FDI vào Việt Nam

MỞ ĐẨU Từ những thập kỷ 70 của thế kỷ XX lại đây, toàn cầu hoá và khu vực hoá trở thành xu thế tất yếu của thời đại dẫn đến “mở cửa” và “hội nhập” của mỗi quốc gia vào cộng đồng quốc tế trong đó có xu thế phát triển của thị trường thế giới. Xu thế này có liên quan đến sự phân công lao động quốc tế và việc vận dụng lợi thế so sánh giữa các quốc gia trong thương mại giữa các nước với nhau. Trong công cuộc đổi mới của đất nước đặc biệt là từ 1988 đến nay nền kinh tế nước ta đã có nhiều thành tựu t

doc44 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1379 | Lượt tải: 1download
Tóm tắt tài liệu FDI vào Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
o lớn. Với việc hội nhập kinh tế quốc tế, thương mai quốc tế ngày càng phát triển và có đóng góp quan trọng trong phát triển kinh tế.Qua hơn 18 năm thực hiện Luật Đầu tư nước ngoài, khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài ngày càng phát triển và đã có những đóng góp quan trọng vào sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Công tác quản lý đầu tư nước ngoài đã từng bước đi vào nền nếp. Luật Đầu tư nước ngoài của Việt Nam qua một số lần sửa đổi, bổ sung đang được các nhà đầu tư đánh giá là tương đối hấp dẫn so với các nước trong khu vực. Đặc biệt là trong 5 năm qua, thực hiện Nghị quyết số 09/2001/NQ-CP ngày 28 tháng 8 năm 2001của Chính phủ và Chỉ thị số 19/2001/CT-TTg ngày 28 tháng 8 năm 2001 của Thủ tướng Chính phủ về tăng cường thu hút và sử dụng có hiệu quả đầu tư nước ngoài tại Việt Nam giai đoạn 2001 - 2005,và những năm tiếp theo môi trường đầu tư tiếp tục được cải thiện, hạn chế được đà suy giảm vốn đầu tư nước ngoài vào nước ta và gần đây có những dấu hiệu hồi phục. Tuy nhiên, hoạt động đầu tư nước ngoài tại Việt Nam vẫn còn tồn tại một số yếu kém và hạn chế chậm được khắc phục, nhất là trong các khâu quy hoạch, xây dựng pháp luật chính sách, quản lý nhà nước, xúc tiến đầu tư…. Trong khi đó, việc thực hiện Nghị quyết số 09/2001/NQ-CP và Chỉ thị số 19/2001/CT-TTg chưa thực sự triệt để và chưa đem lại hiệu quả cao. Vì thế để đáp ứng vấn đề nêu trên em đã nghiên cứu đề tài: “Đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam” nhằm hiểu rõ hơn và giải đáp một số vấn đề còn tồn tại cần khắc phục. Qua đó em đã đề cập đến tình hình ĐTTTNN vào Việt Nam từ 1988 đến nay, vai trò của nó và những kết qủa đạt được.Từ đó tìm hiểu thêm về những vấn đề đang đặt ra, các hạn chế và đề xuất những định hướng giải pháp khắc phục và tăng cường thu hút, sử dụng hiệu quả nguồn vốn FDI. Để thực hiện được đề tài này em đã tham khảo nhiều tài liệu, tìm thông tin trên mạng internet và nhờ sự hướng dẫn của cô :Nguyễn Thị Thanh Hiếu. Em xin chân thành cảm ơn cô đã giúp đỡ em hoàn thành đề tài. Trong quá trình thực hiện không thể tránh khỏi những thiếu sót, rất mong được sự đóng góp ý kiến của thầy cô giáo. PHẦN HAI NỘI DUNG CHÍNH I-LÝ LUẬN CHUNG VỀ ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI 1-Quan niệm và tính tất yếu khách quan của hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài. 1.1 Quan niệm về đầu tư trực tiếp . Đầu tư trực tiếp là hình thức đầu tư mà quyền sở và quyền sử dụng quản lý vốn của người đầu tư thống nhất với nhau, tức là người có vốn đầu tư trực tiếp tham gia vào việc tổ chức ,, quản lý và điều hành dự án đầu tư, chịu trách nhiệm về kết quả, rủi ro trong kinh doanh và thu lợi nhuận. Ngày nay, trong nền kinh tế thế giới ,hình thức đầu tư trực tiếp vốn là hình thức chủ yếu của các nước phát triển có nền kinh tế phát triển và có xu hướng ngày càng gia tăng, diễn ra ở cả nước phát triển lẫn các nước đang phát triển. Có nhiều hình thức đầu tư trực tiếp như: người đầu tư tự lập xí nghiệp mới, mua hoặc liên kết với xí nghiệp ở nước đầu tư, mua cổ phiếu… Nguồn vốn đầu tư trực tiếp chủ yếu là của doanh nghiệp và tư nhân. Số vốn được coi là đầu tư trực tiếp không giống nhau ở mỗi nước. Có nước quy định 10% cổ phần đã là đầu tư trực tiếp, có nước quy định 25%. Vốn đầu tư trực tiếp thường đem lại hiệu quả cao, nhưng mà chủ nhà cũng dễ bị thua thiệt nếu trình độ quản lý non kém. Các đối tác nước ngoài lợi dụng trình độ quản lý yếu kém đó để nâng giá đầu vào những máy móc thiết bị, vật tư, qua đó nâng thị phần vốn của họ trong thị phần vốn và góp vốn bằng những máy móc đã khấu hao hết và lạc hậu ở nước họ: đồng thời hạ gía bán ở đầu ra, khai báo kinh doanh lỗ để giảm nộp thuế. Quy mô của vốn và số lượng dự án đầu tư trực tiếp phụ thuộc vào ý đồ đầu tư của các chủ đầu tư nước ngoài. Đầu tư quốc tế trực tiếp được thực hiện dưới các hình thức: -Hợp tác kinh doanh trên cơ sở hợp đồng. Hình thức này không cần thành lập một pháp nhân mới. -Xí nghiệp liên doanh mà vốn do hai bên cùng góp theo tỷ lệ nhất định để hình thành xí nghiệp mới có hội đồng quản trị và ban điều hành chung. -Xí nghiệp 100% vốn nước ngoài. -Hợp đồng xây dựng - kinh doanh - chuyển giao (BOT) .Hình thức này đòi hỏi cần có vốn của bên ngoài và thường đầu tư cho các công trình kết cấu hạ tầng . Thông qua các hình thức trên mà các khu chế xuất, khu công nghiệp mới, khu công nghệ cao… được hình thành và phát triển. 1.2 Tính tất yếu khách quan của hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài. Xu hướng ĐTTTNN hình thành là do sự cần thiết và khả năng khách quan, thể hiện ở một số điểm sau: Do sự gặp gỡ lợi ích giữa các bên trong hoạt dộng ĐTTTNN: + Đối với bên trong vốn đầu tư :do có nhiều vốn và cạnh tranh khốc liệt tỷ suất lợi nhuận của vốn giảm, ĐTTTNN sẽ giúp họ tìm được nơi đầu tư có lợi nhuận cao xâm chiếm thị trường và tránh được hàng rào thuế quan và phi thuế quan(trong xu hướng bảo hộ mậu dịch). Từ đó hình thành nên những tập đoàn lớn, đa quốc gia và xuyên quốc gia. + Đối với bên tiếp nhận vốn: Do thiếu vốn tích luỹ ,do nhu cầu tăng trưởng, nhu cầu đổi mới kỹ thuật, công nghệ và kinh nghiệm quản lý tiên tiến…để khai thác tài nguyên tạo việc làm cho dân cư, và đặc biệt đối với các nước đang phát triển thu hút vốn ĐTTTNN còn đảm bảo cho nhu cầu tăng trưởng , chuyển dịch cơ cấu thoe hướng công nghiệp hoá-hiện đại hoá. - Do nhu cầu giải quyết những nhiệm vụ đặc biệt như xây dựng công trình có quy mô và cần hoạt động vượt ra ngoài phạm vi biên giới quốc gia đòi hỏi phải có sự phối hợp của nhiều nước, chẳng hạn như việc xây dựng các đường ống dẫn dầu và khí đốt, xây dựng hệ thống lưới điện xuyên Châu Âu, xây dựng tuyến cáp quang nối liền nhiều nước Châu Á. Những nguyên nhân cơ bản trên đây khiến cho hoạt động đầu tư quốc tế hình thành và phát triển với quy mô ngày càng lớn. Tuy nhiên, khác với loại hình đầu tư gián tiếp, đầu tư trực tiếp trong đầu tư quốc tế có xu hướng phát triển mạnh mẽ hơn rất nhiều. Đó là do những đặc điểm riêng của loại hình đầu tư này. 2. Đặc điểm của đầu tư trực tiếp nước ngoài. Dựa trên cơ sở phân biệt giữa đầu tư gián tiếp và đầu tư trực tiếp trong đầu tư quốc tế, căn cứ vào thực tiễn hoạt động ĐTTTNN tên thế giới, có thể rút ra một số đặc điểm nổi bật sau đây về ĐTTTNN: - Các nhà đầu tư nước ngoài phải đóng góp một số vốn tối thiểu vào vốn pháp định, tuỳ theo quy định của luật đầu tư mỗi nước .Vốn pháp định trong dự án ĐTTTNN là vốn tự có của chủ đầu tư được quy định theo luật đầu tư. Sau khi góp vốn hợp lệ, nhà đầu tư có quyền tham gia vào việc quản lý và điều hành dự án đầu tư. Ở ViệtNam, Luật đầu tư nước ngoài quy định tỷ lệ góp vốn của bên nước ngoài tối thiểu không dưới 30% vốn pháp định và không quy định giới hạn vốn tối đa. Ở Mỹ tỷ lệ này được quy định là 10%, một số nước khác là 20%. -Quyền quản lý dự án đầu tư phụ thuộc vào mức độ góp vốn của mỗi bên ,và sự hoạt động dưói bất kì hình thưc nào của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài phải tuân thủ pháp luật ở nước sở tại .Chẳng hạn , nếu vốn góp của nhà đầu tư là 100% thì nhà đâù tư nước ngoài co toàn quyền quản lý doang nghiệp , và quyền này sẽ bị giảm đi nếu tỉ lệ góp vốn giảm xuống. -Lợi nhuận mà chủ dầu tư nước ngoài thu được phụ thuộc vào kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh và được chia theo tỉ lệ góp vốn trong vốn pháp định . Phần lơi nhuận này được các nhà đầu tư chuyển về nước sau khi đã nộp một khoản thuế hoặc cũng có thể được sử dụng để tái đầu tư ở nước sở tại . -Hoạt động ĐTTTNN được thực hiện thông qua việc xây dụng doang nghiệp mới ,mua lại toàn bộ hay từng phần doanh nghiệp đang hoạt động hoặc mua cổ phiếu để thôn tính hoăc xác nhập các doanh nghiệp vốn với nhau . Hoạt động ĐTTTNN thực hiện ở nước sở tại ,nên toàn bộ quá trình từ đăng kí đến triển khai , vận hành và kết thúc dự ans ĐTTTNN phải chịu sự điêu chỉng của bộ luật tương ứng , thường là luật đàu tư nước ngoài . Ví dụ ở Việt Nam .hoạt đông ĐTTTNN chịu sự điều chỉnh của luệt dàu tư nước ngoài ở Việt Nam ban hành năm 1987 ,ngoài ra còn có trên 90 văn bản dưới luật do chính phủ và các bộ ban hành nhằm quy định chi tiết viêc thi hành đấu tư tại Việt Nam ,chẳng hạn như thông tư số 12/BKH của bộ kế hoạch -đầu tư và nghị định 24/CP của chính phủ Việt Nam ban hành năm 2000. 3.Vai trò của hoạt động ĐTTTNN. 3.1 Vai trò của hoạt động ĐTTTNN. Trong thời gian qua, ĐTTTNN co vai trò hết sức quan trọng đối với sụ phát triển kinh tế- xã hội ở nước ta,cụ thể: - Đóng góp đáng kể vào giá trị sản lượng công nghệ : chiếm đến 36,4% sản lượng công nghiệp; những ngành công nghiệp nhẹ như:dệt may chiếm 12,1%,gốm thuỷ tinh chiếm 9,75, thực phẩm đồ uống :22,5%...và phần lớn các ngành công nghệ cao sử dụng sản phẩm điện tử máy tính, thiết bị văn phòng, ôtô, xe máy đều do các doanh nghiệp có vốn ĐTTTNN sản xuất. - ĐTTTNN góp phần đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế: đóng góp vào GDP của khu vực ĐTTTNN ngày càng tăng. Bình quân trong giai đoạn 1995-2001 la 9,71%. - Bổ sung vào nguồn vốn đầu tư phát triển: góp phần quan trọng tạo điều kiện thuận lợi cho chiến lược CNN-HĐH đất nước. Bình quân giai đoạn 1995-2000: ĐTTTNN đóng góp 24,5% tổng số vốn đầu tư phát triển toàn xã hội. - Tạo công ăn việc làm cho người lao động: giải quyết việc làm cho 645000 lao động trực tiếp và 1,3 triệu lao động gián tiếp trong đó có khoảng 6000 cán bộ quản lý, 25000 cán bộ kỹ thuật. Năm 2003, khu vực đầu tư trực tiếp nước ngoài đã giải quyết 45000 lao động. - Thúc đẩy sản xuất hàng hoá, mở rộng thị trường, phát triển ngành dịch vụ ,nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH-HĐH, tạo năng suất lao động cao ,từng bước đưa nền kinh tế nước ta chuyển biến theo hướng kinh tế thị trường hiện đại. - Thúc đẩy xuất khẩu, cải thiện cán cân thanh toán, góp phần đưa nước ta tham gia hiệu quả vào phân công lao động quốc tế, thúc đẩy mở rộng quan hệ đối ngoại, hội nhập kinh tế quốc tế. -Đóng góp vào ngân sách nhà nước ngày càng tăng: cụ thể :Năm 1994:128 triệu USD, năm 1996:263 triệu USD, năm 1998:370 triệu USD, năm 2000: 280 triệu USD, năm 2002: 460 triệu USD, năm 2003: 500 triệu USD. 3.2 Một số hạn chế. - Cơ cấu vốn đầu tư nhìn chung còn bất hợp lý so với định hướng phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Thực tế hoạt động ĐTTTNN trong những năm qua cho thấy, vốn đầu tư vào Việt Nam chủ yếu tập trung vào những ngành dễ thu lợi nhuận, thời gian thu hồi vốn ngắn như: các ngành sản xuất chất tẩy rửa, ngành gia công may mặc, giày dép, lăp ráp ô tô , xe máy, điện tử dân dụng, sắt thép , xi măng, khách sạn, văn phòng cho thuê… Các dự án thuộc lĩnh vực nông lâm, thuỷ sản, công nghiệp cơ khí và dịch vụ có giá trị lớn như giao thông vận tải , bưu chính -viễn thông, tài chính ngân hàng, lĩnh vực công nghệ cao chiếm tỷ lệ rất thấp cả về số lượng dự án lẫn số vốn đầu tư. - Một số dự án hoạt động kém hiệu qủa, thua lỗ kéo dài dẫn đến tình trạng phá sản, công nhân bị sa thải. Từ năm 1998 đến năm 2001, nhiều liên doanh đã phải chuyển sang hình thức công ty 100% vốn nước ngoài để cải thiện hoạt động sản xuất kinh doanh. Trong một số liên doanh, phần do đầu tư của phía Việt Nam chỉ chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng số vốn đầu tư (trung bình khoảng 30% vốn pháp định, bằng khoảng 10% tổng vốn đầu tư, chủ yếu góp bằng quyền sử dụng đất), lại yếu kém về trình độ chuyên môn, quản lý nên đã bị các chủ đầu tư nước ngoài thao túng, gây thiệt hại cho phía Việt Nam. Nhiều công nghệ quá lạc hậu, gây ô nhiễm môi trường. - ĐTTTNN chủ yếu là do các công ty xuyên quốc gia chi phối , nên nếu nền kinh tế không phát triển nhanh, bền vững sẽ phụ thuộc về vốn, kỹ tuật, thị trường và mạng lưới tiêu thụ, phân phối của họ. Thông qua sự chi phối vệ kinh tế , các công ty xuyên quốc gia có khả năng gây ảnh hưởng đến tình hình kinh tế xã hội, tăng xu hướng phân hoá giàu ngheo trong xã hội. II- THỰC TRẠNG ĐTTTNN TẠI VIỆT NAM. 1. Một số nhận xét về môi trường đầu tư ở Việt Nam từ 1988 đến nay. Luật Đầu tư trực tiếp của nước ngoài đã được Quốc Hội phê chuẩn tháng 12-1987. Luật có hiệu lực từ 01-01-1988 đã đánh dấu mốc quan trọng của thời kỳ hội nhập và mở cửa của nền kinh tế Việt Nam, nhằm thu hút nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) vào nước ta, bổ sung nguồn vốn cho đầu tư và phát triển. Bộ luật này ra đời đã tạo hành lang pháp lý để các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế thu hút vốn đầu tư nước ngoài mở rộng sản xuất kinh doanh và dich vụ. Trong quá trinh triển khai vào cuộc sống, 17 năm qua , bộ luật đã được bổ sung ,sửa đổi nhiều lần vào tháng 6-1992, tháng 11-1996, tháng 6-2000 và năm 2003, nhằm “mở rộng hợp tác kinh tế với nước ngoài, phục vụ sự nghiệp CNH-HĐH, phát triển kinh tế quốc dân”. Về hình thức đầu tư, Điều 4, chương II quy định có 3 hình thức : Hợp tác kinh doanh, doanh nghiệp liên doanh, doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài. Cùng với luật nay, Nhà nước đã có nhiều chủ trương , chính sách và cơ chế để một mặt tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư nước ngoài yên tâm đầu tư làm ăn lâu dài ở Việt Nam, mặt khác giúp các đối tác trong nước, nhất là cac doanh nghiệp triển khai các dự án liên doanh với nước ngoài có hiệu quả. Trong qua trình thực hiện bộ luật này, bên cạnh các mặt tích cực , đã phát sinh những vấn dề mới. Vì vậy, bộ luật đã được bổ sung , sửa đổi nhiều lần để phù hợp với yêu cầu và diều kiện hội nhập và mở cửa của nền kinh tế. Trong chương trình số 6 của kế hoạch 5 năm 1996-2000 về phát triển kinh tế đối ngoại, Nghị quyết Đại hội VIII nhấn mạnh: Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) hướng vào những lĩnh vực ,những sản phẩm và dịch vụ có công nghệ tiến, có tỷ lệ xuất khẩu cao… cần có chính sách và biện pháp hữu hiệu để thu hút vào những nơi có tiềm năng nhưng trước mắt còn khó khăn…Hình thức đầu tư cần đa dạng hóa,chú ý các hình thức đầu tư mới như đầu tư tài chính, cần tăng cường hợp tác với các công ty đa quốc gia để tranh thủ được công nghệ nguồn, tiếp cận quản lý hiện đại và thâm nhập nhanh vào thị trường quốc tế, mở rộng thị trường mới. Đại hội IX nhấn mạnh: Tiếp tục cải thiện môi trường đầu tư để cải thiện tốt hơn và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực bên ngoài. Trên cơ sở các quan điểm , định hướng và giải pháp đó, Chính phủ đã bổ sung ,sửa đổi nhiều chính sách nhằm tăng khả năng cạnh tranh trong thu hút nguồn vốn FDI vào Việt Nam so với các nước khác trong khu vực. Nhiều ngành và địa phương đã tổ chức diễn đàn thu hút vốn FDI ,trên cơ sở vận dụng các điều của Luật Đầu tư sửa đổi và cơ chế chính sách của Nhà nước trong từng thời kỳ. Việc Việt Nam gia nhập AFTA, khu vực đầu tư ASEAN-AIA và ký kết Hiệp định thương mại Việt - Mỹ là diểm sáng cho môi trường đầu tư Việt Nam trong diều kiện hiện nay. Khi hiệp định thương mại Việt - Mỹ có hiệu lực, các nhà đầu tư sẽ đầu tư vào Việt Nam làm bàn đạp cho xuất khẩu hàng hoá sang Mỹ để hưởng ưu đãi về thuế quan. Cũng như vậy, khi tham gia vào tổ chức Đầu tư ASEAN (AIA) ,Việt Nam sẽ có nhiều cơ hội tiếp cận được nguồn vốn ĐTTTNN trên thế giới và trong khu vực do sự hoạt động của tổ chức này. Hơn nữa , đầu tư nước ngoài luôn có mối quan hệ mật thiết với thương mại quốc tế, vì vậy, khi Việt Nam tăng cường hội nhập khu vực và quốc tể thì chắc chắn kim ngạch xuất nhập khẩu sẽ tăng và thúc đẩy hoạt động ĐTTTNN. Tuy nhiên, Việt Nam cần tăng cường hơn nữa tỷ trọng xuất khẩu công nghiệp trong kim ngạch xuất khẩu, vì thực tế ở các nước Thái Lan, Philippin, Malãiia cho thấy tỷ trọng này chiếm tới 50% trong tổng kim ngạch xuất khẩu vì vâỵ đã tạo động lực thu hút đầu tư nước ngoài. Như vậy, ĐTTTNN vào Việt Nam vẫn tiếp tục giảm và chưa có dấu hiệu phục hồi trong thời kỳ 1994 – 1996 thì ở những năm gần đây đã dần phục hồi và có bước phát triển đáng kể. Vấn đề đặt ra là phải đánh giá và xây dựng sự hấp dẫn trong một môi trường động, luôn luôn thay đổi dưới tác động cạnh tranh của các nước trong khu vực và sự thay đổi của chiến lược đầu tư nước ngoài. Qua những đánh giá sơ lược trên đây cho thấy môi trường đầu tư ở Việt Nam tuy có sức cạnh tranh song những nhân tố tạo động lực cho ĐTTTNN đã thay đổi đáng kể trong giai đoạn hiện nay, vì vậy Việt Nam cần thay đổi để tạo môi trường đầu tư cho phù hợp với xu hướng hiện nay. Trên đây là những đánh giá sơ lược về môi trường đầu tư ở Việt Nam, điều đó sẽ phần nào lý giải được thực trạng đầu tư ở Việt Nam từ 1988 đến nay. 2. Tình hình đầu tư trực tiếp ở Việt Nam từ 1988 đến nay. 2.1 Giai đoạn 1988 – 2004. Từ khi Luật có hiệu lực 1988 đến 31-12-2003, cả nước đã thu hút 5441 dự án FDI ,với số vốn đầu tư 45776,8 triệu USD và vốn pháp định là 22,291 triệu USD. Đến 2003, khu vực FDI đã đóng góp 14,47% GDP , 16,8% vốn đầu tư phát triển , tạo việc làm mới cho hàng triệu lao động. Sau một thời gian chững lại và giảm sút , bắt đầu từ năm 2004 , đầu tư nước ngoài đã có dấu hiệu phục hồi. Dưới đây là những kết quả đạt được và xu hướng biến động qua các thời kỳ. Kể từ khi Luật Đầu tư nước ngoài có hiệu lực cho đến năm 2004, hoạt động thu hút vốn FDI đã trải qua những bước thăng trầm khá rõ nét. Trong 3 năm đầu triển khai Luật (1988-1990) được coi là thời kỳ thử nghiệm, mò mẫm nên kết qủa đạt được không nhiều: 214 dự án, vốn đăng ký 1582,3 triệu USD và vốn pháp định1007,4 triệu USD. Bình quân 1 dự án 7,4 triệu USD vốn đăng ký và 4,7 triệu USD vốn pháp định. Các lĩnh vực thu hút đầu tư chủ yếu là khách sạn, du lịch, khai thác thăm dò dầu khí, công nghiệp chế biến nông – lâm - thuỷ hải sản, xây dựng. Đối tác đầu tư chủ yếu là các nước và vùng lãnh thổ trong khu vực châu Á như :Singapore, HôngKong, ĐaiLoan, Nhật Bản và một số nước khác… Thời kỳ 1991-1996: Làn sóng đầu tư nước ngoài trở nên sôi động tại Việt Nam và kết qủ đạt được là mức cao nhất trong 17 năm qua. Trong 6 năm cả nước đã thu hút 1784 dự án với số vốn đăng ký lên tới 25464 triệu USD , vốn pháp lý đạt 11886 triệu USD. Bình quân 1 năm thu hút được trên 4,2 ty USD vốn đăng ký và gần 2 tỷ USD vốn pháp định. Bình quân 1 dự án có 14,27 triệu USD vốn đăng ký và 6,7 triệu USD vốn pháp định. Năm 1996 có số vốn đăng ký đầu tư nhiều nhất: 8979 triệu USD , vốn pháp định 3280 triệu USD với 380 dự án ;quy mô bình quân 1 dự án là 25,5 triệu USD vốn đăng ký và 8,47 triệu USD vốn pháp định, là mức cao nhất trong các năm qua. Bên cạnh các dự án đầu tư mới, trong thời gian này còn có 222 dự án bổ sung thêm vốn đầu tư với số vốn đăng ký là 2099 triệu USD. Nếu loại trừ 237 dứ án rút giấy phép với số vốn đăng ký la 1269 triệu USD,và 16 dự án đã kết thúc với số vốn 310 triệu USD thi tính từ năm 1988 đến hết năm 1996 cả nước 1998 dự án còn hiệu lực với số vốn đăng ký 27406 triệu USD , vốn pháp định 12893 triệu USD. Các dự án tập trung chủ yếu vào ngành công nghiệp với 1077 dự án và 11546,3 triệu USD vốn đăng ký, kế đến là khách sạn du lịch 189 dự án và 3880,5 triệu USD , thứ ba là ngành xây dựng 221 dự án và 3677,1 triệu USD vốn đăng ký, thứ 4 là giao thông vận tải và bưu điện 120 dự án và 2758 triệu USD vốn đăng ký. Khu vực nông lâm nghiệp và thuỷ sản có 316 dự án, nhưng chỉ có 1527 triệu USD vốn đăng ký. Hoạt động cũng thu hút vốn FDI sôi động khắp các vùng và nhiều địa phương trong đó tập trung vào các vùng: Đông nam bộ có 1262 dự án và 15986 triệu USD vốn đăng ký, chiếm 50,8% tổng số vốn đăng ký cả nước; vùng đồng bằng sông Hồng có 514 dự án và 9503 triệu USD; thứ ba là vùng đông bắc 97 dự án và 1442 triệu USD, thứ tư là vùng duyên hải miền trung 120 dự án và 1302 triệu USD, thứ năm là vùng đồng bằng sông Cửu Long có 128 dự án và 763 triện USD. Địa phương thu hút nhiều dự án và vốn FDI đến năm 1997 là Thành phố Hồ Chí Minh với 697 dự án và 8857 triệu USD vốn đăng ký và 2803 triệu USD vốn pháp định. Đồng Nai có 249 dự án và 3259 triệu USD vốn đăng ký và 1249 triệu USD vốn pháp định. Bà Rịa Vũng Tàu có 83 dự án và 2249 triệu USD vốn đăng ký và 1042 triệu USD vốn pháp định. Số lượng đối tác đầu tư đã lên tới 63 quốc gia và vùng lãnh thổ khắp các châu lục. Các quốc gia và vùng lãnh thổ dẫn đầu về vốn đầu tư vào Việt Nam trong thời kỳ này là: Singapỏe 185 dự án và 4846 triệu USD ; Đài Loan 354 dự án và 4168 triệu USD; Hồng Kông 264 dự án và 3364 triệu USD; Nhật Bản 236 dự án và 3037 triệu USD và Hàn Quốc 223 dự án và 2916 triệu USD vốn đăng ký. Đóng góp của khu vực đầu tư trực tiếp nước ngoài vào nền kinh tế Việt Nam ngày càng cao. Tỷ trọng khu vực FDI trong cơ cấu GDP từ 6,3% năm 1995 lên 7,27% năm 1996. Tỷ trọng công nghiệp FDI năm 1996 chiếm 26,49% giá trị sản xuất công nghiệp cả nước. Nhờ có sự tham gia của khu vực FDI nên diện mạo kinh tế đã có nhiều thay đổi theo hướng tiến bộ, nhất là trong sản xuất công nghiệp, xây dựng, khách sạn, du lịch. Nhiều sản phẩm công nghiệp mới xuất hiện như khai thác dầu thô, lắp ráp ô tô, xe gắn máy, điện tử, tin học, chế biến nông lâm thuỷ sản chất lượng cao, da giày, may mặc xuất khẩu, hoá chất…Khu vực FDI đã tạo việc làm cho trên 200 ngàn lao động xã hội và góp phần quan trọng thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế và cơ cấu lao động xã hội. Nguyên nhân của những khởi sắc về thu hút vốn đầu tư FDI trong thời kỳ 1991- 1996 là: Luật đầu tư nước ngoài sau khi đã thử nghiệm trong 3 năm 1988-1990 đã được bổ sung hoàn thiện trong các năm 1992 và 1996 nên có sức hấp dẫn đối tác đầu tư. Thêm vào đó các bộ luật khác có liên quan như Luật đất đai năm 1993, Luật thuế, Luật lao động và nhiều cơ chế chính sách của Nhà nước, của chính quyền các địa phương đã thông thoáng hơn, tạo điều kiện thu hút đầu tư nước ngoài. Tình hình kinh tế thế giới và khu vực tăng trưởng ổn định nên các công ty mẹ có đầy đủ các yếu tố cần thiết nhất là , thị trường , công nghệ để mở rộng thị trường đầu tư vào Việt Nam. Tuy nhiên, bắt đầu từ những năm 1997 làn sóng đầu tư nước ngoài vào Việt Nam xuất hiện xu hướng chững lại và giảm sút. Vốn đăng ký bắt đầu giảm mạnh, cuối năm 1997 với số vốn đăng ký cả năm là 4894,2 triệu USD, bằng 54,5% năm 1996. Năm 1998 có 285 dự án đăng ký mới với số vốn đăng ký là 4183 triệu USD, chỉ bằng 92,5% số dự án và 84,55% số vốn đăng ký của năm 1997. Năm 1999 chỉ còn 1568 triệu USD vốn đăng ký, bằng 38,7% vốn đăng ký năm 1998 và mức thấp nhất kể từ năm 1991. Năm 2000 tuy có tăng lên 2018 triệu USD nhưng cũng chỉ bằng 48,7% năm 1998, tính chung 4 năm 1997-2000 cả nước chỉ thu hút 1343 dự án với số vốn đăng ký 12618 triệu USD và 6698 triệu USD vốn pháp định. Số vốn đăng ký bình quân 1 dự án chỉ có 9,39 triệu USD so với 14,8 triệu USD của thời kỳ 1991-1996. Do số dự án và vốn đăng ký giảm nên số lao động do khu vực này tạo ra trong thời kỳ này cũng giảm, chỉ còn trên 140 nghìn người. Nguyên nhân của tình trạng này có nhiều, về khách quan, cuộc khủng hoảng tài chính khu vực Châu Á trong năm 1997-1998 đã tác động xấu đến hoạt động sản xuất kinh doanh của các công ty mẹ ở những nước này nên khả năng đầu tư mới cũng như đầu tư bổ sung của các dự án rất hạn chế. Thị trường tiêu thụ sản phẩm công nghiệp và dịch vụ thế giới bị thu hẹp nên khả năng xuất khẩu của các sản phẩm công nghiệp và dịch vụ của các dự án FDI bị hạn chế. Một số lợi thế ban đầu của Việt Nam như tài nguyên thiên nhiên phong phú, giá thuê công nhân thấp… đang giảm dần do sự cạnh tranh của các nước trong khu vực, nhất là Trung Quốc rất quyết liệt. Về chủ quan, luật đầu tư nước ngoài của Việt Nam tuy đã bổ sung sửa đổi nhưng vẫn còn nhiều bất cập. Nhiều cơ chế và chính sách kinh tế tài chính vẫn chưa làm yên lòng các nhà đầu tư nước ngoài, trong đó giá thuế đất cao; chính sách hai giá trong nhiều lĩnh vực vừa cao so với các nước trong khu vực, vừa mang nặng tính chất phân biệt đối xử nhưng chậm khắc phục (giá điện, cước điện thoại, vé máy bay…) Hệ thống cơ sở hạ tầng yếu kém, nhất là đường giao thông, bến cảng, sân bay. Thủ tục hành chính rườm rà nhưng khắc phục chậm làm nản lòng các nhà đầu tư. Thời kỳ 2001-2004: trước tình trạng giảm sút đầu tư nước ngoài trong 4 năm 1997-2000, nhà nước đã có nhiều chủ trương và giải pháp khắc phục các nguyên nhân chủ quan về cơ chế chính sách. Năm 2000 luật đầu tư nước ngoài được bổ xung sửa đổi theo hướng thông thoáng hơn. Tiếp theo đó nhà nước đã bao hành nhiều chính sách kinh tế tài chính mới nhằm tạo môi trường thuận lợi để thu hút các nhà đầu tư nước ngoài vào làm ăn lâu dài. Chính phủ đã chỉ đạo các bộ ngành và các địa phương triển khai các hoạt động xúc tiến đầu tư thông qua nhiều hình thức và quy mô khác nhau, ở trong nước và ngoài nước. Cùng với luật đất đai sửa đổi năm 2003, nhà nước đã bổ sung, hoàn thiện các bộ luật khác để hỗ trợ luật đầu tư nước ngoài và bước đầu đã đạt kết quả khá so với trước. Đáng chú ý là ngày 28/8/2001 chính phủ đã ban hành nghị quyết số 09/2001/NQ-CP về tăng cường thu hút và nâng cao hiệu quả đầu tư nước ngoài thời kỳ 2001-2005. Tiếp đó ngày 17/5/2002 chính phủ ra quyết định số 62/2002/QĐ-TTG ban hành danh mục quốc gia gọi vốn đầu tư nước ngoài thực hiện chương trình cổ phần hoá doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Đầu năm 2003, chính phủ thành lập cơ quan xúc tiến đầu tư chuyên trách quốc gia ( cục đầu tư nước ngoài thuộc Bộ Kế hoạch và đầu tư) nhằm tập trung đầu mối chỉ đạo và tăng cường quản lý nhà nước đối với hoạt động đầu tư nước ngoài có hiệu quả hơn. Nhờ những cải tiến này, nhiều vấn đề về chính sách và cơ chế nhằm thu hút vốn FDI đã có chuyển động tích cực. Tính ổn định và thông thoáng của các chính sách cao hơn; thủ tục cấp phép đơn giản và thuận tiện hơn; tính chất minh bạch, rõ ràng không chồng chéo về các loại thuế đã được thể hiện; cơ chế hai giá đang được khắc phục từng bước nhằm tạo thế bình đẳng giữa các nhà đầu tư nước ngoài với đầu tư trong nước. Tuy chưa phải là hoàn hảo song những chuyển động tích cực của chính phủ và sự quan tâm của các Bộ, ngành và chính quyền địa phương đã và đang tạo thêm sức hấp dẫn mới cho các nhà đầu tư nước ngoài tại Việt Nam. Kết quả là từ năm 2001 hoạt động đầu tư nước ngoài đã có dấu hiện phục hồi dù còn chậm. Năm 2001 có 550 dự án đầu tư mới với số vốn đăng ký 550 triệu USD; tăng 41% về số dự án và tăng 28,4% về số vốn đăng ký so với năm 2000. Đến cuối năm 2002, đã có hơn 4.500 dự án ĐTTTNN đã được cấp giấy phép, với tổng số vốn đăng ký và tăng vốn lên trên 50 tỷ USD. Trừ các dự án đã giải thể trước thời hạn hoặc hết thời hạn hoạt động, hiện còn trên 3670 dự án đang có hiệu lực với tổng số vốn đăng ký là trên 39 tỷ USD. Trong số đó có gần 2000 dự án đang triển khai hoạt động kinh doanh, 980 dự án đang trong thời kỳ xây dựng cơ bản và làm các thủ tục hành chính, gần 700 dự án chưa triển khai do nhiều nguyên nhân. Tổng số vốn đầu tư thực hiện của các dự án đã cấp phép khoảng 24 tỷ USD, trong đó vốn thực hiện của các dự án còn hiệu lực là trên 21 tỷ USD. ĐTTTNN chủ yếu vào lĩnh vực công nghiệp và xây dựng, với 66% dự án và 64,5% vốn thực hiện. Lĩnh vực này cũng thu hút trên 70% lao động và tạo ra trên 90% giá trị xuất khẩu của khu vực ĐTTTNN. Lĩnh vực dịch vụ chiếm 21% số dự án và 29,5% vốn thực hiện và lĩnh vực nông-lâm ngư-nghiệp chiếm 13%số dự án và 6% vốn thực hiện. Xét theo các hình thức đầu tư thì hình thức liên doanh chiếm tới 51% số vốn đăng ký và 30% số dự án, đầu tư 100% vốn nước ngoài chiếm 36% vốn đăng ký và 66% số dự án, ĐTTTNN theo hình thức hợp đồng, hợp tác kinh doanh va BOT chiếm 13% vốn đăng ký và 4% số dự án. Xét theo khu vực các nước đầu tư vào Việt Nam thì khu vực Đông - Bắc Á (gồm Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan, Hông Kông) chiếm 55,4% về số dự án và 40,8% về số vốn đăng ký của tất cẩ các dự án đang còn hiệu lực. Đầu tư của các nước ASEAN vào Việt Nam từ năm 1997 đến 2002 có chiều hướng suy giảm, do tác động của cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ khu vực và những hạn chế về khả năng khôi phục kinh tế (Xingapo vẫn giữ vị trí đứng đầu với 263 dự án và 7,2 tỷ USD vốn đăng ký). Đầu tư của các nước Châu Âu như: Pháp ,Hà Lan , Anh vẫn nằm trong số 10 nước đầu tư lớn nhất ở Việt Nam, Hoa Ky đứng ở vị trí 13, với hơn 1,1 tỷ USD vốn đăng ký. Xét theo vùng và địa phương thì ĐTTTNN tập trung chủ yếu vào vùng kinh tế trọng diểm miền Bắc và vùng kinh tế trọng điểm miền Nam. Trong số các địa phương thu hút mạnh mẽ ĐTTTNN , thành phố Hồ Chí Minh giữ vị trí đứng đầu với 1224 dự án và 10394 triệu USD vốn đăng ký còn hiệu lực ;tiếp theo là Hà Nội, Đồng Nai và Bình Dương và Quảng Ninh, với tổng số 634 dự án, 9625 triệu USD vốn đăng ký còn hiệu lực. ĐTTTNN gia tăng liên tục trong nửa đầu thập niên 90. Sau khủng hoảng tài chính - tiền tệ khu vực năm 1997, ĐTNN vào Việt Nam có suy giảm. Năm 2000 ĐTTTNN đã có dấu hiệu phục hồi và tăng trong năm 2001, nhưng chưa mạnh. Năm 2002 vốn ĐTTTNN thu hút mới lại suy giảm rõ rệt, chỉ bằng gần 60% so với cung kỳ năm 2001 (với 1,3 tỷ USD). Năm 2002, FDI đã chiếm tỷ trọng 18,6% tổng vốn đầu tư toàn xã hội, là một nguồn bổ sung quan trọng cho đầu tư phát triển và đẩy mạnh CNH-HĐH đất nước. Tính đến ngày 31-12-2003, cả nước nước đã thu hút khoảng 5236 dự án đầu tư, trong đó có khoảng 4324 dự án đang hoạt động với số vốn đăng ký 40,8 tỷ USD ,vốn thực hiện khoảng 24,6 triệu USD. Riêng năm 2004 cả nước có thu hút hơn 4,2 tỷ USD , đầu tư mới tăng 35% so với năm 2003. Đây là mức đăng ký cao nhất kể từ sau khủng hoảng tài chính khu vực diễn ra năm 1997. Tính chung đến ngày 31-12-2004 vốn đăng ký là 45 tỷ USD, vốn thực hiện là 27,42 tỷ USD. Hiện nay hầu hết các tỉnh thành trong cả nước đều có dự án đầu tư nước ngoài, nhưng tập trung chủ yếu vào một số địa phương có cơ sở hạ tầng tốt, điều kiện thuận lợi như: TP Hồ Chí Minh (25%), Hà Nội (18%), Đồng Nai (16%), Bình Dương (9%) và 59 tỉnh thành phố khác (27%). Đối với sự phân bổ ngành, vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) vào Việt Nam được phân bổ tương đối rộng, nhưng chủ yếu tập trung vào ngành công nghiệp và dịch vụ. Khu vực nông – lâm – ngư nghiệp tuy có nhiều chính sách ưu đãi đầu tư nhưng lượng FDI còn thấp. Các dự án trong lĩnh vực dịch vụ và kinh doanh bất động sảncó tỷ trọng lớn, chiếm 1/3 tổng số vốn đăng ký, song vốn FDI vào một số ngành dịch vụ hiện đại còn chưa đáng kể do thị trường dịch vụ tài chính, ngân hàng, tư vấn pháp lý, tư vấn kỹ thuật và chuyển giao công nghệ còn chậm phát triển. . Đạt được con số 4,2 tỷ USD trong thu hút FDI của năm 2004 là một dấu mốc quan trọng ghi nhận sự phục hồi FDI sau nhiều năm trì trệ. Tuy số dự án cấp mới trong 4 năm 2001-2004 không nhiều nhưng kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của khu vực này vẫn tăng trưởng khá do nhiều dự án đã đi vào sản xuất ổn định. Vì vậy đón._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc36750.doc
Tài liệu liên quan