FDI của Mỹ vào Việt Nam - Thực trạng và giải pháp

Lời nói đầu Cũng như các nước đang phát triển khác, Việt Nam đang rất cần vốn cho quá trình tăng trưởng và phát triển kinh tế. Xuất phát từ một nước nông nghiệp lạc hậu, lại trải qua hai cuộc kháng chiến cứu nước khốc liệt, nền kinh tế Việt Nam vốn yếu kém nay lại càng trở nên kiệt quệ. Đứng trước tình hình đó, tại Đại Hội Đảng VI (12/1986), Đảng và Nhà nước đã quyết định đề ra mục tiêu đổi mới toàn diện về mọi mặt kinh tế – xã hội, chính trị, ngoại giao v.v… Chúng ta đã chuyển đổi từ cơ chế ba

doc64 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1407 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu FDI của Mỹ vào Việt Nam - Thực trạng và giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
o cấp, kế hoạch hoá tập trung sang cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN. Cùng với nó, Luật đầu tư trực tiếp nước ngoài đã được ban hành vào năm 1987 nhằm thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài với mục đích: bổ sung nguồn vốn đầu tư trong nước, chuyển giao những công nghệ tiên tiến hiện đại từ bên ngoài nhằm nâng cao trình độ, năng lực công nghệ trong nước, chuyển dịch cơ cấu kinh tế v.v… qua đó, góp phần giúp Việt Nam đẩy nhanh sự nghiệp CNH-HĐH đất nước. Hoa Kỳ với tư cách là nhà đầu tư ra nước ngoài lớn nhất trên thế giới, đã bước đầu tiếp cận thị trường Việt Nam và đặc biệt sau khi Hiệp định Thương mại Việt Nam – Hoa Kỳ được ký kết, các nhà đầu tư Hoa Kỳ đã quan tâm và đầu tư vào thị trường Việt Nam. Tuy nhiên, đầu tư của Hoa Kỳ vào Việt Nam vẫn còn ở mức rất khiêm tốn so với tiềm lực kinh tế của mình cũng như chỉ chiếm một tỷ lệ rất nhỏ bé trong tổng đầu tư ra nước ngoài của Hoa Kỳ. Đứng trước tình hình trên, với mong muốn đẩy mạnh được luồng vốn đầu tư trực tiếp của Hoa Kỳ vào Việt Nam, người viết đã chọn đề tài: “Đầu tư trực tiếp của Hoa Kỳ vào Việt Nam – Thực trạng và giải pháp”. Về mặt bố cục, đề tài được chia làm 3 phần: Chương 1: Lý luận chung về đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) Chương 2: Thực trạng về FDI của Hoa Kỳ vào Việt Nam thời gian qua. Chương 3: Giải pháp đẩy mạnh thu hút FDI của Hoa Kỳ vào Việt Nam. Để hoàn thành đề tài này, em xin chân thành cảm ơn Th.S Nguyễn Hữu Sở người đã nhiệt tình giúp đỡ, hướng dẫn em hoàn thành đề tài. Chương 1 Lý luận chung về đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) 1.1. Khái niệm và đặc điểm FDI 1.1.1. Khái niệm Thu hút vốn đầu tư nước ngoài hiện nay chiếm một vị trí quan trọng trong chính sách phát triển kinh tế của các nước đang phát triển, góp phần thúc đẩy tiến trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước.Cho đến nay, mặc dù cũng có không ít khái niệm khác nhau về đầu tư quốc tế, nhưng khái niệm được nhiều người thừa nhận đó là “Đầu tư quốc tế là sự di chuyển tài sản như vốn, công nghệ, kỹ năng quản lý,...từ nước này sang nước khác để kinh doanh nhằm mục đích thu lợi nhuận cao trên phạm vi toàn cầu”. Có hai hình thức để thu hút vốn đầu tư nước ngoài: Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) và đầu tư gián tiếp (PFI) Đầu tư trực tiếp nước ngoài là loại hình di chuyển vốn quốc tế trong đó người chủ sở hữu vốn đồng thời cũng là người trực tiếp quản lý và điều hành vốn. Còn đầu tư gián tiếp cũng là loại hình di chuyển vốn, nhưng người chủ sở hữu vốn không trực tiếp tham gia quản lý và điều hành đối tượng mà họ bỏ vốn. So với đầu tư gián tiếp thì đầu tư trực tiếp được thu hút chủ yếu do tính ưu việt hơn hẳn của nó. Trong hình thức đầu tư trực tiếp nước ngoài nước chủ nhà có thể tiếp thu được những công nghệ, kỹ thuật quản lý tiên tiến hiện đại của các chủ đầu tư nước ngoài bên cạnh việc tăng cường vốn đầu tư nội địa cũng như góp phần đáng kể nguồn thu ngân sách cho chính phủ nước chủ nhà. Đây là những yếu tố cực kì quan trọng đặc biệt đối với những nước đang phát triển, giúp các nước này thực hiện công cuộc công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước. Mặt khác chủ đầu tư nước ngoài được trực tiếp tham gia điều hành quản lý đối tượng mà họ bỏ vốn vì vậy họ được quyền ra các quyết định liên quan đến hoạt động sản xuất kinh doanh sao cho có lợi nhất cho mình.Về cơ bản FDI là nguồn vồn an toàn hơn vốn đầu tư gián tiếp cho các nước chủ nhà vì thời hạn của các dự án FDI thường dài và khá ổn định còn dòng vốn đầu tư gián tiếp thường khôngchắc chắn, các chủ đầu tư có thể rút vốn bất kỳ lúc nào. Từ những năm 60 trở lại đây, dòng FDI trên thế giới vận động theo một số xu hướng chính sau: Hầu hết FDI được thực hiện trong những khu vực có tương đối nhiều vốn của thế giới. Như vậy FDI không phải chủ yếu chảy từ nơi nhiều vốn sang nơi hiếm vốn mà lại được thực hiện chủ yếu trong khu vực các nước công nghiệp phát triển. Nếu ở đầu thế kỉ 20 , trên 70% vốn đầu tư đổ vào các nước chậm phát triển và đang phát triển thì từ sau chiến tranh thế giới thứ hai dòng vốn đầu tư quốc tế lại chủ yếu chảy vào các nước tư bản phát triển, các nước này chiếm tới 80% tổng vốn đầu tư quốc tế. FDI được thực hiện trong nội bộ khu vực. Do những ưu thế về khoảng cách địa lý và các điều kiện đặc điểm tương đồng mà có xu hướng đầu tư trong nội bộ khu vực. Có sự thay đổi lớn trong tương quan lực lượng giữa các chủ đầu tư quốc tế. Trong những năm gần đây , ngoài những chủ đầu tư lớn trước đây như Anh , Pháp, Đức, Mỹ, Hà Lan còn xuất hiện những chủ đầu tư mới đó là các nước đang phát triển có tốc độ đầu tư ra nước ngoài khá cao, đặc biệt là các nước NICs Châu á. Đông á và Đông Nam á ngày càng trở thành khu vực hấp dẫn đầu tư nước ngoài nhất trong các khu vực đang phát triển, chiếm 2/3 tổng FDI vào các nước đang phát triển ( giai đoạn trước khủng hoảng tài chính khu vực). Đây là vùng phát triển kinh tế năng động nhất trong những năm gần đây. Khu vực này trở nên năng động đối với nhà đầu tư nước ngoài vì giá nhân công rẻ, môi trường đầu tư ngày càng được cải thiện tốt và so với các nước tư bản phát triển thì có mức độ cạnh tranh thấp hơn. Các nhân tố ảnh hưởng mạnh nhất đến sự di chuyển FDI trên thế giới là sự ổn định về tình hình chính trị, hệ thống pháp luật, các chính sách kinh tế, triển vọng mở rộng thị trường, các điều kiện thuận lợi để thực hiện hoạt động đầu tư, cũng như chịu ảnh hưởng mạnh của các quan hệ ngoại giao v...v Về thực chất, FDI là sự đầu tư của các công ty đa quốc gia nhằm xây dựng các cơ sở , chi nhánh ở nước ngoài và làm chủ toàn bộ hay từng phần cơ sở đó. Đây là hình thức đầu tư mà chủ đầu tư đóng góp một số vốn đủ lớn vào lĩnh vực sản xuất hoặc dịch vụ cho phép họ trực tiếp tham gia đối tượng mà họ bỏ vốn. 1.1.2. Đặc điểm của FDI Các chủ đầu tư nước ngoài phải đóng góp một số vốn tối thiểu theo luật đầu tư của từng nước quy định. Ví dụ: Luật đầu tư nước ngoài của Việt Nam quy định chủ đầu tư nước ngoài phải đóng góp tối thiểu 30% vốn pháp định của dự án trong khi đó Mỹ qui định là 10% và một số nước khác là 20%. Quyền quản lý xí nghiệp phụ thuộc vào mức độ góp vốn. Nếu góp 100% vốn pháp định, thì doanh nghiệp hoàn toàn do chủ đầu tư nước ngoài điều hành và quản lý. Lợi nhuận của các chủ đầu tư nước ngoài thu được phụ thuộc vào kết quả hoạt động kinh doanh và được chia theo tỷ lệ góp vốn trong vốn pháp định sau khi nộp thuế cho nước sở tại và trả lợi tức cổ phần (nếu có) FDI được thực hiện thông qua việc xây dựng doanh nghiệp mới, mua lại từng phần hoặc toàn bộ doanh nghiệp đang hoạt động hoặc mua cổ phiếu để sát nhập các doanh nghiệp mới nhau. Hay nói cách khác các hình thức phổ biến của FDI là: hợp đồng hợp đồng hợp tác kinh doanh, doanh nghiệp liên doanh, doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài và BOT. 1.2. Tác động của FDI đối với nước đầu tư và nước nhận đầu tư 1.2.1. Đối với nước đầu tư Đầu tư ra bên ngoài đem lại lợi ích rất lớn đối với chủ đầu tư. Bởi khi giá lao động và chi phí cho các dịch vụ phục vụ hoạt động sản xuất kinh doanh trong nước là tương đối cao thì FDI là công cụ giúp chủ đầu tư nước ngoài nâng cao được hiệu suất vốn cũng như tỷ suất lợi nhuận nhờ vào chi phí sản xuất sản phẩm thấp. Do các chủ đầu tư có thể khai thác được nguồn lao động dồi dào với giá rẻ, nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú có sẵn tại nước sở tại. Qua đó họ có thể khai thác lợi thế so sánh của nước chủ nhà. Những yếu tố đó góp phần tích cực giúp hạ giá thành sản phẩm, mở rộng thị trường tiêu thụ. Các chủ đầu tư nước ngoài có khả năng chiếm lĩnh thị trường tiêu thụ và nguồn cung cấp nguyên liệu trực tiếp của nước sở tại. Như chúng ta đã biết, FDI có rất nhiều tính ưu việt hơn hẳn PFI .Trong hình thức FDI các chủ đầu tư nước ngoài được quuyền tham gia điều hành quản lý trực tiếp đối tượng mà họ bỏ vốn vì thế họ có quuyền đưa ra các quyết định liên quan đến hoạt động sản xuất kinh doanh theo hướng có lợi nhất cho mình. Điều này đảm bảo hiệu quả sử dụng vốn là tương đối cao. Bên cạnh đó FDI giúp các chủ đầu tư tránh được hàng rào bảo hộ mậu dịch của nước sở tại khi muốn chiếm lĩnh thị trường của những nước này. Thông qua FDI , chủ đầu tư nước ngoài có thể xây dựng được những doanh nghiệp ngay tại chính các nước thi hành chính sách bảo hộ mà thường thì một trong những rào cản lớn nhất khi các công ty muốn xâm nhập thị trường tiêu thụ sản phẩm của một nước chính là hàng rào bảo hộ. 1.2.2. Đối với nước tiếp nhận vốn đầu tư Đối với các nước tiếp nhận vốn đầu tư, FDI có một vai trò rất lớn. FDI góp phần đẩy nhanh quá trình công nhgiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Đặc biệt đối với những nước đang phát triển thì FDI ngày càng trỏ nên quan trọng trong chiến lược phát triển của đất nước. FDI là yếu tố quan trọng trong việc tăng cường và bổ sung nguồn vốn đầu tư trong nước, bù đắp sự thiếu hụt về nguồn vốn để thực hiện thành công các mục tiêu tăng trưởng và phát triển đát nước. Một trong những đặc điểm cơ bản có tính phổ biến ở các nước đang phát triển đó là tỷ lệ tiết kiệm tháp và thiếu ngoại tệ, hơn nữa quá trình tích luỹ từ nội bộ nền kinh tế rất chậm và không đáng kể cho yêu cầu của công nghiệp hoá. Các nước đang phát triển muốn đẩy nhanh quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước trong khi phải đối mặt với sự khan hiếm về vốn, sự thiếu vắng những công nghệ tiên tiến để phục vụ cho giai đoạn đầu công nghiệp hoá, cho đén những hạn chế về kiến thức kinh doanh. Những yếu tố này sẽ góp phần hạn chế các nước đang phát triển đẩy nhanh quá này. Qua thực tế ở một số nước đang phát triển trong nhiều năm qua, FDI chiếm tỷ lệ đáng kể trong tổng số vốn đầu tư trong nước. Ngoài ý nghĩa tăng cường vốn đầu tư nội địa , FDI còn bổ sung nguồn thu ngân sách của chính phủ các nước đang phát triển thông qua thuế từ các xí nghiệp có vốn đầu tư của nước ngoài. Đây lànguồn ngoại tệ rất quan trọng để đầu tư vào các dự án công cộng , các công trình phúc lợi phục vụ dân sinh trong giai đoạn đầu phục vụ công nghiệp hoá. Một yếu tố quan trọng và hấp dẫn của FDI đối với các nước đang phát triển là chuyển giao các kỹ thuật tiên tiến góp phần quan trọng đối với sự phát triển công nghệ và hiện đại hoá đất nước của nưóc chủ nhà. Khả năng công nghệ của nước nhận đầu tư sẽ được nâng cao thông qua việc tiếp cận và tiếp thu các kỹ thuật tiên tiến hiện đại trong các dự án liên doanh giữa nước chủ nhà với các nhà đầu tư nước ngoài. Cácchuyên gia kỹ thuật trong nước có thể nghiên cứu cải tiến công nghệ sao cho phù hợp với điều kiện của nước nước chủ nhà, góp phần tích cực vào việc phát triển công nghệ kỹ thuật , giúp nâng cao năng suất lao động, hạ gia thành sản phẩm qua đó tăng cường khả năng cạnh tranh của sản phẩm trên thị trường. Vai trò tiếp theo của FDI là giúp các nước đang phát triển đào tạo kiến thức kinh doanh đặc biệt là các kiến thức cần thiết khi thâm nhập thị trường nước ngoài, tiếp cận thị trường thế giới. FDI giúp nước chủ nhà đào tạo nguồn nhân lực thông qua việc các chủ đầu tư nước ngoài tổ chức các khoá học đào tạo từ tay nghề chuyên môn cho đội ngũ công nhân cho đến các kiến thức về quản lý điều hành cũng như kỹ thuật cho cán bộ, nhân viên của nước sở tại để thực hiện các trương trình đầu tư theo dự án. Bằng con đường này, kiến thức kinh doanh hiện đại của cán bộ và tay nghề của công nhân được nâng lên. Hơn nữa các công ty nước ngoài còn giúp các doanh nghiệp địa phương tiếp cận vào thị trường thế giới thông qua liên doanh và mạng lưới thị trường rộng lớn của họ. Điều này giúp nước chủ nhà dần dần tiếp cận thị trường thế giới dễ dàng hơn tránh sự lúng túng do thiếu kiến thức và kinh nghiệm. Như vậy FDI giúp nước chủ nhà đào tạo được nguồn nhân lực cần thiết để phục vụ cho giai đoạn đầu công nghiệp hoá - hiện đại hoá và phát triển đất nước. Phát triển nguồn nhân lực và tạo việc làm là nhân tố quan trọng thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Thông qua các dự án đầu tư nước ngoài một số lượng việc làm đáng kể đã được tạo ra cho người lao động ở nước chủ nhà. Số lao động trực tiếp làm việc trong các dự án đầu tư nước ngoài ngày càng tăng nhanh ở cả các nưóc phát triển và đang phát triển. Mặt khác nhờ các hoạt động cung ứng dịch vụ và gia công cho các dự án đầu tư nước ngoài đã tạo ra nhiều việc làm cho người lao động , trong đó nhất là lao động phụ nữ và trẻ em. Bên cạnh đó FDI còn góp phần thúc đẩy xuất nhập khẩu của nước chủ nhà. Nhờ có đẩy mạnh xuất khẩu, những lợi thế so sánh của các yếu tố sản xuất ở nước chủ nhà được khai thác có hiệu quả hơn trong phân công lao động quốc tế. Bởi thế, khuyến khích đầu tư nước ngoài hướng vào xuất khẩu luôn là ưu dãi đặc biệt trong chính sách thu hút đầu tư nước ngoài của nước chủ nhà . Đối với các nhà đầu tư nước ngoài xuất khẩu cũng đem lại nhiều lợi ích cho họ thông qua sử dụng các yếu tố đầu vào rẻ , khai được hiệu quả theo qui mô (không bị hạn chế bởi qui mô thị trường của nước chủ nhà ) và thực hiện chuyên môn hoá sâu từng chi tiết sản phẩm ở những nơi (quốc gia) có điều kiện lợi thế nhất, sau đó lắp ráp thành thành phẩm . Do những lợi ích trên , định hướng xuất khẩu ngày càng được chú trọng đối với nước chủ nhà. Trong hơn ba thập kỷ gần đây, đầu tư nước ngoài ngày càng gia tăng và nó đã đóng vai trò quan trọng trong thúc đẩy xuất khẩu nưóc chủ nhà. Tầm quan trọng này được hiện ở các tỷ trọng xuất khẩu khá cao của các dự án đầu tư nước ngoài trong tổng giá trị thương mại của chúng và tổng giá trị xuất khẩu của nước chủ nhà, đặc biệt là các nước đang phát triển. Bên cạnh một số tác động chính mà FDI mang lại cho nước nhận đầu tư như đẫ nêu ở trên, đầu tư nước ngoài sẽ góp phần tăng khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp trong nước . Các dự án 100% vốn nước ngoài hay các dự án liên doanh đều tạo ra động lực để buộc các doanh nghiệp nước chủ nhà cải tiến kỹ thuật, nâng cao năng suất lao động, nâng cao chất lượng sản phẩm , giảm chi phí sản xuất, hạ giá thành sản phẩm qua đó tăng khả năng cạnh tranh của mình. Đây cũng là một trong những yếu tố tích cực giúp các doanh nghiệp trong nước tự tin hơn trên thị trường trong nước cũng như khi xâm nhập thị trường thế giới . Đồng thời do việc thêm các đối thủ cạnh tranh sẽ làm cho môi trường cạnh tranh của nước chủ nhà trở nên khốc liệt hơn, điều này làm cho nền kinh tế của nước sở tại hoạt động hiệu quả. Tuy nhiên, nếu khả năng cạnh tranh của các công ty nội địa thấp và nước chủ nhà thiếu các chính sách cần thiết thì tình trạng các công ty nước ngoài chiếm vị chí độc quuyền là điều khó tránh khỏi. Cho nên mức độ tác động của FDI đến các vấn đề này ở những nước khác nhau thì khác nhau. Một tác động cũng rất tích cực của FDI đối với nước chủ nhà là FDI sẽ góp phần giúp nền kinh tế của nước chủ nhà chuyển dịch nhanh chóng theo hướng tích cực, phù hợp với xu thế phát triển kinh tế hiện nay đó là tăng tỷ trọng công nghiệp, dịch vụ và giảm tỷ trọng nông nghiệp. Nền kinh tế sẽ phát triển theo hướng tích cực, giúp nước chủ nhà dặc biệt là các nước đang phát triển thúc đẩy nhanh hơn quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước. Ngoài ra FDI còn tào ra sự liên kết kinh tế với các cơ sở kinh tế trong nước. Mặt khác các doanh nghiệp nội địa cũng mở rộng được quy mô sản xuất nhờ cung cấp nguyên liệu và dịch vụ cho các công ty nước ngoài. Tuy nhiên vấn đề gì cũng có mặt trái của nó. FDI cũng để lại những ảnh hưởng tiêu cực đến nền kinh tế xã hôi của nước chủ nhà. Mặc dù FDI bổ sung vốn cho nước nhận đầu tư nhưng về lâu dài lại làm giảm tỷ lệ tiết kiệm và đâù tư nội địa bởi vì các chủ đầu tư nước ngoài thường có ưu thế về vốn, công nghệ và kinh nghiệm quản lý so với các doanh nghiệp của nước chủ nhà nên họ thường tăng tỷ trọng vốn đầu tư dưới hình thức đầu tư mới hoặc tái đầu tư vào các ngành có tính cạnh tranh cao và dẫn tới vị trí độc quuyền điều này làm cho hàng loạt các doanh nghiệp địa phương phá sản nếu như các doanh nghiệp này không có các chính sách phù hợp , không có kế hoạch đổi mới để nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất. Bên cạnh đó các chủ đầu tư nước ngoài lợi dụng việc thiếu thông tin, thiếu kiến thức kinh nghiệp hay chính sách có nhiều kẽ hở của nước chủ nhà để họ tính gía cao đối với đầu vào nhập khẩu hay chuyển vào những kỹ thựt công nghệ lạc hậu không đúng chất lượng như trong hợp đồng ký kết. FDI cũng sẽ phản tác dụng khi nước chủ nhà không có một kế hoạch đầu tư cụ thể mà để đầu tư tràn lan, kém hiệu quả làm gia tăng sự mất cân đối giữa các vùng tài nguyên thiên nhiên bị bóc lột và kèm theo đó là những ảnh hưởng xấu về mặt xã hội. Tuy nhiên nếu xét về mặt tổng thể thì FDI vẫn đem lại những tác động rất tích cực đối với nước đâù tư và nước nhận đầu tư đặc biệt là các nước đang phát triển đang muốn đẩy nhanh công cuộc công nghiệp hoá - hiện đại hoá và phát triển đất nước. Vì vậy những nước này đã không ngừng cải thiện môi trường đầu tư của mình để thu hút FDI phục vụ công nghiệp hoá và phát triển đất nước. 1.3. Nhân tố tác động đến việc thu hút FDI Bất kì một quyết định đầu tư nào của nhà đầu tư cũng sẽ bị ảnh hưởng của môi trường đầu tư nước ngoài, nó không chỉ bị ảnh hưởng của môi trường đầu tư này mà còn bị ảnh hưởng của môi trường đầu tư ở chính nước họ và môi trường đâù tư quốc tế. Tuy nhiên môi trường đầu tư nước ngoài có vị trí đặc biệt quan trọng và có vai trò quyết định đối với dòng đầu tư quốc tế vào nước chủ nhà. Môi trường này gồm các nhân tố sau: 1.3.1. Tình hình chính trị Có thể nói, sự ổn định về chính trị là nhân tố vô cùng quan trọng ảnh hưởng đến việc thu hút FDI của nước chủ nhà. Các nhà đầu tư khi quyết định đem vốn ra đầu tư nước ngoài, họ luôn luôn đặt vấn đề ổn định chính trị của nước nhận đầu tư lên hàng đầu. Bởi vì FDI thường là dòng vốn đầu tư lớn và dài hạn, nó hoạt động trong một môi trường xa lạ vì vậy các chủ đầu tư rất sợ rủi ro đối với đồng vốn của mình. Họ luôn đặt sự an toàn vốn lên hàng đầu. Nếu tình hình chính trị của nước chủ nhà bất ổn, thường xuyên xảy ra đảo chính sẽ làm cho các nhà đầu tư lo ngại do các cam kết của chính phủ trưóc đối với hoạt động đầu tư nước ngoài có thể không được chính phủ su thực hiện ví dụ như các cam kết không quốc hữu hoá tài sản của người nước ngoài hoặc do sự thay đổi chính phủ mà đường lối phát triển không nhất quán gây khó khăn cho các nhà đầu tư trong việc xây dựng kế hoạch đầug tư của mình. Bên cạnh đó nếu có sự bất ổn định chính trị, có sự thay đổi chính phủ thì các khuyến khích đối vơí các nhà đầu tư có thể cũng sẽ không được duy trì, điều này cũng sẽ gây cản trở cho các nhà đầu tư khi thực hiện hoạt động sản xuất kinh doanh ở nưóc sở tại và rủi ro đối với đồng vốn của họ là hoàn toàn lớn. Các định hướng đầu tư của nước chủ nhà cũng có thể bị thay đổi vì các nhà đầu tư FDI thường có chiến lược kinh doanh dài hạn nên họ rất cần sự ổn định và nhất quán trong định hướng đầu tư, nếu định hướng đầu tư có sự thay đổi chắc chắn sẽ làm cho các nhà đầu tư giảm lợi nhuận đi rất nhiều, hoặc bị thua lỗ. Tất cả những yếu tố trên đều gây ra rủi ro rất lớn đối với đồng vốn của nhà đầu tư. Một môi trường chính trị ổn định sẽ làm cho các nhà đầu tư hoàn toàn an tâm khi bỏ vốn ra đầu tư. 1.3.2. Chính sách – pháp luật Do hoạt động đầu tư liên quan đến rất nhiều các hoạt động khác của nước sở tại. Nhà đầu tư rất cần một môi trường chính sách – pháp luật, vững chắc và có hiệu lực. Nếu các chính sách, các quy định chồng chéo, không nhất quán, không đồng bộ sẽ làm nản lòng các nhà đầu tư, họ sẽ không biết phải tuân theo các chính sách, các quyết định nào cho đúng. Điều này sẽ cản trở rất nhiều đến họat động kinh doanh của họ. Bên cạnh đó các quy định và thủ tục hành chính liên quan đến hoạt động đầu tư nước ngoài rườm rà, các vấn đề về xin giấy phép đầu tư, giải quyết các vấn đề khiếu kiện làm các nhà đầu tư phải đi lại quá nhiều gây cho họ cảm thấy chán nản. Đặc biệt ở những nước đang phát triển, tình trạng cửa quyền, sách nhiễu là rất phổ biến khiến các nhà đầu tư rất nản lòng và góp phần làm tăng rủi ro đối với hoạt động của họ. Khi hoạt động kinh doanh trong một môi trường như vậy, các nhà đầu tư sẽ không muốn bỏ vốn ra để đầu tư. Ngược lại nếu những chính sách, quy định, thủ tục vững chắc nhất quán và đồng bộ sẽ tạo ra sự yên tâm cho các nhà đầu tư, cho phép họ có được những quyết định chính xác đem lại hiệu quả kinh tế do không sợ có sự thay đổi của chính sách và qyu định pháp luật đối với hoạt độnh đầu tư nước ngoài. 1.3.3. Vị trí địa lí và điều kiện tự nhiên Khi các nhà đầu tư quyết định bỏ vốn để tiến hành hoạt động kinh doanh, chắc chắn họ sẽ xem xét đến vị trí địa lí và điều kiện tự nhiên ở nơi đó. Đây là những yếu tố tác động đến khả năng sinh lời của đồng vốn. Đối với các nhà đầu tư đặc biệt là các nhà đầu tư nước ngoài đều phải tiến hành chuyên chở hàng hoá hay dịch vụ giữa điểm sản xuất và điểm tiêu thụ. Nếu vị trí thuận lợi, không cách trở sẽ làm giảm chi phí vận chuyển, giảm giá thành, tăng lợi nhuận cho các nhà đầu tư đồng thời hạn chế được rủi ro. Nếu nước chủ nhà lại có điều kiện tự nhiên thuận lợi ví dụ như tài nguyên phong phú cung cấp đầu vào với giả rẻ thì càng hấp dẫn đối với các nhà đầu tư, giúp các nhà đầu tư có một nguồn cung cấp nguyên liệu ổn định với giá thấp. Đây là yếu tố rất hấp dẫn đối với nhà đầu tư. 1.3.4. Trình độ phát triển nền kinh tế Ngoài các yếu tố như trên thì trình độ phát triển nền kinh tế cũng có ảnh hưởng lớn trong việc thu hút dòng vốn FDI. Trong đó trình độ quản lý kinh tế vĩ mô có ảnh hưởng lớn đến sự ổn định nền kinh tế, các thủ tục hành chính... Những nước có trình độ quản lý kinh tế vĩ mô kém sẽ dẫn tới tốc độ tăng trưởng kinh tế thấp, thủ tục hành chính rườm rà, chồng chéo, nạn tham nhũng gia tăng... Các nhà đầu tư sẽ không muốn bỏ vốn của mình vào những nơi như vậy. Mặt khác sự phát triển của cơ sở hạ tầng và các dịch vụ cung ứng cũng đóng vai trò quan trọng trong việc thu hút FDI. Nếu nước sở tại có một hệ thống cơ sở hạ tầng cũng như các dịch vụ cung ứng tốt và thuận lợi sẽ giúp các nhà đầu tư giảm chi phí phát sinh cho hoạt động đầu tư. Vì vậy trình độ phát triển nền kinh tế là một nhân tố ảnh hưởng đến quyết định đầu tư của các nhà đầu tư nước ngoài. 1.3.5. Đặc điểm phát triển văn hoá xã hội. Nhân tố cuối cùng cũng ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động đầu tư nước ngoài đó chính là đặc điểm văn hoá, xã hội. Nó bao gồm các yếu tố như ngôn ngữ, phong tục tập quán, giáo dục... một trong những nhân tố gây khó khăn cho các nhà đầu tư nước ngoài đó chính là sự bất đồng về ngôn ngữ. Sự bất đồng này có thể gây ra sự hiểu lầm trong kinh doanh cũng như gây khó khăn trong sinh hoạt, ngoại giao của các nhà đầu tư. Phong tục tập quán, thị hiếu thẩm mỹ cũng sẽ quyết định tới sở thích, thói quen tiêu dùng, mua sắm của người dân nước sở tại, điều này ảnh hưởng tới thị trường tiêu thụ nước nhận đầu tư đặc biệt nếu nhà đầu tư muốn hướng sản phẩm vào thị trường nội địa. Bên cạnh đó là trình độ phát triển giáo dục – một động lực để các nhà đầu tư bỏ vốn của mình vào đây. Trình độ giáo dục tốt, cơ cấu đào tạo hợp lý sẽ cung cấp được nguồn lao động có trình độ, kỹ năng giúp các nhà đầu tư nước ngoài giảm chi phí đào tạo và đáp ứng yêu cầu sản xuất. Trên đây là những nhân tố đóng vai trò rất tích cực trong việc thu hút FDI. Các nước chủ nhà không ngừng hoàn thiện những nhân tố này để làm môi trường đầu tư của nước mình trở nên hấp dẫn đối với các nhà đầu tư. Mức độ thuận lợi của môi trường đầu tư sẽ tạo ra nhiều cơ hội đầu tư hơn cho các nhà đầu tư nước ngoài. Chương 2 Thực trạng FDI của Hoa Kỳ vào Việt Nam thời gian qua 2.1. Thực trạng và xu hướng đầu tư của Hoa Kỳ ở nước ngoài. 2.1.1. Thực trạng nền kinh tế Hoa Kỳ thời gian qua. Có thể nói, thập kỷ 90 là thập kỷ kinh tế Mỹ phát triển mạnh với chu kỳ tăng trưởng dài nhất trong lịch sử từ năm 1854 đến nay. Đặc điểm nổi bật của nền kinh tế Mỹ thời kỳ này là cùng với tỷ lệ tăng trưởng cao thì tỷ lệ thất nghiệp và lạm phát cũng rất thấp. Kể từ tháng 3/1991, nền kinh tế Mỹ bắt đầu bước vào thời kỳ tăng trưởng liên tục cho tới hết năm 2000 và đã chính thức bước vào thời kỳ suy thoái từ quý 3/2001. Trong những năm từ 1992-1996, mức tăng GDP trung bình trên 2,8%, sau đó tăng lên 3,9% trong năm 1997 và 1998, và ở mức khoảng 4,5% trong năm 1999. GDP tiếp tục đạt mức khá cao 4,1% năm 2000. Tuy nhiên, dấu hiệu suy thoái của nền kinh tế bắt đầu từ quý 3/2001 và mức tăng GDP là -1,1% và tiếp tục giảm xuống –2,4% trong quý 4 năm 2001. Và trong năm 2001 mức tăng GDP chỉ còn 0,3%. Như vậy, một nền kinh tế hùng mạnh nhất trên thế giới đã bước vào suy thoái sau thời kỳ tăng trưởng 10 năm liên tục 1991-2001 với mức tăng GDP trung bình là 2,1%. Những yếu tố chủ yếu góp phần tạo nên sự tăng trưởng đáng khâm phục này là mức tiêu dùng cá nhân và đặc biệt là mức đầu tư mạnh. Thêm vào đó, tỷ lệ thất nghiệp giảm xuống 4,5% vào cuối năm 1998 và cả năm 1999, lạm phát giá cả tiêu dùng xuống 1,6% - mức thấp nhất kể từ những năm 1960. Hoạt động kinh tế vĩ mô này đã được thuận lợi rất nhiều do mức thâm hụt tài khoản vãng lai ngày càng tăng. Mức thâm hụt này ví dụ như trong năm 1998 đạt kỷ lục là 233 tỷ USD ( chiếm 2,7% GDP ). Thâm hụt thương mại đã cho phép nền kinh tế Mỹ duy trì mức tăng trưởng mạnh mẽ dù phải đối mặt với những hạn chế trong nước về khả năng sản xuất và thị trường lao động khan hiếm nhất kể từ 30 năm nay. Các mặt hàng nhập khẩu, thường với giá rẻ hơn, đã đóng vai trò là một cái van an toàn, giúp thoả mãn nhu cầu nội địa, đồng thời góp phần làm hạ giá thành trong nước và mở rộng sự lựa chọn cho người tiêu dùng Mỹ. Các nhà sản xuất cũng được lợi nhờ chi phí đầu vào thấp hơn và có nhiều lựa chọn hơn. Điều này làm tăng tính cạnh tranh của họ, dẫn đến việc đẩy mạnh sản xuất, tạo ra nhiều việc làm với mức lương cao hơn. Sức ép cạnh tranh của hàng nhập khẩu cũng thúc đẩy năng suất lao động. Nói chung, nhập khẩu đã làm dịu sức ép lạm phát do hậu quả của cầu trong nước tăng và mức thất nghiệp thấp, nhờ đó đã hỗ trợ được tỷ lệ lãi xuất thấp của thị trường. Tuy nhiên sau 10 năm phát triển năng động, nền kinh tế Mỹ rơi vào suy thoái. Điều này càng khẳng định tính chu kỳ của sự phát triển của nền kinh tế. Có thể nói, sự suy thoái của nền kinh tế Mỹ chắc chắn sẽ ảnh hưởng đến đầu tư ra nước ngoài của họ và điều này cũng làm cho Việt Nam gặp khó khăn trong thu hút đầu tư trực tiếp của Hoa Kỳ. Bước sang năm 2002, GDP cả năm đạt 2,4% - một dấu hiệu đáng mừng so với 0,3% năm 2001. Tuy nhiên mức tăng GDP qua các quý là không đều (1/2002: 5,6%; 2/2002: 1,3%; 3/2002: 4%; 4/2002: 0,7%). Mức tăng GDP cả năm 2002 có vẻ là một dấu hiệu khả quan nhưng nếu nhìn vào các quý, ta thấy sự phục hồi này là rất bấp bênh và không ổn định. Các công ty đã cắt giảm đầu tư và nhân công (chỉ riêng trong năm 2002, có 108.000 người mất việc làm, tình trạng này cũng là một trong những nguyên nhân kéo theo sự suy giảm chi tiêu tiêu dùng trong công chúng) và đến lượt nó lại sẽ làm nền kinh tế Hoa Kỳ hồi phục chậm lại. Và tình trạng này sẽ như một vòng xoáy khó có thể thoát khỏi nếu không có sự tác động từ bên ngoài. Vì vậy, đầu năm 2003, Tổng thống W.Bush đã đệ trình Quốc hội Chương trình kích thích tăng trưởng chọn gói 674 tỷ USD tập trung vào giảm thuế và kích cầu trong nước đồng thời cục dự trữ liên bang (FED) tiếp tục gĩư nguyên mức lãi suất là 1,25% - mức thấp nhất trong vòng 40 năm qua. Việc làm này hy vọng sẽ giúp kinh tế Mỹ hồi phục vững chắc. Cùng với tình hình tăng trưởng kinh tế Mỹ còn bấp bênh sẽ làm cho Việt Nam gặp nhiều trở ngại trong việc thu hút FDI của Hoa Kỳ. Năm 2001 số vốn trung bình của một dự án chỉ là 4,5 triệu USD và 2002 là 4,3 triệu USD so với số vốn trung bình trong giai đoạn tăng trưởng liên tục của nền kinh tế Mỹ giai đoạn 1994 –1999 là 9,56 triệu USD. Như vậy, sự suy thoái kinh tế Hoa Kỳ đã làm dòng FDI vào Việt Nam suy giảm. Nếu chúng ta xét trên khía cạnh số dự án của Mỹ vào Việt Nam được cấp phép thì con số này tăng liên tục qua các năm . Trong năm 1996 có 12 dự án, năm 1997 có 16 dự án, năm 1999 có 17 dự án, năm 2001 là 26 dự án, và 2002 là 32 dự án. Như vậy dường như sự suy thoái trong nền kinh tế Mỹ không ảnh hưởng đến số dự án đầu tư của Mỹ vào Việt Nam nhưng khi xét đến quy mô dự án – một chỉ tiêu quan trọng trong đánh giá quy mô đầu tư, thì rõ ràng đã có một sự giảm sút đáng kể. Dòng vốn đầu tư không có xu hướng không ổn định lúc tăng, lúc giảm ngay cả trong thời kỳ tăng trưởng của nền kinh tế Hoa Kỳ. Năm 1995 số vốn đầu tư vào Việt Nam đạt 413,2 triệu USD - đây là số vốn đầu tư lớn nhất qua các năm kể từ khi chúng ta ban hành luật đầu tư nước ngoài đến nay, năm 1996 giảm còn 92,8 triệu USD, năm 1997 lại tăng lên 227 triệu USD, năm 1999 giảm xuống còn 119,2 triệu USD. Và vào năm 2001 là năm bắt đầu suy thoái của nền kinh tế Mỹ thì số vốn đầu tư tiếp tục giảm còn 118 triệu USD. Tuy nhiên đến 2002 đã có dấu hiệu đáng mừng khi vốn đầu tư tăng 17,7% so với 2001 đạt 139 triệu USD. Số dự án tăng ngay cả trong giai đoạn 2001 – 2002 là giai đoạn suy giảm tăng trưởng kinh tế Mỹ, đồng thời cũng là giai đoạn mà Hiệp định Thương mại Việt – Mỹ bắt đầu có hiệu lực. Điều này cho thấy Hiệp định Thương mại có hiệu lực có một ý nghĩa quan trọng, nó tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư Hoa Kỳ vào Việt Nam , nó bao gồm những cam kết từ phía Việt Nam nhằm đảm bảo an toàn cho hoạt động đầu tư cũng như sự an toàn cho đồng vốn của các nhà đầu tư Mỹ tại Việt Nam . Nó đã khuyến khích các nhà đầu tư Hoa Kỳ quan tâm hơn tới thị trường Việt Nam ngay cả khi tình hình tài chính của họ gặp nhiều khó khăn. Mặc dù vậy, do tình trạnh suy thoái mà quy mô vốn đầu tư trung bình của một dự án đã giảm mạnh (giai đoạn trước Hiệp định quy mô trung bình của một dự án đạt khoảng 10,7 triệu USD và chỉ đạt 4,4 triệu USD giai đoạn sau Hiệp định). Bên cạnh đó, các chuyên gia kinh tế Mỹ luôn đánh giá khu vực Châu á - Thái Bình Dương là khu vực năng động, có một thị trường rộng lớn đầy tiềm năng trong đó Việt Nam là một thị trường mới và đầy triển vọng. Điều này cũng đã thúc đẩy hoạt động đầu tư của Mỹ vào Việt Nam. 2.1.2. Tình hình đầu tư của Hoa Kỳ ở nước ngoài nói chung. Là một nước vừa tiếp nhận đầu tư nước ngoài, vừa đầu tư ra nước ngoài với số lượng lớn, Hoa Kỳ luôn giữ vị trí quan trọng trong dịch chuyển luồng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài trên thế giới. Trong thời gian gần đây, do ảnh hưởng của tình trạng suy thoái kinh tế, đầu tư của Hoa Kỳ giảm sút so với Nhật Bản và các nước Tây Âu, nhưng ._.nhìn chung Hoa Kỳ vẫn là nước đứng đầu thế giới về giá trị đầu tư trực tiếp ra nước ngoài. Trong năm 2000, tổng giá trị đầu tư của Hoa Kỳ ở nước ngoài (gồm cả vốn đầu tư trực tiếp và vốn vay cấp cho chi nhánh ở nước ngoài) đạt khoảng 1.300 tỷ USD, tăng 119,9 triệu USD hay 10% so với năm 1999. Từ năm 1998 nhịp tăng đầu tư của Hoa Kỳ liên tục suy giảm:15% năm 1998, 13% năm 1999 và 10% năm 2000. Các nước và khu vực tiếp nhận vốn đầu tư nhiều nhất của Hoa Kỳ gồm: Canada thu hút 126,4 tỷ USD chiếm 10%; Châu Âu thu hút 60,4 tỷ USD, chiếm 47%; Châu Mỹ La Tinh thu hút 18,7 tỷ USD, chiếm 14%; Châu á - Thái Bình Dương thu hút 17,7 tỷ USD chiếm 13,6%. Trong các nước và khu vực nói trên, Vương quốc Anh luôn là nước thu hút đầu tư lớn nhất của Hoa Kỳ ( 233,4 tỷ USD, chiếm tới 19% ). Phần lớn dòng đầu tư của Hoa Kỳ ở các nước đang phát triển đổ vào khu vực Châu Mỹ La Tinh, Đông á và các nước công nghiệp mới Châu á (ANIEs). Riêng năm 2000, đồng vốn đầu tư của Hoa Kỳ ở Nhật Bản đạt 6,2 tỷ USD, chiếm gần 1/3 tổng vốn đầu tư của Hoa Kỳ ở khu vực Châu á - Thái Bình Dương và khoảng 4,8% tổng vốn đầu tư của Hoa Kỳ ở nước ngoài. Hồng Kông và Singapore cũng là những địa đIểm thu hút đầu tư lớn nhất của Hoa Kỳ với giá trị tương ứng 3,2 và 3,1 tỷ USD trong năm 2000. Trong thập kỷ 90, các nước ASEAN trong đó có Việt Nam chỉ thu hút được 5% tổng vốn đầu tư ra nước ngoài của Hoa Kỳ. Các đối thủ cạnh tranh chính của ASEAN là Nhật Bản, Hồng Kông, Đài Loan, Hàn Quốc, Mexico, Brazil, Argentina và mới đây là Trung Quốc. Theo báo cáo của Bộ Thương mại Hoa Kỳ, dòng vốn đầu tư của Hoa Kỳ vào khu vực ASEAN trong năm 2000 giảm 22% ( 4,7 tỷ USD so với 6,0 tỷ USD năm 1999 ). Xu hướng này cho thấy sự suy yếu hiện tại của nền kinh tế Mỹ và tình trạnh suy thoái của ngành công nghiệp bán dẫn toàn cầu. Trong thời kỳ 1996 – 2000, đầu tư của Hoa Kỳ vào khu vực Châu á - Thái Bình Dương tập trung chủ yếu vào lĩnh vực dầu khí, các ngành sản xuất ( gồm chế biến thực phẩm, hoá dầu, cơ khí chế tạo, điện tử…) và các ngành dịch vụ ( gồm bán buôn, ngân hàng, bảo hiểm và các dịch vụ tài chính khác ). Trong đó, dịch vụ là khu vực thu hút đầu tư của Hoa Kỳ với tỷ trọng cao nhất: 9,2 tỷ USD, chiếm tới trên 50% tổng giá trị đầu tư của Hoa Kỳ trong toàn khu vực; tiếp đến là ngành sản xuất: 6 tỷ USD, chiếm 34%; dầu khí: 2,9 tỷ USD, chiếm 16,4%. Đầu tư của Hoa Kỳ có một số đặc đIểm và xu hướng như sau: Với sự phát triển mạnh mẽ của thương mại điện tử, ngày nay các công ty Hoa Kỳ hầu như coi địa bàn đầu tư cũng như các ưu đãi về thuế chỉ là yếu tố thứ yếu trong quyết định đầu tư của họ. Điều mà các nhà đầu tư Hoa Kỳ thực sự quan tâm là những lợi thế so sánh về tiếp cận thị trường, chi phí lao động, điều kiện về kết cấu hạ tầng, tính minh bạch của hệ thống pháp luật và cơ chế quản lý… Trong các yếu tố nói trên, tiếp cận thị trường hàng hóa là yếu tố quan trọng nhất ảnh hưởng đến quyết định đầu tư ra nước ngoài của các công ty Hoa Kỳ. Thực tế cho thấy, hàng hoá xuất khẩu của Hoa Kỳ có khả năng tiếp cận nhất vào những thị trường mà Hoa Kỳ có đầu tư lớn. Chính nguồn vốn này đã tạo ra gần 60% giá trị xuất khẩu, góp phần đáng kể vào việc tăng năng lực xuất khẩu của Hoa Kỳ. Hiện nay cứ 1USD trong 5 USD doanh thu bán hàng của công ty Hoa Kỳ ở nước ngoài là thu được từ chi nhánh bán hàng hóa xuất khẩu của Hoa Kỳ. Tiến trình nhất thể hoá của liên minh Châu Âu, đặc biệt là việc sử dụng hoàn toàn đồng tiền chung EURO vào năm 2002 đã góp phần thúc đẩy hoạt động mua lại và sáp nhập qua biên giới ( Cross Border M&A ) giữa các tập đoàn Hoa Kỳ và Châu Âu nhằm duy trì sức cạnh tranh ở khu vực này. Theo số liệu thống kê, 10 vụ M&A trong năm 1999 với giá trị trên 1 tỷ USD/vụ đã chiếm tới 2/3 giá trị tăng vốn đầu tư trực tiếp của Hoa Kỳ ở khu vực Châu Âu. nguồn vốn đầu tư của các công ty, tập đoàn Hoa Kỳ cũng là yếu tố làm gia tăng giá trị vốn đầu tư trực tiếp của Hoa Kỳ. Riêng trong năm 2000, nguồn vốn này chiếm tới 62% giá trị vốn đầu tư trực tiếp của Hoa Kỳ ở nước ngoài. ở khu vực Châu á - Thái Bình Dương, đầu tư trực tiếp của Hoa Kỳ có ảnh hưởng quan trọng, thậm chí chi phối nhiều ngành kinh tế then chốt như: khai thác khoáng sản, năng lượng, cơ khí, xây dựng cơ sở hạ tầng… Ví dụ, công ty Caltex kiểm soát trên 80% dầu mỏ khai thác ở Indonexia, đồng thời chi phối luôn tới việc xuất khẩu; đại bộ phận công nghiệp lọc hoá dầu ở Singapore cũng do công ty này chi phối : ở Philippin và Malaixia, đầu tư của Hoa Kỳ chiếm tỷ trọng lớn trong các ngành công nghiệp chủ chốt như cơ khí chế tạo, sản xuất, lắp ráp hàng đIện tử… Đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của Hoa Kỳ cũng tác động đáng kể đến cơ cấu công nghiệp của các nước ASEAN, tạo đIều kiện để ngành này dịch chuyển theo hướng phù hợp cơ cấu kinh tế của Hoa Kỳ và bổ trợ cho ngành công nghiệp Hoa Kỳ. Điều này thể hiện ở chỗ, các công ty Hoa Kỳ chỉ đầu tư vào những ngành sản xuất ra sản phẩm mà Hoa Kỳ không có hoặc sản xuất không có hiệu quả. Các công ty Hoa Kỳ cũng đặc biệt chú ý đến việc đầu tư vào các ngành khai thác khoáng sản và chế biến nông sản nhằm tạo nguồn nguyên liệu năng lượng chiến lược phục vụ cho các ngành công nghiệp của Hoa Kỳ. Trên thực tế, mặc dù rất giàu có về tài nguyên và nguyên liệu cho sản xuất nhưng để tiết kiệm Hoa Kỳ vẫn muốn sử dụng nguồn từ bên ngoài thay vì khai thác ở trong nước. Khác với đầu tư của Nhật Bản thường ở quy mô vừa phải, áp dụng quy trình công nghệ tương đối đơn giản, đầu tư vào những ngành cộng nghiệp truyền thống như dệt, vải sợi, chế biến nguyên liệu thô, lắp ráp hàng điện tử thì đầu tư của Hoa Kỳ tuy ít hơn Nhật Bản về số lượng dự án nhưng quy mô khá lớn, sử dụng công nghệ sản xuất hiện đại và trình độ quản lý tiên tiến lại chú ý đến các ngành khai khoáng và dịch vụ; các ngành cơ khí chế tạo ít được quan tâm. Về thị trường, Hoa Kỳ chú trọng đến việc xuất khẩu sản phẩm của mình ra các nước khác hơn là nhập khẩu về Hoa Kỳ, trong khi đó đa số các sản phẩm của Nhật Bản là để phục vụ trực tiếp cho nền công nghiệp trong nước. Trong những năm gần đây, các nước ASEAN đã cố gắng điều chỉnh lại cơ cấu đầu tư của Hoa Kỳ theo hướng giảm đầu tư vào ngành khai khoáng và tăng cường cho ngành cơ khí chế tạo. Chính sách kinh tế của Mỹ đối với khu vực Châu á - Thái Bình Dương. Có thể nói, khu vực Châu á - Thái Bình Dương trong đó có Việt Nam ngày càng chiếm một vị trí quan trọng trong chính sách đối ngoại của Mỹ. Xuất phát từ chính lợi ích của chính bản thân nước Mỹ, mà Mỹ đã chủ động đẩy mạnh quan hệ hợp tác kinh tế giữa 2 quốc gia. Chính điều này sẽ càng thúc đẩy hoạt động đầu tư của Hoa Kỳ vào Việt Nam. Như ta biết kể từ khi Việt Nam thống nhất đất nước (5/1975) cho đến năm 1995, chính phủ Mỹ đã thi hành chính sách bao vây cấm vận kinh tế chống Việt Nam. Lệnh cấm vận này đã cắt đứt mối quan hệ giữa 2 nước và trở thành vật cản đối với sừ hình thành và mở rộng các quan hệ kinh tế của các nước khác trong khu vực đối với Việt Nam. Các nước như Nhật Bản, ASEAN, EU đều chậm hưởng ứng chính sách mở cửa của Việt Nam, vì chính sách kinh tế của họ đối với Việt Nam phải lệ thuộc đáng kể vào chính sách cấm vận của Mỹ đối với Việt Nam. Đối với Mỹ, là một nước có nền kinh tế lớn nhất thế giới, năm 1998 GDP là 10.000 tỷ USD, tuy không phải lệ thuộc nhiều vào bên ngoài như các nền kinh tế công nghiệp hoá mới Đông á hay Nhật Bản, nhưng các quan hệ kinh tế quốc tế cũng đóng góp tới trên 30% cho tốc độ tăng trưởng tổng sản phẩm quốc nội của mình. Do vậy, Mỹ cũng rất cọi trọng các quan hệ kinh tế quốc tế. Khu vực Châu á - Thái Bình Dương luôn chiếm vị trí quan trọng trong chính sách đối ngoại của Mỹ. Châu á - Thái Bình Dương chiếm tới 49% ngoại thương của Mỹ, trong đó có các đối tác quan trọng nhất như Nhật Bản, Trung Quốc, các nền kinh tế mới công nghiệp hoá và các nước ASEAN. Các lợi ích kinh tế ở khu vực này cũng ngày càng trở nên thúc bách hơn đối với Mỹ. Trong khi đó, phẩn lớn các hoạt động thương mại và đầu tư ở Châu á là do các công ty xuyên quốc gia của Nhật Bản và Hoa Kiều nắm giữ hoặc chi phối. Từ cuối những năm 1980, các mối quan hệ kinh tế của Nhật Bản với khu vực Châu á - Thái Bình Dương ngày càng tăng trong khi của Mỹ ngày càng suy giảm và Nhật Bản đã trở thành nước đầu tư lớn nhất vào khu vực Châu á - Thái Bình Dương. đầu tư trực tiếp ra nước ngoài FDI của Nhật Bản vào các nước Châu á - Thái Bình Dương chỉ là 7 tỷ USD. Các nền kinh tế khác như Hàn Quốc, Đài Loan và ASEAN trước đây từng dựa vào Mỹ thì nay đã và đang trỗi dậy và trở thành những địch thủ cạnh tranh thay dần các vị trí kinh tế của Mỹ trong khu vực. Trung Quốc với tốc độ tăng trưởng cao nhất thế giới liên tục trong thời gian gần đây cùng với Hồng Kông, Đài Loan, Singapore cũng đang tạo ra “ một vành đai kinh tế Trung Hoa” có phạm vi ảnh hưởng rộng khắp các nước Châu á. Tất cả những điều này đã làm cho Mỹ rất lo ngại và buộc Mỹ phải tăng cường sự có mặt ở khu vực Châu á - Thái Bình Dương vì những lợi ích kinh tế của mình ở khu vực này. Đồng thời, Mỹ cũng hy vọng một thị trường năng động và đầy tiềm năng của khu vực Châu á- Thái Bình Dương có khả năng giúp Mỹ khôi phục địa vị cường quốc kinh tế của mình. Trong bối cảnh đó, tăng cường thúc đẩy quan hệ với Việt Nam trở thành một khâu quan trọng trong chiến lược của Mỹ đối với khu vực Châu á - Thái Bình Dương. Các công ty đa quốc gia dù lớn hay nhỏ đều mong đợi tham gia xây dựng các cơ sở hạ tầng ở Việt Nam do ngân hàng thế giới tài trợ. Những công ty nhìn xa hơn đã thấy được Việt Nam là một thị trường tiềm năng, có thể hỗ trợ cho các thị trường Châu á khác, một thị trường có tiềm năng tiêu thụ lớn gấp 2 lần một số nước mà Bộ Thương mại Mỹ coi là “ những thị trường lớn đang xuất hiện” để tiêu thụ các hàng hoá của Mỹ, và là một cơ hội để di chuyển ít nhất là ngành công nghiệp chế tạo “ kỹ thuật tầm trung” đến đây nhằm giảm chi phí nhân công đang gia tăng liên tục ở Hồng Kông, Hàn Quốc và Singapore. Đối với các doanh nghiệp Mỹ gốc Việt, đây cũng là dịp để họ làm ăn trong một môi trường văn hoá quen thuộc. Và khi Việt Nam đã thực sự hội nhập vào khu vực Châu á - Thái Bình Dương nếu Mỹ không có quan hệ đối với Việt Nam tức là Mỹ đã mất đi vai trò của mình ở một thị trường quan trọng ở ĐNá. Hơn nữa, nếu không đẩy mạnh quan hệ kinh tế – thương mại với Việt Nam, việc thi hành chiến lược kinh tế được coi là ưu tiên số một trong điều chỉnh chiến lược toàn cầu của Mỹ trong khu vực Châu á - Thái Bình Dương thời kỳ sau chiến tranh lạnh sẽ không đạt kết quả mong muốn. Vì vậy, Báo cáo chiến lược an ninh quốc gia Mỹ cho thế kỷ 21 đã xác định, lợi ích chiến lược của Mỹ ở ĐNá là phát triển hợp tác khu vực và song phương cùng các quan hệ kinh tế nhằm ngăn chặn và giải quyết các xung đột và nâng cao mức độ tham gia của Mỹ trong nền kinh tế khu vực. Trong lĩnh vực kinh tế, việc duy trì và tăng cường các quan hệ kinh tế ngày càng có hiệu quả với ASEAN là một định hướng ưu tiên trong chính sách của Mỹ trong chiến tranh lạnh. Mỹ rất quan tâm đến thị trường ASEAN. Các nhà chiến lược Mỹ cho rằng ASEAN có tiềm năng phát triển thành một thị trường lớn, năng động trong khu vực. Theo dự báo, khu vực này đến năm 2010 sẽ bao trùm 686 triệu dân, tổng sản phẩm lên đến 1,1 ngàn tỷ USD và thu nhập từ các dự án hạ tầng cơ sở bao gồm cả các nước ASEAN có thể lên đến 1000 tỷ USD. Chính vì vậy, Mỹ đã mở rộng danh sách “ các thị trưởng đang nổi lên” sang cả các nước thành viên khối ASEAN. Danh sách này thể hiện sự đánh giá lại của Mỹ đối với các thị trường bên ngoài, xem đây là điều kiện hết sức quan trọng đối với sự phát triển của nền kinh tế Mỹ. Do đó, việc Mỹ chủ trương cộng tác chặt chẽ với các nước ASEAN không phải là ngẫu nhiên, khi tính đến tiềm năng của khu vực này và vai trò ngày càng tăng lên của nó trong buôn bán thế giới. Năm 1997, ASEAN chiếm 48 tỷ USD trong xuất khẩu hàng hoá của Mỹ, ngang bằng với Trung Quốc, ĐàI Loan và Hồng Kông gộp lại. Một định hướng quan trọng khác trong chính sách kinh tế của Mỹ đối với khu vực ASEAN là xúc tiến tự do hoá hơn nữa chế độ thương mại của các nước này nhằm thúc đẩy những lợi ích kinh tế từ sự tăng trưởng kinh tế của khu vực này. dưới tác động của Mỹ và theo xu thế chung của thời đại, quá trình tự do hoá thương mại và đầu tư trong khối ASEAN và trong các nước này đã được đẩy nhanh. Phương hướng chính trong hoạt động của Mỹ ở đây trong những năm tới là thực hiện chính sách tự do hoá các luồng vốn trong nội bộ các nước thành viên của ASEAN. Chính sách kinh tế của Mỹ còn trù định việc tiến hành các sáng kiến song phương cùng với một số nước ASEAN nhằm tạo điều kiện cho phát triển kinh tế, ổn định chính trị và cải cách thị trường vì lợi ích của chính bản thân nước Mỹ. Về cơ bản, chính sách kinh tế của Mỹ đối với Việt Nam cũng bao hàm 3 định hướng chủ yếu trên. Việc tăng cường hợp tác kinh tế đối với Việt Nam xuất phát từ chính bản thân nước Mỹ và nó cũng phù hợp với xu thế toàn cầu hiện nay: hoà bình, hợp tác cùng phát triển. Do vậy, với những lợi thế về nguồn nguyên liệu phong phú, nguồn lao động dồi dào với chi phí lao động thấp , lại là một nước có nhiều cảng biển sẽ góp phần thuận lợi cho việc vận chuyển hàng hoá. Việt Nam sẽ là một địa điểm quan trọng thu hút các doanh nghiệp Mỹ đầu tư vào đây. 2.2. Tình hình đầu tư của Hoa Kỳ tại Việt Nam. 2.2.1. Thực trạng đầu tư của Hoa Kỳ tại Việt Nam trước và sau khi Hiệp định Thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ có hiệu lực. Giai đoạn trước khi Hiệp định Thương mại có hiệu lực (10/12/2001) Như chúng ta biết trước khi chính phủ Hoa Kỳ xoá bỏ cấm vận và bình thường hoá quan hệ ngoại giao với Việt Nam, các công ty của Hoa Kỳ đã rất sốt ruột muốn được vào đầu tư kinh doanh tại Việt Nam để có cơ hội cạnh tranh với các công ty của Nhật Bản, Châu Âu và các nước khác. nếu từ năm 1988, khi luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam bắt đầu có hiệu lực đến năm 1993, các công ty của Mỹ mới chỉ “nhỏ dọt” vào Việt Nam 6 dự án với số vốn tương đương 3,3 triệu USD chủ yếu là để thăm dò, và họ cũng chưa dám mạnh tay đầu tư vào thị trường Việt Nam bởi vì trong giai đoạn này chính quyền Mỹ vẫn tiến hành bao vây cấm vận Việt Nam. Đây là rào cản rất lớn đối với các doanh nghiệp Mỹ muốn xâm nhập vào thị trường Việt Nam. Tuy nhiên bước sang những năm 1990, Mỹ thấy rằng cần phải bình thường hoá quan hệ với Việt Nam trước hết là vì lợi ích của Mỹ. Theo các chuyên gia kinh tế, Việt Nam là một thị trường tiềm năng còn lại cuối cùng trong khu vực vì vậy Mỹ không muốn bỏ qua cơ hội thiết lập, tăng cường và mở rộng quan hệ hợp tác kinh tế với Việt Nam để góp phần giúp Mỹ cải thiện địa vị cường quốc kinh tế tại khu vực này. Như đã được phân tích, những động cơ và lợi ích khi Mỹ bình thường hoá mối quan hệ với Việt Nam, chính những nguyên nhân này đã dẫn đến sự kiện. Tháng 4/1991, chính quyền Bush đã nêu lên một “ lộ trình” gồm các bước mà Việt Nam và Hoa Kỳ sẽ phải thực hiện để bình thường hoá mối quan hệ. Và đến tháng 2/1994, tổng thống Bill. Clinton đã bãi bỏ lệnh cấm vận thương mại lâu dài đối với Việt Nam. Việc bãi bỏ cấm vận có nghĩa là các công ty và doanh nghiệp Mỹ có thể tham gia vào các chuyến đi không hạn chế tới Việt Nam, đầu tư vào Việt Nam hoặc các xí nghiệp của Việt Nam. Chính sự kiện này đã mở ra một chương mới trong quan hệ hợp tác đầu tư giữa 2 nước, tạo điều kiện để các doanh nghiệp Mỹ đầu tư vào Việt Nam cũng như giúp Việt Nam thu hút được dòng FDI của Hoa Kỳ – một trong những nước đầu tư ra nước ngoài lớn nhất thế giới. Điều này giúp Việt Nam cải thiện được tình trạng thiếu vốn, góp phần giải quyết các vấn đề kinh tế và xã hội để có thể đẩy nhanh sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước. Cùng với sự kiện tháng 2/1994 thì chỉ 10 tháng đầu năm 1994, số vốn đầu tư của các đối tác Mỹ vào Việt Nam đã lên 267 triệu USD với 22 dự án. Như vậy là gấp 80 lần số vốn đăng ký đầu tư so với 6 năm trước cộng lại. Sự có mặt của các công ty Mỹ ở Việt Nam cũng tăng lên nhanh chóng. đến cuối năm 1994 đã có 35 văn phòng đại diện của các công ty Mỹ. Ngay sau khi tổng thống B.Clinton tuyên bố Mỹ và Việt Nam thiết lập quan hệ ngoại giao và trao đổi cấp đại sứ vào ngày 11/7/1995, nhịp độ đầu tư của các công ty Mỹ vào Việt Nam đã tăng lên rất nhanh. Đến cuối năm 1995, đã có 150 văn phòng đại diện công ty Mỹ tại Việt Nam, khoảng 400 công ty Mỹ đã và đang hoạt động ở Việt Nam, trong đó có nhiều công ty quan trọng như GE, Capitallar, Conoco, Ford, Chrysler, Citi Bank… ở Mỹ người ta bắt đầu chú ý tới thị trường Việt Nam hơn. Tại Hội nghị “ bình thường hoá quan hệ kinh tế Việt Nam – Hoa Kỳ” tổ chức tại Mỹ tháng 9/1995 với sự tham dự của hơn 150 công ty hàng đầu của Mỹ, có nhiều nhà tỷ phú đã dành chọn cả ngày để giới thiệu khả năng của mình và tìm hiểu chiến lược kinh tế của Việt Nam. Như vậy kể từ khi bình thường hoá quan hệ không lâu, các nhà đầu tư Mỹ đã tỏ rõ sự quan tâm tới thị trường Việt Nam, bước đầu thì đây là một dấu hiệu vô cùng đáng mừng đối với Việt Nam. đIều này được chứng minh thông qua số dự án FDI của Hoa Kỳ vào Việt Nam năm 1995 với 24 dự án và con số vốn đầu tư lớn nhất qua các năm từ trước đến nay là 413,2 triệu USD. Chỉ vài năm sau đó, nhất là từ khi bình thường hoá quan hệ ngoại giao, đầu tư của Hoa Kỳ tại Việt Nam đã tăng lên nhanh chóng. Đến năm 1996, 1997 Hoa Kỳ đã lọt vào danh sách 10 nước đầu tư lớn nhất tại Việt Nam. Mặc dù vậy, FDI của Hoa Kỳ vào Việt Nam năm 1996 chỉ còn có 12 dự án với số vốn là 92,8 triệu USD, năm 1997 có 16 dự án với số vốn là 227 triệu USD. Những con số trên cho thấy dòng vốn FDI của Hoa Kỳ vào Việt Nam trong giại đoạn này không có xu hướng ổn định và có sự suy giảm đáng kể cả về số dự án và số vốn từ 1996 đến những năm cuối thập kỷ 90. Đến giữa năm 1998, Hoa Kỳ đã có khoảng 400 công ty đầu tư tại Việt Nam với tổng số vốn đăng ký là 1,134 triệu USD; chiếm 3,54% tổng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đăng ký tại Việt Nam. Như vậy, ta thấy trong những năm 1994 và 1995 , khi Mỹ bãi bỏ cấm vận kinh tế và bình thường hoá quan hệ đối với Việt Nam. Những nhà đầu tư Hoa Kỳ vốn quan tâm đến thị trường Việt Nam bấy lâu nay giờ họ đã có cơ hội đầu tư vào đây, và họ đã vào thị trường Việt Nam rất hồ hởi thể hiện qua quy mô vốn năm 1994, 1995. Nhưng sau một, hai năm tiến hành đầu tư thì đến năm 1996, dòng FDI của Hoa Kỳ giảm hẳn cả về số vốn và số dự án bởi các nhà đầu tư nhận thấy môi trường đầu tư ở đây còn rất nhiều bấp cập. Do đó, sự không ổn định và còn ít trong dòng vốn FDI của Hoa Kỳ tại Việt Nam trong giai đoạn này có một số nguyên nhân sau: Mặc dù Mỹ đã tuyên bố bãi bỏ cấm vận đối với Việt Nam vào 2/1994 và bình thường hoá quan hệ với Việt Nam từ 11/7/1995 nhưng Mỹ vẫn áp dụng Tu chính án Jackson-Vanik đối với Việt Nam, điều này có nghĩa là các hoạt động của các cơ quan chính phủ như ngân hàng xuất nhập khẩu(EXIMPORT), công ty đầu tư tư nhân hải ngoại (OPIC), cơ quan phát triển quốc tê (USAID), cơ quan phát triển và thương mại (TDA) và cục hàng hải (MARAD) để giúp đỡ tài trợ cho các công ty Mỹ đang làm ăn ở Việt Nam bị cản trở. Họ không được phép giúp đỡ cũng như ủng hộ các công ty này. Điều này làm cho các nhà đầu tư Hoa Kỳ bỏ vốn đầu tư vào thị trường Việt Nam sẽ do dự và lo sợ cho sự an toàn của đồng vốn cũng như hoạt động kinh doanh của họ. Các hoạt động kinh doanh của họ sẽ không được tài trợ hay có bất kì sự giúp đỡ nào từ phía các cơ quan này như khi đầu tư vào các khu vực khác. do vậy, mặc dù quan hệ kinh tế giữa 2 nước đã được tăng cường hợp tác nhưng Việt Nam vẫn là một địa bàn chưa có những điều kiện thuận lợi và lợi ích nhất định đủ để thu hút một lượng lớn FDI của Hoa Kỳ vào đây. Bên cạnh đó còn phải kể đến đây là một môi trường đầu tư còn gây nhiều khó khăn cho hoạt động đầu tư của các nhà đầu tư nước ngoài (trong suốt quá trình từ khi xin giấy phép cho đến khi hoạt động). Đó là những yếu tố như: hệ thống cơ sở hạ tầng, hệ thống chính sách pháp luật điều chỉnh hoạt động đầu tư nước ngoài tại Việt Nam. Điều này đã làm dòng FDI của Hoa Kỳ giảm sau một thời gian các nhà đầu tư hoạt động tại đây. Có thể nói các quy định của nước nhận đầu tư đối với các nhà đầu tư nước ngoài là rào cản đối với họ khi quyết định đầu tư. Các quy định đó là thủ tục hành chính đối với các nhà đầu tư nước ngoài trong việc đi lại xin cấp giấy phép đầu tư, giải quyết các khiếu kiện và các vấn đề khác liên quan đến sinh hoạt của nhà đầu tư, ngoài ra là tình trạng “cửa quyền, sách nhiễu” của các cơ quan quản lý đầu tư nước ngoài v.v… Tất cả những điều này đều làm nản lòng các nhà đầu tư. so với môi trường pháp lý của các nước ASEAN, Việt Nam được xếp hạng là 1 trong 4 nước kém nhất. Nếu điểm xếp hạng cao nhất là 5 thì Việt Nam chỉ mới đạt các điểm: 1,8 (cơ chế); 1,4 (hiệu lực hành chính); 1,5 (tính minh bạch của chính sách) và chỉ đạt mức bình quân chung là 1,6, bằng điểm bình quân của Mianma, nhưng trên Lào (1,4) và Campuchia (1,2), trong khi các nước đạt điểm bình quân khá cao là Singapore (4,3), Malaixia (3,1), Brunei (2,9), Thái lan (2,4), Philippin (2,4) và Indonexia là 2,0 điểm. (Bảng1) Bảng 1: So sánh môi trường đầu tư (chính sách) giữa các nước ASEAN STT Tên nước Cơ chế thuế Hiệu lưc hành chính Tính minh bạch của chính sách Bình quân 1 Singapore 4.2 4.5 4.3 4.3 2 Malaixia 3.2 3.0 3.0 3.1 3 Brunei 3.3 3.0 2.3 2.9 4 Thái Lan 2.7 2.3 2.3 2.4 5 Philippin 2.7 2.4 2.2 2.4 6 Indonesia 2.3 1.9 1.8 2.0 7 Mianma 1.7 1.6 1.6 1.6 8 Việt Nam 1.8 1.4 1.5 1.6 9 Lào 1.5 1.3 1.4 1.4 10 Campuchia 1.4 1.1 1.1 1.2 Nguồn: Daily Economics News, Taiwan 14/8/1997. Mặc dù Việt Nam không ngừng cải thiện môi trường chính sách, luật pháp về đầu tư nước ngoài nhưng hiệu quả vẫn còn thấp. đIều này được phản ánh rất rõ sau rất nhiều lần bổ sung sửa đổi luật đầu tư nước ngoài nhưng vẫn chưa thực sự hấp dẫn được các nhà đầu tư. có thể nói, điểm hạn chế nhất trong môi trường này là chính sách chồng chéo, thiếu đồng bộ, các quy định thủ tục rườm rà và tính hiệu lực thấp. điều này giải thích tại sao dòng FDI của Hoa Kỳ vào Việt Nam còn hạn chế và thực sự còn ít so với tiềm lực kinh tế của Hoa Kỳ cũng như nó chiếm một tỷ lệ rất nhỏ trong tổng số vốn Hoa Kỳ đầu tư ra nước ngoài. Năm 1998, đầu tư của Hoa Kỳ ra nước ngoài chiếm khoảng 20% tổng vốn đầu tư ra nước ngoài của thế giới. Sự phát triển của cơ sở hạ tầng và dịch vụ sẽ góp phần giúp các nhà đầu tư nước ngoài giảm những chi phí phát sinh cho các hoạt động đầu tư và cũng sẽ góp phần tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động sản xuất kinh doanh cho các doanh nghiệp nước ngoài. Cơ sở hạ tầng (cứng) bao gồm các yếu tố như hệ thống đường giao thông, sân bay, bến cảng, điện lực, viễn thông… Đây là các yếu tố ảnh hưởng trực tiếp đến việc vận hành các hoạt động kinh doanh và điều kiện sống của các nhà đầu tư nước ngoài. Cũng như hạn chế của môi trường chính sách và pháp lý, các yếu tố cơ bản của môi trường đầu tư “cứng” ở Việt Nam được xếp hạng theo mức điểm khá thấp so với các mức điểm của các yếu tố tương tự trong các nước ASEAN. Chẳng hạn các điểm được xếp hạng năm 1997 là 1,9 (sân bay); 2,0(cảng biển); 1,9(giao thông);1,9(điện lực); 2,2(viễn thông) và mức bình quân chung là 2,0 điểm, thấp hơn mức bình quân chung của Singapore (4,7), Brunei (3,3), Malaixia (2,9), Thái lan (2,6), Philippin (2,3), Indonexia (2,6) và trên Lào và Mianma là 1,5 điểm. (Bảng 2) Bảng 2: So sánh môi trường đầu tư “cứng” ở các nước ASEAN STT Tên nước Sân bay Cảng biển Giao thông Điện lực Viễn thông Bình quân Singapore 4.9 4.9 4.6 4.4 4.7 4.7 Brunei 3.3 3.0 3.3 3.5 3.5 3.3 Malaxia 3.1 3.1 2.7 3.2 3.2 2.9 Thái Lan 3.1 2.5 1.6 3.0 3.0 2.6 Philippin 2.3 2.4 1.9 2.7 2.7 2.3 Indonexia 3.0 2.4 2.3 2.7 2.7 2.6 Việt Nam 1.9 2.0 1.9 2.2 2.2 2.0 Mianma 1.6 1.5 1.6 1.4 1.4 1.5 Lào 1.5 - 1.5 1.5 1.5 1.5 Nguồn: Daily Economics News, Taiwan 14/8/1997. Trong các nước ASEAN, Singapore là nước có cơ sở hạ tầng “mềm” tốt nhất, đạt mức điểm bình quân là 4,2/5, trong khi Việt Nam chỉ đạt 2,0 điểm. điều này cho thấy FDI vào Việt Nam còn chuyển giao nhiều công nghệ chưa hiện đại, thu hút nhiều lao động tay nghề thấp. (Bảng 3) Bảng 3: So sánh môi trường đầu tư “mềm” giữa các nước ASEAN STT Tên nước Chất lượng lao động Dịch vụ công nghệ Hệ thống tài chính Bình quân 1. Singapore 4.1 3.8 4.6 4.2 2. Malaixia 2.9 3.0 3.0 3.0 3. Brunei 2.9 2.6 3.3 2.9 4. Thái Lan 2.7 2.6 2.5 2.6 5. Philippin 3.1 2.8 2.6 2.8 6. Indonexia 2.5 2.2 2.6 2.4 7. Việt Nam 2.7 1.9 1.6 2.0 8. Miama 2.3 1.8 1.6 1.9 9. Lào 1.7 1.5 1.3 1.5 10. Campuchia 1.4 1.3 1.2 1.3 Nguồn: Daily Economics News, Taiwan 14/8/1997. Có thể nói tất cả các yếu tố hạn chế trên đã làm dòng FDI của Mỹ vào Việt Nam không ổn định và còn ít. Đến ngày 10/3/1998, khi tổng thống B.Clinton tuyên bố bãi miễn áp dụng Tu chính án Jackson-Vanik đối với Việt Nam. Điều này có nghĩa là những trở ngại liên quan đên hoạt động của các cơ quan chính phủ tài trợ cho các công ty Mỹ đang làm ăn tại Việt Nam đã bị bãi bỏ và do vậy đã thúc đẩy quan hệ kinh tế giữa 2 nước. Việt Nam và Hoa Kỳ đã chính thức ký kết Hiệp định về hoạt động của OPIC tại Việt Nam vào 26/3/1998. Và tính đến cuối năm 1998, các doanh nghiệp Mỹ đã đầu tư vào Việt Nam 75 dự án với tổng số vốn đầu tư là hơn 1,1 tỷ USD, trong đó vốn pháp định là 500 triệu USD, trong đó vốn thực hiện là 358 triệu USD và vốn pháp định thực hiện là 233 triệu USD, tạo ra doanh thu là 172 triệu USD, xuất khẩu được 89 triệu USD, nộp thuế cho nhà nước Việt Nam 8,8 triệu USD và đã thu hút được3.253 lao động ở địa phương, đưa Mỹ từ vị trí số 24 lên hàng thứ 9 trong tổng số nước và lãnh thổ đầu tư vào Việt Nam. Những số liệu này ẩn chứa đằng sau những dự tính và tiềm năng to lớn của các công ty Mỹ. Sang năm 1999, các nhà đầu tư Hoa Kỳ đã đầu tư vào Việt Nam với 17 dự án có số vốn là 119,2 triệu USD. Đến cuối tháng 5/2000, đã có 97 dự án đầu tư của Mỹ vào Việt Nam có tổng số vốn trên 1 tỷ USD. Cùng thời điểm này, Mỹ đứng thứ 9 trong số các nhà đầu tư tại Việt Nam. Và tính đến trước thời điểm có hiệu lực của Hiệp đinh Thương mại Việt – Mỹ (10/12/2001), Mỹ đã có 123 dự án với tổng số vốn trên 1,12 tỷ USD. Như vậy thời điểm trước Hiệp định Thương mại có hiệu lực thì dòng vốn FDI của Hoa Kỳ vào Việt Nam còn chiếm một tỷ lệ rất nhỏ trong tổng số vốn đầu tư ra nước ngoài của Hoa Kỳ. Đối với các nhà đầu tư Mỹ, việc miễn áp dụng Tu chính án Jackson –Vanik không có nghĩa là họ sẽ đổ vốn vào Việt Nam vì đây không phải là một thoả thuận liên quan đến môi trường đầu tư ở Việt Nam, đây chỉ là một cải thiện về môi trường thương mại mà thôi. Do vậy, các con số này cho thấy không có nhiều thay đổi thưc sự nào trong thái độ của các nhà đầu tư Mỹ. Họ vẫn còn chờ đợi nhiều vào Hiệp định Thương mại song phương. Về cơ cấu, trong giai đoạn này tính đến 31/8/2001 là thời điểm trước khi Hiệp đinh Thương mại có hiệu lực, lĩnh vực thu hút được nhiều vốn FDI của Hoa Kỳ nhất đó là công nghiệp với 82 dự án tương đương với 63,6% số các dự án FDI của Hoa Kỳ đầu tư vào Việt Nam với số vốn trên 620 triệu USD tương đương 58,6% tổng số vốn FDI của Hoa Kỳ ở Việt Nam. Tiếp đến là ngành dịch vụ với 31 dự án tương đương 24% tổng số dự án với số vốn đầu tư gần 300 triệu USD tương đương 27,9% tổng số vốn đầu tư của Hoa Kỳ tại đây. và cuối cùng là lĩnh vực Nông- lâm- ngư nghiệp với 16 dự án có số vốn đầu tư gần 143 triệu USD tương đương 12,4% số dự án và 13,5% tổng vốn đầu tư của Hoa Kỳ. Ta thấy đa số các dự án của Hoa Kỳ là đầu tư vào lĩnh vực công nghiệp và dịch vụ. Trong lĩnh vực công nghiệp thì công nghiệp năng và công nghiệp dầu khí là 2 ngành thu hút được số vốn nhiều nhất. Điều này chứng tỏ các nhà đầu tư Hoa Kỳ có xu hướng đầu tư vào các ngành có khả năng sinh nhiều lợi nhuận, những ngành liên quan đến năng lượng có tính nhạy cảm cao ví dụ như ngành dầu khí, cũng như những ngành họ có nhiều lợi thế về kỹ thuật và công nghệ để họ tận dụng chi phí nhân công rẻ làm hạ giá thành giúp nâng cao sức cạnh tranh trong sản phẩm của mình.( Bảng 4) Bảng 4: FDI của Hoa Kỳ phân theo ngành STT Chuyên ngành Số dự án Tỷ trọng (%) Tổng vốn đầu tư (USD) Tỷ trọng (%) 1. CN 82 63.60 620.347.606 58.60 Dầu khí CN nhẹ CN nặng CN thiếc Xây dựng 6 12 47 10 7 4.70 9.30 36.40 7.80 5.40 123.800.000 87.002.000 306.213.606 38.120.000 65.212.000 11.70 8.20 28.90 3.60 6.20 2. Nông - Lâm - Ngư nghiệp 16 12.40 142.811.798 13.50 Nông - Lâm nghiệp Thuỷ sản 12 4 9.30 3.10 128.838.686 13.973.112 12.20 1.3 3. Dịch vụ 31 24.00 295.120.662 27.9 GTVT – Bưu điện Tài chính – Ngân hàng Văn hoá - Y tế – Giáo dục Xây dựng văn phòng – cửa hàng Dịch vụ 7 5 9 3 7 5.40 3.90 7.00 2.30 5.40 40.930.540 67.150.000 104.330.000 56.833.215 25.876.907 3.9 6.3 9.9 5.4 24 Tổng số 129 100.00 1.058.280.066 100 Nguồn: Vụ quản lý dự án – Bộ KHĐT. Theo hình thức đầu tư, số liệu cho thấy các nhà đầu tư Hoa Kỳ có xu hướng đầu tư theo hình thức 100% vốn là chủ yếu, tiếp đến là hình thức liên doanh và cuối cùng là đầu tư theo hình thức Hợp đồng hợp tác kinh doanh mà không có bất kì một dự án nào theo hình thức BOT. Các dự án 100% vốn nước ngoài có tới 83 dự án tương đương 64,3% số dự án Hoa Kỳ đầu tư vào Việt Nam, với số vốn trên 550 triệu USD tương đương 52,4% tổng vốn đầu tư Hoa Kỳ tại Việt Nam; có 33 dự án liên doanh và 13 dự án Hợp đồng hợp tác kinh doanh tương đương 25,6% và 10,1% số dự án của Hoa Kỳ tại đây. Trong đó các dự án liên doanh có số vốn gần 370 triệu USD tương đương 34,9%, Hợp đồng hợp tác kinh doanh thu hút được trên 134 triệu USD tương đương 12,7% tổng số vốn FDI của Hoa Kỳ tại Việt Nam. Như vậy, các nhà đầu tư Hoa Kỳ rất thích đầu tư theo hình thức 100% vốn nước ngoài, điều này cho thấy tính độc lập cao trong tính cách cũng như trong hoạt động kinh doanh của các nhà đầu tư Hoa Kỳ. Họ là những người có khả năng chuyên môn, nghiệp vụ giỏi, trình độ quản lý tiên tiến, phương thức kinh doanh hiện đại. Do vậy, họ hoàn toàn muốn độc lập tự do trong việc điều hành hoạt động sản xuất kinh doanh sao cho đem lại hiệu quả cao mà không bị ràng buộc hay hạn chế từ bên nào. Tuy nhiên bên cạnh hình thức 100% vốn nước ngoài còn có hình thức liên doanh. Các nhà đầu tư Hoa Kỳ cũng muốn triệt để lợi dụng hình thức này để có thể k._.nh công ty trách nhiệm hữu hạn mà chưa được phép thành lập theo hình thức công ty cổ phần, trong khi đó mô hình công ty cổ phần có vốn đầu tư nước ngoài là một hình thức quan trọng trên thế giới. Thông qua hình thức này, các doanh nghiệp được quyền huy động vốn dưới hình thức phát hành cổ phiếu và trái phiếu. Do đó việc giới hạn doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài chỉ được thành lập và hoạt động dưới hình thức công ty trách nhiệm hữu hạn (TNHH) sẽ không khuyến khích được các nhà đầu tư nước ngoài bỏ vốn làm ăn tại VN. Trong khi đó theo như cam kết thì trong vòng 3 năm kể từ khi HĐTM có hiệu lực, Việt Nam sẽ cho phép thành lập doanh nghiệp cổ phần có vốn của bên Hoa Kỳ. Đây là yếu tố rất hấp dẫn để có thể thu hút đầu tư trực tiếp của Hoa Kỳ vào Việt Nam. Ngoài cam kết kể trên, trong vòng 2 năm kể từ khi HĐTM có hiệu lực tức là đến năm 2003, chúng ta sẽ thực hiện chế độ đăng ký cấp đầu tư đối với: (i) các dự án đầu tư vào khu công nghiệp và khu chế xuất. (ii) các dự án có tỷ lệ xuất khẩu tối thiểu 50% sản phẩm. (iii) các dự án vốn đầu tư đến 5 triệu USD. Cam kết này sẽ giúp các nhà đầu tư Hoa Kỳ giảm bớt sự khó chịu do thủ tục xin cấp giấy phép đầu tư mang lại cùng với việc đơn giản hoá thủ tục này. Một cam kết nữa chắc chắn cũng sẽ gây được sự chú ý của các nhà đầu tư đó là Việt Nam sẽ xoá bỏ sự phân biệt về giá, phí đối với tất cả các hàng hoá, dịch vụ còn lại trong vòng 4 năm kể từ khi HĐTM Việt-Mỹ có hiệu lực (các hàng hóa, dịch vụ còn lại ở đây bao gồm tất cả các hàng hoá, dịch vụ ngoại trừ những hàng hoá dịch vụ đã được đề cập xoá bỏ ngay tại thời điểm có hiệu lực của Hiệp định). Đây chỉ là một số cam kết trong rất nhiều cam kết mà phía Việt Nam phải thực hiện. Nếu những cam kết này được thực thi đầy đủ, chắc chắn Việt Nam sẽ là một môi trường đầu tư rất hấp dẫn đối với các nhà đầu tư Hoa Kỳ. Tuy nhiên, môi trường đầu tư của Việt Nam vẫn có những hạn chế nhất định cần chúng ta phải cố gắng nỗ lực cải thiện để Việt Nam thực sự trở thành điểm đến đối với các nhà đầu tư Hoa Kỳ. Những khó khăn. Môi trường đầu tư của Việt Nam còn nhiều hạn chế, chưa đáp ứng được đầy đủ các quy định trong HĐTM. Có thể nói, so với các quốc gia thuộc khối ASEAN hiện nay thì những quy định của pháp luật Việt Nam về ĐTNN được đánh giá là quốc gia có Bộ Luật thông thoáng nhất chỉ sau Xin-ga-po. Mặc dù vậy, hệ thống pháp luật về đầu tư ở nước ta vẫn còn nhiều bất cập, gây cản trở cho thu hút đầu tư nước ngoài nói chung và đầu tư Hoa Kỳ nói riêng. Trước hết, về công tác quản lý hoạt động đầu tư nước ngoài. Quản lý hoạt động đầu tư nước ngoài là một trong những nhiệm vụ quan trọng của Nhà nước ta. Tuy nhiên trên thực tế, hoạt động này đang gặp một số trở ngại sau đây: + Một là, thiếu một cơ sở pháp lý vững chắc, thống nhất, rõ ràng dẫn đến tình trạng có thể hiểu theo nhiều cách khác nhau, gây khó khăn cho nhà đầu tư nước ngoài. VD: Khoản 4, Điều 64 Nghị định số 21/2000/NĐ-CP ban hành ngày 31/7/2000 quy định: “Báo cáo Tài chính của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, bên hợp doanh nước ngoài đã được kiểm toán có thể được dùng làm cơ sở để xác định và quyết toán các nghĩa vụ khác đối với Nhà nước Việt Nam”. Cụm từ “có thể được dùng” trên đây đồng nghĩa với việc “có thể không được dùng” sẽ là không sai quy định và thực tế là: Baó cáo Tài chính hàng năm của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đã được kiểm toán hầu như không được sử dụng làm cơ sở xác định thuế và nghĩa vụ tài chính khác đối với Nhà nước Việt Nam. Trong khi đó, theo quy định của pháp luật, ngành thuế hàng năm vẫn tiến hành kiểm tra quyết toán thuế và các nghĩa vụ tài chính khác đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và cho thấy số thuế và các khoản nộp ngân sách Nhà nước của doanh nghiệp thường cao hơn báo cáo kiểm toán, biên bản này có giá trị pháp lý và doanh nghiệp phải thực hiện. + Hai là, chính sách, pháp luật của nước ta hay thay đổi quá nhiều và thường lại không đồng bộ, thiếu thống nhất. Trong 15 năm qua, Luật ĐTNN đã được sửa đổi đến 5 lần nhưng các luật liên quan như Bộ luật Lao động, Luật tổ chức-tín dụng… lại không được thay đổi đồng bộ. Bên cạnh đó, chúng ta lại còn thiếu rất nhiều luật khác quan trọng như luật cạnh tranh và kiểm soát độc quyền… hoặc như quy định về tiêu chuẩn đầu tư. Theo Luật ĐTNN năm 1996, trong trường hợp có nhiều tiêu chuẩn khuyến khích đầu tư thì mức thuế lợi tức là 15% thu nhập nhưng theo Nghị định số 24/2000/NĐ-CP thì chỉ cần một tiêu chuẩn cụ thể là đã áp dụng thuế suất 15%. Thứ hai: Các thủ tục hành chính còn quá nhiều rườm rà. Mặc dù Nhà nước ta đã có những cố gắng trong cải cách thủ tục hành chính như thực hiện chính sách “một cửa, một dấu”, giảm thời gian cấp phép đầu tư… Nhưng thủ tục hành chính rườm rà vẫn là một trongnhững rào cản lớn nhất trong việc thu hút vốn đầu tư nước ngoài. Thủ tục hải quan, thủ tục hoàn thuế, thủ tục cấp đất, giao đất …, nhất là những dự án liên quan đến đền bù, giải toả mặt bằng còn quá phức tạp, kéo dài dẫn đến việc triển khai dự án chậm, gây nản lòng các nhà đầu tư, làm mất dần đi yếu tố hấp dẫn của môi trường đầu tư ở Việt Nam, đơn cử như việc hoàn thuế thu nhập doanh nghiệp. Theo nhiều chuyên gia thì nhà đầu tư nước ngoài phải thực hiện quá nhiều thủ tục rắc rối để được hưởng ưu đãi là: phải lập hồ sơ gửi Bộ Tài chính với rất nhiều các yếu tố khác nhau, sau đó phải đợi 15 ngày xem Bộ Tài chính có chấp nhận hay không… Do đó, những quy định này lại tạo thêm rắc rối cho nhà ĐTNN, hay như vấn đề đền bù, giải phóng mặt bằng cũng vậy. Thứ ba: Các lĩnh vực, địa bàn khuyến khích ĐTTT nước ngoài chưa được quy định một cách rõ ràng, cụ thể. Mặc dù đã rất cố gắng trong việc tạo sự hài hoà giữa quy hoạch ngành và quy hoạch lãnh thổ nhưng chúng ta vẫn để xảy ra tình trạng mất cân đối trong cơ cấu vốn đầu tư giữa các vùng lãnh thổ. Theo số liệu của Bộ Kế hoạch- Đầu tư thì trong khi vùng kinh tế trọng điểm phía Nam thu hút được 57% số dự án và 48% vốn đăng ký thì vùng kinh tế trọng điểm miền Trung chỉ thu hút được 3% tổng số dự án và 5,5% vốn đăng ký, còn vùng miền núi trung du Bắc bộ và Tây nguyên có sức thu hút đầu tư kém nhất. Còn về cơ cấu đầu tư theo ngành nghề, lĩnh vực thì cũng mới chỉ tập trung vào lĩnh vực xây dựng và công nghiệp, các lĩnh vực lâm thuỷ sản còn quá ít. Thực tế cho thấy, việc lựa chọn địa điểm và lĩnh vực, ngành nghề đầu tư là vấn đề quan trọng hàng đầu của các nhà đầu tư nước ngoài khi đến Việt Nam. Do vậy, chừng nào mà họ còn chưa sáng tỏ và vững tin vào hiệu quả của dự án thì chừng đó họ còn chưa quyết định đầu tư. Thứ tư: còn thiếu sự quản lý thống nhất đối với hoạt động ĐTNN, bộ máy quản lý công kềnh, chồng chéo. Hiện nay, việc quản lý các dự án vốn ĐTTT nước ngoài ở nước ta còn thiếu sự thống nhất giữa các ngành, các địa phương. Chưa có một cơ quan chuyên trách có thẩm quyền để giải quyết các vướng mắc trong hoạt động ĐTNN của doanh nghiệp. Một đề xuất, kiến nghị của doanh nghiệp thường phải qua quá nhiều Bộ, Ngành nên không xử lý kịp thời và doanh nghiệp vẫn phải chịu những bất hợp lý phát sinh. Các nhà đầu tư thường than phiền rằng: các cơ quan chức năng có quá nhiều quyền hạn đối với doanh nghiệp nhưng lại chẳng có cơ quan nào có trách nhiềm rõ ràng. Bên cạnh những quy định của pháp luật, chính sách liên quan đến ĐTNN, Bộ máy quản lý gồm các cơ quan, bộ, ngành cồng kềnh, chồng chéo thì một khó khăn nữa trong việc thu hút FDI của nước Hoa Kỳ vào Việt Nam là cơ sở hạ tầng còn yếu kém. Như ta biết, các dự án đầu tư của Hoa Kỳ tập trung chủ yếu vào lĩnh vực công nghiệp, xây dựng, dầu khí, dịch vụ… đây lại là lĩnh vực hoạt động cần kèm theo rất nhiều dịch vụ liên quan đến hệ thống hạ tầng cơ sở mới có thể đáp ứng được hoạt động đầu tư của các nhà đầu tư Hoa Kỳ, điều này đòi hỏi hệ thống cơ sở hạ tầng phải tốt. Mặc dù Việt Nam đã cố gắng rất nhiều để cải thiện hệ thống cơ sở hạ tầng nhưng so với khu vực thì vẫn còn thua kém nhiều. Ngoài ra, việc phát triển nguồn nhân lực còn nhiều có nhiều hạn chế. Chúng ta chưa có một định hướng cụ thể cho việc phát triển nguồn nhân lực. Năng lực của đội ngũ cán bộ ở các lĩnh vực nói chung, kể cả cán bộ hoạch định chính sách và điều hành sản xuất, kinh doanh, sự hiểu biết về luật pháp Hoa Kỳ, kỹ thuật, kinh nghiệm kinh doanh với các công ty Hoa Kỳ nói riêng còn hạn chế. Đội ngũ công nhân lành nghề chưa được chú trọng đào tạo và còn thiếu trầm trọng. Tỷ lệ lao động qua đào tạo so với tổng số lao động của nước ta chưa chiếm tới 20%, trong đó lao động qua đào tạo nghề mới chiếm 11,3%. Ngân sách chi cho đào tạo nghề mới chiếm 6,5% tổng chi cho GD-ĐT. Đây là con số quá thấp so với khu vực và thế giới. Mặt khác, chúng ta để lãng phí quá nhiều nguồn lực có trí tuệ trong nước do chế độ đãi ngộ và sử dụng không hợp lý. Cơ cấu đào tạo còn chưa hợp lý gây ra tình trạng có nơi thì có quá nhiều nhân lực đáp ứng dẫn đến thất nghiệp và làm không đúng ngành nghề mình được đào tạo và kết quả là hiệu quả kinh tế thấp; có nơi chúng ta cần phát triển nhưng lại có quá ít nguồn nhân lực đáp ứng lại dẫn đến tình trạng thiếu người. Đây là một hiện tượng rất phổ biến ở Việt nam mà đòi hỏi các bộ, ngành liên quan nghiên cứu để đưa ra định hướng, chính sách giáo dục đào tạo theo kịp với tốc độ tăng trưởng kinh tế xã hội. Một yếu tố nữa mà các nhà ĐTNN nói chung và các nhà ĐT Hoa Kỳ nói riêng rất lo ngại đó là tình trạng vi phạm sở hữu trí tuệ ở Việt Nam được coi là nhất Châu á. Điều này ảnh hưởng trực tiếp đến doanh thu, lợi nhuận. Đặc biệt là chất xám của họ đã bị lạm dụng và sẽ gây tổn thất lớn cho lợi ích của các nhà đầu tư. Việc xử lý các sai phạm về bản quyền tác giả còn chưa nghiêm, tình trạng làm nhái theo mẫu mã nước ngoài còn phổ biến, chưa kịp thời ngăn chặn. Nói chung, những quy định pháp lý về vấn đề sở hữu trí tuệ của ta còn thiếu và chưa đồng bộ theo yêu cầu của WTO. Tóm lại, Việt Nam có những yếu tố rất thuận lợi để thu hút FDI của Hoa Kỳ nhưng chúng ta vẫn còn gặp nhiều khó khăn cản trở luồng vốn này vào Việt Nam. Chúng ta cần phải biết tận dụng những yếu tố tích cực để phát huy tối đa khả năng thu hút đầu tư trực tiếp của một nước đóng vai trò rất lớn trong di chuyển luồng vốn đầu tư quốc tế. Nhưng chúng ta cũng cần cố gắng, nỗ lực giải quyết những bất cập còn tồn tại bên trong môi trường đầu tư của mình để hoàn thành được những mục tiêu, yêu cầu đã đề ra trong việc thu hút FDI của Hoa Kỳ vào Việt Nam. Chương 3. Giải pháp đẩy mạnh thu hút FDI của Hoa Kỳ vào Việt Nam Như chúng ta biết Hoa Kỳ là nước nhận đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) nhiều nhất và cũng là nước đầu tư ra nước ngoài lớn nhất (năm 1998, đầu tư của Hoa Kỳ ra nước ngoài chiếm khoảng 20% tổng vốn đầu tư ra nước ngoài của thế giới). Mặc dù tiềm năng lớn, nhưng mức đầu tư trực tiếp của Hoa Kỳ vào VN vẫn còn ở mức khiêm tốn khoảng trên 1,6 tỷ USD, với những dự án đầu tư nhỏ trung bình bằng 8,6 triệu USD. Tuy nền kinh tế của Hoa Kỳ vẫn nằm trong tình trạng suy thoái, mặc dù vậy, sau khi HĐTM có hiệu lực, khả năng thu hút đầu tư của Hoa Kỳ vào VN sẽ tăng lên về quy mô và giá trị, nhất là đầu tư trung và dài hạn. Việt Nam cần có những biện pháp cụ thể để thu hút đầu tư của Hoa Kỳ qua đó Việt Nam có thể tận dụng cũng như khai thác lợi thế về công nghệ, kỹ thuật tiên tiến, hiện đại và tranh thủ nguồn vốn của các nhà đầu tư - đây vốn là những ưu điểm nổi bật của các nhà đầu tư Hoa Kỳ. Điều này sẽ giúp Việt Nam đẩy nhanh được sự nghiệp CNH-HĐH và góp phần thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế-xã hội mà Đảng và Nhà nước đã đề ra. Sau đây, luận văn xin đề cập một số giải pháp nhằm thu hút có hiệu quả dòng vốn đầu tư này. 3.1. Phát triển cơ sở hạ tầng. Có thể nói cơ sở hạ tầng (phần cứng) có vai trò làm nền móng cho các hoạt động đầu tư, nhất là trong các ngành sản xuất công nghiệp, dịch vụ sử dụng công nghệ hiện đại. Trong khi đó cơ cấu đầu tư của Hoa Kỳ chủ yếu tập trung vào lĩnh vực công nghiệp, dịch vụ, dầu khí, xây dựng v.v… Đây đều là các lĩnh vực đòi hỏi cơ sở hạ tầng tốt, yêu cầu trình độ kỹ thuật công nghệ cao; hệ thống giao thông đi lại, vận chuyển hàng hoá thuận lợi phục vụ cho hoạt động đầu tư của các nhà đầu tư một cách có hiệu quả v.v… Cơ sở hạ tầng tốt không chỉ đáp ứng được các yêu cầu kỹ thuật, giảm giá thành của sản phẩm mà còn hạn chế được các rủi ro trong đầu tư - một trong những yếu tố thu hút nhất sự quan tâm của các nhà đầu tư nước ngoài nói chung và đầu tư Hoa Kỳ nói riêng. Để đáp ứng được các yêu cầu trên, Việt Nam phải tăng cường cải thiện cơ sở hạ tầng thông qua việc nâng cấp và xây mới hệ thống giao thông (đường xá, nhà ga, bến cảng…), kho bãi, điện nước, thông tin, bưu điện,… theo kịp với tốc độ tăng trưởng kinh tế và đặc biệt để nâng vị trí của Việt Nam lên trong bảng xếp hạng môi trường đầu tư “cúng” cũng như môi trường đầu tư “mềm” của các nước ASEAN. Đây là biện có tính quyết định đến sự thành công trong thu hút đầu tư nước ngoài. Chúng ta cần chú trọng quy hoạch phát triển hạ tầng kho bãi với số lượng, quy mô và tiêu chuẩn, kỹ thuật đáp ứng được yêu cầu sản xuất và phân phối của các nhà ĐTNN nói chung và các nhà đầu tư Hoa Kỳ nói riêng. Hiện nay, việc xây dựng hệ thống kho bãi đạt tiêu chuẩn quốc tế còn rất hạn chế, phần lớn do các công ty nhà nước thực hiện và thường tập trung ở các cảng biển là chủ yếu. Hệ thống giao thông đường xá ở Việt Nam cũng đã được chú ý phát triển trong giai đoạn hiện nay. Tuy vậy, chất lượng một số các công trình sau khi xây dựng còn kém do sự thiếu hụt về trình độ chuyên môn kỹ thuật nhưng các nhà thầu vẫn được nhận công trình do hiện tượng “đi đêm”. Chúng ta cần có biện pháp xử lý thẳng tay, thật nghiêm đối với những cán bộ, chuyên gia Nhà nước có hiện tượng ăn đút lót, hối lộ trong việc quyết định thắng thầu, đồng thời phải tổ chức giám sát hoạt động thi công các công trình, dự án để đảm bảo yêu cầu về chất lượng, kỹ thuật của công trình. Bên cạnh đó, xây dựng hệ thống giao thông đáp ứng tốt đòi hỏi lượng kinh phí rất lớn và thời gian thu hồi vốn đầu tư dài. Vì vậy, đối với một nước đang phát triển như Việt Nam, nền kinh tế gặp nhiều khó khăn, chúng ta cần thuyết phục các tổ chức Chính phủ và phi Chính phủ tài trợ và đặc biệt là khuyến khích đầu tư tư nhân (chủ yếu là đầu tư nước ngoài) tham gia dưới hình thức BOT, BT. Muốn làm được như vậy, chúng ta cần có những chính sách đảm bảo và khuyến khích ĐTTTNN trong lĩnh vực này. Bên cạnh đó, các lĩnh vực dịch vụ của ta còn quá yếu kém. Những dịch vụ điện nước, thông tin, bưu đIện… vẫn gặp những khó khăn. Khả năng cung cấp điện nước cho các hoạt động đầu tư là yếu tố quy định quy mô dự án mà hiện nay ta vẫn còn nhiều hạn chế. Bởi vậy, chúng ta cần ưu tiên phát triển thêm một số nhà máy điện lực và nhà máy cung cấp nươc sạch để đáp ứng nhu cầu cho sinh hoạt của người dân cũng như cho các hoạt động kinh tế xã hội, cũng như hoạt động đầu tư của các nhà đầu tư. Thông tin, bưu đIện là nhu cầu không thể thiếu được trong các hoạt động đIều hành kinh doanh và trong cuộc sống của các nhà đầu tư. Chúng ta cần xây dựng một hệ thống thông tin, bưu điện đạt chất lượng cao. Hiện nay, một vấn đề nổi cộm trong ngành bưu chính viễn thông ở Việt Nam đó là giá phí cho loại hình dịch vụ này là cao so với khu vực nhưng chất lượng lại không tương xứng. Mặc dù kể từ 1/4/2003, ngành bưu chính viễn thông của Việt Nam có một đợt giảm giá phí dịch vụ viễn thông – Internet lớn nhất từ trước đến nay, trung bình từ 10-40%, điều này sẽ làm cho giá phí loại hình này giảm đảng kể nhưng vẫn còn cao so với khu vực và vẫn sẽ làm mất đi lợi thế so sánh của Việt Nam so với các nước trong khu vực do chi phí viễn thông, vận tải, điện nước cao hơn nhiều. Chúng ta cần mở rộng thêm các loại hình dịch vụ mới cũng như có thêm những ưu đãi đối với khách hàng trong lĩnh vực bưu chính viễn thông để thu hút thêm khách hàng phấn đấu trong một khoảng thời gian gần nhất sẽ giảm giá phí này xuống ngang bằng mức trung bình của khu vực. Khi giá phí các loại dịch vụ kể trên xuống thấp sẽ làm chi phí đầu tư giảm và làm tăng tính hấp dẫn đối với các nhà ĐTNN. Trong khi đó, trình độ các ngành dịch vụ quan trọng của ta như ngân hàng, bảo hiểm, hệ thống phân phối, kiểm toán, tư vấn các loại công nghệ, thông tin… còn non kém, các luật lệ, cơ chế chính sách, trình độ cán bộ, phương thức quản lý, điều hành còn nhiều bất cập dẫn đến các dịch vụ này không đáp ứng tốt được các yêu cầu của các nhà đầu tư, khi họ muốn thực hiện giao dịch liên quan đến các hoạt động đầu tư của mình. Do vậy, chúng ta cần mở các lớp để nâng cao kiến thức, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ, nhằm nâng cao chất lượng phục vụ cho các giao dịch của các nhà đầu tư nước ngoài. Đồng thời cải tiến, đổi mới phương thức quản lý, điều hành sao cho bộ máy được tổ chức một cách gọn nhẹ, đơn giản giúp các nhà đầu tư khi đến làm việc cảm thấy dễ dàng và không bị cản trở. 3.2. Hoàn thiện hơn nữa hệ thống pháp luật đến hoạt động ĐTNN. Mặc dù, so với các quốc gia thuộc khối ASEAN hiện nay, thì những quy định của pháp luật Việt Nam về ĐTNN được đánh giá là một trong những quốc gia thông thoáng nhất chỉ sau Xin-ga-po. Tuy nhiên, đi vào thực tiễn ta thấy, hệ thống pháp luật đầu tư ở nước ta vẫn còn nhiều bất cập gây cản trở cho việc thu hút đầu tư nước ngoài nói chung và đầu tư của Hoa Kỳ nói riêng. Thứ nhất: nâng cao chất lượng công tác quản lý hoạt động đầu tư. Do quản lý hoạt động đầu tư nước ngoài có một ý nghĩa rất quan trọng, ảnh hưởng trực tiếp đến thu hút ĐTNN, trong khi công tác này ở VN còn rất nhiều hạn chế. Vì vậy, VN cần nỗ lực cải thiện môi trường này. Hiện nay, các quy định liên quan đến việc quản lý hoạt động ĐTNN còn thiếu một cơ sở pháp lý vững chắc, thống nhất, rõ ràng gây ra sự khó hiểu cho các nhà ĐTNN, chúng ta cần xây dựng lại cơ sở pháp lý theo hướng nhất quán rõ ràng, dễ hiểu thông qua việc sử dụng các từ, cụm từ trong các quy định chỉ có thể hiểu theo một nghĩa duy nhất để tránh sự không rõ ràng trong sử dụng từ ngữ, giúp các nhà đầu tư thực hiện đúng quy định. Điều này là rất quan trọng bởi thực tế cho thấy, từ ngữ trong các quy định đIều chỉnh hoạt động đầu tư nước ngoài còn rất không rõ ràng làm cho các nhà đầu tư rất khó xử, họ không biết phải thực hiện như thế nào. Bên cạnh đó chính sách, pháp luật của nước ta thay đổi quá nhiều mà lại không đồng bộ, thiếu thống nhất gây cản trở cho hoạt động của các nhà đầu tư (các quy định về cùng một đối tượng có thể lại khác nhau qua các lần sửa đổi bổ sung- một hiện tượng dễ thấy trong hệ thống pháp luật ĐTNN tại VN). Do vậy, chúng ta cần rà soát lại các quy định trong Luật Đầu tư nước ngoài để xem những quy định nào còn chưa thống nhất với nhau thì phải kịp thời điều chỉnh để đưa ra một quy định nhất quán. Tóm lại, chúng ta cần nâng cao chất lượng các văn bản quy phạm pháp luật về hoạt động đầu tư nước ngoài. Thứ hai: thủ tục hành chính còn quá rườm rà và gây nản lòng các nhà đầu tư mặc dù chúng ta đã cố gắng cải cách thủ tục hành chính như thực hiện chính sách “một cửa, một dấu”, giảm thời gian cấp phép đầu tư… nhưng hoạt động này vẫn còn rất nhiều bất cập. Chúng ta cần phải đơn giản hoá các thủ tục hành chính và đặc biệt là xem xét lại những khâu nào là không cần thiết thì có thể giảm bớt để rút ngắn thời gian cũng như sự phiền hà phức tạp cho các nhà đầu tư. Chúng ta cần giải quyết những vướng mắc đặc biệt là có sự cải tiến trong thủ tục hải quan, thủ tục hoàn thuế, cấp đất, giao đất…, nhất là những dự án liên quan đến đền bù giải phỏng mặt bằng còn quá phức tạp và kéo dài. Trong khi có quá nhiều thủ tục mà các thủ tục lại rắc rối, điều này gây ra một tâm lý khó chịu cho các nhà đầu tư nước ngoài. Vì vậy, Chính phủ phải có các quy định rõ ràng đối với các ban, ngành liên quan đến hoạt động giải quyết thủ tục này cho các nhà ĐTNN theo hướng giảm bớt và đơn giản hoá các thủ tục đó. Như vậy, chúng ta cần phải tiếp tục cải cách thủ tục hành chính. Ngoài ra, một hiện tượng cũng trở nên khá phổ biến hiện nay mà chúng ta cần đấu tranh đó là nạn quan liêu, tham nhũng trong các cơ quan quản lý hoạt động ĐTNN cũng như các cơ quan giải quyết những vấn đề liên quan đến hoạt động đầu tư của các nhà đầu tư. Do các tệ nạn này đã làm cho các dự án ĐTNN được triển khai chậm, các nhà đầu tư gặp rất nhiều khó khăn, cản trở trong hoạt động đầu tư. Điều này sẽ làm giảm sức hấp dẫn của môi trường đầu tư tại VN. Chính phủ cần nỗ lực đấu tranh chống lại tệ nạn này để hoạt động của các nhà đầu tư được thuận lợi, qua đó sẽ tạo được lòng tin đối với các nhà đầu tư. Thứ ba: chúng ta cần có sự phân cấp rõ ràng đối với các cơ quan quản lý hoạt động ĐTNN, bên cạnh đó là có sự phân chia trách nhiệm rõ ràng đối với các cơ quan chức năng. Cơ quan nào là chịu trách nhiệm trực tiếp giải quyết các vướng mắc cho doanh nghiệp?, cơ quan nào có quyền can thiệp vào hoạt động của doanh nghiệp ? Tất cả những vấn đề này chúng ta cần có những quy định rõ ràng, nếu không, sẽ gây ra hiện tượng: Các cơ quan chức năng có quá nhiều quyền hạn đối với doanh nghiệp nhưng lại chẳng có cơ quan nào có trách nhiệm rõ ràng - một hiện tượng trở nên khá phổ biến ở Việt Nam. 3.3. Đẩy mạnh chương trình xúc tiến đầu tư của Hoa Kỳ. 3.3.1. Tập trung nỗ lực hỗ trợ các dự án đầu tư của Hoa Kỳ đã được cấp giấy phép đầu tư hoặc đang đàm phán, chuẩn bị đầu tư. Đây là một trong những công tác quan trọng được xác định trong chương trình tổng thể vận động ĐTNN thời kỳ 2001-2005 như một trong những giải pháp hữu hiệu nhằm củng cố lòng tin của nhà ĐTNN đang hoạt động tại VN và góp phần vào việc xây dựng hình ảnh, tạo sức hấp dẫn để thu hút các nhà đầu tư mới. Đối với các nhà đầu tư Hoa Kỳ, cần thực hiện các giải pháp cụ thể sau: Giải quyết sớm các vướng mắc trong hoạt động của các dự án đầu tư đã được cấp giấy phép như: dự án tập đoàn Cargil, dự án chế biến cà phê xuất khẩu của công ty McCalaugh International, dự án chế biến nhựa đường của tập đoàn Hackel tại Quảng Ngãi… Thành lập tổ công tác liên ngành để thúc đẩy đàm phán, chuẩn bị một số dự án quan trọng, đặc biệt là dự án sản xuất IC của tập đoàn Intel, dự án sản xuất Lab của tập đoàn VOP, đồng thời có biện pháp giải quyết sớm các vướng mắc liên quan đến việc đàm phán. 3.3.2. Tập trung vận động đầu tư đối với từng lĩnh vực, dự án và đối tác tiềm năng theo hướng: Chuẩn bị thông tin chi tiết về một số dự án có tính khả thi cao để giới thiệu với các nhà đầu tư Hoa Kỳ trong dịp tổ chức các hoạt động xúc tiến đầu tư, thương mại, triển lãm, hội chợ… tại Hoa Kỳ. Các hội thảo về đầu tư tại Việt Nam và Hoa Kỳ cần tổ chức theo từng lĩnh vực, chuyên ngành cụ thể hướng vào những công ty, tập đoàn có tiềm năng, tạo điều kiện để các đối tác trực tiếp gặp gỡ, tìm hiểu về khả năng hợp tác đầu tư. Tiếp xúc trực tiếp ở các cấp khác nhau ( kể cả cấp Chính phủ, nếu cần thiết) với các công ty, tập đoàn Hoa Kỳ có tiềm lực mạnh về tài chính, công nghệ để xúc tiến thực hiện một số dự án quan trọng được lựa chọn, đồng thời cam kết hỗ trợ thực hiện có hiệu quả các dự án này nhằm mở đường cho việc thu hút các công ty trực thuộc và hoặc có quan hệ kinh doanh với các tập đoàn nói trên đầu tư vào Việt Nam. - Mở rộng quan hệ hợp tác với các ngân hàng, tổ chức tài chính, các công ty tư nhân xúc tiến đầu tư Hoa Kỳ… để phối hợp vận động các khách hàng của họ đầu tư vào Việt Nam. - Duy trì và nâng cao chất lượng các cuộc đối thoại với cộng đồng các nhà đầu tư Hoa Kỳ, đặc biệt là trong khuôn khổ phòng Thương mại Hoa Kỳ tại Việt Nam (AmCham), hội đồng doanh nghiệp Hoa Kỳ-ASEAN, hội đồng Thương mạiViệt Nam- Hoa Kỳ… - Triển khai nghiên cứu pháp luật về kinh tế của Hoa Kỳ và xu hướng đầu tư của các công ty Hoa Kỳ để xây dựng lĩnh vực và đối tác đầu tư thích hợp; tìm mối quan hệ giữa các công ty Hoa Kỳ với các quan chức chính quyền, quốc hội và chính giới khác nhằm từng bước tạo lập mạng lưới lợi ích với các thế lực chính trị ở Hoa Kỳ. 3.3.3. Tăng cường công tác thông tin, tuyên truyền về đầu tư. Hoạt động tuyên truyền đầu tư cần hướng vào các trung tâm tài chính, kinh tế và công nghiệp của Hoa Kỳ như New York, Chicago, Los Angeles, San Francisco, Miami…, đồng thời coi trọng các bang có lợi ích và quan tâm nhiều nhất đến việc hợp tác với Việt Nam. Chẳng hạn đối với các bang: Washington, Oklahoma Nebraska, New York, California… có thể vận động đầu tư trong lĩnh vực nông nghiệp, vận tải biển, sản xuất mềm, hàng tiêu dùng. Ngoài các công ty, tập đoàn của Hoa Kỳ có tiềm năng đầu tư tại Việt Nam, cần chú trọng vận động các quan chức Chính phủ, nghị sĩ Quốc Hội, phóng viên báo chí, truyền hình, các nhà tư vấn… nhằm vận động hành lang cho Việt Nam. Nâng cao hiệu quả hoạt động vận động đầu tư gián tiếp trên các phương tiện thông tin đại chúng bằng cách hợp tác với các cơ quan, hãng thông tấn xã, báo chí, truyền hình trong nước và ngay tại Hoa Kỳ để tăng tần suất thông tin về môi trường và cơ hội đầu tư tại Việt Nam: kịp thời và chuẩn xác trong thông tin, khắc phục tình trạng đưa tin sai hoặc cố tình bóp méo sự thật về Việt Nam. Nâng cao chất lượng tuyên truyền đầu tư bằng các phương tiện hiện đại, như xây dựng trang web, phát hình đĩa CD room, đĩa VCD nhằm giới thiệu môi trường và cơ hội đầu tư tại Việt Nam… Các thông tin về vấn đề này, đặc biệt là các thông tin về dự án trong danh mục gọi vốn ĐTNN phải có độ tin cậy cao, cập nhật, định hướng cụ thể lĩnh vực ưu tiên thu hút đầu tư của Hoa Kỳ và nêu rõ được những lợi thế của việc lựa chọn dự án đầu tư tại Việt Nam thay vì địa bàn khác… Chúng ta cần triệt để khai thác sử dụng các phương tiện thông tin bởi đây là phương tiện có vai trò hết sức quan trọng trong hoạt động tuyên truyền, quảng cáo về môi trường đầu tư của Việt Nam tới các nhà đầu tư Hoa Kỳ. Thông qua hệ thống truyền hình, băng đĩa, ấn phẩm,… các hình ảnh về đất nước, con người và các cơ hội đầu tư ở Việt Nam sẽ được giới thiệu đầy đủ và sinh động. Vì vậy, thông qua phương tiện này nó sẽ đem lại hiệu quả to lớn trong các hoạt động xúc tiến đầu tư tại Việt Nam. 3.3.4. Mở rộng, nâng cao hiệu quả hợp tác xúc tiến đầu tư với các công ty tư vấn, xúc tiến đầu tư, các tổ chức Chính phủ và phi Chính phủ của Hoa Kỳ theo hướng: Tận dụng tối đa sự trợ giúp kỹ thuật của Chính phủ Hoa Kỳ trong khuôn khổ Chương trình hỗ trợ thực hiện Hiệp định Thương mại Việt Nam – Hoa Kỳ (STAR) để triển khai nghiên cứu pháp luật, chính sách và thị trường Hoa Kỳ. Duy trì, mở rộng quan hệ hợp tác với các cơ quan Chính phủ và tổ chức Tài chính Hoa Kỳ như OPIC, Exim Bank, VSAID, TDA…nhằm phối hợp tổ chức các hoạt động xúc tiến đầu tư. Tiếp tục ký kết các thoả thuận hợp tác xúc tiến đầu tư dưới những hình thức thích hợp với chính quyền một số Bang có tiềm năng hợp tác đầu tư với Việt Nam và các công ty tư vấn, xúc tiến đầu tư của Hoa Kỳ…, đồng thời nâng cao chất lượng hợp tác về vấn đề này với các công ty, tổ chức xúc tiến đầu tư của Hoa Kỳ đang hoạt động tại Việt Nam. 3.3.5. Thiết lập văn phòng xúc tiến đầu tư của Việt Nam tại Hoa Kỳ: Để tổ chức có hiệu quả các hoạt động xúc tiến đầu tư, cần nghiên cứu thiết lập văn phòng xúc tiến đầu tư tại một số thành phố lớn của Hoa Kỳ làm đầu mối tuyên truyền, vận động đầu tư, tìm hiểu thị trường, giới thiệu đối tác hợp tác của hai nước… Trước mắt, có thể thiết lập một văn phòng tại New York hoặc tại một Bang có nhiều quan hệ về Thương mại và đầu tư với Việt Nam. Cơ quan thương vụ Việt Nam tại Washington D.C và tổng lãnh sự quán Việt Nam tại San Francisco cần có cán bộ kiêm nhiệm thực hiện chức năng xúc tiến đầu tư. Do chi phí thành lập, thuê văn phòng, trả lương cho nhân viên và chi phí hoạt động thường xuyên tại Hoa Kỳ rất cao nên tổ chức văn phòng cần gọn nhẹ với lực lượng cán bộ có trình độ về pháp luật đầu tư, am hiểu thị trường Hoa Kỳ. Kết luận Đầu tư trực tiếp nước ngoài luôn đóng vai trò quan trọng đối với sự phát triển kinh tế của nước chủ nhà. Đối với Việt Nam, luồng FDI lại càng trở nên quan trọng hơn bao giờ hết. Để đạt được những mục tiêu mà Đảng và Nhà nước đã đề ra đối với việc phát triển đất nước, chúng ta cần tranh thủ tối đa luồng FDI của Hoa Kỳ vào Việt Nam. Thu hút được các nhà đầu tư Hoa Kỳ vào Việt Nam, chúng ta sẽ có nhiều cơ hội để bổ sung vốn đầu tư trong nước, nâng cao năng lực công nghệ trong nước v.v… cùng với rất nhiều tác động tích cực khác đối với nền kinh tế. Song môi trường đầu tư của Việt Nam vẫn còn nhiều bất cập cản trở dòng vốn này. Trong phạm vi đề tài này, người viết tập trung nghiên cứu thực trạng của dòng FDI Hoa Kỳ vào Việt Nam trước và sau Hiệp định Thương mại Việt Nam – Hoa Kỳ, các yếu tố thuận lợi và khó khăn trong việc thu hút đầu tư trực tiếp của Hoa Kỳ vào Việt Nam, qua đó xin đưa ra một vài gợi ý mang tính chất giải pháp nhằm đẩy mạnh thu hút được nguồn FDI của Hoa Kỳ vào Việt Nam trong giai đoạn tới. Trong quá trình hoàn thành đề tài này, chắc hẳn không tránh được những thiếu sót. Người viết mong muốn nhận được sự đóng góp của những người quan tâm tới để góp phần hoàn thiện hơn nữa cho vấn đề mà đề tài đề cập. Tài liệu tham khảo Phùng Xuân Nhạ, Đầu tư quốc tế, Nhà xuất bản đại học quốc gia Hà Nội, 2001. Đề án đẩy mạnh thu hút đầu tư trực tiếp của Hoa Kỳ nhằm triển khai thực hiện Hiệp định Thương mại Việt Nam – Hoa Kỳ, Bộ kế hoạch và đầu tư, 9/2002. Đinh Quý Độ, Chính sách kinh tế của Mỹ đối với khu vực Châu á- Thái Bình Dương kể từ sau chiến tranh lạnh, Nhà xuất bản chính trị quốc gia. Kinh tế thế giới 2001-2002, thời báo kinh tế Việt Nam, 3/2002 Việt Nam trong khu vực Châu á - Thái Bình Dương, Kinh tế Châu á - Thái Bình Dương,4/2002. Châu Mỹ ngày nay, số 1,2,4,8 năm 2002 Quan hệ kinh tế Việt Nam – Hoa Kỳ, Nhà xuất bản chính trị quốc gia, 8/1999. Nguyễn Anh Tuấn, Quan hệ kinh tế giữa Mỹ, Nhật và Việt Nam từ 1995 đến nay, Nhà xuất bản chính trị quốc gia, 9/2000. Lê Văn Sang, Chiến lược kinh tế của Mỹ đối với khu vực Châu á - Thái Bình Dương, Tạp chí châu Mỹ ngày nay, 4/1996. Nguyễn Xuân Thắng, Lợi ích và sự điều chỉnh chiến lược kinh tế Châu á - Thái Bình Dương của Mỹ, Tạp chí những vấn đề kinh tế thế giới, 4/1995. Thời báo kinh tế Việt Nam số 8,27 năm 2002. Báo cáo của Vụ đầu tư nước ngoài, Bộ kế hoạch đầu tư, 20/3/2003. Báo cáo tổng kết kinh tế đối ngoại, Văn phòng chính phủ, ngày 30/9/1999 Báo cáo tổng kết tình hình thực hiện chủ trương thực hiện và sử dụng vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, Bộ kế hoạch và đầu tư, 9/1999. Mục lục Trang ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc37034.doc
Tài liệu liên quan