Đổi mới và phát triển các Hợp tác xã nông nghiệp theo Luật hợp tác xã năm 2003 ở huyện Nam Trực, tỉnh Nam Định

LỜI MỞ ĐẦU Sự cần thiết của vấn đề lựa chọn Trải qua một thời gian dài tồn tại và phát triển, hình thức kinh tế hợp tác xã trong nông nghiệp ngày càng khẳng định được vị trí đích thực của nó trong nền kinh tế quốc dân nói chung và nền sản xuất NN nói riêng, góp phần nâng cao đời sống vật chất tinh thần cho người dân. Tuy nhiên trước sự biến động không ngừng của nền kinh tế, nhu cầu ngày càng cao của thị trường và điều quan trọng là hình thức và cơ chế hoạt động của các loại hình kinh tế HTX NN

doc92 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1278 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Đổi mới và phát triển các Hợp tác xã nông nghiệp theo Luật hợp tác xã năm 2003 ở huyện Nam Trực, tỉnh Nam Định, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
còn chưa thực sự mang lại hiệu quả thiết thực, vì vậy đổi mới và phát triển các HTX NN theo Luật HTX Năm 2003 là một tất yếu khách quan. Vấn đề trên cũng được Đảng và nhà nước ta quan tâm sâu sắc trong suôt quá trình phát triển của hình thức kinh tế này,biểu hiện đó là những văn bản, chính sách mang tính định hướng chiến lược ở cả tầm vi mô và vĩ mô. Trong đó Luật HTX 2003 thể hiện sự điều chỉnh toàn diện đối với sự hoạt động và phát triển của các HTX. Huyện Nam Trực tỉnh Nam Định là một huyện thuần nông với hầu hết dân số hoạt động trong ngành NN, vì vậy sản xuất NN là ngành sản xuất chính chiếm tỷ trọng cao nhất trong nền kinh tế của huyện. Những thành tựu đã đạt được trong những năm qua của huyện nhà càng không thể phủ nhận được vai trò của các HTX NN – hình thức sản xuất kinh doanh chính trong NN. Với tinh thần thực hiện đổi mới và phát triển các HTX NN theo Luật HTX, đặc biệt là Luật 2003 sửa đổi, cán bộ và nhân dân huyện đã tạo ra những bước chuyển biến lớn trong ngành NN, tương xứng với khả năng sẵn có của ngành. Tuy nhiên trong quá trình hoạt động thì các HTX NN vẫn chưa phát huy hết khả năng vốn có của nó, sản xuất NN nhiều nơi còn đình đốn do cơ chế quản lý các HTX NN còn nhiều vướng mắc, rồi trong quá trình hạot động còn nảy sinh nhiều vấn đề về xã viên HTX, tình hình sở hữu vốn quỹ SX…Vì thế nó cũng chưa mang lại hiệu quả thiết thực cho cả HTX NN và xã viên HTX theo những mục tiêu đã đặt ra. Từ thực tế trên, qua quá trình thực tập tại Phòng NN& PTNT huyện Nam Trực, tỉnh Nam Định em đã lựa chọn đề tài: “ đổi mới và phát triển các Hợp tác xã nông nghiệp theo Luật hợp tác xã năm 2003 ở huyện Nam Trực, tỉnh Nam Định” làm chuyên đề thực tập cho mình. Mục tiêu nghiên cứu đề tài Góp phần hệ thống hoá cơ sở lý luận và thực tiễn về vấn đề đổi mới và phát triển các HTX NN huyện Nam Trực theo Luật HTX năm 2003. Đánh giá chung về thực trạng đổi mới và phát triển của các HTX NN huyện Nam Trực khi thực hiện theo Luật HTX năm 2003, đồng thời làm rõ những mặt đạt được, chưa đạt được, nguyên nhân và những bài học kinh nghiệm từ vấn đề đó. Đề xuất định hướng và một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả quá trình đổi mới và phát triển của các HTX NN huyện Nam Trực theo Luật HTX năm 2003. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu của đề tài Đề tài tập trung vào phân tích tình hình của các HTX NN huyện Nam Trực tỉnh Nam Định từ sau khi có Luật HTX năm 2003. Số liệu nghiên cứu của đề tài từ năm 2000 đến năm 2006. Phương pháp nghiên cứu của đề tài Trong bài đã sử dụng phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử làm phương pháp nghiên cứu chung, bên cạnh đó là một số phương pháp khác như: phương pháp phân tích tổng hợp, phương pháp điều tra, phương pháp so sánh, phương pháp nghiên cứu tài liệu. Bố cục đề tài: Bên cạnh phần mở đầu, kết luận, mục lục, danh mục tài liệu tham khảo, đề tài gồm 3 phần cơ bản như sau: Chương I: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về kinh tế tập thể và hợp tác xã nông nghiệp. Chương II: Thực trạng đổi mới và phát triển các hợp tác xã nông nghiệp theo Luật HTX năm 2003 ở huyện Nam Trực tỉnh Nam Định. Chương III: Một số giải pháp tiếp tục đổi mới và phát triển các hợp tác xã nông nghiệp theo Luật hợp tác xã năm 2003 ở huyện Nam Trực Tỉnh Nam Định. Em xin chân thành cảm ơn sự chỉ bảo tận tình của thầy giáo hướng dẫn PGS.TS Vũ Đình Thắng, sự giúp đỡ nhiệt tình của các bác, cô chú, anh chị ở phòng NN & PTNT huyện Nam Trực tỉnh Nam Định dành cho em trong suốt quá trình thực hiện đề tài. CHƯƠNG I: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ KINH TẾ TẬP THỂ VÀ HỢP TÁC XÃ NÔNG NGHIỆP I. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ KINH TẾ TẬP THỂ, HỢP TÁC XÃ NÔNG NGHIỆP 1. Kinh tế tập thể và vai trò của KTTT. 1.1. Bản chất của KTTT. Để tiến hành các hoạt động sản xuất thì con người không chỉ riêng lẻ hoạt động mà cần phải có sự kết hợp với các đối tượng và cá nhân khác, điều đó bắt nguồn từ tính chất xã hội của hoạt động nói chung, của lao động sản xuất và hoạt động kinh tế của con người. Sự hợp tác đó nhằm giúp đỡ lẫn nhau, cùng nhau tiến hành các hoạt động sản xuất, đó chính là cơ sở để hình thành nền KTTT. Như vậy, về bản chất KTTT là hình thức tổ chức sản xuất mọi cá nhân có thể tham gia một cách tự nguyện, tự chủ, bình đẳng trên cơ sở góp vốn, góp sức nhằm tạo ra những điều kiện vật chất đủ lớn để tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh. Trong quá trình hoạt động mỗi thành viên phải có nhiệm vụ giúp đỡ lẫn nhau, hỗ trợ nhau cùng giải quyết những công việc mà một cá nhân không tự làm được hoặc làm không có hiệu quả. Từ đó nâng cao hiệu quả hoạt động và lợi ích của mỗi thành viên trong tập thể, tạo điều kiện thúc đẩy sản xuất phát triển. Chúng ta có thể hiểu bản chất của KTTT: * Kinh tế tập thể dựa trên sở hữu của các thành viên tham gia hợp tác và sở hữu của cả tập thể ( hộ gia đình, pháp nhân, người lao động), KTTT liên kết rộng rãi những người lao động, những hộ sản xuất tự chủ, các doanh nghiệp vừa và nhỏ thuộc các thành phần kinh tế. * KTTT thực hiện nguyên tắc phân phối theo lao động và theo vốn góp của các thành viên và theo mức độ tham gia dịch vụ. * KTTT tổ chức theo nguyên tắc tự nguyện, dân chủ, cùng có lợi, hoạt động theo nguyên tắc tự chủ và tự chịu trách nhiệm, lấy lợi ích kinh tế là chính bao gồm lợi ích của các thành viên, lợi ích của tập thể và lợi ích xã hội của các thành viên ( giải quyết nạn thất nghiệp,tăng thu nhập góp phần xóa đói giảm nghèo…) * KTTT hoạt động dựa trên cơ sở đảm bảo quyền tự chủ kinh doanh của các thành viên tham gia và hỗ trợ tạo mọ điều kiện cho các thành viên phát triển nhất là đối với kinh tế hộ và trang trại. Tuy nhiên, hình thức biểu hiện của các quan hệ trên ở mỗi giai đoạn khác nhau là khác nhau, nó tuỳ thuộc vào phương thức mà con người tiến hành các hoạt động kinh tế của mình. Thời kỳ trước đổi mới (1986) bản chất của KTTT là tập thể hoá lao động và toàn bộ các hoạt động kinh tế, phủ nhận vai trò tự chủ của kinh tế hộ nông dân, cơ chế quản lý tập trung, mệnh lệnh mang tính chất áp đặt, làm cản trở sự phát triển. Chuyển sang giai đoạn sau đổi mới trên cơ sở cụ thể hoá những tư tưởng mới vào đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước thì hình thức kinh tế trên tự chủ của hộ nông dân và thị trường hoá hoạt động kinh tế. Nhờ đó mà hiệu quả hoạt động của KTTT ở giai đoạn này ngày càng tăng cao. Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ IX khẳng định: “ Kinh tế tập thể phát triển với nhiều hình thức hợp tác đa dạng trong đó hợp tác xã là nòng cốt”. Như vậy KTTT gồm các hình thức đa dạng khác nhau về quy mô sản xuất, về mức độ liên kết, về địa bàn của các chủ thể tham gia hợp tác( không phân biệt ranh giới của các chủ thể tham gia hợp tác) như tổ đoàn kết sản xuất, câu lạc bộ sản xuất,… trong đó HTX là một hình thức hợp tác cụ thể, giữ vai trò nòng cốt trong các hình thức hợp tác đa dạng đó, hoạt động theo Luật hợp tác xã năm 1996 và Luật hợp tác xã sửa đổi năm 2003. Trong quá trình phát triển, một bộ phận các tổ chức kinh tế hợp tác có thể phát triển lên thành các HTX, nhưng các hình thức kinh tế hợp tác đa dạng khác vẫn tồn tại và phát triển lâu dài trong điều kiện nền kinh tế thị trường. 1.2. Vai trò của KTTT Từ bản chất của KTTT ta thấy được vị trí quan trọng của loại hình tổ chức này trong đời sống sinh hoạt và trong các mối quan hệ sản xuất của mối thành viên trong tập thể. Tham gia vào KTTT mỗi thành viên, mỗi cá nhân có thể tranh thủ được sự giúp đỡ của sức mạnh tập thể trên cơ sở là sức mạnh tổng hợp của các thành viên cả về mặt vật chất lẫn tinh thần. Hơn nữa, khi tham gia vào KTTT họ sẽ có cơ hội phát huy nhưng khả năng, từ đó có thể giải quyết được những vấn đề mà mỗi thành viên không thể thực hiện được hoặc thực hiện được nhưng hiệu quả không cao. Cũng từ đặc điểm của nền nông nghiệp nước ta, hoạt động sản xuất chịu sự ảnh hưởng của điều kiện tự nhiên với những diễn biến bất thường của thời tiết khí hậu, đối tượng sản xuất là những cây, con giống có quy luật sinh trưởng và phát triển nên mang tính thời vụ cao, nhất định và rất nhiều những điều kiện ảnh hưởng khác nữa do đó đòi hỏi người lao động phải liên kết với nhau, cùng nhau tiến hành các hoạt động sản xuất mới đem lại hiệu quả cao. KTTT phát triển với mục tiêu kinh tế là hỗ trợ có hiệu quả cho hoạt động kinh doanh của các thành viên tham gia nhằm mang lại lợi nhuận cao trên cơ sở đảm bảo các yếu tố sản xuất đầu vào và tiêu thụ sản phẩm đầu ra cho các hoạt động sản xuất của họ, làm cho họ yên tâm sản xuất và đững vững trên thị trường sản phẩm nông sản Bên cạnh đó phát triển KTTT cũng đem lại những mục tiêu xã hội to lớn. Nhờ có KTTT tạo điều kiện huy động một cách có hiệu quả nguồn lực vật chất, làm tăng sức sản xuất của xã hội từ đó tạo ra một khối lượng sản phẩm lớn đáp ứng nhu cầu tại chỗ cho mỗi thành viên và tham gia vào xuất khẩu ra mọi vùng miền của đất nước. Hay nói cách khác sự hoạt động có hiệu quả của KTTT góp phần thúc đẩy nền sản xuất hàng hóa trong nông nghiệp nông thôn, thúc đẩy quá trình chuyên môn hóa, hợp tác hóa theo định hướng mà nước ta đã đặt ra. KTTT thu hút được sự tham gia đông đảo của mọi thành viên trong xã hội, giảm được lao động thất nghiệp trong nông thôn nước ta hiện nay, tăng thu nhập và cải thiện đời sống cho người dân. Xét thực trạng phát triển kinh tế nông thôn nước ta hiện nay, đại bộ phận dân cư hoạt động trong ngành nông nghiệp, tình trạng bán thất nghiệp là phổ biến thường xuyên do tính sản xuất thời vụ, hiệu quả sản xuất nông nghiệp còn thấp so với tiềm năng sẵn có của ngành, bộ máy tổ chức quản lý hoạt động chưa phát huy được vai trò chỉ đạo một cách có hiệu quả. Do đó nâng cao hơn nữa vai trò to lớn của KTTT mà nòng cốt là các HTX NN là một nhiệm vụ quan trọng mà Đảng và nhà nước ta cần phải quan tâm trong suốt quá trình phát triển nhằm đem lại lợi ích thiết thực cho các thành phần kinh tế tham gia, góp phần vào sự nghiệp phát triển chung của đất nước, thực hiện thắng lợi các mục tiêu kinh tế xã hội mà Đảng và nhà nước ta đã đặt ra trong quá trình CNH-HĐH nông nghiệp nông thôn. 2. Hợp tác xã nông nghiệp và vai trò của nó. 2.1. Khái niệm hợp tác xã nông nghiệp. HTX là một trong những hình thức tổ chức kinh tế trong nông nghiệp, bên cạnh các loại hình kinh tế khác như kinh tế trang trại, hộ nông dân và các doanh nghiệp nhà nước. Hình thức kinh tế này không chỉ xuất hiện ở những nước đang phát triển mà ngay ở những nước phát triển tư bản chủ nghĩa cũng duy trì hình thức này với những quy mô và trình độ tổ chức khác nhau. Với sự phổ biến rộng rãi như vậy đã hình thành lên một tổ chức thống nhất mang tính quốc tế. Đó chính là Liên minh hợp tác và Hợp tác Quốc tế (ICA), theo cách hiểu của tổ chức này thì: “ Hợp tác xã là một tổ chức tự trị của nhứng người tự nguyện liên hiệp lại để đáp ứng các nhu cầu và nguyện vọng chung của họ về kinh tế, xã hội và văn hoá thông qua một xí nghiệp cùng sở hữu và quản lý dân chủ”. Và định nghĩa đã được bổ sung trong tuyên bố năm 1995. “ Hợp tác xã dựa trên ý nghĩa tự cứu giúp mình, tự chịu trách nhiệm, cộng bằng và đoàn kết. Theo truyền thống của những người sáng lập ra hợp tác xã, các xã viên hợp tác xã tin tưởng vào ý nghĩa đạo đức và tính trung thực, cởi mở, trách nhiệm xã hội và quan tâm chăm sóc người khác”. Dựa vào định nghĩa trên mà mỗi nước với đặc điểm điều kiện phát triển của mình đã đưa ra những khái niệm định nghĩa khác nhau về HTX. Tuy nhiên về nội dung và mục đích của việc phát triển các HTX là không thay đổi. Cũng trên cơ sở khái niệm trên, Đảng và Nhà nước ta đã vận dụng một cách sáng tạo và điều kiện phát triển của nước nhà và từng bước hoàn thiện sự phát triển của các HTX thông qua hệ thống các văn bản pháp luật. Cụ thể đã có luật HTX năm 1996 và Luật HTX (sửa đổi) năm 2003. Tại điều 1 trong Luật hợp tác xã Việt Nam năm 1996 ghi “ Hợp tác xã là tổ chức kinh tế tự chủ do những người lao động có nhu cầu, lợi ích chung, tự nguyện cùng góp vốn, góp sức lập ra theo quy định của pháp luật để phát huy sức mạnh của tập thể và của từng xã viên, nhằm giúp nhau thực hiện có hiệu quả hơn các loại hoạt động sản xuất kinh doanh, dịch vụ và cải thiện đời sống góp phần phát triển kinh tế – xã hội của đất nước”. Định nghĩa đã được bổ xung trong Luật HTX ( sửa đổi) năm 2003: “ Hợp tác xã là tổ chức kinh tế tập thể do các cá nhân, hộ gia đình, pháp nhân có nhu cầu, lợi ích chung, tự nguyện góp vốn, góc sức lập ra theo quy định của Luật này để phát huy sức mạnh tập thể của từng xã viên tham gia hợp tác xã, cùng giúp nhau thực hiện có hiệu quả các hoạt động sản xuất kinh doanh và nâng cao đời sống vật chất tinh thần, góp phần phát triển kinh tế – xã hội của đất nước” . Các cách tiếp cận ở mối giai đoạn, mỗi quốc gia về định nghĩa Hợp tác xã khác nhau là khác nhau, nhưng nhìn chung đều nêu lên được những điều bản chất nhất, đặc trưng nhất của loại hình tổ chức này. Cụ thể: - Có thể tham gia một cách tự nguyện, tự chủ. - Tham gia với mục đích trước hết là sự giúp mình dựa vào sức mạnh của tập thể . Mỗi xã viên đều có quyền ngang nhau, bình đẳng trong các vấn đề quản lý, phân phối và sử dụng tài sản chung của HTX theo quy định của điều lệ HTX và góp vốn theo quy định. - Có trách nhiệm giúp đỡ nhau, cùng nhau tiến hành các hoạt động sản xuất kinh doanh và tôn trọng nguyên tắc của HTX. - Mục đích hoạt động vừa mang tính chất kinh tế, vừa mang tính chất xã hội. 2.2. Đặc trưng của Hợp tác xã nông nghiệp. Từ những cách hiểu về HTX nêu trên, chúng ta có thể rút ra được những đặc trưng cụ thể của loại hình tổ chức này. Thứ nhất: HTX nông nghiệp là tổ chức liên kết kinh tế tự nguyện của những nông hộ, nông trại, các tổ chức kinh tế và pháp nhân có chung yêu cầu về dịch vụ cho sản xuất kinh doanh và cho đời sống của mình mà bản thân từng nông hộ không làm được hoặc làm nhưng kém hiệu quả. Thứ hai: Cơ sở thành lập của HTX là dựa vào việc cùng góp vốn của các thành viên và quyền chủ hoàn toàn bình đẳng giữa các xã viên theo nguyên tắc mỗi xã viên một phỉếu biểu quyết không phân biệt lượng vốn góp ít hay nhiều. Thư ba: Mục đích kinh doanh của HTX là nhằm trước hết dịch vụ cho xã viên, đáp ứng đủ và kịp thời số lượng, chất lượng của dịch vụ, đồng thời cũng phải tuân theo nguyên tắc bảo toàn và tái sản xuất mở rộng vốn bằng cách thực hiện mức giá và lãi suất nội bộ thấp hơn giá thị trường. Thứ tư: HTX thành lập và hoạt động theo nguyên tắc tự nguyện dân chủ và cùng có lợi. Thứ năm: HTX là một tổ chức liên kết kinh tế chỉ liên kết những xã viên thực sự có nhu cầu, có mong muốn không lệ thuộc vào nơi ở và cũng chỉ liên kết ở những dịch vụ cần thiết và đủ khả năng quản lý kinh doanh. Như vậy trong mỗi thôn, mỗi xã có thể cùng tồn tại nhiều loại hình hợp tác xã có nội dung kinh doanh khác nhau, có số lượng xã viên không như nhau, trong đó một số thành viên có thể đồng thời là thành viên của một số HTX. Thứ sáu: Nông hộ, trang trại xã viên vừa là đơn vị kinh tế tư chủ trong HTX, vừa là đơn vị kinh tế cơ sở hoạt động kinh doanh và hạch toán độc lập. Do vậy quan hệ giữa HTX và xã viên vừa là quan hệ liên kết, giúp đỡ nội bộ, vừa là quan hệ giữa hai đơn vị kinh doanh có tư cách pháp nhân độc lập. Việc hiểu rõ những đặc trưng trên giúp cho các cơ quan quản lý nắm vững được quy luật phát triển của loại hình tổ chức này trong từng điều kiện cụ thể, từ đó có những tác động tích cực nhằm thúc đẩy sự phát triển và ngược lại. 2.3. Vai trò của hợp tác xã nông nghiệp. Với đặc trưng cơ bản mục đích kinh doanh của HTX là nhằm trước hết dịch vụ cho xã viên, ta có thể khẳng định thêm HTX là một tổ chức kinh tế để phát triển kinh tế hộ gia đình. Từ đó có thể suy rộng ra kinh tế HTX không phải vì kinh tế HTX mà là sự phát triển kinh tế của các chủ thể kinh tế của HTX. Vì vậy mục tiêu trước tiên, chủ đạo của việc thành lập các HTX là hỗ trợ hoạt động của các chủ thể tham gia HTX bằng cách tạo ra những đòn bẩy để phát triển kinh tế của các chủ thể kinh tế. Vai trò của các HTX được thể hiện trên các mặt. * Đối với hoạt động sản xuất kinh doanh của các chủ thể kinh tế trong HTX NN. Thứ nhất: HTX NN là hình thức kinh tế tập thể của nông dân. Vì vậy hoạt động của HTX NN có tác động to lớn, tích cực đến hoạt động sản xuất của hộ nông dân. Nhờ đó hoạt động của HTX NN, các yếu tố đầu vào của các khâu dịch vụ cho hoạt động sản xuất nông nghiệp được cung cấp kịp thời, đầy đủ và đảm bảo chất lượng, các khâu sản xuất tiếp theo được đảm bảo làm cho hiệu quả sản xuất của hộ nông dân được nâng lên. Thứ hai: Thông qua hoạt động dịch vụ vai trò điều tiết sản xuất của HTX NN được thực hiện, sản xuất của hộ nông dân được thực hiện theo hướng tập trung, tạo điều kiện hình thành các vùng sản xuất tập trung chuyên môn hoá. Như dịch vụ làm đất, dịch vụ tưới nước, dịch vụ bảo vệ thực vật… đòi hỏi sản xuất của hộ nông dân phải thực hiện thống nhất trên từng cánh đồng về chủng loại giống, về thời vụ gieo trồng và chăm sóc. Nếu hộ nông dân không thực hiện thống nhất sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến các công việc sản xuất và đến kết quả sản xuất cuối cùng của họ. Thứ ba: HTX còn là nơi tiếp nhận những trợ giúp của Nhà nước tới từng hộ nông dân, vì vậy hoạt động của HTX NN ở những vùng chuyên môn hoá còn là hình thức thể hiện mối liên minh công nông, đặc biệt sự gắn kết giữa khâu sản xuất nguyên liệu và chế biến nông sản. Xét nền kinh tế nước ta đang trong xu thế hội nhập với nền kinh tế khu vực và thế giới, cơ hội rất nhiều song thử thách cũng không ít. Điều đó thể hiện rõ hơn trong sản xuất nông nghiệp của nước ta. Khi phương thức sản xuất còn lại hậu, tình trạng ruộng đất phân tán, manh mún, chất lượng sản xuất làm ra chưa đáp ứng được nhu cầu của thị trường, ngay cả thị trường trong nước. Vấn đề trên mặc dù đã được đề cập rất nhiều nhằm làm cơ sở để tiến hành đổi mới và phát triển kinh tế HTX song nhìn chung vẫn còn nhiều vướng mắc. Vì vậy để giảm thiểu những nguy cơ rủi ro từ thị trường đến với hoạt động sản xuất kinh doanh của hộ nông dân, thành viên của HTX thì tất yếu cần phải nâng cao hiệu quả hoạt động của các HTX NN nhằm nâng cao hơn nữa vai trò hỗ trợ, thúc đẩy sản xuất của kinh tế hộ nông dân. Từ đó giúp họ có đủ khả năng và năng lực cạnh tranh trên thị trường trong nước và rộng hơn nữa là thị trường quốc tế. * Đối với nền kinh tế quốc dân. Đóng vai trò là một trong những hình thức tổ chức sản xuất chính trong nông nghiệp nền việc phát triển nâng cao hiệu quả hoạt động của các HTX NN góp phần phát triển nền nông nghiệp bền vững, toàn diện. Cũng qua đó tạo lực về mặt kinh tế để hoàn thành các mục tiêu xã hội trên cơ sở giải quyết các vấn đề mang tính chất xã hội như giải quyết nạn thất nghiệp, tạo việc làm, tăng thu nhập cho hộ nông dân, nâng cao điều kiện vật chất tinh thần cho người dân, tăng thu ngân sách cho đất nước, thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn. Nhờ đó mà rút ngắn khoảng cách phát triển giữa nông thôn và thành thi, giữa các vùng miền trong cả nước trên cơ sở khai thác một cách có hiệu quả các nguồn lực lợi thế phục vụ cho mục tiêu phát triển kinh tế xã hội. II. ĐỔI MỚI VÀ PHÁT TRIỂN HỢP TÁC XÃ TRONG NÔNG NGHIỆP Ở VIỆT NAM 1. Quá trình hình thành và phát triển của HTX NN. Từ cuối những năm 50 đến nay cùng với sự phát triển của các hình thức hợp tác trong nông nghiệp nông thôn, HTX NN đã trải qua những bước phát triển thăng trầm và đang có những thay đổi đáng kể để khẳng định vị trí đích thực trong thời kỳ đổi mới với nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa có sự quản lý của nhà nước. Gai đoạn trước năm 1981 Sau khi hoà bình lặp lại ở miền bắc, đảng ta bắt đầu quan tâm tới công cuộc xây dựng HTX trong nông nghiệp, đầu tiên là một vài HTX mang tính chất thí điểm trên cơ sở của các HTX giản đơn. Sau hội nghị sơ kết công tác xây dựng HTX thí điểm, Đảng ta đã tiếp tục đề ra nhưng chủ trương tiếp tục củng cố các HTX thí điểm này và xây dựng cácHTX mới. Mốc đánh dấu là Hội nghị trung ương lần thứ 16 ( khóa II) họp tháng 4 năm 1959 đưa ra quyết định về hợp tác hoá nông nghiệp với các đặc điểm: HTX NN trong giai đoạn này hoạt động theo nguyên tắc tập thể hoá tư liệu sản xuất và quản lý sản xuất tập trung, phân phối thống nhất, quy định việc trích lập các quỹ và tổ chức bộ máy HTX sản xuất nôngnghiệp, đặt nền tảng cho đường lối hợp tác hoá nông nghiệp theo mô hình thập thể hoá cho những giai đoạn tiếp theo và năm 1959 điều lệ HTX bặc thấp được ban hành. Để điều hành sản xuất các HTX sản xuất NN đã giao kế hoạch sản xuất, nghĩa vụ nộp sản phẩm và xét duyệt kế hoạch phân phối từng vụ từng năm của các HTX. Hình thức phổ biến của các HTX trong thời gian này là các HTX NN bậc thấp quy mô thôn trong đó tư liệu sản xuất thuộc sở hữu của từng hộ xã viên nhưng do HTX thống nhất quản lý sản xuất, lao động tập thể, phân phối thống nhất. Với hình thức tổ chức đó trong quá trình hoạt động đã cơ bản hoàn thành kế hoạch hợp tác hoá nông nghiệp bậc thấp, tạo ra sự biến đổi lớn lao trong hình thức tổ chức sản xuất nông nghiệp ở miền bắc, chế độ người bóc lột người bị xoá bỏ, lao động tập thể căn bản thay lối làm ăn cá thể và hình thức sở hữu trong giai đoạn này là sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể. Nhờ đó mà kinh tế nông nghiệp miền bắc đạt được những kết quả đáng khích lệ đảm bảo cung cấp đủ lương thực cho tiền tuyến, tuy nhiên trong quá trình phát triển hình thức tổ chức đó cũng dần bộc lộ những mặt hạn chế, lợi ích của người lao động và của HTX ngày càng thấp làm suy giảm phong trào xây dựng và phát triển các HTX NN trong nông thôn. Trước tình thế đó Miền Bắc đặt ra nhiệm vụ là phải tiếp tục tiến hành các công cuộc cải tiến quản lý HTX NN và trên tất cả các mặt, một trong số những nội dung đó là chấn chỉnh chế độ 3 khoán theo hướng lấy HTX làm đơn vị hoạch toán, quản lý sản xuất và phân phối tập trung, còn đội sản xuất là đơn vị nhận khoán sản lượng, công điểm và chi phí sản xuất. Đến tháng 4 năm 1969, điều lệ HTX NN bậc cao được ban hành, trong điều lệ có ghi rõ nghĩa vụ của xã viên khi gia nhập HTX phải đưa vào tập thể ruộng đất, trâu bò cầy kéo và các nông cụ chủ yếu khác. Về cải tiến kỹ thuật các HTX NN tiến hành xây dựng các cơ sở vật chất kỹ thuật thuỷ lợi, giao thông, kho tàng, cơ sở xay sát, chuồng trại và máy móc cơ khí cho nông nghiệp. Tiếp theo đo là chỉ thị 33 và quyết định 61/CP, các HTX NN trong giai đoạn này tiếp tục chấn chỉnh quan hệ sản xuất, HTX quản lý thống nhất, xoá bỏ tình trạng khép kín trong đội sản xuất, hình thành các đội chuyên khâu, thực hiện sự phân công , hợp tác, chuyên môn hoá. Như vậy tổ chức HTX N theo mô hình tập thể hoá trải qua 1 thời gian xây dựng củng cố và cải tiến quản lý trên cơ sở tập thể hoá tư liệu sản xuất là chủ yếu, HTX quản lý lao động sản xuất và phân phối tập trung thông qua các đội chuyên và đội sản xuất cơ bản. Kết quả đạt được là sản xuất nông nghiệp đã có những bước phát triển đột biến, cung cấp kịp thời lương thực chi viện cho tiền tuyến miền nam về sức người và sức của, các nguồn lực được tập trung khai thác vào phục vụ sản xuất. Tuy nhiên trong quá trình hoạt động vẫn còn nhiều hạn chế bộc lộ những mặt yếu kém do yêu cầu của quá trình phát triển đặt ra. Trước thực tế đó đòi hỏi phải có những biện pháp tác độngcụ thể hơn nữa nhằm thức đẩy sự hình thành và phát triển của các HTX NN. Giai đoạn sau năm 1981 Từ 1981 đến 1996: Hình thức tổ chức HTX trong nông nghiệp ở giai đoạn này tiếp tục được đổi mới theo yêu cầu của sự phát triển, đây là thời kỳ nhận thức lại, tổng kết thực tiễn, phát hiện quy luật khách quan và đề ra những giải pháp nhằm củng cố và phát triển các hình thức HTX trong NN. Ngày 13/01/1981, Ban bí thư Trung ương Đảng khóa VI đề ra chỉ thị 100CT/TW với nội dung: “ quy định mở rộng hình thức khoán sản phẩm cuối cùng đến nhóm và người lao động trong đó HTX quản lý điều hành những khâu cần thiết còn lại giao cho hộ xã viên đảm nhận. Khoán sản phẩm đã mở đầu cho việc đổi mới quản lý kinh tế nông nghiệp sau này, sản xuất nông nghiệp có tốc độ tăng trưởng khá, hiệu quả kinh tế HTX nâng lên 1 nét rõ rệt góp phần vào mang lại ổn định lương thực cho nước nhà. Nhưng từ năm 1986 trở đi sản xuất nông nghiệp bắt đầu có chiều hướng suy giảm nguyên nhân do HTX chưa quản lý chặt chẽ sản xuất làm cho chi phí sản xuất tăng cao, lợi nhuận của người sản xuất giảm dẫn đến họ không nhiệt tình với công tác tham gia sản xuất nữa. Vì vậy vấn đề đặt ra lúc này là phải đổi mới và phát triển HTX kiểu cũ và phát triển cái mới cho nó phù hợp với tình hình thực tiễn. Trước yêu cầu của thực tiễn, tháng 4/1988, Nghị quyết 10 của Bộ chính trị khóa 6 về đổi mới quản lý nhà nước, đó là một quyết sách có tác dụng trực tiếp làm chuyển biến căn bản quá trình phát triển NNNT với những nội dung: + Những tư liệu sản xuất gì nếu hộ quản lý hiệu quả thì để cho hộ quản lý. + Điều chỉnh quan hệ sở hữu giữa HTX và hộ. + Khẳng định hộ là đơn vị tự chủ trong sản xuất hàng hóa. + Khoán ruộng đất ổn định lâu dài cho hộ. + Đổi mới nội dung hoạt động HTX NN chuyển sang làm dịch vụ cho kinh tế hộ. Khi thực hiện Nghị quyết 10 hộ nông dân được hưởng 40%-50% sản phẩm làm ra( trước kia 10%-20% sản phẩm làm ra). Vì vậy hộ nông dân yên tâm với quyền lợi được hưởng, họ tích cực đầu tư vốn công sức để tăng thêm sản phẩm. Nghị quyết 10 đem lại thành tựu rất rõ rệt cho sản xuất NN, với 19,6 triệu tấn lương thực năm 1989 nước ta vẫn phải nhập khẩu đã tăng thêm 21 triệu tấn trong năm sau và từ đó sản lượng lương thực mỗi năm tăng thêm 1 triệu tấn, đưa nước ta trở thành nước thứ 2 xuất khẩu gạo trên thế giới. Tuy nhiên, khi thực hiện theo nghị quyết 10 làm cho ruộng đất phân chia manh mún điều đó đã mâu thuẫn với quá trình tập trung hóa sản xuất và khó khăn trong việc sử dụng công nghệ mới vào sản xuất. Chính những mâu thuẫn này đã làm giảm hiệu lực của Nghị quyết 10, vấn đề đặt ra là phải đòi hỏi tiếp tục hoàn thiện để sản xuất hàng hóa phát triển. Cũng trong giai đoạn này Luật đất đai năm 1993 được ban hành đánh một dấu mốc quan trọng cho sản xuất nông nghiệp. Với nội dung chủ yếu là cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất lâu dài ổn định cho người lao động, để họ tự quyết định phương hướng sản xuất kinh doanh trên mảnh đất của mình, tự họach toán thu chi. Cùng với đó là luật HTX năm 1996 được ban hành, càng làm tăng thêm tính khả thi của các văn bản được ban hành trước đó. Luật quy định tất các những người lao động đều có thể là thành viên của HTX NN trên cơ sở tự nguyện tham gia. Coi trọng vai trò tự chủ của kinh tế hộ gia đình và các nông trại, HTX chỉ là người thực hiện dịch vụ phục vụ các khâu sản xuất cho các hộ xã viên, thúc đẩy hỗ trợ họ phát triển theo các mục tiêu đã đặt ra, HTX thực hiện vai trò của mình thông qua các hợp đồng kinh tế với hộ xã viên, điều hành các khâu dịch vụ sản xuất và chức năng này ngày càng được củng cố trong nền kinh tề hàng hóa nhiều thành phần. Với việc thực hiện các chủ trương đường lối mà nhà nước đã nêu ra, sự phát triển của các HTX NN trong giai đoạn này đã góp phần làm tăng nhanh gía trị nông sản của nước ta và trở thành một cường quốc trong xuất khẩu lương thực. Từ 1997 đến nay: Luật HTX năm 1996 bên cạnh việc mang lại sự phát triển mới cho các HTX NN trên cơ sở của sự tiến hành đổi mới các hình thức HTX NN kiểu cũ chuyển sang các hình thức HTX kiểu mới phù hợp với các điều kiện phát triển thì nó vẫn bộc lộ những điểm yếu do nội tại của chế độ HTX cũ để lại như về quan hệ sở hữu, chế độ quản lý phân phối, về nhận thức xã viên HTX… lại đặt ra yêu cầu phải tiếp tục đổi mới các vấn đề trên, từ đó mà Luật HTX năm 2003 được ban hành nhằm bổ sưng, sửa đổi cho luật HTX năm 1996 về nhưng vấn đề còn tồn tại. Giai đoạn này các HTX phát triển trên cở sở tiếp tục khẳng định vai trò kinh tế tự chủ của các hộ xã viên và nông trại là thành viên của HTX. Sự phát triển của các HTX nhằm mục địch hỗ trợ có hiệu quả hơn nũa cho các chủ thể kinh tế thông qua chức năng dịch vụ sản xuất trên cơ sở hoạch toán kinh doanh, và là người đại diện tiếp nhận sự trợ giúp của nhà nước tới hộ xã viên. Với đường lối đổi mới mang tính thực tiễn cao của đảng và nước nhờ đó mà hiệu quả kinh tế HTX ngày càng rõ nét góp phần làm tăng giá trị sản xuất ngành nông nghiệp, tăng thu cho nhân sách nhà nước, đời sống của người dân ở nông thôn được cải thiện. Tuy nhiên trước sự biến đổi mạnh mẽ của nền kinh tế thị trường đòi hỏi đảng và nhà nước tiếp tục có những biện pháp thiết thực hơn nữa trong việc điều chỉnh sự phát triển của các HTX NN nhằm nâng cao vai trò của nó trong sản xuất nông nghiệp và nền kinh tế quốc dân góp phần thực hiện thắng lợi các mục tiêu kinh tế đã đặt ra xuất nông nghiệp và nền kinh tế quốc dân. 2. Sự cần thiết phải đổi mới HTX trong nông nghiệp ở nước ta. 2.1. Xuất phát từ thực trạng nền kinh tế đòi hỏi phải đổi mới và phát triển các HTX NN. Đổi mới kinh tế là đường lối chỉ đạo của Đảng và Nhà nước ta trong suốt những năm qua, đặc biệt là từ sau khi đất nước ta hoàn toàn được giải phóng. Sự đổi mới này diễn ra trên tất cả các mặt của đời sống xã hội trên cơ sở phát huy những mặt mạnh, khắc phục khó khăn và tiếp thu cái mới. Giai đoạn trước năm 1986, chúng ta đã duy trì mô hình kinh tế của các nước xã hội chủ nghĩa cũ đó là nền kinh tế tập trung bao cấp với hai loại hình tổ chức chính đó là kinh tế tập thể và kinh tế quốc doanh. Trong sản xuất nông nghiệp hình thức kinh tế tập thể là chính trên cơ sở, sở hữu tập thể mọi nguồn lực sản xuất và các hoạt động kinh tế và trong những điều kiện nhất định nó đã phát huy được một số những mặt mạnh của nó thông qua sự hoạt động có hiệu quả của HTX NN, góp phần đảm bảo an ninh lương thực cho nước nhà trong thời cuộc. Trong quá trình phát triển thì mô hình đó cần bộc lộ những mặt yếu kém, nguyên nhân do nhận thức về các điều kiện kinh tế – xã hội còn hạn chế, bộ máy tổ chức cồng kềnh, chỉ đạo tập trung mang tính chất áp đặt, nó đã gây ảnh hưởng đến tâm lý và lợi ích của người lao động HTX làm cho hiệu quả sản xuất nông nghiệp suy giảm. Điều đó còn thể hiện rõ nét hơn khi nước ta tiến hành cải cách nền kinh tế, phát triển theo cơ chế thị trường. Giá trị sản xuất nông nghiệp không những không tăng mà còn có nhiều hướng giảm, người lao động có tư tưởng rời bỏ HTX, trong khi đó cơ sở vật chất nghèo nàn, xuống cấp nghiêm trọng. Trước thực tế đó thì đòi hỏi Đảng và Nhà nước ta phải đưa ra được những ._.đường lối cụ thể nhằm đổi mới các hình thức tổ chức sản xuất trong nông nghiệp, đặc biệt là các HTX NN để phát huy hơn nữa hiệu quả của loại hình tổ chức này. Ngoài ra, với vai trò là thành viên của tổ chức thương mại thế giới (WTO) và của nhiều tổ chức kinh tế chính trị có tầm ảnh hưởng lớn trên thế giới, đặt ra yêu cầu phải có cơ chế mới, cách làm ăn mới phù hợp với thông lệ quốc tế và các quy luật phát triển khách quan. Đặc biệt, để thực hiện thắng lợi mục tiêu CNH – HĐH nông nghiệp nông thôn mà Đảng đã đề ra thì vấn đề đổi mới sự hoạt động của các HTXNN càng cấp thiết. 2.2. Xuất phát từ vai trò của nền nông nghiệp trong nền kinh tế quốc dân. Xuất phát từ đặc điểm của nước ta hơn 70% dân số sống và làm việc ở nông thôn với hoạt động sản xuất nông nghiệp là chính. Nguồn lao động dồi dào, kinh nghiệm sản xuất từ lâu đời và những ưu đãi của các cơ quan quản lý nhà nước nên chúng ta đã sản xuất đủ lương thực, đảm bảo an ninh lương thực cho nước nhà, không những thế còn là nước xuất khẩu lương thực đứng thứ 3 trên thế giới trong nhiều năm. Bên cạnh đó là các mặt hàng nông sản khác như Cà phê, cao su, lạc, đậu tương … cũng chiếm được vị thế cao trong các nước xuất khẩu trên thế giới, từ đó làm tăng kim ngạch xuất khẩu, tăng thu nhập ngoại tệ cho đất nước. Phát triển nông nghiệp còn có vai trò cung cấp nguồn nguyên liệu thô dồi dào cho các ngành kinh tế khác, nó còn góp phần giải quyết vấn đề xã hội như việc làm, thu nhập của người dân, chuyển dịch cơ cấu kinh tế… Để phát huy hơn nữa những kết quả đã đạt được và khắc phục những hạn chế trong hoạt động của các HTX NN thì vấn đề đặt ra là tổ chức các loại hình kinh doanh trong nông nghiệp như thế nào và duy trì những hình thức kinh tế không phù hợp liệu có được ? Với sự phát triển của lực lượng sản xuất và yêu cầu ngày càng cao của thị trường đối với các mặt hàng nông sản thì cần thiết phải có sự đổi mới phù hợp. 2.3 Xuất phát từ vai trò của loại hình HTX trong kinh doanh nông nghiệp. Như đã nêu HTX là một trong những hình thức tổ chức sản xuất chính trong nông nghiệp, bên cạnh loại hình trang trại, hộ nông dân và các doanh nghiệp nhà nước. Phát triển các HTX nhằm tạo ra các điều kiện vật chất và các nguồn lực cần thiết để các đơn vị kinh tế cơ sở trang trại và hộ nông dân phát triển. Đây cũng là phương hướng đổi mới các HTX – hoạt động với mục đích hỗ trợ kinh tế hộ và trang trại đó là những mô hình tổ chức tiên tiến và có khả năng phát huy hiệu quả cao trong điều kiện nước ta phát triển nền kinh tế thị trường cạnh tranh. Từ những lý do nêu trên ta thấy cần thiét phải từng bước tiến hành đổi mới và phát triển các HTX NN trên cơ sở hành lang pháp lý mà Nhà nước ta đặt ra như các luật HTX năm 1996, Luật HTX (sửa đổi) năm 2003 và các văn bản pháp luật khác liên qua. Nâng cao hiệu quả hoạt động của các HTX tạo lực thúc đẩy nền nông nghiệp phát triển toàn diện, góp phần vào công cuộc CNH - HĐH đất nước trong những năm tới thông qua đổi mới các HTX là một tất yếu khách quan phù hợp. 3. Nôi dung đổi mới HTX NN theo luật ở nước ta. 3.1. Quan điểm của Đảng và Nhà nước về vấn đề tiếp tục đổi mới và phát triển HTX NN theo Luật. Trên cơ sở nắm vững lý luận, nhận thức đúng đắn thực tiễn. Từ đó thế chế hoá những tư tưởng mới, nhận thức mới vào đường lối phát triển nền kinh tế nên trong suốt những năm qua Đảng và Nhà nước ta liên tục ban hành những văn bản chính sách pháp luật nhằm tạo ra hành lang pháp lý để các loại hình tổ chức kinh tế hoạt động có hiệu quả trong khuôn khổ đó. Đối với loại hình HTX trong nông nghiệp cũng vậy, ban đầu là các mô hình HTX bậc thấp sau phát triển thành các mô hình HTX bậc cao, phù hợp với thực tiễn là kết quả của sự vận dụng sáng tạo những quan điểm, đường lối chỉ đạo của Nhà nước vào những điều kiện phát triển và đổi mới các HTX cụ thể. Trước những yêu cầu đặt ra của sự phát triển ở mỗi giai đoạn mà các quan điểm của Đảng và Nhà nước về đổi mới phát triển các HTX là khác nhau. Nhưng về cơ bản sự can thiệp đó đều có chung mục đích là tạo ra những điều kiện thuận lợi để cho các HTX hoạt động ngày càng có hiệu quả, xứng đáng với vai trò là hình thức tổ chức sản xuất chính trong nông nghiệp. Trên cơ sở của những tư tưởng đổi mới trong những giai đoạn trước, ngày 18/1/1981 ban Bí thư ra Chỉ thị 100/CT-TW với nội dung khoán sản phẩm cuối cùng đến nhóm và người lao động trong đó HTX quản lý điều hành năm khâu làm đất, giống mạ, phân hoá học, tưới tiêu nước và phòng trừ sâu bệnh còn HTX đảm nhiệm ba khâu gieo cấy, chăm sóc, thu hoạch. Khoán 100 có ý nghĩa rất quan trọng vì đó là bước mở đầu (Không việc đổi quản lý kinh tế nông nghiệp sau này, quan trọng nữa là sản xuất nông nghiệp ở giai đoạn này đạt được những thành tựu đáng kể). Một dấu mốc quan trọng nữa là Đại hội Đảng toàn quốc khoá VI họp năm 1986, đã tạo ra những tiền đề cơ bản về đổi mới kinh tế, theo đó ngày 05/04/1988. Bộ chính trị đã ra nghị quyết số 10/NQ-TW về đổi mới quản lý kinh tế nông nghiệp mở đường cho bước phát triển sản xuất nông nghiệp mạnh mẽ trong những năm gần đây, trên cơ sở đổi mới quản lý HTX NN. Tiếp đó là Hội nghị lần thứ sáu BCH TW khoá VI tháng 3 năm 1989 đã đề ra nhiều chủ trương, chính sách thực hiện công cuộc đổi mới, trong đó đã đề cập tới nhiều quan điểm, phương hướng tiếp tục đổi mới HTX, tập đoàn sản xuất với những nội dung cụ thể thích hợp. Luật đất đai năm 1993 với những nội dung cụ thể về việc HTX được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng ruộng đất lâu dài và được hưởng năm quyền: sử dụng, chuyển đổi, chuyển nhượng, thừa kế và thế chấp tạo ra bước ngoặt cho sự phát triển sản xuất nông nghiệp. Luật HTX năm 1996 và Luật HTX (sửa đổi) năm 2003 với mục tiêu đổi mới và phát triển các HTX NN nhằm phát huy vai trò quan trọng của kinh tế hợp tác, tạo cơ sở phát lý cho việc tổ chức và hoạt động của HTX trong nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng XHCN. Bên cạnh những chính sách văn bản trên là một loạt những nghị quyết, nghị định, Chỉ thị như nghị định 16/CP của Chính phủ về chuyển đổi đăng ký kinh doanh thao luật HTX, Nghị định 36/CP của Chính phủ về điều lệ mẫu HTX, Công văn số 355/CP ngày 30/3/1998 của Chính phủ về triển khai luật HTX … và rất nhiều những văn bản khác nhằm tạo môi trường thuận lợi để các HTX hoạt động, phát triển. 3.2. Một số nội dung chủ yếu của Luật HTX năm 2003. Trên cơ sở nội dung của Luật HTX năm 1996, đồng thời thể chế hoá những tư tưởng, nhận thức mới về thực trạng HTX ngày 26/22/2003, Luật HTX (sửa đổi) năm 2003 được Quốc hội thông qua và có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2004. Sau đây là một số nội dung cơ bản cụ thể: Thứ nhất: Luật định nghĩa: “ Hợp tác xã là tổ chức kinh tế tập thể do các cá nhân, hộ gia đình, pháp nhân có nhu cầu, lợi ích chung tự nguyện góp vốn, góp sức lập ra theo quy định của luật này để phát huy sức mạnh tập thể của từng xã viên tham gia hợp tác xã, cùng nhau thực hiện có hiệu quả các hoạt động sản xuất kinh doanh và nâng cao đời sống vật chất, tinh thần, góp phần phát triển kinh tế – xã hội của đất nước. Luật còn quy định rõ “Hợp tác xã hoạt động như một loại hình doanh nghiệp, có tư cách pháp nhân, tự chủ, tự chịu trách nhiệm”. Thứ hai: Về nguyên tắc tổ chức và hoạt động của HTX. Đổi mới và phát triển các HTX phải đảm bảo những nguyên tắc cơ bản sau: Mọi xã viên có thể tự nguyện gia nhập hoặc ra khỏi HTX: Quản lý dân chủ, bình đẳng và công khai và đều có quyền ngang nhau trong biểu quyết: tự chủ, tự chịu trách nhiệm và cùng có lợi; chia lãi đảm bảo lợi ích của mỗi xã viên và lợi ích của HTX; Hợp tác và phát triển cộng đồng. Thứ ba: Quan hệ sở hữu và phân phối trong HTX . Khi gia nhập HTX, xã viên phải góp vốn theo quy định của điều lệ HTX, mức vốn góp không vượt quá 30% vốn điều lệ của HTX. Tuỳ theo mức đóng góp của mỗi xã viên mà quy định mức độ trách nhiệm của xã viên đối với HTX. các nguồn khác thuộc sở hữu chung của HTX thì quyền sử dụng thuộc về HTX. Về phân phối: Sau khi thực hiện xong nghĩa vụ nộp thuế, lãi của HTX được phân phối như sau: Trả bù các khoản lỗ của năm trước, trích lập các quỹ, chia lãi cho xã viên theo vốn góp, công sức đóng góp của xã viên và phần còn lại theo mức độ sử dụng dịch vụ của HTX. Thứ tư: Về xã viên HTX. Xã viên HTX có thể là cá nhân, hộ gia đình, pháp nhân theo quy định của luật HTX. Trong đó, cán bộ công chức được tham gia HTX nhưng không được trực tiếp quản lý và điều hành HTX. Hộ gia đình, pháp nhân khi tham gia HTX phải cử người đại diện có đủ điều kiện như đối với cá nhân tham gia. Mỗi xã viên có thể là xã viên của nhiều HTX và đều bình đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ. Thứ năm: Quan hệ giữa HTX và xã viên. Xã viên là thành viên của HTX thì phải tuân thủ theo quy định trong điều lệ HTX để hoàn thành nghĩa vụ và hưởng các quyền từ HTX. HTX có vai trò giúp xã viên giải quyết những khó khăn trong phát triển kinh tế, hỗ trợ các dịch vụ cho xã viên: điện nước, phân bón … đảm cho các hoạt động sản xuất kinh doanh của xã viên diễn ra thuận lợi. Cam kết kinh tế giữa HTX và xã viên là những ràng buộc về kinh tế giữa HTX và xã viên thông qua các hợp đồng kinh tế. Thứ sáu: Điều kiện thành lập và hoạt động của HTX. HTX phải có điều lệ riêng cụ thể, rõ ràng, phù hợp với các quy định của Luật này và các quy định khác của pháp luật. Tổ chức hội nghị thành lập HTX có sự tham gia của các xã viên có nguyện vọng, có sự thống nhất về phương hướng, kế hoạch hoạt động của HTX và được các cơ quan hữu trách phê duyệt. HTX có quyền tham gia liên kết, liên doanh với các HTX khác trong và ngoài nước để mở rộng sản xuất kinh doanh theo quy định của pháp luật. Thứ bẩy: Chức năng quản lý nhà nước đối với HTX: Bao gồm các nôi dung sau: ban hành phổ biến và tổ chức thực hiện các văn bản pháp luật về HTX; xây dựng thực hiện chiến lược, kế hoạch phát triển HTX; xây dựng thực hiện chiến lược, kế hoạch phát triển HTX, tổ chức đăng ký kinh doanh đối với HTX, liên hiệp HTX; Tổ chức đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ. Thực hiện thanh tra, kiểm tra, giám sát việc thực hiện pháp luật của HTX… 4. Một số điểm khác biệt của luật HTX năm 2003 so với luật HTX năm 1996. Về cơ bản Luật HTX năm 2003 vẫn xoay quanh những nội dung mà luật HTX năm 1996 nêu ra. Luật HTX năm 1996 ra đời đã có sự tác động cả về chiều sâu lẫn chiều rộng của sự phát triển HTX, tuy nhiên trong mỗi giai đoạn phát triển cao hơn lại xuất hiện những nhận thức mới về điều kiện phát triển của HTX trên cơ sở đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của xã hội. Trước vấn đề đặt ra và những nội dung cụ thể của Luật HTX năm 1996, Luật HTX năm 2003 ra đời là kết quả của sự thể chế hoá những quan điểm mới, nhận thức mới vào trong đường lối phát triển của các HTX, hay nói cách khác luật HTX năm 2003 nhằm tạo ra các điều kiện thuận lợi hơn nữa để thúc đẩy hoạt động của các HTX nâng cao hiệu quả trong điều kiện kinh tế mới. Như vậy, sự ra đời của luật HTX năm 2003 là một tất yếu khách quan, phù hợp với đường lối đổi mới mà Đảng và Nhà nước ta nêu ra trong những năm trước. Dưới đây là một số nội dụng mới được bổ sung, sửa đổi trong luật HTX năm 2003 so với luật HTX năm 1996. * Mở rộng đối tượng tham gia HTX. Tại luật HTX năm 2003 đã quy định một cách cụ thể, rõ ràng đối tượng được tham gia phát triển HTX, không phải chỉ có cá nhân người lao động mới được tham gia như Luật năm 1996 mà quy định cụ thể hơn bên cạnh cá nhân người lao động còn có hộ gia đình và pháp nhân nếu có nguyện vọng gia nhập HTX. Luật HTX năm 1996 có sự hạn chế về đối tượng tham gia nguyên nhân là do những nhận thức cũ về mô hình hoạt động của tổ chức này vẫn còn tồn tại, từ đó làm hạn chế sự phát triển mở rộng của các HTX về các nguồn lực phát triển. Tuy nhiên những ý kiến thảo luận về đề nghị xem xét để mở rộng đối tượng kết nạp đã được đưa ra trong các cuộc dự thảo Luật năm 1996 và đến Luật HTX năm 2003. Quan điểm này đã được thể chế hoá và chính thức đưa vào nội dung của Luât. Như vậy hộ nông dân, các tổ chức kinh tế xã hội và các pháp nhân khác đều có thể gia nhập HTX nếu có nguyện vọng. Tuy nhiên mức độ gia của các đối tượng trên là khác nhau, đối với công chức được tham gia HTX theo điều lệ nhưng không được trực tiếp quản lý và điều hành HTX, còn hộ gia đình và pháp nhân khi tham gia phải cử người địa diện có đủ điều kiện như đối với cá nhân. Sử mở rộng đối tượng tham gia vào phát triển HTX nhằm huy động mọi nguồn lực vật chất sẵn có vào phục vụ phát triển kinh tế HTX ở nước ta. * Đã làm rõ bản chất pháp lý của HTX. Hình thức kinh tế hợp tác xã đã xuất hiện ở nước ta từ rất lâu. Mặc dù có sự quan tâm đặc biệt của Nhà nước những về mặt pháp lý của loại hình này trước các cơ quan quản lý nhà nước vẫn còn nhiều vướng mắc. Điều đó đã gây không ít khó khăn cho hoạt động của các HTX. Đặc biệt là trong vấn đề xin cấp vốn từ cấp trên và các tổ chức tín dụng bên ngoài, đã có rất nhiều có chế điều chỉnh các mối quan hệ trên nhưng kết quả hoạt động ở cơ sở vẫn còn nhiều hạn chế. Nguyên nhân do việc xác định địa vị pháp lý của các HTX còn chưa rõ ràng trước các cơ quan pháp luật gây ra sự phiền hà trong thủ tục hành chính đối với hoạt động của HTX có liên quan. Luật HTX năm 1966 có hiệu lực thi hành cao nhưng vấn đề đó vẫn tồn tại chưa được tháo gỡ đến luật HTX 2003 có một bước tiến hơn trong việc xác định một cách rõ ràng: ‘Hợp tác xã hoạt động như một loại hình doanh nghiệp, có tư cách pháp nhân, tự chủ, tự chịu trách nhiệm về các nghĩa vụ tài chính trong phạm vị vốn điều lệ, vốn tích luỹ và các nguôn vốn khác của HTX theo quy định của pháp luật”.Với nội dung trên luật HTX năm 2003 không khẳng định HTX là một loại hình doanh nghiệp mà chỉ khẳng định hoạt động như một loại hình doanh nghiệp. Với sự khẳng định trên đã tạo ra môi trường hoạt động của các HTX cũng chính là môi trường hoạt động của các doanh nghiệp khác, có quyền bình đẳng và được đối xử ngang nhau trong nền kinh tế quốc dân. * Đơn giản hoá quá trình thành lập. Do ảnh hưởng của chế độ cũ để lại nên vấn đề thủ tục hành chính vẫn còn rất nặng nề, bộ máy quản lý cồng kềnh, cứng nhắc nhiều phòng ban với nhiều loại giấy tờ không cần thiết gây ảnh hưởng đến quá trình đăng ký tham gia hoạt động sản xuất kinh doanh của các tổ chức. Luật HTX năm 1996 cũng đề cập dến những tình trạng trên vẫn chưa có hiệu quả do thực tế hoạt động nẩy sinh nhièu vấn đề mâu thuẫn. Luật HTX năm 2003 đã có một bước chuyển tiến bộ hơn trong quy định đối với việc thành lập của các HTX. Về thủ tục hồ sơ đăng ký kinh doanh đã được tinh giảm xuống chỉ bao gồm 4 loại giấy tờ: 1. Đơn đăng ký kinh doanh. 2. Điều lệ hợp tác xã; 3. Số lượng xã viên, danh sách Ban quản trị, Ban kiểm soát của HTX; 4. Biên bản đã thông qua tại Hội nghị thành lập HTX, so với 6 giấy tờ của Luật HTX năm 1996. Về cấp thẩm quyền cấp giấy phép đăng ký kinh doanh cho các HTX cũng có sự linh hoạt hơn so với Luật HTX năm 1996, Luật năm 1996 quy định cơ bản cấp giấy đăng ký kinh doanh là cấp quận huyện, tuỳ thuộc vào điều kiện cụ thể của HTX thì luật HTX năm 2003 đã mở rộng hơn. “ Hợp tác xã đăng ký kinh doanh tại cơ quan đăng ký kinh doanh cấp tỉnh hoặc cấp huyện nơi HTX dự định đặt trụ sở chính, tuỳ theo điều kiện cụ thể của HTX”. Sự đổi mới trên được thực hiện theo tinh thần cải cách thủ tục hành chính ở nước ta, đơn giản hoá mọi vấn đề trên cơ sở vẫn mang lại hiệu quả thiết thực nhằm khuyến khích và tạo điều kiện cho các HTX thành lập và phát triển. * Đã cụ thể hơn trong việc phân định tài sản của HTX. Tài sản của HTX bao gồm phần tài sản của các thành viên đóng góp và phần tài sản chung của HTX trong quá trình hoạt động tạo ra. So với luật năm 1996 thì luật HTX năm 2003 đã phân định một cách rõ ràng nguồn gốc của khối tài sản, đặc biệt là làm rõ khối tài sản chung bao gồm các công trình phục vụ sản xuất, công trình phúc lợi văn hoá, xã hội, kết cấu hạ tầng phục vụ chung cộng đồng dân cư được hình thành từ quỹ phát triển sản xuất, quỹ phúc lợi của HTX, các nguồn vốn do nhà nước trợ cấp, quà biếu tặng của các cá nhân trong và ngoài nứơc”. Bên cạnh đó cũng cụ thể trong việc xử lý tài sản và vốn của HTX khi giải thể. Ngoài việc không chia cho xã viên vốn và tài sản chung do Nhà nước trợ cấp mà chuyển giao cho chính quyền địa phương quản lý như Luật HTX năm 1996, Luật HTX năm 2003còn quy định đối với tài sản chung của HTX được hình thành từ các nguồn vốn và công sức của xã viên, quà biếu tặng của các tổ chức trong và ngoài nước thì do Đại hội xã viên quyết định. Nhờ có sự phân định rõ ràng như trên mà hiệu quả trong việc huy động quản lý sử dụng vốn của HTX được nâng lên, cũng qua đó đảm bảo được lợi ích của người xã viên và của HTX trong việc phân phối lãi kinh doanh, tạo ra sự gắn bó hơn giữa xã viên và HTX từ đó thúc đẩy sản xuất phát triển. * Đã phân điịnh rõ hơn chức năng nhiệm vụ trong bộ máy quản lý của HTX. Đã có sự đa dạng về mô hình quản lý, Luật HTX năm 2003 bên cạnh việc quy định duy trì một bộ máy vừa quản lý vừa điều hành HTX như luật HTX năm 1996 đã cho phép HTX thành lập riêng bộ máy quản lý và bộ máy điều hành, theo đó có những nội dung đổi mới quan trọng so với luật năm 1996: - Chuyển một số quyền hạn và nhiệm vụ giữa chủ nhiệm HTX và Ban quản trị cho nhau. - Quy định đại diện chủ sở hữu tài sản của HTX và doanh nghiệp trực thuộc trong trường hợp HTX có doanh nghiệp là Ban quản trị. Ngoài ra trong mô hình HTX thành lập riêng bộ máy quản lý và bộn máy điều hành thì ban quản trị có quyền trực tiếp bổ nhiệm, miễn nhiệm, thuê hoặc chấm dứt hợp đồng thuê chủ nhiệm HTX theo nghị quyết của đại hội xã viên. Đây là một điểm mới hoàn toàn trong luật HTX năm 2003. Như vậy với một số nội dung đổi mới trong bộ máy quản lý HTX đã tạo điều kiện hơn nữa cho các cơ quan quản lý nhà nước cấp trên có cơ chế chế tài phù hợp trong việc quản lý và điều hành các hoạt động của HTX. Việc tổ chức lại theo hướng tinh giảm , tránh tình trạng chồng chéo chức năng nhằm nâng cao hơn nữa hiệu quả hoạt động của các HTX. Ngoài những nội dung cơ bản nêu trên thì Luật HTX năm 2003 còn bổ sung một số nội dung mới quan trọng khác như hướng dẫn cụ thể về việc đóng bảo hiểm xã hội đối với xã viên HTX, sự xuất hiện của các doanh nghiệp trực thuộc HTX, quy đinhj cụ thể chức năng quản lý nhà nước đối với HTXNN... Nói tóm lại, Luật HTX sửa dổi năm 2003 với những nội dung đổi mới quan trọng càng tạo điều kiện hơn nữa cho sự phát triển của các HTX. Luật HTX năm 2003 ra đời là một tất yếu khách quan phù hợp với sự phát triển, minh chứng cho đường lối lãnh đạo đúng đắn của nhà nước ta đối với sự nhgiệp phát triển nông nghiệp nông thôn. Góp phần nâng cao tính khả thi của các văn bản luật đối với sự phát triển của các HTX. III. CÁC CHỈ TIÊU ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ ĐỔI MỚI VÀ PHÁT TRIỂN CÁC HỢP TÁC XÃ NÔNG NGHIỆP THEO LUẬT HỢP TÁC XÃ NĂM 2003 Mỗi sự thay đổi, điều chỉnh đều không nằm ngoài mục đích nhằm nâng cao hơn nữa hiệu quả hoạt động của các HTX trên cơ sở những cái đã đạt được, đó cũng chính là mục đích mà các HTX NN đặt ra khi tiến hành tổ chức các hoạt động sản xuất kinh doanh. Dưới đây là một số chỉ tiêu phản ánh kết quả và hiệu quả hoạt động của các HTX NN khi có sự đổi mới theo Luật HTX năm 2003. 1. Chỉ tiêu về kết quả đổi mới và phát triển Các chỉ tiêu này bao gồm: * Các mô hình HTX mới Chỉ tiêu này phản ánh sự phát triển về mặt quy mô của các HTX NN, và sự đổi mới về nội dung và mục đích kinh doanh của các HTX NN trên cơ sở khuyến khích xây dựng các HTX NN mới như HTX nông nghiệp đa ngành, chuyên ngành, liên xã ... nhằm nâng cao vai trò và chức năng của các HTXNN trong việc hỗ trợ kinh tế hộ và nông trại dựa vào điều kiện tự nhiên kinh tế xã hội và thực trạng phát triển nơi mà HTX hoạt động nhằm khai thác và phát huy thế mạnh của vùng như HTX tín dụng nội bộ, HTX dịch vụ mang tính thương mại ... * Mức độ đáp ứng các dịch vụ cho HTX: Mức độ đáp ứng các dịch vụ cho HTX phụ thuộc vào tổ chức và trình độ phát triển của các HTX NN và phụ thuộc vào nhu cầu ngày càng cao mà HTX đặt ra. Nó được thực hiện trên các mặt số lượng, chất lượng, giá cả và thời gian cung cấp các dịch vụ với số lượng bao nhiêu, chất lượng ra làm sao, giá đã phù hợp hay chưa và thời gian cung cấp các dịch vụ nhanh hay chậm, lúc chính vụ hay trái vụ... + Số lượng các loại dịch vụ mà các HTX cung cấp cho các hộ xã viên tuỳ thuộc vào nhu cầu của hộ xã viên và khả năng của các HTX, số lượng các dịch vụ càng nhiều càng phản ánh quy mô hoạt động của các HTX càng lớn và sự hoạt động đa dạng của các loại hình kinh doanh dịch vụ ở địa phương. Các loại dịch vụ chính phục vụ trực tiếp sản xuất NN mà các HTX tiến hành kinh doanh như dịch vụ điện, dịch vụ nước, … ngoài ra là các dịch vụ thoả thuận như dịch vụ cung ứng giống, phân bón, dịch vụ BVTV…. Chỉ tiêu này biểu hiện khả năng đáp ứng nhu cầu về các dịch vụ cho hộ xã viên đã đày đủ kịp thời hay chưa. + Chất lượng và giá cả các loại dịch vụ: Cho biết các HTX hoạt động kinh doanh dịch vụ có tiết kiệm được chi phí để kinh doanh có lãi hay không, và chất lượng dịch vụ có đảm bảo hay không. Giá của các loại dịch vụ biến động theo chất lượng cảu các laọi dịch vụ đó và sự hoạt động của cơ chế thị trường. + Thời gian cung cấp dịch vụ: phụ thuộc vào đặc điểm của hoạt động sản xuất NN, vì sản xuất NN mang tính thời vụ cao cho nên yếu tố thời gian cung cấp các dịch vụ rất quan trọng. Việc đáp ứng kịp thời các dịch vụ sản xuất NN sẽ đảm bảo cho các hoạt động sản xuất diễn ra bình thường và ổn định, từ đó góp phần nâng cao giá trị sản xuất NN, cải thiện đời sống cho nhân dân, sản phẩm làm ra sẽ có giá trị kinh tế cao đảm bảo về chất lượng và số lượng, tăng khả năng cạnh tranh trên thị trường nông sản. Các HTX tiến hành các hoạt động dịch vụ trước hết là vì lợi ích của người sản xuất NN, bên cạnh đó là các mục tiêu xã hội. *Doanh thu dịch vụ: là chỉ tiêu phán ánh quy mô hoạt động của các HTX hay nói cách khác đó là tổng giá trị sản xuất của HTX. Quy mô hoạt động của các HTX đủ lớn sẽ giúp các HTX tiêt kiệm chi phí và mang lại lợi nhuận cao cho cả hộ xã viên và HTX. * Mức lãi lỗ từng dịch vụ: đây là doanh thu thuần của các HTX sau khi đã trừ đi các khoản chi phí theo quy định của pháp luật. Nó phản ánh doanh nhgiệp hoạt dộng có hiệu quả nếu có lãi và ngược lại. Cũng dựa vào đó mà các HTX có thể xác lập được tỷ lệ thích hợp trong khoản đó thành lập các quỹ để duy trì hoạt động của HTX. 2. Chỉ tiêu về hiệu quả đổi mới và phát triển Các chỉ tiêu này bao gồm: + Mức lãi từng dịch vụ: đây là khoản mà người sản xuất thu được sau khi đã trừ đi tất cả các chi phí vật chất và chi phi lao động của từng dịch vụ. chỉ tiêu này phản ánh khả năng nà năng lực điều hành của HTX đối với từng loại dịch vụ là có hiệu qủa hay không.  + Phân phối lãi của HTX: chỉ tiêu này phản ánh mức độ đảm bảo lợi ích của HTX đối với các hộ xã viên và của chính HTX. Việc phân phối lãi được thực hiện theo điều lệ của HTX được quy định trong Luật HTX năm 2003 như sau: + Bù lỗ năm trước + Trích lập các quỹ: quỹ phát triển sản xuất, quỹ dự phòng + Chia lãi cho xã viên theo mức vốn góp, công sức của xã viên + Chia lãi cho xã viên theo múc độ sử dụng dịch vụ của HTX Những chỉ tiêu trên phán ánh mục tiêu kinh tế của các HTX trong hoạt động kinh doanh, tuy nhiên trong quá trình hoạt động cũng như các loại hình kinh tế khác bên cạnh các mục tiêu kinh tế còn bao gồm các mục tiêu xã hội và mục tiêu kinh tế là cơ sở để thực hiện các mục tiêu xã hội. VI. KINH NGHIỆM VỀ ĐỔI MỚI VÀ PHÁT TRIỂN HỢP TÁC XÃ NÔNG NGHIỆP Ở TRONG VÀ NGOÀI NƯỚC Thực hiện đường lối mở cửa nền kinh tế nhằm mục đích học hỏi kinh nghiệm, tiếp thu những thành tựu phát triển của các nước trên thế giới để phục vụ vào sự nghiệp phát triển của nước nhà. Sản xuất nông nghiệp tồn tại ở rất nhiều nước trên thế giới, tuy nhiên ở mỗi nước, mỗi điều kiện phát triển, mỗi trình độ khác nhau lại có những hình thức tổ chức khác nhau, nhưng nội dung và mục đích hoạt động đều dựa trên nền tảng mà liên minh HTX quốc tế nêu ra. Dưới đây là một vài kinh nghiệm về phát triển kinh tế HTX . 1. Các HTX NN ở Trung Quốc Cũng giống như nước ta, vấn đề phát triển HTX NN được nhà nước quam tâm sâu sắc, các HTX NN ở Trung Quốc đã trải qua những giai đoạn phát triển với những mô hình và hinh thức đa dạng khác nhau,nhưng cũng theo những định hướng đổi mới sau: + Phát triển kinh tế HTX trên cở sở đó hỗ trợ có hiệu quả cho hoạt động kinh tế của hộ gia đình. áp dụng chế độ khoán kinh doanh gia đình, phát triển các tổ chức kinh tế tự chủ của nông hộ. + Hộ gia đình có quyền sở hữu tài sản tương đối độc lập, nền kinh tế hàng hoá ở nông thôn với mục tiêu thu lợi nhuận phân phối nguồn lực theo cơ chế thị trường. + Xác lập địa vị của người nông dân trong HTX NN: họ là những người chủ lợi ích, người chủ sở hữu của HTX và quyêt định hoạt động của nó Các hình thức tổ chức HTX NN ở nông thôn Trung Quốc: tổ chức HTX liên khu, tổ chức HTX cung tiêu, và tổ chức HTX tín dụng. 2. Kinh nghiệm phát triển HTX NN Nhật Bản HTX NN của Nhật Bản tổ chức các loại hình kinh doanh dịch vụ đa dạng và là một trong những mô hình HTX NN phát triển nhất trên thế giới. Nguyên nhân là có sự quam tâm của chính phủ đối với sự phát triển của hình thức kinh tế này. Các HTX NN Nhật Bản có các đặc điểm tổ chức sau: * HTX NN Nhật Bản là một tổ chức tự chủ, dựa trên nguyên tắc tự nguyện gia nhập và ra HTX. * Hoạt động với 2 hình thức chính: + Hình thức HTX NN đa chức năng về mặt tổ chức( số lượng xã viên) và hoạt động kinh doanh. Các hình thức này tiến hành các hoạt động tín dụng cho vay và nhận tiền gửi tiêt kiệm. + Hình thức HTX NN đơn chức năng tổ chức tiêu thụ một số mặt hàng nông sản nhất định * Cơ cấu quản lý kinh tế của HTX NN chia thành 2 loại: + Phân chia các đơn vị nghiệp vụ theo các chức năng riêng biệt như mua, bán, tín dụng, bảo hiểm cộng đồng... + Phân chia theo mặt hàng nông sản do xã viên sản xuất như rau quả, sản phẩm chăn nuôi... 3. Kinh nghiệm phát triển HTX dịch vụ nông nghiệp Phù Nham( Tây Bắc) Là một trong những HTX điển hình về phong trào đổi mới và phát triển HTX NN theo luật HTX, không những thế trong những năm phát triển trước sự phát triển của HTX cũng thu được những thành tựu đáng kể, dưới đây là một vài kinh nghiệm phát triển của bản thân HTX. * Coi trọng thực hiện nhiệm vụ chính của HTX là phục vụ sản xuất nông nghiệp trên địa bàn, tạo điều kiện để các hộ gia đình nông dân áp dụng khoa học kỹ thuật trong nông nghiệp, góp phần đẩy mạnh lưu thông hàng hoá. * Dựa vào điều kiện cụ thể của địa phương, xây dựng điểm bán hàng với phương châm trao đổi hàng hoá với hộ nông dân, chuyển giao khoa học kỹ thuật tới tận vùng sâu vùng xa, thực hiện tốt các khâu dịch vụ kinh doanh. * Lấy hiệu quả kinh tế làm thước đo và nâng cao vai trò của nó. Tổ chức sắp xếp lao động đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ hoạt động kinh doanh, đào tạo sử dụng cán bộ đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ của từng thời kỳ. Trên đây là một số những kinh nghiệm về phát triển các HTX NN trong và ngoài nước, nó là một tiền đè quan trọng để đảng và nhà nước ta có những chính sách để phát triển kinh tế HTX phù hợp với các quy luật khách quan. Dựa vào những mô hình HTX trên ta có thể rút ra một vài nhận xét về kinh nghiệm phát triển HTX: - Xây dựng mô hình HTX trên cơ sở là sự tự nguyện của mỗi hộ xã viên - Phát triển kinh tế hợp tác nhằm trước hêt phục vụ cho lợi ích của kinh tế gia đình và kinh tế trang trại. - Phát triển đa dạng các hình thức kinh doanh dịch vụ của HTX nhằm phục vụ cho nhu cầu phát triển của kinh tế hộ xã viên. CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG ĐỔI MỚI VÀ PHÁT TRIỂN HỢP TÁC XÃ NÔNG NGHIỆP THEO LUẬT HỢP TÁC XÃ NĂM 2003 Ở HUYỆN NAM TRỰC TỈNH NAM ĐỊNH I. CÁC ĐẶC ĐIỂM ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN KINH TẾ XÃ HỘI ẢNH HƯỞNG ĐẾN QUÁ TRÌNH ĐỔI MỚI VÀ PHÁT TRIỂN HTX NN Ở HUYỆN NAM TRỰC 1. Đặc điểm điều kiện tự nhiên. 1.1. Điều kiện tự nhiên. + Vị trí địa lý: Huyện Nam Trực là một phần của châu thổ Sông Hồng - vựa lúa lớn thứ hai của cả nước, phía bắc tiếp giáp với thành phố Nam Định là trung tâm văn hoá kinh tế, chính trị, đây là một lợi thế rất lớn để tiến hành các hoạt động giao lưu văn hoá kinh tế của huyện. Phía Đông tiếp giáp với tỉnh Thái Bình. Phía Tây tiếp giáp với huyện Vụ Bản. Phía Nam tiếp giáp với huyện Trực Ninh và Nghĩa Hưng. + Địa hình: Là vùng đồng bằng tương đối bằng phẳng, thuận lợi cho việc canh tác sản xuất nông nghiệp của người dân với một cơ cấu giống cây trồng vật nuôi phù hợp, đồng nhất. Bên cạnh sản xuất lúa nước là các loại cây rau mầu, cây công nghiệp ngắn ngày, chăn nuôi gia cầm, gia súc, … + Khí hậu: Mang những nét đặc trưng của vùng nhiệt đới ẩm gió mùa. Khí hậu phân thành hai mùa mưa và mùa khô hanh, cho phép phát triển một cơ cấu cây trồng vật nuôi đa dạng mang đặc trưng của hai mùa. Nhiệt độ trung bình hàng năm 27 – 300C, độ ẩm trung bình trên 75%, lượng mưa xấp xỉ hàng năm vào khoảng 1580mm -2000 mm. + Thuỷ văn: Huyện có các con sông lớn chảy qua như sông Đào, sông Hồng và hệ thống sông nhỏ, ao hồ trong nội bàn huyện vì vậy hàng năm đã cung cấp đủ lượng nước phục vụ đời sống và sản xuất của người dân, tạo thế chủ động cho việc canh tác khi mùa vụ tới. 1.2: Nguồn tài nguyên thiên nhiên +Tài nguyên đất: là nguồn tài nguyên quý giá, là cơ sở để bố trí các hoạt động sản xuất nông nghiệp và phi nông nghiệp. Huyện có diện tích tự nhiên 16.194 ha, với tổng diện tích đất nông nghiệp 11.818 ha trong đó cây hàng năm là 10656 ha, diện tích cấy lúa cả năm khoảng 17000 ha, bình quân diện tích canh tác 500m2/ khẩu. Hàng năm, diện tích đất được bồi đắp bởi các con sông tạo thuận lợi để phát triển các cây rau màu, tuy vậy nó chỉ chiếm một lượng nhỏ bên cạnh diện tích đất phù sa không được bồi đắp hàng năm, đây là đất trồng lúa chính của huyện và chiếm một diện tích lớn. Chất lượng của đất phù hợp với nhiều loại cấy trồng có giá trị kinh tế cao phù hợp với nhu cầu của thị trường. +Tài nguyên nước: Trữ lượng nước dồi dào được cung cấp bởi hệ thống sông hồ trong huyện và nguồn nước mưa hàng năm. Tiềm năng to lớn này đã và đang được khai thác vào phục vụ đời sống sinh hoạt của người dân đặc biệt là sản xuất nông nghiệp. Hệ thống các công trình chứa nước hàng năm được tu bổ nạo vét thường xuyên tạo cho các dòng chảy được lưu thông dễ dàng, phục vụ kịp thời nhu cầu của người dân. + Tài nguyên khoáng sản: ._.quan + Về nhận thức chưa thấy hết được tính tất yếu của kinh tế tập thể trong nền kinh tế quốc dân nên chưa tạo điều kiện cho HTX đơi mới phát triển theo luật HTX + Chính sách cán bộ: chức năng nhiệm vụ cán bộ HTX rất nặng nề nhưng tiền lương thấp, mặc dù đã có chế độ bảo hiểm nhưng hoạt động chưa có hiệu quả cao, chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ HTX chưa được quan tâm đúng mức. Tất cả những yếu tố đó làm người cán bộ chưa yên tâm, gắn bó với HTX. CHƯƠNG III: MỘT SỐ GIẢI PHÁP TIẾP TỤC ĐỔI MỚI VÀ PHÁT TRIỂN CÁC HTX NN THEO LUẬT HTX NĂM 2003 Ở HUYỆN NAM TRỰC I. MỘT SỐ QUAN ĐIỂM CẦN QUÁN TRIỆT TRONG QUÁ TRÌNH ĐỔI MỚI VÀ PHÁT TRIỂN CÁC HTX NN THEO LUẬT HTX NĂM 2003 1. Phải từng bước đổi mới HTX theo đúng luật HTX, xây dựng HTX thành tổ chức kinh tế phát triển bền vững có năng lực sản xuất kinh doanh đa dạng, hỗ trợ có hiệu quả kinh tế hộ xã viên, đảm bảo lợi ích của người lao động, kết hợp hài hoà lợi ích HTX và lợi ích xã hội. 2. Khuyến khích xây dựng HTX kiểu mới: HTX cổ phần hoạt động đa ngành, chuyên ngành, HTX liên xã và đa thành phần kinh tế. 3. Nâng cao hiệu quả của các HTX NN trong các dịch vụ hỗ trợ kinh tế hộ xã viên. 4. Nâng cao năng lực sản xuất kinh doanh của HTX có khả năng tự tích luỹ đến hết nhiệm kỳ 2006-2009 vốn lưu động hoạt động của HTX tối thiểu phải đạt từ 50 triệu đồng trở lên. 5. Quá trình đổi mới và phát triển HTX theo luật trong lĩnh vực nông nghiệp nông thôn phải đặt ra trong mối quan hệ mật thiết với quá trình đào tạo và nâng cao trình độ cán bộ HTX và lao động nông thôn, coi trọng vai trò tác động của khoa học công nghệ đối với sự phát triển sản xuất nông nghiệp. 6. Phát triển các mối liên kết, hợp tác theo vùng, địa phương, quan hệ với các nước trong khu vực và quốc tế thông qua hệ thông tổ chức Liên minh HTX Việt Nam và tổ chức kiên minh HTX quốc tế nhằm nâng cao nhân thức về kinh tế hợp tác, học hỏi kinh nghiệm, tăng cường quan hệ hỗ trợ giúp đỡ, tạo điều kiện phát triển kinh tế hợp tác và bảo vệ quyền lợi của người lao động. 7. Nâng cao vai trò, hiệu quả sự giúp đỡ của nhà nước đối với vấn đề đổi mới và phát triển các HTX theo luật, đảm bảo tính thiết thực, hiệu quả, tôn trọng nguyện vọng của nông dân. Bên cạnh đó xây dựng mối quan hệ chặt chẽ giữa kinh tế hợp tác và kinh tế nhà nước. 8.Trong vấn đề quản lý cần: - Đổi mới vấn đề về xã viên theo luật HTX năm 2003 để phát huy ý thức tham gia xây dựng HTX của xã viên. - Đổi mới về sở hữu tài sản của HTX: chuyển hoạt động của HTX sang thực hiện hoạch toán kinh doanh để vừa phục vụ xã viên vừa phát triển kinh tế hợp tác. II. MỘT SỐ GIẢI PÁP CHỦ YẾU NHẰM TIẾP TỤC ĐỔI MỚI VÀ PHÁT TRIỂN CÁC HTX NN THEO LUẬT HTX NĂM 2003 Ở HUYỆN NAM TRỰC Trong điều kiện nền kinh tế thị trường có sự cạnh tranh cao thì đòi hỏi kinh tế HTX phát triển phải có hiệu quả để hỗ trợ cho kinh tế hộ nông dân và các nông trại nhằm tăng cường khả năng cạnh tranh của các loại hình kinh tế này trên thị trường. Tuy đã xác định rõ phương hướng phát triển song nhiều HTX trong huyện vẫn còn gặp phải nhiều lúng túng trong công việc quản lý và điều hành các hoạt động sản xuất kinh doanh. Vì vậy vấn đề đặt ra đối với sự phát triển của nền nông nghiệp huyên là phải làm gì và làm như thế nào để thúc đẩy kinh tế HTX phát triển trên cơ sở đường lối mà đảng và nhà nước đã ban hành nhằm phát huy hơn nữa vai trò hỗ trợ các hộ xã viên trong HTX. Để giải quyết được vấn đề đó thì ban lãnh đạo huyện và các phòng ban chuyên môn giải quyết đồng bộ một số giải pháp sau: 1. Giải pháp về đường lối chính sách của đảng và nhà nước 1.1 Đẩy mạnh công tác tuyên truyền phổ biến luật HTX Từ thực tiễn cho thấy một chủ trương chính sách của đảng đề ra muốn thực hiện thành công, đem lại hiệu quả phải làm cho cán bộ, đảng viên và quần chúng thông suốt và có nhận thức rõ ràng đúng đắn, trên cơ sở đó phải được trang bị đầy đủ kiến thức đối với vấn đề đặt ra và cuối cùng là phải có các biện pháp tổ chức thực hiện cụ thể. Điều đó có nghĩa là phải không ngừng nâng cao nhận thức về kinh tế hợp tác và HTX thông qua công tác tuyên truyền, phổ biến luật HTX, các chủ trương chính sách của đảng, các văn bản dưới luật hướng dẫn thi hành. Để phát huy tác dụng to lớn của công tác này huyện nhà đã phối hợp nhiều hình thức tuyên truyền thông qua các phương tiện thông tin đại chúng đến từng loại đối tượng, từng địa phương. Mục đích là để người dân nắm bắt được sự cần thiết khách quan phải đổi mới và phát triển các HTX trong nền nông nghiệp hàng hoá, mối quan hệ biện chứng giữa trình độ phát triển sản xuất hàng hoá trong nông nghiệp với quá trình hình thành và phát triển HTX trong NN. Nhận thức đúng đắn vị trí vai trò tác dụng của HTXNN trong quá trình CNH _ HĐH nông nghiệp nông thôn . Từ thay đổi nhận thức về HTX NN, cần sớm khắc phục những mặc cảm, định kiến với mô hình HTX NN kiểu cũ và đổi mới cơ chế chính sách, chỉ đạo thực tiễn phát triển HTX NN trong mối liên hệ hợp tác với các thành phần kinh tế và các loại hình tổ chức sản xuất khác trong nông nghiệp nhằm nâng cao hiêuh quả kinh tế xã hội. Bên cạnh đó các cơ quan chuyên môn cũng cần phải coi trọng công tác tổng kết kinh nghiệm thực tiễn, từ đó tuyên truyền những mô hình HTX điển hình làm ăn giỏi có hiệu quả để nhân rộng mô hình tạo ra sự phát triển đồng đều đa dạng trong địa phương. Trên cơ sở thông qua theo dõi, tổng kết tình hình phát triển các HTX để kiến nghị với cơ quan cấp trên từ đó kịp thời có những điều chỉnh phù hợp nhăm nâng cao hơn nữa hiệu quả của các HTX trong thời gian tới. 1.2 Xác lập môi trường thể chế thuận lợi tạo điều kiện cho kinh tế hợp tác và HTX phát triển. Thể chế ở đây là nhẵng văn bản chhính sách pháp luật của các cơ quan nhà nước có tính hiệu lực cao đối với sự phát triển của ngành, đóng vai trò là hành lang pháp lý dựa vào đó mà xác định được phương hướng và những kế hoạch cụ thể để tiến hành xây dựng và đổi mới các HTX NN nhằm mang lại hiệu qủa kinh tế cao. Với những cơ chế chính sách thông thoáng phù hợp với các đặc điểm của sự phát triển trên cơ sở nhận thức đúng đắn các quy luật kinh tế khách quan sẽ tạo điều kiện thức đẩy sự phát triển và ngược lại. Muốn vậy nhà nước cần ban hành những chính sách ở cả tầm vi mô và vĩ mô để tác động đến các điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của các HTX như: chính sách đất đai. chính sách tín dụng. chính sách thị trường, chế độ đối với cán bộ HTX ... cùng với nó là các chế tài tạo thuận lợi cho việc điều chỉnh, kiểm tra giám sát việc thi hành các văn bản đó. 2. Giải pháp đối với nội bộ HTX Yêu cầu đổi mới và phát triển các HTX NN là một tất yếu khách quan thể hiện sự phù hợp của quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Quy luật phát triển đó được đảng ta vận dụng và quán triệt thể hiện là các chính sách kinh tế vi mô và vĩ mô có tác động dến sự phát triển của các HTX . Tuy nhiên để quá trình đổi mới đó thực sự có hiệu quả thì một mặt các HTX cụ thể hóa các văn bản luật cho phù hợp với điều kiện phát triển của mình, mặt khác cũng phải từng bước giải quyết những tồn tại ngay trong nội bộ HTX. Thực trạng từ các HTX cho thấy những vấn đề về xã viên HTX, sở hữu tài sản HTX, nguồn vốn công quỹ của HTX, cán bộ HTX... đã có những chính sách điều chỉnh nhưng vẫn còn nhiều hạn chế, và chưa phát huy hiệu quả thiết thực. Để phát huy sức mạnh nội lực tạo điều kiện phát triển toàn diện HTX thì đỏi hỏi các HTX NN cần phải thực hiện đồng bộ những giải pháp sau đây: 2.1 Giải pháp về tài chính Xử lý triệt để nợ tồn đọng trong HTX bao gồm các khoản phải thu, xã viên đọng sản phẩm và các khoản phải trả của HTX. Đây là nguồn vốn của HTX do xã viên còn nợ do đó cần phải xác minh đối chiếu, phân loại nợ, đối tượng nợ đưa ra đại hội xã viên bàn bạc, quyết định những loại nợ phải trả ngay loại nợ trả dần, loại nợ miễn giảm. Các hồ sơ về các khoản nợ phải thu phải trả cần được hoàn thiện rõ ràng theo hướng dẫn của Sở NN & PTNT, có biện pháp thu nợ đối với các đối tượng có khả năng thanh toán. Đối với các khoản HTX nợ nhà nước và các tổ chức cá nhân khác thì tiến hành đối chiếu, xác minh và có biện pháp giải quyết. Đề nghị nhà nước có nhứng chính sách cụ thể đối với các loại nợ lâu ngày của các HTX khi giải thể. Tổ chức cho xã viên góp vốn kinh doanh với HTX nhằm làm tăng thêm tính độc lập của HTX về mặt tài chính trên cơ sở khai thác nguồn lực sẵn có để phục vụ mục tiêu phát triển của các HTX. 2.2 Về xã viên HTX Xác định tư cách xã viên khi tham gia HTX với 2 nội dung chính đó là tính tự nguyện và góp vốn theo điều lệ của HTX. Chuyển sang mô hình HTX kiêu mới trên cơ sở sự tham gia tự nguyện của các tổ chức cá nhân, pháp nhân và hộ gia đình theo quy định của pháp luật để đem lại hiệu quả thiết thực. Phải tôn trọng quyền bình đẳng của xã viên, coi họ thực sự là những người chủ bình đẳng trong HTX, là những người đồng tham gia giải quyết những vấn đề chung và được hưởng lợi như nhau. Phải không ngừng nâng cao nhận thức của các xã về các quyền và lợi ích mà họ được hưởng, phá vỡ tâm lý sản xuất khép kín do chế độ cũ để lại để họ nhiệt tình hơn trong vấn đề tham gia phát triển HTX. 2.3 Sở hữu tài sản và vốn quỹ HTX Khi tham gia vào HTX xã viên phải gốp vốn theo điều lệ, như vậy trong HTX vừa có vốn của các xã viên vừa có phần vốn chung mà trong quá trình hoạt động tạo ra. Vì vậy cần phải phân định rõ nguồn vốn để thuận lợi cho quá trình quản lý và sử dụng trong quá trình hoạt động cũng như khi HTX giải thể và dựa vào đó đảm bảo lợi ích cho xã viên và HTX trong việc phân định các kết quả sản xuất kinh doanh. 3. Giải pháp về cơ chế chính sách của của đảng và nhà nước Đây là những chính sách ở tầm vĩ mô của đảng và nhà nước để tác động và tạo các điều kiện thúc đẩy sự phát triển của các HTX trên cơ sở phát huy vai trò tự chủ của kinh tế hộ và các nông trại trong huyện. Cụ thể: 3.1 Chính sách xoá nợ đối với HTX Đã có rất nhiều nghị định về chính sách xoá nợ đối với các HTX như: hỗ trợ tài chính phục vụ cho công tác chuyển đổi HTX, các chế độ miễn giảm... song vẫn còn nhiều bất cập vì vậy cần: + Cần có các chính sách bổ sung cho phép xoá các khoản nợ đọng quá lâu của các HTX yếu kém bao gốm cả nợ ngân hàng, nợ thuế, nợ các doanh nghiệp nhà nước... trên cơ sở phân loại, xem xét cụ thể từng đối tượng từ đó có những chính sách phù hợp. + Các khoản nợ phải được làm rõ trước đại hội xã viên và Uỷ ban nhân dân huyện thẩm định. + Đồng thời với việc nhà nước xoá nợ cho HTX, các HTX cần xem xét xoá nợ cho hộ xã viên đối với các khoản nợ liên quan đến khoản nợ mà nhà nước miễn giảm cho các HTX. 3.2 Chính sách về ruộng đất Ruộng đất là tư liệu sản xuất chính chủ yếu trong sản xuất nông nghiệp. Mặc dù Luật đất đai năm 1993 đã tạo điều kiện thuận lợi cho các đối tượng sử dụng đất, nhưng trong qua trình thực hiện đã nảy sinh ra nhiều vấn đề cần có giải pháp giải quyết kịp thời. Thực hiện đường lối CNH_HĐH nông nghiệp nông thôn trên cơ sở thúc đẩy quá trình chuyên môn hoá, hiệp tác hoá trong sản xuất thì đòi hỏi có quy mô ruộng đất và các điều kiện sản xuất khác tương đối lớn để có thể áp dụng các công nghệ sản xuất tiên tiến đem lại hiệu quả cao cho sản xuất nông nghiệp. Mục đích là tạo ra khối lượng sản phẩm lớn chất lượng cao và đồng đều, để có thể làm được điều đó thì cần: + Địa phương cần có cơ chế kiểm tra giám sát các cơ sở về tình hình thực hiện chính sách giao đất đến từng hộ nông dân, cần thể chế hoá các quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật nhằm thúc đẩy các hộ và nông trại sản xuất hàng hoá. + Có chính sách miễn giảm tiền thuê đất đối với các HTX NN đã được cấp giấy phép kinh doanh. + Ban hành các cơ chế khuyến khích người lao động sử dụng có hiệu quả tiêt kiệm đất đai, và có các biện pháp cải tạo đất nhằm nâng cao độ phì nhiêu phục vụ sản xuất. 3.3 Chính sách tài chính tín dụng Để tiến hành các hoạt động sản xuất kinh doanh đòi hỏi các HTX phải có vốn, đối với các HTX nguồn vốn bao gồm: vốn góp của xã viên và nguồn vốn chung của HTX, tuy nhiên do nguồn vốn nay còn nhỏ so với yêu cầu phát triển nên trong quá trình hoạt động các HTX luôn luôn tận dụng để huy động các nguồn vốn từ bên ngoài, đặc biệt là từ các tổ chức tín dụng của nhà nước. Mặc dù có nhiều chính sách ưu tiên về vốn cho các hộ xã viên và một hệ thống các các tổ chức có liên quan đến cấp tín dụng cho người sản xuất như Ngân hàng thưong mại, Ngân hàng chính sách, Ngân hàng nông nghiệp... nhưng để họ tiếp cận được với nguồn vốn lại là một quá trình, nguyên nhân là do tính pháp lý của họ trước các cơ quan pháp luật chưa cao, vốn thế chấp của họ không đáp ứng được yêu cầu của bên cho vay nên họ vẫn rơi vào tình trạng thiếu vốn sản xuất. Để giải quyết được điều đó cần phải có những cơ chế chính sách phù hợp tạo điều kiện thuận lợi cho HTX và các hộ xã viên vay vốn. Cụ thể: + Đối với những HTX có số vốn góp không lớn (<50 triêu đồng), nếu HTX có dự án phát triển sản xuất kinh doanh khả thi, được UBND xã giám định thì có thể được vay số tiền tương đương số vốn của HTX mà không cần thế chấp. + Đồng thời, cần coi trọng việc củng cố và phát triển HTX, quỹ tín dụng nông thôn theo tinh thần chỉ thị của Bộ chính trị ngày 13-10-2000. Tăng cường hình thức tín chấp thông qua các đoàn thể quần chúng và chính quyền cấp xã để các hộ có khó khăn vay vốn sản xuất. Cho phép HTX huy động và cho vay nội bộ.Tăng cường kiểm tra giám sát, chấm dứt tình trạng cho vay nặng lãi ở nông thôn. + Nhà nước cần giành một tỷ lệ thích đáng ngân sách Nhá nước đầu tư cho kinh tế hợp tác xã như: đầu tư cho cán bộ HTX, kết cấu hạ tầng, áp dụng các tiến bộ khoa học công nghệ... 3.3 Chính sách khuyến nông khoa học công nghệ Cơ giới hoá nền nông nghiếp đó là việc áp dụng các thành tựu khoa học công nghệ vào trong sản xuất như các loại cầy bừu, máy kéo máy gặt, máy tuôt lúa, các loại giống mới với năng suất chất lượng cao... Việc sử dụng các loại may thay thế lao đông thủ công là cơ sở để nâng cao năng suất lao động, giảm hao phí lao động sống trong giá trị của sản phẩm từ đó tiết kiệm được chi phí sản xuất, nâng cao khả năng cạnh tranh trên thị trường thu được lợi nhuận cao. Lao động nông nghiệp được giải phóng sẽ tạo ra sự dịch chuyển về lao động giữa các ngành trong nền kinh tế từ đó thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo định hướng của nhà nước ta. Nhận thức được tầm quan trọng đó Ban lãnh đạo huyên đã từng bước cụ thể hoá đường lối của đảng như Chỉ thị của BCT số 63CT-TC/TƯvề đẩy mạnh nghiên cứu ứng dụng khoa học và cộng nghệ phục vụ CNH_HĐH nông thôn nhằm tạo nên những bước đột phá về cả số lượng, chất lượng sản phẩm nông sản tăng khả năng cạnh tranh trên thị trường. Các giải pháp cần thực hiện là: + Tăng cường nghiên cứu, áp dụng các thành tựu mới nhất của khoa học công nghệ và nâng cao dân trí, đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực tại chỗ, cung cấp kịp thời các tri thức skhoa học và công nghệ hiện đại vào trong các quy trình của sản xuất trong lĩnh vực nông nghiệp. + Thực hiện chính sách ưu đãi về thuế, mức lãi suất tín dụng đối với các nguồn thu do ứng dụng khoa học công nghệ , giảm lãi suất tín dụng đối với nguồn vay đầu tư cho việc ứng dụng khoa học công nghệ. Miễn giảm thuế cho các hoạt động ứng dụng khoa học công nghệ. +Đối với các chủ thể sản xuất và chế biến tiêu thụ nông sản được hỗ trợ kinh phí, hoặc trợ giá một phần cho việc đầu tư ứng dụng tiến bộ khoa học công nghệ vào trong sản xuất. + Miễn giảm một phần hoặc toàn bộ chi phí đào tạo, bồi dưỡng huấn luyện cán bộ làm nhiệm vụ nghiên cứu khoa học. Tăng cường đào tạo đội ngũ cán bộ HTX, cán bộ quản lý cấp xã về kiến thức khoa học công nghệ để triển khai có hiệu quả các chương trình dự án về ứng dụng tiến bộ khoa học công nghệ ở nông thôn + Tăng cường đầu tư kinh phí cho các hoạt động nghiên cứa khoa học công nghệ phục vụ nông nghiệp từ khâu giống đến phương pháp canh tác, sản xuất và sử dụng phân bón thuốc trừ sâu phù hợp với yêu cầu phát triển trên cơ sở phát huy các lợi thế ở nước ta. 3.4 Chính sách về thị trường Thị trường ở đây bao gồm thị trường các yếu tố đầu vào sản xuất và thị trường các yếu tố đầu ra sản phẩm, không những thị trường trong địa bàn huyện mà bao gồm thị trưòng trong nước và thị trường thế giới rộng lớn. Trong điều kiện phát triển nền kinh tế thị trường thì thị trường là yếu tố cơ bản quan trọng để người sản xuất dựa vào đó mà quyết định sản xuất cái gì, sản xuất cho ai và sản xuất như thế nào chứ không phải chỉ sản xuất với những cái mà mình có. Số lượng bao nhiêu, chất lượng như thế nào... đều do thị trường quyết định. Xuất phát từ thực trạng các HTX NN để có thể kinh doanh có hiệu quả thi đòi mỗi HTX phải có những biện pháp cụ thể khả thi tác động vào thị trường nông nghiệp để nâng cao hiệu quả hoạt động của các HTX trong nền kinh tế hàng hoá. Để làm được điều đó cần: + Nhà nước cần tạo mọi điều kiện thuận lợi cho quá trình hình thành đồng bộ các thị trường bao gồm thị trường đầu vào và thị trường đầu ra sản xuất, có sự thống nhất giữa thị trường địa phương, thị trường trong nước và thi trường quốc tế. + Nhà nước cần đầu tư cho việc hình thành hệ thống các cơ quan nghiên cứu, dự báo nắm bắt nhu cầu thị trường nông sản trong địa bàn huyện và các vùng khác để lmà nhiệm vụ tư vấn, xây dựng chiến lược phát triển sản xuất nông sản hàng hoá, tạo ra những nông sản chủ lực, đáp ứng như cầu địa phương và để xuất khẩu. Đồng thời các cơ quan này còn có nhiệm vụ thông tin tư vấn giúp đỡ kinh tế hộ và kinh tế trang trại gia đình - hạt nhân trong các HTX NN hình thành thói quen sản xuất hàng hoá. + Phát triển mạng lưới chợ nông thôn, các trung tâm triển lãm giới thiệu các mặt hàng nông sản, đặc biệt là phát triển đa dạng các hình thức tiêu thụ nông sản. Trước hết, đó là phát huy vai trò của HTX làm dịch vụ tiêu thụ nông sản hàng hoá cho kinh tế hộ kinh tế trang trại. + Cần phải tạo ra các mối liên kết giữa các HTX và các thành phần kinh tế khác, đặc biệt là Liên minh HTX Việt Nam và quốc tế, nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh trên thị trường cho các tổ chức kinh tế này trên cở sở có sự hợp tác. 3.5 Chính sách về xây dựng cơ sở hạ tầng cho nông thôn Tư liệu sản xuất của các hoạt động sản xuất nông nghiệp đó chính là ruộng đất và các giống cây trồng vật nuôi, nhưng để chúng phát huy được hiệu quả thì cần phải có sự tác động của con người thông qua các biện pháp kinh tế kỹ thuật, mà cơ sở để tiến hành các biện pháp kinh tế đó chính là hệ thống kết cấu hạ tầng trong nông nghiệp. Đó chính là các trung tâm khuyến nông, các cơ quan nghiên cứu khoa học, kho tàng bảo quản nông sản sau khi thu hoạch. Để phát huy được hiệu quả của các cơ sở đó thì cần: + Tăng cường đầu tư kinh phí về xây dựng cơ sở hạ tầng, mua sắm các trang thiêt bị phục vụ công tác nghiên cứu triển khai các kế hoạch dự án từ khâu giống đến phương pháp canh tác, sản xuất và sử dụng phân bón ... phù hợp với yêu cầu phát triển nền nông nghiệp bền vững trên cơ sở phát huy các lợi thế của nền nông nghiệp. +Sắp xếp củng cố hệ thống cơ quan nghiên cứu khoa học từ trung ương đến địa phương sao cho có hiệu quả. + Khuyến khích và tạo điều kiện để các HTX xây dưng các cơ sở bảo quản nông sản trước và sau thu hoạch nhằm làm giảm tổn thất do đặc điểm của sản xuất nông nghiệp gây ra như thời tiết, đằc điểm sinh lý...Và xây dựng các cơ sở chế biến nhằm làm tăng giá trị nông sản phẩm trên thị trường, từ đó nâng cao sức cạnh tranh cho các mặt hàng nông sản. 3.6 Chính sách về đào tạo và sử dụng cán bộ HTX và đào tạo nghề cho lao động nông thôn Với vai trò là trung tâm là động lực của sự phát triển, con người đã không ngừng trau dồi những kiến thức, kinh nghiệm sản xuất để tiến hành các hoạt động sản xuất kinh doanh mang lại hiệu quả cao. Thực trang đội ngũ người lao động và các cán bộ của các HTX trong toàn huyện đạt ra một bài toán khó cho quá trình phát triển. Tỷ lệ cán bộ có trình độ đại học cao đẳng trong các HTX còn ít. Có HTX còn xảy ra tình trạng cán bộ chưa qua một trường lớp đào tạo nào, chỉ đạo sản xuất còn dựa vào kinh ngiệm chủ quan là chính, họ chưa phân tích được tình hình thực tiễn, các quy luật khách quan do vậy công tác sản xuất còn phụ thuộc nhiều vào tự nhiên. Trong huyện đã xuất hiện nhiều hình thức đào tạo nhằm nâng cao trình độ chuuyên môn cho đội ngũ cán bộ, song kết quả còn nhiều hạn chế. Bên cạnh đó là chế độ đãi ngộ đối với tri trức trẻ khi ra trường trở về địa phương công tác chưa được quam tâm đúng mức, gây ra tình trạng thiêu cán bộ có trình độ chuyên môn cao, kinh nghệm sản xuất của nguời dân còn thiếu đối với những vấn đề phát triển cơ bản...Trước tình hình đó có một số giải pháp cần phải thực hiện ngay để nâng cao hiệu quả chỉ đạo từ các cán bộ HTX: + Từ cấp trung ương đến cấp địa phương cần có đề án cụ thể về công tác đào tạo bồi dưỡng cán bộ HTX. Trước hết đó là chủ nhiệm HTX, Kế toán trưởng và Trưởng ban kiểm soát HTX. Xây dựng đội ngũ cán bộ quản lý HTX NN đồng bộ, có đủ năng lực đảm đương nhiệm vụ. +Nhà nước có thể hỗ trợ 100% phí đào tạo hoặc miễn giảm tuỳ vào từng điều kiện cụ thể. Đồng thời, có sự phân cấp đào tạo từ cấp Trung ương đến cấp địa phương. Cùng với công tác đào tạo cán bộ HTX, cần coi trọng khâu sử dụng cán bộ HTX phù hợp với trình độ năng lực của họ nhằm đảm bảo tính thiết thực có hiệu quả. + Cần coi trọng đúng mức khâu đào tạo lao động nông thôn, có thể bằng ngân sách nhà nước kết hợp với các chương trình dự án quốc gia để nhanh chóng nâng cao trình độ tay nghề của người lao động nông thôn 4. Một số giải pháp khác 4.1 Đẩy mạnh sản xuât hàng hoá trong nông nghiệp và kinh tế hộ gia đình nói riêng để tạo nhu cầu đổi mới phát triển HTX NN Trong nền kinh tự cung tự cấp nhu cầu về hợp tác giữa các cá thể sản xuất đã xuất hiện, nguyên nhân là do đặc điểm của sản xuất nông nghiệp đòi hỏi người lao động phải có sự hợp tác tương trợ nhau. Chuyển sang nền kinh tế thị trường, sản xuất không chỉ với mục đích để cung cấp lương thực cho nhu cầu của chính người sản xuất mà còn mục đích sản xuất để bán ra thị trường, hay đó chính là nền nông nghiệp hàng hoá. Nhu cầu của thị trường ngày càng khắt khe về số lượng, chất lượng sản phẩm, chủng loại phải đa dạng, phù hợp thị hiếu và thu nhầp của người tiêu dùng. Những yêu cầu đó một cá nhân sản xuất không thể đáp ứng được, để có thể đứng vững được trên thị trường đòi hỏi phải có sự hợp tác giữa cá nhân những người sản xuất để nâng cao hiệu quả. Vì vậy cần phải thúc đẩy sản xuất hàng hoá trong nông nghiệp để nảy sinh nhu cầu hợp tác, từ đó thúc đẩy các HTX phát triển và luôn đổi mới cho phù hợp với nhu cầu của thị trường. Ngược lại. kinh tế HTX phát triển có hiệu quả sẽ tạo điều kiện thúc đẩy nền sản xuất hàng hoá phát triển. Như vậy các giải pháp phát triển kinh tế hợp tác không thể tách rời các giải pháp phát triển kinh tế hàng hoá nông nghiệp trong đó bao gồm cả phát triển kinh tế nông hộ và kinh tế trang trại gia đình. Bởi vì, phát triển kinh tế trang trại, kinh tế nông hộ vừa là mục tiêu vừa là giải pháp để thức đẩy sự ra đời và phát triển của HTX kiểu mới trong nông nghiệp. 4.2 Mở rộng và phát triển các ngành nghề nông thôn và dịch vụ khác ngoài kinh doanh dịch vụ nông thôn Giải pháp này dựa trên cơ sở khai thác các tiềm năng nội lực, thế mạnh của vùng, nhằm tạo ra sự phát triển toàn diện trong nông thôn. Đó là các ngành nghề truyền thống, các dịch vụ phục vụ cuộc sống sinh hoạt hàng ngày của người dân. Nhà nước nên có có biện pháp khuyến khích phát triển các mô hình HTX trong các ngành nghề này nhằm tạo ra cung về lao động khi sửn xuất nông nghiệp có sự dư thừa vế lao động chân tay. 4.3 Tăng cường mối liên hệ hợp tác giữa HTX và các thành phần kinh tế khác trước hết là kinh tế nhà nước. Đối với nước ta, kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo và có tính quyết định đến sự phát triển của toàn ngành nông nghiệp. Thông qua các tổ chức kinh tế và các doanh nghiệp trực thuộc mình nhà nước chi phối hoạt động của các tổ chức kinh tế khác trong nền kinh tế quốc dân, tạo ra sự phát triển bình đẳng cân đối giữa các thành phần kinh tế, đặc biệt là trong vấn đề hỗ trợ sự phát triển của các hình thức tổ chức hợp tác. Trong nông nghiệp biểu hiện của kinh tế nhà nước đó là hệ thống các cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ sản xuất nông nghiệp như giao thông, thuỷ lợi, cơ sở cung cấp giống vật tư, cơ sở chế biến nông sản, trạm khuyến nông, các trung tâm nghiên cứu khoa học...Trong mối liên hệ này HTX giữ vai trò là người đại diện tiếp nhận sự trợ giúp từ nhà nước tới các nông hộ và trang trại. Khi kinh tế HTX phát triển thì nhu cầu về các vật tư kỹ thuật để mở rộng sản xuất ngày càng cao, tạo điều kiện cho các doạnh nghiệp dịch vụ của nhà nước có thể mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh. Vì vậy vấn đề đặt ra là các HTX NN trong huyện phải không ngừng tìm kiếm đối tác để phối hợp sản xuất kinh doanh có hiệu quả, mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm cho chủ thể kinh tế mình. Khi tham gia Liên minh HTX thì các HTX phải tuân theo những điều lệ mà tổ chức đã đặt ra, thực hiện góp vốn sản xuất, xây dựng các điều lệ mẫu phù hợp. Trên đây là một số những giải pháp cơ bản nhằm giúp các HTX NN huyện Nam Trực hoạt động có hiệu quả trong điều kiện nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa trên cơ sở của Luật HTX năm 2003. Vấn đề tiếp tục đổi mới và phát triển các HTX NN theo Luật HTX cần phải tiếp tục được quán triệt trong tư tưởng của người dân từ đó mới nâng cao được nhận thức của họ, thức đẩy sự tham gia phát triển HTX NN sâu rộng trong cộng đồng dân cư, Bên cạnh đó nhà nước ta cũng không ngừng thể chế hoá những tư tưởng tiến bộ từ thực tiễn hoạt động để nhằm nâng cao hơn nữa tính pháp lý của các văn bản hiện hành. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ Đổi mới và phát triển các HTX NN theo Luật HTX năm 2003 là một nội dung quan trọng nhằm nâng cao hơn nữa hiệu quả hoạt động của các HTX NN huyện Nam Trực nói riêng và các HTX NN cả nước nói chung. Thực tế qua quá trình thực tập tại Phòng NN & PTNT huyện Nam Trực tỉnh Nam Định, em nhận thấy rằng sau khi Luật HTX năm 2003 được ban hành đã có một tác động to lớn đến bộ máy quản lý các HTX NN trong toàn huyện về cơ chế quản lý và tổ chức các hoạt động kinh doanh dịch vụ của các HTX NN huyện. Các HTX NN đã tiến hành đổi mới và phát triển trên mọi mặt của quá trình hoạt động của nó như: về xã viên HTX, về tình hình vốn, sở hữu tài sản, về đội ngũ cán bộ HTX… Sự đổi mới trên các mặt đó đã mang lại những hiệu quả thiết thực, bộ máy quản lý được kiện toàn, số lượng xã viên gia tăng, vốn quỹ HTX được bảo toàn và ổn định góp phần nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của các HTX NN trong huyện. Mặc dù em đã rất cố gắng để làm rõ những vấn đề nêu trên, nhưng do trình độ và thời gian có hạn cho nên bài viết của em còn có nhiều sai sót, khiếm khuyết và và nội dung trình bày còn chưa thật logic, phân tích chưa sâu, hệ thống số liệu chưa đồng bộ, các giải pháp đề ra chỉ mang tính định hướng so với những mục tiêu đã đặt ra ….Cho nên dù đã được sự giúp đỡ, hướng dẫn rất tận tình của thầy giáo hướng dẫn PGS – TS Vũ Đình Thắng cùng với các bác, các cô chu cùng các anh chị trong Phòng NN & PTNT huyện Nam Trực, tỉnh Nam Định, nhưng bài của em vẫn còn nhiều thiếu sót. Kính mong thầy giáo hướng, và các thầy cô giáo trong khoa cùng toàn thể cán bộ Phòng NN & PTNT xem xét cho em. Một lần nữa em xin chân thành cảm ơn! MỘT SỐ KIẾN NGHỊ VỚI CÁC CƠ QUAN HỮU TRÁCH VỀ VẤN ĐỀ ĐỔI MỚI VÀ PHÁT TRIỂN CÁC HTX NN THEO LUẬT HTX NĂM 2003 + Cần tăng cường hơn nữa vai trò quản lý nhà nước đối với sự phát triển của các HTX NN nói chung, các văn bản, chính sách có lien quan đến sự đổi mới và phát triển của các HTX NN phải cụ thể rõ ràng, có cơ chế chế tài kiểm tra giám sát chặt chẽ nhằm nâng cao hơn nữa hiệu quả hoạt động của chúng. +Đối với huyện uỷ - HĐND- UBND huyện Nam trực quan tâm hơn nữa về cơ chế chính sách đối với NN NT nhất là công trình thuỷ lợi phục vụ sản xuất đời sống dân sinh. u+ Đối với UBND xã tập trung chỉ đạo sâu sát hơn, có biện pháp hỗ trợ thu hồi sản phẩm đối với những hộ dây dưa khê đọng sản phẩm nhiều năm. + Đề nghị bàn giao nốt những công việc còn lại giữa ban quản lý cũ cho ban quản lý mới + Đối với hộ xã viên thực hiện đúng theo luật HTX, điều lệ mẫu HTX, hàng vụ hàng năm phải giao nộp sản phẩm đầy đủ, đúng thời hạn, chấp hành nghiêm chỉnh các chủ trương chính sách của Đảng và nhà nước, tiếp thu các khoa học kỹ thuật chuyển đổi cây con có giá trị kinh tế cao. + Thường xuyên mở các lớp đào tạo đội ngũ cán bộ chủ chốt của HTX NN, đồng thời nhà nước nên có những có chế chính sách ưu tiên cụ thể đối với công lao hoạt động của họ. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO Giáo trình Kinh tế nông nghiệp. Chủ biên: Cố GS.TS Nguyễn Thế Nhã, PGS.TS Vũ Đình Thắng. Nhà xuất bản thống kê, Hà Nội – 2004. 2. Giáo trình Quản trị kinh doanh nông nghiệp. Chủ biên: PGS.TS Trần Quốc Khánh. Nhà xuất bản Lao động xã hội. Hà Nội – 2005. 3. Kinh tế hợp tác trong nông nghiệp nông thôn. Chủ biên: Nguyễn Điền. Nhà xuất bản thống kế. Hà Nội – 1996. 4. Kinh tế hộ nông dân và kinh tế hợp tác trong nông nghiệp. Chủ biên: Lâm Quang Huyên. Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội – 1995. 5. Phát triển toàn diện kinh tế xã hội nông thôn Việt Nam. Tác giả: Chu Hữu Quý. Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội – 1996. 6. Tạp chí Kinh tế và dự báo số 11/2004. 7. Tạp chí Cộng sản số 15 tháng 8/2005, số 8 tháng 4/2005. 8. Tạp chí Hoạt động khoa học số 8/2004. 9. Tạp chí công nghiệp số 5/2000. 10. Tạp chí Nghiên cứu kinh tế số 249 tháng 2/1999. 11. Tạp chí nghiên cứu Trung Quốc số 6/2000. 12. Tạp chí Nghiên cứu và Trao đổi số 1/2000. 13. Luật HTX năm 1996, Luật HTX sửa đổi năm 2003, Luật đất đai năm 1993 và các nghị quyết, chỉ thị của Đảng và nhà nước về vấn đề phát triển kinh tế HTX trong nông nghiệp nông thôn. 14. Các báo cáo tổng kết tháng, quý, năm về tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh của các HTX NN huyện Nam Trực. Môc lôc DANH MỤC CHỮ CÁI VIẾT TẮT RIÊNG BVTV :Bảo vệ thực vật BCHTW :Ban chấp hành trung ương CNH-HĐH : Công nghiệp hoá- hiện đại hoá DT : Diện tích ĐH+CĐ : Đại học+ Cao đẳng HTX : Hợp tác xã HTX NN : Hợp tác xã nông gnhiệp KHĐT : Kế hoạch đầu tư KTTT : Kinh tế tập thể NS : Năng suất NN&PTNT : Nông nghiệp và Phát triển nông thôn SL : Số lượng SX : Sản xuất CTCP :Công ty cổ phần DTBQ/1HTXNN: Doanh thu bình quân 1 HTX NN CPBQ/1HTXNN: Chi phí bình quân 1 HTX NN ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc32084.doc