Giải pháp đẩy mạnh Xuất khẩu hàng dệt may ở Công ty may Thăng Long sang thị trường Mỹ

Lời Nói đầu Sau hơn 20 năm Đảng và Nhà nước thực hiện đổi mới, trong những năm gần đây hoạt động xuất khẩu của nước ta luôn tăng trưởng, đem lại nguồn thu ngoại tệ lớn cho quốc gia, nguồn thu đáng kể cho ngân sách Nhà nước, góp phần thúc đẩy sự nghiệp Công nghiệp hoá, hiện đại hoá, phát triển Kinh tế – Xã hội đất nước. Hơn nữa, hoạt động xuất khẩu giúp nâng cao uy tín của hàng Việt Nam, đưa Việt Nam đến với nhiều quốc gia, vùng lãnh thổ trên thế giới, kêu gọi hợp tác và đầu tư nước ngoài. Hiện

doc67 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1190 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Giải pháp đẩy mạnh Xuất khẩu hàng dệt may ở Công ty may Thăng Long sang thị trường Mỹ, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
nay chúng ta có rất nhiều mặt hàng xuất khẩu và có tiềm năng xuất khẩu, trong đó hàng dệt may luôn được xác định là một trong những mặt hàng quan trọng. Thúc đẩy hoạt động xuất khẩu hàng dệt may không chỉ có ý nghĩa về mặt kinh tế mà còn có ý nghĩa lớn về mặt chính trị – xã hội. Đó là vì đặc thù của ngành dệt may sử dụng nhiều lao động, liên quan chặt chẽ với nhiều ngành khác và khi ngành dệt may phát triển sẽ giúp giải quyết vấn đề công ăn việc làm, thúc đẩy nhiều ngành nghề khác phát triển. Công ty may Thăng Long mà tiền thân là Xí nghiệp may mặc xuất khẩu, được thành lập từ năm 1958 với nhiệm vụ gia công may mặc để xuất khẩu là chủ yếu. Qua hơn 40 năm tồn tại và phát triển, đơn vị đã có những bước tiến lớn trong hoạt động sản xuất kinh doanh, là một trong những đơn vị đi đầu trong hoạt động gia công và xuất khẩu hàng may mặc ở Việt Nam. Trong những năm qua, doanh thu xuất khẩu cũng như doanh thu nội địa của Công ty may Thăng Long luôn tăng, thị trường luôn được mở rộng. Đó là do công ty đã tận dụng được những lợi thế của mình, định vị thị trường đúng và có chiến lược kinh doanh hợp lý. Tuy nhiên, trong bối cảnh khu vực hoá và toàn cầu hoá nền kinh tế, hoạt động xuất khẩu có nhiều thuận lợi, nhưng cũng gặp nhiều khó khăn mới. Thị trường mở rộng, khách hàng đa dạng nhưng cạnh tranh cũng ngày càng gay gắt hơn. Chính vì vậy việc tìm kiếm giải pháp thúc đẩy hoạt động xuất khẩu, đặc biệt là các giải pháp chú trọng đến tìm kiếm thị trường mới luôn là việc làm thường xuyên và bắt buộc. Qua tìm hiểu, nghiên cứu ở Công ty may Thăng Long em thấy hoạt động xuất khẩu của Công ty chủ yếu là sang thị trường Mỹ (chiếm khoảng 80% doanh thu xuất khẩu) trong khi thị trường Mỹ đã áp dụng hạn ngạch với hàng dệt may Việt Nam. Bên cạnh đó, lợi nhuận của Công ty may Thăng Long chủ yếu do hoạt động gia công mang lại, việc xuất khẩu theo hình thức bán đứt vẫn chiếm một tỷ lệ nhỏ. Với những lý do như vậy, em đã chọn đề tài “Giải pháp đẩy mạnh xuất khẩu hàng dệt may ở Công ty may Thăng Long sang thị trường Mỹ” làm chuyên đề tốt nghiệp Do còn nhiều hạn chế về thực tiễn và trình độ, chẵc chắn không tránh khỏi thiếu sót. Em rất mong được sự chỉ bảo của cô giáo. Phần I Tổng quan về Công ty may Thăng Long trong những năm qua 1. Tổng quan về Công ty may Thăng Long 1.1 Sơ lược quá trình hình thành và nhiệm vụ Với chủ trương thành lập một số doanh nghiệp xuất khẩu tại Hà Nội trong hoàn cảnh thực tế của nền kinh tế nước ta những năm 1950, Bộ Công nghiệp nhẹ (nay là Bộ Công nghiệp) quyết định thành lập Xí nghiệp may mặc xuất khẩu, trực thuộc Tổng công ty xuất khẩu tạp phẩm. Xí nghiệp may mặc xuất khẩu được quyết định thành lập ngày 8/5/1958, là tiền thân của Công ty may Thăng Long. Việc thành lập Xí nghiệp may mặc xuất khẩu khi đó mang một ý nghĩa to lớn vì đây là đơn vị may mặc xuất khẩu đầu tiên của Việt Nam, lần đầu tiên đưa hàng may mặc Việt Nam ra thị trường thế giới. Ngoài ra, sự ra đời của Xí nghiệp cũng đã góp sức mình vào công cuộc cải tạo nền kinh tế thông qua việc hình thành những tổ sản xuất của hợp tác xã may mặc đi theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Đến ngày 4/3/1993, Bộ Công nghiệp quyết định đổi tên Xí nghiệp may mặc xuất khẩu thành Công ty may Thăng Long, trực thuộc Tổng công ty Dệt may Việt Nam. Theo chủ trương cổ phần hoá doanh nghiệp của Đảng và Nhà nước, Công ty đã được tiến hành cổ phần hoá vào đầu năm 2004, trong đó Nhà nước nắm giữ 51%. Một số thông tin về Công ty may Thăng Long: Tên đơn vị: Công ty may Thăng Long. Tên giao dịch: Thăng Long Garment Company (THALOGA). Trụ sở chính: 250 Minh Khai – Quận Hai Bà Trưng – Hà Nội – Việt Nam. Loại hình doanh nghiệp: Trước năm 2004, thuộc loại hình doanh nghiệp Nhà nước. Từ năm 2004, thuộc loại hình Công ty cổ phần. Ngành nghề kinh doanh: May mặc – Sản xuất, gia công may mặc, kinh doanh kho ngoại quan. Số điện thoại: 04.8 623372 / 8 622142 Fax: 84.4 623374 Website: Nhiệm vụ: Bên cạnh nhiệm vụ chính của Công ty là gia công hàng may mặc xuất khẩu, Công ty còn gia công hàng thêu mài cho các tập thể, cá nhân, cung cấp phục vụ một phần nhu cầu trong nước, nộp ngân sách Nhà nước đầy đủ, đãi ngộ đúng mức đối với người lao động. Trong nền kinh tế thị trường doanh nghiệp có nhiều quyền định đoạt và trách nhiệm hơn, nhiệm vụ cơ bản của Công ty là sản xuất kinh doanh có lãi, thực hiện đúng chế độ sổ sách của Nhà nước, nộp ngân sách đầy đủ. Hiện nay hoạt động tiêu thụ sản phẩm của Công ty chủ yếu là xuất khẩu với doanh thu xuất khẩu hàng năm chiếm tới trên 80% tổng doanh thu. Hoạt động xuất khẩu của Công ty được chia thành hai hình thức: hình thức gia công và hình thức bán đứt. Hình thức gia công là hình thức mà Công ty nhận đơn đặt hàng của khách, bao gồm cả mẫu mã đã được thiết kế, một phần hoặc tất cả nguyên phụ liệu để sản xuất sản phẩm. Trong trường hợp này Công ty chỉ được nhận công gia công. Thực tế hoạt động tiêu thụ sản phẩm của Công ty, xuất khẩu theo hình thức này chiếm tỷ lệ rất cao, khoảng 80%. Với hình thức bán đứt, doanh nghiệp tự nghiên cứu thị trường, thiết kế mẫu mã và mua sắm các yếu tố đầu vào, sản xuất sản phẩm và bán. Trong trường hợp này doanh nghiệp nhận được toàn bộ số tiền bán sản phẩm. Hoạt động xuất khẩu theo hình thức này còn chiếm tỷ lệ khiêm tốn, với khoảng 20%. Với hai hình thức xuất khẩu như vậy, trong các báo cáo của Công ty thường có hai loại số liệu. Một là giá trị của toàn bộ số hàng cả gia công và bán đứt, trong đó hàng gia công bao gồm cả tiền công gia công và giá trị nguyên phụ liệu mà người đặt hàng cung cấp. Hai là giá trị của tiền gia công đối với đơn hàng gia công và doanh thu của những lô hàng mà Công ty tự thiết kế, mua sắm các yếu tố đầu vào, sản xuất và bán. Để đơn giản trong việc phân tích số liệu, trong chuyên đề này sẽ sử dụng thuật ngữ “trị giá FOB” theo cách quy định của Công ty với số liệu thứ nhất, tức giá trị của toàn bộ hàng xuất ra bao gồm cả nguyên phụ liệu do người đặt hàng cung cấp; “doanh thu” với số liệu thứ hai, tức tiền công gia công của những lô hàng gia công cộng với phần doanh thu của những lô hàng mà Công ty tự thiết kế, sản xuất và bán. Cụ thể, trị giá FOB được tính theo công thức: Trị giá FOB == Tiền công gia công + Giá trị những lô hàng do Công ty tự thiết kế mẫu, sản xuất và bán + Giá trị nguyên phụ liệu khách hàng cung cấp Doanh thu được tính theo công thức: Doanh thu == Tiền công gia công + Giá trị những lô hàng do Công ty tự thiết kế mẫu, sản xuất và bán Với các số liệu được tính và quy định như trên, ta nhận thấy số liệu trị giá FOB sẽ lớn hơn số liệu doanh thu, đặc biệt ở Công ty may Thăng Long hoạt động gia công là chính thì số liệu FOB lớn hơn số liệu doanh thu rất nhiều. Sự khác nhau giữa các số liệu sẽ được phân tích cụ thể ở Phần II – Phân tích tình hình xuất khẩu của Công ty may Thăng Long trong những năm qua. 1.2. Bộ máy hoạt động của Công ty may Thăng Long Công ty may Thăng Long là một doanh nghiệp tổ chức quản trị theo kiểu “Trực tuyến – Chức năng”. Hiện nay cơ cấu tổ chức bộ máy quản trị Công ty may Thăng Long gồm có: - Tổng giám đốc. - Ba phó Tổng giám đốc. - Hệ thống các phòng ban và các xí nghiệp sản xuất. Sơ đồ 1: Cơ cấu tổ chức Công ty: Tổng giám đốc Xí nghiệp 1 Văn phòng (tổ chức lao động) Xí nghiệp phụ trợ Xí nghiệp 2 Xí nghiệp 3 Xí nghiệp may Nam Hải Xí nghiệp khác Phó tổng giám đốc điều hành kỹ thuật Phòng chuẩn bị sản xuất Phòng kế toán tài vụ Xưởng thời trang Phó tổng giám đốc điều hành sản xuất Phòng kế hoạch thị trường Phòng kỹ thuật chất lượng Phó tổng giám đốc điều hành nội chính Chú thích: Mối quan hệ trực tuyến Mối quan hệ chức năng Tổng giám đốc: Là người đứng đầu bộ máy công ty, thay mặt công ty chịu trách nhiệm trước Nhà nước về toàn bộ hoạt động của công ty mình, đồng thời lãnh đạo công ty từ bộ máy quản trị cho tới các phòng ban chức năng. Phó tổng giám đốc điều hành kỹ thuật: Có chức năng tham mưu, giúp việc cho Tổng giám đốc. Phó tổng giám đốc điều hành kỹ thuật chịu trách nhiệm trước Tổng giám đốc về việc tổ chức nghiên cứu mẫu hàng và các loại máy móc kỹ thuật, thiết lập mối quan hệ bạn hàng, các cơ quan quản lý hoạt động xuất nhập khẩu, triển khai các nghiệp vụ xuất nhập khẩu như: tham mưu ký kết các hợp đồng gia công, xin giấy phép xuất nhập khẩu, tiếp nhận phụ liệu, mở tờ khai hải quan, giao hàng cho khách… Phó tổng giám đốc điều hành sản xuất: Có chức năng tham mưu, giúp việc cho tổng giám đốc. Phó tổng giám đốc điều hành sản xuất chịu trách nhiệm trước Tổng giám đốc về việc lập kế hoạch sản xuất kinh doanh và báo cáo tình hình sản xuất kinh doanh của công ty. Phó tổng giám đốc điều hành nội chính: Có chức năng tham mưu, giúp việc cho Tổng giám đốc. Phó tổng giám đốc điều hành nội chính chịu trách nhiệm trước Tổng giám đốc về sắp xếp các công việc của Công ty, có nhiệm vụ trực tiếp điều hành công tác lao động, tiền lương, y tế, tuyển dụng lao động, đào tạo cán bộ, chăm lo đời sống cán bộ công nhân viên. Phòng kỹ thuật chất lượng: Là bộ phận tham mưu cho Phó tổng giám đốc điều hành kỹ thuật về kế hoạch và chiến lược kinh doanh. Phòng kỹ thuật chất lượng thực hiện các công việc như: may các mẫu chào hàng, thiết kế các mẫu mã sản phẩm, lên định mức nguyên phụ liệu. Phòng này cũng đồng thời có nhiệm vụ chuẩn bị các điều kiện kỹ thuật cho các xí nghiệp may. Phòng kế hoạch thị trường: Có chức năng tham mưu cho Phó tổng giám đốc điều hành sản xuất của công ty, điều hành và báo cáo tình hình thực hiện kế hoạch sản xuất kinh doanh của công ty. Phòng này có nhiệm vụ nắm vững các yếu tố vật tư, năng lực của thiết bị, năng suất lao động, lập các kế hoạch sản xuất kinh doanh và tiến hành điều độ sản xuất cho linh hoạt và kịp thời, phối hợp các đơn vị, các nguồn lực trong công ty có hiệu quả nhất; thực hiện các công việc nghiên cứu thị trường, ký kết các hợp đồng xuất nhập khẩu, thực hiện các nghiệp vụ tiêu thụ sản phẩm trong và ngoài nước. Phòng kế toán tài vụ: Có chức năng quản lý nguồn tài chính vào và ra của Công ty, chuẩn bị và quản lý nguồn tài chính phục vụ cho sản xuất kinh doanh cũng như các khoản lương cho cán bộ công nhân viên trong công ty. Phòng kế toán tài vụ quản lý và cung cấp các thông tin về kết quả sản xuất kinh doanh, về tài sản của Công ty trong từng thời kỳ, từng năm kế hoạch. Phòng này cũng có nhiệm vụ hoạch toán chi phí, tính giá thành từng sản phẩm, thực hiện chế độ kế toán hiện hành của Nhà nước. Văn phòng công ty: Có nhiệm vụ chức năng tham mưu cho Phó tổng giám đốc nội chính về tổ chức nhân sự, đồng thời chịu sự quản lý trực tiếp của Tổng giám đốc. Phòng có nhiệm vụ tuyển dụng lao động, bố trí lao động, bố trí đào tạo cán bộ công nhân viên, thực hiện các công tác tiền lương, bảo hiểm xã hội cho công nhân viên. Văn phòng đang rất chú ý công tác quản trị nhân lực, đặc biệt chú ý quản lý chặt chẽ định mức lao động từng công nhân. Phòng chuẩn bị sản xuất: Có nhiệm vụ quản lý và cấp phát nguyên vật liệu cho sản xuất. Phòng chuẩn bị sản xuất quản lý và bảo quản các thành phẩm do các xí nghiệp sản xuất ra và chờ thời gian giao cho khách hàng. Các xí nghiệp may trong công ty: Hiện nay Công ty may Thăng Long có 6 xí nghiệp may và một xí nghiệp phụ trợ chuyên trách việc bảo dưỡng, sửa chữa máy móc thiết bị. 3 trong 6 xí nghiệp may đặt tại trụ sở 250 Minh Khai, 1 xí nghiệp tại Hà Nam, 1 xí nghiệp tại Nam Định và 1 xí nghiệp tại Hoà Lạc (Hà Tây). Các xí nghiệp được trang bị máy may hiện đại theo quy trình công nghệ đồng bộ, khép kín, đảm bảo từ khâu đầu tiên đến khâu cuối cùng của quá trình sản xuất sản phẩm. Các xí nghiệp may thực hiện quá trình sản xuất hàng may mặc bao gồm các công đoạn: cắt, thêu, may, tẩy, là, đóng gói sản phẩm. Mạng lưới đại lý và các cửa hàng giới thiệu sản phẩm của công ty: Công ty có mạng lưới cửa hàng giới thiệu và bán sản phẩm rộng khắp trong nước. Các sản phẩm của công ty được giới thiệu rộng rãi như: áo jacket các loại, áo sơ mi, quần áo Jean nữ, quần áo trẻ em… Cũng tại đây công ty giới thiệu và bán nhiều hàng tiêu chuẩn xuất khẩu cho người tiêu dùng. Bên cạnh đó, Công ty còn có hệ thống văn phòng đại diện giới thiệu và bán sản phẩm trên thị trường nhiều nước, thông qua mạng Internet… Chi nhánh và cơ sở khác: Ngoài các phòng ban bộ phận, xí nghiệp nêu trên, Công ty còn có một xưởng thời trang chuyên đảm nhiệm công tác nghiên cứu, thiết kế mẫu mã mới, hệ thống kho ngoại quan tại Hải Phòng, hệ thống phòng trưng bày và giới thiệu sản phẩm trong và ngoài nước. 1.3. Quản lý chất lượng Chất lượng sản phẩm luôn là một yếu tố được Công ty coi trọng trong các chiến lược và kế hoạch sản xuất kinh doanh. Chính vì vậy, công tác quản lý chất lượng sản phẩm luôn được coi trọng. Hiện nay Công ty đã đưa vào áp dụng bộ tiêu chuẩn quản lý chất lượng ISO 9001 phiên bản 2000 trên toàn Công ty, tạo điều kiện nâng cao chất lượng sản phẩm toàn diện. Bên cạnh đó, Công ty đang triển khai áp dụng hệ thống quản lý môi trường ISO 14000 và tiêu chuẩn SA 8000. Việc đưa vào áp dụng các tiêu chuẩn trên có ý nghĩa rất lớn đối với hoạt động tiêu thụ sản phẩm của Công ty, giúp nâng cao chất lượng sản phẩm, nâng cao uy tín và khả năng xuất khẩu sản phẩm ra thị trường nước ngoài. 1.4. Tình hình vốn kinh doanh của Công ty Là một doanh nghiệp Nhà nước nên nguồn vốn của Công ty chủ yếu là do Nhà nước cấp, luôn chiếm khoảng 70% tổng số vốn hàng năm , nguồn vốn cố định của Công ty luôn ổn định qua các năm. Nguồn vốn lưu động của Công ty tăng do có sự đầu tư hàng năm từ ngân sách Nhà nước và bổ sung từ các quỹ, các nguồn khác trong và ngoài Công ty, huy động nội lực, vay ngân hàng, vay từ các tổ chức kinh tế. Việc nhận vốn từ Ngân sách còn đặt ra trách nhiệm cho Công ty phải tìm mọi biện pháp trong khả năng có thể để đảm bảo nâng cao hiệu quả sử dụng vốn và hoạt động sản xuất kinh doanh mang lại hiệu quả cao. Bảng 1: Báo cáo tình hình vốn kinh doanh của công ty Đơn vị tính: triệu đồng. Chỉ tiêu 2001 2002 2003 2004 Số tiền Tỷ lệ % Số tiền Tỷ lệ % Số tiền Tỷ lệ % Số tiền Tỷ lệ % Tổng số vốn 17365 17642 18081.3 19.425 Phân theo tài sản 1.Vốn cố định 12393 71 12948 73 13.535,9 74,9 14.971 77,07 2.Vốn lưu động 4972 29 4694 27 4.545,4 25,1 4.454 22,93 Phân theo nguồn hình thành 1.Ngân sách cấp 12744 73 12790 72 12.970,0 71,7 13.903 71,57 2.Tự bổ sung 4621 27 4852 28 5.111,3 28,3 5.523 28,43 Nguồn: Phòng kế toán tài vụ – Công ty may Thăng Long Để nâng cao hiệu quả sử dụng vốn, Công ty đã chủ động mua sắm tài sản cố định để tăng năng lực sản xuất, thực hiện đầu tư theo chiều sâu. Việc đầu tư mua sắm tài sản cố định để tăng năng lực sản xuất là một việc làm có ý nghĩa quan trọng trong việc nâng cao năng lực xuất khẩu của Công ty. 2. Một số đặc điểm kinh tế – kỹ thuật ảnh hưởng hoạt động xuất khẩu của Công ty 2.1 Lao động Lao động là một yếu tố quan trọng trong các yếu tố nguồn lực của doanh nghiệp, đặc biệt đối với những doanh nghiệp sử dụng nhiều lao động như trong ngành may mặc. Số lượng và chất lượng lao động có ảnh hưởng trực tiếp đến số lượng, chất lượng sản phẩm, đến thực hiện các kế hoạch, chiến lược sản xuất kinh doanh, kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh. Chính vì vậy các nội dung của công tác nhân sự như tuyển mộ, tuyển chọn, đào tạo, phát triển, đãi ngộ người lao động… luôn được ban lãnh đạo Công ty quan tâm đúng mức. Trải qua quá trình phát triển hơn 40 năm, cơ cấu lao động, số lượng lao động của Công ty đã có những biến đổi rõ rệt, đặc biệt trong những năm gần đây khi Công ty luôn chú trọng đầu tư hiện đại hoá công nghệ, đầu tư mở rộng sản xuất. Số lượng lao động liên tục tăng do quy mô sản xuất mở rộng, cùng với nó là chất lượng lao động cũng không ngừng được nâng cao, đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của sản xuất. Bảng 2: Số lao động làm việc qua các năm Năm 2001 2002 2003 2004 KH 2005 Số lao động(người) 2165 2300 2517 3166 4000 Nguồn: Công ty may Thăng Long - Báo cáo tình hình thực hiện các chỉ tiêu năm 2001, 2002, 2003, 2004 Qua bảng trên ta thấy số lượng lao động của Công ty luôn tăng với tốc độ khá nhanh trong những năm gần đây. Số lao động năm 2002 so với năm 2001 tăng 135 lao động, hay tăng 6,24%. Số lao động năm 2003 so với năm 2002 là 109,44%, tăng tuyệt đối 217 lao động. Năm 2004 so với 2003 là 125,79%, tăng tuyệt đối là 649 lao động. Tốc độ tăng bình quân của 4 năm từ 2001 đến 2004 là 13,51%/năm. Kế hoạch năm 2005 so với thực hiện 2003 là 126,34%, tăng tuyệt đối là 834 lao động. Trong những năm gần đây, việc tiêu thụ sản phẩm của Công ty luôn tăng với tốc độ nhanh, số khách hàng của Công ty ngày càng nhiều, các thị trường xuất khẩu không ngừng được mở rộng, đặc biệt là thị trường Mỹ sau khi Hiệp định thương mại Việt – Mỹ được ký kết. Để đáp ứng yêu cầu lớn của thị trường, Công ty đã đầu tư xây dựng nhiều cơ sở sản xuất mới như tại Hoà Lạc, liên tục tuyển dụng và đào tạo lao động, bổ sung vào lực lượng lao động của Công ty qua các năm. Nhìn chung, lao động nữ chiếm tỷ lệ cao. Theo số liệu thống kê những năm trước kia, lao động nữ luôn chiếm khoảng 80% trong tổng số cán bộ công nhân viên. Tuỳ theo đơn hàng và thời vụ sản xuất, Công ty luôn có kế hoach tuyển lao động theo hợp đồng, lao động mùa vụ nhằm đáp ứng kịp thời yêu cầu của khách hàng. Bên cạnh đó, lực lượng lao động học may, thử việc cũng rất đáng kể. Cùng với việc đầu tư đổi mới công nghệ, mở rộng sản xuất, lực lượng lao động của Công ty luôn biến động, không chỉ về số lượng mà cả chất lượng. Số lượng lao động bậc cao ngày càng tăng cả về số tuyệt đối và tỷ trọng trong tổng số lao động của Công ty. Đó là kết quả của việc đầu tư đổi mới máy móc thiết bị, trẻ hoá lao động, chiến lược nâng cao chất lượng sản phẩm. Phần lớn lao động đều còn trẻ, được đào tạo qua trường lớp, có khả năng tiếp thu khoa học kỹ thuật mới. Bảng 3: Công nhân sản xuất theo bậc trong một số năm gần đây Bậc thợ Năm 1999 Năm 2000 Năm 2001 Năm 2002 Năm 2003 Năm 2004 Sl (người) % Sl (người) % Sl (người) % Sl (người) % Sl (người) % Sl (người) % 1 995 56,9 1020 57 1113 55,9 1158 54,9 1272 55 1813 61,1 2 251 14,3 261 15 288 14,5 345 16,4 419 18 478 16,1 3 174 9,94 163 9,2 201 10,1 202 9,57 205 8,8 219 7,38 4 179 10,2 192 11 197 9,9 203 9,62 211 9,1 226 7,62 5 145 8,29 140 7,9 185 9,3 192 9,1 201 8,6 215 7,23 6 6 0,34 4 0,2 6 0,3 10 0,47 16,7 0,7 16,8 0,56 Tổng 1750 100 1780 100 1990 100 2110 100 2325 100 2968 100 Nguồn: Phòng kế hoạch – thị trường – Công ty may Thăng Long Với phương châm tinh giảm lao động gián tiếp, nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh, trong những năm qua số cán bộ của Công ty chỉ duy trì ở mức 160 – 180 người. Trong số này có khoảng 130 người có trình độ đại học, 40 người nắm giữ các vị trí chủ chốt của Công ty. Số cán bộ 180 người tức khoảng 8% tổng số lao động là một tỷ lệ khá hợp lý trong điều kiện sản xuất kinh doanh hiện nay của Công ty. Nhiều cán bộ của Công ty có tuổi đời còn rất trẻ, có kiến thức rất tốt về chuyên môn, có trình độ, kinh nghiệm trong lĩnh vực kinh doanh xuất nhập khẩu, có khả năng làm việc độc lập, sáng tạo, một số có trình độ ngoại ngữ tốt. Bảng 4: Cán bộ quản lý, nhân viên văn phòng trong một số năm gần đây Năm 2000 2001 2002 2003 Số lượng(Người) 175 190 192 198 Nguồn: Phòng nhân sự – Công ty may Thăng Long Trình độ nghiệp vụ của đội ngũ làm công tác xuất khẩu có ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả của hoạt động xuất khẩu. Để làm tốt công việc, đòi hỏi đội ngũ này phải có kiến thức tốt về hoạt động thương mại quốc tế, có kỹ năng xử lý tình huống tốt, có kiến thức về các thị trường, kỹ năng đàm phán, ký kết hợp đồng và thường xuyên phải tự nâng cao tay nghề. Hiện nay đội ngũ làm công tác tiêu thụ sản phẩm của Công ty có trình độ tương đối tốt, đáp ứng được yêu cầu đặt ra trong công việc. 2.2 Nguyên vật liệu Nguyên vật liệu là yếu tố có ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động xuất khẩu của Công ty. Hiện nay Công ty có một số lượng lớn các nhà cung ứng các yếu tố đầu vào. Vải là nguyên liệu chính trong sản xuất và thường được nhập khẩu từ các nước Nhật, Hàn Quốc, Hồng Kông, Trung Quốc, Đài Loan, Thái Lan. Vải mua trong nước hầu như không có. Các nguyên phụ liệu cũng chủ yếu nhập từ nước ngoài, nguyên phụ liệu nội địa chỉ chiếm tỷ lệ nhỏ trong tổng số nguyên phụ liệu dùng trong sản xuất sản phẩm xuất khẩu. Bảng 5: Tình hình sử dụng nguyên phụ liệu may và giá trị nguyên phụ liệu sử dụng trong sản xuất sản phẩm xuất khẩu TT Chỉ tiêu Đơn vị 2003 2004 Tăng trưởng (%) 1 Sử dụng nguyên liệu may 1000 m2 Tổng số: nt - Vải nhập khẩu nt + Nhật nt 302 381 126 + Hàn Quốc nt 600 652 109 + Hồng Kông nt 857 935 109 + Trung Quốc nt 1593 1754 110 + Đài Loan nt 489 562 115 + Thái Lan nt 0 27 - Vải mua trong nước nt 0 0 2 Giá trị NPL Triệu đ 114.420 147.450 129 + Nhập khẩu nt 112393 145082 129,1 + Nội địa nt 2027 2368 116,8 Nguồn: Công ty may Thăng Long – Báo cáo tình hình sử dụng NPL năm 2003 - 2004 Chính vì nguyên phụ liệu sản xuất chủ yếu được nhập khẩu nên chất lượng sản phẩm thường dễ được khách hàng chấp nhận. Điều này cũng đưa đến sự lệ thuộc lớn vào thị trường nguyên liệu bên ngoài. Thị trường nguyên liệu bên ngoài thường không ổn định và có thể gây ra những thay đổi bất ngờ trong sản xuất, gây bất lợi trong việc đáp ứng kịp thời yêu cầu của khách hàng. Trong những năm tới Công ty có kế hoạch nghiên cứu thay thế dần nguyên liệu nhập khẩu bằng nguồn nguyên liệu sản xuất trong nước nhằm giảm chi phí và bớt tính bị động trong việc chuẩn bị các yếu tố đầu vào cho sản xuất. Tuy nhiên, việc xuất khẩu vào các nước có tính cạnh tranh cao thì việc chấp nhận nguyên phụ liệu của nhà nhập khẩu, có nghĩa nhà nhập khẩu kiêm luôn nhà cung cấp nguyên phụ liệu, thường cơ hội thâm nhập thị trường lớn hơn. Đó là một xu hướng đang hình thành đối với thị trường Mỹ, EU. Điều đó cũng cho thấy sự mâu thuẫn giữa việc tăng khả năng cạnh tranh, khả năng thâm nhập thị trường với việc sử dụng các yếu tố đầu vào từ thị trường nội địa, giảm sự phụ thuộc vào các nhà cung cấp nguyên phụ liệu nước ngoài. Một đặc điểm lớn của ngành may là sử dụng rất nhiều nguyên phụ liệu khác nhau. Điều này làm cho công tác chuẩn bị đầu vào cho sản xuất rất khó khăn, phức tạp, bài toán dự trữ nguyên vật liệu luôn được đặt ra cấp bách. Vì những lý do như vậỵ, nguyên phụ liệu có ảnh lớn đối với hoạt động xuất khẩu của Công ty. 2.3 Đặc điểm về thị trường tiêu thụ Thị trường tiêu thụ sản phẩm có ảnh hưởng rất lớn đến toàn bộ hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty. Các yếu tố của thị trường thay đổi sẽ quyết định doanh số bán ra, mức lợi nhuận của Công ty, quyết định thu nhập của người lao động, khả năng đóng góp thuế đối với Nhà nước. Trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng mạnh mẽ, cơ hội mở rộng thị trường cũng như những đòi hỏi về chất lượng sản phẩm càng lớn. Hiện nay, sản phẩm của Công ty đã xuất khẩu sang hơn 40 quốc gia trên thế giới, trong đó những khách hàng chủ yếu là Mỹ, Nhật, EU, Hồng Kông, Đài Loan… Thị trường của Công ty cũng không ngừng được mở rộng nhờ vào chính sách phát triển thị trường. Từ năm 1990 trở về trước khi hoạt động theo kế hoạch của bộ chủ quản, Công ty đã có thị trường tiêu thụ rộng lớn với các mặt hàng như áo sơ mi, áo măng tô, pijama, áo mưa, áo bò, quần áo dệt kim… Những thị trường lớn của Công ty có thể kể đến như Liên Xô, Mông Cổ, Bắc Triều Tiên, các nước Đông Âu, Cộng hoà dân chủ Đức. Thập kỷ 80 của thế kỷ 20 được coi như một đỉnh cao phát triển của Công ty, mỗi năm Công ty đạt mức xuất khẩu trên đạt 5 triệu áo sơ mi quy chuẩn. Trong thời gian đó Công ty được tặng một Huân chương lao động hạng nhất, một Huân chương lao động hạng hai, hai Huân chương lao động hạng ba và nhiều bằng khen khác. Sau khi chính sách đổi mới của Đảng và Nhà nước đi vào đời sống, nhất là sau khi có Quyết định chuyển đổi Xí nghiệp may mặc xuất khẩu thành Công ty may Thăng Long, Công ty ngày càng tích cực tìm kiếm thị trường, sản phẩm của Công ty đã đến được nhiều thị trường mới với số lượng ngày càng lớn. Sản phẩm xuất khẩu của Công ty hàng năm chiếm khoảng 80% tổng số, tiêu thụ thị trường nội địa chiếm khoảng 20%, tiêu thụ nội địa chủ yếu là mặt hàng trung và cao cấp. Công ty đã có kế hoạch tăng đầu tư nghiên cứu thị trường trong những năm tới, chú ý những thị trường mới như thị trường châu á, thị trường châu Phi. Việc đầu tư nghiên cứu thị trường cũng phải đồng thời với việc đầu tư đào tạo, tuyển chọn đội ngũ cán bộ hoạt động trong việc nghiên cứu thị trường. Với những thị trường khác nhau Công ty có thể áp dụng những hình thức kinh doanh xuất khẩu khác nhau, đó là xuất khẩu theo hình thức bán đứt hay xuất khẩu trực tiếp và gia công hàng may mặc xuất khẩu. Hoạt động xuất khẩu trực tiếp đang là hoạt động xuất khẩu được quan tâm hàng đầu tại Công ty. Thực chất đây là việc tổ chức nghiên cứu, thiết kế mẫu mã, mua nguyên phụ liệu, tổ chức sản xuất sản phẩm và tiêu thụ ra thị trường nước ngoài. Tiến hành theo hình thức này Công ty có những ưu điểm nổi bật sau: - Công ty có thể tự chủ trong hoạt động sản xuất kinh doanh, chủ động trong việc thực hiện các kế hoạch của Công ty. - Công ty liên hệ trực tiếp, đều đặn với các khách hàng và thị trường nước ngoài, biết được nhu cầu của khách hàng và tình hình thị trường nói chung nên có thể thay đổi sản phẩm, cải tiến sản phẩm, đưa sản phẩm mới cũng như các hoạt động bán hàng mới trong những trường hợp cần thiết. - Công ty giảm được chi phí trung gian do đó doanh thu và lợi nhuận của Công ty sẽ tăng lên. Tuy nhiên, để thực hiện được xuất khẩu trực tiếp đòi hỏi Công ty phải thực hiện được nhiều việc như: - Đòi hỏi Công ty phải đủ mạnh về năng lực sản xuất, phải có uy tín, vốn lớn và phải có khả năng nghiên cứu và khai thác thị trường, khả năng thiết kế mẫu mã. - Rủi ro trong hoạt động xuất khẩu trực tiếp cũng rất cao. Song song với hình thức xuất khẩu trực tiếp, Công ty vẫn duy trì hoạt động gia công để luôn đảm bảo việc làm cho người lao động và giữ được mối quan hệ làm ăn sẵn có. Thực hiện gia công, khách hàng cung cấp từ kiểu mốt, tài liệu kỹ thuật và tất cả nguyên vật liệu hoặc một số nguyên vật liệu chính, đồng thời đảm nhận việc tiêu thụ sản phẩm. Công ty chỉ có nhiệm vụ tiến hành sản xuất theo mẫu mã đã thiết kế với nguyện phụ liệu được cung cấp và nhận tiền công gia công. Bên đặt gia công luôn chủ động tranh thủ chi phí gia công rẻ ở Việt Nam. Hiện nay hoạt động gia công vẫn chiếm một tỷ lệ tương đối cao ở hầu hết các doanh nghiệp may mặc xuất khẩu Việt Nam nói chung, điều đó giải thích tại sao hiệu quả kinh doanh chưa cao, thụ động với thị trường. Một lý do khác giải thích hoạt động gia công trong giai đoạn hiện nay là nhiều công ty còn chưa đủ năng lực thiết kế những mẫu mã theo yêu cầu của khách hàng hoặc những mẫu mã đưa ra không được khách hàng chấp nhận. Thêm vào đó, chúng ta thiếu những thương hiệu đủ mạnh để cạnh tranh trên thị trường thế giới. Nhiều nhà nhập khẩu sản phẩm may của Việt Nam chỉ thực hiện thêm công đoạn thay nhãn mác và bán với giá cao hơn rất nhiều giá nhập. Thị trường Mỹ và EU là hai thị trường trọng điểm của Công ty, đây là những thị trường có nhu cầu về các sản phẩm may mặc cao. Theo số liệu những năm gần đây, thị trường Mỹ luôn chiếm khoảng 80% kim ngạch xuất khẩu của Công ty, tiếp đó là thị trường EU. Doanh thu xuất khẩu của Công ty trong những năm qua tăng nhanh, chủ yếu là do sự tăng lên của xuất khẩu sang thị trường Mỹ. Tuy nhiên, cả thị trường Mỹ và EU đều áp dụng hạn ngạch với hàng may mặc Việt Nam, tình trạng thiếu hạn ngạch, phí hạn ngạch cao là khó khăn cơ bản khi xuất khẩu sang những thị trường này. Ngoài ra Công ty còn xuất sang các thị trường khác như Nhật, Hồng Kông, Đài Loan, Hàn Quốc, Israel, Angola… Trong các kế hoạch sản xuất kinh doanh, việc mở rộng thị trường tiêu thụ, đặc biệt là những thị trường phi hạn ngạch luôn được ban lãnh đạo Công ty quan tâm. Bảng 6: Tình hình xuất khẩu của Công ty may Thăng Long theo trị giá FOB qua các năm từ 2001 – 2004 Chỉ tiêu Đơn vị 2001 2002 2003 2004 Tổng kim ngạch XK USD 36.971.255,7 39.872.218 43.632.047 67.226.949 I. Châu Âu nt 6.788.136,7 10.840.756 3.694.462 3.210.061 Pháp nt 1.753.275 Đức nt 7.111.020 2.566.601 2.145.608 Italia nt 3.600 Đan Mạch nt 140.743 260.861 802.329 Tây Ban Nha nt 807.870 37.800 117.600 Séc nt 259.248 442.000 Ba Lan nt 765.000 387.200 Hà Lan nt 144.524 II. Chây Mỹ nt 26.234.569 19.307.748 36.046.299 60.216.209 Mỹ nt 26.234.569 19.011.369 35.920.025 60.216.209 Canada nt 296.379 126.274 III. Châu á nt 3.895.011 9.614.388 3.816.058 3.460.679 Hàn Quốc nt 82.441 252.919 Nhật nt 3.685.774 5.355.873 2.324.610 2.081.018 A rập nt 592 Đài Loan nt 73.565 2.156.408 90.211 567.573 Indonesia nt Singapore nt 6.960 32.625 Israel nt 45.679 1.816.563 1.339.237 812.088 Hồng Kông nt 62.000 IV. Châu Phi nt 53.538 109.326 Dubai nt 246 Angola nt 53.292 109.326 V. Châu úc nt 75.228 úc nt 75.228 VI. Xuất khẩu tại chỗ 340.000 Nguồn: Công ty may Thăng Long – các Báo cáo xuất khẩu năm 2001 – 2004 Qua bảng trên, ta dễ dàng tính được tỷ trọng của các thị trường trên tổng kim ngạch xuất khẩu qua các năm. Bảng 7: Tỷ trọng các thị trường xuất khẩu qua các năm (trị giá FOB) Chỉ tiêu ĐV tính 2001 2002 2003 2004 Tổng kim ngạch XK % 100 100 100 100 I. Châu Âu nt 18,36 27,19 8,47 4,77 II. Chây Mỹ nt 70,96 48,42 82,61 89,57 III. Châu á nt 10,54 24,11 8,75 5,15 IV. Châu Phi nt 0,14 0,27 - - V. Châu úc nt - - 0,17 - VI. Xuất khẩu tại chỗ - - - 0,51 Nguồn: Tính toán từ bảng 8. Qua hai bảng trên ta thấy tình hình xuất khẩu của Công ty nói chung tăng nhanh trong những năm gần đây, nhưng không ổn định ở nhiều thị trường. Thị trường Mỹ có ảnh hưởng rất quan trọng đến hoạt động xuất khẩu của Công ty. Trong những năm qua thị trường Mỹ luôn chiếm một tỷ lệ rất cao, các thị trường khác chỉ chiếm tỷ lệ nhỏ hoặc không đáng kể. Chính vì vậy, bất chấp sự sụt giảm ở những thị trường khác trong khi thị trường Mỹ tăng, trị giá FOB của Công ty vẫn tăng nhanh q._.ua các năm. Tỷ lệ của thị trường Mỹ năm 2001 chiếm 70,96% trong tổng số trị giá FOB xuất khẩu của Công ty, sang năm 2001 giảm còn 48,42%. Hai năm sau đó tăng lên lần lượt là 82,61% và 89,57%. Do mở rộng thị trường tiêu thụ, nghiên cứu và thoả mãn tốt hơn nhu cầu của khách hàng mà doanh số của Công ty qua các năm luôn tăng. Trị giá FOB năm 2002 đạt 39.872.218 USD tăng 2.900.963,30 USD so với năm 2001, đạt tốc độ phát triển là 107,85%. Năm 2003 đạt 43.632.047 USD so với năm 2004 tăng 3759829,00 USD đạt tốc độ phát triển 109,43%. Năm 2004 đạt 67.226.949 USD đạt tốc độ phát triển so với năm 2003 là 154,08 %. 2.4 Máy móc thiết bị Máy móc thiết bị có ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động sản xuất kinh doanh nói chung, hoạt động xuất khẩu của Công ty nói riêng vì máy móc thiết bị là yếu tố quyết định trực tiếp chất lượng sản phẩm, năng suất lao động. Nhận thức được điều đó, Công ty luôn chú trọng đầu tư đổi mới máy móc thiết bị, đầu tư mở rộng nhà xưởng, hiện đại hoá các dây chuyền công nghệ để chuyển dần sang sản xuất những mặt hàng cao cấp. Khi chuyển sang nền kinh tế thị trường, Công ty đã mạnh dạn đầu tư máy móc thiết bị mới từ các nước có nền công nghiệp tiên tiến như: Nhật Bản, Đức, Hàn Quốc nhằm nâng cao năng suất lao động và chất lượng sản phẩm, từ đó tăng khả năng cạnh tranh sản phẩm may mặc của công ty trên thị trường trong nước cũng như quốc tế. Hiện nay công ty đã thay thế hết số máy móc cũ, máy móc thiết bị mà công ty đang sử dụng đều thuộc thế hệ mới, chủ yếu từ năm 1990 trở lại đây và đều có nguồn gốc chủ yếu từ Nhật Bản và Đức như hệ thống thêu, giặt mài tự động hàng jean, đặc biệt có những loại máy móc hiện đại như máy thêu 20 chân. Việc đổi mới, mua sắm thêm máy móc thiết bị giúp Công ty có thể hoàn thành tốt các đơn hàng của khách. Bảng 8: Tình hình máy móc thiết bị của công ty năm 2000 Tên máy móc thiết bị Nước sản xuất Số lượng(chiếc) Máy may 1 kim Nhật 673 Máy may 1 kim Đức 145 Máy may 2 kim cố định Nhật 127 Máy may 2 kim cố định Đức 6 Máy vắt sổ Nhật 175 Máy thùa khuyết đầu bằng Nhật 237 Máy đính cúc phẳng Nhật 22 Máy đính cúc phẳng Đức 3 Máy đính bộ Nhật 20 Máy cuốn ống Nhật 13 Máy nẹp sơ mi Đức 30 Máy cạp chun Đức 6 Máy cạp chun Nhật 2 Máy tra cạp quần Jean Đức 8 Máy thùa đầu tròn Đức 3 Máy thùa đầu tròn Tiệp 10 Máy vắt gấu Nhật 8 Máy trần viền Nhật 17 Máy bổ cơi Đức 1 Máy thêu tự động Nhật 1 Máy thêu tự động Đức 2 Máy cắt vòng Nhật 4 Máy cắt tay Nhật 11 Máy dập cúc Hàn Quốc 46 Máy dập cúc cơ khí máy Việt Nam 7 Nồi hơi đốt dầu Hàn Quốc 2 Máy giặt Đài Loan 6 Máy vắt Hàn Quốc 6 Máy sấy Hàn Quốc 8 Nồi hơi đốt điện Nhật 12 Nguồn: Phòng kỹ thuật – Công ty may Thăng Long Qua bảng thống kê ta nhận thấy tuy máy móc thiết bị có nguồn gốc khác nhau nhưng khá hoàn thiện và đồng bộ. Mỗi xí nghiệp của công ty được trang bị khoảng gần 300 máy các loại. Với trình độ công nghệ khá tiên tiến như vậy, Công ty đủ năng lực sản xuất ra sản phẩm có chất lượng cao. Bên cạnh đó Công ty không ngừng đầu tư thêm máy móc thiết bị mới. Trong năm 1998 công ty đã nhập về một dây chuyền công nghệ tự động để may áo sơ mi cao cấp (XN1). Nhiều phương án công nghệ đang được tiếp tục xây dựng và thực hiện, đưa thêm máy móc thiết bị tự động, hiện đại để sản xuất mặt hàng cao cấp hơn, chủng loại đa dạng đáp ứng nhanh chóng nhu cầu thị trường trong nước cũng như thị trường nước ngoài. Bảng 9: Giá trị máy móc thiết bị Năm 2001 2002 2003 2004 Giá trị (Triệu đ) 8.669 15.000 16.000 23.000 Nguồn: Công ty may Thăng Long - Báo cáo tình hình thực hiện các chỉ tiêu các năm 2001, 2002, 2003, 2004. Về quy trình công nghệ, Công ty may Thăng Long là một doanh nghiệp lớn chuyên sản xuất và gia công các mặt hàng may mặc theo quy trình kép kín từ A đến Z (bao gồm: cắt, may, là, đóng gói, đóng thùng) với các loại máy móc chuyên dùng và số lượng sản phẩm tương đối lớn được chế biến từ nguyên liệu chính là vải. Từ nguyên liệu vải sẽ qua khâu đầu tiên là cắt gồm các bước đặt mẫu, đánh số và cắt. Sau khi qua bước cắt, bước tiếp theo có thể là thêu sau đó là đến may. Tuy nhiên, với nhiều sản phẩm có thể không qua bước thêu mà từ cắt có thể chuyển thẳng qua bước may tuỳ theo yêu cầu của sản phẩm. Sau khi xong bước may sẽ chuyển qua bước giặt, mài và tẩy sau đó chuyển sang là, hoặt từ may chuyển sang bước là ngay nếu yêu cầu sản xuất không cần đến bước giặt, mài, tẩy. Sau khi là, sản phẩm sẽ được đóng gói và đưa vào nhập kho thành phẩm. Như vậy ta thấy quy trình công nghệ sản xuất gồm nhiều nguyên công khác nhau. Sơ đồ 2: Quy trình công nghệ của Công ty Nguyên liệu vải, phụ liệu Là Đóng gói Nhập kho thành phẩm Thêu Giặt, mài , tẩy Cắt: đặt mẫu, đánh số, cắt May: may cổ, may tay, ghép thành phẩm Quy trình sản xuất sản phẩm của công ty là quy trình sản xuất phức tạp kiểu liên tục. Sản phẩm được trải qua nhiều công đoạn kế tiếp nhau. Công ty sản xuất rất nhiều sản phẩm với chủng loại và mẫu mã khác nhau, song tất cả đều phải trải qua một quy trình công nghệ như trên. Như vậy, quy trình công nghệ sản xuất mà công ty đang áp dụng là quy trình công nghệ kép kín, từng bộ phận chuyên môn hoá rõ rệt vì thế tiết kiệm nguyên vật liệu, nâng cao năng suất lao động, đảm bảo chất lượng sản phẩm làm ra đạt tiêu chuẩn mà công ty đã xây dựng. 2.5 Chiến lược hướng ra xuất khẩu của Công ty Công ty may Thăng Long ngay từ khi thành lập đã có nhiệm vụ chính là sản xuất sản phẩm may mặc để xuất khẩu. Vì vậy, hướng ra xuất khẩu luôn là chiến lược lâu dài của Công ty. Trong những năm qua, sản phẩm xuất khẩu thường chiếm tới 80% và hơn trong tổng sản phẩm sản xuất. Chiến lược hướng ra xuất khẩu giúp doanh nghiệp tập trung vào các thị trường xuất khẩu là chủ yếu, từ đó việc đầu tư máy móc thiết bị, phát triển các công trình kết cấu hạ tầng đều nhằm phục vụ việc xuất khẩu, tạo điều kiện thúc đẩy hoạt động xuất khẩu của Công ty. Ban lãnh đạo Công ty luôn là người khởi sướng và chỉ đạo thực hiện những sáng tạo mới, đóng góp rất lớn trong việc hoạch định các chủ trương, chính sách, đưa ra các giải pháp cho sản xuất kinh doanh thích ứng với từng thời kỳ cụ thể, từng thị trường cụ thể. Chiến lược đúng đắn do ban lãnh đạo công ty vạch ra đưa đến sự ổn định về định hướng trong sản xuất kinh doanh, vấn đề còn lại là tổ chức thực hiện định hướng đó trong những khoảng thời gian cụ thể. Theo tài liệu dự báo của Công ty, trong thời gian tới định hướng xuất khẩu của Công ty vẫn tiếp tục bám sát các thị trường truyền thống, đồng thời tăng cường công tác nghiện cứu, phát triển các thị trường mới nhằm mở rộng hoạt động xuất khẩu. Năng lực xuất khẩu của Công ty vào thị trường Mỹ theo dự đoán năm 2004 đạt khoảng 72 triệu USD, tăng 16,248% so với năm 2003; năm 2005 đạt khoảng 86 triệu USD tăng 19,44% so với kế hoạch nă m 2004. Như vậy, có thể nói Công ty vẫn xác định trong ngắn hạn thị trường Mỹ vẫn là thị trường trọng điểm của Công ty. Bên cạnh đó vấn đề nghiên cứu phát triển các thị trường khác, đặc biệt là EU, Nhật Bản, những thị trường phi hạn ngạch luôn được đặt ra trong chiến lược sản xuất kinh doanh. Định hướng hướng ra xuất khẩu có ảnh hưởng tích cực đến hoạt động xuất khẩu của Công ty, tạo ra sự chủ động trong sản xuất kinh doanh. 3. Tiềm năng xuất khẩu và vài nét về hoạt động xuất khẩu của Công ty trong những năm qua. Công ty may Thăng Long có tiềm năng xuất khẩu to lớn, hiện nay sản phẩm của Công ty đã xuất khẩu sang nhiều quốc gia, đạt kim ngạch xuất khẩu mỗi năm hàng chục triệu USD. Thị trường xuất khẩu của Công ty rộng khắp từ châu Mỹ, châu Âu, châu á đến châu Phi, châu úc, mặc dù mức độ xuất khẩu với mỗi thị trường, với mỗi thời điểm còn chưa tương xứng với tiềm năng của thị trường và thường xuyên biến động. Trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, sản phẩm của Công ty càng có nhiều cơ hội đến với những thị trường mới. Để đáp ứng yêu cầu thị trường, trong những năm qua Công ty không ngừng đầu tư xây dựng mới nhà xưởng, mua sắm máy móc thiết bị sản xuất. Mới đây, Công ty đầu tư xây dựng xưởng may mới tại Hoà Lạc, Công ty cũng đã đầu tư mới nhiều xưởng may vệ tinh ở Nam Định, Hà Nam và mở văn phòng đại diện tại các thị trường như Mỹ, EU, Nhật… nhằm tăng cường công tác nghiên cứu và phát triển thị trường. Với những cố gắng mở rộng tiềm năng xuất khẩu trong những năm qua, doanh thu xuất khẩu của Công ty luôn đạt và vượt kế hoạch đề ra, thương hiệu THALOGA ngày càng đến được với nhiều thị trường mới. Bảng 10: Tình hình xuất khẩu của Công ty qua vài năm gần đây (theo FOB) Chỉ tiêu ĐV tính 2000 2001 2002 2003 2004 Tổng sản phẩm XK Sp 2.224.000 3.204.000 3.474.000 6.342.270 7.635.551 Tổng giá trị XK USD 31.000.000 37.000.000 39.600.000 43.632.047 67.226.949 Nguồn: Công ty may Thăng Long – Báo cáo xuất khẩu các năm 2000 - 2004 Qua bảng trên ta thấy tình hình xuất khẩu của Công ty qua một số năm gần đây luôn tăng, năm sau cao hơn năm trước. Nếu so sánh năm 2004 với năm 2000, sau 5 năm tốc độ tăng doanh thu xuất khẩu là 216,861%, tức tăng gấp hơn 2 lần. Tổng số sản phẩm tăng 343,325%, tức tăng gần gấp 3,5 lần. Tốc độ phát như vậy là khá nhanh. Biểu đồ 1: Trị giá FOB xuất khẩu của Công ty một số năm gần đây USD Năm 0 10000000 20000000 30000000 40000000 50000000 60000000 70000000 80000000 2000 2001 2002 2003 2004 Tuy nhiên, hoạt động xuất khẩu của Công ty tăng lên chủ yếu do sự tăng lên nhanh chóng của thị trường Mỹ. Thị trường Mỹ luôn là thị trường chiếm tỷ trọng lớn trong tổng kim ngạch xuất khẩu của Công ty trong những năm qua. Bảng 11: Tình hình xuất khẩu sang thị trường Mỹ trong những năm gần đây Chỉ tiêu ĐV tính 2000 2001 2002 2003 2004 Kim ngạch XK USD 7.476.406 26.234.569 19.011.369 40.000.000 60.216.209 Sản phẩm: Sp - Dệt kim Sp 797.696 704.852 1.265.288 1.670.960 2.629.365 - Sơ mi Sp 675.771 568.396 - Quần các loại Sp 221.237 342.929 2.459.256 2.538.364 - Jacket Sp 37.773 349.499 981.912 - SP khác Sp 314.108 190.280 Nguồn: Công ty may Thăng Long – Báo cáo xuất khẩu các năm từ 2000 – 2004 Theo bảng trên, số lượng mặt hàng dệt kim và quần các loại chiếm tỷ lệ cao đồng thời cũng có tỷ lệ tăng trưởng cao và ổn định qua các năm. Mức xuất của mặt hàng dệt kim năm 2004 so với 2000 là 329,62%, tức số sản phẩm xuất khẩu tăng gấp hơn 3 lần; của quần các loại là 11,47 lần, đặc biệt mức xuất khẩu jacket qua 3 năm từ 2002 đến 2004 tăng tới 26 lần. Đó là tỷ lệ tăng rất cao. Tuy nhiên, với những sản phẩm khác như sơ mi và những sản phẩm khác thì lại có dấu hiệu giảm sút. Mặt hàng sơ mi theo số liệu xuất khẩu của Công ty cho thấy mới xuất khẩu từ năm 2003 với mức 675.771 sản phẩm, đến năm 2004 giảm còn 568.396 sản phẩm; các sản phẩm khác từ 314.108 sản phẩm giảm xuống còn 190.280 sản phẩm. Đây là những sản phẩm mà doanh nghiệp không có lợi thế trên thị trường vì chất lượng không cao, đáp ứng chưa tốt yêu cầu của khách hàng. Xem xét doanh số do các sản phẩm mang lại ta thấy hàng dệt kim chiếm tỷ trọng cao qua các năm, sau đó là jacket, quần các loại, sơ mi và các sản phẩm khác. Bảng 12: Xuất khẩu theo mặt hàng qua các năm từ 2002 – 2004 Đơn vị tính: USD Sản phẩm 2002 2003 2004 Trị giá FOB % Trị giá FOB % Trị giá FOB % Tổng doanh số 39.872.218 100 43.632.047 100 67.226.949 100 1. Jacket và áo các loại 9.238.115 23.17 6.717.832 15.40 19.555.040 29.09 2. Sơ mi các loại 2.879.996 7.22 7.432.998 17.04 7.113.938 10.58 3. Quần các loại 8.398.797 21.06 17.694.654 40.55 21.937.006 32.63 4. Quần áo các loại khác 3.842.478 9.64 2.875.145 6.59 2.013.713 3.00 5. Hàng dệt kim 15.512.832 38.91 8.906.418 20.41 16.607.192 24.70 Nguồn: Công ty may Thăng Long - Báo cáo xuất khẩu các năm 2002 – 2004 Qua bảng trên ta thấy mặt hàng quần các loại, jacket và dàng dệt kim chiếm tỷ trọng lớn trong tổng số. Tuy nhiên mức tăng giảm không đồng đều. Mặt hàng jacket chiếm 23,17% vào năm 2002, giảm xuống còn 15,40% vào năm 2003, sau đó lại tăng lên 29,09% vào năm 2004. Mặt hàng quần các loại chiếm 21,06% vào năm 2002 và tăng lên tới 40,55% vào năm 2003, sau đó lại giảm còn 32,63% năm 2004. Mặt hàng dệt kim có xu hướng giảm, từ 38,91% năm 2002 xuống chỉ còn 20,41% năm 2003, sau đó có tăng lên đôi chút là 24,70% năm 2004. Mặt hàng sơ mi chiếm tỷ trọng nhỏ và có xu hướng tăng giảm không rõ rệt. Mặt hàng quần áo các loại khác có xu hướng giảm rõ rệt, từ 9,64% năm 2002 xuống còn 3% năm 2004. Nói chung, hoạt động xuất khẩu của Công ty may Thăng Long trong những năm qua tăng trưởng nhanh và ổn định. Nhưng khi nghiên cứu chi tiết về từng mặt hàng cụ thể thì các mặt hàng không thể hiện xu hướng rõ rệt, thường tăng giảm thất thường. Điều đó là do sự biến động của thị trường. Chính vì vậy, việc nắm bắt được xu hướng thị trường là rất quan trọng, nó giúp định hướng các chính sách, kế hoạch sản xuất kinh doanh nhằm đáp ứng được yêu cầu thị trường tốt nhất với mức chi phí thấp nhất. 4. Công cụ cạnh tranh chủ yếu của Công ty trên các thị trường xuất khẩu 4.1 Sản phẩm cấp thấp và trung bình Công ty may Thăng Long chỉ có thể thâm nhập thị trường Mỹ, EU, Nhật bằng những sản phẩm cấp trung bình và cấp thấp, còn đối với những mặt hàng có chất lượng cao Công ty hiện khó cạnh tranh được với những nước giầu truyền thống như Anh, Nhật, các nước công nghiệp mới NICs. Trung Quốc cũng đang nổi lên như một đối thủ cạnh tranh có tiềm lực lớn, có nhiều lợi thế. Đối với những sản phẩm cao cấp đòi hỏi trước tiên phải có được thương hiệu mạnh, có tên tuổi, được khách hàng chấp nhận, phải có công nghệ hiện đại, tay nghề công nhân giỏi, bí quyết sản xuất và mối quan hệ truyền thống với khách hàng… Những yếu tố đó hiện nay ở nhiều mức độ khác nhau Công ty còn thiếu. Tuy nhiên, việc phát triển sản phẩm theo định hướng nâng cao chất lượng, tiếp cận những thị trường sản phẩm cao cấp vẫn là một định hướng lâu dài của Công ty. 4.2 Giá cả Việt Nam là một trong những nước có giá nhân công rẻ nhất thế giới, người lao động lại cần cù, khéo léo, nhà tuyển dụng lại thường được lợi thế khi tuyển dụng lao động hơn so với các quốc gia khác… Những điều đó tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp may mặc nói chung, Công ty may Thăng Long nói riêng, giúp giảm được đáng kể chi phí, giảm giá thành sản phẩm, từ đó tăng khả năng cạnh tranh của Công ty trên thị trường. Trong điều kiện hiện nay khi những công cụ cạnh tranh của Công ty còn chưa phát huy tác dụng hiệu quả thì cạnh tranh về giá nhờ có giá thành hạ là công cụ quan trọng. 4.3 Thời hạn giao hàng Công ty may Thăng Long có quy mô lớn với nhiều xí nghiệp phụ trợ. Là thành viên của Tổng công ty dệt may Việt Nam và đã phát triển qua hơn 40 năm, Công ty có được những mối quan hệ đối tác rộng với các doanh nghiệp trong nước, có điều kiện tiếp xúc với hệ thống thông tin thị trường đa dạng. Vì thế, Công ty có khả năng đáp ứng những đơn hàng lớn đúng về thời gian, số lượng và chất lưọng. Trong điều kiện hiện nay với những đơn hàng lớn là chủ yếu thì uy tín về năng lực sản xuất của Công ty cũng có thể coi là một công cụ cạnh tranh quan trọng. Tuy nhiên, sản xuất để xuất khẩu theo hình thức bán đứt Công ty phải tự lo liệu nguyên phụ liệu đầu vào do đó cần nhiều vốn trong thời gian ngắn. Điều đó có thể làm ảnh hưởng đến tiến độ giao hàng. Đây là khó khăn đòi hỏi Công ty phải giải quyết. Phần II Phân tích tình xuất khẩu của Công ty May Thăng Long 1. Thực trạng xuất khẩu hàng dệt may sang thị trường Mỹ 1.1 Tổng quan về thị trường dệt may Mỹ Đối với ngành dệt may, những tiêu chuẩn thị trường lý tưởng là dân số đông, thu nhập quốc dân cao, xu hướng thời trang phát triển mạnh. Có thể nói thị trường Mỹ hội tụ khá đầy đủ các tiêu chuẩn này. Với dân số khoảng 285,822 triệu người (số liệu 31/12/2001), chiếm 5% dấn số thế giới và là nước đông dân thứ ba trên thế giới, tỷ lệ dân sống ở thành thị cao, chiếm khoảng 75%, thu nhập quốc dân tính trên đầu người cao, trên 36.200USD/người/năm (số liệu năm 2000), Mỹ trở thành một trong những quốc gia nhập khẩu hàng dệt may lớn nhất thế giới. Nền kinh tế Mỹ tăng trưởng ổn định trong thập niên 90 của thế kỷ 20 càng làm tăng niềm tin của người tiêu dùng, duy trì tiêu dùng ở mức độ cao. Trong thời gian từ 1989 – 1993, mức tiêu thụ hàng dệt may ở Mỹ tăng 15%. Năm 1993, tổng mức tiêu dùng khoảng 86 tỷ USD. Năm 1994, mức tiêu thụ tăng 10% so với năm trước đó. Đến nay, mức tiêu thụ của Mỹ ước tính khoảng 115 tỷ USD. Mỗi năm Mỹ nhập khoảng 60 tỷ USD, bằng cả lượng hàng dệt may của Nhật và EU cộng lại. Mỹ nhập khẩu hàng dệt may chủ yếu từ Mêhicô, Trung Quốc, Đài Loan, Hồng Kông, Hàn Quốc. Các nước này chiếm đến 60% hàng dệt may nhập khẩu vào Hoa Kỳ và là những đối tượng cạnh tranh đáng kể nhất đối với các doanh nghiệp dệt may Việt Nam. Theo số liệu năm 2000, hàng dệt may Trung Quốc xuất vào Mỹ 9 tỷ USD, Mêhicô là 7,7, Hồng Kông 4,7, EU 4,0, Canađa 3,4, Hàn Quốc 3,2, Đài Loan 2,9, ấn Độ 2,7, Đôminica 2,4, Ônđurat 2,2. Các nghiên cứu chỉ ra người Mỹ dành khá nhiều thời gian cho việc mua sắm quần áo. Trung bình một năm mỗi người Mỹ đi mua quần áo khoảng 22 lần, so sánh với châu Âu là 14 lần, châu á 13 lần, Mêhicô 10 lần, châu Mỹ La tinh 8 lần. Điều đó cho thấy nhu cầu may mặc ở Mỹ đang dẫn đầu thế giới. Đây được coi là tín hiệu tốt đối với các nước xuất khẩu hàng dệt may vào Mỹ. Hơn nữa, Mỹ còn là một quốc gia đa chủng tộc với nhiều màu da, phong tục và lối sống khác nhau. Điều này khiến nhu cầu thị trường Mỹ rất phong phú, đa dạng. 1.2 Vài nét về quan hệ thương mại Việt – Mỹ Quan hệ thương mại Việt Nam và Mỹ đã bắt đầu cách đây 150 năm với các thương vụ nhỏ lẻ. Cho đến tháng 4/1975, Mỹ cũng chỉ quan hệ kinh tế với chính quyền Sài Gòn thông qua các khoản viện trợ chiến tranh. Khối lượng giao dịch kinh tế không lớn, chủ yếu là các hàng hoá xuất khẩu sang Mỹ như gỗ, cao su, gốm, hải sản… Sau khi Mỹ tuyên bố bãi bỏ lệnh cấm vận đối với Việt Nam, đặc biệt là sự bình thường hoá quan hệ Việt – Mỹ, mối giao thương Việt – Mỹ mới có điều kiện phát triển tương xứng với tiềm năng của nó. Trong giai đoạn cấm vận kinh tế kéo dài 30 năm (từ 1964 đến tháng 2/1994), quan hệ kinh tế Việt – Mỹ không phát triển, nhưng qua các con đường gián tiếp và không chính thức, Việt Nam vẫn có quan hệ buôn bán với nhiều tổ chức kinh tế của Mỹ. Một số công ty Mỹ qua hình thức trung gian cũng đã xuất khẩu hàng hoá vào Việt Nam. Theo số liệu của Bộ thương mại Mỹ năm 1987, Mỹ xuất khẩu sang Việt Nam 23 triệu USD. Theo số liệu thống kê của Việt Nam, năm 1990 Việt Nam đã xuất sang thị trường Mỹ một lượng hàng trị giá 5000 USD, tăng lên 9.000 USD vào năm 1991. Ngày 3/2/1994 Tổng thống Mỹ tuyên bố chính thức bãi bỏ cấp vận đối với Việt Nam, tiếp theo đó là Bộ thương mại Mỹ chuyển Việt Nam từ nhóm Z (bao gồm các nước Bắc Triều Tiên, Cu Ba, Việt Nam) lên nhóm Y (gồm Mông Cổ, Lào, Campuchia, Việt Nam cùng một số nước Đông Âu và các quốc gia thuộc Liên Xô cũ) ít hạn chế hơn về hoạt động thương mại. Ngay sau khi cấm vận được bãi bỏ, các hãng lớn của Mỹ với sự chuẩn bị từ trước đã tung sản phẩm của mình vào thị trường Việt Nam. Các sản phẩm của hãng Cocacola, Pepsi-coca, Kodak tràn ngập thị trường Việt Nam. Các hãng như Mobil, IBM, General Motors, Microsoft… ngay lập tức đã ký được các hợp đồng khai thác và cung cấp thiết bị có giá trị lớn cho các đối tác Việt Nam. Tổng số đầu tư của Mỹ vào Việt Nam từ con số không đến 5/1997 đạt 1,2 tỷ USD với 69 dự án, đưa Mỹ trở thành nước đầu tư lớn thứ 6 tại Việt Nam, trên cả Pháp, Anh, Đức… Bảng 13: Quan hệ thương mại Việt – Mỹ những năm từ 1995 - 2002 Đơn vị tính: Triệu USD Chỉ tiêu 1995 1996 1997 1998 1999 2000 2001 2002 Nhập khẩu 253 616 227,75 269 209,67 259,22 161,63 400 Xuất khẩu 199 319 388,2 553,5 609,18 524,05 602,09 2400 Tổng XNK 452 935 665,95 822,5 899,85 783,27 863,72 2800 Thâm hụt/Thặng dư -55 -297 110,45 284,5 309,51 264,83 340,46 2000 Nguồn: Bộ Thương mại các năm từ 1995-2001; TS. Hồ Sĩ Hưng, Nguyễn Việt Hưng: Cẩm nang xâm nhập thị trường Mỹ – 2002 Ngoại giao giữa hai nước ảnh hưởng rất lớn đến quan hệ thương mại giữa hai nước. Kim ngạch hai chiều tăng từ 452 triệu USD năm 1995 lên 899,85 triệu vào năm 1999. Tính từ 1997 đến nay, Việt Nam liên tục xuất siêu sang Mỹ. Một trong những thành tựu thương mại quan trong nhất giữa hai nước là Hiệp định thương mại Việt - Mỹ. Hiệp định thương mại Việt – Mỹ được ký vào ngày 13/7/2000, là kết quả của quá trình đàm phán kéo dài 4 năm và đánh dấu một bước tiến mới trong quan hệ thương mại giữa hai nước. Hiệp đinh thương mại Việt - Mỹ tạo ra cơ hội to lớn cho các doanh nghiệp có hàng hoá xuất khẩu sang thị trường Mỹ nói chung, các doanh nghiệp xuất khẩu hàng may mặc nói riêng. Đó là việc mở ra một thị trường rộng lớn, sức mua lớn, bên cạnh đó là cơ hội để tiếp cận một nền kinh tế tiên tiến, tiếp cận tri thức phát triển, học hỏi những kinh nghiệm trong quản lý và kinh doanh. Hiệp định không chỉ mở ra triển vọng xuất khẩu sang thị trường Mỹ mà còn tạo cơ hội để nhập khẩu các hàng hoá trực tiếp từ Mỹ với nhiều lợi thế hơn qua trung gian. Ngoài ra, việc ký kết Hiệp định còn mở ra hành lang pháp lý thu hút vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam, tạo ra niềm tin đối với các nhà đầu tư nước ngoài về một nền kinh tế ổn đỉnh. 1.3 Chính sách thương mại của Mỹ đối với hàng dệt may Việt Nam Chỉ sau khi lệnh cấm vận của Mỹ đối với Việt Nam được bãi bỏ thì hàng hoá xuất khẩu của Việt Nam nói chung, hàng dệt may nói riêng mới có cơ hội và điều kiện để vào thị trường Mỹ. Tuy nhiên, chính sách thương mại của Mỹ đối với hàng dệt may Việt Nam còn phụ thuộc vào các bước tiến trong quan hệ thương mại song phương giữa hai nước. Bên cạnh việc hàng dệt may Việt Nam chưa được hưởng chế độ ưu đãi từ phía Mỹ, hàng dệt may còn phải chịu sự chi phối bởi các quy định trong chính sách thương mại của Mỹ đối với hàng dệt may nhập khẩu vào Mỹ. Theo các chuyên gia, vấn đề dệt may sẽ được phía Mỹ đề cập trong khuôn khổ đàm phán song phương về vấn đề Việt Nam gia nhập WTO như họ đã làm với Trung Quốc. Từ năm 2003, Mỹ chính thức áp dụng hạn ngạch đối với hàng dệt may Việt Nam với mức hạn ngạch năm 2003 là 1,7 tỷ USD. Mặc dù đã áp dụng hạn ngạch nhưng phía Mỹ vẫn tiếp tục dùng các biện pháp hạn chế khác như điều tra chống phá giá, đánh thuế đối kháng. Đôi khi các biện pháp này được cố tình sử dụng nhằm hạn chế thương mại. Đối với mặt hàng dệt may, thị trường Mỹ có nhiều đẳng cấp, yêu cầu phong phú về chủng loại mặt hàng, ít khó tính như thị trường EU và Nhật song đòi hỏi phải phong phú và luôn đổi mới. Chính sách thuế quan: Mỹ áp dụng thuế quan trên cơ sở giá FOB thấp hơn giá CIF nên mức độ bảo hộ bằng thuế quan của Mỹ cũng thấp hơn so với các nước khác. Thuế suất: Mặc dù mức thuế suất MFN trung bình của Mỹ là 5,7% năm 1993, nhưng mức thuế áp dụng đối với các sản phẩm dệt là 10,3% và sản phẩm may là 11,3%. Một số nhóm sản phẩm còn chịu thuế cao hơn như quần áo 13,7%, sợi filament nhân tạo 13,3%. Riêng với các loại sản phẩm dệt, mức độ bảo hộ thực tế còn cao hơn vì thuế suất áp dụng cho sản phẩm đầu vào chỉ là 3% nhưng đối với sản phẩm gia công đã gia công chế biến thì thuế suất có thể cao gấp hơn 3 lần. Đối với hang dệt may Việt Nam do vẫn chưa được hưởng chế độ ưu đãi về thuế nên mức thuế suất vẫn rất cao, thường từ 40 – 90%, đây là một cản trở lớn đối với khả năng cạnh tranh và xâm nhập thị trường Mỹ. Bảng 14: Các mức thuế suất của Mỹ đối với hàng dệt may xuất khẩu vào Mỹ TT Mặt hàng Thuế suất MFN (%) Thuế suất phổ thông (%) Mức chênh lệch (%) 1 Sản phẩm dệt 10,3 51,1 44,8 2 Sản phẩm may mặc 13,4 68,9 55,5 Nguồn: Emiko Fukase and Will Martin: The Effect of the US’s Granting MFN Status to Vietnam, World Bank Qua bảng trên ta thấy mức chênh lệch về thuế suất MFN và mức thuế suất phổ thông là rất lớn, tới hơn 50%. Đây là khó khăn rất lớn của hàng dệt may Việt Nam khi cạnh tranh trên thị trường Mỹ với những đối thủ Mỹ và những đối thủ từ những nước được hưởng quy chế MFN. Đối với hàng may mặc phải chịu thuế suất cao gấp 5 lần thuế suất MFN. Thuế cao như vậy cộng với chất lượng hàng hoá của ta chưa cao nên việc thâm nhập thị trường Mỹ là rất khó khăn. Số tương đối mặt hàng dệt may Việt Nam xuất khẩu sang Mỹ cho thấy tăng liên tục, nhưng con số tuyệt đối lại quá nhỏ bé so với tổng lượng hàng may mặc Mỹ nhập khẩu là 50 – 60 tỷ USD. Hệ thống hạn ngạch: Công cụ bảo hộ chính của ngành dệt may Mỹ là hệ thống hạn ngạch áp dụng theo Hiệp định dệt may của WTO (ATC), mặc dù các hạn chế này đang phải xoá bỏ dần. Năm 1998, Mỹ áp dụng hạn ngạch đối với sản phẩm dệt may làm từ bông, sợi thực vật, len, sợi nhân tạo và lụa từ 45 nước, trong đó có 37 nước sẽ phải loại bỏ dần cho đến năm 2005. Đến nay, Mỹ đã thực hiện xong 2 giai đoạn đầu hoà nhập các sản phẩm dệt may theo Hiệp định ATC. Tuy nhiên, trên thực tế các sản phẩm được hoà nhập lại không phải là loại nhạy cảm, chịu hạn ngạch. Do vậy, hệ thống hạn ngạch được loại bỏ vào giai đoạn cuối cùng là 2005 đối với nhiều mặt hàng. Việt Nam vẫn chưa phải là thanh viên của WTO nên Mỹ vẫn đơn phương áp dụng hạn ngạch đối với Việt Nam. Về nguyên tắc xuất xứ hàng hoá và ghi nhãn sản phẩm dệt may: ở Mỹ người ta rất quan tâm đến xuất xứ hàng háo và nhãn mác của sản phẩm. Đối với các sản phẩm dệt may khi xuất khẩu vào Mỹ phải được ghi nhãn, nêu rõ tên nhà sản xuất và nước sản xuất, gia công sản phẩm. Từ 1/7/1996 quy định về xuất xứ hàng hoá đối với sản phẩm dệt may của Mỹ có hiệu lực. Đối với những sản phẩm may mặc cần gia công qua nhiều công đoạn, theo quy định cũ thì nước xuất xứ là nơi diễn ra công đoạn cắt vải. Theo quy định mới, nước xuất xứ về cơ bản là nơi diễn ra công đoạn may. Tuy nhiên, quy định mới của Mỹ xác định xuất xứ của sản phẩm dệt là nơi tiến hành in, nhuộm vải. Đối với sản phẩm len, theo quy định nhãn hiệu sản phẩm len năm 1939, tất cả các sản phẩm có chứa sợi len nhập khẩu vào Mỹ phải ghi nhãn, trừ thảm, chiếu, nệm ghế. Theo Luật nhãn hiệu sản phẩm da lông thú, tất cả các sản phẩm nhập khẩu có giá thành hay giá bán từ 7 USD trở lên phải ghi nhãn và nước xuất xứ. Chế độ visa xuất khẩu: Mỹ buộc một số nước phải ký thoả thuận về việc áp dụng chế độ visa xuất khẩu đối với hàng dệt may. Nước đối tác xác nhận dưới dạng đóng dấu vào hoá đơn hay giấy phép trước mỗi chuyến hàng. Biện pháp này hiện được sử dụng để quản lý hàng dệt may nhập khẩu vào Mỹ. Quy định về visa này được áp dụng cho sản phẩm chịu hạn ngạch và không chịu hạn ngạch, mặc dù các sản phẩm chịu quota đã phải chứng minh xuất xứ của mình khi muốn xuất vào thị trường Mỹ. Sau khi các nước ấn Độ, Pakistan và Hồng Kông kiện Mỹ tại cơ quan quản lý hàng dệt may của WTO (TMB), đầu năm 1999 Mỹ đã phải bỏ áp dụng chế độ trên đối với các sản phẩm đã hoà nhập theo Hiệp định. Đối với các nước chưa phải là thành viên của WTO trong đó có Việt Nam thì Mỹ vẫn đơn phương áp dụng mà không chịu bất kỳ áp lực nào. 2. Những thuận lợi và khó khăn khi xuất khẩu vào thị trường Mỹ 2.1 Thuận lợi Khi xuất khẩu vào thị trường Mỹ, Công ty may Thăng Long có nhiều thuận lợi. Trước tiên, đó là cơ hội về một thị trường rộng lớn. Thị trường Mỹ với dân số khoảng trên 285 triệu dân, là một nước công nghiệp phát triển và giàu nhất thế giới. Chi phí của dân cư cho việc mua sắm hàng may mặc thuộc vào loại cao trên thế giới, đây cũng là nơi thị trường mốt rất phát triển. Những điều đó cho thấy thị trường Mỹ là một thị trường rất rộng lớn, tạo ra nhiều cơ hội cho các nhà xuất khẩu hàng dệt may. Tuy nhiên, đây cũng là thuận lợi chung đối với bất kỳ nhà xuất khẩu hàng dệt may nào bán sản phẩm trên đất Mỹ. Thứ hai, Công ty may Thăng Long đã có thời gian khá dài xuất khẩu sang thị trường Mỹ, đến giờ Công ty đã có một số bạn hàng, đối tác quen, xây dựng được uy tín, thương hiệu với khách hàng cũng như đã có những văn phòng đại diện, của hàng giới thiệu và bán sản phẩm trên đất Mỹ. Trải qua nhiều năm xuất khẩu vào thị trường Mỹ, Công ty đã có những kiến thức, kinh nghiệm về thị trường Mỹ, hiểu biết luật pháp, lối sống của người Mỹ. Đó là thuận lợi rất lớn khi tiến hành xuất khẩu vào Mỹ. Thứ ba, chính sách khuyến khích xuất khẩu của Đảng và Nhà nước tạo cơ sở ổn định cho hoạt động sản xuất kinh doanh, hoạt động xuất khẩu của Công ty. Ngay từ khi đường lối đổi mới đi vào cuộc sống, Đảng và Nhà nước đã khẳng định một trong ba chương trình kinh tế cơ bản là xuât khẩu. Với ngành may mặc thì càng cần tập trung để khuyến khích xuất khẩu vì nó giúp giải quyết nhiều vấn đề bức xúc của xã hội như lao động, việc lam, tăng nguồn thu ngoại tệ cho nền kinh tế, tăng nguồn thu cho Ngân sách. Nhờ chính sách đúng đắn của Nhà nước, doanh thu xuât khẩu của ngành may mặc đã tăng nhanh trong những năm gần đây, đưa sản phẩm may mặc lên vị trí thứ hai sau sản phẩm dầu khí về doanh thu xuất khẩu. Với Công ty may Thăng Long, nắm bắt được xu hướng thị trường và chính sách của Nhà nước, vào đầu những năm thập niên 90 khi Công ty mất đi những thị trường lớn như Công hoà dân chủ Đức, Liên Xô, Đông Âu, Mông Cổ… Công ty đã phát triển thị trường sang thế giới tư bản chủ nghĩa, đặc biệt là thị trường Mỹ. 2.2 Khó khăn Thứ nhất, thị trường Mỹ là thị trường hạn ngạch, do đó hoạt động xuất khẩu sang thị trường Mỹ bị hạn chế bởi hạn ngạch Chính phủ cấp. Đó là khó khăn rất lớn đối với Công ty. Việc cấp quota của Chính phủ thường căn cứ vào khả năng sản xuất của doanh nghiệp cũng như khả năng ký kết hợp đồng. Mỹ bắt đầu áp dụng hạn ngạch với ngành dệt may Việt Nam năm 2003 là 1,7 tỷ USD. Thứ hai, trên thị trường Mỹ Công ty phải cạnh tranh gay gắt với nhiều đối thủ có truyền thống, danh tiếng như Anh, Nhật, các nước công nghiệp mới. Mới đây Trung Quốc nổi lên là một đối thủ nặng cân với nhiều ưu thế. Trung Quốc nay đã là thành viên của WTO nên đương nhiên sẽ được hưởng những ưu đãi hơn Việt Nam, bên cạnh đó Trung Quốc cũng có lực lượng lao động dồi dào, giá nhân công rẻ, giá thành sản phẩm thấp. Thứ ba, Công ty còn gặp nhiều khó khăn trong công tác thiết kế mẫu mã sản phẩm, nghiên cứu thị trường, hình thành ý tưởng sản phẩm. Đây là khó khăn cũng rất lớn. Chính vì khó khăn trong việc nghiên cứu thị trường, thiết kế mẫu mã mà trong suốt quá trình hoạt động xuất khẩu vừa qua Công ty rất hiếm khi đưa ra sản phẩm mới. Nói chung, v._.hững thị trường lại chiếm một tỷ lệ không đáng kể. Để đảm bảo mức cao trong kim ngạch xuất khẩu thì cần phải đặc biệt chú ý đến những thị trường trọng điểm. Hiện nay, Mỹ là thị trường lớn nhất với kim ngạch xuất khẩu hàng năm chiếm khoảng 80% tổng kim ngạch xuất khẩu của Công ty. Thị trường Mỹ trong những năm vừa qua lại cho thấy có dấu hiệu tăng trưỏng nhanh và ổn định, bất chấp những khó khăn về môi trường cạnh tranh, chính sách bảo hộ của Mỹ. Hàng xuất sang Mỹ cũng rất đa dạng về chủng loại sản phẩm. Thực tế trong những báo cáo hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty trong những năm qua đều khẳng định thị trường Mỹ là thị trường sống còn đối với Công ty. Mức tăng trưởng nhanh và ổn định của doanh số xuất sang thị trường Mỹ cho thấy đây là thị trường rất lớn và ở đó Công ty tận dụng được tốt nhất những lợi thế cạnh tranh của mình. Trước mắt, Công ty cần tập trung vào các vùng miền xuất khẩu truyền thống của Công ty ở thị trường Mỹ và mở rộng phạm vi xuất khẩu sang các vùng, miền mới. Trong các vùng miền của Mỹ, cần đặc biệt chú ý đến miền Nam. Miền Nam là miền có công nghiệp phát triển, những thành phố hiện đại. Dân cư thuộc vùng này có nhu cầu đẹp nói chung. Hơn nữa, qua phân tích số liệu các năm vừa qua cho thấy miền Nam chiếm tỷ trọng cao trong tổng số kim ngạch xuất khẩu vào thị trường Mỹ, tới 1.500.000 sản phẩm trên tổng số 4.000.000 sản phẩm. Cần tập trung nghiên cứu thị trường sâu hơn, tìm kiếm những khách hàng mới và chuyển đổi hình thức xuất khẩu từ hình thức gia công sang hình thức bán đứt. Năm 2003 cho thấy những khó khăn đối với hoạt động xuất khẩu hàng dệt may nói chung vào thị trường Mỹ. Mỹ chính thức áp dụng hạn ngạch đối với hàng dệt may Việt Nam, năm 2003 là 1,7 tỷ USD. Điều đó hạn chế rất lớn đến hoạt động xuất khẩu của toàn ngành nói chung, của Công ty nói riêng. Bất chấp những khó khăn đó, trị giá FOB của Công ty xuất sang thị trường Mỹ vẫn tăng cao so với năm 2003, từ 40.000.000 USD lên 60.216.209 USD. Điều đó cho thấy những cố gắng rất lớn của Công ty đối với thị trường Mỹ. Đối với thị trường Mỹ cần đặc biệt chú ý đến sản phẩm dệt kim, jacket và mặt hàng quần các loại. Đây là những mặt hàng xuất khẩu chủ lực, chiếm tỷ trọng cao trong doanh số xuất khẩu sang Mỹ của Công ty. Với thị trường EU, cần đặc biệt chú ý đến thị trường Đức. Thị trường Đức trong những năm vừa qua luôn là thị trường trọng điểm của Công ty ở EU. Mặc dù thị trường EU không ổn định và có nhiều dấu hiệu sụt giảm trong những năm gần đây nhưng Đức luôn là thị trường chiếm tỷ trọng cao trong tổng số. Nghiên cứu tình hình xuất khẩu sang EU cho thấy việc sụt giảm mức xuất sang thị trường EU có nhiều nguyên nhân, song có một nguyên nhân chủ yếu là sự sụt giảm của thị trường Đức kéo theo sự sụt giảm chung của thị trường EU. Thị trường Đức trong những năm qua cho thấy có nhiều dấu hiệu sụt giảm và không ổn định, điều đó đã tác động lớn và tiêu cực đến hoạt động xuất khẩu sang EU nói chung. Ngoài ra, Công ty cần tập trung vào các thị trường mà Công ty đã có hàng xuất khẩu sang như Pháp, Hà Lan, Đan Mach, Séc, Ytalia… Bên cạnh việc chú ý đến thị trường truyền thống, Công ty cần có những kế hoạch cụ thể nhằm mở rộng thị trường sang các nước thành viên khác của EU, đặc biệt là những nước thành viên mới của EU, thực hiện nghiên cứu thị trường để lấy lại các bạn hàng cũ ở Đông Âu, giữ ổn định các bạn hàng, tạo lập những mối quan hệ tin tường lẫn nhau. Với thị trường Nhật, Công ty cần chú ý nghiên cứu thị trường sâu hơn, tìm ra những đoạn thị trường mà Công ty có thuận lợi để tập trung vào những đoạn thị trường đó. Thị trường Nhật cũng là một thị trường quan trọng của Công ty với mức doanh số bán ra hàng năm khá cao. Tuy nhiên, hoạt động xuất khẩu sang thị trường Nhật Bản cũng không ổn định qua các năm, có năm tăng lên, có năm giảm đi. Tiềm năng xuất sang thị trường Nhật Bản đã được khẳng định là rất lớn với thị trường mở cửa, không hạn chế quota, ít có những hàng rào như những thị trường khác. Thị trường Nhật được ngành dệt may Việt Nam đánh giá là thị trường lớn thứ ba sau Mỹ và EU. Trong tương lai, việc xuất sang thị trường Nhật sẽ có nhưng bước tiến mới nhờ sự ngày càng thông thoáng của chính sách kinh tế đối ngoại giữa hai nước. Việc xuất khẩu sang thị trường Nhật của Công ty không ổn định qua các năm cho thấy sự chưa đầu tư đúng mức đối với thị trường Nhật. Trong thời gian tới cần đầu tư nghiên cứu thị trương Nhật hơn nữa nhằm đưa xuất khẩu sang thị trường Nhật tương xứng với tiềm năng của nó. Song song với các thị trường trọng điểm, Công ty cần đánh giá đúng mức cơ hội của những thị trường khác như châu Phi, châu Mỹ La Tinh, phần lớn các nước châu á khác mà Công ty chưa có hàng xuất sang. Đây là những quốc gia có nền kinh tế nói chung chưa phát triển bằng những quốc gia như Mỹ, EU, Nhật, nhưng đây cũng là phần thị trường rất tiềm năng mà Công ty không thể bỏ qua. 2.2. Đẩy mạnh công tác nghiên cứu thị trường Công ty cần tổ chức một bộ phận chuyên trách công việc nghiên cứu thị trường, củng cố phòng Kế hoạch - thị trường. Hiện nay, có thể nói lực lượng nghiên cứu thị trường của Công ty chưa rõ ràng, phần lớn cán bộ trong phòng kế hoạch – thị trường đều chỉ thực hiện công tác xây dựng kế hoạch sản xuất để đáp ứng đơn hàng của khách đặt hàng và thực hiện các nghiệp vụ về xuất nhập khẩu. Cán bộ chuyên trách nghiên cứu thị trường của Công ty vừa yếu, vừa thiếu nếu không muốn nói là hầu như không có. Vì đặc điểm ngày càng quan trọng của công tác tiêu thụ sản phẩm, em xin mạnh dạn đề xuất ý kiến tách phòng Kế hoạch sản xuất riêng, phòng Thị trường riêng. Nghiên cứu thị trường là công việc đặc biệt quan trọng đối với các mặt hàng may mặc do đặc điểm của nhóm hàng này rất nhạy cảm, yêu cầu cao về sự phù hợp với các tiêu chuẩn xã hội, truyền thống văn hoá, xu hướng thời trang… Đối với Công ty may Thăng Long nó càng trở nên quan trọng vì Công ty tham gia xuất khẩu và kinh doanh quốc tế rất rộng, thị trường thuộc tất cả các châu lục trên thế giới. Tuy nhiên, hoạt động nghiên cứu thị trường của Công ty chưa được coi trọng đúng mức. Doanh thu hàng năm chủ yếu do hoạt động gia công đem lại. Công ty cần tìm hiểu những thông tin về luật pháp, văn hoá xã hội, phong tục tập quán, thị hiếu của người tiêu dùng. Nắm bắt được những thông tin về thị trường thì mới có những quyết sách đúng đắn, đưa ra chiến lược và kế hoạch sản xuất kinh doanh thích hợp. Một trong những kết quả ít ỏi của Công tác nghiên cứu thị trường của Công ty mới đây chỉ ra những đặc điểm cơ bản của một số thị trường quan trọng: Bảng 22: Đặc điểm các thị trường Thị trường Màu sắc Kiểu dáng Chất lượng Giá cả Mỹ Nổi bật Tiện lợi 7/10 Cao EU Đa dạng Lịch sự 6/10 Trung bình Nhật Nhã nhặn Nghiêm túc 6/10 Trung bình Nguồn: Phòng Kế hoạch thị trường – Công ty may Thăng Long Với thị trường Mỹ cần nghiên cứu kỹ do có nhiều nguyên nhân gây nên tính đa dạng của thị trường này. Nước Mỹ với tên gọi Hợp chủng quốc, là nơi tập trung của nhiều người từ nhiều châu lục, nhiều dân tộc khác nhau trên thế giới với sự đa dạng về màu da, tôn giáo… Những người di cư đến đây cũng mang theo cả phong tục tập quán của họ, điều này kéo theo sự đa dạng trong cách ăn mặc của người Mỹ. Là một quốc gia công nghiệp phát triển từ rất sớm nên người Mỹ rất năng động, làm việc với cường độ cao. Họ không có suy nghĩ coi nghề nghiệp nào đó của mình là vĩnh viễn như người Nhật mà thường thay đổi nghề nghiệp. Sống trong điều kiện như vậy nên họ thường ưa thích sử dụng những sản phẩm đáp ứng yêu cầu nhanh như đồ ăn nhanh, ăn mặc đơn giản, gọn nhẹ, tiện lợi chứ không quá cầu kỳ về kiểu cách. Mục đích của họ là tiết kiệm thời gian cho công việc của mình. Gam màu yêu thích của người Mỹ là những gam màu nổi bật, đặc biệt là ở độ tuổi thanh thiếu niên. Vì thế đối với những sản phẩm cho đối tượng này Công ty cần đặc biệt chú ý đến màu sắc của sản phẩm. Tuy nhiên, đó cũng chỉ là những xu hướng chính của thị trường Mỹ. Trên thị trường Mỹ cũng được chia ra thành các vùng khác nhau với những đặc điểm riêng của từng vùng. Việc nghiên cứu kỹ những đặc điểm của từng vùng và sản xuất những sản phẩm đáp ứng được nhu cầu của họ là rất cần thiết. Một đặc điểm của thị trường Mỹ là sự phân hóa giàu nghèo diễn ra nhanh và sâu sắc cùng với sự phát triển của nền kinh tế Mỹ trước kia. Tuỳ theo những nhóm khách hàng mà sản phẩm hướng vào cần có những chính sách đúng đắn. Nước Mỹ tuy được coi là nước giàu nhất thế giới, nhưng thực tế phần đông dân số Mỹ thuộc tầng lớp trung lưu và thu nhập thấp tương đối so với giá cả và mức sống trung bình của xã hội Mỹ. Theo số liệu năm 2000, chỉ 1% dân số cực kỳ giàu có khống chế đến hơn 40% tài sản quốc gia, khoảng cách giữa người giàu và người nghèo ngày càng gia tăng. Vì thế, trong thời gian tới Công ty cần tăng cường nghiên cứu thị trường của những khách hàng trung lưu và thu nhập thấp vì những sản phẩm của Công ty chủ yếu đáp ứng những khách hàng thuộc tầng lớp này. Đối với thị trường EU, một đặc điểm nổi bật đó là yêu cầu về tính lịch sự của sản phẩm. Người ta thường nói có sự sung đột về văn hoá giữa châu Âu và Mỹ, đặc biệt giữa Mỹ và Pháp. Điều đó còn cần phải nghiên cứu nhiều, nhưng châu Âu có thời gian dài phát triển, có bề dày lịch sử và nhiều truyền thống được coi là niềm tự hào của họ thì Mỹ mới có vài trăm năm hình thành và phát triển tư bản chủ nghĩa. Thị trường EU cũng đòi hỏi chất lượng cao tương đối, giá cả cũng ở mức trung bình nhưng màu sắc thì phải đa dạng và thể hiện được tính lịch sư. Trong khi đó, thị trường Nhật đòi hỏi sản phẩm phải thể hiện tính nghiêm túc khi người ta sử dụng sản phẩm. Màu sắc người Nhật đòi hỏi phải nhã nhặn, không quá nổi bật. Chất lượng cũng được xem là ở mức trung bình. Việc nghiên cứu thị trường cần đặc biệt chú ý đến những thị trường mới, thị trường phi hạn ngạch. Hiện nay, xuất khẩu của Công ty chủ yếu là thị trường Mỹ trong khi thị trường Mỹ áp dụng hạn ngạch rất chặt đối với sản phẩm may mặc của Việt Nam. Thực ra còn rất nhiều thị trường tiềm năng chưa được chú ý đúng mức như thị trường châu Phi, châu Mỹ La Tinh, các thị trường châu á. Chính vì vậy, trong công tác nghiên cứu thị trường Công ty cần quan tâm hơn nữa đến những thị trường mới nhằm đa dạng hoá thị trường xuất khẩu, tránh sự lệ thuộc lớn vào một thị trường. 2.3. Đầu tư nâng cao trình độ thiết kế mẫu mã Công ty cần nâng cao khả năng thiết kế mẫu mã sản phẩm bằng việc đầu tư con người, máy móc thiết bị và tạo ra cơ chế thuận lợi để bộ phận thiết kế mẫu mã hoạt động. Đi đôi với việc đầu tư vào xưởng thời trang, Công ty cần định hướng vào việc việc thiết kế sản phẩm theo trào lưu mốt, theo xu hướng phát triển của thị trường mốt. Cần tạo ra sự liên kết với các trung tâm thời trang, câu lạc bộ thời trang, các trường đại học, trung tâm đào tạo đội ngũ làm công tác thiết kế và kết hợp với các tạp chí thời trang trong việc quảng bá sản phẩm mới cũng như quảng bá thương hiệu. Việc xây dựng đội ngũ thiết kế là rất cần thiết hiện nay, cần phải thực hiện các hoạt động nhằm phát hiện, tuyển dụng thậm chí lôi kéo những người thiết kế giỏi của những đơn vị khác nếu xét thấy cần thiết và có thể. Nếu xét thuần tuý trên góc đội kinh tế, giải pháp đó hoàn toàn có thể chấp nhập được. Hiện Công ty có một xưởng thời trang dưới sự quản lý trực tiếp của Phó giám đốc điều hành kỹ thuật. Tuy nhiên, hoạt động thực tế của xưởng thời trang còn nhiều hạn chế. Lực lượng chuyên làm công tác thiết kế vừa thiếu, vừa yếu, thường phải kiêm nhiệm những công việc khác. Công tác thiết kế sản phẩm mới ở Công ty hiện nay rất cầm chừng, chưa được sự đầu tư đúng mức. Yêu cầu đổi mới mẫu mã liên tục được thể hiện cụ thể qua ngành may mặc. Mẫu mã được cho là đem lại một phần giá trị gia tăng tương đối lớn cho sản phẩm, và quyết định việc tiêu thụ của sản phẩm. Chính vì vậy thiết kế mẫu mã sản phẩm là một yêu cầu quan trọng đối với những doanh nghiệp may mặc nói chung. Tuy nhiên, khách quan mà đánh giá thì khả năng thiết kế mẫu mã của Công ty còn nhiều hạn chế, phần lớn những sản phẩm bán ra thị trường đều ít có cải tiến mẫu mã, hoặc có thì cũng theo yêu cầu của khách hàng. Thực tế đó có nhiều nguyên nhân, trong đó có một nguyên nhân chủ yếu đó là trong những năm vừa qua hoạt động xuất khẩu của Công ty chủ yếu là hoạt động gia công, Công ty thường không phải thiết kế mẫu mã hoặc không có điều kiện thiết kế. Giải pháp nâng cao khả năng thiết kế mẫu mã đòi hỏi Công ty phải có một đội ngũ cán bộ thiết kế chính quy, có chuyên môn cao, có tầm nhìn phù hợp với xu hướng thời trang quốc tế và thường xuyên được cập nhật, bám sát xu hướng thời trang trong việc thiết kế mẫu mã sản phẩm. Trong thời gian tới Công ty có thể hợp tác với các câu lạc bộ thời trang, trung tâm thiết kế, các trường đại học đào tạo về thời trang, phối hợp tổ chức các cuộc thi thời trang nhằm phát hiện những ý tưởng và tuyển dụng những người có khả năng thiết kế. Về lâu dài, Công ty cần có chiến lược phát triển khả năng thiết kế thời trang, hình thành đội ngũ đủ năng lực theo kịp với những thay đổi thường xuyên của nhu cầu thời trang thế giới. Những giải pháp cụ thể như đầu tư bồi dưỡng đội ngũ hiện có, tìm cách phát hiện những tài năng trẻ từ những trường đại học, đầu từ tài trợ những đối tượng thật sự có tài, liên kết với những hãng thời trang có tên tuổi trên thị trường thế giới hoặc thậm chí lôi kéo những nhà thiết kế giỏi của những đối thủ cạnh tranh… Hoạt động thiết kế mẫu mã sản phẩm là một hoạt động quan trọng vào bậc nhất của những doanh nghiệp trong ngành may măc. Trước xu hướng thị trường thay đổi nhanh chóng, việc không nắm bắt được xu hương đó đồng nghĩa với việc sản phẩm sản xuất ra không thể bán được. Trong điều kiện hiện nay, nhu cầu may mặc hướng về đẹp, hợp mốt chứ ít hoặc không hướng về bền. Chính vì vậy việc sản phẩm có bán được hay không là nhờ phần lớn ở khâu thiết kế. 2.4. Đa dạng hoá sản phẩm xuất khẩu Công ty cần tập trung vào các sản phẩm truyền thống, chú ý đến những sản phẩm được yêu thích tương ứng với những thị trường. Bên cạnh đó, Công ty cần nghiên cứu đưa ra những sản phẩm mới nhằm đa dạng hoá sản phẩm tiêu thụ, tăng doanh thu và giảm rủi ro. Với thị trường Mỹ cần chú ý đến sản phẩm như jacket, quần các loại và hàng dệt kim trong khi ở thị trường EU cần chú ý đến sản phẩm sơ mi và quần các loại. Thị trường Nhật Công ty cần đặc biệt chú ý đến mặt hàng quần các loại. Bên cạnh đó, việc đa dạng hoá sản phẩm cần đạt đến là nghiên cứu, đưa ra thị trường những sản phẩm mới, những sản phẩm có nhiều lợi thế và ít chịu sự cạnh tranh hay cản trở của chính sách thương mại đối với hàng may mặc ở những nước xuất khẩu như sản phẩm quần áo thể thao. Đa dạng hoá sản phẩm là một biện pháp mà nhiều tập đoàn kinh tế lớn áp dụng như là một giải pháp nhằm đối phó với những thay đổi nhanh chóng của thị trường ngày nay. Trong ngành may mặc, yêu cầu không những phải đa dạng hoá sản phẩm mà còn phải thường xuyên cập nhật những thay đổi của nhu cầu, cải tiến sản phẩm cho phù hợp với yêu cầu mới, thay đổi mẫu mã, hình thành sản phẩm mới cho phù hợp với xu hướng thời trang… Hiện nay sản phẩm xuất khẩu chủ yếu của Công ty là jacket và áo khoác các loại, quần các loại, sơ mi và áo các loại, hàng dệt kim và một số sản phẩm khác. Những mặt hàng ít hoặc không bị hạn chế bởi hạn ngạch như hàng may mặc phục vụ hoạt động thể thao chưa được Công ty chú ý phát triển. Việc xuất khẩu chủ yếu vẫn dựa vào một số sản phẩm truyền thống. Việc đầu tư nghiên cứu, sản xuất những sản phẩm cao cấp như comple, vest… chưa được quan tâm đúng mức. Đây là những sản phẩm có giá cao, hứa hẹn đem lại lợi nhuận lớn. Để đầu tư sản xuất sản phẩm mới là không dễ dàng, tuy nhiên việc khai thác lợi thế của những sản phẩm truyền thống cũng không phải là hướng đi lâu dài. Theo nghiên cứu, các mặt hàng phục vụ thể thao thường chịu mức hạn ngạch thấp, đối với một số thị trường còn không phải chịu áp dụng hạn ngạch. Nếu Công ty sản xuất và xuất khẩu được những mặt hàng này thì chắc chắn đây sẽ là những lợi thế mới của Công ty. Trong thời gian vừa qua, mặc dù Công ty cũng đã đưa vào sản xuất sản phẩm comple, vest và một số sản phẩm phục vụ trang trí trong nhà, nhưng số lượng nói chung còn ít, quy mô còn nhỏ lẻ. Vì vậy, doanh thu do những sản phẩm này đem lại rất thấp, không tạo được ấn tượng tốt với khách hàng. Trong thời gian tới Công ty cần chú ý đa dạng hoá sản phẩm, tập trung vào việc sản xuất những sản phẩm truyền thống, bên cạnh đó cần chú ý phát triển những sản phẩm phục vụ hoạt động thể thao, sản phẩm cao cấp, sản phẩm trang trí trong nhà. Cần đầu tư nghiên cứu nắm bắt xu hướng thời trang, áp dụng nhanh những thay đổi đó vào sản phẩm. 2.5. Chuyển dịch sang việc xuất khẩu theo hình thức bán đứt Chuyển dịch từ hình thức bán đứt sang hình thức gia công là một định hướng lâu dài của các doanh nghiệp may mặc Việt Nam nói chung, Công ty nói riêng. Xuất khẩu theo hình thức bán đứt mang lại cho doanh nghiệp nhiều lợi thế, đó là lợi nhuận cao do doanh nghiệp tự tiêu thụ sản phẩm, tăng sự hiểu biết về thị trường, quảng bá được thương hiệu, tạo ra một tương lai phát triển lớn. Tuy nhiên, để chuyển sang hình thức bán đứt đòi hỏi phải thực hiện được nhiều công việc như nghiên cứu thị trường, nâng cao năng lực sản xuất, nâng cao năng lực của đội ngũ làm công tác xuất khẩu hàng hoá… Hiện nay, Công ty chủ yếu là thực hiện gia công theo đơn đặt hàng thuê gia công của khách hàng, việc xuất khẩu theo hình thức bán đứt còn rất hạn chế. Điều đó giải thích tại sao kim ngạch xuất khẩu theo trị giá FOB thì rất lớn trong khi doanh thu gia công và doanh thu hàng bán đứt lại rất khiêm tốn, lợi nhuận chưa cao. Trong lĩnh vực may mặc, một phần lớn trong giá trị gia tăng của sản phẩm được tạo ra trong quá trình thiết kế mẫu mã. Việc thực hiện gia công thuê thì khách hàng thuê gia công đương nhiên đã tạo ra phần giá trị này và họ được hưởng. Với cương vị là người gia công thuê, Công ty chỉ được nhận phần tiền công theo như đã thoả thuận. Đây là một sự thiệt thòi lớn của Công ty. Tuy nhiên, để thực hiện được việc xuất khẩu theo hình thức bán đứt Công ty cần thực hiện được nhiều khâu, nhiều công việc. Trước tiên là phải nghiên cứu được thị trường, trả lời được những câu hỏi về nhu cầu thị trường, đặc điểm về sản phẩm và phải triển khai thiết kế được sản phẩm đó, có đủ vốn để có thể sản xuất sản phẩm khi mình tự mua vải, nguyên phụ liệu và quan trọng hơn cả là có trình độ, năng lực tổ chức bán sản phẩm đó trên thị trường đạt kết quả cao. Đây là điều rất khó, muốn thực hiện được nó phải thực hiện được nhiều công việc. Trong khi thương hiệu Thaloga chưa được nhiều khách hàng biết đến thì việc bán sản phẩm ra các thị trường khó tính là không đơn giản. Mặc dù vậy, xu hướng chuyển dịch sang xuất khẩu dưới hình thức bán đứt, giảm tỷ trọng các hợp đồng gia công, tiến tới xây dựng thương hiệu Thaloga vẫn là xu hướng chính mà Công ty cần thực hiện. 2.6. Nâng cao chất lượng sản phẩm Nâng cao chất lượng sản phẩm là một yêu cầu thường xuyên đối với Công ty. Hiện nay, tuy đã áp dụng thành công tiêu chuẩn quản lý chất lượng ISO 9001 phiên bản 2000 nhưng mặt hàng của Công ty xuất sang các thị trường chủ yếu mới chỉ là những mặt hàng có phẩm cấp trung bình và thấp. Trong thời gian tới Công ty cần tập trung nâng cao chất lượng sản phẩm hơn nữa bằng cách hoàn thiện các khâu sản xuất, đầu tư máy móc đồng bộ theo dây chuyền theo hướng hiện đại, bắt kịp với xu hướng phát triển khoa học – kỹ thuật thế giới. Bên cạnh đó, Công ty cần đặc biệt chú ý đến chất lượng người lao động, phải chú ý công tác đào tạo và đào tạo lại, tổ chức thường xuyên các cuộc thi tay nghề, thợ giỏi nhằm động viện, khuyến khích công nhân nâng cao tay nghề, nâng cao chất lượng sản phẩm. Cùng với việc khoán sản phẩm, Công ty cần kiểm tra chặt chẽ chất lượng sản phẩm, tránh hiện tượng chạy theo số lượng mà xem nhẹ chất lượng. Cùng với đầu tư về máy móc thiết bị, nâng cao chất lượng người lao động, Công ty cần ý đến nguồn cung ứng nguyên phụ liệu, lựa chọn những nhà cung ứng nguyên phụ liệu có chất lượng tốt, hợp với thị hiếu của từng thị trường. Chất lượng sản phẩm là yếu tố quyết định cuối cùng đến sự tồn tại của doanh nghiệp trong thời buổi hiện nay. Chất lượng sản phẩm theo quan điểm hiện đại là một khái niệm rộng. Trong ngành may mặc, nó bao gồm cả phần mẫu mã sản phẩm. Vấn đề chất lượng sản phẩm chưa bao giờ lại được quan tâm như hiện nay trong lịch sử của sự phát triển kinh tế hàng hoá. Chất lượng sản phẩm là do người tiêu dùng quyết định, sản phẩm có chất lượng tốt nhất đó là sản phẩm thoả mãn được nhiều nhất nhu cầu của khách hàng. Khi họ được thoả mãn, họ sẽ chọn sản phẩm và có thể nhiều lần sau đó họ vẫn chọn sản phẩm. Thực tế vấn đề chất lượng sản phẩm luôn là vấn đề được Công ty may Thăng Long quan tâm đầu tư đúng mức. Điều đó thể hiện như việc Công ty đưa vào áp dụng bộ tiêu chuẩn quản lý chất lượng ISO 9001 phiên bản 2000. Ngoài ra, Công ty cũng triển khai đưa vào áp dụng các bộ tiêu chuẩn ISO 14000, SA 8000 nhằm nâng cao uy tín của doanh nghiệp. Chất lượng sản phẩm với hàng may mặc thể hiện trên cả bình diện đẹp và bình diện bền. Sản phẩm đẹp là sản phẩm hợp thời trang, phù hợp với truyền thống văn hoá, cách ăn mặc của người tiêu dùng. Chính vì vậy khái niệm đẹp là một khái niệm tương đối, một sản phẩm có thể là đẹp ở thị trường này lại có thể không đẹp ở thị trường khác, hoặc thậm chí không thể được chấp nhận. Việc nắm bắt nhu cầu thị trường để tạo ra sản phẩm có chất lượng cao là rất quan trọng. Xu thế khoa học công nghệ đang phát triển như vũ bão hiện nay yêu cầu Công ty phải luôn có chiến lược, tầm nhìn trong việc đầu từ máy móc thiết bị. Chỉ có đổi mới máy móc thiết bị thì mới có thể nâng cao chất lượng, giảm chi phí, tăng năng suất lao động, tăng sản lượng từ đó mới tăng khả năng cạnh tranh của Công ty. Đổi mới công nghệ không chỉ đổi mới máy móc thiết bị mà còn đổi mới nhận thức, kỹ năng và phương pháp sản xuất. Việc đổi mới công nghệ phải dựa trên nhu cầu thị hiếu về sản phẩm và phải có kế hoạch đầu tư cho từng giai đoạn cụ thể. Trong những trường hợp có lợi, Công ty cần liên kết với những hãng may mặc có uy tín và quy mô trên thị trường nhằm khai thác yếu tố công nghệ sản xuất như với Winmax của Hông Kông. Bên cạnh đó, việc lựa chọn nhà cung ứng nguyên phụ liệu đầu vào có uy tín cũng đặc biệt quan trọng trong việc tạo ra sản phẩm có chất lượng cao. Hiện nay có rất nhiều nhà cung cấp nguyên phụ liệu cho Công ty, tuy nhiên hầu hết là các đối tác nước ngoài. Bên cạnh xu hướng đúng đắn là hướng về sử dụng hàng nội địa, Công ty cần xem xét kỹ vấn đề chất lượng nguyên phụ liệu đầu vào của những nhà cung cấp. Để nâng cao chất lượng toàn diện Công ty cần thực hiện đồng thời đổi mới công nghệ sản xuất, liên doanh, liên kết, lựa chọn những nhà cung ứng nguyên phu liệu có chất lượng thì Công ty cần phải xây dựng một chính sách quản lý chất lượng toàn diện, xây dựng chính sách thưởng phạt hợp lý. Như vậy, việc nâng cao chất lượng sản phẩm là rất quan trọng và để thực hiện được nó thì Công ty cần phải thực hiện được tất cả các khâu từ đâu tư công nghệ sản xuất hiện đại, nâng cao chất lượng người lao động, lựa chọn đúng nhà cung ứng đầu vào và có chính sách quản lý chất lượng toàn diện. 2.7. Sử dụng các hình thức quảng cáo có hiệu quả Công ty cần sử dụng các hình thức quảng cáo có hiệu quả như truyền hình, báo chí, tạp chí, mạng Internet, hoạt động tài trợ… Khi vận dụng các hinh thức quảng cáo trên, Công ty cần xem xét tuỳ từng thị trường cụ thể, tuỳ từng đoạn thị trường mà Công ty hướng vào để việc quảng cáo mang lại hiệu quả cao nhất. Các hình thức quảng cáo tỏ ra có hiệu quả mà Công ty cần chú ý khai thác là thông qua các tạp chí, đặc biệt là các tạp chí thời trang, tổ chức và tài trợ các buổi trình diễn thời trang trong và ngoài nước, tham gia hội chợ triển lãm, tài trợ cho các hoạt động văn hoá, thể dục thể thao, xây dựng hệ thống văn phòng đại diện, phòng trưng bày và giới thiệu sản phẩm, các cửa hàng bán lẻ. Để đưa sản phẩm đến với người tiêu dùng thì không thể không sử dụng các hình thức quảng cáo. Với một doanh nghiệp mà sản phẩm của nó được xuất khẩu là chủ yếu thì vai trò của các hình thức quảng cáo càng được nâng cao. Hiện nay có rất nhiều hình thức quảng cáo mà Công ty có thể áp dụng, tuy nhiên mỗi hình thức lại có những lợi thế riêng tuỳ thuộc vào thị trường, khách hàng và khả năng tài chính của doanh nghiệp. Đối với mỗi loại thị trường, Công ty cần có sự nghiên cứu kỹ càng và lựa chọn hình thức quảng cáo có hiệu quả nhất. Đồng thời với việc quảng cáo là hoạt động xây dựng thương hiệu Thaloga thêm lớn mạnh để sản phẩm của Công ty có thể bán và bán chạy trên thị trường thế giới với thương hiệu này. Công ty cần chú ý sử dụng hình thức quảng cáo, tài trợ, mạng Internet trong việc quảng bá thương hiệu Thaloga cũng như trong hoạt động kinh doanh nói chung. Thương hiệu là một tài sản vô cùng quý giá đối với những công ty đã có danh tiếng trên thị trường. Người tiêu dùng khi mua hàng, đặc biệt là hàng may mặc thường quan tâm nhiều đến thương hiệu của nhà sản xuất. ở những thị trường khó tính như EU, việc bán những sản phẩm cao cấp dưới một thương hiệu chưa nổi là điều rất khó khăn bởi lẽ thương hiệu đã một phần nói lên sản phẩm đó có cao cấp hay không. Cùng với đầu tư xây dựng thương hiệu cần phải tiến hành hoạt động đăng ký thương hiệu tại các thị trường nước ngoài. Nhiều nhà sản xuất Việt Nam do không chú ý đến đăng ký thương hiệu mà đã bị các đối thủ cạnh tranh ăn cắp thương hiệu và đăng ký trước. Khi họ nhận ra đó là một tài sản quý giá và muốn lấy lại thì đã quá muộn. Vì vậy, Công ty cần tiến hành các hoạt động đăng ký thương hiệu trên các thị trường Công ty xuất khẩu hàng hoá. Như vậy, sử dụng các hình thức quảng cáo đối với Công ty may Thăng Long cần linh hoạt, trong đó cần đặc biệt chú ý tới các hình thức như thông qua các hoạt động biểu diễn thời trang, các tạp chí thời trang, thông qua hoạt động tài trợ, thông qua mạng Internet. Đối với những khách hàng đặt hàng theo lô đồng phục thì cần áp dụng linh hoạt hơn các hình thức quảng cáo. Đồng thời với việc quảng cáo là việc xây dựng thương hiệu Thaloga ngày càng trở nên quen thuộc với người tiêu dùng và các đối tác, cũng như việc đăng ký thương hiệu. 2.8. áp dụng các biện pháp nhằm có được giấy phép xuất khẩu (Quota) Đây là biện pháp trong ngắn hạn nhằm tăng doanh thu và trị giá FOB xuất khẩu vào các thị trường trọng điểm hiện nay. Thực tế thì Công ty đã phải đối mặt với vấn đề thiếu quota xuất khẩu và trong tương lai sẽ vẫn còn thiếu. Một cách đơn giản nhất cũng nhận thấy giấy phép xuất khẩu sẽ đem lại nhiều lợi ích cho Công ty, nó có thể đem bán trên thị trường, đem về khoản lợi nhuận cho Công ty. Thị trường Mỹ và EU được đánh giá là thị trường trọng điểm đối với ngành dệt may Việt Nam nói chung. Tuy nhiên, hai thị trường này đã áp dụng hạn ngạch và việc thiếu hạn ngạch xuất khẩu là việc thường xuyên xẩy ra ở các doanh nghiệp. Với Công ty, thị trường Mỹ tuy đã áp dụng hạn ngạch nhưng vẫn chiếm đến gần 90% trị giá FOB xuất khẩu trong năm 2004 vừa qua. Điều đó chứng tỏ tầm quan trọng của thị trường Mỹ. Việc tăng doanh số ở thị trường Mỹ sẽ làm tăng lên đáng kể doanh số toàn Công ty. Hiện nay, căn cứ để cấp quota cho các doanh nghiệp vẫn chủ yếu dựa vào năng lực sản xuất và khả năng ký kết hợp đồng. Vì vậy, để tăng được lượng quota do nhà nước phân phối, Công ty cần chứng tỏ được khả năng sản xuất, năng lực ký kết hợp đồng của mình. Trong thời gian tới Công ty cần đầu tư máy móc thiết bị, mở rộng năng lực sản xuất, mở rộng bạn hàng nhằm tăng khả năng ký kết các hợp đồng. Quy định mới cho phép các doanh nghiệp có thể mua bán giấy phép xuất khẩu nếu không sử dụng hết vào năm nay. Trong trường hợp nếu hết quyền xuất khẩu Công ty có thể vay, mua lại quyền xuất khẩu của những doanh nghiệp khác nếu thấy cần thiết và có lợi. Đôi khi, cần thực hiện mọi biện pháp nếu thấy có thể và có lợi. Trên đây là những giải pháp cơ bản nhằm tăng khả năng xuất khẩu của Công ty may Thăng Long trong thời gian tới. Những giải pháp này không hoàn toàn hướng vào việc tăng trị giá FOB xuất khẩu trong ngắn hạn mà hướng vào việc nâng cao chất lượng hoạt động xuất khẩu trong dài hạn. Đó không chỉ là sự tăng lên của trị giá FOB xuất khẩu của Công ty mà còn là sự tăng lên của doanh thu xuất khẩu, tăng khả năng cạnh tranh, mở rộng thị trường, xây dựng thương hiệu, tăng lợi nhuận. Để đạt được kết quả cao, cần áp dụng đồng bộ các giải pháp và có sự phối hợp linh hoạt trong quá trình thực hiện. Kết luận Việc xuất khẩu hàng hoá nói chung, hàng may mặc nói riêng đang được sự quan tâm rất lớn của Nhà nước, tuy nhiên nó cũng có những khó khăn lớn mà không phải trong một thời gian ngắn có thể giải quyết được. Hoạt động xuất khẩu của Công ty may Thăng Long luôn tăng trưởng, nhưng vẫn chưa tương xứng với tiềm năng của nó. Trong báo cáo này, sau khi nêu ra một số vấn đề lý luận về xuất khẩu em đã phân tích tình hình xuất khẩu của Công ty may Thăng Long đối với thị trường Mỹ trong một số năm qua, qua đó thấy được những thành tựu cũng như những tồn tại trong hoạt động xuất khẩu của Công ty. Để phát huy những thành tựu, hạn chế những khó khăn nhằm tăng khả năng xuất khẩu trong thời gian tới, trong phần cuối báo cáo em đã mạnh dạn đề xuất một số ý kiến tạm gọi là giải pháp nhằm thúc đẩy hoạt động xuất khẩu của Công ty. Những giải pháp được đưa ra trên cơ sở phân tích tình hình xuất khẩu trong giai đoạn vừa qua của Công ty, những thành tựu và tồn tại trong hoạt động xuất khẩu cũng như xu hướng thị trường thế giới. Sau một thời gian nghiên cứu vấn đề xuất khẩu của Công ty, kết lợp lý thuyết đã học cùng những số liệu thực tế em đã có cơ hội hiểu sâu hơn về ngành may mặc nói chung, hoạt động sản xuất kinh doanh hướng ra xuất khẩu của Công ty nói riêng. Đây là những kiến thức vô cùng quý báu. Do trình độ và thời gian thực tập, nghiên cứu có hạn, trong khoá luận này chắc chắn không tránh khỏi những thiếu sót. Em rất mong được sự chỉ bảo của cô giáo Em xin chân thành cảm ơn cô giáo - Tiến sỹ Đinh Ngọc Quyên đã tận tình hướng dẫn em trong suốt thời gian qua. Em cũng xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ, chỉ bảo tận tình của các cô, chú, anh, chị Phòng Kế hoạch và Thị trường - Công ty may Thăng Long. Mục lục ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docA0537.doc