Giá trị và vị trí tập thơ ’Việt Bắc’ Trong hành trình thơ Tố Hữu

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM ------------- o0o ---------- NGUYỄN THỊ MỸ GIÁ TRỊ VÀ VỊ TRÍ TẬP THƠ "VIỆT BẮC" TRONG HÀNH TRÌNH THƠ TỐ HỮU CHUYÊN NGÀNH: VĂN HỌC VIỆT NAM MÃ SỐ : 60.22.34: LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC NGỮ VĂN m· sè : 60. 22. 34 Người hướng dẫn khoa học: GS. Phong Lê Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: GS. Phong Lê Thái Nguyên - 2009 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên LỜI CẢM ƠN

pdf110 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 2339 | Lượt tải: 1download
Tóm tắt tài liệu Giá trị và vị trí tập thơ ’Việt Bắc’ Trong hành trình thơ Tố Hữu, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành đến GS. Phong Lê, thầy đã tận tình giúp đỡ và tạo điều kiện tốt nhất cho tôi trong suốt thời gian làm luận văn tốt nghiệp. Tôi xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo khoa Ngữ Văn, cùng gia đình, bạn bè người thân đã tạo điều kiện giúp tôi hoàn thành luận văn này. Thái Nguyên, ngày... tháng... năm 2009 Nguyễn Thị Mỹ Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên MỤC LỤC PHẦN MỞ ĐẦU ............................................................................................................... 1 1. Lý do chọn đề tài .................................................................................... 1 2. Lịch sử vấn đề ........................................................................................ 2 2.1. Những bài nghiên cứu về thơ Tố Hữu nói chung ......................... 2 2.2. Những bài nghiên cứu về các tập thơ của Tố Hữu ........................ 3 2.3. Xung quanh tập thơ "Việt Bắc" .................................................... 4 2.4. Khảo sát văn bản tập thơ Việt Bắc ............................................... 6 3. Mục đích nghiên cứu ............................................................................ 10 5. Nhiệm vụ nghiên cứu ........................................................................... 10 6. Phương pháp nghiên cứu ...................................................................... 10 7. Cấu trúc của luận văn ........................................................................... 10 Chƣơng 1: "VIỆT BẮC" TRONG NỀN THƠ VIỆT NAM TỪ 1945 ĐẾN 1954 ............ 11 1.1. Tổng quan về thơ Việt Nam 1945 đến 1954....................................... 11 1.2. Con đường thơ Tố Hữu từ tập thơ Từ ấy sang tập thơ Việt Bắc ......... 18 1.2.1. Từ tập thơ "Từ ấy"... ............................................................. 18 1.2.2... đến tập thơ "Việt Bắc" ......................................................... 21 Chƣơng 2: GIÁ TRỊ NỘI DUNG CỦA TẬP THƠ“ VIỆT BẮC” ................................... 25 2.1. Khát vọng và niềm vui giải phóng Đất nước qua các chặng đường .... 25 2.1.1. Cách mạng Tháng Tám năm 1945.......................................... 25 2.1.2. Kháng chiến chín năm ............................................................ 27 2.1.3. Chiến thắng Điện Biên phủ ..................................................... 29 2.2. Cái "tôi" tác giả gắn với cái "ta"quần chúng trong bức tranh nhân dân kháng chiến .............................................................................................. 31 2.2.1. Hình ảnh người lính ................................................................ 31 2.2.2. Hình ảnh người phụ nữ ........................................................... 45 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 2.3. Tình yêu quê hương đất nước ............................................................ 53 2.4. Tình cảm gắn bó với lãnh tụ và quê hương cách mạng ...................... 59 Chƣơng 3: GIÁ TRỊ NGHỆ THUẬT CỦA TẬP THƠ “ VIỆT BẮC” ............................ 72 3.1. Sự gắn bó khăng khít giữa tính dân tộc và tính đại chúng .................. 72 3.1.1. Thể thơ, câu thơ ...................................................................... 72 3.1.2. Nhạc điệu ................................................................................ 78 3.1.3. Ngôn ngữ, hình ảnh ................................................................ 88 3.1.4. Niêm luật và vần ..................................................................... 92 3.2. Sự kết hợp giữa tính dân tộc và âm hưởng hiện đại ........................... 96 KẾT LUẬN................................................................................................................... 100 TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................................. 102 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 1 PHẦN MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài 1.1. Tố Hữu là tác gia có vị trí đặc biệt trong nền thơ ca cách mạng Việt Nam thế kỷ 20. Trong hơn nửa thế kỷ qua, thơ ông gắn liền với các giai đoạn, các mục tiêu của cuộc đấu tranh cách mạng, có sức cổ vũ to lớn với đông đảo quần chúng và thu hút sự quan tâm sâu sắc của giới phê bình, nghiên cứu văn học ở Việt Nam. Bộ tuyển tập Tố Hữu - Về tác giả và tác phẩm, do Nhà xuất bản Giáo dục in năm 2003 gồm 929 trang, thuộc loại lớn nhất, đã tuyển chọn những bài viết, những công trình nghiên cứu về giá trị tư tưởng, giá trị giáo dục và giá trị nghệ thuật trong thơ ông. Thế nhưng sau khi chiến tranh kết thúc (1975), cho đến khi đất nước bước sang thời kỳ đổi mới dường như thơ Tố Hữu có nhạt dần đi vị trí và vai trò của mình trong nền thơ ca dân tộc. Từ tập thơ Một tiếng đờn (1992), cho đến Ta với ta (2000) trong đời sống học đường hầu như không có một luận văn nào nghiên cứu về thơ ông. Các tác phẩm trước đó trong hành trình sáng tác của ông cũng ít được nhắc tới. Để bù đắp vào chỗ trống thiếu đó chúng tôi muốn góp một phần nhỏ bé để nhìn nhận lại giá trị của thơ Tố Hữu nói chung và tập thơ Việt Bắc nói riêng trong nền thơ ca dân tộc. 1.2.Trong hành trình thơ Tố Hữu, tập thơ Việt Bắc (1954) và tập thơ Từ ấy lúc tái bản lần thứ nhất (1959), đã tạo nên hai cuộc tranh luận sôi nổi trong giới sáng tác và phê bình. Đáng chú ý là cuộc tranh luận về tập thơ Việt Bắc diễn ra ngay sau 1954, với những ý kiến nghiêng về phủ định nhằm hạ thấp giá trị thơ Tố Hữu, trên vấn đề đánh giá giá trị hiện thực, tính giai cấp, tính đảng của tập thơ, và cũng có nhiều ý kiến khẳng định giá trị cơ bản của tập Việt Bắc theo chiều hướng ngược lại. Do vậy chúng tôi mạnh dạn nghiên cứu để định lại giá trị của tập thơ với tiêu đề: Giá trị và vị trí của tập thơ" Việt Bắc" trong hành trình thơ Tố Hữu. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 2 1.3. Tôi được sinh ra và lớn lên ở chiếc nôi quê hương cách mạng, gắn với cảnh quan thiên nhiên, và những con người bình dị đã làm nên lịch sử. Đó là mái đình Hồng Thái, cây đa Tân Trào; là rừng cọ, đồi chè, bến nước Bình Ca…những địa danh in đậm dấu ấn lịch sử của dân tộc ta trong chín năm kháng chiến chống thực dân Pháp. Lịch sử nơi đây đã trở thành kỷ niệm gắn bó sâu nặng với Tố Hữu, và được kết đọng lại trong các vần thơ của ông, trước hết là tập thơ Việt Bắc. Là người con của quê hương cách mạng, và là giáo viên một trường phổ thông mang tên địa danh lịch sử Tân Trào, tôi rất yêu thích và có nhiều cảm xúc đối với thơ Tố Hữu, đặc biệt là tập thơ Việt Bắc, bởi ông đã ghi lại một cách chân thực những nét đẹp mộc mạc, giản dị của con người và cảnh quan thiên nhiên một miền sơn cước - nơi tôi sống và công tác. Vì vậy nếu đề tài được thực hiện thành công, chúng tôi hy vọng sẽ góp phần để tác phẩm Việt Bắc mãi mãi nhận được sự đón đợi và mến mộ của đông đảo bạn đọc, trong đó có người đọc là các thế hệ trẻ của quê hương tôi. 2. Lịch sử vấn đề Trong hơn năm thập kỷ qua, thơ Tố Hữu đã trở thành một đối tượng nghiên cứu lớn của giới học thuật, thu hút đông đảo các nhà nghiên cứu, phê bình tên tuổi. 2.1. Những bài nghiên cứu về thơ Tố Hữu nói chung Ngay từ khi thơ Tố Hữu mới xuất hiện rải rác trên báo chí cách mạng vào những năm cuối thời kỳ Mặt trận dân chủ Đông Dương, cùng với sự đón nhận nồng nhiệt của công chúng, giới văn học cách mạng đã đánh giá cao thơ ông. Trong bài viết đầu tiên giới thiệu về thơ Tố Hữu ( báo Mới, số 1, ngày 1-5-1939) tác giả K và T đã khẳng định:“ Thơ Tố Hữu là cả một nguồn sinh lực đem phụng sự cho lý tưởng”, “ Với Tố Hữu, chúng ta có một nhà thơ cách mạng có tài”, “nhà thơ chiến sĩ”, “ nhà thơ của tương lai”… Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 3 Từ sau 1954 cho đến sau 1975, có rất nhiều bài viết về thơ Tố Hữu. Đặc biệt có ba công trình biên khảo chuyên sâu về thơ ông. Đó là: Thơ Tố Hữu của Lê Đình Kỵ (1979), Thơ Tố Hữu, tiếng nói đồng ý, đồng tình, tiếng nói đồng chí của Nguyễn Văn Hạnh (1985) và Thi pháp thơ Tố Hữu của Trần Đình Sử (1987). Hai công trình đầu tiếp cận thơ Tố Hữu theo phương pháp truyền thống, kết hợp khảo cứu công phu, khoa học với cảm thụ nghệ thuật tinh tế. Hai tác giả đã lần đầu tiên nghiên cứu thơ Tố Hữu như một chỉnh thể toàn vẹn, có hệ thống, với nhiều phát hiện và đánh giá quý báu theo phương pháp nghiên cứu mác xít. Công trình Thi pháp thơ Tố Hữu của Trần Đình Sử tiếp cận thơ Tố Hữu theo hướng thi pháp học đem đến những cảm nhận và đánh giá mới mẻ về thơ Tố Hữu khác với cách phân tích truyền thống. Hà Minh Đức, cũng là một người bền bỉ, chuyên tâm nghiên cứu về thơ Tố Hữu qua hai Lời giới thiệu công phu cho hai Tuyển tập thơ Tố Hữu vào các năm 1979 (Nxb Văn học) và 1995 ( Nxb Giáo dục). Ngoài ra còn có rất nhiều bài nghiên cứu về thơ Tố Hữu ở trong và ngoài nước, tiêu biểu như của Đặng Thai Mai, Hoài Thanh, Hoàng Trung Thông, Nguyễn Đăng Mạnh, Vũ Đức Phúc,...Nhìn chung các bài nghiên cứu đều có sự nhìn nhận đánh giá những giá trị cơ bản và nổi bật của thơ Tố Hữu. 2.2. Những bài nghiên cứu về các tập thơ của Tố Hữu Từ tập thơ đầu tay Từ ấy, đến các tập Việt Bắc, Gió lộng, Ra trận, Máu và Hoa,…đã có hàng trăm bài viết, công trình nghiên cứu phê bình phong phú, đa dạng dọc theo đời thơ Tố Hữu suốt nửa thế kỷ qua. Tập thơ Từ ấy có các bài viết tiêu biểu của Đặng Thai Mai, Phan Cự Đệ, Vũ Đức Phúc, Hoài Thanh,… Tập thơ Việt Bắc có các bài viết tiêu biểu của Vũ Đức Phúc, Hoài Thanh, Hoàng Trung Thông,.. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 4 Tập thơ Gió lộng có các bài viết tiêu biểu của Hoài Thanh, Lê Đình Kỵ, Nguyễn Văn Long, Hà Xuân Trường… Các tập thơ khác có các bài viết của Hà Minh Đức, Nguyễn Văn Hạnh, Hoài Thanh, … 2.3. Xung quanh tập thơ "Việt Bắc" Có nhiều bài phê bình, đánh giá về tập Việt Bắc, đặc biệt xuất hiện tập trung trong cuộc tranh luận diễn ra vào năm 1954- 1955 với hai luồng cảm hứng. Luồng cảm hứng phủ định với những bài viết của Hoàng Yến, Hoàng Cầm, Lê Đạt… Hoàng Yến phủ định“chủ nghĩa hiện thực trong tập thơ Việt Bắc". Nhận xét về bài thơ Bắn Hoàng Yến viết:“ Tác giả đã tổng kết sự việc trên tài liệu chứ chưa kinh qua thực tế của cuộc sống để tổng kết chất thơ”. “ Khi Tố Hữu nói về cái Việt Bắc oai hùng, cái đất thần thánh, thiêng liêng của cách mạng thì hơi thơ đuối, khí thơ đoản, cái nhiệt tình nóng cháy trên kia tưởng như giảm sút đi”... Cũng như Hoàng Yến, Hoàng Cầm nhận xét:“ Tập thơ Việt Bắc thiếu chất sống thực tế”, là“ thùng nước loãng”, là“ không hiện thực”, cụ thể khi nhận xét về bài Cá nước Hoàng Cầm viết: “Tình cảm gặp gỡ giữa anh cán bộ và anh bộ đội cũng chỉ nhẹ nhàng lớt phớt”. Ở bài Bắn“ Bài thơ tuy có vẻ sôi nổi giục bắn, mà thực ra bàng quan lạnh lùng”… Lê Đạt nhận xét:“ Tính chất tiểu tư sản và xa thực tế là hai khuyết điểm căn bản nó cản trở khả năng hiện thực của Tố Hữu. Nó là nguyên nhân của cái buồn, cái công thức, cái hời hợt rải rác trong tập thơ". Bác lại các ý kiến trên là những bài viết khẳng định giá trị cơ bản và nổi bật của tập thơ Việt Bắc, như của Hoài Thanh, Nguyễn Đình Thi, Vũ Đức Phúc, Xuân Diệu,… cùng một số bạn đọc. Vũ Đức Phúc nhận xét về tập thơ Việt Bắc, cụ thể bài thơ Em bé Triều Tiên “những dòng thơ của Tố Hữu, ngoài việc tả những cảnh thảm thiết, điển hình, có thực, cũng không có một chữ nào nói quá đi để làm cho người đọc ghê rợn”. Hoài Thanh khẳng định “Cả tập thơ Việt Bắc xây dựng trên một tình yêu lớn: tình yêu nước. Giá trị tập thơ, tác dụng tập thơ là ở Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 5 đó”. Nguyễn Đình Thi cũng đánh giá cao thơ Tố Hữu“ Thơ Tố Hữu đi vào thực tế quần chúng”. Xuân Diệu rất nhạy cảm để chỉ ra nét riêng của thơ Tố Hữu là“ Tiếng thơ của tình thương mến” làm nên“ hương vị của thơ Tố Hữu” và là nét chủ đạo trong phong cách nghệ thuật của ông. Cuộc thảo luận kết thúc với bài tổng kết của Hoàng Trung Thông về tập thơ Việt Bắc ( Báo Nhân dân, 11-1955). Năm 2005, Lại Nguyên Ân tập hợp những bài viết trong cuộc thảo luận, thành một ấn phẩm sưu tầm và biên soạn có tên: Tư liệu thảo luận 1955 về tập thơ" Việt Bắc". Nhìn chung, trong quan niệm văn học và cách phê bình lúc này, tính chất xã hội học là nét khá đậm, ở cả những ý kiến đề cao lẫn những ý kiến hạ thấp giá trị tập thơ. Qua hai luồng cảm hứng phủ định và khẳng định giá trị cơ bản của tập thơ, ta thấy những bài viết mang quan điểm phủ định quy chiếu tác phẩm văn học vào các nội dung xã hội, chính trị, đồng nhất văn học với chính trị, vận dụng quan điểm giai cấp một cách máy móc để phân tích văn học. Thậm chí đôi khi còn cường điệu, không nói đúng những gì tác phẩm vốn có, dẫn đến nhận định mang tính chủ quan cho rằng thơ Tố Hữu là“ bản chất tiểu tư sản cách mạng, chủ nghĩa ái quốc trong tập thơ Việt Bắc là chủ nghĩa ái quốc lãng mạn tiểu tư sản”. Trong cuộc thảo luận này ngoài hai luồng ý kiến ngược nhau như trên, cũng đã có nhiều bài phê bình thực sự có giá trị, khám phá và phân tích những giá trị nổi bật của tập thơ Việt Bắc. Để nhìn nhận đúng giá trị, vị trí của tập thơ, ta phải đặt tập thơ trong hoàn cảnh lịch sử xã hội lúc đó. Cụ thể là trong thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp (1946- 1954), thơ Tố Hữu giữ một vị trí quan trọng trong thơ kháng chiến, và được phổ biến rộng rãi, bởi thơ ông đáp ứng được sớm nhất và tốt nhất cho hai yêu cầu cơ bản của văn học cách mạng và kháng chiến- đó là dân tộc hoá và đại chúng hoá như đã được đặt ra trong Đề cương về văn hoá Việt Nam 1943; và hai phương châm: Cách mạng hoá tư tưởng và quần Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 6 chúng hoá sinh hoạt, trong những năm sau đó khi cả dân tộc bước vào cuộc kháng chiến thần thánh chống thực dân Pháp. Trong nền thơ kháng chiến chống Pháp không có một tên tuổi nhà thơ nào có được vị trí xứng đáng như nhà thơ Tố Hữu. Các tác giả khác tên tuổi họ thường chỉ gắn với một hoặc vài bài thơ như Hoàng Lộc với Viếng bạn, Hồng Nguyên với Nhớ, Tân Sắc với Lên Cấm Sơn, Trần Hữu Thung với Thăm lúa, Hồ Vi với Lời quê, Quang Dũng với Tây tiến…Riêng Tố Hữu là sự xuất hiện liên tục, đều đặn những bài thơ được quần chúng yêu mến, cho đến bài thơ dài Việt Bắc được chọn làm tên chung cho tập thơ gồm 37 bài được ấn hành ngay sau hoà bình lặp lại 1954. 2.4. Khảo sát văn bản tập thơ Việt Bắc Tìm hiểu giá trị tập thơ Việt Bắc, trên từng bài riêng lẻ, hoặc chung cho cả tập thơ, chúng ta không thể không kháo sát quá trình nhà thơ sửa chữa trên từng bài, và thêm bớt qua mỗi lần tái bản; qua đó thấy nhà thơ đã dụng công như thế nào để cho Việt Bắc luôn luôn đạt được sự hoàn thiện tối ưu trong tiếp nhận và cảm xúc thẩm mỹ của người đọc. Chưa có điều kiện khảo sát kỹ tất cả các bài; ở đây chúng tôi mới chỉ nêu hai trường hợp ghi nhận sự sửa chữa cẩn trọng của tác giả, từ khi in báo, và được đưa vào sách- đó là bài Lên Tây Bắc và bài Lượm. ● Bài Lên Tây Bắc, đăng lần đầu trên Tạp chí Văn nghệ (số 8, 9 ), tháng 1, 2 năm 1949; với mở đầu: Các anh đi trước, tôi đi sau Cũng lá che lưng lá lợp đầu Bỡ ngỡ anh trông người lính lạ Theo anh không biết để đi đâu Sáng nay ra trận lên Tây Bắc Hai đứa ta cùng đi đánh giặc Tay anh cắp súng vai đeo dao Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 7 Tôi có gì đâu, chỉ cái xắc Tôi đi như đứa trẻ thơ ngây Được mẹ cho theo dự cỗ đầy... Khi đưa vào tập thơ Việt Bắc, theo văn bản in xong ngày 15.4.1955 bốn câu thơ đầu đã bị lược bỏ và sáu câu thơ sau rút lại còn bốn câu thơ: Sáng nay ra trận lên Tây Bắc Hai đứa ta cùng đi đánh giặc Tay dao tay súng, gạo đầy bao Chân cứng đạp rừng gai đá sắc. ● Bài Lượm, đăng lần đầu trên báo Cứu quốc ngày 15.4.1948, với đoạn mở đầu như sau: Cháu Nha Trang ra Gặp chú ở Huế Chú hỏi : Còn ba? Cháu rằng: Mặc kệ ! Cháu không thương ba? Có. Nhưng ba sợ Ba chẳng chịu ra Ba làm cho nó. Cháu theo ông nội Cháu lên Xuân Trường Ông theo bộ đội Ông nội, cháu thương! Rồi Huế đổ máu... Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 8 Khi đưa vào tập Việt Bắc theo văn bản in xong ngày 15.4.1955, thì 12 câu thơ đầu được cắt bỏ và bài thơ được bắt đầu từ câu thơ: Ngày Huế đổ máu Chú Hà Nội về Tình cờ chú cháu Gặp nhau Hàng Bè... Phần cuối bài Lượm in xong ngày 15.4.1948 như sau: Thư đề "thượng khẩn" Chú ngã : Ruột phèo Chú đã chết Chết. Chết thật rồi... Lượm ơi! A chú cười Híp mí Chú đồng chí Chắc bây giờ Chú nửa ngờ Chú chưa biết Chú chết... Chú bé loắt choắt Phần cuối bài Lượm in xong ngày 15.4.1955 được thay bằng một đoạn thơ khác: Vụt qua mặt trận Đạn bay vèo vèo Thư đề" Thượng khẩn" Sợ chi hiểm nghèo! Đường quê vắng vẻ Lúa trổ đòng đòng Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 9 Ca- lô chú bé Nhấp nhô trên đồng... Bỗng loè chớp đỏ Thôi rồ, Lượm ơi! Chú đồng chí nhỏ Một dòng máu tươi! Cháu nằm trên lúa Tay nắm chặt bông Lúa thơm mùi sữa Hồn bay giữa đồng. Lượm ơi còn không? ● Số lượng bài của Việt Bắc từ lần in đầu đến các lần in sau cũng có thay đổi. * Văn bản in xong ngày 15.4.1955, gồm 24 bài thơ. * Văn bản in xong tháng 12 năm 1998, gồm 27 bài thơ. - Thêm: 7 bài thơ ( Đêm xanh, Tình khoai sắn, Trường tôi, Lạnh lạt, Sợ, Bà bủ, Mưa rơi) - Bỏ : 4 bài thơ ( Em bé Triều Tiên, Bao giờ hết giặc, Bài ca tháng Mười, Đời đời nhớ Ông) Nhìn vào sự thay đổi này, chúng ta cũng có thể thấy những biến động lớn của thời cuộc đã quy định chặt chẽ giá trị của tác phẩm như thế nào. Trên đây là khảo sát bước đầu của chúng tôi (chưa thật đầy đủ) về văn bản tập thơ Việt Bắc đã được in và sửa chữa ở những thời gian khác nhau. Khi nghiên cứu chúng tôi dựa theo văn bản in xong tháng 12 năm 1998. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 10 3. Mục đích nghiên cứu Luận văn nhằm chỉ rõ những giá trị về nội dung và nghệ thuật của tập thơ Việt Bắc, đồng thời khẳng định vai trò của tập thơ Việt Bắc trong nền thơ ca kháng chiến chống Pháp và rộng ra là nền thơ ca hiện đại Việt Nam. 4. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu Để thực hiện luận văn, chúng tôi đã được tham khảo và nghiên cứu các tài liệu sau. - Toàn bộ thơ ca kháng chiến chống Pháp (1945- 1954) - Tập thơ Việt Bắc từ văn bản 1 đến văn bản cuối cùng. - Trong khi tập trung khảo sát tập thơ Việt Bắc, chúng tôi chú ý hai tập thơ có mối liên hệ kề cận là tập thơ Từ ấy và tập thơ Gió lộng. - Các công trình, bài viết xung quanh giá trị tập thơ Việt Bắc và về thơ Tố Hữu nói chung. 5. Nhiệm vụ nghiên cứu - Luận văn chỉ ra những giá trị nội dung và nghệ thuật của tập thơ Việt Bắc. - Khẳng định vị trí của tập thơ trong nền thơ ca hiện đại Việt Nam. 6. Phƣơng pháp nghiên cứu - Phương pháp so sánh- đối chiếu. - Phương pháp phân tích- tổng hợp. 7. Cấu trúc của luận văn Ngoài phần Mở đầu và Kết luận, luận văn có cấu trúc gồm 3 chương: Chương 1: Việt Bắc trong nền thơ Việt Nam từ 1945->1954. Chương 2: Giá trị nội dung của tập thơ Việt Bắc. Chương 3: Giá trị nghệ thuật của tập thơ Việt Bắc. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 11 CHƢƠNG I "VIỆT BẮC" TRONG NỀN THƠ VIỆT NAM TỪ 1945 ĐẾN 1954 1.1. Tổng quan về thơ Việt Nam 1945 đến 1954 Cách mạng Tháng Tám năm 1945 chấm dứt ngót tám mươi năm nô lệ dưới ách chủ nghĩa thực dân Pháp, mở ra một kỷ nguyên mới- kỷ nguyên Độc lập Tự do cho dân tộc. Đồng thời giải phóng cho văn học thoát khỏi những quẩn quanh, bế tắc, chán chường, tuyệt vọng, đem lại một nguồn cảm hứng sáng tạo lớn lao cho thơ ca. Trước hết đó là nguồn cảm hứng giải phóng, hồi sinh. Trong bầu không khí những ngày đầu cách mạng, hầu hết các nhà thơ từ các xu hướng nghệ thuật khác nhau đã tập hợp dưới ngọn cờ cách mạng. Chưa nhiều ý thức nhưng lại rất nhiều cảm xúc, bằng sự nhạy cảm của người nghệ sĩ, các nhà thơ đã nhanh chóng nhận ra ý nghĩa lớn lao của thời điểm lịch sử đánh dấu sự hồi sinh dân tộc trong độc lập tự do. Cảm hứng nổi bật và bao trùm thơ ca thời kỳ này là niềm vui sướng, tự hào đến mức say mê, nồng nhiệt trước cuộc“ tái sinh mầu nhiệm”( chữ dùng của Hoài Thanh) của đất nước và con người Việt Nam. Nguồn sống của thời đại mới khơi dậy sức sáng tạo cho các nhà thơ. Với hai khúc tráng ca Ngọn quốc kỳ, Hội nghị non sông, Xuân Diệu đã mở ra chặng đường thơ cách mạng trong sự nghiệp sáng tác của mình. Với Tố Hữu, nhà thơ hàng đầu của nền thơ cách mạng, thì thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám là một luồng gió lớn cuốn mạnh hồn thơ lên đỉnh cao của cảm hứng lãng mạn sôi trào. Hơn bất cứ nhà thơ nào khác, ở tác giả Từ ấy, đó là niềm vui lớn như được dồn tụ vào một điểm hẹn không gian và thời gian: Huế Tháng Tám (1945). Một năm sau, hòa trong dòng người cuồn cuộn của đêm hội hoa đăng giữa lòng Hà Nội chào đón một năm ngày độc lập, Tố Hữu lại tràn ngập một niềm Vui bất tuyệt (1946). Trần Mai Ninh cũng là một cây bút tài năng, giàu nhiệt huyết từ thời kỳ Mặt trận Dân chủ. Nhà thơ da diết những cảm xúc về Tổ Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 12 quốc trong Tình sông núi, dữ dội trong Nhớ máu."Trần Mai Ninh người đón trước và làm kết đọng hai tình cảm lớn của dân tộc, cũng là người đi đầu và sớm nhất trong việc tự do hóa và làm mới câu thơ..."( Lưu Khánh Thơ ) Đứng trước sự đe dọa của thù trong giặc ngoài, nền thơ ca mới đã thể hiện rõ nhiệt tình yêu nước chiến đấu, cổ động toàn dân tham gia vào công cuộc dựng nước và giữ nước, đả kích các thế lực tay sai phản động đang điên cuồng tấn công chính quyền cách mạng. Nền thơ kháng chiến đã thực sự bắt đầu cùng với khí thế giết giặc cứu nước và phong trào Nam tiến sôi nổi ngay sau khi thực dân Pháp quay lại xâm lược Miền Nam. Theo lời kêu gọi của Hồ Chủ tịch, cả nước bước vào cuộc kháng chiến trường kỳ chống thực dân Pháp. Trên chặng đường chín năm ấy, thơ ca đã góp phần tích cực vào công cuộc kháng chiến của dân tộc và xây dựng nên nền móng vững chắc và hết sức cơ bản cho sự phát triển của nền thơ ca hiện đại. Trong nền thơ ca kháng chiến, thơ Hồ Chủ tịch có vị trí và ý nghĩa tiêu biểu. Thơ Bác hướng tới mọi tầng lớp quần chúng nhân dân, khơi dậy sức mạnh của toàn thể dân tộc. Trong lời kêu gọi của vị lãnh tụ như đã vang vọng lời đáp của nhân dân. Những bài thơ trữ tình của Bác trong kháng chiến, kết thành chùm thơ đặc sắc, mở ra một thế giới phong phú, những xúc động tâm tình của vị lãnh tụ cách mạng, của nhà thơ trong một bối cảnh không gian và lịch sử rộng lớn: đất nước kháng chiến, thiên thiên đất nước hiện lên đẹp đẽ với những rung cảm trữ tình, nhưng trung tâm của khung cảnh vẫn là con người, là hình ảnh cuộc kháng chiến: một tiếng chuông báo tin thắng trận, đội quân du kích đánh giặc trở về, tin báo tiệp dập dồn chân ngựa...Thơ Bác là sự kết tinh cao nhất hiện thực kháng chiến, tinh thần kháng chiến. Cả dân tộc bước vào cuộc kháng chiến toàn dân, toàn diện suốt chín năm để giành lại và bảo vệ chủ quyền, độc lập của dân tộc. Cũng như mọi lĩnh vực hoạt động văn hóa tinh thần khác, thơ ca đã được huy động vào cuộc chiến đấu Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 13 của nhân dân, trở thành một nhu cầu không thể thiếu trong đời sống tinh thần của con người Việt Nam kháng chiến. Hoài Thanh nhận xét:" Con người kháng chiến lo lắng, hồi hộp, chờ đợi, hy vọng, phấn khởi, sống dồn trong một hai năm nhiều hơn những cuộc sống nhạt kéo dài trong hàng thế kỉ. Do đó thấy cần phải có thơ. Các nhà thơ làm thơ, anh cán bộ chính trị, anh thông tin, anh đội viên binh nhì, các chị phụ nữ, các em thiếu nhi, hết thẩy đều làm thơ. Hầu hết những con người mang ba lô lặng lẽ đi trên các nẻo đường kháng chiến, trong một cuốn sổ tay nào đó cũng có ít bài thơ, trong các buổi họp mặt, các buổi liên hoan... trên báo tay, báo tường, thơ có khi lại còn nhiều hơn văn xuôi và thơ cũng là phần được công chúng những tờ báo ấy đọc nhiều hơn cả. Trong cuộc chiến tranh nhân dân của chúng ta, tiếng súng, tiếng nhạc, tiếng thơ, cùng hòa điệu". Phong trào sáng tác thơ, ca dao, hò, vè của quần chúng phát triển sôi nổi và rộng khắp: Có thơ của từng giới, từng ngành; có thơ bộ đội, thơ dân công, thơ quân giới, thơ nông binh…; thơ kết thành từng mảng đề tài: thơ phát động, thơ trong chiến dịch sông Thao, thơ chiến dịch Điện Biên Phủ… Phong trào thơ quần chúng là cái nền vững chắc của thơ kháng chiến, là điểm tựa vạm vỡ nâng đỡ cho mọi tìm tòi của nhà thơ. Hướng đi của thơ kháng chiến là nhằm theo cái hướng sống chắc nịch được thể hiện giản dị và lành mạnh trong thơ ca quần chúng. Trong phong trào thơ ca quần chúng nổi bật lên vai trò thơ bộ đội, thơ “đội viên”, thơ của những người lính thực sự. Thơ trở thành một công cụ tự nhận thức, tự giáo dục, trở thành một hình thức tuyên truyền đầy sức mạnh, khi người đội viên, chiến sĩ, chủ yếu là những người lính nông dân ý thức được bản thân mình, cũng ý thức được quyền làm chủ của mình. Và trong sinh hoạt, thơ bộ đội đã diễn ra sự giao thoa và đan kết kỳ lạ giữa cuộc sống và văn thơ, giữa ý thức tự giác và bản năng sáng tạo hồn nhiên, giữa chức năng giáo dục và chức năng giải trí, giữa yêu cầu kháng chiến hóa văn hóa và yêu cầu văn hóa hóa kháng chiến mà Hồ Chủ tịch đã đúc kết thành phương châm. Trong những năm đầu của nền thơ Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 14 ca dân chủ cộng hòa trẻ tuổi, thơ bộ đội, thơ của người lính là một phong trào thơ sôi nổi mạnh mẽ, đóng vai trò khai phá, xung kích của nền thơ kháng chiến. Phương châm dân tộc hoá, đại chúng hóa là xu hướng mà nhiều nhà thơ đã tìm đến ngay từ những năm đầu của cuộc kháng chiến và nó sớm trở thành khuynh hướng chủ đạo trong thơ ca giai đoạn này, đã thu hút nhiều cây bút thuộc nhiều thế hệ khác nhau. Thế hệ nhà thơ trước Cách mạng Tháng Tám cũng chuyển hẳn sang viết những bài thơ theo lối thơ đại chúng. Xuân Diệu có Bà cụ mù lòa, Tặng làng Còng và tập thơ Mẹ con được viết trong thời gian đi tham gia phát động quần chúng ở Thanh Hóa. Chế Lan Viên viết Bữa cơm thường trong bản nhỏ, Nhớ lấy để trả thù. Lưu Trọng Lư dựa trên các điệu dân ca hát giặm, để viết những bài O tiếp tế, Tiếng hát tăng gia, Ngò cải đơm hoa... Nguyễn Bính ở Nam Bộ có hai bài thơ dài Đồng Tháp Mười và Ông lão mài gươm. Tế Hanh kể chuyện Người đàn bà Ninh Thuận…Ở thế hệ nhà thơ này diễn ra bước ngoặt chuyển biến với rất nhiều dằn vặt đớn đau của một qúa trình “lột xác”. Mỗi nhà thơ đều gánh vác những công tác kháng chiến với tinh thần công dân tích cực. Những chuyến đi cùng dân công, cùng bộ đội, những đợt tham gia đấu tranh giảm tô và cải cách ruộng đất, phương châm “cách mạng hóa tư tưởng, quần chúng hóa sinh hoạt” được hưởng ứng một cách tự giác, đã từng bước làm chuyển biến tư tưởng và tình cảm nhà thơ, tuy nhanh chậm khác nhau. Nhìn chung, ở lớp nhà thơ này, quá trình nghiền ngẫm tìm tòi để đổi mới hồn thơ còn kéo dài trên suốt chặng hành trình kháng chiến, có người viết nhiều, viết khỏe nhưng chưa thật nhuần nhuyễn; có người viết còn cầu kỳ, rắc rối; có người viết rất ít, hoặc gần như im lặng. Điều nhận ra ở đây là thơ của họ đã đến với cuộc sống, phản ánh tâm tư nguyện vọng của quần chúng một cách chân thành. Tuy thành quả chưa nhiều, nhưng mỗi nhà thơ đều có những bài thơ có ý nghĩa đánh dấu sự chuyển biến của nhận thức, xúc cảm và bút pháp, góp phần vào thành tựu chung của thơ ca cách mạng. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 15 Bộ phận các nhà thơ trưởng thành trong cuộc kháng chiến sớm từng bước khẳng định sức sáng tạo của mình. Họ đã đến được với tiếng nói trữ tình của quần chúng và đóng góp cho thơ kháng chiến nhiều tác phẩm tiêu biểu. Hoàng Trung Thông với tập Quê hương chiến đấu, Trần Hữu Thung với Đồng tháng năm và Dặn con, Minh Huệ với bài Đêm nay Bác không ngủ, Hồng Nguyên với Nhớ, Hồ Vi với Lời quê... Các nhà thơ dân tộc thiểu số như Nông Quốc Chấn, Bàn tài Đoàn, và nhiều nhà thơ khác đã đem đến cho thơ kháng chiến tiếng thơ độc đáo, hồn nhiên, mang bản sắc riêng của mỗi dân tộc... Phần lớn trong số họ được rèn luyện và trưởng thành từ công tác kháng chiến, từ phong trào văn nghệ quần chúng. Thực tế lớn lao của kháng chiến, vẻ đẹp lớn lao của những con người đánh giặc là cảm hứng chủ đạo, thôi thúc họ cầm bút với những trang viết tràn đầy cảm xúc về tình đồng chí, đồng đội, lòng yêu quê hương, tinh thần chiến đấu, trách nhiệm công dân và lòng trung thành với Tổ quốc. Thơ kháng chiến tập trung biểu hiện những tình cảm cộng đồng và tinh thần công dân mà bao trùm là tình yêu nước, với những biểu hiện phong phú, thấm sâu vào mọi mặt trong đời sống của con người kháng chiến. Thế giới của cái"tôi" trở nên chật hẹp, thậm chí bị coi là lạc lõng, vô nghĩa khi nó không hòa nhập vào cái "ta" cộng đồng. Con người kháng chiến sống với những biến cố dữ dội, những sự kiện lịch sử, những rung động mạnh mẽ và mới lạ, họ chỉ thực sự tìm thấy sức mạnh, niềm vui và niềm tin tưởng ở trong đội ngũ đông đảo của tập thể, của giai cấp và dân tộc. Cách mạng không chỉ giải phóng cho đông đảo quần chúng nhân dân mà còn phải dựa hẳn vào lực lượng quần chúng, phát huy sức mạnh vĩ đại và tiềm năng cách mạng của quần chúng để thực hiện những sự nghiệp lớn. Quần chúng nhân dân, mà trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp chủ yếu là công nông binh, đã trở thành nhân vật chính yếu của lịch sử, do đó trở thành những nhân vật chủ chốt và tiêu biểu của nền văn học mới. Trong thơ kháng chiến, hình ảnh con Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 16 người quần chúng đã xuất hiện ngay từ buổi đầu và ngày càng đông đảo, đa dạng, chân thực. Làm biến đổi hẳn các dạng thức của cái "tôi" trữ tình và nhân vật trữ tình trong thơ lãng mạn trước đây. Cách mạng và kháng chiến đưa thơ trở về với hiện thực cuộc sống của đất nước và nhân dân. ._.Giúp các nhà thơ tìm thấy chất thơ trong cuộc sống hàng ngày, trong sinh hoạt, lao động và đấu tranh của quần chúng. Con đường đi của phong trào thơ mới trước Cách mạng là con đường thoát ly thực tại, tìm đến cảnh tiên hay tìm về quá khứ vàng son và còn bao nhiêu những lối thoát ly khác nữa, trong tình và mộng, trong vũ trụ siêu hình, hoặc trong cái "tôi" cô đơn, cô độc. Nhà thơ của thời đại mới trước hết là một công dân, một cán bộ, hay chiến sĩ, sống với cuộc đời thực, với mọi gian khổ, buồn vui, lo lắng, hy vọng của con người kháng chiến, cùng với đông đảo mọi người. Đời sống như vậy đã tác động và làm biến đổi cách nhìn, cách nghĩ, điệu cảm xúc của người làm thơ. Các nhà thơ Việt Nam thời kỳ này tề tựu đông đủ trở thành một lực lượng mạnh, tràn đầy khí thế sôi nổi, đem hết tâm hồn và nghị lực của mình hòa chung vào dòng thác lớn thời đại, cố gắng nắm bắt hiện thực mới. Họ đã xây dựng nhiều hình ảnh đẹp về anh bộ đội, những người lính giản dị mà vô cùng anh dũng; về những người mẹ, người phụ nữ cần cù chịu khó và giàu lòng yêu thương; về những em bé gan dạ, quên mình vì kháng chiến; về lòng biết ơn sâu sắc với Chủ tịch Hồ Chí Minh; về những tên đất, tên làng, những trận đánh được phản ánh khá chi tiết; về những sự việc, chính sách, đường lối kháng chiến được thể hiện khá nhuần nhị, làm nên diện mạo mới cho nền thơ ca kháng chiến. Trong nền thơ kháng chiến, tập thơ Việt Bắc là thành công lớn nhất, tiêu biểu nhất." Chỉ có nhà thơ lớn mới có thể hiểu thấu chất thơ của thời đại mình vì chất thơ của mọi thời đại trước đó bao giờ cũng dễ hiểu hơn"( H. Hainơ). Tố Hữu là nhà thơ lớn trước hết theo ý nghĩa ấy. Vậy điều gì đã khiến nhà thơ có được sự thành công. Đó là: Ông tiếp thu truyền thống thơ ca dân gian, cổ điển của dân tộc, Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 17 một sự tiếp nhận sâu và đa diện, tiếp nhận một cách sáng tạo đầy bản lĩnh những tinh hoa của thơ ca truyền thống, để góp phần diễn tả một cách sinh động những tư tưởng, tình cảm mới của thời đại. Những sự kiện lịch sử, cảm xúc rất mới đã được ghi lại trong tập thơ Việt Bắc với ngôn ngữ mộc mạc, giản dị, tự nhiên, chứa đựng lối nói, lối nghĩ của quần chúng. Ngòi bút của Tố Hữu tiến lên nối tiếp truyền thống của các nhà thi hào cổ điển ở bút pháp hết sức tinh tế, chất trữ tình tha thiết, khêu gợi nhiều hơn diễn tả, chữ đúc lại với nhau. Là nhà thơ tiếp thu những tinh hoa của các thế hệ nhà thơ nổi tiếng từ trước 1945 như Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh, Xuân Diệu, Huy Cận, Lưu Trọng Lư...và thế hệ các nhà thơ trưởng thành trong kháng chiến như Chính Hữu, Hoàng Trung Thông, Trần Hữu Thung...Ông là người có tư cách cùng lúc đại diện cho cả hai thế hệ nhà thơ trong sự gắn bó những gì ưu tú nhất. Sự kế tục dòng thơ cách mạng của các chiến sĩ cộng sản, nhưng đã được đổi mới trên cơ sở vận dụng những thành tựu hiện đại hoá thơ ca đương thời, đem đến cho văn học cách mạng một tiếng thơ mới mẻ. Âm hưởng hùng tráng, trong không khí lạc quan hừng hực đấu tranh bảo vệ thành quả cách mạng, hình ảnh, ngôn ngữ, nhịp điệu câu thơ đều thể hiện tình cảm thiết tha gắn bó với non sông đất nước và lòng căm thù giặc. Thơ giàu chất liệu hiện thực, cuộc sống đời thường tràn vào thơ, và làm cho lời thơ gần gũi với tiếng nói hàng ngày, ở giọng thơ tâm tình, ngôn ngữ giản dị của bản thân hiện thực. Những con người thật đi vào thơ ông như những nguyên mẫu nhưng vẫn lung linh những nét sáng tạo của riêng Tố Hữu. Nhà thơ học cách viết lấy người thực, việc thực làm hạt nhân tìm tứ thơ trong đời sống của nhân dân. Tố Hữu sử dụng những vần thơ 5 tiếng, 7 tiếng, các loại thơ tự do, cùng với việc sử dụng vần liên tục... Tố Hữu đã nói: "Ở họ, Thế Lữ, Xuân Diệu, Chế Lan Viên, Huy Cận, tôi đã học những sinh lực mới, những hình thức mới để biểu hiện, những hình thức diễn đạt mới, một ngôn ngữ trực tiếp hơn, thơ hơn, nhân tình hơn, uyển chuyển hơn". Nhưng cái khác là ở Tố Hữu còn có những nét mạnh dạn, những điều đặc sắc mà người khác không thấy. Tác giả nhìn thẳng vào thực Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 18 tế, để tâm hồn mình rung cảm sâu sắc với thực tế, rồi nói lên cảm xúc ấy bằng những lời tự nhiên, không kiểu cách, đầy sức mạnh của sự thật để diễn tả đúng nguyện vọng, tâm tình của nhân dân. Tố Hữu đã thực sự nắm bắt được chất thơ của thời đại và điều quan trọng đã thể hiện được nó bằng nghệ thuật, thông qua sự sáng tạo riêng mình. Chất thơ của hiện thực kháng chiến, Tố Hữu đã lĩnh hội được sớm nhất, nói lên được một cách giản dị và thấm thía nhất. Xuân Diệu đã nói cảm tưởng của mình khi đọc bài thơ Cá nước của Tố Hữu:" Tôi còn nhớ cái cảm tưởng đầu tiên của tôi khi đọc bài thơ Cá nước trong số 1 này, một chất gì đó đã sinh ra, cái chất đó chỉ có thể sinh ra được do tâm hồn người:" Tôi ở Vĩnh Yên lên- Anh trên Sơn Cốt xuống- Gặp nhau lưng đèo Nhe- Bóng tre trùm mát rượi". Đó là chân thành, chân thành. Đó là Tố Hữu, Tố Hữu. Chúng tôi, một số thi sĩ đã viết thơ từ trước Cách mạng Tháng Tám, không phải là chúng tôi không biết sào nấu cho thơm điếc mũi lên, nhưng chúng tôi đứng lặng trước cái chất tình người này: "Một thoáng lặng nhìn nhau- Mắt đã tìm hỏi chuyện- Đôi bộ quần áo nâu- Đã âm thầm thương mến...". Tố Hữu còn tìm đến một tâm thế trữ tình mới hướng vào khẳng định, ngợi ca nhân vật quần chúng bằng cách sáng tạo kiểu trữ tình nhập vai hoặc để cái“ tôi” nhà thơ lùi lại phía sau làm nổi bật hình ảnh quần chúng". Vì vậy, Tố Hữu là nhà thơ thời sự thành công nhất trong nền thơ Cách mạng, có sự khởi đầu tuyệt đẹp từ sau 1945. Chuyện đời vào thơ với tất cả vẻ tươi tắn, vừa đậm tính dân tộc vừa hiện đại đã truyền cảm trực tiếp vào hàng triệu trái tim. Điều đó được ghi nhận trong tập thơ Việt Bắc như một bước phát triển mới sau Từ ấy. 1.2. Con đƣờng thơ Tố Hữu từ tập thơ Từ ấy sang tập thơ Việt Bắc 1.2.1. Từ tập thơ "Từ ấy"... Từ ấy (1937- 1946) là chặng đầu mười năm thơ Tố Hữu cũng là mười năm hoạt động sôi nổi, say mê từ giác ngộ qua thử thách đến trưởng thành của một người thanh niên cách mạng trong một giai đoạn lịch sử sôi động của xã hội Việt Nam. Toàn bộ tập thơ thể hiện cuộc đời của một chiến sĩ cộng sản trẻ tuổi lao vào Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 19 cuộc đấu tranh cách mạng với tất cả tâm hồn và bầu nhiệt huyết của mình. Là sự biểu hiện một cách chân thực cái " tôi” hết sức trong sáng, hồn nhiên của một thế hệ thanh niên khát khao lý tưởng, tự ca hát niềm vui lớn của mình khi bắt gặp lý tưởng cộng sản chủ nghĩa. Nhà thơ hình dung đó là" mặt trời chân lý" và nguyện được chiến đấu hy sinh cho lý tưởng ấy: Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ Mặt trời chân lý chói qua tim Hồn tôi là một vườn hoa lá Rất đậm hương và rộn tiếng chim. ( Từ ấy, 1938) Ánh sáng lý tưởng chiếu rọi vào tâm hồn trẻ làm bừng nở một thế giới đầy hương sắc, tràn trề sức sống và niềm vui. Sự giác ngộ lý tưởng ấy tạo nên một cái“ tôi” trữ tình kiểu mới trong thơ: cái“ tôi” gắn bó với muôn người, ở giữa mọi người" Tôi buộc lòng tôi với mọi người. Để tình trang trải với trăm nơi. Để hồn tôi với bao hồn khổ. Gần gũi nhau thêm mạnh khối đời". Niềm vui tràn trề của một tâm hồn trong trạng thái bừng ngộ, hòa vào niềm hân hoan của cả một thế hệ thanh niên cách mạng tạo nên một cảm xúc ngây ngất say mê: Ồ vui quá! Rộn ràng trên vạn nẻo Bốn phương trời vào theo dấu muôn chân Cũng như tôi, tất cả tuổi đương xuân Chen bước nhẹ trong gió đầy ánh sáng ( Hy vọng, 1938 ) Những bài thơ đầu của Tố Hữu đã bộc lộ một tâm hồn giàu cảm thông, sẵn sàng chia sẻ với cảnh ngộ và số phận những con người nhỏ bé. Nhà thơ xúc động trước cảnh khổ của nhân dân, từ em bé đến cụ già đều phải sống trong cực nhục, trong đêm tăm tối. Nhờ giác ngộ lý tưởng, nên Tố Hữu nhìn rõ thực trạng bất công, ngang trái của xã hội. Nhà thơ không dừng lại ở sự cảm thông chia sẻ mà còn muốn thức tỉnh ở những con người lao khổ ấy lòng căm hận, ý chí đấu tranh và niềm tin ở ngày mai. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 20 Trong những năm tháng bị giam cầm, người thanh niên ấy luôn thấm thía nỗi cô đơn vì phải xa phong trào, xa những người đồng chí. Với Từ ấy, ta được thấy tâm hồn nhạy cảm của ông khi đang nằm lắng nghe sau tầng tầng cửa sắt những tiếng dội thưa thớt của đời sống hằng ngày bên ngoài:" Dưới đường xa nghe tiếng guốc đi về”; khi nhà thơ gửi gắm những lời tâm huyết với người bạn tù“ đồng chí”; khi bâng khuâng“ nhớ người” và “ nhớ đồng”; hoặc khi thét lên cái ý chí đấu tranh trong những ngày tuyệt thực… Tất cả đều cháy bỏng nỗi khát khao tự do để được hoạt động. Suốt ba năm bị giam cầm đày ải trong các nhà tù thực dân, nếm trải nhiều gian nguy, có lúc đã cận kề bên cái chết, tinh thần và ý chí của người thanh niên cách mạng được tôi rèn để càng trở nên vững vàng, kiên định. Con cá chột nưa thể hiện chân thực cuộc đấu tranh nội tâm của người tù để giữ vững khí tiết cách mạng, được trình bày như một màn kịch với sự xung đột giữa một bên là“ cái bụng” với một bên là lương tâm của người chiến sĩ, cho dù ở bất kỳ hoàn cảnh nào thì người chiến sĩ vẫn phải giữ cho được ý chí, phẩm chất của người cách mạng. Trải qua cảnh tù đầy khắc nghiệt, tâm hồn người cách mạng trẻ tuổi vẫn nguyên vẹn sự nhạy cảm, tinh tế, giàu tình thương và luôn tha thiết với cuộc sống. Nằm trong xà lim Quy Nhơn, tâm hồn nhạy cảm của ông luôn hướng vào cuộc sống bên ngoài nhà tù, lắng nghe và đón nhận những âm thanh của cuộc sống, thiên nhiên và con người, từ một tiếng dơi chiều đập cánh, tiếng guốc đi về, một tiếng rao đêm ...lọt vào qua cánh cửa nhà tù. Niềm căm hận kiếp tù đày, khát vọng tự do và ham muốn được hoạt động, tất cả đã dồn tụ để thổi bùng lên một quyết tâm hành động vượt ngục: Núi hỡi! Từ đây băng xuống đó Chừng bao nhiêu dặm, mấy đêm trường? ( Tiếng hát đi đày, 1942) Sau khi thoát tù, nhà thơ kêu gọi lứa tuổi trẻ hãy mạnh dạn dấn thân vào cuộc đấu tranh trong thời điểm mà khí thế cách mạng đang sục sôi. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 21 Đi, bạn ơi, đi! Sống đủ đầy Sống trào sinh lực, bốc men say Sống tung sóng gió thanh cao mới Sống mạnh, dù trong một phút giây ( Đi, 1944 ) Trong những ngày sôi sục của Cách mạng Tháng Tám và trong niềm vui tưng bừng của độc lập tự do, hồn thơ Tố Hữu như được chắp cánh bay bổng trong cảm hứng lãng mạn say sưa với niềm vui lớn của dân tộc. Huế tháng Tám ghi lại hình ảnh kinh thành Huế trong giờ phút lịch sử trọng đại ngày 23- 8-1945, khi chính quyền về tay nhân dân, một hình ảnh thật lớn lao, bay bổng" Ngực lép bốn nghìn năm, trưa nay cơn gió lạnh, Thổi phồng lên, tim bỗng hóa mặt trời" Ở Từ ấy Tố Hữu đặt ra nhiều vấn đề trước cuộc đời. Người thanh niên trí thức, khi tâm hồn bừng sáng lý tưởng cách mạng, đã nhìn cuộc đời từ nhiều phía, trong tầm xa và chiều sâu, trong quan hệ giữa sự sống và cái chết, cái riêng và cái chung; dân tộc và thời đại,… Từ ấy mang theo hơi thở và máu thịt của cuộc đời chung, nhưng trước hết là của tác giả: sôi nổi, trẻ trung và thanh khiết, cái đẹp, cái cao cả của lý tưởng, của cuộc đời đang đẩy lùi mọi cái xấu xa, vẩn đục. Từ ấy có phần là tiếng hát, có phần là nỗi niềm tâm sự và có cả tiếng nói quyết tâm của ý chí trên con đường đấu tranh. Cái“ tôi” của người cộng sản trẻ tuổi ghi dấu ấn đậm nét. Nói như Hoài Thanh Từ ấy là“ Tiếng ca của một thanh niên, một người cộng sản” 1.2.2... đến tập thơ "Việt Bắc" Tập thơ Việt Bắc (1946-1954) thể hiện sự chuyển biến mạnh mẽ của thơ Tố Hữu theo hướng dân tộc và đại chúng, phù hợp với phương châm của nền văn nghệ mới, như được ghi trong Đề cương về văn hoá Việt Nam- 1943. Nếu như ở Từ ấy nổi bật và kết tinh giá trị của tập thơ là hình tượng cái "tôi" trữ tình tác giả - người thanh niên cộng sản, thì đến Việt Bắc là bước chuyển Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 22 từ cái "tôi" sang cái "ta" chung của dân tộc, của giai cấp. Là bản hợp ca của một dân tộc anh hùng không chịu khuất phục trước bất cứ kẻ thù nào, trước bất cứ khó khăn, gian khổ nào để dành cho được độc lập, tự do. Bản hợp ca đó được xây dựng trên một nền trữ tình phong phú, nổi bật là hình tượng quần chúng nhân dân kháng chiến. Có thể nói tập thơ Việt Bắc là hình ảnh, tâm tình, tiếng nói của quần chúng kháng chiến. Nhà thơ tập trung thể hiện hình ảnh những con người đại diện cho quần chúng với những chi tiết chân thực mà bình dị của đời sống, trong mọi hoạt động kháng chiến với tâm tình, ý nghĩ và tiếng nói của họ. Đó là anh Vệ quốc quân đã làm nên chiến thắng Việt Bắc vang dội: Giọt giọt mồ hôi rơi Trên má anh vàng nghệ Anh Vệ quốc quân ơi Sao mà yêu anh thế! ( Cá nước, 1947) Là chị nông dân con mọn vượt lên những gian khổ, thiếu thốn, hăng hái tham gia tiêu thổ kháng chiến," phá đường" chặn bước đi của giặc: Nhà em phơi lúa chửa khô Ngô chửa vào bồ sắn thái chưa xong Nhà em con bế con bồng Em cũng theo chồng đi phá đường quan (Phá đường, 1948) Là những người mẹ nông dân chất phác gắn bó tình nghĩa với kháng chiến, hòa làm một tình thương con với lòng yêu nước: Bà bủ không ngủ, bà nằm Càng lo càng nghĩ, càng căm càng thù Ngoài phên gió núi ù ù Mưa đêm mưa tự chiến khu mưa về… ( Bà bủ, 1948) Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 23 Là em bé liên lạc hồn nhiên, anh dũng ngã xuống trên cánh đồng quê tháng mười dưới làn đạn giặc mà linh hồn và hình ảnh của em vẫn còn mãi với quê hương đất nước: Cháu nằm trên lúa Tay nắm chặt bông Lúa thơm mùi sữa Hồn bay giữa đồng… (Lượm, 1949) Trong Việt Bắc, cái "tôi” trữ tình nhà thơ đã hóa thân vào các nhân vật quần chúng hoặc có hiện diện cũng chỉ là đường viền làm nổi bật hình ảnh những con người quần chúng. Những con người bình thường, cụ thể đó bỗng được nâng lên thành biểu tượng của Nhân dân, của Tổ quốc. Lịch sử thơ ca Việt Nam từ cổ điển đến hiện đại, có lẽ chưa đâu có những hình ảnh sinh động và thấm thía yêu thương như thế về những con người bình thường mà làm nên lịch sử. Tình cảm bao trùm và sâu đậm nhất trong tập thơ Việt Bắc là lòng yêu quê hương đất nước. Tình cảm ấy được biểu hiện phong phú, sâu sắc trong nhiều trạng thái đa dạng. Đó là tình nghĩa gắn bó giữa hậu phương với tiền tuyến, là mối tình gắn bó thân thiết giữa người miền xuôi với người miền ngược, là lòng biết ơn sâu nặng của người cán bộ với đồng bào Việt Bắc, và trên hết là lòng kính yêu của nhân dân với lãnh tụ... Tất cả được thể hiện trong một mối tình "cá nước" thắm thiết tình nghĩa, cùng hoà trong niềm tự hào dân tộc và niềm vui chiến thắng. Thiên nhiên đất nước hiện lên với nhiều cảnh sắc đa dạng, phong phú khi thì" hắt hiu lau xám đậm đà lòng son", khi lại "trăng lên đầu núi nắng chiều lưng nương", khi lại có những cảnh rộn rã, tấp nập trong sinh hoạt kháng chiến của cơ quan, những cảnh hào hùng của từng đoàn dân công, bộ đội đi chiến dịch... tạo nên bức tranh thật sinh động, phong phú. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 24 Việt Bắc, là chặng đường có vị trí quan trọng trên hành trình thơ Tố Hữu. Đến tập thơ này, cái"tôi” của nhà thơ đã thực sự hoà nhập vào đời sống nhân dân, thấu hiểu và gần gũi với cuộc đời, tâm tình, ước nguyện của quần chúng kháng chiến. Thơ Tố Hữu đã bắt được vào nguồn mạch sâu xa và bền bỉ của truyền thống văn hóa dân tộc, đồng thời thể hiện được lý tưởng cách mạng, tinh thần của thời đại trong việc làm, hành động, ý thức và tinh thần của đông đảo quần chúng. Cái"tôi” ấy hầu như mất hẳn cái riêng để trở thành cái "ta” của Đảng, của nhân dân và của dân tộc. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 25 CHƢƠNG II GIÁ TRỊ NỘI DUNG CỦA TẬP THƠ“ VIỆT BẮC” 2.1. Khát vọng và niềm vui giải phóng Đất nƣớc qua các chặng đƣờng 2.1.1. Cách mạng Tháng Tám năm 1945 Cách mạng Tháng Tám năm 1945 là cuộc bùng nổ long trời lở đất, chấm dứt ách đô hộ tám mười năm của thực dân Pháp, mở ra một thời đại vẻ vang cho dân tộc: thời đại Hồ Chí Minh, thời đại của độc lập, tự do, và chủ nghĩa xã hội. Cách mạng Tháng Tám đã đáp ứng nguyện vọng sâu xa của toàn thể dân tộc, mở ra trước mắt mọi người những chân trời bao la, niềm phấn khởi dâng trào, khí thế của quần chúng thật là hào hùng quyết liệt khi nước nhà dành được chính quyền. Từ những bài thơ ra đời ngay sau ngày Cách mạng thành công cho đến bài thơ cuối cùng: Hoan hô chiến sĩ Điện Biên, chào đón hoà bình, từ biệt Việt Bắc về xuôi, có thể nói Tố Hữu đã giương cao lá cờ chiến đấu của thơ, tô thắm cho nó và giữ thắm cho nó trong suốt chín năm, để nói lên những tình cảm lớn của con người cách mạng và kháng chiến; là tiếng thơ sớm nhất và lớn nhất nói lên thấm thía những sự đổi đời của dân tộc. Một số bài thơ tiếp nối Từ ấy và Việt Bắc như: Huế tháng Tám (1945), Xuân nhân loại (1946), Vui bất tuyệt (1946) là những bài được Tố Hữu viết trong niềm vui chiến thắng khi nước nhà giành được chủ quyền dân tộc. Sự ra đời của tập thơ Việt Bắc tiếp nối cảm hứng giải phóng dân tộc của tập thơ Từ ấy. Cái vui của thơ Tố Hữu trong những ngày Tháng Tám vẫn lôi cuốn chúng ta rất mãnh liệt, và cảm hứng giải phóng khi nước nhà độc lập được ghi lại sâu đậm trong những vần thơ mới: Đi, đi, đi ! ôi nhịp đời phơi phới Trăng sáng, đường dài Ta đều chân : Một ! Hai ! Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 26 Ta đều ca Lời ca bất tuyệt Ôi đất Việt Yêu dấu Ngàn năm… (Đêm xanh, 1946) Đó cũng là lời thiêng, là tình cảm kết đọng trong bản nhạc Diệt phát xít của Nguyễn Đình Thi - "Ôi đất Việt yêu dấu ngàn năm". Tiếp đó là những ngày toàn dân tộc hưởng ứng lời kêu gọi của Hồ Chí Minh chống ba loại giặc: giặc đói, giặc dốt, giặc ngoại xâm. Ở khắp mọi nơi, toàn dân sôi nổi tham gia phong trào tăng gia sản xuất, những ngày khoai sắn mọc xanh khắp mọi nơi, con người vui say trong công việc, với tinh thần đoàn kết, thi đua lao động không biết mệt mỏi: Rồi từ hôm đó, bọc hoàng cung Lớp lớp khoai xanh mượt vạn vồng Lòng đất kiêu kiêu nghe nặng củ Khách dừng âu yếm, ngẩn ngơ trông… (Tình khoai sắn, 1946) Sau chống đói là chống dốt với phong trào Bình dân học vụ, mà tất cả các tầng lớp quần chúng nhân dân đều tích cực hưởng ứng: Nghiêng đầu trên tấm bảng chung Phơ phơ tóc bạc, bạn cùng tóc xanh Này em, này chị, này anh Chen vai mà học, rách lành sao đâu ! (Trường tôi, 1946) Không đầy một tháng sau, thực dân Pháp trở lại xâm lược nước ta. Kháng chiến Nam Bộ, rồi toàn quốc kháng chiến bùng nổ. Lời kêu gọi của Hồ chủ tịch Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 27 vang dậy thấm sâu vào trái tim của mỗi người dân Việt Nam.“Chúng ta thà hy sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ…Ai có súng dùng súng, ai có gươm dùng gươm. Không có gươm thì dùng cuốc, thuổng, gậy gộc, ai cũng phải ra sức chống thực dân cứu nước… Dù phải gian lao kháng chiến, nhưng với một lòng kiên quyết hy sinh, thắng lợi nhất định về dân tộc ta”. Trong những ngày đầu phòng ngự với chủ trương tiêu thổ những thành phố, thị trấn, phá cầu đường để cản bước tiến công của giặc, một bài thơ được truyền tụng đến thuộc lòng, là bài Phá đường ghi tạc không phai công sức của nhân dân vào lịch sử: Đêm nay gió rét trăng lu Rộn nghe tiếng cuốc chiến khu phá đường... ( Phá đường, 1948) Vậy, chúng ta có thể nhận thấy đây là chặng đường đầu tiên, những ngày đầu phòng ngự của của cuộc kháng chiến đã được Tố Hữu ghi lại bằng những vần thơ hết sức chân thực. Cùng với diễn biến lịch sử của dân tộc, thơ Tố Hữu luôn theo sát cuộc kháng chiến trường kỳ của dân tộc. 2.1.2. Kháng chiến chín năm Cuộc kháng chiến chống Pháp đã tỏ rõ sức mạnh và sức sáng tạo lớn lao của quần chúng- cái sức mạnh trước kia còn ẩn tàng, mai phục, chưa có dịp bộc lộ hết thì nay đã trở thành sự thật hiển nhiên, hàng ngày, đập vào tai mắt, vào suy nghĩ và tưởng tượng của mỗi người. Với Việt Bắc, thơ Tố Hữu đã thực sự chín và ngang tầm với đề tài như được thể hiện qua bốn câu thơ đề từ: Nhân dân là bể Văn nghệ là thuyền Thuyền xô sóng dậy Sóng đẩy thuyền lên Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 28 Cái bể nhân dân được cách mạng lay dậy tự đáy sâu, dâng lên cuồn cuộn đã đẩy sáng tác thơ ca lên một trình độ cao. Có một sự chuyển hướng rõ rệt trong sáng tác của Tố Hữu. Cuộc kháng chiến bùng nổ, bài thơ xuất sắc đầu tiên trong giai đoạn này của Tố Hữu là bài Cá nước không còn những câu thơ trực tiếp trình bày ý nghĩ của tác giả mà là sự thâm nhập tự nhiên vào những suy tư, cảm nghĩ của quần chúng: Tôi ở Vĩnh Yên lên Anh trên Sơn Cốt xuống Gặp nhau lưng đèo Nhe Bóng tre trùm mát rượi. (Cá nước, 1947) Không cần giảng giải, thuyết lý, bài thơ có sự thuyết phục của cái hiện thực trực tiếp, như thể tai nghe mắt thấy. Với Việt Bắc, nhà thơ không còn tự nói về mình, việc tự biểu hiện trực tiếp hầu như không còn nữa, thay vào những trữ tình riêng tư là sự thể hiện trực tiếp cảm nghĩ của quần chúng cách mạng. Anh Vệ quốc quân lần đầu xuất hiện trong thơ dễ thương đến lạ lùng; tiếp xúc với anh ai mà không cùng đồng lòng thốt lên như Tố Hữu: Anh Vệ quốc quân ơi Sao mà yêu anh thế! (Cá nước, 1947) Cuộc kháng chiến ở hậu phương được tái hiện qua hình ảnh những người nông dân bình dị. Đó là bà mẹ Việt Nam; bà mẹ đẻ những người Vệ quốc quân, bà mẹ nuôi các anh cán bộ. Tố Hữu đã ca ngợi bà mẹ đó trong hình ảnh bà bủ Việt Bắc ngồi kể" chuyện nhà chuyện cửa" bên bếp lửa, trên nhà sàn; trong hình ảnh "bà bủ nằm ổ chuối khô" nhớ con đi bộ đội; bà bầm suốt đời thắt lưng buộc bụng. Là chị nông dân con mọn vượt lên những gian khổ thiếu thốn hăng hái tham gia công tác kháng chiến. Tố Hữu đã tạo ra điển hình chú Lượm tượng trưng cho các cháu bé nhỏ và anh dũng của Bác Hồ. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 29 Tố Hữu là nhà thơ của thời đại, hành trình thơ Tố Hữu luôn là sự vận động không ngừng, phát triển. Tác giả nhìn theo con mắt sử thi để thấy được tầm vóc to lớn, trách nhiệm nặng nề của con người thời đại. Do đó việc chuyển sang thể tài sử thi đánh dấu một bước tiến trong tư duy nghệ thuật và tiếng thơ Tố Hữu. Mặc dù ở Từ ấy đã có yếu tố sử thi, như trong hình ảnh Mã Chiếm Sơn" buông cương và ngẫm nghĩ", như hình ảnh" Những người không chết", nhưng sang Việt Bắc thì chất liệu này mới chiếm địa vị chủ đạo. Các vấn đề của thơ Tố Hữu thời kỳ này bao giờ chủ yếu cũng là các vấn đề đặt ra giữa "ta" và "nó","chúng ta" và"chúng nó"...chứ không còn là vấn đề giữa" anh" và" em", giữa cá nhân này với cá nhân khác. Nếu có khi nhà thơ nêu vấn đề giữa" mình" và "ta" thì đó là"mình" và"ta" với tầm vóc dân tộc. 2.1.3. Chiến thắng Điện Biên phủ Với chiến thắng Điện Biên phủ, hồn thơ Tố Hữu như được nâng bổng, vươn xa trong cảm hứng sử thi hào hùng và tầm khái quát lịch sử. Bài Hoan hô chiến sĩ Điện Biên mang đậm tính thời sự, ghi lại một cách đậm nét khí thế của thời đại trong bước ngoặt đi lên của lịch sử dân tộc. Kế tiếp, Tố Hữu viết Ta đi tới với khí thơ hùng mạnh, tương ứng với bước đi không có gì ngăn nổi của dân tộc. Những bước đi hào hùng từ “ Bắc Sơn, Đình Cả, Thái Nguyên”, những chặng đường dài chín năm vượt mọi gian khổ hy sinh để hôm nay đến được niềm vui lớn: Ta đi giữa ban ngày Trên đường cái, ung dung ta bước Đường ta rộng thênh thang tám thước… (Ta đi tới, 1954) Trong không khí náo nức, hào hùng, càng tự hào về Tổ quốc và nhân dân, ta càng yêu quê hương, đất nước: Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 30 Đẹp vô cùng, Tổ quốc ta ơi ! Rừng cọ đồi chè đồng xanh ngào ngạt Nắng chói Sông Lô, hò ô tiếng hát Chuyến phà dào dạt, bến nước Bình Ca. (Ta đi tới, 1954 ) Bài Việt Bắc mang tên chung của tập thơ là thi phẩm xuất sắc nhất của thơ Tố Hữu thời kỳ kháng chiến chống Pháp và là một trong những bài thơ hay nhất của thơ ca hiện đại. Bài thơ là cuộc đối thoai giữa mình và ta, ta và mình, giữa người cán bộ về xuôi với Việt Bắc ở lại: Mình về mình có nhớ ta Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng (Việt Bắc, 1954) Mười lăm năm ấy với biết bao sự kiện, biết bao cảm xúc, bao kỷ niệm dạt dào tình nghĩa. Việt Bắc với sinh hoạt ở chiến khu, thời kỳ Việt Minh, kháng Nhật, với mái đình HồngThái, cây đa Tân Trào, với biết bao địa danh không thể nào quên. Dưới ngòi bút của Tố Hữu, Việt Bắc hiện lên rất chân thực và xúc động cùng với niềm tự hào đã chiến thắng kẻ thù xâm lược khép lại một trang sử vẻ vang. Đúng như Xuân Diệu nhận định:" Đến bài Việt Bắc, lại là đỉnh thơ cao nhất mà Tố Hữu đã bước lên. Với bài này, hồn thơ cũng như nghề thơ của Tố Hữu chín rộ (...), không phải một cây bút trong tay Tố Hữu nữa, mà nhiều ngọn bút nở cùng một lúc, bút tả tình, bút tả cảnh, bút tả người. Người ta thấy văn chương cách mạng chí nghĩa, chí tình, cái văn chương nên thơ, nên nhạc.[33] Nếu như ở phần đầu Việt Bắc cái"tôi" trữ tình của nhà thơ thường nhập vai nhân vật quần chúng hoặc trực tiếp làm nổi bật những con người quần chúng, thì ở những bài thơ viết vào giai đoạn cuối cuộc kháng chiến lại nổi bật cái "tôi" sử thi, mang tính khái quát và đại diện cho nhân dân, dân tộc, cách mạng; đi liền với cái "tôi' sử thi ấy là giọng hào sảng, kiêu hãnh và đầy tin tưởng. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 31 Như vây, trên hành trình lịch sử của cách mạng, của dân tộc, hồn thơ của Tố Hữu đều có những tiếng ngân vang xứng đáng, có sự vận động không ngừng và luôn phát triển theo đà đi lên của cách mạng. Đọc tập thơ Việt Bắc người đọc có thể hình dung được bước đi của dân tộc ta trong cuộc kháng chiến trường kỳ đến với chiến thắng Điện Biên Phủ- chặng đường đầu tiên trong sự nghiệp giải phóng đất nước kéo dài 30 năm( 1945-1975) 2.2. Cái "tôi" tác giả gắn với cái "ta"quần chúng trong bức tranh nhân dân kháng chiến Việt Bắc ra đời vừa như sự khởi đầu, vừa như là kết thúc chặng đường vẻ vang 9 năm văn nghệ kháng chiến. Cùng với thực tiễn cách mạng vĩ đại của dân tộc, lý tưởng thẩm mỹ của nhà thơ đã có sự phát triển. Nếu trước kia nhà thơ muốn kêu to lên, muốn chia sẻ với mọi người cái mới lạ, cái đẹp của lý tưởng, thì giờ đây lý tưởng ấy đã biến thành đời sống hằng ngày mà dân tộc, quần chúng đã thực hiện, đã sống với lý tưởng đó một cách bình dị và thật cảm động. Cái đẹp của lý tưởng, của ước mơ đã biến thành cái đẹp của quần chúng kháng chiến, cái đẹp của con người và cuộc sống thực. Tố Hữu đã thấy rõ những bước tiến của lịch sử, nhận thức đầy đủ quy luật phát triển của dân tộc, của con người Việt Nam chiến đấu và trưởng thành. Đó là những người nông dân lao động, từ anh bộ đội nghỉ chân trên lưng đèo Nhe đến anh pháo binh vác voi ra trận, từ bà mẹ trên nhà sàn Việt Bắc đến bà bủ nằm ổ chuối khô, từ chị phụ nữ phá đường, đến em bé liên lạc,..Tất cả góp phần làm hiện lên toàn cảnh cuộc chiến tranh nhân dân với sự sống hồn nhiên, chân thực, có chiều sâu của đời sống hiện thực, và đi vào lòng người. 2.2.1. Hình ảnh người lính 1. Mở đầu Việt Bắc, ai cũng nhận thấy anh bộ đội cụ Hồ chiếm một vị trí quan trọng trong tập thơ. Kể từ Cách mạng Tháng Tám thành công cho đến những năm đầu kháng chiến, hình ảnh anh bộ đội chưa xuất hiện trong thơ ca, hay chỉ Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 32 hiện ra một cách thấp thoáng, thì nay hình ảnh anh Vệ quốc kháng chiến được thể hiện rõ nét trong thơ, với tư cách là những người nông dân nghèo khổ: Bữa đói bữa no Chạy quanh chẳng đủ Ngày hai bát ngô Lên rừng đào củ... (Bà mẹ Việt Bắc, 1948 ) Khi có tiếng gọi của dân tộc, của cuộc kháng chiến trường kỳ, họ tự các phương trời sẵn sàng đến với cuộc kháng chiến, bởi những người nông dân mặc áo lính đó chan chứa tình yêu nước. Quyền lợi giai cấp, quyền lợi dân tộc nhất trí, đời họ gắn chặt với cách mạng và kháng chiến. Từ nhân dân mà ra, họ anh dũng vì nhân dân chiến đấu. Bài thơ xuất sắc đầu tiên ở tập Việt Bắc viết về anh Vệ quốc quân kháng chiến là bài Cá nước. Nhà thơ ghi lại cuộc gặp gỡ trò chuyện giữa" tôi" và anh Vệ quốc quân: Tôi ở Vĩnh Yên lên Anh trên Sơn Cốt xuống Gặp nhau lưng đèo Nhe Bóng tre trùm mát rượi. (Cá nước, 1947 ) Hồi đầu kháng chiến, đã có nhiều nhà thơ viết về người lính, nhưng thường với cái nhìn lãng mạn. Trần Mai Ninh ghi lại hình ảnh anh Vệ quốc quân vào cuối năm 1946 trong Nhớ máu: Những con người Đã bước vào bất tử ! Ô, những người! Đen như mực, đặc thành keo Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 33 Tròn một củ Hay những người gầy sắt lại Mặt rẹt một đường gươm Lạnh gáy... ( Nhớ máu, 1946 ) Cũng tương tự là Quang Dũng trong Tây Tiến: Tây Tiến, đoàn binh không mọc tóc Quân xanh màu lá giữ oai hùm Mắt trừng gửi mộng qua biên giới Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm. ( Tây Tiến, 1948 ) So với họ, Tố Hữu đã tiến một bước dài trong nhận thức cũng như trong thể hiện chiến tranh. Nhà thơ đã ghi lại thực tế quyết liệt của kháng chiến, những cuộc hành quân vất vả của pháo binh, hay nỗi lo âu thắt ruột của bà mẹ chiến sĩ. Sự lay động đến gốc rễ tâm hồn người làm thơ và trách nhiệm sâu xa mà người làm thơ cảm thấy nặng trên vai, khi nhìn vào những sống chết hàng ngày của quần chúng, tất cả những cái đó đã giúp cho Tố Hữu không còn viết những câu thơ lãng mạn cũ: Nhân loại trườn lên trên biển máu Đang mơ xuân đến với môi cười. ( Xuân, 1946 ) Mà sớm đến với những chất liệu mới có ngay trong hiện thực: Tôi ở Vĩnh yên lên Anh trên Sơn Cốt xuống Gặp nhau lưng đèo Nhe Bóng tre trùm mát rượi. ( Cá nước, 1947 ) Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 34 Đi cùng pháo binh, Tố Hữu nhìn ngay bằng con mắt của anh pháo binh thân mật, chăm chút, mến thương với pháo: Ta bế ta bồng Voi lên ta hát Va._.rong bài Hoan hô chiến sĩ Điện Biên, chúng ta như nghe thấy rõ tiếng vó ngựa dồn dập trên núi rừng Việt Bắc đưa tin chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ: Tin về nửa đêm Hoả tốc hoả tốc Ngựa bay lên dốc Đuốc cháy sáng rừng... (Hoan hô chiến sĩ Điện Biên, 1954) Nhiều lần Tố Hữu đã đưa vào thơ nhịp điệu lao động và chiến đấu của quần chúng một cách tinh tế và đầy sáng tạo. Từ nhịp điệu lao động khẩn trương, vất vả của người dân công phá đường giai đoạn đầu kháng chiến: Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 87 Hì hà hì hục Lục cục lào cào Anh cuốc em cuốc Đá lở đất nhào! (Phá đường, 1948) Đến nhịp điệu chuyển pháo căng thẳng, chắc nịch, lạc quan của đơn vị pháo binh: Ta đi lên đèo Ta leo lên dốc Voi ơi khó nhọc Khó nhọc cũng trèo ! (Voi, 1948) Cùng với nhịp điệu mô phỏng, Tố Hữu còn vận dung nhịp điệu trùng điệp trong những khúc thơ : Ta đi tới trên đường ta bước tiếp Rắn như thép,/ vững như đồng Đội ngũ ta trùng trùng điệp điệp Cao như núi, / dài như sông (Ta đi tới, 1954) Có khi Tố Hữu cho trùng điệp từ: Mường Thanh, Hồng Cúm, Him Lam Hoa mơ lại trắng, vườn cam lại vàng. (Hoan hô chiến sĩ Điện Biên, 1954) Thơ Tố Hữu luôn có sự hào quyện giữa nhạc và ý. Đúng như Hoài Thanh đã nhận xét: "Nhạc thơ quyện lấy lòng ta ngay khi ta chưa kịp nhận rõ ý thơ". Quả thật thơ Tố Hữu "vừa ru người trong nhạc, vừa thức người bằng ý" [33]. Nhạc điệu trong tập thơ Việt Bắc mang tính quần chúng, tính dân tộc sâu sắc, vừa bình dị, vừa nâng cao. Những tư tưởng tình cảm, những hiện thực của đời Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 88 sống quyện với sự hài hoà của âm thanh, tiết tấu, nhịp điệu phù hợp với nếp thẩm mỹ quen thuộc của quần chúng, khiến thơ Tố Hữu dễ gần gũi, dễ đi sâu vào tâm hồn người đọc, đông đảo quần chúng đã nhớ, đã thuộc thơ Tố Hữu điều đó là minh chứng cho sự thành công của nhà thơ. 3.1.3. Ngôn ngữ, hình ảnh Tố Hữu không cố công tìm tòi ngôn ngữ mới lạ mà ông sử dụng ngay thứ ngôn ngữ rất phong phú, giản dị, trong sáng của quần chúng nhân dân. Mai Hương và Phong Lan đã có lý khi nhận xét: "Thơ Tố Hữu không cầu kỳ, không kỹ xảo, hầu như không dùng điển tích, điển cố, từ Hán - Việt mà chỉ dùng tiếng nói thường ngày của nhân dân. Ta có cảm giác Tố Hữu làm thơ rất dễ dàng, mạch thơ ông cứ trào lên và cuốn đi cuồn cuộn, thế nhưng thơ ông vẫn cứ hay, vẫn cứ đọng lại trong lòng người lâu dài" [25]. Trước hết cần thừa nhận thơ Tố Hữu rất bình dị. Bình dị ngay cả những lúc ông chủ tâm nói đến những vấn đề lớn lao của thời đại. Trong thơ ông gần như tràn ngập những hình ảnh quen thuộc, thường ngày; như: lúa, ngô, khoai, sắn, mạ non, cơm dé, áo tứ thân, cơm chấm muối, rừng nứa bờ tre, hoa chuối...Ông có ý thức trong việc đưa những hình ảnh, lớp từ ngữ bình dị gần với cuộc sống của người dân vào trong thơ để thơ ông cũng trở nên bình dị gần gũi với họ: Khoai mãn mùa đi, đến sắn về Say màu hương mới, dậy hồn quê Rướn thân lên trải ngàn tay rộng Như những chàng trai đón bốn bề. (Tình khoai sắn, 1946) Hay trong bài Bầm ơi: Bầm ra ruộng cấy bầm run Chân lội dưới bùn tay cấy mạ non Mạ non bầm cấy mấy đon Ruột gan bầm lại thương con mấy lần. (Bầm ơi, 1948) Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 89 Tố Hữu sử dụng ngôn ngữ địa phương như: mé, ông ké, bủ, ... Có thể nói thơ Tố Hữu rất bình dị, vì thế mà người ta nói thơ Tố Hữu mang tính đại chúng cao, được nhiều người ưa thích, một thời đã đi vào lòng người đọc như lời ăn tiếng nói hàng ngày của họ: Con mé có ba Trai hai gái một Gái gả chồng xa Trai còn đứa rốt... (Bà bủ, 1948) Thơ Tố Hữu còn thấm nhuần ngôn ngữ trong văn học dân gian, một ngôn ngữ sống động. "Nó không chỉ là chữ a, chữ b, mà là cả cái tiếng vang lên trong từng chữ, tiếng vọng của cả cái khoảng cách giữa những chữ, những dòng..." [33]. Chúng ta có thể bắt gặp rất nhiều câu thơ có lối so sánh ví von kiểu ca dao trong thơ ông: Mưa phùn ướt áo tứ thân Mưa bao nhiêu hạt thương bầm bấy nhiêu (Bầm ơi, 1948) Hay: Nhớ gì như nhớ người yêu Trăng lên đầu núi, nắng chiều lưng nương (Việt Bắc, 1954) Tố Hữu còn sử dụng nhiều thành ngữ, quán ngữ, tục ngữ như: Lạnh tay, lạnh chân Đứng trơ như đá Hồn bay vía bay (Bà mẹ Việt Bắc, 1948) Có những câu thơ Tố Hữu lấy một phần của câu tục ngữ cộng thêm một phần lời thơ của mình: Đá mòn nhưng dạ chẳng mòn Chàm nâu thêm đậm, phấn son chẳng nhoà. (Việt Bắc, 1954) Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 90 Như vậy, ngôn ngữ thơ rất Tố Hữu, rất dân gian, đại chúng. Sự có mặt của ngôn ngữ dân gian, của đời sống hàng ngày khiến cho thơ ông trở nên bình dị, gần gũi thân thương. Đằng sau lớp ngôn ngữ bình dị ấy, nhà thơ muốn diễn tả một nội dung lớn lao, gắn với các vấn đề của cộng đồng, của thời đại, là nguồn cổ vũ động viên nhân dân đấu tranh, tin tưởng vào tương lai đất nước. Cùng với ngôn ngữ, hình ảnh trong thơ Tố Hữu rất đa dạng, có những hình ảnh hiện lên rõ nét nhìn là thấy: Đẹp vô cùng Tổ quốc ta ơi ! Rừng cọ đồi chè, đồng xanh ngào ngạt Nắng chói Sông Lô, hò ô tiếng hát Chuyến phà dào dạt bến nước Bình Ca. (Ta đi tới, 1954) Có những hình ảnh cụ thể gây xúc động, thấy là lòng người rung lên nhớ mãi: Hình ảnh em bé Lượm dũng cảm mà đáng thương bị chết dưới làn đạn của giặc nhưng hình ảnh của em vẫn sống mãi trong lòng nhà thơ. Bỗng loè chớp đỏ Thôi rồi, Lượm ơi Chú đồng chí nhỏ Một dòng máu tươi ! (Lượm, 1949 ) Hay những bài thơ viết về người mẹ, đọc lên khiến ta thấy xúc động trước tấm lòng yêu nước, yêu con, hy sinh bản thân cho cách mạng: Bà bủ không ngủ bà nằm Càng lo, càng nghĩ, càng căm càng thù Ngoài phên gió núi ù ù Mưa đêm mưa tự chiến khu mưa về. (Bao giờ hết giặc, 1948) Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 91 Và hình ảnh Bà mẹ Việt Bắc: Tôi ôm lấy nó Tôi kể trước sau Nỗi nhà mất bố Nỗi anh chết tù... (Bà mẹ Việt Bắc, 1948) Song thơ Tố Hữu bao giờ cũng là hình ảnh thật của đời sống, những hình ảnh sinh động, là sự hoà quyện giữa người và cảnh tạo nên một khung cảnh thật ấm áp tình người: Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng Ngày xuân mơ nở trắng rừng Nhớ người đan nón chuốt từng sợi dang Ve kêu rừng phách đổ vàng Nhớ cô em gái hái măng một mình. (Việt Bắc, 1954) Khi nói đến Tổ quốc, hình ảnh thật "hồn nhiên", nên thơ có những gam màu, âm thanh,... lắng sâu vào tâm hồn. Đẹp vô cùng, Tổ quốc ta ơi ! Rừng cọ đồi chè, đồng xanh ngào ngạt Nắng chói sông Lô, hò ô tiếng hát Chuyến phà dào dạt bến nước Bình Ca... (Ta đi tới, 1954) Tố Hữu còn thiên về loại hình ảnh "động" đang diễn biến, đang tiến triển. Ngay khi nhà thơ cảm xúc, một nét, lại một nét cứ bồi thêm vào nhau để dựng nên hình. Không ai khác đó là Hồ Chí Minh, "Người là Cha, là Bác, là Anh" của dân tộc: Nhớ Người những sớm tinh sương Ung dung yên ngựa trên đường suối reo Nhớ chân Người bước lên đèo Người đi rừng núi trông theo bóng Người... (Việt Bắc, 1954) Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 92 Bài thơ Phá đường cũng biểu hiện khá rõ biệt tài của Tố Hữu trong việc xây dựng những hình ảnh động, gợi lên không khí lao động khẩn trương của chị dân công phá đường. Hì hà hì hục Lục cục lào cào Anh cuốc em cuốc Đá lở đất nhào... (Phá đường, 1948) Nhịp thơ náo nức, trầm hùng khi miêu tả cảnh tượng hùng vĩ của cuộc chiến đấu, của hoạt động cách mạng. Chất hùng tráng trong những câu thơ: Những đường Việt Bắc của ta Đêm đêm rầm rập như là đất rung Quân đi điệp điệp trùng trùng, Ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan. Dân công đỏ đuốc từng đoàn, Bước chân nát đá muôn tàn lửa bay. (Việt Bắc, 1954) Ngôn ngữ, hình ảnh trong thơ Tố Hữu thật phong phú, đa dạng, gần gũi, bình dị, Ông không tìm tòi ở đâu cao xa mà có ngay trong đời sống kháng chiến, trong lời ăn tiếng nói của nhân dân. Đó là những đóng góp đáng quý của thơ ông trên xu hướng tìm tòi bản sắc dân tộc đại chúng. 3.1.4. Niêm luật và vần Tố Hữu là nhà thơ chịu ảnh hưởng nhiều của dân ca nên thơ ông thường mang hơi thở của truyền thống. Xuân Diệu đã từng nói: "Không học ca dao từ nhỏ thì làm sao học giỏi thơ được". Vì vậy vần thơ của ông mang đặc điểm của thơ truyền thống. Đó là tôn trọng lệ “nhị, tứ, lục, phân minh” trong thể thơ truyền của văn học cổ truyền: Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 93 Xa xôi đầu xóm tre xanh Có bà ru cháu nằm khoanh lòng già Cháu ơi cháu lớn với bà Bố mày đi đánh giặc xa chưa về. (Cá nước, 1947) Sử dụng trong cách hiệp vần. Các âm tiết hiệp vần thường có phụ âm đầu khác nhau, phần vần lặp lại và các vần thường mang thanh bằng. Đặt những câu thơ của Tố Hữu bên cạnh những câu ca dao lục bát thì ta khó có thể phân biệt được đâu là thơ Tố Hữu và đâu là câu ca dao. Nếu ca dao có câu: Mình về có nhớ ta chăng Ta về ta nhớ hàm răng mình cười Thì thơ Tố Hữu cũng góp phần vào vốn ca dao ấy những lời thơ thật ngọt ngào, tha thiết: Mình về mình có nhớ ta Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng (Việt Bắc, 1954) Cách hiệp vần không chỉ mang thanh bằng mà còn mang thanh trắc, hoặc phối hợp hai thanh bằng- trắc. Những cách hiệp vần này trong thơ Tố Hữu ít gặp ở những nhà thơ khác. Điều đó ghi nhận nét độc đáo trong thơ ông, khác với Xuân Diệu, Nguyễn Bính sau này. Trong thơ Nguyễn Bính ta cũng bắt gặp kiểu gieo vần lạ, bất thường: Trên giời có vẩy tê tê Đôi bên ước thề duyên hãy tròn duyên Nhưng không thể giống với Tố Hữu ở những vần được gieo kết hợp giữa âm tiết mang thanh bằng và âm tiết mang thanh trắc như: Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 94 Nhớ sông Lô, nhớ Phố Ràng Nhớ từ Cao Lạng, nhớ sang Nhị Hà (Việt Bắc, 1954) Cách hiệp vần này còn xuất hiện ngay trong câu lục và câu bát, đó chính là dụng ý nghệ thuật của nhà thơ: Bà bủ nằm ổ chuối khô Bà bủ không ngủ bà lo bời bời (Bà bủ, 1948) Các âm tiết gieo vần với nhau đều mang thanh trắc cũng đã chứa đựng trong nó một nội dung, đó là khát vọng thay đổi quê hương đất nước. Hàng loạt âm tiết mang thanh trắc ấy dường như để diễn tả sự uất ức, hận thù và đầy nước mắt trước cảnh điêu tàn, tan nát của quê hương bị giặc dày xéo. Song bên cạnh đó lại là tiếng hát lên đường, tiếng hát theo vần thơ ngân dài đến tận cuối bài thơ: Bàn tay đã nắm lời thề Ra đi quyết phá ngày về sẽ xây Từ trong đổ nát hôm nay Ngày mai đã đến từng giây, từng giờ... (Giữa thành phố trụi, 1947 ) Tố Hữu học cách gieo vần trong ca dao, tiếng thứ 6 của câu lục vần với tiếng thứ 6 của câu bát, tiếng thứ 8 của câu bát vần với tiếng thứ 6 của câu lục tiếp sau thường là gieo vần bằng, ở các bài thơ tiêu biểu như: Bà bủ, Bầm ơi, Việt Bắc... Bà bủ không ngủ bà nằm Càng lo càng nghĩ, càng căm càng thù Ngoài phên gió núi ù ù Mưa đêm mưa tự chiến khu mưa về... (Bà bủ, 1948) Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 95 Tố Hữu là nhà thơ không chỉ dừng lại ở việc học tập những nét tinh hoa của văn học truyền thống, mà ở nhà thơ luôn có sự tìm tòi, phát hiện mới mẻ. Ngoài việc gieo vần ở những vị trí thông thường Tố Hữu còn gieo vần ở những vị trí bất thường. Tố Hữu đã tạo ra một sợi dây liên kết vô hình (qua vần điệu) giữa những địa danh lịch sử để gọi về "chín năm nắng núi mưa ngàn" của Việt Bắc- một thời kỳ gian khổ nhưng oanh liệt. Ai về có nhớ ai không ? Ta về ta nhớ Phủ Thông Đèo Giàng Nhớ sông Lô nhớ Phố Ràng Nhớ từ Cao Lạng nhớ sang Nhị Hà (Việt Bắc, 1954) Tố Hữu sử dụng nhiều vần liên tiếp tạo nên âm hưởng ngân vang đồng vọng. Hai câu lục bát trên gieo vần ở vị trí 6-8 thông thường, nhưng đến hai câu sau Tố Hữu gieo vần bất thường, vị trí thứ 6 của câu lục gieo vần với vị trí thứ 4 của câu bát khiến câu thơ đột ngột chuyển giọng như khắc sâu nỗi nhớ, nỗi nhớ theo chiều sâu và lan toả từ vùng này sang vùng khác, từ những hy sinh gian khổ đến những chiến công vang dội ...một nỗi nhớ dào dạt, tha thiết. Tố Hữu đã vận dụng sáng tạo trong đoạn thơ này cách gieo vần bất thường làm cho những câu thơ không chỉ là trang ký sự chiến trường mà còn gợi lên vẻ đẹp thẩm mỹ trong lòng độc giả. Ngoài ra còn có một số bài thơ Tố Hữu gieo vần ở tiếng thứ 4 của câu tám. Bầm ra ruộng cấy bầm run Chân lội dưới bùn tay cấy mạ non. (Bầm ơi, 1948) Hay: Nhà em phơi lúa chửa khô Ngô chửa vào bồ sắn thái chưa xong Nhà em con bế con bồng Em cũng theo chồng đi phá đường quan (Phá đường, 1948) Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 96 Có thể nói những bài thơ gieo vần ở tiếng thứ 4 này đều là những bài viết về những người thôn quê mộc mạc dân dã. Đó là một dụng ý nghệ thuật của Tố Hữu mang lại hiệu quả thẩm mỹ cao. Tố Hữu thường dùng vần Đường luật mềm mại, có nhiều khả năng biểu hiện cái liên tục thích ứng với hơi thở liền mạch.(chữ cuối câu thứ nhất, câu thứ hai, và câu thứ tư, thanh bằng và vần với nhau): Ai biết trưa nay giữa bụi bờ Anh nằm sưởi nắng mắt lơ mơ Tôi ngồi, không ngủ nghe anh thở Khe khẽ lòng ngâm lên tiếng thơ (Lên Tây Bắc, 1948) Tìm hiểu quá trình sáng tạo nghệ thuật của Tố Hữu, ta thấy ông không bao giờ nô lệ vào câu chữ hay gò ép, khiên cưỡng trong niêm luật và cách gieo vần. Thơ ông vừa mang nét tinh hoa của văn học truyền thống, vừa mang tính hiện đại, nên những bài thơ của ông vừa giàu tính nhạc, vừa mang tính hình tượng cao. 3.2. Sự kết hợp giữa tính dân tộc và âm hƣởng hiện đại Tố Hữu đã lấy dân tộc làm nền tảng cho thơ mình. Ông tiếp thu truyền thống thơ ca dân gian, cổ điển của dân tộc, một sự tiếp nhận sâu và đa diện, tiếp nhận một cách sáng tạo đầy bản lĩnh. "Ông tiếp thu phần hồn, đón lấy cái hương, cái “nhụy” của nó", đúng như Nguyễn Đình Thi nhận xét. Nhìn lại các bài thơ gắn với truyền thống nhất của Tố Hữu, đều có một sự hài hoà hiếm có giữa tính dân tộc và tính hiện đại. Hiện đại không chỉ nội dung mà cả hình thức thể hiện, hiện đại ngay trong các thể thơ cổ điển của dân tộc, trong cách biểu hiện rất gần với thơ ca dân gian. Phong vị dân gian đậm đà trong thơ Tố Hữu, đặc biệt trong nhiều bài thơ đặc sắc như hàng loạt các bài thơ Việt Bắc, Bầm ơi, Phá đường...Những câu thơ được ủ chặt giữa hương vị dân gian rất phổ biến. Chính nó là sợi dây bền chặt, kết Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 97 bện thơ Tố Hữu với truyền thống thơ ca dân tộc, tạo nên sức hấp dẫn, sức cảm hoá, sức nặng, sức bền của thơ ông trong lòng nhiều thế hệ độc giả. Tố Hữu đã tiếp thu triệt để khai thác, sử dụng và phát triển một cách sáng tạo những tinh hoa của thơ ca truyền thống, góp phần diễn tả một cách sinh động những tư tưởng tình cảm mới của thời đại. Chính sự tiếp nhận sáng tạo ấy của nhà thơ đã đem lại dáng vẻ và âm hưởng hiện đại cho thơ ca truyền thống." ... làm cho cái hồn dân tộc nhập vào với cái hồn thời đại”,“ Tố Hữu đã giữ được hiện đại ngay trong hình thức biểu hiện tưởng là cổ điển nhất” (Lê Đình Kỵ). Tố Hữu đã đưa câu thơ lục bát cổ điển đến một hình thức phát triển cao nhất và phong phú nhất, những câu thơ ngọt ngào, uyển chuyển, thướt tha, mà vẫn nói lên được những điều cần nói về hiện thực cách mạng, về tình cảm cách mạng: Em là con gái Bắc Giang Rét thì mặc rét nước làng em lo Nhà em phơi lúa chửa khô Ngô chửa vào bồ sắn thái chưa xong. (Phá đường, 1948) Hay bài Bầm ơi với âm điệu gần gũi với ca dao, Tố Hữu đã diễn tả được tình cảm ân tình tha thiết của người con đối với người mẹ, gợi lên được hình ảnh chân thực của bà mẹ nông dân Việt Nam vất vả và tình cảm của mẹ thật cảm động. Nhưng ở đây tình cảm của người mẹ đối với con rất đỗi thiêng liêng khi gắn với tình đồng bào, đồng chí, tình anh em, tình đất nước nó là sản phẩm mới của thời đại: Bầm ơi liền khúc ruột mềm Có con có mẹ có thêm đồng bào Con đi mỗi bước gian lao Xa bầm nhưng lại có bao nhiêu bầm. (Bầm ơi, 1948 ) Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 98 Việt Bắc ngọt ngào, đằm thắm như lời ru, lời thủ thỉ đã đưa người đọc vào một thế giới sâu nặng ân tình, rất tiêu biểu cho hồn thơ, cho phong cách của Tố Hữu. Vẫn là tiếng nói của tình cảm, tình yêu nhưng là tình yêu đối với quê hương đất nước, đối với cách mạng, đối với nhân dân. Và tình yêu ấy đã biến thành tình nghĩa, và Việt Bắc trở thành tiếng hát ân tình thuỷ chung của những người kháng chiến, của cả dân tộc trong một thời điểm đáng nhớ. Mình đi, có nhớ những ngày Mưa nguồn suối lũ, những mây cùng mù Mình về, có nhớ chiến khu Miếng cơm chấm muố,i mối thù nặng vai? Mình về, rừng núi nhớ ai Trám bùi để rụng, măng mai để già... (Việt Bắc, 1954) Thuộc trong số câu thơ hay nhất của bài Việt Bắc là: Mình đi, mình có nhớ mình Tân Trào, Hồng Thái, mái đình cây đa? Trong ca dao, không gặp kiểu đại từ đổi ngôi như vậy. Câu thơ vốn có gốc rễ sâu xa trong ca dao của dân tộc bỗng vụt lớn lên, mới mẻ, hiện đại. Câu hỏi thật sâu nặng, đầy ý nghĩa. Bên cạnh đó bài Việt Bắc còn có những câu đọc lên như một bài ca dao hiện đại: Muối Thái Bình ngược Hà Giang Cày bừa Đông Xuất, mía đường tỉnh Thanh Ai về mua vại Hương Canh Ai lên mình gửi cho anh với nàng Chiếu Nga Sơn, gạch Bát Tràng Vải tơ Nam Định, lụa hàng Hà Đông (Việt Bắc, 1954) Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 99 Ở Tố Hữu cái hơi dân tộc kết hợp khéo léo với màu sắc hiện đại tiếp tục được thể hiện và càng dồi dào, đậm nét hơn trong tập Gió lộng như trong Em ơi...Ba lan, Bài ca mùa xuân 61: Em ơi, Ba lan, mùa tuyết tan Đường bạch dương, sương trắng nắng tràn Anh đi, nghe tiếng người xưa gọi Một giọng thơ ngâm, một giọng đàn Và: Gà gáy sáng. Thơ ơi mang cánh lửa Hãy bay đi. Con chim kêu trước cửa Thêm một ngày xuân đến. Bình minh Cành táo đầu hè quả ngọt rung rinh Bỏ âm nhạc đi, đó là những câu thơ rất Tây, lồng âm nhạc vào, đó là những câu rất Việt. Âm nhạc như cái hồn dân tộc theo sát các ý của thi sĩ khiến cho mỗi câu thơ; cùng toàn bài thơ vừa ẩn chứa tính dân tộc vừa mang âm hưởng hiện đại. Gió lộng, là sự rộng mở đến bát ngát, mênh mông của đất trời tự do, với một nửa nước đang bước vào kế hoạch 5 năm đầu tiên xây dựng chủ nghĩa xã hội; với Tổ quốc" dẫu chưa toàn vẹn đã bay cờ hồng"; với "mắt nhìn bốn hướng. Trông lại nghìn xưa, trông tới mai sau"; với tầm cao thời đại "trông Bắc, trông Nam, trông cả địa cầu". Thể thơ tự do được vận dụng linh hoạt, lúc thì rắn rỏi như Tiếng chổi tre, lúc thì rừng rực căm giận như Thù muôn đời muôn kiếp không tan, lúc thì mềm mại uyển chuyển như Em ơi...Ba lan...Những cách gieo vần mới mẻ như "Đường bạch dương, sương trắng, nắng tràn" tạo một bâng khuâng và ngân nga không dứt trong tâm tưởng làm nối dài những liên tưởng giữa truyền thống và hiện đại. So với Việt Bắc, Gió lộng là một bước tiến mới trong quan hệ dân tộc và hiện đại, nhưng vẫn không xa rời ngọn nguồn dân tộc như trong Quê mẹ, Người con gái Việt Nam, Tiếng ru... Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 100 KẾT LUẬN 1. Với Tố Hữu, chúng ta có một nhà thơ - chiến sĩ, biết gắn bó đời mình và hoạt động thơ ca của mình với lý tưởng cao cả vì độc lập, tự do của Tổ quốc. Thơ ông là thơ "mang cánh lửa", "đốt cháy trái tim con người vào ngọn lửa thần của đại nghĩa" (Xuân Diệu). Đã có bao nhiêu người cảm động vì thơ ông và từ thơ ông mà đến với cách mạng. Hơn nửa thế kỷ qua, thơ Tố Hữu trở thành tấm gương phản ánh những lẽ sống lớn của dân tộc, trở thành tiếng hát của thời đại. 2. Tập thơ Việt Bắc của Tố Hữu thực sự có giá trị và giữ vị trí xứng đáng trong nền thơ ca kháng chiến, bởi nó đã góp phần giải quyết những vấn đề cơ bản đặt ra cho nền văn nghệ mới Việt Nam sau 1945. Đó là vấn đề dân tộc và đại chúng, vấn đề nghệ thuật và tuyên truyền, vấn đề vốn sống và kỹ năng nghề nghiệp, vấn đề hiện thực và lãng mạn, vấn đề nội dung và hình thức…Tố Hữu trong tập thơ Việt Bắc đã góp phần của mình không bằng lý luận mà bằng sáng tác, để giải quyết các vấn đề đó, và trở thành ngọn cờ tiêu biểu, đứng ở hàng đầu nền thơ ca cách mạng sau 1945- Từ Việt Bắc chúng ta có thể rút ra nhiều bài học quý báu về con đường đi của thơ đó là con đường gắn bó với nhân dân phục vụ lợi ích của cách mạng. 3. Giá trị nội dung lớn của Việt Bắc- đó là một tình yêu nước, được thể hiện một cách thiết tha và cụ thể, qua tình yêu những con người đứng ở hàng đầu sự nghiệp kháng chiến - đó là anh bộ đội cụ Hồ, là những bà mẹ, những phụ nữ, những em bé…sẵn sàng hy sinh tất cả để đánh thắng giặc; là sự phát hiện những giá trị nhân văn cao cả trong những con người bình thường, “ nhỏ bé” làm nên g- ương mặt chung của nhân dân, vừa được cách mạng giải phóng, vừa làm nên sức mạnh giải phóng của cách mạng. Là tình cảm gắn bó với quê hương cách mạng mang tên Việt Bắc“ thủ đô gió ngàn” với cây đa Tân Trào, mái đình Hồng Thái- những địa danh đã đi vào lịch sử và bây giờ tiếp tục cuộc kháng chiến chín năm“ Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 101 Rừng che bộ đội, rừng vây quân thù”, với Trung ương, Chính phủ và Bác Hồ lãnh đạo quân dân cả nước tiến hành một cuộc kháng chiến toàn dân, toàn diện, trường kỳ đi tới chiến thắng Điện Biên Phủ vĩ đại. Có thể nói, Việt Bắc bằng tiếng nói thơ ca, đã ghi nhận được những dấu ấn cụ thể cho một“ toàn cảnh” những tình cảm lớn của dân tộc trong 10 năm mở đầu nền văn học mới sau 1945, 10 năm kỷ nguyên dân chủ cộng hoà, chấm dứt 80 năm cả dân tộc chìm đắm trong tình cảnh nước mất. 4. Với Việt Bắc, Tố Hữu là nhà thơ đi đầu và có thành tựu lớn nhất trong việc đi sâu vào hình thức dân tộc, phát triển và nâng cao tiếng nói và hình thức dân tộc để cho nhịp điệu của thơ chứa đựng được nội dung tư tưởng tình cảm của thời đại. Trong khi đi vào phương hướng dân tộc, nhà thơ luôn có ý thức hướng tới đại chúng, để cho thơ có sức phổ cập rộng rãi. Đồng thời biết gắn tính dân tộc với âm hưởng hiện đại, để cho thơ luôn luôn có ý nghĩa thời sự. Điều đó làm nên vai trò mở đầu và dẫn dắt nền thơ ca cách mạng Việt Nam của Việt Bắc nói riêng, làm nên giá trị và sức cuốn hút mạnh mẽ của thơ Tố Hữu nói chung. Kết luận. Có thể khẳng định Việt Bắc là tập thơ có đóng góp lớn nhất cho nền thơ ca kháng chiến chống Pháp nói riêng và có giá trị, vị trí xứng đáng trong nền văn học hiện đại Việt Nam nói chung. Hoàn toàn dễ hiểu khi Việt Bắc nhận được Giải nhất Hội văn nghệ Việt Nam (1954-1955); sau Từ ấy, nó tiếp tục tạo nên một chuyển biến căn bản trên hành trình hơn nửa thế kỷ thơ Tố Hữu. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 102 TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Trọng Anh (1955), Đồng bào Miền Nam với thơ Tố Hữu, Báo Nhân dân. 2. Nguyễn Bao (1998), Tố Hữu, nhà thơ- chiến sĩ. Nxb, H. 3. Nguyễn Cừ (1980), Tố Hữu, nhà thơ cách mạng, Nxb khoa học xã hội, H. 4. Hoàng Cầm (1955), Bổ sung ý kiến của tôi về tập thơ“ Việt Bắc”, Báo Văn nghệ (số 70). 5. Hoàng Minh Châu (1959), Về giá trị tập thơ"Từ ấy" và phương pháp sáng tác của Tố Hữu, Báo Văn nghệ ( số71). 6. Xuân Diệu (1955), Tập thơ" Việt Bắc của Tố Hữu, Báo Văn nghệ (số 28,64). 7. Xuân Diệu (1960), Dao có mài mới sắc, Tạp chí Văn học (số73). 8. Xuân Diệu (1964), Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ, Nxb Văn học, H. 9. Lê Đạt (1955), Giai cấp tính trong thơ Tố Hữu, Báo Văn nghệ ( số 68). 10. Hà Minh Đức (1977), Những bài học lớn và sự cổ vũ chân thành, Nxb Văn học, H. 11. Hà Minh Đức (1994 ), Từ Từ ấy đến Một tiếng đờn, Nxb Văn học, H. 12. Hà Minh Đức (1995), Một tài năng thơ ca thuộc về nhân dân và dân tộc- Nxb Giáo dục. 13. Phan Cự Đệ (1959), Một bông hoa tươi thắm nhất của vườn thơ cách mạng, Tạp chí Văn học (số 30). 14. Nguyễn Đăng Điệp (2002), Giọng điệu trong thơ trữ tình, Nxb Văn học, H. 15. Tế Hanh (1959), Đọc tập thơ"Từ ấy" của Tố Hữu, Báo Văn học (số 49, 50). 16. Nguyễn Văn Hạnh (1970), Phong cách nghệ thuật của Tố Hữu, Nội san nghiên cứu Văn học, Trường ĐHSP, H. 17. Đông Hoài (1955), Góp ý kiến về tập thơ“ Việt Bắc”, Báo văn nghệ (số 70). 18. Phạm Hổ (1964), Thơ Tố Hữu với Miền Nam thành đồng Tổ Quốc, Báo Văn nghệ ( số72). Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 103 19. Tố Hữu ( 1946), Thơ, Hội văn hoá cứu quốc Việt Nam. 20. Tố Hữu (1961), Thơ là tiếng nói đồng ý, đồng tình, tiếng nói đồng chí, Tạp chí Văn nghệ (số 48). 21. Tố Hữu (1963), Việt Bắc, Nxb Văn học, H. 22. Tố Hữu (1972 ), Câu chuyện về thơ, Văn phòng Bộ văn hoá, H. 23. Tố Hữu (1980),Văn học là cuộc đời, Báo Văn nghệ (số 44). 24. Tố Hữu (1998), Tuyển tập thơ, Nxb Văn học, H. 25. Thơ Tố Hữu, (1998) - Nxb Giáo dục. 26. Tố Hữu ( 2002), Nhớ lại một thời, Nxb Văn hoá thông tin, 27. Mai Hương (1975), Ý kiến của Tố Hữu về thơ, Tạp chí Văn học (số 4) 28. Mai Hương (1975), Quan niệm của Tố Hữu về thơ, Tạp chí Văn học (số 4) 29. Lê Đình Kỵ (1979), Việt Bắc, Nxb đại học và trung học chuyên nghiệp. 30. Phùng Ngọc Kiếm ( 1987), Những biểu hiện tính dân tộc trong những bài thơ của Tố Hữu viết về Bác Hồ, Thông báo khoa học Đ.H.S.P 1987. 31. Phong Lan và Mai Hương, Tố Hữu" Người đốt lửa" và " Người gieo hạt", H. 32. Mã Giang Lân (1995), Thơ Việt Nam (1945-1954), Nxb Giáo dục, H. 33. Mã Giang Lân ( 2004), Tiến trình thơ Việt Nam hiện đại, Nxb Giáo dục, H. 34. Nguyễn Viết Lãm (1955), Đặc tính sáng tạo trong tập thơ Tố Hữu, Báo Độc lập (số 98). 35. Thẩm Lăng (1955),“Việt Bắc” và Tố Hữu, Báo Độc lập ( số 97). 36. Nguyễn Văn Long (1996), Thơ Tố Hữu trong đời sống phê bình, nghiên cứu văn học ở Việt Nam 50 năm qua, Nxb Hội nhà văn. 37. Nguyễn Văn Long (2003), Văn học Việt Nam trong thời đại mới, Nxb Giáo dục, H. 38. Phong Lê ( chủ biên), Văn học Việt Nam kháng chiến chống Pháp ( 1945- 1954), Nxb Khoa học xã hội, H. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 104 39. Phong Lê (biên soạn), Tố Hữu- thơ và cách mạng. Nxb Trẻ, Hội nghiên cứu & giảng dạy văn học thành phố Hồ Chí Minh. 40. Vũ Đình Liên (1955), Mối tình dân tộc trong tập thơ“ Việt Bắc”của Tố Hữu, Tổ Quốc (số 12). 41. Lưu Trọng Lư (1971), Tố Hữu, Báo Văn nghệ (số 381). 42. Huỳnh Lý (1959), Nhận xét thơ Tố Hữu như một thực thể động, Báo Văn học (số73). 43. Thời Nhân (1946), Thơ Tố Hữu, Tạp chí Tiên phong (số 23). 44. Đặng Thai Mai (1964), Khi nhà nghệ sĩ“ Tham gia” vào cuộc đấu tranh với tất cả tâm hồn mình, Báo Văn nghệ (số 87). 45. Đặng Thai Mai (1959), Mấy ý nghĩ, Nxb Văn học, H. 46. Hoàng Như Mai (1961), Văn học Việt Nam 1945-1960, Nxb Giáo dục, H. 47. Hoàng Như Mai (1965), Con mắt thần chủ nghĩa trong thơ Tố Hữu, Báo Văn nghệ (số 98). 48. Nguyễn Đăng Mạnh (1994), Con đường thơ Tố Hữu, Nxb Giáo Dục. 49. Nguyễn Đăng Mạnh (chủ biên), Lịch sử văn học Việt Nam, tập III, Nhà xuất bản Đại học sư phạm ( 2002). 50. Tú Mỡ (1955), Góp ý kiến về tập thơ“Việt Bắc”của Tố Hữu, Báo Văn nghệ, (số 75). 51. Như Phong (1959), Cái mới của"Từ ấy"- những bài thơ đầu tiên của Tố Hữu, Nxb Văn học, H. 52. Vũ Đức Phúc (1955), Phản đối cái buồn của Hoàng Cầm khi đọc thơ Tố Hữu. Nxb Văn Học. 53. Vũ Đức Phúc (1967), Người Việt Nam và lòng yêu nước trong thơ Tố Hữu thời kỳ kháng chiến chống đế quốc Pháp (1946-1954), Tạp chí Văn học (số 6). 54. Vũ Đức Phúc (1984), Tố Hữu (trích)- Nxb Khoa học xã hội, H. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 105 55. Vũ Quần Phương (1997), Tố Hữu- Người mở đường của nền thơ cách mạng, Báo Nhân dân. 56. Nguyễn Đức Quyền (1970), “Ta” với “ Mình” trong bài thơ"Việt Bắc" của Tố Hữu, Tạp chí Ngôn ngữ ( số3). 57. Lê Bá Suý ( 1955)," Góp ý kiến về tập thơ Việt Bắc", Báo Văn học ( số 71). 58. Trần Đình Sử (1987), Thi pháp thơ Tố Hữu, Nxb Tác phẩm mới, Hội nhà văn Việt Nam. 59. Thanh Tịnh (1959), Vài cảm nghĩ về tập thơ" Từ ấy" của Tố Hữu, Tạp chí Văn nghệ quân đội ( số 8). 60. Minh Tranh (1955), Tình yêu trong tập thơ" Việt Bắc", Báo Văn nghệ (số 66). 61. Nguyễn Phú Trọng (1960), Phong vị ca dao dân ca trong thơ Tố Hữu. Nxb Văn học. 62. Hà Xuân Trường (1955), Đọc tập thơ“ Việt Bắc”của Tố Hữu, Báo Nhân dân,( số 329). 63. Nguyễn TrungThu (1968), Nhạc điệu thơ Tố Hữu, Tạp chí Văn học, (số 11). 64. Hoài Thanh (1955), Tình yêu quê hương đất nước trong tập thơ“ Việt Bắc”, Báo Văn nghệ ( số 74). 65. Hoài Thanh ( 1955), Nói chuyện thơ kháng chiến, Nxb Văn nghệ, H. 66. Hoài Thanh (1960), “Từ ấy” tiếng hát của một người thanh niên, một người cộng sản, Tạp chí Nghiên cứu Văn học. 67. Hoài Thanh (1962), Gió lộng, một bước tiến mới của thơ Tố Hữu, một tập thơ mang khí thế mới của cách mạng Việt Nam, Tạp chí Nghiên cứu Văn học( số 8). 68. Hoài Thanh (1978), Một số ý kiến ngắn về thơ Tố Hữu, Nxb Tác phẩm mới. 69. Lê Quang Thành (1955), Góp ý kiến thảo luận về tập thơ“ Việt Bắc” của Tố Hữu, Báo Nhân dân. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 106 70. Lưu Khánh Thơ (2005), Thơ và một số gương mặt thơ Việt Nam hiện đại, Nxb khoa học xã hôi, H. 71. Hoàng Trung Thông (1955), Ý kiến kết thúc cuộc thảo luận về tập thơ“ Việt Bắc”, Báo Văn nghệ, (số 81). 72. Nguyễn Đình Thi (1955), Thơ Tố Hữu đi vào thực tế quần chúng, Báo Văn nghệ ( số 77). 73. Nguyễn Đình Thi (1955), Lập trường giai cấp và Đảng tính, vấn đề hiện thực và lãng mạn, Báo Văn nghệ (số 79). 74. Nguyễn Đình Thi (1955), Nhà thơ lớn lên với thời đại, Báo Văn nghệ ( số 79) 75. Nguyễn Đình Thi (1968), Tập thơ Việt Bắc- Nxb Văn hóa, H. 76. Chế Lan Viên (1963), Thơ Tố Hữu, Nxb Văn học, H. 77. Chế Lan Viên (1968), Tổ Quốc Việt Nam, con người Việt Nam trong thơ Tố Hữu, Báo Nhân dân. 78. Hoàng Việt (1955), Không đồng ý với Hoàng Yến và Hoàng Cầm, Báo Văn nghệ ( số 69). 79. Hồ Sĩ Vịnh (1970), Đọc tập thơ“Bác Hồ”của Tố Hữu, Báo Văn nghệ( số 360). 80. Hoàng Yến ( 1955), Tập thơ“ Việt Bắc” có hiện thực không?, Báo Văn nghệ (số 65). ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfLA9088.pdf
Tài liệu liên quan