FDI & vấn đề việc làm

Lời mở đầu Thế kỷ 21 đã mở ra một thời kỳ phát triển mới cho toàn cầu, một thế giới đầy sôi động của quá trình toàn cầu hoá. Điều đó đã thúc đẩy các nước tích cực gia nhập vào các tổ chức quốc tế như: WTO (tổ chức thương mại quốc tế), OECD (tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế), APEC (diễn đàn hợp tác kinh tế châu á thái bình dương)...một loạt các hợp tác, đối tác được ký kết giữa các quốc gia tạo điều kiện cho việc phát triển kinh tế-xã hội, giao lưu buôn bán giữa các nước trong thời kỳ mở cử

doc28 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1798 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu FDI & vấn đề việc làm, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
a. Đây là yếu tố hình thành vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI), một nguồn vốn có vai trò quan trọng thúc đẩy quá trình CNH-HĐH của các nước đang phát triển, giải quyết một phần công ăn việt làm cho người lao động. Đối với Việt Nam, một nước đi lên từ một nền nông nghiệp lạc hậu, điều kiện kinh tế còn nghèo nàn, cơ sở vật chất- kỹ thuật còn thiếu thốn, vậy mà mới chỉ đổi mới thật sự sau năm 1986. Do đó, vấn đề đặt ra là: bằng mọi cách phải đưa nước ta theo kịp với trình độ phát triển của thế giới, biến nước ta trở thành một nước có nền công nghiệp vững vàng về mọi mặt nhưng cũng chỉ duy trì một tỷ lệ thất nghiệp cho phép. Bởi vấn đề tạo việc làm cho người lao động ở nước ta trong tiến trình toàn cầu hoá đặt ra nhiều khó khăn và thách thức lớn. Để giải quyết vấn đề này không chỉ là yêu cầu trước mắt mà đó là cả vấn đề lâu dài cần phải có nhiều giải pháp. Một trong các cách để giải quyết công ăn việc làm, giảm thất nghiệp đó là: Xây dựng môi trường đầu tư thuận lợi để từ đó có thể thu hút được các nguốn vốn đầu tư của nước ngoài đặt biệt là FDI. Bởi vậy trong khuôn khổ của đề án này sẽ tập trung nghiên cứu: “Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) với vấn đề tạo việc làm cho người lao Việt Nam trong tiến trình toàn cầu hóa. Nội dung của đề án gồm 3 phần: Phần I: ý nghĩa của đầu tư trực tiếp nước ngoài và tạo việc làm cho người lao động Việt Nam trong tiến trình toàn cầu hoá Phần II: Phân tích trực trạng về hiệu qủa đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) với vấn đề tạo việc làm cho người lao động Việt Nam trong tiến trình toàn cầu hoá. Phần III: Các giải pháp nhằm đẩy mạnh đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) để tạo việc làm cho người lao động Việt Nam trong tiến trình toàn cầu hoá Để hoàn thành đề án này em xin chân thành cảm ơn các thầy, các cô trong khoa Kinh tế Lao động và dân số trường Đại Học Kinh Tế Quốc Dân và đặc biệt với sự giúp đỡ tận tình của GS. TS Phạm Đức Thành đã giúp em hoàn thành đề án này. Em xin chân thành cảm ơn. Nội dung Phần I Lý luận chung về đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) với vấn đề tạo việc làm cho người lao động Việt Nam trong tiến trình toàn cầu hoá. I.Khái niệm đầu tư và đầu tư trực tiếp 1. Khái niệm đầu tư: Hoạt động đầu tư là quá trình huy động và sử dụng mọi nguồn vốn phục vụ sản xuất, kinh doanh nhằm sản xuất sản phẩm hay cung cấp dịch vụ đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của cá nhân và xã hội (theo Vũ Chí Lộc) Hoặc theo giáo trình Kinh tế đầu tư thì: Đầu tư là sự bỏ ra, sự hi sinh các nguồn lực ở hiện tại. Nguồn lực này có thể là tiền, sức lao động, trí tuệ...nhằm đạt được những kết quả có lợi cho người đầu tư trong tương lai. Qua hai khái niệm trên ta có thể hình dung được thế nào là đầu tư và đặc trưng cơ bản của đầu tư, đó là phải có sinh lời khi chủ đầu tư bỏ vốn kinh doanh và thời gian kéo dài từ lúc bỏ vốn đến lúc thu hồi vốn. Bởi trong quá trình đầu tư không phải một sớm, một chiều mà chủ đầu tư có thể thu hồi được vốn, đối với những loại đầu tư kinh doanh bất động sản, sản xuất kinh doanh... thì thời gian quay vòng vốn là rất lâu do vậy thời gian đầu tư là phải kéo dài. Đối với một doanh nghiệp, hoạt động đầu tư là công việc khởi đầu quan trọng nhất và khó khăn nhất của quá trình sản xuất, kinh doanh. Những quyết định của ngày hôm nay về lĩnh vực, quy mô hình thức, thời điểm đầu tư sẽ chi phối quá trình hoạt động và phát triển của doanh nghiệp trong tương lai. Do đó, chất lượng của các quyết định đầu tư sẽ quyết định sự thịnh vượng hay xuống dốc của doanh nghiệp. Đối với nền kinh tế nói chung, toàn bộ việc đầu tư được tiến hành ở một thời kỳ nhất định là nhân tố cơ bản duy trì và phát triển cơ sở vật chất kỹ thuật của nền kinh tế tạo ra sản phẩm hàng hoá và dịch vụ, giải quyết công ăn việc làm, đáp ứng nhu cầu của nền kinh tế trong thời kỳ tiếp theo. Xét về lâu dài, khối lượng đầu tư của ngày hôm nay sẽ quyết định dung lượng sản xuất, tốc độ tăng trưởng kinh tế, mức độ cải thiện đời sống trong tương lai. 2.Đầu tư nước ngoài trực tiếp. Trong các nguồn vốn đầu tư nước ngoài thì nguồn vốn đầu tư trực tiếp FDI có vai trò quan trọng và chiếm tỷ trọng khá lớn (khoảng 30% số vốn đã thực hiện), hiện nay tỷ trọng này đang có xu hướng ngày một tăng lên. Sự gia tăng này đang có xu hướng ngày một tăng lên. Sự gia tăng này không chỉ bắt nguồn từ sự hùng mạnh của các công ty đa quốc gia và chiến lược phát triển mở rộng đầu tư của các công ty này mà còn ở chỗ nó là hình thức đầu tư được thực tế xác nhận là có hiệu quả cao và phù hợp với nhu cầu tăng trưởng nhanh của các nước nghèo, trong đó có Việt Nam. Theo quan niệm của OECD (tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế) thì các nguồn tài trợ của nước ngoài bao gồm: - Tài trợ phát triển chính thức: ODF (Official Development Finance) bao gồm viện trợ phát triển chính thức ODA (Offical Development Assistance) và các hình thức ODF khác, song phương cũng như đa phương. - Tín dụng xuất khẩu - Tài trợ tư nhân bao gồm vay từ ngân hàng quốc tế, vay tín phiếu, đầu tư trực tiếp, các nguồn tài trợ tư nhân khác, viện trợ cho không của các tổ chức phi chính phủ. Như vậy, theo quan niệm của tổ chức này đầu tư trực tiếp là một trong những nguồn tài trợ tư nhân. Nhưng trong thực tế đầu tư thời gian qua chúng ta thấy rằng, chủ thể của FDI không chỉ có duy nhất tư nhân mà còn có nhà nước và các tổ chức phi chính phủ khác. Xét về bản chất đầu tư nước ngoài là hình thức xuất khẩu tư bản, một hình thức cao hơn của xuất khẩu hàng hoá và đây là hai hình thức xuất khẩu bổ xung và hỗ trợ cho nhau trong chiến lược thâm nhập và chiếm lĩnh thị trường của các công ty, tập đoàn kinh tế nước ngoài. Nhiều trường hợp, hoạt động buôn bán hàng hoá tại nước sở tại là bước đi tìm hiểu thị trường, tìm hiểu luật lệ để đi đến quyết định đầu tư trực tiếp là điều kiện để xuất khẩu máy móc, nguyên vật liệu và khai thác tài nguyên, tạo việc làm cho các lao động của nước chủ nhà. 3. Các hình thức đầu tư trực tiếp nước ngoài. Hiện nay có ba hình thức đầu tư trực tiếp nước ngoài là chủ yếu sau đây: -Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài; -Doanh nghiệp liên doanh; -Hợp tác kinh doanh trên cơ sở hợp đồng hợp tác kinh doanh. Hợp đồng hợp tác kinh doanh theo qui định điều 7 nghị định 12/CP 'Hợp đồng hợp tác kinh doanh là văn bản kí kết quả hai bên hay nhiều bên qui định trách nhiệm và phân chia kết quả kinh doanh cho mỗi bên để tiến hành đầu tư kinh doanh ở Việt nam mà không cần thành lập pháp nhân. Hình thức này có đặc điểm: -Không ra đời một pháp nhân mới -Cơ sở của hình thức này là hợp đồng hợp tác kinh doanh. Trong hợp đồng nội dung chính phản ánh trách nhiệm quyền lợi giữa các bên với nhau (không cần đề cập đến việc góp vốn). -Thời hạn của hợp đồng do các bên thoả thuận phù hợp với tính chất mục tiêu kinh doanh và được các cơ quan cấp giấy phép kinh doanh chuẩn y. -Hợp đồng phải do đại diện có thẩm quyền của các bên kí. Trong quá trình hợp tác kinh doanh các bên giữ nguyên tư cách pháp nhân của mình. *Doanh nghiệp liên doanh: Theo khoản 2 diều 2 luật đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt nam qui định "Doanh nghiệp liên doanh là doanh nghiệp do hai hay nhiều bên hợp tác thành lập tại VN trên cơ sở hợp đồng liên doanh hoặc hiệp định kí giữa Chính phủ nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt nam và Chính phủ nước ngoài hoặc doanh nghiệp có vốn nước ngoài hợp tác với doanh nghiệp Việt nam trên cơ sở hợp đồng liên doanh. Hình thức này có đặc điểm: -Thành lập pháp nhân mới hoạt động trên nguyên tắc hạch toán độc lập dưới hình thức công ty trách nhiệm hữu hạn. -Phần góp vốn của bên hoặc các bên nước ngoài không hạn chế mức tối đa nhưng tối thiểu không được dưới 30% vốn pháp định thông thường bên nước ngoài là 70% và bên Việt Nam là 30% vốn pháp định. -Cơ quan lãnh đạo cao nhất của doanh nghiệp liên doanh là hội đồng quản trị mà thành viên của Hội đồng quản trị do mỗi bên chỉ định tương ứng với tỷ lệ góp vốn của các bên nhưng ít nhất phải là 2 người, Hội đồng quản trị có quyền quyết định những vấn đề quan trọng trong hoạt động của doanh nghiệp theo nguyên tắc nhất trí. -Các bên tham gia liên doanh phân chia kết quả kinh doanh theo tỷ lệ góp vốn của mỗi bên trong vốn pháp định hoặc theo thoả thuận giữa các bên. Thời hạn hoạt động không quá 50 năm trong trường hợp đặc biệt được kéo dài không quá 20 năm. *Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài: Theo điều 26 nghị định 12/CP qui định:"Doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài là doanh nghiệp thuộc sở hữu của nhà đàu tư nước ngoài thành lập tại Việt nam tự quản lý và tự chịu trách nhiệm về kết quả hoạt động kinh doanh ". Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài được thành lập theo hình thức công ty trách nhiệm hữu hạn có tư cách pháp nhân theo pháp luật Việt nam. Thời hạn hoạt động không quá 50 năm kể từ ngày được cấp giấy phép. *Hợp đồng xây dựng - kinh doanh- chuyển giao (BOT): Theo điều 12 khoản 2 luật đầu tư nước ngoài tại Việt nam: "Hợp đồng xây dựng- kinh doanh- chuyển giao là văn bản kí giữa cơ quan có thẩm quyền của Việt nam và nhà đầu tư nước ngoài đề xây dựng kinh doanh công trình kết cấu hạ tầng trong thời hạn nhất định, hết thời hạn nhà đầu tư nước ngoài chuyển giao không bồi hoàn công trình đó cho nhà nước Việt nam" *Hợp đồng xây dựng -chuyển giao -kinh doanh là văn bản kí kết giữa cơ quan nhà nước có thẩm quyền của Việt nam và nhà đầu tư nước ngoài xây dựng công trình kết cấu hạ tầng. Sau khi xây dựng xong nhà đầu tư nước ngoài chuyển giao công trình đó cho nhà nước Việt nam. Chính phủ Việt nam dành cho nhà đầu tư kinh doanh trong một thời hạn nhất định để thu hồi vốn đầu tư và lợi nhuận hợp lý *Hợp đồng xây dựng- chuyển giao(BT): Theo khoản 13 điều 2 luật đầu tư nước ngoài tại Việt nam "Hợp đồng xây dựng chuyển giao là hợp đồng kí kết giữa cơ quan nhà nước có thẩm quyền của Việt nam và nhà đầu tư nước ngoài để xây dựng kết cấu hạ tầng. Sau khi xây xong nhà đầu tư nước ngoài chuyển giao công trình đó cho nhà nước Việt nam. Chính phủ Việt nam tạo điều kiện cho nhà đầu tư nước ngoài thực hiện các dự án khác để thu hồi vốn đầu tư và lợi nhuận hợp lý". 4. Tạo việc làm. +Việc làm ( theo quy định của Bộ Luật Lao Động ) là những hoạt động có ích không bị pháp luật ngăn cấm và đem lại thu nhập cho người lao động. +Người có việc làm: Là người làm việc trong mọi lĩnh vực ngành nghề, dạng hoạt động có ích, không bị phát luật ngăn cấm, mang lại thu nhập để nuôi sống bản thân và gia đình, đồng thời đóng góp một phần cho xã hội. +Tạo việc làm: Là hoạt động kiến thiết cho người lao động có được một công việc cụ thể, mang lại thu nhập cho họ và không bị pháp luật ngăn cấm. Người tạo ra công việc cho người lao động có thể là Chính phủ, thông qua các chính sách, hoặc có thể là một tổ chức hoạt động kinh tế (các công ty, các doanh nghiệp, các tổ chức hoạt động sản xuất kinh doanh...) và những cá nhân thông qua hoạt động thuê mướn nhân công. II. FDI với vấn đề tạo việc làm cho người lao động Việt Nam trong tiến trình toàn cầu hoá hiện nay. 1. Toàn cầu hoá với vấn đề tạo việc làm cho người lao động Việt Nam hiện nay. 1.1. Khái niệm toàn cầu hoá. Theo Trần Việt Phương thì: “Toàn cầu hóa kinh tế là những mối quan hệ kinh tế vượt qua biên giới quốc gia vươn tới quy mô toàn thế giới đạt trình độ và chất lượng mới”. Theo nghị quyết Đại Hội Đảng Bộ toàn quốc IX thì: “ Toàn cầu hoá là sự tự do hoá thương mại, thị trường. Toàn cầu hoá đó là tiến trình toàn cầu toàn cầu hoá về kinh tế, chính trị, văn hoá- xã hội được đẩy nhanh bởi công nghệ tin học và viễn thông”. Như vậy, toàn cầu hoá trước hết nó phải là một mối quan hệ kinh tế, chính trị, văn hoá- xã hội nhưng những mối quan hệ này phải vượt ra khỏi biên giới một quốc gia, nghĩa là nó phải có sư thông thương về một trong các lĩnh vực trên với các nước khác. Nếu nó chỉ đơn thuần ở một quốc gia thì đây không thể gọi là toàn cầu hoá được. Trước kia, thời kỳ kế hoạch hoá tập trung bao cấp, nền kinh tế nước ta gần như đóng cửa hoàn toàn hầu như không giao lưu buôn bán với một nước nào (ngoài một số nước XHCN). Do vậy ngoại thương nước ta phát triển ở một mức độ cực kỳ thấp và đây chính là nguyên nhân khiến nền kinh tế nước ta trì trệ, chậm phát triển. Nhưng với quá trình phát triển của thế giới yêu cầu về giao lưu buôn bán, trao đổi trên thế giới đã phá bỏ cơ chế cũ và thay vào đó là cơ chế quản lý theo kiểu cơ chế thị trường. Thực tế từ năm 1986 đến nay nước ta đang ngày một đổi mới và phát triển, tuy với tốc độ phát triển chưa cao xong cũng đã đáp ứng phần nào yêu cầu của quá trình hội kinh tế trong khu vực và trên thế giới hiện nay. 1.2. Tính tất yếu của quá trình toàn cầu hoá. Toàn cầu hoá đã và đang là một xu hướng tất yếu trong quá trình phát triển của thế giới. Với quá trình phân công lao động quốc tế càng ngày đi vào chiều sâu và sự phát triển nhanh chóng của khoa học- công nghệ đã đẩy nhanh quá trình quốc tế hoá nền kinh tế thế giới. Quá trình này được thể hiện rất rõ trong sự gia tăng rất nhanh của trao đổi quốc tế về thương mại, dịch vụ tài chính. Cùng với sự hình thành các khu thương mại tự do và các khối liên kết trên thế giới như các tổ chức WTO, OECD, APEC, WB (ngân hàng thế giới), IMF (quỹ tiền tệ quốc tế).Thế giới đang sống trong quá trình toàn cầu hoá mạnh mẽ. Toàn cầu hoá kinh tế tạo ra những quan hệ kinh tế gắn bó, tác động lẫn nhau, phụ thuộc lẫn nhau của tất cả các khu vực, các quốc gia, các dân tộc trên thế giới, nó giúp các quốc gia trên thế giới hiểu biết nhau, bổ xung và hỗ trợ cho nhau. Tuy nhiên, toàn cầu hoá có tính chất hai mặt, nó vừa mang tính hợp tác, vừa mang tính cạnh tranh giữa các quốc gia không chỉ giữa các nước phát triển với nhau mà cả giữa các nước phát triển với các nước đang phát triển. Vì thế, toàn cầu hóa tạo ra cho các quỗc gia những cơ hội và thách thức trong vấn đề tạo việc làm cho người lao động, giải quyết tình trạng thất nghiệp đang ngày một tăng, đặc biệt ở các nước đang phát triển Đối với Việt Nam, nhận thức được xu hướng tất yếu của toàn cầu hoá nên đã chủ động hội nhập kinh tế quốc tế nhằm mở rộng thị trường, tranh thủ thêm vốn, công nghệ, kiến thức quản lý để có thể tạo ra nhiều khu công nghiệp, khu chế xuất hoặc có thể thu hút các nhà đầu tư nước ngoài vào đầu tư trực tiếp. Khi đó cầu về lao động sẽ tăng lên, đây chính là yếu tố có thể tạo ra nhiều việc làm cho người lao động kể cả những lao động không có chuyên môn. Trong thời gian qua, chúng ta đã tiến hành hội nhập ở nhiều mức độ và nhiều lộ trình khác nhau. ở mức độ đơn phương, năm 1998 Việt Nam tiến hành cải cách kinh tế và thương mại một cách động lập không phụ thuộc vào các cam kết quốc tế như cải cách tỷ giá hối đoái, cắt giảm thuế xuất khẩu và nhập khẩu, bãi bỏ độc quyền ngoại thương của nhà Nước, trao quyền tham gia hoạt động xuất nhập khẩu cho các địa phương và các doanh nghiệp, kể cả doanh nghiệp tư nhân. Cụ thể: - Ngày 25/7/1995 Việt Nam trở thành thành viên chính thức của hiệp hội các quốc gia Đông Nam á (ASEAN). - Ngày 15/6/1996 ta gửi đơn xin gia nhập Diễn đàn hợp tác kinh tế Châu á- Thái Bình Dương (APEC) và tháng 11/ 1998 đã trở thành viên chính thức của tổ chức này. Tháng 3/1996, ta đã gia với tư cách thành viên sáng lập Diễn đàn hợp tác á-Âu (ASEM). - Năm 1995, Việt Nam chính thức đề nghị gia nhập WTO, và hiện nay đang thực hiện nhiều biện pháp để mau chóng trở thành thành viên của WTO. - Ngày 15/12/1995,Việt Nam chính thức tham gia tổ chức AFTA (khu mậu dịch tự do ASEAN) bằng việc ký Nghị định thư tham gia hiệp định về Chương trình thuế quan ưu đãi hiệu lực chung (CEPT). Hiệp định CEPT quy định các nước thành viên ASEAN sẽ thực hiện lịch trình cắt giảm thuế nhập khẩu hàng hoá có xuất xứ ASEAN theo lộ trình trong vòng 15 năm với mức thuế xuất cuối cùng là 0-5%. Việt Nam bắt đầu thực hiện CEPT từ ngày 1/11996 và hoàn thành 1/12006. Nhật thấy được tính tất yếu và vai trò quan trọng của toàn cầu hoá như vậy nước ta đã chủ động tích cực khi tham gia và hội nhập, khi tham gia vào quá trình toàn cầu hoá sẽ tạo cơ hội cho các nhà kinh tế, nhà khoa học Việt Nam tiếp thu tiến bộ khoa học của thế giới, tiếp cận tác phong lao động công nghiệp từ đó chúng ta có thể nâng cao được chất lượng nguồn nhân lực khi tham gia có hiệu quả vào phân công lao động quốc tế, rút ngắn khoảng cách về trình độ chuyên môn kỹ thuật. Khi các nhà đầu tư nước ngoài vào thì số lượng lao động chất lượng cao này sẽ đáp ứng phần nào yêu cầu của họ và tất nhiên sẽ tạo thêm một số công ăn việc làm cho người lao động Ngoài ra hội nhập vào nền kinh tế thế giới thì thị trường lao động sẽ được mở rộng thông qua việc xuất khẩu lao động sang các nước như: Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan...làm cho thị trường lao động của nước ta sôi động hẳn lên. Bởi xuất khẩu lao động vừa tạo ra công ăn việc làm cho người lao động vừa góp phần cải thiện và nâng cao đời sống của xã hội. Tính đến năm 2001 đã có 310.000 lao động và chuyên gia Việt Nam sang làm việc làm việc tại 40 và vùng lãnh thổ với hơn 30 nhóm nghề khác nhau. Năm 2002 đã đưa 46.120 người đi làm việc tại nước ngoài, tăng 24,46% so với năm trước và tăng 21,37% so với kế hoạch, trong đó có 13.200 lao động sang Đài Loan, 20.000 lao động sang Hà Quốc. Xuất khẩu lao động ra thị trường đã trở thành động lực quan trọng thúc đẩy phát triển hệ thống đào tạo việc làm, nâng c0ao chất lượng nguồn nhân lực. 2. FDI đối với vấn đề tạo việc làm cho lao động Việt Nam trong tiến trình toàn cầu hoá hiện nay. 2.1. Vai trò của FDI. Hơn 10 năm kể từ khi ban hành luật đầu tư nước ngoài ở Việt Nam, đầu tư trực tiếp nước ngoài đã trở thành một hoạt động kinh tế không thể thiếu được, có tốc độ phát triển nhanh nhất trong các hoạt động kinh tế đối ngoại của nước ta đóng góp tích cực và ngày càng lớn vào sự phát triển kinh tế xã hội của đất nước, là một nhân tố góp phần vào thành công của công cuộc đổi mới kinh tế, giải quyết việc làm cho người lao động, giảm bớt gánh nặng cho xã hội. Hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài mang lại lợi ích cho cả hai bên là bên đầu tư và bên tiếp nhận đầu tư. Đặc biệt là ở các nước đang phát triển khi tiếp nhận đầu tư sẽ giải quyết được các vấn đề: -FDI tăng cường vốn đầu tư bù đắp sự thiếu hụt về ngoại tệ góp phần tăng khả năng cạnh tranh và tăng xuất khẩu, bù đắp cán cân thanh toán -FDI góp phần giải quyết việc làm, tăng thu nhập cho người lao động tạo điều kiện tích luỹ trong nước. -FDI sẽ chuyển giao công nghệ kỹ thuật hiện đại, kỹ xảo chuyên môn, trình độ quản lý tiên tiến cho nước tiếp nhận đầu tư. Xét về lâu dài điều này sẽ góp phần tăng năng suất của các yếu tố sản xuất, thúc đẩy các ngành nghề mới đòi hỏi hàm lượng công nghệ cao như điện tử tin học... Chính vì vậy nó có tác dụng lớn đối với quá trình công nghiệp hoá, chuyển dịch cơ cấu kinh tế tăng trưởng nhanh của nước nhận đầu tư. -Ngày nay đầu tư trực tiếp nước ngoài trở thành một tất yếu khách quan trong điều kiện quốc tế háo nên sản xuất lưu thông. Các quốc gia trên thế giới dù có thể chế chính trị khác nhau đều cần đến vốn đầu tư nước ngoài và coi đó là một nguồn lực cần khai thác. Bên cạnh đó đối với chính sách nước đang phát triển là chủ nhà còn có những hạn chế như: vấn đề quản lý vốn, do chủ đầu tư có nhiều kinh nghiệm nểntánh được sự quản lý của nước sở tại, tình trạng gian lận thuế, buôn lậu thuế, ô nhiễm môi trường... Tuy nhiên với vai trò to lớn của FDI để phát huy những tích cực và khắc phục hạn chế các nước đang phát triển cần đưa ra chính sách phù hợp đồng thời thu hút nhiều FDI vào hơn. 2.2. Tác động của FDI với tạo việc làm. Lý thuyết về lợi ích của đầu tư nước ngoài Hợp tác đầu tư nước ngoài chỉ có thể thành công khi có sự gặp gỡ về lợi ích của cả hai bên. Sử dụng sản phẩm cận biên của vốn đầu tư nước ngoài làm công cụ chính, ngay từ năm 1960 Mác Dougall đã chỉ ra rằng sự tăng vốn đầu tư FDI vừa làm tăng sản phẩm đầu ra vừa phân phối lại thu nhập giữa nhà đầu tư trong nước và người lao động. y G F E D H I J K A B C L x Hình 1: Mô hình Mác Dougall về FDI. Trong hình 3 vốn cổ phần đầu tư là AC, trong đó AB là vốn cổ phần của nhà đầu tư trong nước và BC là của nhà đầu tư nước ngoài. Gía trị đầu ra là GDCA; thu nhập của chủ đầu tư trong nước là FEBA, của chủ đầu tư nước ngoài là EDCB, của người lao động là GDF. Khi vốn FDI tăng từ BC đến BL sẽ có những tác dụng sau đây: Thu nhập của nhà đầu tư nước ngoài bây giờ là IKLB (phần đầu tư mới nhận JKLC và đầu tư cũ giảm đi EDJI do tỷ xuất lợi nhuận giảm dần được biểu hiện qua sản phẩm cận biên của vốn Ay). Nhà đầu tư trong nước giảm thu nhập FEHI và người lao động hưởng phần FDKH. Như vậy, tổng cộng nước chủ nhà thu nhập EDKI. Phần thu nhập của người lao động tăng thêm nhiều hơn ngoài DKJ là do phân phối lại từ nguồn vốn đầu tư cũ. Như vậy, đầu tư trực tiếp nước ngoài vào vừa tạo ra thu nhập cho nhà đầu tư trong nước và nước ngoài, vừa tạo ra công ăn việc làm tăng thu nhập cho người lao động. 2.2.2. Tác động của FDI trong vấn đề tạo việc làm. Trong thời gian gần đây, vai trò của FDI trong tạo việc làm và thu nhập của người lao động được nhiều người quan tâm và nghiên cứu. Từ xưa các nhà kinh tế học cổ điển như Adam Smith hay Ricardo, Keynes... cũng đã đề cập đến vấn đề này. Đối với Smith thì ông cho rằng có một mối quan hệ trực tiếp giữa đầu tư và việc làm. Trong “ những nguyên lý” của mình thì Ricardo đã có những ý kiến về vấn đề này và ông chỉ ra rằng “ Sự phát hiện và sử dụng máy móc có thể đi kèm với sự gia tăng của tổng sản phẩm sản xuất ra và bất kỳ trong trường hợp nào việc này cũng ảnh hưởng đến lực lượng lao động bởi vì một số người trong số họ sẽ mất việc làm”. Điều này được phản ánh rất rõ nét trong thời đại hiện nay, vì với sự phát triển của khoa học và kỹ thuật thì máy móc đã được áp dụng phổ biến trong sản xuất. Nó đã thay thế dần hình thức lao động thủ công, đây là sự khác biệt chủ yếu của thời kỳ công nghệ máy móc so với thời kỳ trước nó. Khi đã có sự áp dụng máy móc vào sản xuất thì số lượng lao động dư thừa sẽ tăng lên do một số công việc đã được máy móc đảm nhiệm và thay thế với sự chính xác cao và rút ngắn thời gian hao phí sức lao động tính trên một đơn vị sản phẩm đi rất nhiều khi chưa có sự áp dụng máy móc. Đối với Keynes ông đã phát triển học thuyết của Adam Smith và trong “lý thuyết chung về tiền tệ, lãi suất và việc làm”. Ông đã nhận thức rõ mối quan hệ trực tiếp giữa đầu tư và việc làm và ông đã đưa ra kết luận “ Việc làm chỉ có thể tăng tương ứng với sự tăng lên của đầu tư nếu không có sự thay đổi trong khuynh hướng tiêu dùng”. Nghĩa là việc làm là biến phụ thuộc, đầu tư và tiêu dùng là 2 biến giải thích. Việc làm chỉ tăng lên khi đầu tư tăng lên hoặc khi người dân có sự thay đổi trong tiêu dùng. Những kết luận như “mũi kim chỉ nam” đã giúp cho các thế hệ sau này có những đường đi đúng hướng khi nhận thấy vai trò quan trọng của đầu tư ( nhất là đầu tư trực tiếp từ nước ngoài) trong vấn đề tạo và giải quyết việc làm cho người lao động. Hiện nay FDI đã tạo ra khoảng 73 triệu việc làm trên toàn thế giới, chiếm 3% tổng lực lượng lao động trên toàn thế giới. Người ta cũng xác định rằng đối với mỗi việc làm do FDI trực tiếp tạo ra thì lại gián tiếp tạo ra một đến hai việc làm gián tiếp khác. Trên cơ sở này tổng số việc làm do FDI tạo ra ít nhất vào khoảng 150 triệu. Tuy nhiên ở các nước đang phát triển FDI tạo ra 12 triệu việc làm chiếm 2% lực lượng lao động cộng thêm với 12 triệu lao động gián tiếp nữa làm cho tỷ lệ này tăng lên 4%. Rõ ràng sự đóng góp của FDI hiện nay trong tạo việc làm về mặt số lượng hầu như không lớn. Tuy nhiên nhiều nhà kinh tế lạc quan về triển vọng của FDI trong tạo việc làm.( theo TS. Bùi Anh Tuấn). Tóm lại, qua những nghiên cứu của các nhà học thuyết kinh tế học từ trước tới nay ta thấy được tầm quan trọng của FDI đối với vấn đề tạo việc làm, nhất là đối với các nước đang phát triển. Mặc dù FDI không trực tiếp tạo ra nhiều việc làm nhưng ta cũng có thể khai thác nó để phục vụ cho quá trình giải quyết công ăn việc làm cho người lao động nhất là trong quá trình toàn cầu hoá hiện nay. Qua nghiên cứu cũng có thể thấy được rằng: chỉ cần tăng lượng vốn đầu tư và mức vốn đầu tư /việc làm thì có thể tăng được cơ số việc làm. Do đó vấn đề đặt ra là phải thu hút được nhiều vốn FDI thì mới tạo ra được nhiều việc làm, để làm được điều này thì không phải là vai trò của Nhà nước, các cơ quan đoàn thể từ Trung Ương tới địa phương mà cả bản thân những người lao động phải không ngừng nâng cao trình độ tay nghề và chuyên môn nghiệp vụ thì mới đáp ứng được yêu cầu của các chủ đầu tư nước ngoài. Phần II Phân tích thực trạng về hiệu quả hiệu quả đầu tư trực tiếp nước ngoài ( FDI) với vấn đề tạo việc làm cho người lao động Việt Nam trong tiến trình toàn cầu hoá. II. Thực trạng đầu tư nước ngoài tại Việt Nam trong tiến trình toàn cầu hoá hiện nay 1. Về giấy phép đầu tư 1.1. Tình hình cấp giấy phép đầu tư Tính đến ngày 31/12/1999, đã có 2.810 dự án được cấp giấy phép đầu tư với tổng số vốn đầu tư ( vốn đăng ký ban đầu + vốn đâu tư tăng thêm ) là 40,92 tỷ USD, trong đó 2290 dự án còn thiếu hiệu lực, vốn đằng ký trên 35,5 tỷ USD. Số dự án đã hết hạn là 24 dự án với tổng số vốn là 0,13 tỷ USD, số dự án đã giải thể là 496 dự án với tổng số vốn là 5,54 tỷ USD 1.2. Tình hình thực hiện giấy phép đầu tư Từ 1998 đến nay, đã có 1453 dự án thực hiện góp vốn. Tuy nhiên, do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính- tiền tệ trong khu vực, đầu tư nước ngoài trong 6 tháng cuối năm 1997 và năm 1998 có xu hướng giảm. Một số dự án đã được cấp giấy phép cũng tạm ngừng triển khai hoặc có khả năng thực hiện vốn đầu tư hoặc phải thu hẹp hoạt động hay chuyển nhượng, đặc biệt là các dự án trong lĩnh vực kinh doanh bất động sản. Về hình thức đầu tư, có 1265 dự án liên doanh chiếm 57,60% tổng số dự án, 817 dự án 100% vốn nước ngoài chiếm 37,20% tổng số dự án và 114 dự án đầu tư theo hình thức hợp đồng hợp tác kinh doanh chiếm 5,20% tổng số dự án. Trong các dự án đầu tư theo hình thức hợp đồng hợp tác kinh doanh và doanh nghiệp liên doanh, đối tác Việt Nam chủ yếu là doanh nghiệp nhà nước ( chiếm 90% tổng số các doanh nghiệp và 95% tổng số vốn đăng ký của các doanh nghiệp liên doanh). Đối tác đầu tư vào Việt Nam cho đến nay từ 65 nước và lãnh thổ, các nhà đầu tư Singapore đứng đầu danh sách đầu tư vào Việt Nam với 190 dự án với tổng số vốn đăng ký là 6.776 tr.USD, tiếp theo là Đài Loan, Nhật Bản, Hàn Quốc... Về cơ cấu các nghành kinh tế: các dự án công nghiệp chiếm một tỷ trọng lớn cả về số vốn đầu tư và số dự án, trên cả các dự án khách sạn, căn hộ, văn phòng cho thuê là lĩnh vực thời kỳ đầu chiếm tỷ trọng cao nhất, trong khi các dự án đầu tư vào lĩnh vực nông lâm nghiệp chiếm chiếm một tỷ trọng rất nhỏ. Nhưng từ năm 1996 trở đi, các dự án thuộc lĩnh vực công nghiệp đã tăng đáng kể và công nghiệp FDI năm 1997 đạt mức tăng trưởng 23,5% cao hơn nhiều mức tăng trưởng của công nghiệp nói chung là 14%. Trong năm 1998 và 6 tháng đầu năm 1999 công nghiệp FDI vẫn đạt mức tăng trưởng trên 20% trong khi cả ngành công nghiệp chỉ đạt mức tăng trưởng gần 13%. Về cơ cấu vùng, lãnh thổ, đứng đầu là Thành phố Hồ Chính Minh, sau đó là Hà Nội, Đồng Nai (ba tỉnh thành phố này có tỷ trọng vốn đầu tư FDI chiếm tới 61,31 tổng số vốn đầu tư FDI của cả mức), tỷ trọng đầu tư vào các tỉnh phía Bắc chiếm khoảng 35%, vào các tỉnh phía Nam chiếm khoảng 50% và các tỉnh miền Trung chiếm khoảng 15%. 2.Quá trình thực hiện vốn đầu tư FDI và tình hình tạo việc làm do FDI tạo ra. 2.1. Tình hình đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam (1993- 1998) Trong hơn một thập kỷ qua, đầu tư FDI đã đóng góp quan trọng vào sự phát triển của các ngành công nghiệp trong nước. Từ năm 1992, lượng vốn FDI đăng ký đã gia tăng một cách nhanh chóng mà đỉnh điểm là năm 1996 với tổng số vốn đầu tư đăng ký lên tới 8,6 tỷ USD. FDI trong những năm gần đây đã chiếm hơn1/4 tổng số vốn đầu tư của cả nước, đóng góp 34% vào tổng sản lượng công nghiệp và 23% kim ngạch xuất khẩu. Tính đến cuối 2002 các nhà đầu tư từ hơn 50 quốc gia khác nhau đã có mặt tại Việt Nam bao gồm cả Châu á, châu Âu và châu Mỹ. Đây là một cơ hội thuận lợi cho Việt Nam trong vấn đề giải quyết việc làm cho người lao động trong tiến trình toàn cầu hoá. Số vốn đầu tư thực hiện từ 1998 đến nay đạt gần 15 tỷ USD, đưa tỷ lệ vốn đầu tư thực hiện đạt 42,25% trên tổng số vốn đăng ký. Sở dĩ chỉ đạt một con số khiêm tốn như thế là do phần lớn dự án đầu tư đang trong giai đoạn triển khai ban đầu, nói chung một dự án triển khai phải mất từ 2 đến 3 năm, những dự án quy mô đầu tư lớn như xi măng cần từ 4 đến 5 năm. Cụ thể qua các năm sau: Bảng 1: Tình hình thực hiện vốn đầu qua các năm Đơn vị tính: tr USD Năm 88-91 1992 1993 1994 1995 1996 1997 1998 1999 Số dự án 368 197 227 367 408 367 333 260 306 Số vốn đăng ký (tr.USD) 2876 2036 2652 4017 6616 8258 4445 4060 1611 Số vốn thực hiện (tr.USD) 520 463 1002 1500 2000 3028 2950 1956 1519 Quy mô TB mỗi dự án 7,81 10,98 10,67 10,97 17,65 24 13,5 15,61 5,26 (Nguồn: Bộ tài chính ) Qua bảng trên ta thấy: từ giai đoạn 88- 91 đến năm 1999 số dự án đầu tư tăng không đều cao nhất là năm 1995 sau đó lại có xu hướng giảm dần nhưng đỉnh điểm thu hút vốn đầu tư nước ngoài là năm 1996, không những cả về số vốn đăng ký, số vốn thực hiện mà cả quy mô trung bình mỗi dự án đầu tư cao nhất. Điều đó cho thấy được môi trường thu hút vốn đầu tư của nước ta đã được cải thiện, các bạn hàng trên khắp thế giới đã biết đến Việt Nam và thấy được ở đây có những thuận lợi cho việc đầu tư trực tiếp tư nước ngoài vào như về vị trí địa lý khá thụân lợi năm gần trung tâm của Đông Nam á, tài nguyên thiên nhiên phong phú, giá nhân công rẻ …Mặc dù nước ta đổi mới cớ chế quản lý kinh tế vận hành theo cớ chế thị trường có sự điều tiết của Chính phủ sau 1986, nhưng chỉ sau 10 năm nền kinh tế nước ta có sự biến chuyển đáng kể về mọi mặt. Cũng qua bảng 3 trên ta cũng thấy được sau năm 1996 tình hình đầu tư của nước ngoài vào Việt Nam có xu hướng giảm, điều đó cũng thật dễ hiểu bởi cuộc khủng hoảng tài chính trong khu vực (năm 1998) ít nhiều cũng ảnh hưởng tới tâm lý các nhà đầu tư không muốn đầu tư vào các thị trường thiếu ổn định, đặc biệt là khi có sự khủng hoảng trong kinh tế. Thật đáng mừng, chỉ sau 2 năm kể từ khi có cuộc khủng hoảng tài chính- kinh tế ở Thái Lan thì đến năm 2000 đầu tư FDI v._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docV0679.doc
Tài liệu liên quan