Đóng góp của phụ nữ Bến Tre trong kháng chiến chống Mĩ cứu nước (1954 - 1975)

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH Phan Thị Thanh Minh ĐÓNG GÓP CỦA PHỤ NỮ BẾN TRE TRONG KHÁNG CHIẾN CHỐNG MĨ CỨU NƯỚC (1954 – 1975) LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ Thành phố Hồ Chí Minh – 2010 1 MỞ ĐẦU 1. Lí do chọn đề tài và mục đích nghiên cứu Trong hơn 20 năm tiến hành cuộc kháng chiến chống Mĩ, quán triệt quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin xem “cách mạng là sự nghiệp của quần chúng” và “nhân dân là người làm ra lịch sử”, Đảng và Nhà nước ta

pdf133 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 2669 | Lượt tải: 1download
Tóm tắt tài liệu Đóng góp của phụ nữ Bến Tre trong kháng chiến chống Mĩ cứu nước (1954 - 1975), để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
đã huy động tất cả mọi tiềm lực, sức người, sức của cho công cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc. Thế trận chiến tranh nhân dân được phát huy ở mức cao nhất, và tất nhiên trong đó không thể không kể đến sự tham gia đông đảo của những người phụ nữ - một lực lượng chiếm trên phần nửa số dân. Trong rất nhiều trường hợp, phụ nữ đã sát cánh cùng nam giới đứng hàng đầu trên mọi lĩnh vực chiến đấu nhằm đánh đổ chế độ độc tài phát xít của Mĩ- Diệm, giải phóng dân tộc. Thực tế này đã được Đảng Cộng sản Việt Nam nêu rõ trong trong Nghị quyết về công tác vận động phụ nữ năm 1930: “Lực lượng cách mạng của phụ nữ là một lực lượng rất trọng yếu. Nếu quảng đại quần chúng không tham gia vào những cuộc đấu tranh cách mạng thì cách mạng không thắng lợi được”[93, 498]. Đến khi cuộc kháng chiến chống Mĩ bước vào giai đoạn gay go ác liệt thì tầm quan trọng của những đóng góp của phụ nữ tiếp tục được khẳng định, Nghị quyết số 153 của Ban Bí thư Trung ương Đảng ngày 10-1-1967 nêu rõ: “Trong sự nghiệp chống Mĩ cứu nước ngày nay, phụ nữ giữ vai trò ngày càng trọng yếu trên mọi lĩnh vực công tác; đặc biệt trên mặt trận sản xuất, phục vụ chiến đấu, chiến đấu và phục vụ đời sống quần chúng, nhất là ở nông thôn, lực lượng phụ nữ ngày càng phát huy vai trò to lớn của mình” [48, 15]. Cuộc chiến tranh xâm lược thực dân mới của Mĩ tiến hành ở Việt Nam được thực hiện chủ yếu ở miền Nam Việt Nam. Vì vậy, hơn bất cứ nơi nào khác, phụ nữ miền Nam là những người đã gánh chịu những mất mát, đau thương và hậu quả nặng nề nhất của cuộc chiến. Thực tế ấy là một cuộc thử thách vô song cho ý chí can trường của con người, cho sự chung thủy với non sông đất nước, cho sự trung hậu, đảm đang của người phụ nữ. 2 Dưới sự lãnh đạo của Đảng, của Bác Hồ, kế thừa truyền thống của Bà Trưng, Bà Triệu, phụ nữ miền Nam đã cùng với các tầng lớp nhân dân đấu tranh chống đế quốc Mĩ xâm lược kéo dài hơn 20 năm. Danh hiệu “anh hùng, bất khuất, trung hậu, đảm đang” chính là sự ghi nhận công lao của Đảng và Nhà nước ta đối với các mẹ, các cô, các chị em gái miền Nam. Trong phong trào phụ nữ Nam Bộ, đóng góp của phụ nữ Bến Tre là một trong những đóng góp tiêu biểu. Tại đây, lần đầu tiên trong Đồng Khởi năm 1960, đã xuất hiện một lực lượng hùng hậu gồm hàng ngàn phụ nữ được tổ chức thành đội ngũ hẳn hoi, tấn công trực diện vào kẻ thù, đã mở đường cho sự hình thành đội quân chính trị khổng lồ, tức “đội quân tóc dài” ở khắp miền Nam trong những năm sau đó, và hình ảnh trở thành biểu tượng của phong trào phụ nữ miền Nam được xem như một “binh chủng” đặc biệt trong kháng chiến chống Mĩ. Cũng từ đây đã ra đời chiến thuật “ba mũi giáp công” (đánh địch đồng thời bằng chính trị, quân sự và binh vận) và được nhanh chóng phổ biến thành kinh nghiệm chiến đấu trên một phạm vi rộng lớn. Từ thực tế lịch sử chói ngời, sinh động và đặc biệt như thế, có nhiều vấn đề được đặt ra, mà ý kiến của Giáo sư Phơrăng Đinh-man người Canađa là một điển hình: “Tôi không hiểu tại sao ở Việt Nam lại có nhiều phụ nữ đánh giặc giỏi, bắn máy bay Mĩ rất cừ, và ở miền Nam Việt Nam lại có vị Phó tổng tư lệnh là phụ nữ…” [48, 16]. Thật thú vị khi vị Phó tổng tư lệnh quân đội ấy chính là Nguyễn Thị Định, một người phụ nữ của Bến Tre. Nhưng đó chỉ là cá nhân một con người cụ thể, đó có phải là một trong số rất nhiều người phụ nữ Bến Tre hay không ? Trên thực tế phụ nữ Bến Tre đã làm được những gì để chung tay cùng các tầng lớp nhân dân trong sự nghiệp chung, họ có đóng góp gì cho kháng chiến tại địa phương và làm rạng danh phụ nữ miền Nam ? Và những người phụ nữ quê dừa ấy có thật sự xứng đáng với 8 chữ vàng mà nhà nước đã phong tặng cho phụ nữ miền Nam ? Tìm hiểu về hoạt động của phụ nữ Bến Tre trong kháng chiến chống Mĩ sẽ làm sáng tỏ những vấn đề trên. 3 Như vậy, nghiên cứu về đóng góp của phụ nữ Bến Tre trong kháng chiến chống Mĩ, chúng tôi nhằm: - Tìm hiểu một cách có hệ thống hoạt động tiêu biểu của phụ nữ Bến Tre ở từng thời kỳ cụ thể trong suốt 21 năm chiến tranh chống Mĩ. - Làm rõ sự đóng góp của phụ nữ ở mọi lĩnh vực đối với tỉnh Bến Tre nói riêng và miền Nam nói chung trong khoảng thời gian đó. Ở một khía cạnh khác, phụ nữ Bến Tre là một bộ phận đông đảo của nhân dân Bến Tre, là một bộ phận gắn bó mật thiết với phụ nữ Nam Bộ. Những hoạt động của họ gắn liền với những biến động lịch sử của tỉnh và các thành phần dân cư khác trong xã hội. Cho nên nghiên cứu về đóng góp của họ cũng là để hiểu rõ hơn về lịch sử tỉnh Bến Tre và lịch sử phong trào phụ nữ Nam Bộ nói chung. Về mặt lý luận, việc tìm hiểu về vai trò của người phụ nữ Bến Tre là tiếp cận một khía cạnh quan trọng trong việc nghiên cứu về phụ nữ, qua đó thấy được tiềm năng, những đóng góp của họ trong quá khứ, là cơ sở để hoạch định những chủ trương chính sách liên quan đến phụ nữ, phát huy sở trường của họ trong hiện tại và tương lai, và cũng là tạo điều kiện cho chị em thực hiện “nam nữ bình quyền”. Đề tài nghiên cứu không chỉ có ý nghĩa khoa học mà còn có ý nghĩa thực tiễn quan trọng. Việc nghiên cứu lịch sử địa phương và các vùng phía Nam trên thực tế chưa được chú ý một cách đúng mức. Qua nghiên cứu, ở một mức độ nhất định kết quả thu được sẽ lấp được khoảng trống về mảng thiếu hụt nói trên. Về phía bản thân, nghiên cứu vấn đề này giúp tôi nâng cao nhận thức về lịch sử Việt Nam, bổ sung những kiến thức cần thiết phục vụ cho việc giảng dạy lịch sử địa phương, đặc biệt là bồi dưỡng tư tưởng tình cảm, niềm tự hào cho thế hệ trẻ trên cơ sở những giá trị truyền thống của phụ nữ tỉnh nhà và ý thức gìn giữ, phát huy những giá trị đó. 2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Vấn đề mà luận văn đề cập chỉ là một khía cạnh nhỏ trong mảng nghiên cứu về lịch sử Bến Tre – đóng góp của phụ nữ trong giai đoạn 1954-1975. Cho nên đối 4 tượng khảo sát chủ yếu của đề tài là đông đảo quần chúng phụ nữ lao động bình thường, những phụ nữ nhiều khi không để lại tên tuổi, nhưng là những người chiếm số đông và có vai trò quyết định. Tuy nhiên, một bộ phận phụ nữ anh hùng sẽ được nhắc tới như là một biểu hiện làm nổi bật những cái chung, họ là những người có một vai trò và ảnh hưởng nhất định trong lịch sử. Thời gian nghiên cứu là giai đoạn 1954-1975, dưới sự lãnh đạo của Đảng của giai cấp công nhân, lịch sử chứng kiến sự vươn mình mạnh mẽ của họ trong bão táp cách mạng liên tục trong vòng hơn 20 năm. Nhưng giới hạn của các giá trị lý luận và thực tiễn của vấn đề không chỉ ngừng lại quanh phạm trù phụ nữ. “Nói phụ nữ là nói nửa phần của xã hội” [48, 16, trích lời Hồ Chủ Tịch, tháng 10-1959]. Cho nên giải đáp vấn đề phụ nữ Bến Tre cũng tức là góp phần quan trọng giải đáp vấn đề xã hội, vấn đề dân tộc ở Bến Tre. Sự hiểu biết về phụ nữ Bến Tre còn là một cơ sở, một mục đích đối với nhiều người đang có những yêu cầu hiểu biết cấp bách về xã hội, về con người tại một tỉnh miền Tây Nam Bộ. Đề tài chỉ đề cập đến những người phụ nữ trong xã hội. Việc nghiên cứu tách biệt một thành giới trong nhiều thành giới khác nhau của xã hội là việc cần thiết, trong điều kiện nội dung đã được xác định của đề tài. Tuy nhiên, từ chỗ này cũng làm nảy sinh một số khó khăn. Bởi vì, thường không có sự tồn tại và vận động riêng biệt, độc lập của giới phụ nữ, cũng như của các giới khác trong xã hội. Khi Hồ Chủ tịch nói “Dân tộc Việt Nam là dân tộc anh hùng, thanh niên Việt Nam là thanh niên anh hùng, phụ nữ Việt Nam là phụ nữ anh hùng” (Lời Hồ chủ tịch tháng 12.1965) [48, 22] thì Người cũng đã khẳng định vai trò và sự liên quan chặt chẽ của nhiều thành giới khác nhau trong sự nghiệp chung của dân tộc. Cho nên, trong khi khảo sát riêng giới phụ nữ, chúng tôi cố gắng đề cập đến trong chừng mực nhất định những hoàn cảnh lịch sử chung có liên quan và làm cơ sở cho những hoạt động của phụ nữ, cố gắng tránh những điều chủ quan về mặt phương pháp, thiên lệch về mặt thái độ nghiên cứu và phiến diện về kết luận khoa học. Về nội dung, đề tài nói đến những vấn đề chính như sau: 5 - Các hoạt động của phụ nữ trên các lĩnh vực chiến đấu và phục vụ chiến đấu, có thể là trực tiếp tham gia đánh giặc, đấu tranh chính trị hoặc làm công tác binh vận, hậu phương kháng chiến, chăm lo sản xuất kinh tế, bảo vệ và che chở cản bộ cách mạng. - Trong từng giai đoạn cụ thể, hoạt động này có thay đổi tùy theo sự điều chỉnh chiến lược chiến tranh của Mĩ và chủ trương của Đảng cấp trên và địa phương, mặt khác, nò còn chịu sự chi phối của Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam (1960) và Hội Liên hiệp phụ nữ giải phóng miền Nam (1961). Tuy nhiên, sự lãnh đạo này là thống nhất và đều hướng tới một mục tiêu chung. 3. Phương pháp nghiên cứu Về phương pháp nghiên cứu, trong quá trình thực hiện đề tài, phương pháp cơ bản mà tôi sử dụng là phương pháp lịch sử. Trên cơ sở phân tích, so sánh các sự kiện lịch sử, đề tài này cố gắng trình bày các luận điểm trên cơ sở bám sát sự kiện lịch sử, chân thực, trình bày lịch sử như nó từng có. Đồng thời, để đảm bảo tính hệ thống, khoa học, chúng tôi kết hợp với phương pháp logíc trong tiến trình thực hiện. Do đề tài mang tính lịch sử địa phương nên phương pháp điền dã được sử dụng nhằm tăng tính thực tế của vấn đề nghiên cứu. Qua những chuyến về nguồn, tìm hiểu về vùng đất - đặc biệt là những nơi có phong trào phụ nữ mạnh như các xã điểm Đồng khởi và gặp gỡ những con người cụ thể: các bà mẹ Việt Nam anh hùng, các nhân chứng sống từng tham gia vào đội quân tóc dài ngày ấy, chúng tôi đã thu thập được nhiều thông tin, nghe nhiều câu chuyện cảm động của các mẹ. Đó chính là nguồn tư liệu quý giúp tôi thực hiện đề tài. Ngoài ra, phương pháp tiếp cận hệ thống cũng được sử dụng - đặt phong trào phụ nữ Bến Tre trong bối cảnh lịch sử miền Nam và Việt Nam những năm 1954- 1975 để từ đó thấy được hoạt động của phụ nữ Bến Tre vừa tham gia và làm phong phú thêm lịch sử đấu tranh của phụ nữ miền Nam, vừa chịu sự tác động của những biến chuyển trong tình hình miền Nam và cả nước. 6 4. Lịch sử nghiên cứu vấn đề Theo tìm hiểu của chúng tôi, cho đến nay, đã có một số tác phẩm và công trình nghiên cứu của nhiều tác giả viết về phụ nữ Bến Tre ở những mức độ khác nhau. Trước hết là một số tác phẩm viết về phụ nữ Việt Nam mang tính khái quát và có liên quan đến đề tài: Trong Phụ nữ miền Nam nước ta trong phong trào giải phóng dân tộc của Nguyễn Thị Thập, bên cạnh chương trình và điều lệ của Hội Liên hiệp phụ nữ giải phóng miền Nam, sau khi vạch rõ chính sách khủng bố và tội ác của Mĩ- ngụy đối với phụ nữ miền Nam, tác giả đã khái quát sự cống hiến lớn lao của phụ nữ miền Nam vào sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, và khẳng định phong trào đấu tranh yêu nước của phụ nữ miền Nam hiện nay (thời điểm năm 1963) chính là kế tục sự nghiệp đấu tranh của phụ nữ cả nước trong các thời kỳ cách mạng trước đây. Mặc dù tác phẩm không viết riêng về phụ nữ Bến Tre, nhưng chúng ta hiểu đó là một bộ phận khăng khít của phụ nữ Nam Bộ cho nên đây cũng là gợi ý có giá trị để người viết thực hiện đề tài. Ở một phạm vi rộng hơn, tác phẩm Phụ nữ Việt Nam qua các thời đại (1973) của Lê Thị Nhâm Tuyết cho chúng ta có cái nhìn về người phụ nữ Việt Nam bằng những nét cơ bản nhất qua các thời kỳ, từ buổi đầu dựng nước đến năm 1973. Tác giả dành chương V để khai thác mảng về người phụ nữ trong phong trào cách mạng hiện đại. Không trình bày về phụ nữ tại một địa phương cụ thể nào, nhưng việc khẳng định vai trò người phụ nữ trong công tác hậu phương và chiến đấu đã khơi gợi cho tác giả luận văn suy nghĩ mở rộng vấn đề. Tham luận tại Đại hội phụ nữ Việt Nam lần thứ IV năm 1974 có bài phát biểu Phụ nữ miền Nam kiên cường bất khuất đuổi Mĩ lật thiệu, giải phóng miền Nam bảo vệ miền Bắc. Sau khi điểm qua những chính sách mà Mĩ sử dụng đối với đồng bào miền Nam cùng hậu quả của nó, tác giả khẳng định việc phụ nữ miền Nam vùng lên chiến đấu quyết liệt là xuất phát từ truyền thống quật khởi của dân tộc, là do phải sống dưới ách kềm kẹp nặng nề của đế quốc Mĩ và tay sai, và đưa ra những con số tổng kết thuyết phục về thành tích vẻ vang của phụ nữ miền Nam trong sự nghiệp 7 chống Mĩ; đồng thời bày tỏ tin tưởng vào phụ nữ miền Nam, dưới sự lãnh đạo của Đảng và Hồ Chủ Tịch, cùng với đồng bào và phụ nữ miền Bắc ruột thịt sẽ vượt mọi chướng ngại, gian khổ, hoàn thành thống nhất nước nhà. Đây là bài viết có những tư liệu có giá trị. Năm 1981 Nguyễn Thị Thập ra mắt tác phẩm mới của mình với tên gọi Lịch sử phong trào phụ nữ Việt Nam có tính khái quát hơn, bao gồm lịch sử phụ nữ Việt Nam từ những ngày đầu dựng nước đến kết thúc cuộc chiến tranh giành độc lập 1975. Trong đó tác giả có để cập đến phụ nữ Bến Tre với hình thức đấu tranh chống càn độc đáo năm 1960, và sự ra đời và đóng góp của “đội quân tóc dài”. Cũng đề cập tới vấn đề này là quyển Truyền thống cách mạng của phụ nữ thành đồng, do Bảo tàng phụ nữ Nam Bộ xuất bản, sau đó in lại năm 2006 lấy tên là Lịch sử phụ nữ Nam Bộ kháng chiến. Theo các tác giả, chiến thuật “ba mũi giáp công” và tản cư ngược đã ra đời từ cuộc đồng khởi ở Bến Tre và trong đó vai trò của phụ nữ nổi lên cao nhất. Ngoài ra, trong chương IV với tiêu đề “Phụ nữ Nam Bộ đấu tranh chống Mĩ-ngụy”, trong khi dựng lại bức tranh về những người phụ nữ Nam Bộ kháng chiến, ở nhiều lĩnh vực, nhiều giai đoạn khác nhau, hoạt động của phụ nữ Bến Tre cũng được chú ý, như: chống Mĩ- Diệm rải chất độc hóa học ở Bến Tre, đấu tranh vũ trang, lập các đội du kích nữ, công tác binh vận…Tuy nhiên còn ở mức độ khá khiêm tốn, và như tên gọi của nó, quyển sách tập trung khai thác về hình ảnh chung của phụ nữ miền Nam. Cũng nhắc đến phong trào phụ nữ thông qua trình bày tình hình chung là tác phẩm Lịch sử kháng chiến chống Mĩ cứu nước 1954-1975 gồm 2 tập. Qua đó chúng ta hiểu rõ hơn về mối liên hệ mật thiết giữa cuộc kháng chiến của phụ nữ Bến Tre nói riêng, nhân dân Bến Tre nói chung với các địa phương trong cả nước. Một số tác giả cũng nêu lên vai trò người phụ nữ trong kháng chiến nhưng chủ yếu là về phụ nữ miền Nam trong các tác phẩm như Binh chủng đặc biệt của đội quân tóc dài của Tổ sử phụ nữ Nam Bộ, Phụ nữ miền Nam Việt Nam bất khuất, Phụ nữ Việt Nam những sự kiện đầu tiên và nhất của Trần Nam Tiến, Đội quân “tóc dài” của Nhà xuất bản phổ thông (1967)…… Một số bài viết mang tính 8 chuyên đề được đăng trên các báo, tạp chí cũng đề cập đến vấn đề ở những góc độ, mức độ khác nhau, tiêu biểu là Gặp tư lệnh đội quân tóc dài ở binh trạm Trường Sơn (báo Sự kiện và nhân chứng), Đội quân tóc dài – sự tỏa sáng của những huyền thoại (Sài Gòn giải phóng)…. Cùng với những công trình nghiên cứu chung, chúng tôi tìm thấy một số tác phẩm viết riêng về Bến Tre có đề cập đến phong trào phụ nữ ở đây và một tác phẩm nói về phụ nữ Bến Tre. Trong tác phẩm viết chung về lịch sử Bến Tre từ năm 1960 đến tổng tiến công và nổi dậy mùa xuân 1975 với tên gọi Đồng Khởi ở Bến Tre (viết năm 1985), tác giả Quỳnh Cư có đề cập tới hoạt động của phụ nữ Bến Tre nhưng chủ yếu đi sâu về đấu tranh cách mạng của nhân dân toàn tỉnh. Luận án phó tiến sĩ Lịch sử của Trần Quỳnh Cư (1994) chính là sự bổ sung và phát triển nghiên cứu này nhưng phạm vi được thu hẹp, chỉ tập trung vào đồng khởi năm 1960. Cả hai tác phẩm này đều là những tư liệu cần thiết và cung cấp cho người viết một số luận điểm có tính chất gợi ý cần đi sâu. Cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước của nhân dân Bến Tre (1985) là công trình tổng kết của Ban chỉ huy quân sự tỉnh. Trong đó, xen kẽ giữa nguồn tư liệu phong phú về lịch sử đấu tranh của nhân dân tỉnh nhà là những trang viết ghi nhận lại hoạt động của phụ nữ Bến Tre đóng góp cho phong trào đấu tranh tại địa phương. Dưới góc độ văn học, tập hồi ký Không còn con đường nào khác sau đó sữa chữa lấy tên là Nữ chiến sĩ rừng dừa (1986) của đồng chí Nguyễn Thị Định là tiếng nói của “người trong cuộc” phản ánh đôi nét về phong trào đấu tranh của nhân dân Bến Tre giai đoạn 1954-1960, và cũng cho chúng ta hiểu phần nào tâm tư tình cảm của người phụ nữ Bến Tre trong chiến tranh. Huyền thoại quê hương đồng khởi do Tỉnh ủy Bến Tre biên soạn cũng thuộc dạng hồi ký, đáng kể là bài viết của tác giả Thanh Giang về đội quân tóc dài. 9 Ngoài ra, một số tác phẩm của các tác giả khác cũng đề cập ở mức độ nhất định đến vấn đề đang nghiên cứu như Lịch sử hậu cần nhân dân Bến Tre 30 năm kháng chiến (1945-1975) của Bộ chỉ huy quân sự tỉnh, Nhìn chung, việc nghiên cứu về phụ nữ ở khía cạnh những đóng góp cho lịch sử dân tộc là khá nhiều, nhưng phần lớn là ở phạm vi vùng miền hoặc cả nước. Phong trào phụ nữ ở từng địa phương riêng lẻ chưa được các nhà nghiên cứu lưu tâm tới, cho nên còn nhiều khoảng trống ở lĩnh vực này, phong trào phụ nữ Bến Tre cũng không phải là một ngoại lệ. Mười năm trở lại đây, tác giả Thạch Phương cùng các cộng sự của ông đã biên soạn Phụ nữ Bến Tre (2000). Cho đến nay, đây là tác phẩm duy nhất viết riêng về phụ nữ Bến Tre từ những ngày đầu mới khai hoang lập nghiệp đến hòa bình xây dựng đất nước. Nếu như phần một là những khái quát về phụ nữ qua các chặng đường lịch sử thì phần thứ hai của tác phẩm dành trọn cho những gương mặt, những cuộc đời người phụ nữ tiêu biểu ở Bến Tre. Có thể nói đây là tác phẩm có giá trị cao, nhiều tư liệu hữu ích giúp người viết thực hiện đề tài này. Tuy nhiên, giai đoạn kháng chiến chống Mĩ chỉ được đề cập ở chương IV với một số lượng trang viết khá ít ỏi và còn sơ lược. Gần đây nhất, nhân kỉ niệm 50 năm ngày Bến Tre Đồng Khởi (17-01-1960), tạp chí Văn thư lưu trữ Việt Nam có một số bài viết bàn về vấn đề này. Đáng chú ý là bài viết “Bàn thêm về hình thái khởi nghĩa từng phần ở miền Nam Việt Nam giai đoạn 1959-1960” của tác giả Hà Minh Hồng và “Đồng Khởi Bến Tre – nét đặc trưng sáng tạo của chiến tranh nhân dân Việt Nam của Nguyễn Văn Kết. Trong các bài viết này, các tác giả đều có nhắc đến đóng góp của phụ nữ Bến Tre ở một mức độ nhất định. Như vậy, trong các tác phẩm và bài viết được nhắc đến, phụ nữ Bến Tre chỉ được nghiên cứu lồng vào nội dung về phụ nữ miền Nam hoặc phụ nữ Việt Nam. Những bài viết chuyên đề tuy có đi sâu vào một vài khía cạnh nào đó nhưng xét trên bình diện chung của vấn đề đang nghiên cứu thì nó còn mang tính chất tản mạn, rời rạc, chưa thành hệ thống, chưa phản ánh một cách toàn diện khái quát vấn đề. 10 5. Nguồn sử liệu Tài liệu sử dụng trong luận văn này được khai thác và tập hợp từ nhiều nguồn khác nhau: Về mặt lý luận, chúng tôi dựa vào những văn kiện của Đảng về kháng chiến chống Mĩ cứu nước, những tác phẩm của Chủ tịch Hồ Chí Minh, của đồng chí Lê Duẩn: - Hồ Chí Minh, Về nhiệm vụ chống Mĩ cứu nước. - Hồ Chí Minh, Tuyển tập. - Lê Duẩn, Dưới lá cờ vẻ vang của Đảng, vì độc lập tự do, vì chủ nghĩa xã hội tiến lên giành những thắng lợi mới - Lê Duẩn, Thư vào Nam - Một số văn kiện của Đảng về chống Mĩ cứu nước Bên cạnh đó, chúng tôi cũng sử dụng các tư liệu từ: - Các luận văn và các công trình nghiên cứu đã được công bố về phong trào cách mạng của phụ nữ ở miền Nam nói chung và Bến Tre nói riêng. - Các báo cáo tổng kết của các ban, ngành của tỉnh Bến Tre như: Hội Liên hiệp phụ nữ, Tỉnh ủy, Tỉnh đội, Ban chỉ huy quân sự, Ban Nghiên cứu lịch sử Đảng, Ban Tổng kết chiến tranh. - Các tác phẩm văn học là những hồi ký của những người đã từng sống trong những năm tháng lịch sử và những người đã từng tiếp xúc với họ. Cuối cùng, kết hợp với những tư liệu thu thập được trong các chuyến điền dã: về các xã Đồng khởi, các địa phương có phong trào phụ nữ mạnh, gặp gỡ những người phụ nữ đã từng tham gia trong chiến tranh chống Mĩ để thực hiện đề tài. 6. Đóng góp mới của luận văn Qua quá trình nghiên cứu, tìm hiểu, thực hiện đề tài, luận văn đã được hoàn thành với những đóng góp sau: - Trình bày một cách có hệ thống về đóng góp của người phụ nữ trong hoàn cảnh lịch sử đặc biệt: cuộc chiến tranh chống Mĩ ác liệt và kéo dài của cả dân tộc. 11 - Luận văn góp phần làm phong phú thêm tư liệu về lịch sử tỉnh Bến Tre nhìn từ góc độ cuộc đấu tranh chống ngoại xâm thời hiện đại. - Thông qua những thành tích của phụ nữ Bến tre, luận văn còn góp phần làm rõ đặc điểm lịch sử đấu tranh anh hùng của phụ nữ miền Nam. 7. Cấu trúc của luận văn Luận văn được chia thành 3 chương: - Chương 1. Khái quát tình hình Bến Tre trước năm 1954. Trong chương này chúng tôi trình bày vài nét khái quát về đất và người Bến Tre cùng với truyền thống đấu tranh cách mạng của phụ nữ Bến Tre từ thời thuộc Pháp đến kết thúc cuộc chiến tranh chống Pháp. - Chương 2 và chương 3 là phần trọng tâm của luận văn. Trong đó ở chương 2. Đóng góp của phụ nữ Bến Tre trong kháng chiến chống Mĩ cứu nước (1954- 1960) chúng tôi cố gắng dựng lại bức tranh về những hoạt động của phụ nữ Bến Tre trước và trong Đồng Khởi. - Chương 3: Đóng góp của phụ nữ Bến Tre từ sau Đồng Khởi năm 1960 đến năm 1975 là những ghi nhận về đóng góp của phụ nữ trong 15 năm cuối của cuộc đấu tranh chống Mĩ. 12 CHƯƠNG 1. KHÁI QUÁT TÌNH HÌNH BẾN TRE TRƯỚC NĂM 1954 1.1 Những nét chung về đất và người Bến Tre 1.1.1 Vài nét về địa lý lịch sử tỉnh Bến Tre Bến Tre là một trong 13 tỉnh của đồng bằng sông Cửu Long, ở phía Đông Nam, cách thành phố Hồ Chí Minh 86 km, được hợp thành bởi ba cù lao lớn: cù lao An Hóa, cù lao Minh và cù lao Bảo do phù sa của 4 nhánh sông Cửu Long (sông Tiền, sông Ba Lai, sông Hàm Luông và sông Cổ Chiên) bồi tụ qua nhiều thế kỉ. “Nhìn trên bản đồ, tỉnh Bến Tre có hình rẽ quạt, mà đầu nhọn nằm ở thượng nguồn, các nhánh sông lớn giống như nan quạt xòe rộng ra ở phía Đông. Diện tích tự nhiên của tỉnh có 2.315,01km2, phía Bắc giáp tỉnh Tiền Giang, có ranh giới chung là sông Tiền, phía Tây và Nam giáp tỉnh Vĩnh Long và tỉnh Trà Vinh, có ranh giới chung là sông Cổ Chiên, phía Đông giáp biển Đông với chiều dài bờ biển 65 km” [85, 23]. Bến Tre có 7 huyện và 1 thị xã ( Năm 2009 Bến Tre có 8 huyện và 1 thành phố trực thuộc tỉnh) . Các huyện gồm: Châu Thành, Bình Đại, Giồng Trôm, Ba Tri, Mỏ Cày, Chợ Lách, Thạnh Phú, chia thành 115 xã, 811 ấp và một thị xã, 9 thị trấn. Trong đó, Mỏ Cày là nơi có phong trào cách mạng sôi nổi nhất, các xã Định Thủy, Phước Hiệp, Bình Khánh là nơi mở đầu của cao trào Đồng Khởi trong toàn tỉnh. Mỏ Cày cũng là huyện có có nhiều nhất số Bà mẹ Việt Nam anh hùng, 438 trong tổng số 1.744 Mẹ Việt Nam anh hùng của tỉnh được công nhận (tính đến năm 1997). Là tỉnh hẹp nhất so với các tỉnh ở đồng bằng sông Cửu Long, Bến Tre có diện tích tự nhiên là 2.224,75 km2. Đây là xứ đất bồi, địa hình bằng phẳng, rải rác có những giồng cát xen lẫn với ruộng vườn. Bến Tre không có rừng lớn, rừng già, chỉ có rừng chồi với các loại cây mắm, đước, chà là, bần chiếm diện tích 14.286 ha ở vùng ven biển ngập nước quanh năm. Các khu rừng chính là địa căn cứ cách mạng trong những năm chống Pháp, chống Mĩ, đặc biệt là giai đoạn cách mạng Bến Tre gặp nhiều khó khăn do chính sách “tố cộng, diệt cộng” của Mĩ – Diệm. 13 Đất đai Bến Tre được cấu tạo bằng phù sa của sông Cửu Long bồi đắp qua nhiều thế hệ nên rất màu mỡ. Hàng năm đất còn được bồi ra bởi phù sa của các nhánh sông Cửu Long nên những cồn như Cồn Hổ, Cồn Lợi ngày càng dính liền vào đất liền vừa lấn rộng ra biển Đông. Tuy nhiên, bên cạnh đó có một diện tích ruộng khá rộng ở ba huyện vùng biển bị nhiễm mặn, gây nhiều khó khăn cho việc trồng lúa. Diện tích đất nước ngọt chỉ có ở huyện Châu Thành, Chợ Lách, Thị xã và vùng trên của Mỏ Cày, Giồng Trôm. Về khí hậu, Bến Tre nằm trong miền khí hậu nhiệt đới gió mùa cận xích đạo nên nhiệt độ cao, ít biến đổi trong năm, nhiệt độ trung bình hàng năm từ 260C – 270C. Trong năm không có tháng nào nhiệt độ trung bình dưới 200C; mùa hè, nhiệt độ cao tới 350. Tỉnh Bến Tre chịu ảnh hưởng của gió mùa đông bắc từ tháng 12 đến tháng 4 năm sau và gió mùa tây nam từ tháng 5 đến tháng 11, tạo nên hai mùa rõ rệt: mùa gió đông bắc là thời kỳ khô hạn, mùa gió tây nam là thời kỳ mưa ẩm. Lượng mưa trung bình hàng năm từ 1.250mm – 1.500mm. Bến Tre có 4 con sông lớn đều chảy theo hướng Tây Bắc – Đông Nam: - Sông Cửa Đại, chảy dọc biên giới phía Bắc tỉnh. - Sông Ba Lai chảy dọc phía Nam cù lao An Hóa và là ranh giới giữa cù lao An Hóa và cù lao Bảo. - Sông Hàm Luông chảy dọc theo phía Nam cù lao Bảo và là ranh giới giữa cù lao Minh và cù lao Bảo. - Sông Cổ Chiên chảy dọc theo phía Nam và Tây cù lao Minh cũng là ranh giới phía Nam của tỉnh. Ngoài ra còn có các sông, rạch phụ như: sông Bến Tre chảy qua thị xã Bến Tre, sông Vàm Nước Trong chảy qua Mỏ Cày đổ ra sông Hàm Luông, sông Bang Tra chảy dọc Tây Nam Mỏ Cày…Một số kinh rạch lớn như rạch Khâu Băng, rạch Cầu Mống, rạch Vũng Luông, rạch Mĩ Lồng… Về giao thông vận tải, Bến Tre có một hệ thống đường thủy gồm những con sông lớn nối từ biển Đông qua các cửa sông chính (cửa Đại, cửa Ba Lai, cửa Hàm 14 Luông và cửa Cổ Chiên), ngược về phía thượng nguồn đến tận biên giới Campuchia và một hệ thống kênh, rạch chằng chịt đan vào nhau như những mạch máu chảy khắp ba dải cù lao, rất thuận tiện cho giao thông vận tải cũng như thủy lợi. Tàu bè từ thành phố Hồ Chí Minh đi về miền Tây và ngược lại đều đi qua đất Bến Tre. Cùng với hệ thống đường thủy, Bến Tre còn có hệ thống đường bộ: - Đoạn quốc lộ 60 chạy từ phà Rạch Miễu qua thị xã Bến Tre, qua Phà Hàm Luông, thị trấn Mỏ Cày, đến phà Cổ Chiên sang tỉnh Trà Vinh. - Đoạn quốc lộ 57 từ thị trấn Mỏ Cày, qua thị trấn Chợ Lách sang tỉnh Vĩnh Long. - Tỉnh lộ 888 nối thị trấn Mỏ Cày – thị trấn Thạnh Phú. - Tỉnh lộ 885 nối thị xã Bến Tre – thị trấn Giồng Trôm – thị trấn Ba Tri. - Tỉnh lộ 884 từ ngã ba Tân Thành đến bến phà Tân Phú, tỉnh lộ 882, 883, 887… Chính từ những đặc điểm trên, Bến Tre có một vị trí đặc biệt trong thời chiến cũng như trong thời bình. Với hệ thống đường thủy, đường bộ đan chéo nhau chằng chịt như thế, trong chiến tranh, Bến Tre là một chiến trường dễ bị địch chia cắt, phong tỏa. Nhưng mặt khác, địa bàn Bến Tre khá thuận lợi cho sự cơ động của du kích trong chiến đấu và cũng là môi trường cho đặc công thủy hoạt động. Địa hình sông rạch dày đặc, rừng dừa, bãi mía liên hoàn, rừng chồi ven biển kín đáo là nơi “che bộ đội”, “vây quân thù”, tạo thuận lợi cho chiến tranh nhân dân phát triển. Tuy nhiên, sự ngăn cách 3 dãy cù lao cũng khiến cho hoạt động phối hợp chiến đấu, chi viện, tiếp tế, chuyển quân của quân và dân Bến Tre gặp trở ngại không ít. Do điều kiện đất đai và thời tiết nói trên, Bến Tre sớm hình thành một nền kinh tế với cơ cấu ngành khá đa dạng, có thể phát triển trồng trọt, chăn nuôi và khai thác kinh tế biển (nuôi trồng, đánh bắt thủy - hải sản). Bên cạnh việc trồng lúa, Bến Tre rất có ưu thế về cây công nghiệp, đặc biệt là dừa. Cuối thế kỉ XIX Bến Tre có khoảng 4.000 ha dừa, năm 1945 có 21.000 ha, như vậy là chỉ trong vòng nửa thế kỷ diện tích dừa đã tăng lên 5 lần. Trong kháng chiến chống Pháp, dừa Bến Tre tiếp tục phát triển lên đến 60.000 ha, nhưng qua đến 15 kháng chiến chống Mĩ thì diện tích dừa giảm sút nghiêm trọng. Sau ngày giải phóng, Bến Tre chỉ còn lại 16.000 ha nhưng sau đó được phục hồi trên 45.000 ha [83, 8]. Cho đến nay, dừa đã trở thành cây đặc sản số một của đất cù lao Bến Tre, nâng Bến Tre thành tỉnh có diện tích và sản lượng dừa lớn nhất của đồng bằng sông Cửu Long và cũng lớn nhất trong cả nước. Vườn dừa bạt ngàn là phương tiện sống, đem lại nguồn thu nhập đáng kể cho người dân Bến Tre trong thời bình. Đây cũng chính là nơi che chở cho cán bộ cách mạng và chiến sĩ ta trong những năm bị khủng bố ác liệt. Về văn hóa, Bến Tre là một tỉnh có truyền thống văn hóa lâu đời. Tinh thần yêu nước của nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu, nhà thơ lớn của dân tộc, ảnh hưởng rất sâu sắc đến nhân dân Bến Tre. Người dân Bến Tre vẫn tự hào với ngòi bút đầy “chất thép” của cụ Đồ Chiểu “Chở bao nhiêu đạo thuyền không khẳm. Đâm mấy thằng gian bút chẳng tà”. Vùng đất "địa linh nhân kiệt" này còn sinh ra nhiều danh nhân như: nhà giáo Võ Trường Toản, học giả Phan Thanh Giản - Vị Tiến sĩ đầu tiên của Nam Kỳ đã để lại cho quê hương một gia tài đồ sộ với hơn 500 bài thơ, bài văn. Trong lĩnh vực văn nghệ, báo chí, Bến Tre cũng đã sinh ra những người con mà tên tuổi của họ đã góp phần làm rạng danh nền văn hóa nước nhà. Lịch sử báo chí Việt Nam đã được khởi đầu bởi những con người có trình độ uyên thâm như: - Nhà văn hóa Trương Vĩnh Ký - người làm báo đầu tiên ở Việt Nam, người thông thạo 27 thứ tiếng nước ngoài (12 ngôn ngữ phương Tây, 15 ngôn ngữ phương Đông). Trong khoảng thời gian 40 năm (1858 - 1898), Trương Vĩnh Ký đã để lại cho đời 118 tác phẩm, bao gồm sách nghiên cứu, sưu tầm, dịch, phiên âm trong đó có hàng chục quyển sách viết bằng Pháp văn. - Sương Nguyệt Anh, người con gái tài ba của nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu - chủ bút tờ "Nữ Giới Chung" và Lê Hoằng Mưu - chủ bút tờ “Lục Tỉnh Tân Văn”. Mảnh đất này còn đóng góp những nghệ sĩ tài năng cho đất nước như: 16 - Nghệ sĩ Nhân dân Lê Long Vân (Ba Vân), người đã toàn tâm toàn ý dâng trọn cuộc đời cho sân khấu cải lương. - Nhà nghiên cứu mỹ thuật Nguyễn Phi Hoành - Họa sĩ Lê Văn Đệ - Kiến trúc sư Huỳnh Tấn Phát - Nhà điêu khắc Diệp Minh Châu, một gương mặt lớn của nền nghệ thuật tạo hình Việt Nam và tên tuổi của ông đã được đã được giới thiệu trong Bách khoa toàn thư của châu Âu. Kế thừa truyền thống văn thơ yêu nước và cách mạng, những thành tựu trên các lĩnh vực văn hóa nghệ thuật của cha ông, nhân dân Bến Tre đã đẩy mạnh các hoạt động thơ ca, văn nghệ, hội họa, mĩ thuật phục vụ cho kháng chiến chống Pháp và chống Mĩ, chống lại có hiệu quả nền văn hóa nô dịch của bọn xâm lược. 1.1.2 Phụ nữ Bến Tre trong công cuộc khai phá, định cư Thế kỉ XIII, Châu Đạt Quan, một sứ thần của nhà Nguyên (Trung Hoa) trong._. chuyến kinh lý sang kinh đô Ăngco của Chân Lạp bằng đường thủy từ biển ngược sông Cửu Long di qua vùng đất Nam Bộ ngày nay đã viết “Bắt đầu từ Chân Bồ (vùng biển Vũng Tàu ngày nay), gần hết cả vùng đều là bụi rậm của rừng thấp, những cửa rộng của con sông lớn chảy dài hàng trăm dặm…Vào nửa đường trong sông, thấy những cánh đồng hoang không có một gốc cây. Xa nữa, tầm mắt chỉ thấy toàn cỏ cây đầy rẫy. Hàng trăm, hàng nghìn trâu rừng tụ họp từng bầy…” Mãi đến những thập niên cuối thế kỉ XVIII, Lê Quý Đôn còn nhận xét rằng: “Ở phủ Gia Định, đất Đồng Nai, từ các cửa biển Cần Giờ, Lôi Lạp, cửa Đại, cửa Tiểu trở vào, toàn là rừng rậm hàng ngàn dặm” [86, 11]. Như vậy, vùng Nam Bộ nói chung, vùng đất Bến Tre nói riêng vẫn còn là một vùng đất hoang vu chưa được khai phá bao nhiêu. Việc khai khẩn ruộng vườn của cư dân tại chỗ - người Khơme chỉ tập trung trên các giồng đất cao như Sóc Sãi, giồng Ông Giang, giồng Nâu ở cù lao Bảo; giồng Văn, giồng Võ, Đa Phước, An Thạnh, Ba Vát ở cù lao Minh. 17 Từ thế kỉ XVII trở đi, bộ mặt vùng đất Bến Tre bắt đầu biến đổi mạnh khi có sự xuất hiện của một lớp cư dân mới – lưu dân người Việt và lưu dân người Hoa. Bến Tre tuy nằm phía nam sông Tiền, nhưng lịch sử khai phá của những lưu dân Việt ở vùng này không muộn hơn vùng Bà Rịa, Mô Xoài hay vùng Đồng Nai, Bến Nghé là mấy, vì đây là những cù lao lớn, đất đai màu mỡ lại nằm cuối dòng Cửu Long, cận biển, có những cửa lớn như cửa Đại, cửa Tiểu… Những lưu dân người Việt đến vùng Bến Tre trong những năm cuối thế kỉ XVII và thế kỉ XVIII hầu hết là những người từ các tỉnh miền Trung. Họ gồm nhiều thành phần khác nhau, nhưng đông đảo nhất là những người nông dân nghèo khổ phải gánh chịu những hậu quả nặng nề của chiến tranh giữa các tập đoàn phong kiến Trịnh – Nguyễn, nên phải rời bỏ quê hương đi tìm đất sống. Thành phần đông đảo thứ hai là những người trốn lính hoặc lính đào ngũ, những tù nhân bị lưu đày. Ngoài ra còn có một bộ phận những người có tiềm lực kinh tế, có óc phiêu lưu mạo hiểm ở vùng Thuận Quảng – những người mà Lê Quý Đôn gọi là “dân có vật lực” theo lời kêu gọi của chúa Nguyễn, họ muốn thử thời vận làm giàu, vào đây để mở rộng kinh doanh tạo nên sản nghiệp mới. Trong hành trình của mình, những lưu dân Việt chủ yếu đi theo đường biển bằng phương tiện ghe bầu, bởi vì, trong các thế kỉ XVII-XVIII, đường bộ từ miền Thuận Quảng vào đất Nam Kỳ còn rất khó khăn, nguy hiểm. Một số đã vào vùng Biên Hòa, Bến Nghé, Vũng Gù trước đó, nhưng vì chưa tìm được điều kiện thuận lợi để bám trụ nên phải tiếp tục đi tới và hội tụ về đất Bến Tre. Số người này có thể đã tới đây bằng hai cách, hoặc di chuyển theo đường bộ, hoặc theo đường thủy. Những người đến bằng đường biển đã theo cửa Tiểu, cửa Đại, cửa Ba Lai, cửa Hàm Luông vào định cư ở những vùng đất cao dọc các con sông lớn, hoặc chọn các khu đất giồng để khai phá. Cùng với lưu dân người Việt, vào cuối thế kỉ XVII, trên đất Bến Tre, ít nhất là cù lao An Hóa còn có số lưu dân người Hoa thuộc nhóm Dương Ngạn Địch. Nhóm này (cùng với nhóm Trần Thượng Xuyên) vốn là di thần nhà Minh bất phục nhà Thanh chạy sang Việt Nam xin tị nạn. Khi đến định cư ở Mỹ Tho, có một bộ phận 18 đã vượt sông sang cù lao An Hóa, vùng đối diện với Mỹ Tho, ở các ấp ven sông Ba Lai thuộc xã Phước Thạnh, huyện Châu Thành ngày nay. Với việc chuyển cư diễn ra liên tục, dân cư Bến Tre ngày càng đông đúc. Năm 1779, chính quyền nhà Nguyễn đã đặt Bến Tre thành tổng Tân An (thuộc dinh Long Hồ) gồm cả cù lao Bảo và cù lao Minh [85]. Đến vùng đất mới, những lưu dân phải bắt tay vào việc mưu sinh tìm cách sống, mà trước hết là khai phá các vùng đất hoang. Sự nghiệp khai phá được ông bà ta đúc kết trong câu thành ngữ “Nhất phá sơn lâm, nhì đâm hà bá”. Đây là một công việc cực nhọc, gian truân đầy nguy hiểm và chứa đựng không ít rủi may. “Phá sơn lâm” có nghĩa là chặt cây, phá rừng, khai hoang, vỡ đất để làm ra lương thực nuôi con người. “Đâm hà bá” là làm nghề hạ bạc trên sông nước như chài lưới, giăng câu, đóng đáy giữa đêm hôm và cả những khi sóng gió. Tất nhiên cả hai công việc diễn ra trong môi trường thiên nhiên còn rất hoang vu, xa lạ, bí ẩn, đầy thú dữ, rắn rết đến nỗi “con chim kêu phải sợ, con cá vùng phải kinh” như người ta thường nhắc. Rõ ràng sự nghiệp khai hoang và định cư trên đất Nam Bộ nói chung hay Bến Tre nói riêng là một công việc cực kỳ gian nan, đầy thử thách, nó đòi hỏi ý chí, lòng gan dạ, mưu trí cộng với sức mạnh hợp quần của cả cộng đồng mới có thể vượt qua để tồn tại và phát triển. Dân gian vẫn còn lưu truyền nhiều tấm gương giỏi giang, dũng cảm của các bậc tiền nhân đi mở đất. Bên cạnh hình ảnh những ông thầy võ, những nhà sư dũng cảm có khả năng đánh cọp, giết cá sấu, quần chúng đã ngợi ca “ghi công” các bà bằng những câu chuyện kể, truyền thuyết, bằng các câu hò, câu lý…Về khả năng chế ngự thiên nhiên, khuất phục cả chúa sơn lâm của phụ nữ, tác giả Gia Định thành thông chí có viết: “…xứ này có nhiều cá sấu và cọp dữ, nên dân cư đã thường quen, không sợ hãi, dù trẻ con, đàn bà cầm dao cắt cỏ và đòn xóc cũng bắt được cọp” [86, 12]. Cách khắc họa tên tuổi những người phụ nữ giỏi giang trong khai hoang, tạo nên xóm làng, chợ búa chủ yếu chỉ bằng bia miệng nhưng lại có sức bền cùng với thời gian và in đậm trong ký ức nhân dân.. Thực tế ngày nay, trên quê hương Bến Tre, từ 19 các xã ở phía cuối các cù lao cho đến bờ biển Thạnh Phú, Ba Tri, Bình Đại ta bắt gặp không ít địa danh mang tên “Bà”. Về rạch có rạch Bà Khoai, rạch Bà Thầy Vân, rạch Bà Tư Rựa, rạch Bà Nhựt, rạch Bà Tam, rạch Bà Hiền, rạch Bà Giải… Có đến hơn chục con giồng có diện tích tương đương với một ấp, một xóm mang tên “Bà” như giồng Bà Nhiên, giồng Bà Khoai, giồng Bà Trường, giồng Bà Khắc, giồng Bà Tang, giồng Bà Ngãi, giồng Bà Trương, giồng Bà Thủ…[86, 21] Có bốn cồn trên sông và ven biển tương đương với một ấp mang tên “Bà”: cồn Bà Tư (còn gọi là cồn Bà Tư Phò), cồn Bà Tam, cồn Bà Thiếc, cồn Bà Nở (cồn này nằm trên sông Tiền, nay thuộc tỉnh Tiền Giang). Có bốn chiếc cầu mang tên “Bà”: cầu Bà Mụ, cầu Bà Vụ, cầu Bà Ươm, cầu Bà Ba Ngỡi. Ở huyện Bình Đại có chợ mang tên “Bà” là chợ Bà Khoai, Ba Tri có chợ Bà Hiền. Điểm lại, số rạch mang tên “Bà” nhiều nhất ở huyện Bình Đại, số giồng mang tên “Bà” nhiều nhất ở huyện Giồng Trôm và huyện Ba Tri. Ở huyện Mỏ Cày còn có địa danh đìa Bà Thầy, tên một bà thầy thuốc nam tận tụy với nghề, giàu lòng nhân ái đã từng cứu sống nhiều người bệnh. Ngày xưa, còn có một nghề cao quý do phụ nữ độc quyền đảm nhiệm, đó là nghề hộ sinh (do quan niệm phong kiến nên trước đây đàn ông thường không làm công việc này). Thuở khai hoang, đất rộng người thưa rất cần nhân lực, việc sinh đẻ của phụ nữ vừa nhằm đáp ứng nhu cầu sức lao động đồng thời để có người nối dõi, kế thừa hương lửa cho gia đình. Hộ sinh – một nghề quan trọng là thế nhưng hầu như không có ai qua trường lớp, mà chỉ qua kinh nghiệm mẹ truyền con nối hoặc bà truyền cho cháu. Với tấm lòng và kinh nghiệm tích lũy qua năm tháng, có nhiều bà mụ ngày xưa đã đỡ qua tay mình hàng trăm, hàng ngàn đứa trẻ, góp cho xã hội những thế hệ kế tục sự nghiệp của cha ông, nhưng nghề mụ chỉ cốt mong sao cho “mẹ tròn con vuông”, không cầu tiền bạc, không tính ơn nghĩa. Danh tiếng, đức độ và tài năng của các bà mụ đã được nhân dân huyền thoại hóa qua câu chuyện bà mụ đỡ đẻ cho con cọp cái và được cọp trả ơn ở Thạnh Phú. Ngày nay, tại thị xã Bến Tre 20 vẫn còn chiếc cầu mang tên cầu Bà Mụ cũng với ý nghĩa ca ngợi, nhớ ơn công lao của các Bà Mụ. Đầu thế kỉ XIX, dân số Bến Tre đạt khoảng 10 vạn người [86, 24]. Con số này mang nhiều ý nghĩa không chỉ liên quan đến sức sản xuất mà cả với vấn đề phát triển kinh tế, xã hội. Làng mạc lúc này đã nối nhau liền dải, giao thông phát triển, chợ búa, đình chùa, nhà thờ được xây cất ở nhiều nơi; sản xuất nông nghiệp, ngư nghiệp phát triển. Cùng với đó là các nghề thủ công mới ra đời. Có nhiều nghề thu hút đông đảo phụ nữ tham gia hoặc họ có lợi thế nhất như nghề trồng dâu, nuôi tằm, ươm tơ, dệt lụa. Bàn tay phụ nữ ở đây cũng đã tạo ra những đặc sản nổi tiếng của xứ cù lao như chiếu Nhơn Thạnh, cau Xẻo Sâu, bánh tráng Mĩ Lồng, bánh phồng Sơn Đốc…và hàng chục món ăn khác được chế biến với dừa, một loại cây đặc sản của Bến Tre. Trên lĩnh vực lưu thông phân phối, ngay từ thời đường bộ chưa phát triển mấy, chưa có phương tiện vận tải cơ giới, thì việc gánh gồng bằng đôi vai trên những dặm đường dài hàng chục cây số, hay chèo ghe bơi thuyền trên sông rạch để thu mua, phân phối những nhu yếu phẩm, phần lớn đều do phụ nữ cáng đáng. Buổi đầu khai phá, thiết lập làng xã, vai trò người phụ nữ còn thể hiện trong lĩnh vực trồng người. Theo Chuyên khảo tỉnh Bến Tre, thời phong kiến, trước khi thực dân Pháp xâm lược, phủ Hoằng Trị (gồm cù lao Minh và cù lao Bảo) lúc ấy có đến 70 trường dạy chữ nho [86, 26]. Điều thú vị là ở đất này không chỉ có ông đồ mà có cả bà đồ với ý nghĩa là thầy dạy học thực thụ chứ không phải gọi theo danh xưng của chồng. Trường hợp bà Sương Nguyệt Anh – con gái thứ tư của nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu là một điển hình như thế. Năm 1888, cha mất, bà ở cùng người anh là Nguyễn Đình Chúc, tham gia dạy học cùng anh. Về sau cùng gia đình anh, chuyển sang Cái Nứa (Mỹ Tho), rồi dời về Rạch Miễu (Châu Thành – Bến Tre). Tại đây, sau khi chồng mất, bà mở trường dạy chữ Nho cho học trò trong vùng để sinh sống [107]. Những chuyện kể dân gian lại khắc sâu hình ảnh của người phụ nữ vốn được mệnh danh là vị tổ của nghề ươm tơ, dệt lụa, đã truyền dạy kinh nghiệm sản xuất 21 cho nhân dân ở Ba Tri, đó chính là bà Nguyễn Thị Hậu - vợ ông Thái Hữu Kiểm (còn gọi là ông già Ba Tri). Lịch sử cũng ghi lại nhiều tấm gương những người phụ nữ cần mẫn lo chăm lo cho con ăn học: Bà Trần Thị Dưỡng, kế mẫu của Phan Thanh Giản chắt chiu từng bát gạo, con mắm nuôi con chồng ăn học thành tài (Phan Thanh Giản mất mẹ lúc 7 tuổi), trở thành vị tiến sĩ đầu tiên của Nam Kỳ dưới thời phong kiến, làm quan đến bậc đại thần, bà Nguyễn Thị Châu, mẹ của văn hào Trương Vĩnh Ký, góa chồng lúc Ký mới 6 tuổi, đã nuôi dạy con ăn học thành tài… Nhìn lại chặng đường lịch sử khai hoang, mở đất đầy gian lao, nhưng thành tựu đạt được quả là to lớn, trong đó có sự đóng góp rất quan trọng của phụ nữ về sức lực, tài năng và trí truệ. Đó là lực lượng đắc lực không thể thiếu được bên cạnh nam giới, không chỉ trên lĩnh vực kinh tế, mà trên mọi mặt của đời sống. Những tấm gương tiêu biểu của các mẹ, các chị đã tạo nên giá trị tinh thần to lớn, là ngọn nguồn, là niềm tin hun đúc tinh thần của các thế hệ con cháu sau này trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ quê hương đất nước. 1.2 Truyền thống cách mạng của phụ nữ Bến Tre trước 1954 1.2.1 Thời Pháp thuộc (1867-1945) Ngày 1-9-1858, hạm đội liên quân Pháp – Tây Ban Nha nổ súng tấn công Đà Nẵng, mở đầu cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam. Sau thất bại của kế hoạch đánh nhanh thắng nhanh, Pháp chuyển hướng tấn công đánh vào Gia Định. Cuộc tổ chức kháng chiến của quân triều đình thất bại, thành Gia Định bị chiếm, quân đội triều đình phải rút ra vòng ngoài, đào hào, đắp lũy, tiếp tục cuộc kháng chiến. Nhân dân Nam Kỳ lúc ấy, mà trực tiếp nhất là các tỉnh Biên Hòa, Định Tường, Vĩnh Long (trong đó có Bến Tre) đã nô nức góp tiền, góp gạo giúp quân triều đình, đồng thời tổ chức những nhóm nghĩa quân tham gia chống quân xâm lược, bảo vệ quê hương. Chị em phụ nữ cũng nhận thức được vai trò, trách nhiệm của mình cần gánh vác để cho chồng yên tâm lên đường giết giặc: Anh đi đánh giặc Lang Sa 22 Để thiếp ở nhà lo tần, lo tảo Chén cơm, manh áo, nhà cửa ruộng vườn… Trong thực tế, người phụ nữ không chỉ biết tần tảo, lo chén cơm manh áo, lo chăm sóc mẹ già, con dại, vừa gánh vác việc nhà thay chồng, mà họ còn đồng thời chung vai góp sức vào việc tải lương, tải đạn, đào hào, đắp lũy, xây dựng phòng tuyến chống giặc, đi liên lạc, làm trinh sát…Tuy nhiên, những nhà viết sử thời ấy thường chỉ ghi chép về hành động anh hùng của phái nam mà ít chú ý đến những gương sáng, những gương oanh liệt của chị em phụ nữ. (Điều này cũng dễ hiểu, vì xã hội bị những quan niệm phong kiến chi phối – theo quan niệm đó, vai trò và địa vị của người phụ nữ không được đề cao). Nguyễn Thông – một người đã từng ghi chép những truyện anh hùng cũng đã có lần tự trách: “Từ khi người Tây gây hấn ở Lục tỉnh, sĩ phu và dân chúng đã liều mình đứng lên khẳng khái chịu chết, kể không xiết được…còn như ở chốn làng xa, ngõ hẻm, những trinh phụ, liệt nữ trung nghĩa không chịu ô nhục, chống giặc đến chết có mấy chục người. Tiếc rằng thời thế đổi đời, đường sá cách trở, sự tích không sao biết rõ hết được” [95, 25]. Những người phụ nữ ấy chắc hẳn không mong mình được lưu danh sử sách, họ hành động như một điều tất yếu phải làm. Có một điều dễ nhận thấy, đó là ngay trong những ngày đầu, khi thực dân Pháp đặt gót giày xâm lược giày xéo quê hương, người phụ nữ đã tích cực tham gia cùng với nam giới để bảo vệ từng tấc đất quê hương, tinh thần yêu nước và đánh giặc giữ nước của người phụ nữ được biểu hiện từ rất sớm trên vùng đất mới. Nhưng phải từ năm 1930, với sự ra đời và lãnh đạo của đảng Cộng sản, hoạt động yêu nước của phụ nữ mới có phương hướng rõ rệt, có tổ chức thành phong trào thật sự và thành một lực lượng chính trị quan trọng. Ngày 03-2-1930, đồng chí Nguyễn Ái Quốc đã chủ trì hội nghị đại biểu của ba tổ chức cộng sản trong nước, họp tại Cửu Long (Trung Quốc) để hợp nhất thành một Đảng, lấy tên là Đảng Cộng sản Việt Nam (đến tháng 10-1930, Đảng đổi tên thành Đảng Cộng sản Đông Dương) 23 Vào cuối tháng 4-1930, ở Bến Tre, chi bộ đầu tiên của Đảng Cộng sản được thành lập tại xã Tân Xuân (Ba Tri) trên cơ sở những đảng viên chuyển từ Hội Việt Nam cách mạng thanh niên sang và một số đảng viên mới. Chi bộ gồm 11 người, trong đó có 1 đảng viên nữ là Nguyễn Thị Thâm. Đây cũng là người đảng viên nữ đầu tiên ở Bến Tre [86, 39]. Hoạt động đầu tiên của phong trào phụ nữ dưới sự lãnh đạo của chi bộ Tân Xuân là cuộc biểu tình để biểu dương lực lượng nhân kỉ niệm ngày Quốc tế lao động 1-5- 1930. Cuộc biểu tình này đã gây ảnh hưởng tốt trong nhân dân, tạo một khí thế cách mạng quần chúng sôi nổi. Đến tháng 6-1930 liên ủy Bến Tre – Mỹ Tho được thành lập theo chỉ đạo của xứ ủy Nam Kỳ. Các tổ chức quần chúng cũng phát triển nhanh chóng. Sang đầu năm 1931, nhiều cuộc biểu tình quần chúng đòi dân sinh, dân chủ diễn ra khắp nơi, thu hút đông đảo phụ nữ tham gia như ở Tân Thủy, Tân Hưng, Tân Xuân, Bình Thạnh (Ba Tri), Phú Nhuận, Phước Long (Châu Thành), An Thạnh, Phước Hiệp (Mỏ Cày), An Thạnh, An Quy (Thạnh Phú), Lộc Thuận (An Hóa) và ở thị xã Bến Tre. [1, 40] Trong cao trào đấu tranh đòi dân chủ những năm 1936-1939, lực lượng phụ nữ tham gia khá đông vào các “Ủy ban hành động”, họ đấu tranh đòi tăng lương, đòi giảm thuế, đòi chia lại đất công điền, buộc điền chủ phải tăng tiền công cấy, công gặt. Các chị như Nguyễn Thị Hạp ở Sơn Hòa, Đặng Thị Thèn ở thị xã…thuộc lớp Đảng viên đầu tiên của Đảng bộ Bến Tre đã có nhiều đóng góp cho phong trào. Hưởng ứng cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ do xứ ủy phát động, đêm 22 rạng ngày 23- 11-1940, đảng bộ và nhân dân Bến Tre đã nổi dậy dưới lá cờ đỏ sao vàng. Cuộc khởi nghĩa bị đàn áp khốc liệt. Ở Bến Tre có 400 người bị bắt, bị tra khảo, nhục hình, nhiều đảng viên bị lưu đày, trong đó có nhiều đảng viên nữ [86, 41]. Đặc biệt, trong cách mạng tháng Tám 1945, phụ nữ tham gia tích cực trong Hội phụ nữ cứu quốc cùng với các đoàn thể, tổ chức quần chúng và Việt Minh tiến hành tổng khởi nghĩa giành chính quyền về tay nhân dân, mở ra một trang mới trong lịch sử dân tộc. Đối với riêng giới nữ, cách mạng tháng Tám cũng là mốc đánh dấu thời kỳ người phụ nữ được bình đẳng với nam giới, tham gia vào mọi hoạt động, mọi tổ 24 chức xã hội, đem hết khả năng của mình phục vụ đất nước, trước hết là củng cố nền độc lập mới giành được. Có thể nhận thấy, trong suốt giai đoạn từ nửa sau thế kỷ XIX cho đến cách mạng tháng Tám 1945, qua các phong trào yêu nước chống ngoại xâm từ buổi đầu cho đến các phong trào đấu tranh cho dân sinh, dân chủ và giải phóng dân tộc, phụ nữ Bến Tre luôn có mặt, kề vai sát cánh cùng các tầng lớp nhân dân trong những lúc thuận lợi cũng như khó khăn, sớm có mặt trong hàng ngũ những người cộng sản và đã tỏ ra kiên cường, bất khuất trước mọi sự khủng bố, đàn áp của kẻ thù. Tinh thần ấy được các thế hệ phụ nữ tiếp tục gìn giữ và phát huy trong giai đoạn kháng chiến chống Pháp sau này. 1.2.2 Giai đoạn kháng chiến chống Pháp (1945-1954) Sau cách mạng tháng Tám, những ngày đầu xây dựng và củng cố chính quyền cách mạng, chị em phụ nữ sôi nổi hưởng ứng “Tuần lễ vàng” và “Quỹ độc lập”. Nhiều chị em đem cả các tư trang, vật kỉ niệm ngày cưới, của hồi môn đóng góp vào quỹ kháng chiến. Những hành động cao quý ấy nói lên tấm lòng yêu nước nồng nàn của người phụ nữ lúc bấy giờ. Ngày 23-9-1945, Pháp bắt đầu nổ súng tái chiếm Nam Bộ. Ở Bến Tre do địa hình sông nước cách trở nên bị chiếm muộn hơn, nhưng khoảng thời gian được tự do chỉ 135 ngày [86, 49]. Và như nhiều nơi khác ở Nam Bộ, nhân dân Bến Tre lại bước vào cuộc kháng chiến chống Pháp lần thứ 2. Người phụ nữ lại gánh vác công việc hậu phương và tiễn chồng ra trận. Tuy nhiên, họ không chấp nhận như người “chinh phụ” xưa chỉ biết tần tảo nuôi con và chờ chồng. Người phụ nữ Nam Bộ nói chung, phụ nữ Bến Tre nói riêng không chỉ đảm đang việc nhà cho chồng yên tâm đi chiến đấu mà còn đánh giặc ngay tại quê nhà. Họ tham gia du kích, công tác bố phòng, an ninh làng xóm, đi dân công tải lương, tải đạn, nuôi giấu cán bộ, làm địch vận và tham gia các sinh hoạt xã hội, đoàn thể v.v…Hầu hết nữ thanh niên ở thôn ấp đều tham gia vào các đội dân quân du kích, bảo vệ trật tự an ninh, đánh giặc giữ làng. Họ có mặt trong các ban chỉ huy 25 xã đội, huyện đội, tỉnh đội ngang hàng với nam giới. Lực lượng dân quân du kích này cũng đóng vai trò rất quan trọng trong sản xuất nông nghiệp. Chị em đi cày bừa, phát cỏ, làm những việc trước đây nam giới đảm nhiệm. Ở những nơi địch đánh phá suốt ban ngày, chị em sản xuất vào ban đêm. Phong trào trồng bông dệt vải, trồng dâu nuôi tằm, phục hồi nghề dệt thủ công để tự túc vải mặc cho nhân dân và cho cả bộ đội phát triển khá mạnh ở Bến Tre. Vải làm ra không những đáp ứng nhu cầu trong tỉnh mà còn bán sang tỉnh bạn [86, 53]. Cuộc kháng chiến ngày càng gay go, kéo dài, không chỉ mang tính chất toàn dân mà còn diễn ra một cách toàn diện trên tất cả mọi lĩnh vực của đời sống. Đường lối kháng chiến mà đảng đã đề ra trong lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến ngày 19-12- 1946 là “toàn dân, toàn diện, lâu dài và tự lực cánh sinh” [5, 44]. Chính vì thế, yêu nước lúc bấy giờ không chỉ đơn thuần là đánh giặc ngoại xâm, diệt giặc đói mà còn phải diệt giặc dốt. Do đó, mặc dù trong hoàn cảnh kháng chiến hết sức khó khăn, chính quyền và các đoàn thể cách mạng vẫn cố gắng tổ chức các lớp học bình dân cho nhân dân, chủ yếu là nông dân, trong đó phụ nữ chiếm một tỉ lệ không nhỏ. Một phong trào thi đua học tập xóa mù chữ lan ra khắp nơi, từ vùng tự do, vùng du kích đến nhà riêng, đình chùa, trụ sở cơ quan. Nơi nào cũng có sự tham gia của phụ nữ, kể cả các bà, các mẹ. Vượt qua những khó khăn về thời gian, tuổi tác, phương tiện, hoàn cảnh riêng…nhiều chị em đã biết đọc, biết viết, tiến bộ nhanh chóng, đủ sức đảm đương công việc, rồi trở thành những cán bộ lãnh đạo, cán bộ chủ chốt của ngành hay của địa phương. Đầu năm 1948, theo đề nghị của Hồ Chủ Tịch, một phong trào thi đua yêu nước (thi đua ái quốc) được phát động trong toàn quân, toàn dân cùng với phong trào “Đời sống mới”. Ở các cù lao Bến Tre, các phong trào này được đồng bào, cán bộ hưởng ứng sôi nổi. Một không khí thi đua giết giặc lập công, thi đua sản xuất, tiết kiệm, phong trào ăn sạch, ở sạch phát triển rộng khắp, tạo cho vùng kháng chiến một bộ mặt lành mạnh, vui tươi, đầy tin tưởng. Phong trào văn nghệ quần chúng cũng phát triển chưa từng có đã cuốn hút nhiều chị em tham gia: diễn kịch, múa hát, tự biên, tự diễn theo kiểu “cây nhà lá vườn”. Đây không chỉ là nét mới trong sinh 26 hoạt văn hóa tinh thần của nhân dân mà còn là vũ khí động viên tinh thần chiến đấu, thúc giục mọi người vượt qua gian khổ đi lên, tham gia chống giặc cứu nước. Cùng với phong trào nam giới tòng quân lên đường giết giặc, nữ giới cũng tham gia vào các công tác xã hội, gánh vác những nhiệm vụ mới của cách mạng và kháng chiến. Chị em hầu như có mặt ở khắp các ngành các cấp, ngày càng đông và họ cũng chứng tỏ rằng khi có điều kiện, phụ nữ cũng có thể làm được những việc mà xưa nay người ta cứ nghĩ chỉ dành riêng cho nam giới. Nhiều người tham gia vào lực lượng vũ trang, làm y tá cứu thương, thông tin, quân báo và các công tác hậu cần, hoặc có mặt trong bộ máy chính quyền các cấp. Chị Ba Định, chị Cẩm Thưởng, chị Võ Thị Thanh Nhàn là những gương điển hình của rất nhiều người phụ nữ Bến Tre như thế. Sự kiện có ý nghĩa đối với phong trào phụ nữ Bến Tre là Đại hội phụ nữ cứu quốc tại rạp hát Cảnh Xuân ở thị xã (tháng 9-1945). Tại đại hội, đoàn thể phụ nữ ở Bến Tre lấy tên là Đoàn phụ nữ cứu quốc. Một ban chấp hành gồm 11 thành viên được bầu ra, sau đó ở các huyện cũng lần lượt bầu ban chấp hành phụ nữ cứu quốc. Đoàn phụ nữ cứu quốc là một tổ chức đoàn thể làm nòng cốt trong phong trào phụ nữ nói chung, là thành viên của Mặt trận Việt Minh sau này. Từ đây, phụ nữ Bến Tre đã có đoàn thể riêng cho giới mình, hoạt động theo hệ thống dọc từ tỉnh đến huyện, xã. Đoàn phụ nữ cứu quốc không chỉ thu hút chị em lao động, mà còn tập hợp, đoàn kết hầu hết các nữ giáo chức, các chị em thuộc tầng lớp trí thức, tiểu tư sản và tư sản có tinh thần dân tộc, yêu nước, động viên họ đóng góp tiền của, công sức cho sự nghiệp kháng chiến. Khi nói về phong trào phụ nữ thời 9 năm kháng chiến, không thể không đề cập đến Hội mẹ chiến sĩ – một tổ chức có vai trò hết sức quan trọng trong mọi mặt hoạt động của Hội phụ nữ lúc đó. Hội tập hợp hầu hết phụ nữ trung niên, những bà mẹ từ 45 tuổi trở lên. Hội không có hệ thống dọc, nhưng được thành lập hầu khắp các xã, từ vùng tự do đến vùng du kích và cả trong vùng địch tạm chiếm. Hoạt động của Hội rất phong phú và đa dạng. Các hội viên Hội mẹ chiến sĩ đóng vai trò nòng cốt trong phong trào “ủng hộ bộ đội”, “nuôi quân” khi họ đang trong đội ngũ chiến đấu, 27 nhận nuôi thương binh khi anh em không còn khả năng chiến đấu phải phục viên mà không có nơi nương tựa. Thậm chí các mẹ còn đứng ra xây dựng gia đình, bảo trợ cuộc sống đối với anh em như con ruột của mình. Khi chiến sự xảy ra mà bộ đội ta phải rút không đưa thương binh, tử sĩ đi kịp thì chính các mẹ là người tìm cách giấu thương binh, nuôi dưỡng, rồi sau đó móc nối tìm đường đưa các anh trở về đơn vị hoặc căn cứ, các mẹ cũng là người tổ chức tắm rửa, chôn cất cho các tử sĩ. Hội mẹ chiến sĩ vận động các chị, các mẹ tăng gia sản xuất để nuôi quân, mỗi nhà có “hũ gạo kháng chiến”, con gà, liếp rau, buồng chuối cứu quốc để khi cần tiếp tế ngay cho bộ đội. Tình thương yêu, chăm sóc của các mẹ, các chị không chỉ dành riêng cho những chiến sĩ vệ quốc mà còn dành cho các cán bộ cách mạng nói chung, thắm đượm tinh thần “tình dân nghĩa Đảng”. Chính các mẹ, các chị là những người nuôi giấu, che chở bảo vệ cơ sở Đảng, cơ sở cách mạng, đào hầm bí mật, canh chừng địch, bảo vệ bí mật, bảo vệ cơ quan. Điều này đã trở thành nếp, thành ý thức thấm sâu trong lòng các mẹ, bà chị và được kế thừa, phát huy mạnh hơn, linh hoạt hơn trong thời chống Mĩ. Trong những cống hiến của phụ nữ Bến Tre thời kháng chiến chống Pháp, có hai sự kiện để lại dấu ấn sâu đậm trong ký ức nhân dân. Đó là việc chị Ba Định cùng một số đồng chí khác như Ca Văn Thỉnh, bác sĩ Trần Hữu Nghiệp, Đào Công Trường được Tỉnh ủy Bến Tre giao nhiệm vụ vượt biển (trong hoàn cảnh bị địch bao vây, phong tỏa rất ngặt nghèo) ra Trung ương để báo cáo tình hình và xin vũ khí tiếp sức cho cuộc chiến đấu của chiến sĩ và đồng bào đang “đói” súng và đạn dược (1946). Sau đó, chị đã chọc thủng vòng vây của giặc, trở về trên chiếc thuyền đầy ắp vũ khí, hoàn thành nhiệm vụ một cách thắng lợi mà ít ai ngờ đến. Sự kiện thứ hai là việc khai sinh ra con kênh mang tên Phụ Nữ dưới tầm bom pháo của giặc bằng sức lực của hàng ngàn dân công nữ của hai huyện Mỏ Cày và Thạnh Phú. Công trình được hoàn thành trong thời gian kỷ lục (3 tháng), đã góp phần giải quyết nhu cầu bức xúc về vận chuyển lương thực, vũ khí, đạn dược, thương binh ở cù lao 28 Minh. Có thể coi đây là hai nét son rạng rỡ trên trang sử phụ nữ Bến Tre thời kháng Pháp. So với thời kỳ thuộc Pháp, hoạt động của phụ nữ Bến Tre có những nét mới khởi sắc hơn. Nếu như giai đoạn trước, những đóng góp của chị em phần lớn thể hiện ở vai trò hậu phương kháng chiến, sự tham gia các phong trào đấu tranh ở mức độ dè dặt nhất định, thì giai đoạn này, chị em đã tích cực, chủ động hòa nhịp chung vào các phong trào đấu tranh cùng với nam giới trên nhiều lĩnh vực: quân sự, văn hóa, y tế, giáo dục…, có đoàn thể riêng của giới mình (Đoàn phụ nữ cứu quốc) và nhiều người tham gia trong bộ máy chính quyền các cấp. Nhìn lại chặng đường 9 năm kháng chiến chống Pháp, phụ nữ Bến Tre đã có những cống hiến to lớn, đáng tự hào. Họ có mặt trên hầu khắp mọi hoạt động xã hội, trong các ngành kinh tế, chính trị, quân sự, văn hóa. Ở một số lĩnh vực vai trò người phụ nữ trở nên nổi bật, hay là người đi đầu như trong vấn đề tăng gia sản xuất, nuôi quân, đặc biệt là trong hoạt động của Hội mẹ chiến sĩ. Điều đó chứng minh rằng nếu biết tổ chức, động viên, làm bật dậy sức lực và trí tuệ của chị em thì sự cống hiến của họ không thua gì nam giới. Trải qua nhiều khó khăn gian khổ thiếu thốn, vượt lên nhiều nỗi đau mất mát, có biết bao người chị, người mẹ biết nén đau thương, tiếp tục đứng lên gánh vác những nhiệm vụ mà cách mạng đang cần họ. Qua đó, đội ngũ cán bộ nữ ngày càng trưởng thành hơn về số lượng cũng như chất lượng, vị trí của người phụ nữ trong xã hội được nâng cao. Đó cũng là bước chuẩn bị lực lượng, đội ngũ, kinh nghiệm để bước vào một cuộc chiến đấu mới đầy hi sinh, phức tạp và ác liệt hơn nhiều trong hơn hai thập kỉ tiếp theo – giai đoạn kháng chiến chống Mĩ cứu nước. 29 Tiểu kết chương 1 Ngay từ buổi đầu khai hoang mở đất, người phụ nữ đã tham gia tích cực trong tất cả các lĩnh vực của đời sống, chung tay góp sức với nam giới tạo lập cuộc sống trên vùng đất mới. Vượt qua những khó khăn thiếu thốn về vật chất, về thể trạng, những khắc nghiệt của thiên nhiên, người phụ nữ đã khẳng định vai trò to lớn của mình, không chỉ bó hẹp ở phạm vi gia đình, mà còn vượt ra ngoài xã hội. Thực tế đã minh chứng vô cùng sinh động: phụ nữ có mặt trong đoàn người di cư vào nam, họ tham gia khẩn hoang, lập làng, hoạt động kinh tế, văn hóa. Cùng với các thành phần xã hội khác, họ biến vùng đất Bến Tre còn nhiều hoang vu thành một dải cù lao màu mỡ, xanh tươi, đầy sức sống. Có thể xem đây là cống hiến đầu tiên của nữ giới, tạo ra tiền đề cho các thế hệ sau tiếp nối truyền thống của người đi trước. Khoảng thời gian nước ta đặt dưới ách thống trị của thực dân Pháp là một thử thách thật sự đối với cả dân tộc nói chung và giới nữ nói riêng. Thực tế lịch sử đã cho thấy, người phụ nữ đủ bản lĩnh và ý chí đối mặt với những khó khăn trong suốt cuộc kháng chiến trường kì của dân tộc. Họ đảm đang việc nhà cho chồng yên tâm chiến đấu, chăm lo sản xuất, góp gạo nuôi quân…Chăm lo hậu phương kháng chiến là một công việc thường xuyên và có hiệu quả của nữ giới. Đây cũng là đóng góp nổi bật của phụ nữ trong thời kì thuộc Pháp. Nhưng khả năng của người phụ nữ chỉ thực sự được phát huy khi có Đảng giác ngộ, động viên. Qua đó, họ tập hợp thành đội ngũ, có tổ chức, tham gia nhiệt tình các hoạt động yêu nước, cùng với toàn dân làm cuộc cách mạng tháng Tám thành công. Cách mạng đem lại độc lập, tự do cho dân tộc và những quyền lợi chính đáng của người phụ nữ. Đó cũng là cơ sở, là niềm tin động viên chị em tiếp tục cố gắng, phát huy khả năng, sức lực, trí tuệ của mình trong cuộc kháng chiến chống Pháp trở lại xâm lược ngay sau đó. Giai đoạn kháng chiến chống Pháp, người phụ nữ tỏ ra chủ động và can đảm hơn. Không chỉ làm công tác hậu phương, mà chị em còn tích cực trong lĩnh vực chiến đấu giết giặc. Điểm mới của phong trào phụ nữ giai đoạn này là họ có tổ chức riêng (Hội mẹ chiến sĩ), có đoàn thể riêng của giới mình (Đoàn phụ nữ cứu quốc) 30 thu hút chị em thuộc nhiều thành phần xã hội tham gia. Dưới sự lãnh đạo của Đảng và Đoàn phụ nữ cứu quốc, đội ngũ phụ nữ ngày càng được rèn luyện, trưởng thành. Trong mọi lĩnh vực từ quân sự, quốc phòng cho đến sản xuất kinh tế, văn hóa xã hội đều có dấu ấn của người phụ nữ. Họ trở thành một lực lượng hết sức quan trọng trong khối đoàn kết toàn dân tộc chiến đấu vì một lý tưởng chung. Thành tích ấy rất đáng ghi nhận và tự hào. Trên cơ sở của cuộc đấu tranh chống Pháp, phụ nữ tích lũy cho mình nhiều kinh nghiệm, và đó chính là tiền đề để phụ nữ phát huy hơn nữa vai trò của mình trong giai đoạn kháng chiến chống Mĩ. 31 CHƯƠNG 2. ĐÓNG GÓP CỦA PHỤ NỮ BẾN TRE TRONG KHÁNG CHIẾN CHỐNG MĨ CỨU NƯỚC (1954-1960) 2.1 Tình hình Bến Tre sau Hiệp định Giơ-ne-vơ 2.1.1 Sự can thiệp của Mĩ vào miền Nam Việt Nam Sau chiến thắng Điện Biên Phủ, hiệp định Giơ-ne-vơ được ký kết, Pháp phải công nhận độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của ba nước Đông Dương. Riêng Việt Nam tạm thời bị chia cắt thành hai miền và sẽ có hiệp thương tổng tuyển cử để thống nhất nước nhà vào tháng 7-1956. Tuy nhiên, chỉ một ngày sau khi hiệp định này được ký kết, Tổng thống Mĩ Ai- xen-hao tuyên b._. ly gia đình tham gia vào các đơn vị vũ trang. Họ có mặt trong nhiều binh chủng khác nhau như pháo binh, đặc công thủy, tấn công vào sào huyệt địch. Họ chiến đấu như những chiến binh thực thụ, sẵn sàng xả thân vì cách mạng. Tấm gương chị Tạ Thị Kiều tay không lăn vào đồn giặc vật lộn với chúng, cướp súng, cướp đồn chỉ là một trong nhiều người như thế. Tinh thần kiên quyết tấn công địch của phụ nữ không phải là một sự liều lĩnh, mà chính là sự tin tưởng vững vàng ở chính nghĩa và sức mạnh của mình. Tinh thần đó giúp họ trở nên sáng tạo, mưu trí và linh hoạt trong cách đánh. Đã xuất hiện nhiều nữ anh hùng lực lượng vũ trang, nhiều tấm gương hi sinh oanh liệt và đặc biệt, cũng chính vùng đất này đã xuất hiện một người phụ nữ trở thành vị tướng duy nhất của Việt Nam trong vai trò Phó tư lệnh quân giải phóng miền Nam. Đó là những minh chứng sinh động nhất. Trong khi tham gia chiến đấu với quân thù, phụ nữ vẫn ra sức đảm bảo mọi công việc ở hậu phương. Hầu hết nam giới đều đi tòng quân hoặc bị bắt lính nên chính phụ nữ là lực lượng sản xuất chủ yếu ở nông thôn. Từ việc sản xuất lương thực, hàng tiêu dùng, đến vũ khí, quân trang, quân dụng… đều do người phụ nữ đảm nhiệm cùng lúc họ tham gia trong công tác chính quyền, đoàn thể, các hoạt động văn hóa xã hội nhằm xây dựng nông thôn giải phóng về mọi mặt. Chiến tranh kéo dài hơn 20 năm, gần như gia đình nào cũng gánh chịu những đau thương, mất mát. Khi đó, chị em phụ nữ lại sát cánh bên nhau, tương trợ, đùm bọc nhau để vượt qua nỗi đau. Tình thương yêu, tinh thần đoàn kết lại được phát huy mạnh mẽ. Hội mẹ chiến sĩ không chỉ hỗ trợ đắc lực cho bộ đội, chiến sĩ mà còn 105 làm rất tốt công việc này. Hội đã “hòa lẫn lòng yêu nước, yêu con, yêu chiến sĩ thành một mối yêu thương vô bờ bến” [46, 242]. Công tác hậu phương không chỉ là đảm đang gia đình để chồng con yên tâm đi chiến đấu, tăng gia sản xuất, chăm sóc những thành viên nhỏ tuổi trong gia đình mà còn là việc tiếp tế nuôi quân, tham gia xây dựng làng chiến đấu, săn sóc thương binh, tải thương, tải đạn…Những công việc vừa vất vả cực nhọc và có khi còn phải đổ máu, hi sinh cả tính mạng. Thế nhưng bằng sự nỗ lực lớn lao với tinh thần tự nguyện, tự giác, công việc hậu phương – một trong những nhân tố thường xuyên quyết định thắng lợi của chiến tranh đã được chị em phụ nữ hoàn thành xuất sắc. Ở một khía cạnh khác, không thể không để cập đến tinh thần ngoan cường, bất khuất, lòng thủy chung, trung hậu của hàng ngàn phụ nữ đủ các lứa tuổi qua đủ các nhà tù Mĩ- ngụy, trong đó có nhiều người đã hy sinh trong cuộc thử thách về khí tiết, về phẩm chất trung thành với Tổ Quốc và nhân dân vô cùng căng thẳng và khốc liệt. Nhìn lại quá trình phát triển của phong trào cách mạng Bến Tre nổi bật lên vai trò và ưu thế của giới nữ. Chị em đã vận dụng rất linh hoạt, tài tình ba mũi tấn công địch phù hợp với tính chất, yêu cầu của từng giai đoạn cách mạng, với tương quan giữa ta và địch ở từng nơi, từng lúc, góp phần bẻ gãy tất cả các chiến lược lớn của địch. Từ những ngày đầu kháng chiến chống Mĩ xâm lược đến kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến, phong trào phụ nữ Bến Tre đã có những bước tiến nhảy vọt về chất. Nó xuất phát từ trình độ tự giác cách mạng của quần chúng, từ lòng yêu nước nồng nàn, từ lý tưởng giai cấp sâu sắc. Nó là sự kế thừa truyền thống đấu tranh của dân tộc và cũng là kết quả của một quá trình tích lũy kinh nghiệm của chính bản thân phụ nữ qua nhiều giai đoạn cách mạng từ thời kỳ chống Pháp đến nay. Nó là kết quả của đường lối vận động phụ nữ đúng đắn của Đảng. Việc đánh giá đúng vai trò, vị trí, khả năng và sự cống hiến lớn lao của phụ nữ của Đảng là niềm cổ vũ, động viên rất lớn đối với phong trào phụ nữ Việt Nam nói chung, phong trào phụ nữ Bến Tre 106 nói riêng. Những gì mà chị em đã thể hiện một lần nữa khẳng định nhận thức đúng đắn của Đảng về phụ nữ “Nếu phụ nữ đứng ngoài cuộc đấu tranh cách mạng của công nông thì không bao giờ đạt được mục đích giải phóng”. Sức mạnh của phong trào đấu tranh yêu nước của phụ nữ Bến Tre có tác dụng góp phần thúc đẩy phong trào cách mạng tại tỉnh Bến Tre không ngừng tiến tới. Ngược lại, phong trào cách mạng tại đây phát triển mạnh mẽ tạo điều kiện cho phong trào phụ nữ Bến Tre ngày càng lên cao. Suy cho cùng thì phong trào phụ nữ Bến Tre cũng chỉ là một bộ phận của phong trào phụ nữ miền Nam, nó chịu sự chi phối, tác động và trong một chừng mực nào đó có ảnh hưởng nhất định đối với phong trào này. Còn phong trào phụ nữ miền Nam cũng không đơn giản là phong trào độc lập của riêng giới nữ mà nó là một bộ phận khăng khít của phong trào cách mạng rộng lớn của nhân dân miền Nam, nhân dân Việt Nam nói chung, đấu tranh cho mục tiêu thống nhất nước nhà, nó gắn liền từng bước với mọi thắng lợi của sự nghiệp cách mạng của dân tộc. Mỗi bước nhảy vọt của cách mạng Việt Nam là làm thay đổi căn bản địa vị người phụ nữ trong xã hội, là làm thay đổi sâu sắc cuộc sống của mỗi người phụ nữ Việt Nam, và tất nhiên trong đó có những người phụ nữ của Bến Tre. Kết thúc 21 năm đối đầu với một thế lực đế quốc lớn, chiến đấu dưới ngọn cờ của Đảng Cộng sản Việt Nam, bằng mồ hôi và xương máu, công sức và trí tuệ, phụ nữ Bến Tre đã cùng nhân dân toàn tỉnh viết nên trang sử hào hùng nhất của dân tộc với 7 phụ nữ được tuyên dương Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân, một thiếu tướng Phó tư lệnh miền là bà Nguyễn Thị Định. Trong số 1.774 bà mẹ được phong tặng danh hiệu Bà mẹ Việt Nam anh hùng có nhiều gia đình gồm 2-3 thế hệ anh hùng. Và con số ấy trên thực tế cũng chưa phản ánh hết đầy đủ sự cống hiến của các bà mẹ Bến Tre cho sự nghiệp giải phóng đất nước. Trong cuộc chiến kéo dài 21 năm ấy, những bà mẹ Bến Tre không chỉ cống hiến cho Tổ quốc hàng vạn đứa con yêu quý của mình, mà đông đảo các bà mẹ, các chị và cả những em gái đã có mặt trên mọi ngành hoạt động của cách mạng, hàng vạn 107 chị em trở thành những chiến binh thực thụ và đã lập nên những chiến công đáng tự hào. Nhân dân Bến Tre cũng như nhân dân và phụ nữ cả nước đánh giá rất cao sự cống hiến lớn lao của phụ nữ Bến Tre vào sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc. Thực tế chỉ rõ rằng: nếu phong trào đấu tranh cách mạng tại Bến Tre thiếu sự tham gia đông đảo của lực lượng phụ nữ thì sẽ mất hẳn một nguồn sức mạnh vô cùng quan trọng. Rõ ràng là trong cuộc chiến tranh toàn dân, toàn diện và lâu dài chống đế quốc Mĩ xâm lược và bọn tay sai của chúng ở miền Nam, vai trò hoạt động của phụ nữ ngày càng nổi bật trên khắp mọi lĩnh vực ở hậu phương cũng như ở tiền tuyến và có những đóng góp quan trọng trong thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Với những cống hiến và hy sinh to lớn ấy, phụ nữ rất xứng đáng với tám chữ vàng “Dũng cảm, đảm đang, chống Mĩ, cứu nước” mà Bác Hồ đã khen tặng, xứng đáng với Huân chương Hồ Chí Minh do nhà nước tặng thưởng (3-1974) Hình ảnh người phụ nữ Bến Tre “tóc dài bay trong gió” không chỉ là một biểu tượng lịch sử đẹp đẽ mà nó trở nên có sức truyền cảm mạnh mẽ trong âm nhạc. Giai điệu bài hát “Dáng đứng Bến Tre” (của nhạc sĩ Nguyễn Văn Tý) có lẽ đã trở nên quá quen thuộc đối với những ai quan tâm đến lịch sử Bến Tre và yêu mến dòng nhạc cách mạng. Nhưng mấy ai hiểu rằng, để có hình tượng cô đọng “Con gái Bến Tre - Năm xưa đi trong lửa đạn - Đi như nước lũ tràn về...”, hàng chục ngàn phụ nữ Bến Tre một thời đã hiên ngang bất khuất trước quân thù và làm nên một “đội quân tóc dài” huyền thoại. Ngày nay, trong điều kiện lịch sử mới, đất nước được hoàn toàn độc lập và trên đường đổi mới, sự quan tâm của Đảng và nhà nước, các mặt đời sống của người phụ nữ được cải thiện hơn. Không những thế, ở nhiều nơi, phụ nữ trở thành một lực lượng xã hội có vị trí trọng yếu trong quản lý cũng như trong các ngành kinh tế và văn hóa. Mặc dù sự nghiệp đổi mới đã đem lại cho Bến Tre một diện mạo mới với nhiều đổi thay, song, so với các địa phương khác trong cả nước Bến Tre vẫn còn là một tỉnh nghèo. Chính vì vậy, chị em phụ nữ còn nhiều thiệt thòi, ở những vùng căn 108 cứ cách mạng trước đây, đời sống chị em còn nhiều khó khăn. Điều đó gây trở ngại lớn cho sự phát triển của phụ nữ cũng như phát huy những năng lực tiềm ẩn của phụ nữ, mà thực tế lịch sử đã chỉ rõ rằng khả năng và sự cống hiến của phụ nữ là rất to lớn. Do đó, phụ nữ cần nhận được quan tâm hơn nữa từ chính quyền địa phương. Trước hết là hỗ trợ phát triển kinh tế gia đình, một vấn đề thiết yếu trong đời sống của phụ nữ. Công tác giáo dục là một trong những yếu tố cơ bản nhất, là tiền đề cho các mặt hoạt động khác. Bởi vì, với một trình độ được đào tạo nhất định, phụ nữ sẽ thuận lợi hơn trong việc lựa chọn và phát triển kinh tế, trong cuộc sống riêng tư và trong hưởng thụ các giá trị tinh thần, các loại hình sinh hoạt văn hóa ngày càng phong phú và nâng cao. Hội phụ nữ tỉnh cần phát huy hơn nữa vai trò tập hợp, vận động, tổ chức phụ nữ thông qua các chương trình hành động cụ thể vì quyền lợi thiết thực và vì sự phát triển của phụ nữ. Riêng chị em phụ nữ cần kế thừa và phát huy truyền thống quật khởi, phát huy hơn nữa lòng tự tin ở vai trò, khả năng sáng tạo của mình, khắc phục khó khăn, đem hết sức lực và trí tuệ của mình góp sức vào quá trình xây dựng Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa giàu mạnh, trên cơ sở đó thực hiện quyền bình đẳng và triệt để giải phóng phụ nữ. 109 TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Ban nghiên cứu Lịch sử Đảng (1985), Lịch sử đảng bộ Đảng Cộng sản Việt Nam tỉnh Bến Tre 1930-1985, Bến Tre. 2. Ban tổng kết chiến tranh Bến Tre (1982), Dự thảo đề cương báo cáo tổng kết cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước trên chiến trường Bến Tre (1954- 1975), T.1, 2, Bến Tre. 3. Bảo tàng phụ nữ Nam Bộ (1993), Đặc san phụ nữ miền Nam, TPHCM. 4. Bảo tàng phụ nữ Nam Bộ (1966), Những bà mẹ Việt Nam anh hùng: các tỉnh thành phía Nam, Nxb Trẻ, TP.HCM. 5. Bộ chỉ huy quân sự tỉnh Bến Tre (1990), Bến Tre 30 năm kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ 1945-1975, Bến Tre. 6. Bộ chỉ huy quân sự tỉnh Bến Tre, Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nứơc của nhân dân Bến Tre - lược sử, Bến Tre. 7. Bộ chỉ huy quân sự tỉnh Bến tre (1993), Lịch sử hậu cần nhân dân Bến Tre 30 năm kháng chiến (1945-1975), Bến Tre. 8. Bùi Ngọc Trung (1997), Mặt trận thầm lặng: kỷ niệm 38 năm ngày Bến Tre đồng khởi (17-1-1960 – 17-1-1998), Nxb TP.HCM. 9. Bùi Thị Thu Hà, Nguyễn Thành Phương, Nguyễn Minh Trí (2009), Phong trào Đồng khởi (1959-1960), Nxb Trẻ, TP.HCM. 10. Cao Văn Lượng (1991), Lịch sử cách mạng miền Nam Việt Nam 1954-1960, Viện KHXH VN, Viện Sử học, Nxb KHXH, Hà Nội. 11. Cao Văn Lượng, Phạm Quang Toàn, Quỳnh Cư (1981), Tìm hiểu phong trào Đồng Khởi ở miền Nam Việt Nam, Nxb KHXH, Hà Nội. 12. Dương Thoa (1982), Bác Hồ với phong trào phụ nữ Việt Nam, Hội Phụ nữ xuất bản, Hà Nội. 13. Đại hội phụ nữ toàn quốc lần thứ 3 (3.1961), Tình hình và nhiệm vụ phụ nữ Việt Nam trong giai đoạn mới, Hà Nội. 110 14. Đảng Lao động Việt Nam (1961), Nghị quyết công tác phụ vận của Đảng lao động Việt Nam, Hội Phụ nữ, Hà Nội. 15. Đào Thị Hạnh (2010), “Hậu quả của Luật 10/59 – một trong những nguyên nhân dẫn đến phong trào Đồng Khởi”, Tạp chí Văn thư lưu trữ Việt Nam, số 1, tr.22 16. Hà Minh Hồng (2010), “Bàn thêm về hình thái khởi nghĩa từng phần ở miền Nam Việt Nam giai đoạn 1959-1960”, Tạp chí Văn thư lưu trữ Việt Nam, số 1, tr. 9. 17. Hà Minh Hồng (2000), Phong trào chống phá bình định nông thôn ở Nam Bộ trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước giai đoạn 1969-1972, Nxb QĐND. Hà Nội. 18. Hà Văn Lâu (1960), Miền Nam Việt Nam, căn cứ quân sự của đế quốc Mỹ, Nxb Sự thật, Hà Nội. 19. Hoàng Trang (2005), Toàn dân đoàn kết chống Mỹ, cứu nước dưới ngọn cờ tư tưởng Hồ Chí Minh (1954-1975), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 20. Hồ Chí Minh (1960), Tuyển tập, Nxb Sự thật, Hà Nội. 21. Hồ Chí Minh (1967), Về nhiệm vụ chống Mĩ cứu nước, Nxb Sự thật, Hà Nội. 22. Hồ Khang (chủ biên – 2003), Lịch sử kháng chiến chống Mỹ cứu nước 1954-1975: Thắng Mỹ trên chiến trường ba nước Đông Dương, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 23. Hội LHPN Bến Tre (1965), Báo cáo tổng kết số liệu công tác chung niên của Ban Phụ vận tỉnh Bến tre năm 1965. 24. Hội LHPN Bến Tre (1966), Báo cáo tổng kết số liệu công tác chung niên của Ban Phụ vận tỉnh Bến tre năm 1966. 25. Hội LHPN Bến Tre (1966), Báo cáo tổng kết chung niên của Ban phụ vận tỉnh Bến tre năm 1966. 26. Hội LHPN Bến Tre (1967), Báo cáo tổng kết công tác phụ nữ năm 1967. 27. Hội LHPN Bến Tre (1968), Báo cáo tổng kết 6 tháng đầu năm 1968 của phụ nữ tỉnh Bến Tre. 111 28. Hội LHPN Bến Tre (1968), Số liệu phụ nữ năm 1966 đến năm 1968. 29. Hội LHPN Bến Tre (1969), Báo cáo công tác phụ vận năm 1969. 30. Hội LHPN Bến Tre (1970), Số liệu chung niên năm 1970 của BCH phụ nữ tỉnh Bến Tre. 31. Hội LHPN Bến Tre (1971), Báo cáo tổng kết công tác phụ nữ trong năm 1971. 32. Hội LHPN Bến Tre (1972), Báo cáo chung niên năm 1972 của phụ nữ tỉnh Bến Tre. 33. Hội LHPN Bến Tre (1973), Tổng kết tình hình phong trào phụ nữ tỉnh Bến Tre trong năm 1960 đến năm 1973. 34. Hội LHPN Bến Tre (1974) Số liệu địch gây thiệt hại năm 1973 và 1974 của Phụ nữ. 35. Hội LHPN Bến Tre (1975) Báo cáo tổng kết phong trào phụ nữ tỉnh Bến Tre tham gia chiến dịch Hồ Chí Minh. 36. Hội LHPN Bến Tre (1975), Tổng kết 15 năm chống Mỹ cứu nước và xây dựng Hội Liên hiệp phụ nữ tỉnh Bến Tre từ Đồng Khởi 1960 đến 1975. 37. Hội LHPN Bến Tre (1975), Báo cáo thành tích vẻ vang của phụ nữ Bến Tre cống hiến to lớn vào sự nghiệp chống Mỹ cứu nước. 38. Hội Liên hiệp phụ nữ giải phóng miền Nam Việt Nam (1974), Phụ nữ miền Nam kiên cường bất khuất đuổi Mỹ lật Thiệu, giải phóng miền Nam bảo vệ miền Bắc (Tham luận tại Đại hội Phụ nữ Việt Nam lần thứ IV), Hà Nội. 39. Hội Phụ nữ (1964), Phụ nữ miền Nam Việt Nam bất khuất, Hà Nội. 40. Hội Phụ nữ (1960), Vai trò phụ nữ trong phong trào cách mạng, Hà Nội. 41. Hội phụ nữ (1970), Văn kiện Đảng về công tác vận động phụ nữ, Hà Nội. 42. Lâm Quang Huyên (1982), Cách mạng ruộng đất ở miền Nam Việt Nam thời kỳ kháng chiến chống Mỹ 1954-1975, Viện kinh tế học. 43. Lê Duẩn (1978), Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, Nxb Sự thật, Hà Nội. 112 44. Lê Duẩn (1970), Dưới lá cờ vẻ vang của Đảng, vì độc lập tự do, vì chủ nghĩa xã hội tiến lên giành những thắng lợi mới, Nxb Sự thật, Hà Nội. 45. Lê Duẩn (1985), Thư vào Nam, Nxb Sự thật, Hà Nội. 46. Lê Duẩn (1974), Vai trò và nhiệm vụ của phụ nữ Việt Nam trong giai đoạn mới của cách mạng, Nxb Sự thật, Hà Nội. 47. Lê Hồng Lĩnh (2006), Cuộc đồng khởi kỳ diệu ở miền Nam Việt Nam 1959- 1960, Nxb Đà Nẵng. 48. Lê Thị Nhâm Tuyết (1973), Phụ nữ Việt Nam qua các thời đại, Nxb KHXH, Hà Nội. 49. Lê Tuyết Thanh (chủ biên – 1993), Phụ nữ miền Nam - The Southern Vietnamese women, Bảo tàng phụ nữ Nam Bộ, TP HCM. 50. C. Mác, F. Ăngghen, V.Lênin, J. Stalin (1967), Về vấn đề giải phóng phụ nữ, Nxb Sự thật, Hà Nội. 51. Nhà xuất bản Phổ thông (1968), Chiến công của những bà má: chuyện đấu tranh chính trị của phụ nữ miền Nam, Hà Nội. 52. Nhà xuất bản Phổ thông (1967), Đội quân “tóc dài” (Chuyện đấu tranh chính trị của phụ nữ miền Nam, Hà Nội. 53. Nhà xuất bản Phổ thông (1976), Đơn vị anh hùng và anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân: trong 2 đợt tuyên dương vào ngày 8-9-1975 và ngày 12- 1-1976. 54. Nhà xuất bản Phụ nữ (1964), Phụ nữ miền Nam Việt Nam bất khuất, Hà Nội. 55. Nhà xuất bản Quân đội nhân dân (1972), Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân giải phóng miền Nam Việt Nam 1969-1970-1971, Hà Nội. 56. Nhà xuất bản Quân đội nhân dân (1980), Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân, Tập 2:1965-1967 (1980), Hà Nội. 57. Nhà xuất bản Quân đội nhân dân (1982), Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân, Tập 4: 1971-1973, Hà Nội. 58. Nhà xuất bản Quân đội nhân dân (1983), Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân, Tập 5: 1975-1978, Hà Nội. 113 59. Nhà xuất bản Quân đội nhân dân (1980), Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước 1954-1975: những sự kiện quân sự, Hà Nội. 60. Nhà xuất bản Sự thật (1963), Cách mạng miền Nam nhất định thắng lợi nhưng phức tạp lâu dài, Hà Nội. 61. Nhà xuất bản Sự thật (1990, 1991), Lịch sử kháng chiến chống Mỹ cứu nứơc 1945-1954, T1, 2, Hà Nội. 62. Nhà xuất bản Sự thật (1985), Một số văn kiện của Đảng về chống Mỹ cứu nước, tập 1, Hà Nội. 63. Nhà xuất bản Sự thật (1968), Tội ác diệt chủng của đế quốc Mỹ ở miền Nam Việt Nam, Hà Nội. 64. Nhà xuất bản Thanh niên (2001), Kiến Hòa (Bến Tre) xưa, TP.HCM. 65. Nhà xuất bản Tri thức (2008), Miền Nam Việt Nam từ sau Điện Biên Phủ, Hà Nội. 66. Nhà xuất bản Văn nghệ (1994), Phụ nữ miền Nam với Bác Hồ, TP.HCM. 67. Nhiều tác giả (2005), Nữ tướng Nguyễn Thị Định, Hội phụ nữ xuất bản, Hà Nội. 68. Nhóm nhân văn trẻ (2008), Hỏi đáp lịch sử Việt Nam, Nxb Trẻ, TP.HCM. 69. Nguyễn Công Thục (2006), Phong trào đấu tranh chống phá ấp chiến lược, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 70. Nguyễn Đức Hòa (2008), Quân và dân miền Nam đấu tranh phòng chống vũ khí hóa học trong những năm 1961-1972, Luận án tiến sĩ Lịch sử, Trường ĐH KHXH &NV TP HCM, TP HCM. 71. Nguyễn Thị Định (1968), Không còn con đường nào khác, Nxb Phụ nữ, Hà Nội. 72. Nguyễn Thị Loan (1961), Những người mẹ miền Nam, Hội phụ nữ, Hà Nội. 73. Nguyễn Thị Thập (1981), Lịch sử phong trào phụ nữ Việt Nam, T.2, Nxb phụ nữ, Hà Nội. 74. Nguyễn Thị Thập (1963), Phụ nữ miền Nam nứơc ta trong phong trào giải phóng dân tộc, Nxb Phụ nữ, Hà Nội. 114 75. Nguyễn Thị Thuận (1986), Nữ chiến sĩ rừng dừa, Nxb Phụ nữ, Hà Nội. 76. Nguyễn Văn Kết (2010), “Đồng Khởi Bến Tre – nét đặc trưng sáng tạo của chiến tranh nhân dân Việt Nam”, Tạp chí Văn thư lưu trữ Việt Nam, số 1, tr. 13-14. 77. Nguyễn Xuân Hoài (2010), “Đảng Cần lao Nhân vị - công cụ đắc lực cho âm mưu chia cắt lâu dài Việt Nam của Mỹ - Diệm”, Tạp chí Văn thư lưu trữ Việt Nam, số 6, tr. 21-22. 78. Phạm Văn Bạch, Nguyễn Thành Vĩnh (1976), Tội ác xâm lược thực dân mới của đế quốc Mỹ ở Việt Nam, Nxb Sự thật, Hà Nội. 79. Phạm Văn Đồng, Lê Đức Thọ, Văn Tiến Dũng, Nguyễn Cơ Thạch (1986), Vì sao Mỹ thất bại trong cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam, Nxb Sự thật, Hà Nội. 80. Phan Ngọc Liên (2005), Hậu phương lớn – Tiền tuyến lớn trong kháng chiến chống Mĩ cứu nước (1954-1975), Nxb Từ điển bách khoa, Hà Nội. 81. Phan Thị Như Băng (1965), Người con gái Bến Tre: Truyện anh hùng quân đội giải phóng miền Nam Tạ Thị Kiều, Nxb QĐND, Hà Nội. 82. Phủ Quốc vụ khanh đặc trách văn hóa (1971), Tỉnh Bến Tre trong lịch sử Việt Nzam (từ năm 1757 đến 1945). 83. Quỳnh Cư (1985), Đồng khởi ở Bến Tre, Nxb TP.HCM, TP.HCM. 84. Thạch Phương (1993), Nhớ chị Ba Định, Nxb KHXH, Hà Nội. 85. Thạch Phương – Đoàn Tứ (2001), Địa chí Bến Tre, Nxb KHXH, Hà Nội. 86. Thạch Phương – Hội LHPNVN tỉnh Bến Tre (2000), Phụ nữ Bến Tre, Nxb TP. HCM. 87. Thanh Giang, Lê Thị Mỹ Nhơn, Phạm Văn Huấn…(1984), Từ trong gian khổ đứng lên: Tập truyện kể, Sở văn hóa thông tin Bến Tre, Bến Tre. 88. Thu Hằng (2008), Mười phụ nữ huyền thoại Việt Nam, Nxb Lao động, Hà Nội. 89. Thư viện tỉnh Cần Thơ (tháng 10.2000), Thông tin chuyên đề phụ nữ Việt Nam anh hùng, Cần Thơ. 115 90. Tỉnh uỷ Bến Tre (2008), Huyền thoại quê hương Đồng Khởi, Nxb QĐND, Hà Nội. 91. Tỉnh uỷ Bến Tre (1998), Tổng kết công tác binh vận trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước trên chiến trường Bến Tre 1954-1975, Sở VHTT xb, Bến Tre. 92. Tổ sử phụ nữ Nam Bộ, Bác sĩ Trần Hữu Nghiệp ghi (1990), Binh chủng đặc biệt của đội quân tóc dài, Sở y tế TP.HCM. 93. Tổ sử phụ nữ Nam Bộ - Bảo tàng phụ nữ Nam Bộ (2006), Lịch sử phụ nữ Nam Bộ kháng chiến, Nxb CTQG, Hà Nội. 94. Tổ sử phụ nữ Nam Bộ (1986), Những ngày tù ngục, Nxb Văn nghệ, TP HCM. 95. Tổ sử phụ nữ Nam Bộ (1989), Truyền thống cách mạng của phụ nữ thành đồng, Bảo tàng phụ nữ Nam Bộ, TP HCM. 96. Trần Hồng Ánh (1997), Truyện tích và huyền thoại phụ nữ Việt Nam, Hội phụ nữ, Hà Nội. 97. Trần Hữu Tòng (2000), “Gặp tư lệnh đội quân tóc dài ở binh trạm Trường Sơn”, Tạp chí Sự kiện và nhân chứng, số 75, tr.19-20. 98. Trần Nam Tiến (2007), Phụ nữ Việt Nam những sự kiện đầu tiên và nhất, Nxb Trẻ, TP HCM. 99. Trần Quốc Vượng (1972), Truyền thống phụ nữ Việt Nam, Nxb Phụ nữ, Hà Nội. 100. Trần Quỳnh Cư (1994), Đồng khởi ở Bến Tre năm 1960, Luận án phó tiến sĩ khoa học lịch sử, Viện sử học, Hà Nội. 101. Trần Thị Thu Hương (2003), Đảng lãnh đạo cuộc đấu tranh chống phá “quốc sách” ấp chiến lược của Mỹ - ngụy ở miền Nam Việt Nam (1961- 1965), Nxb CTQG, Hà Nội. 102. Trần Văn Giàu (1968-1970), Miền Nam giữ vững thành đồng, Nxb KHXH, Hà Nội. 116 103. Trường Chinh (1976), Cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân Việt Nam, Nxb Sự thật, Hà Nội. 104. Ủy ban khoa học xã hội Việt Nam (1985), Sức mạnh chiến thắng của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, Nxb KHXH, Hà Nội. 105. Văn Tiến Dũng (2005), Về cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội. 106. Xuân Vũ (1963), Bến Tre anh dũng, Nxb Phổ thông, Hà Nội. Các trang web: 107. 108. 109. 110. 111. 112. 113. 114. 125 PHỤ LỤC 5. PHỤ NỮ BẾN TRE TRONG KHÁNG CHIẾN CHỐNG MĨ Nhân dân Hương Mỹ (Mỏ Cày) đấu tranh đòi bãi bỏ luật 10/59 Cuộc biểu tình của hơn 1000 học sinh trung học phản đối Mĩ – Diệm lấy máu học sinh ngày 20-12-1960 Ảnh: Nhà truyền thống Mỏ Cày 126 Đồng bào Bến Tre đấu tranh đòi đế quốc Mĩ cút khỏi miền Nam Việt Nam, Ngô Đình Diệm phải từ chức ngày 20-1-1960 Ảnh Bảo tàng Bến Tre Quần chúng biểu tình đả đảo hành động khủng bố, giết hại đồng bào Phật giáo của Mĩ - Diệm Ảnh Bảo tàng Bến Tre 127 Nhân dân thị xã Bến Tre đấu tranh chống bắn phá xóm làng Nhân dân Thị xã Bến Tre đấu tranh chống bắn phá xóm làng Ảnh Bảo tàng Bến Tre Nhân dân tiếp đón phái đoàn Mặt trận tỉnh viếng thăm đồng bào bị nhiễm chất độc hóa học của Mĩ Ảnh Bảo tàng Bến Tre 128 Ngày 6-4-1961 hơn 5.000 đồng bào Bến Tre mít-tinh tẩy chay cuộc bầu cử của Mĩ – Diệm Ảnh Bảo tàng Bến Tre Đội quân tóc dài của tỉnh Bến Tre - Ảnh Bảo tàng Bến Tre 129 Ảnh và tóc của phụ nữ xã Phước Hiệp (Mỏ Cày) bị bắt trong cuộc đấu tranh chính trị năm 1964 Ảnh Bảo tàng Bến Tre Đội nữ pháo binh Bến Tre Ảnh Bảo tàng Bến Tre 130 Đội nữ súng 12ly 8 hạ quyết tâm hoàn thành nhiệm vụ được giao Ảnh Bảo tàng Bến Tre Đoàn hát Sao Vàng phục vụ văn nghệ cho đồng bào, chiến sĩ ta Ảnh Bảo tàng Bến Tre 131 Đồng bào xã Giao Thạnh (Thạnh Phú) đấu tranh buộc Mĩ - ngụy phải trả lại ghe xuồng, thóc lúa bị chúng cướp đi Ảnh Bảo tàng Bến Tre Nữ giao liên đưa bộ đội qua sông Ảnh Bảo tàng Bến Tre 132 Nhân dân cắm chông chống địch càn quét bảo vệ vùng giải phóng Ảnh Bảo tàng Bến Tre Ngày 30-4-1975 nhân dân Phú Hưng chào đón quân giải phóng tiến vào tiếp quản thị xã Bến Tre Ảnh Bảo tàng Bến Tre 133 Mẹ Trần Thị Bính (Tân Thạch, Châu Thành) và con Nguyễn Văn Thức (tử tù Côn Đảo) gặp nhau sau ngày giải phóng - 06.05.1975 - Ảnh: Lâm Hồng Long 134 PHỤ LỤC 6 PHỤ NỮ BẾN TRE THỜI KỲ ĐỔI MỚI Bà Nguyễn Thị Lài – nữ chiến sĩ “đội quân tóc dài” tỉnh Bến Tre bên thế hệ trẻ hôm nay Ảnh: Trung Kiên (Báo quân đội nhân dân). Chị em “đội quân tóc dài” ở xã Định Thủy, huyện Mỏ Cày Nam (Bến Tre) trong phong trào Đồng khởi gặp gỡ tại lễ kỉ niệm 60 năm Bến Tre Đồng khởi. Ảnh: Thông tấn xã Việt Nam Những chiến sĩ năm xưa trong đội quân tóc dài của đồng khởi Bến Tre Ảnh: Phương Yến (vnexpress.net) 135 Mẹ Việt Nam anh hùng Nguyễn Thị Niềm (Phước Hiệp - Mỏ Cày – Bến Tre). Ảnh: Thanh Minh Đội lân nữ Lương Hòa, Giồng Trôm, Bến Tre Ảnh: vnexpress.net 136 Bà Phạm Thị Tỏ - tỷ phú kẹo dừa ở Bến Tre Ảnh: Trân Trân (phapluat.vn) Chị Phạm Thị Vân – chủ trang trại nuôi cá sấu tại xã Thạnh Trị, Bình Đại Nguồn [107] BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH Phan Thị Thanh Minh ĐÓNG GÓP CỦA PHỤ NỮ BẾN TRE TRONG KHÁNG CHIẾN CHỐNG MĨ CỨU NƯỚC (1954 – 1975) Chuyên ngành: Lịch sử Việt Nam Mã số: 60 22 54 LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. LÊ HUỲNH HOA Thành phố Hồ Chí Minh – 2010 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi và tôi hoàn toàn chịu trách nhiệm về lời cam đoan này. Tác giả luận văn PHAN THỊ THANH MINH MỤC LỤC Trang MỞ ĐẦU........................................................................................................... 1 1. Lí do chọn đề tài và mục đích nghiên cứu ............................................... 1 2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ............................................................ 3 3. Phương pháp nghiên cứu ......................................................................... 5 4. Lịch sử nghiên cứu vấn đề ....................................................................... 6 5. Nguồn sử liệu ........................................................................................ 10 6. Đóng góp mới của luận văn ................................................................... 10 7. Cấu trúc của luận văn ............................................................................ 11 CHƯƠNG 1. KHÁI QUÁT TÌNH HÌNH BẾN TRE TRƯỚC NĂM 1954 ................................................................................................................ 12 1.1 Những nét chung về đất và người Bến Tre ........................................... 12 1.1.1 Vài nét về địa lý lịch sử tỉnh Bến Tre ........................................... 12 1.1.2 Phụ nữ Bến Tre trong công cuộc khai phá, định cư ....................... 16 1.2 Truyền thống cách mạng của phụ nữ Bến Tre trước 1954...................... 21 1.2.1 Thời thuộc Pháp (1867-1945) ....................................................... 21 1.2.2 Giai đoạn kháng chiến chống Pháp (1945-1954) ........................... 24 Tiểu kết chương 1........................................................................................ 29 CHƯƠNG 2. ĐÓNG GÓP CỦA PHỤ NỮ BẾN TRE TRONG KHÁNG CHIẾN CHỐNG MĨ CỨU NƯỚC (1954-1960) ............................ 31 2.1 Tình hình Bến Tre sau hiệp định Giơ-ne-vơ .......................................... 31 2.1.1 Sự can thiệp của Mĩ vào miền Nam Việt Nam .............................. 31 2.1.2 Chính sách của Mĩ – Diệm ở Bến Tre .......................................... 33 2.1.3 Chủ trương của Đảng ta về vai trò, vị trí của phụ nữ...................... 39 2.2 Phong trào đấu tranh của phụ nữ từ năm 1954 đến trước Đồng Khởi năm 1960 ......................................................................................................... 42 2.2.1 Đấu tranh đòi thi hành hiệp định Giơnevơ.................................... 42 2.2.2 Chống tố cộng, diệt cộng, lập khu trù mật ..................................... 45 2.3 Phụ nữ Bến Tre trong Đồng Khởi.......................................................... 50 2.3.1 Quá trình hình thành đội quân tóc dài và vai trò của đội quân này trong Đồng Khởi .............................................................................................. 50 2.3.2 Nguyễn Thị Định – người phụ nữ tiêu biểu của đất Bến Tre ......... 58 Tiểu kết chương 2........................................................................................ 63 CHƯƠNG 3. ĐÓNG GÓP CỦA PHỤ NỮ BẾN TRE TỪ SAU ĐỒNG KHỞI NĂM 1960 ĐẾN NĂM 1975................................................... 66 3.1 Phụ nữ Bến Tre trong thời kỳ chống chiến tranh đặc biệt (1961-1965) 66 3.1.1 Đế quốc Mĩ phát động chiến tranh đặc biệt…............................. 66 3.1.2 Âm mưu của địch đối với nhân dân và phụ nữ Bến Tre .............. 67 3.1.3 Kết hợp đấu tranh chính trị với đấu tranh vũ trang làm thất bại “quốc sách” ấp chiến lược của Mĩ-ngụy ......................................................... 68 3.1.4 Công tác binh vận ...................................................................... 73 3.1.5 Xây dựng hậu phương kháng chiến ............................................ 74 3.2 Hoạt động của phụ nữ Bến Tre trong những năm chống chiến tranh cục bộ (1965-1968) .......................................................................................... 76 3.2.1 Âm mưu và hành động mới của Mĩ – ngụy................................. 76 3.2.2 Phong trào phụ nữ tham gia du kích chiến tranh ......................... 79 3.2.3 Tiếp tục đẩy mạnh đấu tranh chính trị và binh vận ..................... 80 3.2.4 Phục vụ chiến đấu ...................................................................... 82 3.3 Phụ nữ Bến Tre góp phần làm phá sản chiến lược “Việt Nam hóa” chiến tranh của Mĩ (1969-1973). ..................................................................... 85 3.3.1 Tình hình miền Nam sau năm 1968 và âm mưu của Mĩ............. 85 3.3.2 Phụ nữ trong công tác vũ trang chiến đấu ................................... 88 3.3.3 Phát triển công tác binh vận trên diện rộng................................. 88 3.3.4 Phụ nữ trong đấu tranh chính trị ................................................ 89 3.4 Hoạt động của phụ nữ Bến Tre từ sau Hiệp định Pari đến giải phóng hoàn toàn miền Nam (1973-1975) .................................................................... 91 3.4.1 Đấu tranh đòi thi hành hiệp định Pari, mở rộng và xây dựng vùng giải phóng ....................................................................................................... 91 3.4.2 Chuẩn bị và tham gia tổng tiến công và nổi dậy mùa xuân 1975. 94 KẾT LUẬN ....................................................................................................... 103 TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................................ 109 PHỤ LỤC.......................................................................................................... 117 ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfLA5751.pdf
Tài liệu liên quan