Dự án đầu tư mở rộng nhà máy giấy Bãi Bằng của tổng Công ty giấy Việt Nam. Thực trạng và Bài học kinh nghiệm

MỤC LỤC LỜI NÓI ĐẦU Trong giai đoạn nền kinh tế toàn cầu đang rơi vào khủng hoảng, thì tư tưởng kích cầu bắt nguồn từ học thuyết Keynes, một lần nữa xuất hiện như là giải pháp của các chính phủ đưa nền kinh tế vượt qua khủng hoảng. Việt Nam và các nước châu Á đều có những gói kích cầu để mong đối phó với tình hình suy thoái hiện tại.Nhằm ngăn chặn đà suy thoái kinh tế, giải pháp chính là đầu tư. Câu chuyện đầu tư trong thời kỳ khủng hoảng đang là một bài toán nan giải, nhất là đầu tư từ vốn n

doc62 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1579 | Lượt tải: 1download
Tóm tắt tài liệu Dự án đầu tư mở rộng nhà máy giấy Bãi Bằng của tổng Công ty giấy Việt Nam. Thực trạng và Bài học kinh nghiệm, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
gân sách nhà nước. Trước kia, đầu tư phát triển từ vốn ngân sách nhà nước được coi là có hiệu quả thấp trong khi nguồn vốn đầu tư lại chiếm tỷ trọng lớn trong cơ cấu đầu tư toàn xã hội. Bài toán hiệu quả đầu tư từ nguồn vốn ngân sách nhà nước được đặt ra với nhiều cẩn trọng. Nếu hiệu quả đầu tư cao sẽ biểu hiện ngay ở chất lượng tăng trưởng của doanh nghiệp, của ngành và làm cho chất lượng nền kinh tế được nâng cao. Biểu hiện rõ nhất vào chất lượng của ngành kinh tế chính là chất lượng của những ngành kinh tế chủ chốt, nắm giữ những ngành kinh tế đó là các tập đoàn lớn, các tổng công ty nhà nước. Đó là lý do tại sao em quyết định chọn đề tài “Dự án dầu tư mở rộng nhà máy giấy Bãi Bằng của tổng công ty giấy Việt Nam. Thực trạng và Bài học kinh nghiệm” Đây là một trong những dự án lớn có tầm quan trọng quốc gia và tính hiệu quả của dự án sẽ ảnh hưởng không chỉ đến tổng công ty giấy Việt Nam mà có ý nghĩa quan trọng bậc nhất tới sự sống còn của ngành giấy trong thời điểm nước ta đã bắt đầu hội nhập sâu rộng bằng những cam kết về thuế cũng như hạn ngạch nhập khẩu. Dự án này bao gồm 2 giai đoạn, giai đoạn 1 bắt đầu khởi công từ năm 1998 và đi vào vận hành năm 2004 và giai đoạn 2 đang bắt đầu đi vào hoạt động. Dự án trên thuộc loại dự án đầu tư xây dựng cơ bản, cải tạo và nâng cấp dây chuyền sản xuất. Giai đoạn 1 của dự án được các nhà chuyên môn đánh giá là khá thành công và hiệu quả. Trong khi có khá nhiều tổng công ty hoạt động rất chậm chạp và thua lỗ lớn, vị trí trên thị trường giảm sút thì ngược lại tổng công ty giấy Việt Nam vẫn được coi là những doanh nghiệp vững mạnh nhất và hoạt động rất ổn định, chứng tỏ hiệu quả các dự án đầu tư của tổng công ty đã phát huy rất tốt. Em sẽ đánh giá dự án theo quan điểm từ những gì đã được học về hiệu quả đầu tư trong nhà trường. Đề tài bao gồm 2 chương Chương 1: Đánh giá hiệu quả đầu tư dự án Giấy Bãi Bằng giai đoạn 1 Chương 2: Một số đề xuất nâng cao hiệu quả đầu tư giai đoạn 2 Do còn thiếu kinh nghiệm thực tế và biện chứng về lý thuyết đầu tư còn yêu nên chắc chắn đề tài sẽ không tránh khỏi thiếu sót, em mong nhận được sự góp ý của cô giáo và các bạn. Em xin chân thành cảm ơn Tiến sỹ Trần Mai Hương đã tận tình hướng dẫn và giúp đỡ em thực hiện đề tài này. Em xin chân thành cảm ơn các bác, các cô, các anh chị đang làm việc tại phòng tài chính-kế toán, văn phòng tổng công ty giấy Việt Nam đã giúp em trong việc tìm các tài liệu liên quan đến tình hình đầu tư Xây dựng cơ bản liên quan tới giai đoạn 1 của dự án. CHƯƠNG 1: ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ ĐẦU TƯ TỪ DỰ ÁN GIẤY BÃI BẰNG GIAI ĐOẠN 1 1.1. Giới thiệu về tổng công ty giấy Việt Nam 1.1.1. Khái quát về quá trình hình thành và phát triển Tổng công ty giấy Việt Nam (TCTGVN) là doanh nghiệp nhà nước được thành lập theo quyết định của Thủ tướng chính phủ và hoạt động dưới sự quản lý của bộ công nghiệp, các bộ các cơ quan trực thuộc chính phủ, UBND tỉnh và thành phố trực thuộc trung ương. Năm 1976, công ty Giấy, Gỗ, Diêm phía Bắc và công ty Giấy Gỗ Diêm phía Nam được thành lập. Chức năng của 2 công ty này là quản lý sản xuất đối với các xí nghiệp quốc doanh Giấy Gỗ Diêm. Công ty vừa là cơ quan quản lý cấp trên, cấp kế hoạch, vừa là cơ quan cấp điều hành sản xuất –kinh doanh của các đơn vị trực thuộc. Công ty phân giao và quyết định kế hoạch sản xuất kinh doanh của các đơn vị trong công ty. Công ty giao chỉ tiêu vật tư, chỉ định địa chỉ và kế hoạch tiêu thụ sản phẩm, cân đối đầu vào, kiểm tra mức độ hoàn thành kế hoạch sản xuất-kinh doanh và duyệt quyết toán tài chính cuối năm đối với xí nghiệp thành viên. Năm 1978, theo Nghị định 302/CP ngày 01/12/1978 của hội đồng Chính Phủ, hợp nhất 2 công ty Giấy Gỗ Diêm phía Bắc và phía Nam lại thành Liên hiệp xí nghiệp Giấy Gỗ Diêm toàn quốc. Liên hiệp là cơ quan cân đối phân giao kế hoạch sản xuất-kinh doanh, đồng thời là cơ quan quản lý cấp trên trực tiếp của các đơn vị thành viên. Năm 1995, ngành Giấy đề nghị nhà nước cho tách riêng vì ngành Gỗ, Diêm là một ngành kinh tế kỹ thuật không gắn liền với ngành giấy.Chính vì vậy Tổng công ty giấy Việt Nam được thành lập theo quyết định số 256/TT ra ngày 29/4/1995 của thủ tưởng chính phủ và nghị định số 52/CP ngày 02/8/1995 của chính phủ ban hành điều lệ về tổ chức và hoạt động của Tổng công ty giấy Việt Nam Ngày 01/2/2005 thủ tướng chính phủ đã ra quyết định số 29/2005/QĐ-TT chuyển công ty giấy Việt Nam sang hoạt động theo mô hình công ty mẹ-công ty con Công ty mẹ được hình thành trên cơ sở tổ chức lại văn phòng tổng công ty, công ty giấy Bãi Bằng. Công ty mẹ là công ty nhà nước thực hiện hạch toán kinh doanh và đầu tư vốnn vào công ty con, công ty liên kết theo Luật Doanh nghiệp nhà nước, theo điều lệ tổ chức, hoạt động và quy chế tài chính của công ty mẹ do các cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt. Công ty mẹ có -Tên gọi: Tổng công ty giấy Việt Nam -Tên giao dịch quốc tế: VietNam Paper Corporation -Tên viết tắt: VINAPACO -Trụ sở chính: Số 25 Lý thường Kiệt- Quận Hoàn Kiếm-Hà Nội. Theo ông Võ Sỹ Dởng - Tổng Giám đốc VINAPACO: sau khi có Luật doanh nghiệp mới ra đời, ngày 20/3/2006, Thủ tướng Chính phủ đã có Quyết định số 64/2006/QĐ-TTg chính thức ban hành Điều lệ tổ chức và hoạt động của VINAPACO theo mô hình Công ty mẹ - Công ty con, trên cơ sỏ tổ chức lại Văn phòng VINAPACO và Công ty Giấy Bãi Bằng. Như vậy có thể nói, VINAPACO là một trong những doanh nghiệp lớn đầu tiên của cả nước thực hiện theo mô hình này. Việc sáp nhập Công ty Giấy Bãi Bằng vào VINAPACO đã cho thấy, Công ty Giấy Bãi Bằng không những không mất đi mà còn được nâng lên tầm cao mới với thương hiệu VINAPACO. Tầm hoạt động của VINAPACO, cũng như của Công ty Giấy Bãi Bằng trước đây sẽ rộng hơn, bao quát hơn và chắc chắn sẽ hiệu quả hơn. Hiện nay, VINAPACO đã ổn định tổ chức với 26 đơn vị đầu mối, bao gồm các Công ty, lâm trường, xí nghiệp, viện nghiên cứu cây nguyên liệu, trường đào tạo và các đơn vị phụ thuộc khác... VINAPACO sẽ tiến hành hoạch định chiến lược phát triển cho ngành giấy Việt Nam. Trong thời gian tới, VINAPACO sẽ tiếp tục thực hiện cổ phần hoá tại các Công ty con, quản lý vốn tại các Công ty liên kết và các Công ty phụ thuộc... Đối với các Công ty con, VINAPACO sẽ giữ trên 50% vốn; đối với các Công ty liên kết giữ dưới 50% vốn. Dự tính, sau khi cổ phần hoá, vốn của VINAPACO sẽ được nâng lên gấp 2 lần hiện nay, nghĩa là VINAPACO sẽ có đủ lực và khả năng quản lý trong toàn ngành để thực hiện thành công các mục tiêu đề ra. Từ đây, VINAPACO có thể mở ra các điều kiện để đa dạng hoá kinh doanh các ngành nghề; các loại hình dịch vụ mới... Việc VINAPACO hoạt động theo mô hình Công ty mẹ - Công ty con sẽ tạo ra sức mạnh mới, chủ động phát triển trong hội nhập và khả năng cạnh tranh Có thể khái quát theo những mốc chính như sau: TỔNG CÔNG TY GIẤY VIỆT NAM Hình thành 06.1975    Thành lập Công ty Giấy Gỗ Diêm phía Bắc và phía Nam 06.1978    Hợp nhất hình thành Liên hiệp các xí nghiệp Giấy Gỗ Diêm toàn quốc 10.1982    Tách thành hai Liên hiệp các xí nghiệp Giấy Gỗ Diêm số I và số II. 08.1990    Hợp nhất hai miền với tên gọi mới là Liên hiệp các xí nghiệp sản xuất - xuất nhập khẩu Giấy Gỗ Diêm, viết tắt là VIPIMEX. 11.1991    Thành lập Tổng Công ty xuất nhập khẩu Giấy Gỗ Diêm gọi tắt là VINAPIMEX. 08.1995    Thành lập Tổng Công ty Giấy Việt nam  theo mô hình Tổng Công ty 91      (giữ nguyên tên viết tắt VINAPIMEX). 07.2006    Chuyển đổi sang mô hình Công ty mẹ - Công ty con, tên viết tắt là  VINAPACO. Sát nhập Công ty Giấy Bãi bằng vào Tổng Công ty trở thành Công ty mẹ. CÔNG TY GIẤY BÃI BẰNG Hình thành 1970 – 1974  Nghiên cứu khả thi Công trình Giấy Bãi bằng do Công ty tư vấn Jaakko Poyry thực hiện. Năng lực sản xuất bột giấy: 41.000 tấn/năm; sản xuất giấy: 50.000 tấn/năm. 08 – 1974     Ký Hiệp định về hợp tác đầu tư Công trình Nhà máy Giấy Bãi Bằng giữa hai Chính phủ Việt Nam và Thuỵ Điển. Cuối 1979    Động thổ khởi công xây dựng 26/11/1982  Khánh thành toàn bộ Nhà Máy Giấy Bãi bằng. Chuyên gia Thuỵ Điển điều hành. 06.1990  Chuyên gia Thuỵ Điển rút hết về nước bàn giao hoàn toàn cho phía Việt nam. 1996   Vượt công suất thiết kế, đạt 57.029 tấn/năm. tên viết tắt BAPACO 2000  Được Nhà nước phong tặng danh hiệu “ Anh hùng Lao động thời kỳ đổi mới” 2003   Đầu tư mở rộng Bãi bằng giai đoạn 1, nâng năng lực sản xuất bột giấy lên 68.000 tấn/năm và sản xuất giấy lên 100.000 tấn/năm. 2006 Thành lập Ban quản lý dự án mở rộng Bãi Bằng giai đoạn 2, đầu tư dây chuyền sản xuất bột giấy 250.000 tấn/năm. 07/2006   Sát nhập vào Tổng Công ty Giấy Việt nam trở thành Công ty mẹ. Với bề dày lịch sử vươn lên và phát triển, tổng công ty có rất nhiều thành tích đáng tự hào: Tổng công ty đã nhận được 2 huân chương lao động hạng 2,3. 17 huân chương lao động hạng nhất, hạng nhì, hạng ba 2 huân chương chiến công hạng 3 6 cờ thi đua, 30 bằng khen của chính phủ Năm 2000 tổng công ty nhận danh hiệu lao động trong thời kỳ đổi mới 1.1.2. Mô hình tổ chức và các ngành nghề kinh doanh chính của tổng công ty Dưới đây là mô hình tổ chức của tổng công ty Sơ đồ 1.1. Mô hình tổ chức Tổng công ty Giấy Việt nam Trong hệ thống trên được chia ra rất nghiêm ngặt gồm các khối sản xuất và khối lâm trường *Khối sản xuất 1. Công ty Tissue Sông Đuống 2. Công ty CBXK Dăm mảnh *Khối lâm nghiệp 1.       Xí nghiệp khảo sát thiết kế lâm Nghiệp 2.       Công ty Vận tải và Chế biến Lâm sản 3.       Công ty NLG Thanh Hóa 4.       Công ty NLG Miền Nam 5.       Công ty lâm nghiệp Cầu ham 6.       Công ty lâm nghiệp Ngòi sảo 7.       Công ty lâm nghiệp Vĩnh hảo 8.       Công ty Lâm nghiệp Tân Thành 9.       Công ty Lâm nghiệp Hàm yên 10.    Công ty Lâm nghiệp Tân Phong 11.    Công ty Lâm nghiệp Tam Sơn 12.    Công ty Lâm nghiệp Xuân Đài 13.    Công ty Lâm nghiệp Tam Thắng 14.    Công ty Lâm nghiệp Đoan Hùng 15.    Công ty Lâm nghiệp Sông Thao 16.    Công ty Lâm Nghiệp A Mai 17.    Công ty Lâm nghiệp Yên Lập 18.    Công ty Lâm nghiệp Thanh Hòa 19.    Công ty lâm nghiệp Tam Thanh 20.    Công ty Lâm nghiệp Lập Thạch *Khối trường viện 1.       Viện Công nghiệp Giấy Xenluylô 2.       Viện nghiên cứu cây nguyên liệu Giấy 3.       Trường Cao đẳng Công nghệ Giấy và Cơ Điện *Ban quản lý 1.       Ban Quản lý Dự án Thanh Hóa 2.       Ban Quản lý Dự án mở rộng bãi bằng giai đoạn 2  *Dịch vụ 1.       Chi nhánh Tổng Công ty giấy Việt nam tại TP Hồ Chí Minh 2.       Chi nhánh Tổng Công ty Giấy Việt nam tại Đà nẵng 3.       Trung tâm dịch vụ và Kinh doanh giấy tại Hà nội *công ty con: a)Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên -Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên nguyên liệu và bột giấy Thanh hoá -Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên nguyên liệu giấy miền nam b) Công ty cổ phần mà công ty mẹ giữ cổ phần chi phối -Công ty giấy tân mai -Công ty cổ phần giấy Đồng Nai -Công ty cổ phần giấy Việt Trì -Công ty cổ phần Văn phòng phẩm Hồng Hà -Công ty cổ phần giấy Hoàng Văn Thụ *Các công ty liên kết -Công ty cổ phần Nhất Nam -Công ty cổ phần Diêm thống nhát -Công ty cổ phần May-Diêm Sài gòn -Công ty cổ phần In Phúc Yên -Công ty cổ phần giấy Vạn Điếm Theo quyết định số 29/2005/QĐ-TT ngày 01/02/2005 của thủ tướng chính phủ, quyết định spps 09/2005/QĐ-BCN ngày 04/03/2005 của bộ trưởng bộ công nghiệp về việc chuyển Tổng công ty giấy Việt Nam sang hoạt động theo mô hình công ty mẹ-công ty con thì tổ chức bộ máy quản lý của Tổng công ty giấy Việt Nam bao gồm: Hội đồng quản trị, Ban kiểm soát, Tổng giám đốc, các phó tổng giám đốc, Kế toán trưởng và bộ máy giúp việc, cụ thể như sau -Hội đông quản trị: Quyết định chiến lược, kế hoạch dài hạn, kế hoạch kinh doanh hàng năm, ngành nghề kinh doanh của Tổng công ty và doanh nghiệp do Tổng công ty sở hữu toàn bộ vốn điều lệ. Tuyển chọn, ký hợp đồng hoặc bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức và quyết định mức lương đối với Tổng giám đốc sau khi được sự chấp thuận của người quyết định thành lập Tổng công ty. Tuyển chọn, ký hợp đồng, bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức và quyết định mức lương đối với Phó tổng giám đốc và kế toán trưởng theo đề nghị của Tổng giám đốc. Thông qua báo cáo tài chính hàng năm của tổng công ty, của các công ty thành viên hạch toán độc lập thuộc Tổng công ty. -Ban kiểm soát: Giúp hội đồng quản trị kiểm tra, giám sát tính hợp pháp, chính xác trong quản lý, điều hành hoạt động kinh doanh, trong ghi chép sổ kế toán, báo cáo tài chính và việc chấp hành điều lệ công ty, nghị quyết. quyết định của Hội đồng quản trị, quyết định của chủ tịch hội đồng quản trị. Ban kiểm soát thực hiện nhiệm vụ do hội đồng quản trị giao, báo cáo và chịu trách nhiệm trước hội đồng quản trị -Tổng giám đốc: Là người đại diện theo pháp luật, điều hành hoạt động hàng ngày của Tổng công ty theo mục tiêu, kế hoạch, phù hợp với điều lệ Tông công ty và các nghị quyết, quyết định của Hội đồng quản trị, chịu trách nhiệm trước Hội đồng quản trị và trước pháp luật về thực hiện quyền và nhiệm vụ được giao -Phó tổng giám đốc: Giúp Tổng giám đốc điều hành Tổng công ty theo phân công và ủy quyền của Tổng giám đốc, chịu trách nhiệm trước Tổng giám đốc trước pháp luật về nhiệm vụ được phân công hoặc ủy quyền -Kế toán trưởng: Tổ chức thực hiện công tác kế toán của Tổng công ty, giúp Tổng giám đốc giám sát tài chính tại công ty theo pháp luật về tài chính, kế toán, chịu trách nhiệm trước Tổng giám đốc và trước pháp luật về nhiệm vụ được phân công hoặc ủy quyền -Các phòng ban chức năng giúp việc cho Ban lãnh đạo: văn phòng tổ chức lao động, phòng tài chính kế toán, phòng xây dựng cơ bản, phòng kế hoạch thị trường, phòng Lâm sinh. Trong đó Phòng tài chính kế toán có chức năng giúp tổng giám đốc trong lĩnh vực tài chính và kế toán, tổng hợp về vốn, chi phí sản xuất tiêu thụ sản phẩm và xác định kết quả kinh doanh của toàn tổng công ty. Tổ chức chỉ đạo công tác kế toán, hạch toán kinh tế ở công ty mẹ, công ty con đồng thời thực hiện việc kiểm tra, kiểm soát tài chính theo quy định của nhà nước. Nhiệm vụ của phòng tài chính kế toán: Cân đối số vốn hiện có điều chỉnh tăng giảm khi có sự thay đổi nhiệm vụ hoặc quyết định phát triển SXKD của các công ty con, các đơn vị phụ thuộc theo quy định của Tổng giám đốc, Lập báo cáo tài chính hợp nhất của toàn tổng công ty, trình Bộ tài chính xét duyệt *Quyền hạn của tổng công ty Tổng công ty giấy Việt Nam có trụ sở chính đặt tại số 25 Lý Thường Kiệt, đây là nơi làm việc của ban lãnh đạo Tổng công ty gồm hội đồng quản trị, Ban kiểm soát, Tổng giám đốc, các phó tổng giám đốc, kế toán trưởng và bộ máy giúp việc Tổng công ty chịu sự quản lý nhà nước của bộ công nghiệp, các cơ quan ngang bộ trực thuộc chính phủ với tư cách là cơ quan quản lý nhà nước Tổng công ty có quyền chiếm hữu, sử dụng vốn và tài sản của công ty để kinh doanh thực hiện lợi ích hợp pháp từ vốn và tài sản của tổng công ty Tổng công ty có quyền chủ động tổ chức sản xuất, kinh doanh và tổ chức bộ máy quản lý theo yêu cầu kinh doanh và đảm bảo sản xuất kinh doanh có hiệu quả Tổng công ty có quyền sử dụng và quản lý các tài sản của nhà nước giao, cho thuê là đất đai, tài nguyên theo quy định của pháp luật về đất đai, tài nguyên Tổng công ty có quyền kinh doanh những ngành nghề mà pháp luật không cấm, mở rộng kinh doanh theo khả năng của tổng công ty và nhu cầu của thị trường trong và ngoài nước Tổng công ty có quyền tìm kiếm thị trường và khách hàng trong nước và ngoài nước và ký kết hợp đồng Tổng công ty có quyền ký quyết định các dự án đầu tư theo quy định của pháp luật về đầu tư sử dụng vốn để đầu tư, liên doanh, liên kết, góp vốn vào các doanh nghiệp trong nước, thuê mua một phần hoặc toàn bộ công ty khác Đối với công ty con, tổng công ty là chủ sở hữu đối với công ty trách nhiệm một thành viên thực hiện quyền, nghĩa vụ của chủ sở hữu đối với công ty theo trách nhiệm của luật doanh nghiệp Đối với công ty liên kết: Tổng công ty thực hiện nghĩa vụ và quyền của cổ đông, thành viên góp vốn thông qua đại diện của mình tại doanh nghiệp theo quy định của luật doanh nghiệp, luật đầu tư. Tổng công ty có quyền thu lợi tức và chịu rủi ro từ phần vốn góp của mình ở doanh nghiệp bị chi phối Hiện nay Tổng công ty giấy Việt Nam (Giấy Bãi bằng trước đây) vẫn là đơn vị dẫn đầu ngành giấy về qui mô, sản lượng và chất lượng sản phẩm. Do đó, hội nhập kinh tế khu vực và thế giới là khó khăn và thử thách của nhiều doanh nghiệp trong ngành giấy thì đối vơi Giấy Bãi Bằng là cơ hội để thử sức, để tiến hành đổi mới trên nhiều phương diện và nắm bắt được nhiều cơ hội mới. Giấy Bãi Bằng đã trưởng thành, từ một công trình được xây dựng và lắp đặt của tình hữu nghị Việt Nam -  Thụy Điển đến nay đã được gần 24 năm, lại nằm ở trung tâm “vựa” nguyên liệu phía Bắc, giữa một vùng nguyên liệu xơ sợi thực vật có trữ lượng khá dồi dào, nằm giữa 3 con sông lớn: sông Đà, sông Hồng, sông Lô là nguồn cung cấp nước phục vụ cho hoạt động sản xuất và giao thông thuận lợi cho việc vận chuyển nguyên liệu và tiêu thụ sản phẩm; cả nhà máy là một hệ thống khép kín từ nhà máy giấy đến các nhà máy vệ tinh phục vụ cho hoạt động sản xuất: nhà máy điện, nhà máy sản xuất bột giấy, nhà máy sản xuất hóa chất, nhà máy cơ khí chế tạo phụ tùng thiết bị, xí nghiệp vận tải,…Thậm chí, trường Trung học kỹ thuật giấy chuyên đào tạo tay nghề cho công nhân vận hành các nghề kỹ thuật liên quan tới ngành giấy cũng được thành lập ở đây từ nhu cầu của nhà máy. Với năng lực hiện có và tiềm năng lớn về nguyên liệu, mặt bằng, máy móc thiết bị… Công ty giấy Bãi bằng (trước đây) là một địa chỉ ưu tiên mà Tổng công ty giấy lựa chọn để đầu tư mở rộng năng lực sản xuất. Năm 2003, dự án mở rộng sản xuất giai đoạn 1 với tổng mức đầu tư 1.107 tỷ đồng, trong đó hơn 200 tỷ dành cho đầu tư hệ thống xử lý môi trường, đảm bảo các chất thải đựơc xử lý theo quy trình hiện đại, đưa năng lực sản xuất bột giấy lên 61.000 tấn/ năm và năng lực sản xuất giấy lên 100.000 tấn/ năm với chất lượng sản phẩm đạt tiêu chuẩn quốc tế. 1.1.3. Thực trạng về ngành giấy trong thời điểm hiện tại *Nhu cầu về giấy và thực trạng thị trường giấy trong những năm qua Trong 10 năm qua ( 1996 – 2005 ) nhu cầu tiêu thụ giấy ở nước ta tăng rất nhanh từ 281.000 tấn ( 1996 ) lên 1.481.000 tấn ( năm 2005 ) tăng gấp 5,3 lần. Nhu cầu tiêu thụ giấy tăng nhanh đã thúc đẩy công suất giấy tăng theo. Năm 1996 công suất thiết kế giấy tăng từ 240 tấn lên 1.080.000 tấn ( năm 2005 ) gấp 4,5 lần. Mức tiêu thụ giấy tính theo đầu người tăng từ 3,8kg/người/năm lên 17,9kg/người/năm, gấp 4,7 lần Nguyên nhân tác động, thúc đẩy nhu cầu tiêu thụ giấy tăng nhanh như vậy trong các năm qua là do : Tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế quốc dân: Từ các năm 2000 – 2005, GDP của nước ta đều tăng , đặc biệt năm 2005 tăng 8,4% năm 2006 8%, dự báo năm 2010 tăng trưởng 7,5 – 8% Theo thống kê , GDP tăng 1% thì nhu cầu tiêu thụ giấy tăng 1,2 – 1,5% Giá trị sản xuất công nghiệp, vốn đầu tư đều tăng Từ năm 2001 – 2005 giá trị sản xuất công nghiệp tăng 17,2%, vốn đầu tư tòan xã hội tăng 18,5%. Các mức tăng trưởng này đã thúc đẩy nhu cầu tiêu thụ giấy tăng theo. Giấy công nghiệp ( giấy bao bì lớp giữa và lớp mặt ) : 816.300 tấn, chiếm 55% trong tổng tiêu thụ các lọai giấy. Dân số tăng, nhu cầu tiêu thụ giấy cũng tăng theo Đời sống văn hóa , xã hội được cải thiện và nâng cao: mức tiêu dùng bình quân của người dân Việt Nam năm 2005 là 438.000đ/người tăng 2 lần so năm 2000. GDP bình quân đầu người đạt 640USD/năm điều này cho thấy nhu cầu tiêu thụ giấy tăng rất nhanh. *Dự báo nhu cầu tiêu thụ giấy : Tính trên cơ sở nhu cầu tiêu thụ giấy năm 2005 : 1.481.000tấn , theo tốc độ phát triển có xét các yếu tố tích cực thì đến năm 2010 nhu cầu tiêu thụ giấy từ 1.550.000 – 1.600.000 tấn/ năm. *Sản xuất giấy Nhu cầu tiêu thụ giấy như vậy nhưng sản xuất trong nước chỉ chiếm 80% các lọai giấy thông thường , các lọai giấy đặc chủng sẽ nhập khẩu. Cơ cấu : giấy văn hóa : 34%, giấy bao bì 60%, các lọai khác 6%. Để sản xuất 80% nhu cầu giấy các lọai, công suất cần 1,4 triệu tấn /năm ( huy động 90% công suất thiết kế ). Công suất giấy phải bổ sung : 400.000 tấn. Như vậy hiện tại công suất chưa đạt tới con số này. Trong khi chưa đủ để đáp ứng như trên thì chúng ta lại đối mặt với cạnh tranh lớn, có nghĩa ra sản xuất trong nước sẽ nhường thị phần trong nước cho các đối thủ trong khu vực Là một ngành có suất đầu tư khá lớn (khoảng 1.500 USD- 2.000 USD/tấn sản phẩm tuỳ theo qui mô sản xuất và phẩm cấp sản phẩm). Đầu tư cho ngành lớn, trong khi năng lực cạnh tranh của ngành giấy so với các nước trong khu vực vẫn còn khá yếu. 20 năm qua, ngành giấy trong nước có tốc độ tăng trưởng hàng năm khoảng 15%-16%, đưa công suất từ 100.000 tấn/năm lên hơn 800.000 tấn/năm. Tuy nhiên, với cùng điểm xuất phát ấy, Indonesia đã đưa sản lượng lên gấp 10 lần Việt Nam, còn Trung Quốc thì chỉ mặt hàng giấy in báo của họ cũng đã có công suất trên 2,5 triệu tấn. Sự tụt hậu này đặt ngành giấy Việt Nam vào vị thế cạnh tranh quá thấp khi bước vào giai đoạn hội nhập Sau đây chúng ta sẽ so sánh trình độ công nghệ sản xuất bột giấy giữa nhà máy được coi hiện đại nhất nước Việt Nam và một thời từng tự hào là hiện đại nhất Đông Nam Á với 2 nước trong khu vực Đông Nam Á tại thời điểm năm 2008. Công suất Tấn/năm Việt Nam Inđonexia Thái Lan Trung Quốc 61.000 500.000 210.000 1.000.000 Ông Võ Sĩ Dởng, Tổng giám đốc Tổng công ty Giấy Việt Nam cho biết, ngành giấy hiện có 280 doanh nghiệp (DN), nhưng chỉ có 4 DN có quy mô sản xuất trên 50.000 tấn giấy/năm, còn lại có tới 46,4% số DN có quy mô sản xuất dưới 1.000 tấn giấy/năm; 42% có công suất từ 1.000 đến 10.000 tấn/năm. Quy mô nhỏ và sản xuất không hiệu quả sẽ không có chỗ đứng trong cạnh tranh, hơn nữa trong suốt thời gian qua, những nhà máy này gây ô nhiễm môi trường nặng vì không có hệ thống thu hồi hóa chất, xử lý nước thải, chất thải…Các doanh nghiệp sản xuất theo kiểu thủ công là chính khi hoạt động tiêu thụ rất nhiều năng lượng và nguyên liệu, năng suất lao động thấp, sử dụng nhiều lao động nhưng lại không đảm bảo cho người lao động về mức độ an toàn sức khỏe cũng như thu nhập. Lý do tồn tại suốt thời gian qua chính là nhờ bảo hộ, rất tiếc là thời gian đó đã qua đi, nếu không điều chỉnh kịp thời, sẽ có nhiều doanh nghiệp mới bị phá sản sắp tới. Mặc dù hàng năm, năng lực sản xuất giấy của cả nước tăng trên 100.000 tấn, nhưng đó là phép cộng của hơn một chục dây chuyền được đầu tư mới, chứ không phải từ 1-2 dây chuyền. Đặc trưng đầu tiên của ngành giấy là manh mún, nhỏ lẻ, thiếu khả năng hợp tác. Việt Nam không tự chủ được bột giấy, trong các công đoạn làm ra giấy thì sản xuất bột giấy chiếm đến 70% còn cán giấy (xeo) chỉ mất 30%, như vậy, giá thành sản phẩm giấy của chúng ta phụ thuộc vào nước ngòai, vì bản thân chúng ta đang nhập khẩu bột giấy. Ngoài một số nhà máy lớn, có thể lo được một phần bột giấy, còn lại là hệ thống các nhà máy lẻ tẻ, các hộ gia đình sản xuất thủ công, nhập bột giấy về và tự cán giấy. Có 2 sai lầm ở đây : Giá phụ thuộc, và thành phẩm kém chất lượng. Thật không may đây lại là 2 yếu tố của cạnh tranh. Nếu bán với giá thị trường thì chúng ta bị thua lỗ nặng. Vậy một ngành chủ chốt của kinh tế bị yếu thế trong cạnh tranh trong thời điểm hội nhập thì liệu sẽ tồn tại được bao lâu. Trước đó. Hai mặt hàng sản xuất trong nước chiếm tỷ trọng lớn nhất là giấy in và giấy viết, đây cũng là mặt hàng được bảo hộ với thuế nhập khẩu là 50%, nên giấy ngoại có chất lượng cao cũng khó cạnh tranh với hàng trong nước về giá. Theo tính toán mức thuế khi chưa áp theo lộ trình AFTA đối với loại giấy in báo, giấy viết, giấy photocopy trước đây =50% + phụ thu + thuế giá trị gia tăng 10% = 76% . Với con số này, khó lòng có giấy ngoại tràn vào một cách ồ ạt, có chăng chỉ là một số cơ sở kinh doanh ngoài. Con số này sẽ giảm xuống theo lộ trình AFTA còn 20% thuế nhập khẩu sau ngày 1/7 thì đã bắt đầu có căng thẳng về cạnh tranh. Nếu tính giá thành sau thuế về cảng trong nước thì cuộc cạnh tranh chính thức bắt đầu giữa các nhà máy trong nước và các doanh nghiệp giấy Thái lan và Inđonexia.Và với tiến trình đó, mục tiêu chiếm lĩnh thị phần giấy Việt Nam của các doanh nghiệp Inđônêxia là không quá khó. Chúng ta sẽ nhìn qua bảng so sánh về giá giấy giữa trong nước và nhập khẩu, đơn vị theo triệu đồng/tấn Nước Giá giấy (5/2008) Giá giấy (12/2008) Thái Lan 13,2 12,5 Indonexia 12,7 12,3 Việt Nam 13,5 13 Trong 4 tháng đầu năm 2008, cả nước nhập khẩu 361,29 nghìn tấn giấy các loại với trị giá 274,35 triệu USD, tăng 49,5% về lượng và 62,9% về trị giá so với cùng kỳ năm 2007. Về thị trường, trong 4 tháng đầu năm nay, kim ngạch nhập khẩu giấy từ các thị trường nhìn chung tăng mạnh so với cùng kỳ năm 2007. Trong đó, nhập khẩu từ 2 thị trường lớn nhất là Indonesia và Thái Lan tăng trên 60%, đạt 53,71 triệu USD và 47,89 triệu USD. Đáng chú ý, kim ngạch nhập khẩu giấy từ Nga, Pháp và Malaysia tăng rất mạnh, tăng lần lượt 517,29%; 387,4% và 250,89% so với 4 tháng đầu năm 2007. Trong khi đó, hầu hết đây là giấy tồn kho, được bán tống bán tháo vào nước ta với giá nhập khẩu rất rẻ, số lượng nhập khẩu đã tăng mạnh khiến cho thời điểm cuối năm 2008, tồn kho giấy của các nhà máy giấy lớn trong nước cũng đạt đỉnh cao, ngành giấy trở nên lao đao với hàng loạt các lò phải đóng cửa, máy móc phải tạm dừng hoạt động. Các mặt hàng mà lâu nay trở thành sản phẩm truyền thống cũng bị yếu thế trước giấy ngoại, cụ thể, khi giá nhập khẩu giảm, tổng giá trị nhập khẩu vẫn tăng lên, điều đáng nói là chất lượng của giấy ngoại tốt hơn, thấm tốt hơn và độ trắng cũng như độ bóng đều tốt hơn. Sau đây là số liệu nhập khẩu những mặt hàng được coi là truyền thống trong nước đã tăng về giá trị nhập khẩu. Giấy in A4 tăng 1,94% đạt 946 USD/T. Giấy duplex tăng 3,06% đạt 577,13 USD/T. Giấy carton tăng 1%, đạt 505,36 USD/T. Nếu khái quát thực trạng của ngành giấy trong thời điểm hiện tại thì có thể tóm tắt ngắn gọn như sau: Lạc hậu, manh mún và ngổn ngang. 1.1.4. Các dự án đầu tư của tổng công ty giấy tại thời điểm hiện tại Giai đoạn từ 1998 đến nay Nhóm A Nhóm B Nhóm C Số lượng 5 7 40 và 177 hạng mục tương đương . Tổng mức đầu tư toàn bộ là 9.031 tỷ đồng. Trong 5 dự án nhóm A, đầu tư xây mới 3 dự án có tổng mức đầu tư được phê duyệt là 6.028 tỷ đồng, bao gồm: Liên doanh giấy Hải Phòng (công suất 50.000 tãn/năm); Nhà máy bột giấy Kon Tum, vùng nguyên liệu giấy Kon Tum và dự án Nhà máy giấy và bột giấy Thanh Hóa. 2 dự án còn lại chủ yếu là đầu tư nâng cấp và mở rộng với tổng mức là 3.002 tỷ đồng Bảy dự án nhóm B, 40 dự án và 177 hạng mục thuộc dự án nhóm C. Ðến nay, nhiều dự án đã được hoàn thành và đi vào hoạt động như: dự án đầu tư dây chuyền DIP 20.000 tấn/năm (dây chuyền khử mực giấy loại) và cải tạo nâng cấp Công ty giấy Tân Mai từ công suất thiết kế 48.000 tấn giấy/năm lên 65.000 tấn/năm; mở rộng Công ty giấy Bãi Bằng giai đoạn 1 từ 55.000 tấn giấy/năm lên 100.000 tấn/năm, dây chuyền sản xuất giấy bao bì công nghiệp cao cấp 25.000 tấn/năm tại Công ty giấy Việt Trì; dây chuyền giấy tissue Cầu Ðuống 10.000 tấn/năm tại công ty giấy Bãi Bằng, dây chuyền giấy photocopy 12.000 tấn/năm tại Công ty giấy Vạn Ðiểm; dây chuyền sản xuất giấy bao bì xi măng 12.000 tấn/năm tại Công ty giấy Hoàng Văn Thụ; dây chuyền giấy tráng phủ 45.000 tấn/năm tại Công ty giấy Bình An, dây chuyền sản xuất giấy vở tập Hồng Hà 30 triệu cuốn/năm tại Công ty VPP Hồng Hà.... Gần đây nhất vào năm 2006 các dự án nhóm A có tổng vốn đầu tư lớn, mang ý nghĩa quan trọng lại gặp nhiều khó khăn. Dự án liên doanh với tập đoàn Daewoo đã bị huỷ bỏ. Mới đây nhất là dự án Nhà máy và vùng nguyên liệu Kon Tum sau khi thực hiện công tác giải phóng mặt bằng và san ủi mặt bằng giai đoạn 1, đào tạo hơn 200 học sinh công nhân kỹ thuật, trồng 17.000 ha rừng nguyên liệu giấy tại tỉnh Kon Tum đã phải dừng công trình (từ tháng 8/2001) để chờ Chính phủ thẩm tra. Dự án Nhà máy bột giấy và giấy Thanh Hoá đang chậm trễ vì gặp nhiều khó khăn trong thu xếp nguồn vốn vay trong nước (hiện đã chậm so với tiến độ phần đầu gần 1 năm). Các dự án đầu tư nâng cấp và mở rộng khác vượt so với tổng mức là 554 tỷ đồng, tăng 22,8% so với mức được phê duyệt ban đầu. Chính những nguyên nhân trên đã làm chậm tiến độ, kéo dài thời gian đầu tư của các dự án nên hiệu quả đầu tư giảm (giá bán sản phẩm giảm trong khi giá nguyên nhiên liệu đầu vào tăng), tăng nợ do tăng tỷ giá ngoại tệ, các chi phí đầu vào... Ngành giấy phát triển sẽ tạo ra hiệu quả liên đới đến phát triển kinh tế, xã hội, an ninh quốc phòng và bảo vệ môi trường cho xã hội về lâu dài, đồng thời tạo nhiều công ăn việc làm cho người lao động nhất là trong thời điểm nền kinh tế rơi vào khủng hoảng, có rất nhiều lao động mất việc làm. Do đó, Tổng Cty Giấy kiến nghị: Nhà nước cần tạo cơ chế chính sách đặc thù để khuyến khích đầu tư ngành giấy trong nước phát triển, tháo gỡ vốn vay cho các dự án đã được phê duyệt, chỉ đạo Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn xây dựng qui hoạch cụ thể về phát triển các vùng nguyên liệu trên phạm vi cả nước cùng với ngành giấy đẩy nhanh tiến độ thực hiện các dự án lớn mang tầm cỡ quốc gia. 1.2. Dự án Giấy Bãi Bằng giai đoạn 1 (2003-2008) 1.2.1 Giới thiệu về dự án *Tên dự án Dự án : Đầu tư mở rộng Năng lực sản xuất Cty giấy Bãi Bằng giai đoạn 1 lên 100.000 tấn/năm và 61.000 tấn bột giấy/năm * Chủ đầu tư Tổng công ty giấy Việt Nam * Tổng vốn đầu tư được phê duyệt 966.644.882.243 đồng * Mục tiêu dự án Nâng cao năng lực sản xuất giấy từ 50.000 tấn/năm lên 100.000 tấn/năm và sản xuất bột với công suất 61.000 tấn/năm giúp tự chủ về nguyên liệu và giảm thiểu nguyên liệu nhập khẩu. Tận dụng lao động phổ thông trong quá trình sản xuất bột giấy tạo thêm công ăn việc làm cho người lao động Đưa nhà máy giấy Bãi Bằng thành đầu tầu trong ngành giấy về sản xuất giấy và bột giấy. Bãi Bằng là nhà máy được trang bị đồng bộ nhất về máy móc cũng như độ hiện đại trong hệ thống các nhà máy của tổng công ty giấy Việt Nam, Bãi Bằng có mạnh hay không ở chỗ nó có tự sản xuất được bột giấy cho sản xuất hay không. Đầu tư mở rộng giai đoạn 1 nằm trong tiến trình đưa Bãi Bằng thành điểm mạnh trong ngành giấy và đáp ứng nhu cầu tiêu dùng về giấy trong nước. * Văn bản pháp quy dự án Bãi Bằng giai đoạn 1 Căn cứ phê duyệt của chính phủ và._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc21630.doc
Tài liệu liên quan