật chất và thực hiện việc kiểm tra giám sát của nhân dân thông qua cơ quan đại diện từng cấp. Hiện nay nhiều nước trên thế giới đã tổ chức theo mô hình này. Điển hình là TA Trung Quốc. Trung Quốc là một quốc gia rộng lớn, có số dân đông nhất thế giới và bộ máy nhà nước phân chia làm 5 cấp hành chính. Tương ứng với các cấp hành chính từ cấp quận, huyện trở lên là cơ sở hình thành 4 cấp TA đó là: - TA cấp huyện (Tòa sơ cấp) - TA cấp thành phố thuộc tỉnh (Tòa trung cấp) -TA cấp tỉnh, thành phố thuộc trung ương, khu tự trị... (Tòa cấp cao) -TA tối cao (Tòa trung ương) Không chỉ các nước lớn nhất mà ngay cả các Nhà nước Liên bang cũng có xu hướng tổ chức theo mô hình này có thể thấy điều đó qua hệ thống TA của Liên bang Nga. Hệ thống TA Liên bang Nga bao gồm: - TAND quận (thành phố cấp quận) - TA của các chủ thể Liên bang (các nước cộng hòa tự trị, các tỉnh, khu tự trị...). -TA tối cao cộng hòa Liên bang Nga. Ngược lại, cũng có những nước tổ chức TA không lệ thuộc vào cấp hành chính mà vào trình tự tư pháp, nhu cầu theo thẩm quyền và khả năng xét xử cũng như hiệu quả của hoạt động TA. Nhìn vào hệ thống TA Hàn Quốc chúng ta sẽ dễ nhận thấy ở đó: Cấp sơ thẩm được tổ chức là TA cấp địa hạt và TA khu vực. Các TA này tổ chức theo trình tự tư pháp, không phụ thuộc vào cấp hành chính. Nghiên cứu hệ thống tổ chức TA Đan Mạch giúp ta càng thấy rõ hơn đó là ở Đan Mạch TA bao gồm 3 cấp sau đây: - TA khu vực: Cấp này bao gồm 82 TA tổ chức theo khu vực không theo cấp hành chính. - Tòa cấp cao: Gồm Tòa cấp cao Miền đông và Tòa cấp cao Miền tây, các TA này không tổ chức theo cấp hành chính tỉnh hay quân khu... - TA tối cao. Tương tự, hệ thống TA Australia cũng không tổ chức theo đơn vị hành chính mà được tổ chức theo khu vực. Như Bang Victoria ở Australia có 55 TA khu vực, 1 TA vị thành niên, 14 TA vùng và 1 TA tối cao. Hệ thống TA tổ chức theo mô hình này xuất phát từ quan niệm là hạn chế sự can thiệp của cơ quan hành pháp vào hoạt động tư pháp, vì theo mô hình tổ chức này TA sẽ không bị lệ thuộc vào các cấp hành chính. Mặt khác nó khắc phục tình trạng nhiều TA cấp quận nơi đông dân cư giải quyết không hết việc, thì ngược lại nhiều huyện Thẩm phán không có việc làm, cũng như sự cách trở về mặt địa lý của một số huyện khiến cho việc đệ đơn khiếu kiện và đi hầu Tòa sẽ gặp nhiều trở ngại và nhất là cho những nhân chứng khi đến Tòa làm chứng... Ở nước ta hiện nay đang có nhiều tranh luận về những mô hình này tuy Luật tổ chức TAND năm 2002 khẳng định mô hình TAND nước ta vẫn theo cấp hành chính. Song cũng có nhiều ý kiến cho rằng, việc tổ chức trên là bất hợp lý làm cho bộ máy TAND thiếu và yếu đều, nhiều nơi người không đủ làm việc, nhiều nơi việc không có mà làm, vấn đề này sẽ trình bày ở chương 3 của luận án. Các TA chuyên trách độc lập với TA tư pháp Cơ sở lý luận và thực tiễn của mô hình tổ chức này là bắt nguồn từ sự phát triển mạnh mẽ của xã hội trong những thế kỷ qua về tất cả mặt kinh tế, dân chủ, văn hóa, quản lý xã hội... mà những vấn đề này có tác động to lớn đến sự tồn tại của xã hội, con người và cả quyền lực nhà nước, đã khiến cho Nhà nước cần phải quan tâm và can thiệp đến. Những khiếu kiện phát sinh trong các lĩnh vực hành chính liên quan giữa một bên là Nhà nước và một bên là công dân, trong lĩnh vực lao động, trong lĩnh vực kinh tế, trong lĩnh vực thương mại... cần phải có sự phán quyết công bằng, khách quan của Nhà nước vì không phải lúc nào những quan hệ này giải quyết bằng việc dàn xếp, hòa giải, thương lượng hoặc bằng mệnh lệnh hành chính mà đạt kết quả. Do vậy xu h._.inh nghiệm, có kiến thức pháp lý ở trình độ cao, đã từng làm ở cơ quan pháp luật, có khả năng sư phạm, cử đi học một lớp ngắn hạn do trường đào tạo các chức danh tư pháp (Bộ Tư pháp) mở về kỹ năng xét xử của Hội thẩm, (mỗi tỉnh từ 1 – 2 người), sau đó sẽ sử dụng họ như là những giảng viên, kết hợp với giảng viên của TAND tỉnh và các huyện, thị. Ngoài ra, cần phải tạo cho Hội thẩm khả năng tự bồi dưỡng kiến thức pháp lý cho mình thông qua các tài liệu, sách báo nghiệp vụ của chính TA nơi họ tham gia xét xử. Ngoài ra, Hội thẩm cũng có thể sử dụng các tài liệu, sách báo trong tủ sách pháp luật xã, phường, thị trấn để ngoài việc phục vụ cho xét xử, còn tuyên truyền, phổ biến pháp luật cho nhân dân ở địa bàn nơi mình sinh sống. Như vậy, tiêu chuẩn pháp lý của Hội thẩm trong điều kiện của Việt Nam hiện nay không thể quy định quá thấp như trước đây nhưng cũng không nên quy định quá cao để không rơi vào tình trạng "chuyên môn hóa" hay "Thẩm phán hóa" Hội thẩm, làm cho hoạt động xét xử mất dần đi tính chất xã hội rộng rãi của mình. Đồng thời với việc quy định cụ thể tiêu chuẩn pháp lý, cần có biện pháp kịp thời bồi dưỡng chuyên môn và nghiệp vụ cho Hội thẩm. Hết sức tránh quan niệm cho rằng: việc bồi dưỡng, tập huấn kiến thức và kỹ năng pháp luật cho Hội thẩm là "lãng phí" vì có Hội thẩm cả nhiệm kỳ không xét xử vụ nào, hoặc nhiều Hội thẩm trong nhiệm kỳ chỉ tham gia xét xử một hoặc hai vụ án và có những Hội thẩm chỉ được bầu có một nhiệm kỳ, không tái cử ở nhiệm kỳ sau nữa. Quan niệm như vậy là phiến diện và không thấy hết hiệu quả đầu tư "chiều sâu" cho công tác Hội thẩm như đã phân tích ở trên. + Các tiêu chuẩn khác của Hội thẩm. Cần nhấn mạnh hơn về tiêu chuẩn đạo đức, lối sống tính quần chúng, gần dân, có ảnh hưởng tốt về mặt đạo đức, tư cách trong cộng đồng dân cư. Không vi phạm pháp luật, sống gương mẫu, không tham nhũng, không thuộc loại người thoái hóa, biến chất. Cần quy định rõ độ tuổi làm Hội thẩm (ví vụ từ 23 đến 70 tuổi). Cần quy định rõ những tiêu chuẩn về ngoại hình của Hội thẩm như không có dị tật, dị hình... – Thứ ba về bầu cử Hội thẩm: Theo quy định của Điều 30 Pháp lệnh Thẩm phán và Hội thẩm TAND năm 1993 thì Ủy ban MTTQ là cơ quan duy nhất được giới thiệu người làm Hội thẩm nhân dân. Tuy nhiên trong việc hướng dẫn áp dụng quy định này vẫn có những vướng mắc xảy ra. Ví dụ trong Công văn số 1973/QLTA ngày 10/11/1999 của Bộ Tư pháp hướng dẫn bầu cử Hội thẩm TAND các TAND địa phương có hướng dẫn: "Căn cứ vào nhu cầu của công tác xét xử, Chánh án TAND trao đổi ý kiến để Ban Thường trực MTTQ, Thường trực HĐND cùng cấp đề nghị cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội, đoàn thể quần chúng tại địa phương giới thiệu người đủ tiêu chuẩn, có nguyện vọng làm Hội thẩm nhân dân...". Còn tại Công văn 1677'TP-QLTA ngày 22/9/1999 của Bộ Tư pháp hướng dẫn bầu cử Hội thẩm nhân dân TAND địa phương nhiệm kỳ 1999 - 2004 thì có khác hơn: Chánh án TAND địa phương căn cứ vào nhu cầu xét xử của đơn vị, trao đổi ý kiến với Ban Thường trực, Ủy ban MTTQ (MTTQ), Thường trực HĐND cùng cấp để chuẩn bị nhân sự cho việc bầu Hội thẩm TAND. Nếu theo tinh thần hai công văn nói trên thì vai trò ''giới thiệu'' của Ủy ban MTTQ địa phương đối với nhân sự Hội thẩm chưa thật rõ nét và chưa hoàn toàn thống nhất với Thông tư số 05/TT - MTTW của Ủy ban Trung ương MTTQ Việt Nam hướng dẫn quy trình giới thiệu Hội thẩm nhân dân của TAND địa phương, trong đó vai trò "giới thiệu'' thuộc về Mặt trận tổ quốc MTTQ. Tuy nhiên, trong thực tế bầu Hội thẩm hai nhiệm kỳ gần đây, rất ít có trường hợp phải đưa ra để hiệp thương. Có lẽ một trong những nguyên nhân là MTTQ đã thực hiện tốt việc lấy ý kiến của nhân dân nơi người được giới thiệu cư trú. Như vậy, trong việc bầu Hội thẩm nhân dân ở các TAND địa phương, cần làm rõ hơn vai trò giới thiệu của Ủy ban MTTQ cấp tỉnh và cấp huyện để theo sát tinh thần của Pháp lệnh Thẩm phán và Hội thẩm TAND. Đối với Hội thẩm TAND, chúng tôi cho rằng cơ chế cử như hiện nay là phù hợp (trước đây là bầu) tuy nhiên, trong khi lựa chọn nhân sự không nên quá nghiêng về chức vụ hành chính – quân sự của các ứng cử viên. Đội ngũ Hội thẩm nên bao gồm cả cán bộ quản lý và cán bộ là trợ lý các cơ quan, trong đó cần chú ý đến những quân nhân đã được bồi dưỡng kiến thức pháp luật ngắn hạn dài hạn. Và một vấn đề không thể thiếu là mối quan hệ giữa Thẩm phán và Hội thẩm TAND trong xét xử, cũng như sự lãnh đạo của cấp ủy Đảng với công tác Hội thẩm TAND ở địa phương. Đồng thời cũng nên quy định về nghi lễ phiên tòa để đảm bảo tính trang nghiêm cho cơ quan bảo vệ công lý. Nhà nước cần có kinh phí phục vụ công tác Hội thẩm vì bất cứ hoạt động nào cũng cần phải có kinh phí hoạt động, Hội thẩm TAND tuy không phải là chuyên trách nhưng có tính chất đặc biệt của hoạt động xét xử, Hội thẩm TAND cũng cần được trang bị những Điều kiện tối thiểu để đảm bảo hoạt động như trang phục khi xét xử, phương tiện làm việc, học tập bồi dưỡng, hội họp...nguồn kinh phí này cần được đưa vào dự toán và cấp cho cơ quan quản lý công tác Hội thẩm TAND cơ quan được cấp kinh phí có trách nhiệm quyết toán với cơ quan tài chính về nguồn kinh phí này. Đổi mới tổ chức và hoạt động của Hội thẩm TAND thực sự là hình thức thực hiện dân chủ trong trong hoạt động của TA, là một trong những phương thức tham gia của nhân dân trên con đường tiến tới xã hội văn minh, xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân và vì dân. 3.3.6. Cần nghiên cứu áp dụng thủ tục rút gọn Trước đây theo thông tư số 10/TATC ngày 8 tháng 7 năm 1974 của TANDTC thì thủ tục rút gọn được áp dụng trong những trường hợp bị cáo phạm tội ít nghiêm trọng, phạm pháp quả tang, đơn giản, rõ ràng, bị cáo phạm tội có căn cước, lý lịch đã được xác minh rõ ràng, mức hình phạt có thể từ hai năm trở xuống. Tuy nhiên, khi BLTTHS được ban hành thì thủ tục rút ngắn không còn áp dụng nữa (từ năm 1989). Chúng ta đều biết rằng thủ tục rút ngắn có tác dụng đấu tranh và trừng trị kịp thời một số việc phạm pháp, phát huy tác dụng giáo dục phòng ngừa của việc xét xử làm cho cơ quan Điều tra, truy tố và xét xử có điều kiện tập trung vào các vụ án khó khăn, phức tạp. Theo chúng tôi, cần nghiên cứu khôi phục lại thủ tục rút ngắn để xét xử kịp thời những vụ án đơn giản, rõ ràng, có mức hình phạt thấp, bị cáo đã nhận tội hoặc những vụ tranh chấp dân sự, kinh tế có giá ngạch thấp không đòi hỏi phải mất nhiều thời gian để xác minh thì áp dụng thủ tục rút gọn. Còn đối với vụ kiện đòi tiền cấp dưỡng, các loại tranh chấp do xâm phạm danh dự nhân phẩm, uy tín, bí mật đời tư, các khiếu kiện cơ quan báo chí không đăng lời cải chính, nếu áp dụng thủ tục thông thường sẽ gây chậm trễ làm cho biện pháp sửa chữa như công xin lỗi, đăng lời cải chính... nhiều khi không có tác dụng trong thực tế. Do vậy nên áp dụng thủ tục xét xử khẩn cấp các loại việc trên, áp dụng thủ tục xét xử trên chỉ cần một Thẩm phán xét xử và có hiệu lực thi hành ngay. Nếu các đương sự có khiếu nại thì sẽ được xem xét theo thủ tục giám đốc thẩm hoặc tái thẩm. Tuy nhiên, nghiên cứu các thủ tục trên phải tính đến điều kiện, đặc điểm tình hình ở nước ta mà quy định thủ tục này cho phù hợp, tránh tùy tiện trong việc thực hiện, bảo đảm quyền lợi hợp pháp của các bên tham gia tố tụng. 3.3.7. Thực hiện thủ tục xét xử bút lục cấp phúc thẩm một số trường hợp nhất định Hiện nay theo BLTTHS, việc xét xử cấp phúc thẩm các vụ án hình sự cũng được tiến hành như phiên Tòa sơ thẩm là cần thiết đối với những vụ án mà bị cáo kêu oan, những vụ án bị Viện kiểm sát kháng nghị tăng án, những vụ án phức tạp... Cần có sự xét xử thận trọng khách quan và phải tiến hành đầy đủ các bước để kiểm tra chứng cứ, tranh tụng tại Tòa để đảm bảo phán quyết phúc thẩm chính xác là vô cùng quan trọng, vì bản án phúc thẩm là có hiệu lực thi hành ngay. Tuy nhiên một số vụ án đơn giản, tính chất không phức tạp, bị cáo nhận tội chỉ xin giảm án hoặc xin hưởng án treo hay chỉ xin giảm bồi thường v.v... Trong trường hợp trên không cần tổ chức phiên tòa như tố tụng hiện hành quy định, nhất là hiện nay những vụ án này do bị cáo tại ngoại, do bị hại kháng cáo xin giảm án không đến, do luật sư xin hoãn,v.v... nên kéo dài, đôi ba phiên tòa mới xét xử được. Do vậy, những vụ án này chỉ cần xét xử phúc thẩm như xét các quyết định, mà không cần triệu tập phiên tòa. Hiệu quả mang lại sẽ giải quyết được nhanh chóng, hạn chế rất nhiều án tồn đọng ở cấp phúc thẩm. Vì qua thực tế, chúng tôi nhận thấy số án này khoảng 30% án cấp phúc thẩm thụ lý. 3.3.8. Tăng cường cơ sở vật chất, thực hiện chế độ đãi ngộ thỏa đáng đối với cán bộ Tòa án và Hội thẩm nhân dân Sự tăng trưởng kinh tế, kỹ thuật trong công cuộc đổi mới kéo theo nhiều lĩnh vực đời sống xã hội với tính chất hiện đại, khoa học. Cũng kéo theo sự quan hệ nhiều mặt với nhiều nước trên toàn cầu. Và tất yếu kéo theo tình hình vi phạm và tội phạm rất tinh vi và phức tạp, sự phức tạp không chỉ kẻ phạm tội, mà còn thể hiện sự phức tạp trong quan hệ không chỉ trong nước mà với nhiều nước, không chỉ công dân Việt Nam với nhau mà cấu kết nhiều người nước ngoài phạm tội. Do vậy, việc phát hiện Điều tra một vụ án để có chứng cứ đảm bảo khách quan, để đảm bảo thời hạn luật định sẽ không thể không đầu tư cho cơ sở vật chất, điều kiện hoạt động. Đồng thời muốn cho các "Quan tòa", các "Công tố", các "Điều tra viên" mẫu mực vô tư và đủ sức, đủ điều kiện vật chất tối thiểu để hoạt động chắc hẳn họ không thể thiếu sự đãi ngộ cần thiết vì hoạt động của họ không chỉ phức tạp vì công việc, không chỉ bị đe dọa của bọn tội phạm v.v... mà còn bị "cám dỗ" bởi nhiều lý do trong nhiều mối quan hệ tiếp xúc. Do vậy nhất định họ phải được hưởng điều kiện đãi ngộ thỏa đáng. Sự thiếu quan tâm và hạn chế đến mức quá bất hợp lý trong lao động, một người lao động giản đơn bình quân 50.000 đồng/ngày trong khi "Quan tòa" xử một ngày thù lao 10.000 đồng khó có thể yên tâm trước nghịch lý đó. Do vậy cùng với sự đổi mới nhiều mặt thì chế độ đãi ngộ đối với các cán bộ hoạt động tư pháp phải thỏa đáng là yếu tố cũng không kém phần quan trọng. KẾT LUẬN CHƯƠNG 3 Trên cơ sở đánh giá về tổ chức và hoạt động của TAND, chúng ta có thể rút ra các kết luận sau đây: 1. Để xây dựng được các giải pháp cụ thể luận án đã xác định đúng các yêu cầu bảo đảm cho quá trình đổi mới về tổ chức và hoạt động của TAND đó là: nhằm bảo đảm yêu cầu cải cách bộ máy nhà nước một nội dung cơ bản của công cuộc đổi mới đất nước, phục vụ tốt hơn cho sự phát triển nền kinh tế trong thời kỳ đổi mới; bảo đảm và phát huy nền dân chủ XHCN, bảo đảm cho nền pháp chế XHCN cũng như bảo đảm cho việc đấu tranh phòng ngừa vi phạm, tội phạm trong thời kỳ đổi mới kinh tế và mở cửa mạnh mẽ với thế giới. 2. Đồng thời tác giả cũng xây dựng được các nguyên tắc nhằm bảo đảm cho quá trình đổi mới đúng mục đích và đạt kết quả tốt đó là các nguyên tắc: bảo đảm sự giản tiện và hiệu quả; bảo đảm tính công bằng trong xét xử, và bảo đảm tính độc lập trong xét xử là những nguyên tắc đặc thù bảo đảm cho tổ chức và hoạt động TA có hiệu quả hơn. 3. Về những phương hướng đổi mới tổ chức và hoạt động của TAND ở nước ta hiện nay bao gồm: Một là, hoàn thiện tổ chức TAND theo mô hình kết hợp giữa nguyên tắc hành chính lãnh thổ kết hợp với nguyên tắc thẩm quyền xét xử. Hai là, đổi mới và hoàn thiện thẩm quyền xét xử của các cấp TAND theo hướng TA cấp huyện xét xử sở thẩm, TA cấp tỉnh xét xử phúc thẩm và TA tối cao giám đốc xét xử TA các cấp. Tăng cường thẩm quyền xét xử cho TA nhân cấp huyện: theo hướng mở rộng quyền xét xử các vụ án hình sự đối với các tội mà Bộ luật quy định có mức hình phạt đến 15 năm tù trừ các tội xâm phạm an ninh quốc gia và các tội đặc biệt nghiêm trọng khác. Về dân sự, kinh tế lao động, hành chính xét xử sở thẩm chủ yếu do cấp huyện thụ lý và xét xử. Ba là, hoàn thiện chế định TANDTC quản lý các TAND địa phương về tổ chức có sự phối hợp chặt chẽ với HĐND các cấp và với Bộ Quốc phòng. Bốn là, đổi mới tiêu chuẩn, thủ tục tuyển chọn, bổ nhiệm, miễn nhiệm, bãi miễn Thẩm phán và Hội thẩm TAND. Năm là, bảo đảm nguyên tắc độc lập trong xét xử của Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân. Sáu là, cần nghiên cứu thủ tục xét xử rút gọn đối với các vụ án hình sự đơn giản, rõ ràng, quả tang và bị cáo nhận tội. Các vụ án dân sự có giá trị nhỏ không phức tạp và rõ ràng, để giảm bớt thủ tục rườm rà và kéo dài, tốn kém cho nhân dân. Bảy là, thực hiện thủ tục xét xử bút lục phúc thẩm một số vụ án mà bị cáo nhận tội chỉ xin giảm án, giảm bồi thường, tính chất không phức tạp, hồ sơ chứng cứ đầy đủ rõ ràng. Tám là, tăng cường cơ sở vật chất, thực hiện chế độ đãi ngộ thỏa đáng đối với cán bộ TA và Hội thẩm TAND, nhằm bảo đảm cho cán bộ TA và Hội thẩm TAND có đủ điều kiện thực hiện tốt nhiệm vụ để bảo đảm cuộc sống, yên tâm phấn đấu cho sự nghiệp bảo vệ công lý một lĩnh vực rất quan trọng góp phần thực hiện thắng lợi công cuộc đổi mới đất nước. KẾT LUẬN Đổi mới tổ chức và hoạt động của TAND là vấn đề có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong công cuộc cải cách tư pháp ở nước ta hiện nay, song là vấn đề rất rộng và rất phức tạp không chỉ về lý luận mà cả trên thực tiễn. Bằng việc kết hợp hài hòa các phương pháp nghiên cứu, sự nghiên cứu các vấn đề thuộc nội dung của luận án để giải quyết các mục đích và nhiệm vụ của đề tài về cơ bản đã được thực hiện. Kết quả nghiên cứu trên phương diện lý luận và thực tiễn về vai trò của TA trong việc tổ chức và hoạt động được thể hiện tại các mục của chương 1, chương 2 và chương 3 đã góp phần làm sáng tỏ những vấn đề sau đây: 1. TA là bộ phận không thể thiếu được của Nhà nước. Tuy nhiên mỗi kiểu Nhà nước có cách thức tổ chức và phương thức hoạt động khác nhau. Đối với các kiểu Nhà nước Chiếm hữu nô lệ và Phong kiến, TA là bộ phận quyền lực không tách rời quyền lực tuyệt đối do nhà vua nắm giữ và thực hiện. Dựa trên nguyên tắc "phân quyền". Bộ máy nhà nước tư sản phân chia quyền lực nhà nước thành ba loại quyền: quyền lập pháp, quyền hành pháp và tư pháp trên cơ sở đó qui định TA (bộ máy Tư pháp) có vị trí độc lập, là một trong ba nhánh quyền lực độc lập và đối trọng với các nhánh quyền lập pháp và hành pháp trong bộ máy nhà nước. Tuy nhiên, mô hình tổ chức TA trong từng nước tư sản cũng khác nhau, và vị trí vai trò của nó cũng phụ thuộc vào hình thức chính thể, vào truyền thống tư pháp mỗi quốc gia nhất là quan điểm chính trị của giai cấp nắm quyền lực nhà nước. Tuy nhiên luận án cũng đã khái quát được một số mô hình tổ chức và hoạt động của TA trong cơ cấu tổ chức, phân công quyền lực nhà nước ở một số quốc gia trên thế giới, cùng những nguyên tắc có tính phổ biến trong tổ chức và hoạt động của TA đã được luận án giới thiệu khá đầy đủ thông qua việc phân tích, giới thiệu các mô hình tổ chức hệ thống TA cụ thể như: hệ thống TA Anh, Pháp, Đức, Đan Mạch, Liên Bang Nga, Trung Quốc... 2. Luận án đã làm rõ được vị trí chức năng của TAND trong cơ cấu tổ chức bộ máy nhà nước nước ta, và phân tích các đặc điểm của tổ chức và hoạt động của hệ thống TAND nước ta. Đồng thời luận án phân tích đầy đủ các nguyên tắc tổ chức và hoạt động của TAND ở nước ta theo Hiến pháp và Luật tổ chức TAND. 3. Luận án đã khái quát trình bày vị trí vai trò về tổ chức và hoạt động của TAND qua các giai đoạn lập Hiến với các qui định của pháp luật và tổ chức hoạt động của TA trong từng giai đoạn (từ Cách mạng tháng 8 đến Hiến pháp 1946; từ 1946 đến Hiến pháp 1959; từ 1959 đến Hiến pháp 1980; từ 1980 đến Hiến pháp 1992); đồng thời luận án đã giới thiệu tương đối đầy đủ các chế định cơ bản về cơ cấu tổ chức và hoạt động của Hệ thống TAND ở nước ta hiện nay theo Hiến pháp 1992 và Luật tổ chức TAND năm 2002. 4. Luận án đã phân tích và cùng với các số liệu khách quan đầy đủ đã đưa ra các đánh giá, nhận xét về thực trạng tổ chức và hoạt động xét xử của các cấp TA trên cả hai phương diện thành tựu và bất cập, cùng với những nguyên nhân của nó một cách có căn cứ khoa học và thực tiễn. 5. Luận án đã phân tích và làm rõ những nhu cầu khách quan qui định cho việc cần phải tiếp tục đổi mới hệ thống TAND ở nước ta trong bối cảnh xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN; xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân, vì dân và xu hướng toàn cầu hóa, hội nhập kinh tế quốc tế. 6. Luận án cũng đã đưa ra được các nguyên tắc cơ bản bảo đảm cho quá trình đổi mới tổ chức và hoạt động của TAND nhằm bảo đảm đường lối cải cách tư pháp của Đảng ta và bảo đảm mục đích tính chất của hoạt động chức năng đặc thù của TAND đó là các nguyên tắc: - Độc lập trong xét xử của TA. - Bảo đảm sự công bằng, khách quan và vô tư trong xét xử. - Nguyên tắc giản tiện và hiệu quả trong xét xử. 7. Luận án đã đưa ra các nội dung (8 nội dung) và phân tích các nội dung góp phần đổi mới tổ chức và hoạt động của TAND ở nước ta trong giai đoạn hiện nay đó là: Về cơ cấu tổ chức: - Cần tiếp tục hoàn thiện tổ chức TAND theo mô hình kết hợp giữa nguyên tắc hành chính lãnh thổ với nguyên tắc xét xử hai cấp. - Đổi mới thẩm quyền của TAND các cấp theo hướng tăng thẩm quyền cho TAND huyện để bảo đảm từng bước: TAND cấp huyện chủ yếu xét xử sơ thẩm các loại án; TAND cấp tỉnh chủ yếu xét xử phúc thẩm và sơ thẩm một số vụ án đặc biệt nghiêm trọng và phức tạp; TANDTC chủ yếu là "Tòa phá án" và làm nhiệm vụ tổng kết xét xử, hướng dẫn áp dụng pháp luật thống nhất. - Hoàn thiện qui chế nhằm bảo đảm cho TANDTC quản lý TA địa phương trên cơ sở Chánh án TAND tối cao kết hợp chặt chẽ với HĐND và Bộ Quốc phòng. - Đổi mới việc tuyển chọn, bổ nhiệm Thẩm phán và Hội thẩm TAND. Về hoạt động: - Xây dựng cơ chế bảo đảm nguyên tắc độc lập xét xử của TAND. - Áp dụng thủ tục xét xử rút gọn một số vụ án hình sự đơn giản ít nghiêm trọng, quả tang, rõ ràng và bị cáo nhận tội phù hợp với các chứng cứ khách quan. - Thực hiện chế độ xét xử bút lục mà không mở phiên Tòa phúc thẩm một số vụ án đơn giản, rõ ràng, ít nghiêm trọng, không phức tạp, bị cáo chỉ xin giảm án hoặc xin giảm bồi thường. - Đồng thời luận án cũng kiến nghị tăng cường cơ sở vật chất, phương tiện hoạt động, cho các TA theo hướng hiện đại và thực hiện chế độ đãi ngộ thỏa đáng đối với cán bộ TAND và Hội thẩm TAND. Những kết quả trên mà luận án đạt được thể hiện sự nỗ lực của bản thân, cũng như sự tận tình giúp đỡ của các thầy hướng dẫn khoa học, của các nhà nghiên cứu, của các bạn đồng nghiệp. Tuy nhiên, điều kiện nghiên cứu và khả năng của bản thân có hạn, chắc chắn luận án sẽ không tránh khỏi những thiếu sót nhất định. Nghiên cứu sinh rất mong được sự tiếp tục chỉ dẫn của các nhà khoa học, của các đồng nghiệp để luận án đạt được sự hoàn thiện hơn. NHỮNG CÔNG TRÌNH LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN ĐÃ ĐƯỢC CÔNG BỐ 1. Lê Thành Dương (1997), "Vị trí của hệ thống các cơ quan tư pháp", Kiểm sát, (9), tr. 12-15. 2. Lê Thành Dương (2001), "Tăng cường vai trò của các cơ quan tư pháp trong công cuộc đổi mới ở nước ta hiện nay", Kiểm sát, (3), tr. 2-4. 3. Lê Thành Dương (2002), "Những nhu cầu khách quan của việc đổi mới các cơ quan tư pháp ở nước ta hiện nay", Kiểm sát, (11), tr. 1-4. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO Alex N.Gragnich (1964), Những đại chính thể ở châu Âu, Trung tâm Nghiên cứu Việt Nam phiên dịch và ấn hành. Hoàng Chí Bảo (1999), Lý luận về dân chủ và thực tiễn dân chủ hóa ở Việt Nam trong công cuộc đổi mới, Ban Tổ chức - Cán bộ Chính phủ, Hà Nội. Bộ luật tố tụng hình sự Cộng hòa Pháp (1994), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Bộ luật tố tụng hình sự Hàn Quốc (1998), Viện Kiểm sát nhân dân tối cao. Bộ luật tố tụng hình sự Liên bang Nga (1999), Viện Kiểm sát nhân dân tối cao. Bộ luật tố tụng hình sự Nhật Bản (1998), Viện Kiểm sát nhân dân tối cao. Bộ Tư pháp (1957), Tập luật lệ về tư pháp, Hà Nội. Chính phủ lâm thời Việt Nam dân chủ cộng hòa (1945), "Sắc lệnh số 32 ngày 13/09/1945", Công báo 1945, Hà Nội. Chính phủ lâm thời Việt Nam dân chủ cộng hòa (1945), "Sắc lệnh ngày 13/09/1945", Công báo 1945, Hà Nội. Nguyễn Đăng Dung (1995), Nhà nước và pháp luật đại cương, Nxb thành phố Hồ Chí Minh. Nguyễn Đăng Dung (2001), Luật Hiến pháp đối chiếu, Nxb thành phố Hồ Chí Minh. Trịnh Hồng Dương (Chủ nhiệm đề tài) (1996), Vị trí vai trò và chức năng của Tòa án nhân dân trong bộ máy nhà nước qua các thời kỳ cách mạng Việt Nam, Đề tài cấp Bộ, Tòa án nhân dân tối cao, Hà Nội. Ngô Vĩnh Bạch Dương (1999), Mô hình tổ chức Tòa án Việt Nam những vấn đề lý luận và thực tiễn, luận văn thạc sĩ luật học, Đại học Quốc gia Hà Nội. Đảng Cộng sản Việt Nam (1981), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V, Nxb Sự thật, Hà Nội. Đảng Cộng sản Việt Nam (1986), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Nxb Sự thật, Hà Nội. Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, Nxb Sự thật, Hà Nội. Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Đảng Cộng sản Việt Nam (2000), Các nghị quyết của Trung ương Đảng 1996 - 1999, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Đảng Cộng sản Việt Nam (2002), Nghị quyết của Bộ Chính trị "Về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác trong thời gian tới", Ban Chỉ đạo cải cách tư pháp, Hà Nội. Nguyễn Văn Động (1997), Hoàn thiện mối quan hệ pháp lý cơ bản giữa nhà nước và công dân trong điều kiện đổi mới ở Việt Nam, Hà Nội. Trần Ngọc Đường (1995), Nhà nước và pháp luật xã hội chủ nghĩa, tập 2, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Đảng Đoàn Quốc hội (1999), Tiếp tục đổi mới hệ thống tư pháp ở nước ta, Đề án trình Bộ Chính trị, Hà Nội. Bùi Xuân Đức (1993), "Phân định tài phán hành chính và tư pháp hành chính", Nhà nước và pháp luật (4), tr. 6 - 10. Bùi Xuân Đức (1993), "Tư pháp hành chính và vấn đề tổ chức tư pháp hành chính ở nước ta hiện nay", Nhà nước và pháp luật, (4), tr. 10 - 14. Phạm Hồng Hải (2001), "Vai trò của tòa án trong hệ thống các cơ quan tư pháp", Tòa án nhân dân tối cao (01), tr. 8 - 12. Phạm Hồng Hải (2002), "Quan niệm về cơ quan tư pháp và hoạt động tư pháp", Kiểm sát (8), tr. 7 - 11. Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (1946), Nxb thành phố Hồ Chí Minh. Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (1959), Nxb thành phố Hồ Chí Minh. Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (1980), Nxb thành phố Hồ Chí Minh. Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (1992), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Nguyễn Ngọc Hiến (1998), Xây dựng mô hình quản lý ngành tư pháp, Bộ Tư pháp, Hà Nội. Nguyễn Văn Hiện (Chủ nhiệm đề tài) (2001), Cơ sở lý luận và thực tiễn tăng cường năng lực xét xẻ của tòa án nhân dân cấp huyện, Đề tài cấp Bộ, Hà Nội. V.I. Lênin (1980), Toàn tập, tập 18, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva. V.I. Lênin (1980), Toàn tập, tập 27, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva. V.I. Lênin (1980), Toàn tập, tập 36, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva. V.I. Lênin (1980), Toàn tập, tập 45, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva. Luật tổ chức tòa án nhân dân năm 1960 (1996), Tòa án nhân dân tối cao, Hà Nội. Luật tổ chức tòa án nhân dân năm 1981 (1996), Tòa án nhân dân tối cao, Hà Nội. Luật tổ chức tòa án nhân dân năm 1992 (1996), Tòa án nhân dân tối cao, Hà Nội. Luật tổ chức tòa án nhân dân năm 2002 (2002), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. C.Mác - Ph.Ăngghen (1995), Toàn tập, tập 2, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. C.Mác - Ph.Ăngghen (1995), Toàn tập, tập 3, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. C.Mác - Ph.Ăngghen (1995), Toàn tập, tập 19, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. C.Mác - Ph.Ăngghen (1995), Toàn tập, tập 23, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Hồ Chí Minh (1995), Toàn tập, tập 1, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Hồ Chí Minh (1995), Toàn tập, tập 2, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Hồ Chí Minh (1995), Toàn tập, tập 5, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Hồ Chí Minh (1995), Toàn tập, tập 6, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Hồ Chí Minh (1995), Toàn tập, tập 7, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. S. Mongtexkiơ (1967), Tinh thần pháp luật, Nxb Sài Gòn. S. Mongtexkiơ (1995), Những tác phẩm chọn lọc, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Đỗ Mười (1991), "Diễn văn bế mạc Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII Đảng Cộng sản Việt Nam", Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VII, Nxb Sự thật, Hà Nội. Đỗ Mười (1997), "Phát huy quyền làm chủ nhân dân ở cơ sở", Tạp chí Cộng sản (20), tr. 3 - 8. Pháp lệnh Kiểm sát viện nhân dân (2002), Nxb thành phố Hồ Chí Minh. Pháp lệnh Thẩm phán và Hội thẩm Tòa án nhân dân (2002), Nxb thành phố Hồ Chí Minh. Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự (1989), Nxb Pháp lý, Hà Nội. Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế (1989), Nxb Sự thật, Hà Nội. Pháp lệnh thủ tục giải quyết các tranh chấp lao động (1996), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính (1996), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Đặng Quang Phương (2001), Đề án cải cách Tòa án nhân dân, Hà Nội. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2000), Bộ luật hình sự nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (1995), Bộ luật tố tụng hình sự nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (1995), Bộ luật dân sự nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Nguyễn Văn Sáu (Chủ nhiệm đề tài (1996), Xây dựng và hoàn thiện cơ chế quản lý Thẩm pháp Tòa án địa phương, Đề tài cấp Bộ, mã số: 96-98-29, Hà Nội. Lê Hữu Thể (1997), "Giới thiệu vài nét về các cơ quan tư pháp của Vương quốc Anh", Thông tin khoa học pháp lý (3), tr. 12 - 15. Lê Hữu Thể (cùng tập thể tác giả) (1999), Luật Hiến pháp, Giáo trình Đại học Tổng hợp, Hà Nội. Lê Minh Thông (2001), Một số vấn đề về hoàn thiện tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. Vũ Quốc Thúc (1964), "Chính sách phát triển quốc gia và chế độ pháp trị", Luật học (3), tr. 10 - 14. Tòa án nhân dân tối cao (1996), Hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật về tổ chức, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Tòa án nhân dân qua các thời kỳ cách mạng Việt Nam (từ 1945 đến nay), Hà Nội. Tòa án nhân dân tối cao (1996), Báo cáo công tác ngành Tòa án năm 1996, Hà Nội. Tòa án nhân dân tối cao (1997), Báo cáo công tác ngành Tòa án năm 1997, Hà Nội. Tòa án nhân dân tối cao (1998), Báo cáo công tác ngành Tòa án năm 1998, Hà Nội. Tòa án nhân dân tối cao (1999), Báo cáo công tác ngành Tòa án năm 1999, Hà Nội. Tòa án nhân dân tối cao (2000), Báo cáo công tác ngành Tòa án năm 2000, Hà Nội. Tòa án nhân dân tối cao (2001), Báo cáo công tác ngành Tòa án năm 2001, Hà Nội. Tòa án nhân dân tối cao (2002), Báo cáo tổng kết công tác tổ chức và cán bộ theo Nghị quyết Trung ương (khóa VII), Nghị quyết Trung ương 3 và Nghị quyết Trung ương 7 (khóa VIII), Hà Nội. Đào Trí Úc (1993), Những vấn đề lý luận cơ bản về pháp luật, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. Đào Trí Úc (1994), Những vấn đề lý luận của việc đổi mới pháp luật trong giai đoạn hiện nay, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội. Đào Trí Úc (1994), Nhà nước pháp quyền, một số vấn đề cơ bản những vấn đề lý luận cơ bản về nhà nước và pháp luật, Nxb Sự thật, Hà Nội. Đào Trí Úc (1995), Những vấn đề lý luận cơ bản về nhà nước và pháp luật, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Đào Trí Úc (1995), Xây dựng ý thức và lối sống theo pháp luật, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội. Đào Trí Úc (2001), Nhà nước và pháp luật của chúng ta trong sự nghiệp đổi mới, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. Nguyễn Tất Viễn (Chủ nhiệm đề tài) (1990), Cải cách tư pháp, Phần: Đổi mới tổ chức hoạt động của Tòa án, Đề tài cấp Bộ, mã số: 86-90-011, Hà Nội. Viện Kiểm sát nhân dân tối cao (1990), Báo cáo tổng kết 30 năm hoạt động ngành Kiểm sát nhân dân. Viện Kiểm sát nhân dân tối cao (1997), Báo cáo của Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân tối cao trước Quốc hội, nhiệm kỳ 1992 - 1997. Viện Kiểm sát nhân dân tối cao (1997), Thực trạng và giải pháp nâng cao chất lượng, hiệu quả thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp, Chuyên đề khoa học. Viện Kiểm sát nhân dân tối cao (1998), Dự thảo Bộ luật tố tụng hình sự (sửa đổi) lần thứ VII. Viện Kiểm sát nhân dân tối cao (1998), Báo cáo về kết quả hoạt động của Viện Kiểm sát nhân dân tối cao và phương hướng, biện pháp thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ ba Ban Chấp hành Trung ương khóa VIII trong ngành Kiểm sát nhân dân, Ban Cán sự Đảng. Viện Kiểm sát nhân dân tối cao (1998), Báo cáo tổng kết công tác tổng kiểm sát các năm 1997. Viện Kiểm sát nhân dân tối cao (1999), Báo cáo tổng kết công tác tổng kiểm sát các năm 1998. Viện Kiểm sát nhân dân tối cao (1999), Số liệu thống kê án hình sự năm 1998. Viện Kiểm sát nhân dân tối cao (2000), Số liệu thống kê án hình sự năm 1999. Viện Kiểm sát nhân dân tối cao (2000), Chuyên đề về "Công tác kiểm sát xét xử án hình sự có bị cáo Tòa án tuyên không phạm tội năm 1999" số 994/KSXXHS, Hà Nội, ngày 19/5. Viện Kiểm sát nhân dân tối cao (2000), Sơ kết công tác kiểm sát xét xử phúc thẩm năm 1999. Viện Kiểm sát nhân dân tối cao (2000), Báo cáo tổng kết công tác kiểm sát năm 1999. Viện Kiểm sát nhân dân tối cao (2001), Số liệu thống kê án hình sự năm 2000. Viện Kiểm sát nhân dân tối cao (2001), Báo cáo tổng kết công tác tổng kiểm sát các năm 2000. Viện Kiểm sát nhân dân tối cao (2001), Chuyên đề về công tác kiểm sát xét xử ám hình sự có bị cáo Tòa án tuyên không phạm tội năm 2000, số 01/KSXXHS, Hà Nội, ngày 5/1. Viện Kiểm sát nhân dân tối cao (2001), Báo cáo tình hình án đình chỉ điều tra năm 2000, số 01/KSĐT, ngày 5/1. Viện Kiểm sát nhân dân tối cao (2001), "Chỉ dẫn về công tác công tố". Trong sách: Khuyến nghị sửa đổi Bộ luật tố tụng hình sự và sổ tay công tác kiểm sát hình sự tại Việt Nam, Dự án VIE/018. Viện Kiểm sát nhân dân tối cao (2002), Số liệu thống kê án hình sự năm 2001. Viện Kiểm sát nhân dân tối cao (2002), Báo cáo tổng kết công tác kiểm sát năm 2001. Viện Kiểm sát nhân dân tối cao (2002), Tờ trình về Dự án luật tổ chức Viện Kiểm sát nhân dân (sửa đổi) trình trước Quốc hội khóa X, kỳ họp thứ 11, ngày 26/3. Viện Kiểm sát xét xử phúc phẩm Hà Nội (2001), Báo cáo tình trạng án tồn đọng ở cấp phúc thẩm tối cao và các giải pháp khắc phục, Báo cáo tại Hội thảo khoa học Đà Nẵng, Hà Nội. Viện Thông tin khoa học xã hội (1991), Thuyết "Tam quyền phân lập", Hà Nội. ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docLA2698.DOC
Tài liệu liên quan