Giải pháp để phảt triển hoạt động vận tải hành khách của Vietnam Airlines

Tài liệu Giải pháp để phảt triển hoạt động vận tải hành khách của Vietnam Airlines: LỜI NÓI ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Trong xu thế toàn cầu hoá và khu vực hoá hiện nay, sự giao lưu, luân chuyển các dòng vốn diễn ra ngày càng mạnh mẽ, đóng vai trò ngày càng quan trọng đối với đầu tư và phát triển đất nước. Kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội của Việt Nam thời kì 2006-2010 đã xác định mục tiêu tổng quát là đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế, nâng cao tính hiệu quả và bền vững của sự phát triển, sớm đưa Việt Nam ra khỏi tình trạng kém phát triển, tạo nền tảng đẩy mạnh cô... Ebook Giải pháp để phảt triển hoạt động vận tải hành khách của Vietnam Airlines

doc113 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1333 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Giải pháp để phảt triển hoạt động vận tải hành khách của Vietnam Airlines, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ng nghiệp hoá, hiện đại hoá và phát triển kinh tế tri thức nhằm sớm đưa Việt Nam cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020; mục tiêu tăng trưởng kinh tế đạt 7,5-8%/năm. Để đạt được mục tiêu đó, chính phủ dự kiến phải huy động khoảng 140-150 tỉ USD cho đầu tư phát triển, trong đó, nguồn vốn huy động từ bên ngoài chiếm trên 35%. Có thể nói, hiện nay, Việt Nam đang rất chú trọng tới thu hút ngoại lực, trong mối liên kết với phát huy nội lực để phát triển kinh tế đất nước. Mặt khác, kinh nghiệm cho thấy, là một trong những quốc gia phát triển nhất trên thế giới với tiền lực tài chính hùng hậu, công nghệ hiện đại, vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài của các công ty Nhật Bản đóng vai trò quan trọng trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, đặc biệt ở các quốc gia đang phát triển. Hơn nữa, với nền tảng vững chắc là quan hệ hữu nghị hợp tác suốt hơn 30 năm trên tinh thần “đối tác tin cậy, ổn định lâu dài”, trong nhiều năm qua, Nhật Bản là đối tác kinh tế quan trọng hàng đầu của Việt Nam. Nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài của Nhật Bản luôn nằm trong nhóm 5 nước đứng đầu, các dự án đầu tư của Nhật Bản được đánh giá là thành công nhất về phương diện vốn đầu tư thực hiện và hiệu quả triển khai. Do đó, việc thu hút nguồn vốn này có ý nghĩa quan trọng đối với sự phát triển bền vững của Việt Nam nhằm hướng tới công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Đặc biệt, có lẽ chưa có thời điểm nào như hiện nay, Việt Nam đang được các công ty Nhật Bản hết sức quan tâm chú ý, được đánh giá cao có thể trở thành điểm đến trong chiến lược dài hạn “Trung Quốc+1” của họ. Trong bối cảnh này, nếu Việt Nam không tích cực căn cứ vào những biến động của dòng vốn này trong quá khứ, kết hợp với những điều kiện hiện tại, nghiên cứu giải pháp chủ động đón làn sóng đầu tư từ Nhật Bản thì tương lai gần, một mặt, có thể làn sóng này sẽ chuyển hướng khác, mặt khác, khi các nhà đầu tư Nhật Bản ồ ạt kéo sang Việt Nam mà môi trường đầu tư vẫn chưa có khả năng đáp ứng sẽ rất dễ gây hỗn loạn, làm giảm hiệu quả đầu tư. Chính vì vậy, việc nghiên cứu về: “Đầu tư trực tiếp của Nhật Bản vào Việt Nam: thực trạng và giải pháp hướng tới chiến lược “Trung Quốc+1”” trở nên cấp thiết và có ý nghĩa thực tiễn cao. 2. Mục đích nghiên cứu Mục đích nghiên cứu của khoá luận này là vận dụng những kiến thức đã tích luỹ được để phân tích thực trạng hoạt động đầu tư trực tiếp của Nhật Bản vào Việt Nam trong thời gian qua, đặc biệt là chiến lược “Trung Quốc+1” trong bối cảnh sôi động của hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài hiện nay; xem xét thời cơ và thách thức, những yếu tố thuận lợi và những mặt còn tồn tại, từ đó, đề ra các giải pháp cho Việt Nam hướng tới chiến lược “Trung Quốc+1” một cách kịp thời và hiệu quả. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của khoá luận chủ yếu là quan hệ đầu tư trực tiếp nước ngoài của Nhật Bản vào Việt Nam trong thời gian qua và trong chiến lược “Trung Quốc+1” của các công ty Nhật Bản hiện nay. Trong khuôn khổ một bài khoá luận, tôi chỉ đi sâu vào tìm hiểu thực trạng thu hút đầu tư Nhật Bản của Việt Nam và đề xuất một số giải pháp nhằm hướng tới chiến lược “Trung Quốc+1”. 4. Phương pháp nghiên cứu Khoá luận được sử dụng kết hợp các phương pháp nghiên cứu trong đó chủ yếu là phương pháp duy vật biện chứng, duy vật lịch sử và quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam. Bên cạnh đó, khoá luận cũng sử dụng các phương pháp nghiên cứu tổng hợp, như: phân tích tổng hợp, thống kê, so sánh, diễn giải… 5. Kết cấu khoá luận Ngoài lời nói đầu, kết luận, phần tài liệu tham khảo, phần phụ lục, khoá luận bao gồm: Chương 1: Một số lí luận cơ bản về FDI và thu hút FDI Chương 2: Thực trạng FDI của Nhật Bản vào Việt Nam và chiến lược “Trung Quốc +1” Chương 3: Thời cơ, thách thức và giải pháp cho Việt Nam hướng tới chiến lược “Trung Quốc +1” CHƯƠNG 1 MỘT SỐ LÍ LUẬN CƠ BẢN VỀ FDI VÀ THU HÚT FDI I. Giới thiệu chung về FDI 1. Khái quát chung về đầu tư nước ngoài 1.1. Đầu tư Hoạt động đầu tư là quá trình huy động và sử dụng mọi nguồn vốn phục vụ sản xuất, kinh doanh nhằm sản xuất hay cung cấp dịch vụ đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của cá nhân và xã hội. Nguồn vốn đầu tư có thể là những tài sản hữu hình như tiền vốn, đất đai, nhà cửa, nhà máy, thiết bị, hàng hoá hoặc tài sản vô hình như bằng sáng chế, phát minh, nhãn hiệu hàng hoá, bí quyết kĩ thuật, uy tín kinh doanh, bí quyết thương mại… Nguồn vốn đầu tư còn bao gồm các tài sản tài chính, như: cổ phần, trái phiếu, các quyền về sở hữu tài sản khác như quyền thế chấp, cầm cố hoặc các quyền có giá trị về mặt kinh tế như các quyền thăm dò, khai thác, sử dụng tài nguyên thiên nhiên…[22,5] 1.2. Đầu tư quốc tế Đầu tư quốc tế là sự di chuyển của các nhân tố sản xuất (tài chính, công nghệ, nhân lực, vật liệu) ra khỏi biên giới quốc gia, là những hoạt động đầu tư vốn, tài sản ở nước ngoài để tiến hành sản xuất, kinh doanh với mục đích tìm kiếm lợi nhuận và những mục tiêu kinh tế xã hội nhất định. Về bản chất, đầu tư quốc tế là những hình thức xuất khẩu tư bản [22,9]. Đây là hình thức cao hơn của xuất khẩu hàng hoá bởi xuất khẩu tư bản chỉ có thể diễn ra trên cơ sở những tiến bộ về công nghệ, nguồn tư bản được tích tụ và tập trung lớn, thị trường mở rộng và khả năng quản lý trên phạm vi quốc tế của các công ty được nâng lên rõ rệt. Tuy nhiên, theo khía cạnh khác, hai hình thức xuất khẩu này luôn bổ sung và hỗ trợ lẫn nhau. Ngày nay cùng với hoạt động thương mại quốc tế, hoạt động đầu tư quốc tế ngày càng phát triển mạnh mẽ, hợp thành những dòng chính trong trào lưu liên kết kinh tế toàn cầu [22,9]. Mặt khác, các dòng tư bản này thường không lưu chuyển đơn độc một mình mà kèm theo một loạt các tác động dây chuyền khác: có vốn là có công nghệ mới, có bí quyết kĩ thuật, đầu tư, việc làm và thị trường. Do đó, vai trò của dòng vốn quốc tế giống như dòng máu chảy trong cơ thể nền kinh tế thế giới, nơi nào luồng vốn chạy tới thường xuyên và tăng cường, nơi đó nền kinh tế có điều kiện tăng tốc và cất cánh. 1.3. Đầu tư nước ngoài Đầu tư nước ngoài (ĐTNN) là đầu tư quốc tế xét trên khía cạnh của một quốc gia cụ thể, là dòng dịch chuyển vốn (các nhân tố sản xuất) vào hay ra khỏi biên giới một quốc gia. Có nhiều cách để phân loại vốn ĐTNN tuỳ theo từng khía cạnh tiếp cận. Xét theo hướng chuyển dịch vốn, trên quan điểm của một quốc gia, vốn đầu tư nước ngoài được chia thành dòng vốn vào và dòng vốn ra. Phân loại theo chủ đầu tư, vốn đầu tư nước ngoài gồm hai kênh chính: Đầu tư của tư nhân và hỗ trợ phát triển chính thức của các chính phủ, các tổ chức quốc tế (ODA) [22,13]. Theo phương thức quản lí vốn, đầu tư nước ngoài được thực hiện dưới hai hình thức: đầu tư gián tiếp nước ngoài (FII) và đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI). Khoá luận đi sâu vào cách phân loại thứ ba. Đầu tư gián tiếp nước ngoài (FII) là hoạt động đầu tư trong đó chủ đầu tư không trực tiếp quản lí việc sử dụng vốn mà hưởng lợi ích theo một tỉ lệ cho trước của số vốn đầu tư thông qua cá nhân hoặc tổ chức ở nước nhận đầu tư, bao gồm: hỗ trợ phát triển chính thức (ODA), tín dụng thương mại quốc tế và huy động từ bán tín phiếu, trái phiếu, cổ phiếu…cho nước ngoài. Hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) là tất cả các khoản viện trợ không hoàn lại và có hoàn lại (cho vay dài hạn với lãi suất thấp) của chính phủ, các hệ thống của tổ chức Liên hợp quốc, các tổ chức phi chính phủ, các tổ chức tài chính quốc tế. Đặc điểm chủ yếu của dòng vốn quốc tế này là tính ưu đãi, tuy nhiên, thông thường các nước nhận ODA phải hội đủ một số điều kiện nhất định tuỳ thuộc quy định của từng nhà tài trợ [22,18]. Tín dụng thương mại quốc tế là hoạt động đầu tư dưới dạng cho vay vốn và thu lợi nhuận qua lãi suất tiền vay trên thị trường vốn quốc tế với lãi suất thị trường và thường là ngắn hạn. Theo hình thức này, nhà đầu tư trước khi cho vay đều nghiên cứu tính khả thi của dự án đầu tư, có yêu cầu về bảo lãnh hoặc thế chấp các khoản vay để giảm rủi ro. Thủ tục vay khắt khe, thời gian trả nợ nghiêm ngặt, mức lãi suất cao là những trở ngại không nhỏ đối với các nước nghèo. Cuối cùng, đầu tư chứng khoán nước ngoài hay huy động từ bán tín phiếu, trái phiếu, cổ phiếu và giấy tờ có giá khác cho người nước ngoài là hoạt động đầu tư theo đó, nhà đầu tư mua các loại chứng khoán của nước nhận đầu tư và hưởng lợi từ cổ tức, trái tức… và chênh lệch giá tín phiếu, trái phiếu, cổ phiếu, giấy tờ có giá khác…trên thị trường trong từng thời điểm. Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) là việc nhà nước (thường là rất ít), các công ty xuyên quốc gia (TNC) hay tư nhân nước ngoài (là chủ yếu) tiến hành tự đầu tư và trực tiếp tham gia điều hành sử dụng vốn của mình ở nước nhận đầu tư theo các dự án đầu tư cam kết. Nguồn vốn đầu tư này không chỉ có vốn đầu tư ban đầu dưới hình thức vốn pháp định và trong quá trình hoạt động mà còn bao gồm cả vốn vay của doanh nghiệp để triển khai hoặc mở rộng dự án và vốn đầu tư từ nguồn lợi nhuận thu được. Chủ đầu tư nước ngoài quản lý, điều hành doanh nghiệp theo nguyên tắc “lãi được hưởng, lỗ tự chịu”. Tóm lại, các hình thức ĐTNN rất đa dạng và phong phú, trong đó, FDI là một trong các kênh thu hút nguồn vốn này. 2. Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) 2.1. Các khái niệm về FDI Tuỳ góc độ tiếp cận của các nhà kinh tế, khái niệm về FDI được diễn giải theo nhiều cách khác nhau. - Quỹ tiền tệ thế giới (IMF) năm 1997 đưa ra khái niệm: “FDI là vốn đầu tư thực hiện để thu được lợi ích lâu dài trong một doanh nghiệp hoạt động ở một nền kinh tế khác với nền kinh tế của nhà đầu tư. Mục đích của nhà đầu tư là dành được tiếng nói có hiệu quả trong việc quản lý doanh nghiệp đó”. Khái niệm này nhấn mạnh một số đặc trưng của FDI, đó là tính lâu dài của hoạt động đầu tư, yếu tố nước ngoài của chủ thể đầu tư và động cơ đầu tư là dành quyền kiểm soát trực tiếp hoạt động quản lý doanh nghiệp. - OECD lại quan niệm: “FDI là hoạt động đầu tư được thực hiện nhằm thiết lập các mối quan hệ kinh tế lâu dài với một doanh nghiệp, đặc biệt là những khoản đầu tư mang lại khả năng tạo ảnh hưởng đối với việc quản lý doanh nghiệp đó bằng cách: thành lập, mở rộng một doanh nghiệp hay một chi nhánh thuộc toàn quyền quản lý của chủ đầu tư; mua lại toàn bộ doanh nghiệp đã có; tham gia vào một doanh nghiệp mới hay cấp tín dụng dài hạn (trên 5 năm)”. - Nhà nước Trung Quốc định nghĩa: “Việc người sở hữu tư bản tại nước này mua hoặc kiểm soát một thực thể kinh tế ở nước khác, theo đó, nếu khoản tiền mà nhà đầu tư trả có ảnh hưởng quyết định hoặc tăng thêm “quyền cầm cái” trong thực thể kinh tế đó thì được gọi là FDI”. Cách hiểu này của Trung Quốc rất chú trọng đến khía cạnh sở hữu hay sự kiểm soát trực tiếp của chủ đầu tư đối với các hoạt động bằng vốn đầu tư của họ. - Luật đầu tư 2005 của Việt Nam không đưa ra khái niệm hoàn chỉnh về hoạt động FDI nhưng khái niệm này có thể được tổng hợp trong các quy định của luật như sau: “Đầu tư nước ngoài là việc nhà đầu tư nước ngoài đưa vào Việt Nam vốn bằng tiền và các tài sản hợp pháp khác để tiến hành hoạt động đầu tư” (mục 12, điều 3) và “Đầu tư trực tiếp là hình thức đầu tư do nhà đầu tư bỏ vốn đầu tư và tham gia quản lý hoạt động đầu tư” (mục 2, điều 3) [23]. Nhìn chung, có thể khái quát các đặc trưng cơ bản của FDI như sau: Chủ thể của FDI có thể là chính phủ, cá nhân, tổ chức hay hỗn hợp từ một nền kinh tế khác, nghĩa là chủ sở hữu vốn FDI phải có yếu tố nước ngoài được thể hiện ở sự khác nhau về quốc tịch, chủ quyền, lãnh thổ giữa bên đi đầu tư và bên nhận đầu tư, vốn đầu tư có sự di chuyển qua biên giới quốc gia. Mục đích các nhà đầu tư nước ngoài tiến hành các hoạt động đầu tư trực tiếp chủ yếu là nhằm thiết lập các mối quan hệ kinh tế lâu dài với một doanh nghiệp tại nước nhận đầu tư, đặc biệt là những khoản đầu tư mang lại khả năng tạo ảnh hưởng đối với việc quản lý doanh nghiệp đó. Hoạt động đầu tư này thường gắn liền với việc xây dựng cơ sở, chi nhánh sản xuất, kinh doanh tại nước tiếp nhận đầu tư. Đây là vốn có tính chất “bén rễ” ở nước sở tại nên không dễ rút đi trong một thời gian ngắn, do đó, với tư cách là một dòng vốn quốc tế, FDI là dòng chu chuyển vốn thời hạn tương đối dài. Dòng vốn này gắn với quá trình tự do hoá đầu tư, khác với dòng tiền quốc tế ngắn hạn thường gắn với qui trình tự do hoá thương mại hoặc kinh doanh, đầu cơ tiền tệ, ngoại hối và cũng khác biệt với các hoạt động đầu tư gián tiếp (mua bán chứng khoán) hay các giao dịch vay nợ giữa các quốc gia, doanh nghiệp trên thế giới thường gắn với quá trình tự do hoá tài chính. Do đi liền với công trình, dự án đầu tư ở một địa điểm cụ thể trong một thời gian tương đối dài, FDI có tính ổn định tương đối cao, dễ theo dõi, kiểm soát hơn và không biến động quá bất thường như các dòng tiền ngắn hạn hay các khoản đầu tư gián tiếp. Đặc trưng nổi bật nhất của hoạt động FDI là tính tự chủ của chủ sở hữu vốn đầu tư. Theo hình thức này, chủ đầu tư nước ngoài đầu tư toàn bộ hay phần đủ lớn vốn đầu tư, tuỳ qui định của mỗi nước nhằm dành quyền kiểm soát hoặc tham gia kiểm soát dự án. Chủ sở hữu vốn đầu tư nước ngoài chính là người trực tiếp quản lý, điều hành việc sử dụng vốn, chịu trách nhiệm và hưởng lợi ích từ kết quả sản xuất kinh doanh căn cứ vào mức độ góp vốn. Ngoài ra, FDI còn có các đặc điểm khác như thường kèm theo chuyển giao công nghệ, kĩ thuật tiên tiến, kinh nghiệm điều hành, quản lý…cho các nước tiếp nhận đầu tư. Hơn nữa, hình thức này thường mang lại tính khả thi và hiệu quả kinh tế cao hơn, không có những ràng buộc chính trị, không để lại gánh nặng nợ nần cho nền kinh tế. Đây là những mục tiêu mà các hình thức đầu tư khác khó giải quyết được. Trong khuôn khổ khoá luận này, “nhà đầu tư”, “nước chủ đầu tư”, “nước đầu tư” được hiểu là các chủ thể nước ngoài tiến hành hoạt động FDI; “nước nhận đầu tư”, “nước chủ nhà”, “nước sở tại”, “nước tiếp nhận” được hiểu là nước tiếp nhận vốn FDI. 2.2. Phân loại FDI Tuỳ thuộc quan điểm phân tích của các nhà đầu tư, các nhà kinh tế, FDI được phân loại theo nhiều tiêu chí khác nhau. Mỗi cách phân loại này có ý nghĩa riêng, đem lại những thông tin khác nhau trong hoạt động đầu tư. Khoá luận đưa ra 2 cách phân loại FDI: theo cách thức tiến hành đầu tư và theo động cơ đầu tư. *Đối với cách thức tiến hành đầu tư, FDI được chia thành: đầu tư mới (Greenfield Investment), mua lại và sáp nhập (Cross-border Merge and Acquisition). - Trong đầu tư mới, ban đầu, các nhà đầu tư xây dựng cơ sở sản xuất kinh doanh hoàn toàn mới ở các nước tiếp nhận đầu tư rồi mới tiến hành kinh doanh trên cơ sở đó. Loại đầu tư này được các nước nhận đầu tư ưa chuộng vì không tạo ra cạnh tranh trong ngắn hạn và giúp các nước này xây dựng được cơ sở vật chất, hạ tầng kĩ thuật, góp phần đáng kể vào thúc đẩy năng lực sản xuất quốc gia. - Mua lại và sáp nhập là hoạt động nhà đầu tư tiến hành mua lại hay sáp nhập hay mua cổ phiếu nhằm điều hành doanh nghiệp hoặc tham gia điều hành doanh nghiệp đó, bao gồm 3 hình thức: phổ biến nhất là M&A diễn ra trong cùng một ngành (theo chiều ngang); M&A diễn ra trong các doanh nghiệp thuộc một dây chuyền sản xuất ra sản phẩm cuối cùng (theo chiều dọc); M&A trong các công ty kinh doanh khác nhau để đa dạng hoá hoạt động kinh doanh (dạng hỗn hợp). Cách thức đầu tư này giúp nhà đầu tư tận dụng được các nguồn lực sẵn có, tiết kiệm được chi phí xây dựng ban đầu, lại không tốn thời gian thâm nhập, làm quen hay thiết lập thị trường. Tuy nhiên, hình thức mua lại và sáp nhập không được nước chủ nhà ưa chuộng bằng đầu tư mới vì chỉ đóng góp hạn chế vào tăng năng lực sản xuất quốc gia. *Đối với động cơ đầu tư, mục tiêu chung của các chủ đầu tư nước ngoài là tìm kiếm thị trường đầu tư hấp dẫn, thuận lợi, an toàn nhằm thu lợi nhuận cao và sự thịnh vượng lâu dài của doanh nghiệp. Tuy nhiên, trong từng dự án cụ thể, động cơ của chủ đầu tư lại rất khác nhau, tuỳ thuộc vào chiến lược phát triển của doanh nghiệp và mục tiêu của nó ở thị trường đầu tư cũng như tuỳ thuộc mối quan hệ sẵn có của nước nhà đầu tư với nước chủ nhà. Căn cứ vào tiêu chí này, FDI được chia thành 4 loại riêng biệt: tìm kiếm nguồn lực, tìm kiếm thị trường, tìm kiếm hiệu quả và tìm kiếm tài sản chiến lược [4]. - Hầu hết FDI vào các nền kinh tế đang phát triển và đang chuyển đổi là tìm kiếm nguồn lực hay còn gọi là đầu tư định hướng chi phí. Loại đầu tư này nhằm khai thác lợi thế so sánh của doanh nghiệp nước chủ nhà, giảm chi phí sản xuất thông qua việc tận dụng lao động và tài nguyên của nước sở tại, từ đó, tăng sức cạnh tranh của sản phẩm, nâng cao tỉ suất lợi nhuận. Ví dụ, các nước dồi dào về nguyên liệu thô như dầu hoả hoặc khoáng sản sẽ thu hút các công ty muốn phát triển dựa vào những nguồn tài nguyên này. FDI tìm kiếm nguồn lực nhìn chung tập trung vào sản xuất hàng hoá xuất khẩu và phổ biến trong những ngành nghề, lĩnh vực đầu tư sử dụng nhiều lao động, sử dụng thiết bị cũ, lạc hậu, mức độ ô nhiễm môi trường cao mà nước chủ đầu tư không cho phép sử dụng hoặc chi phí xử lí ô nhiễm đòi hỏi quá lớn. - FDI tìm kiếm thị trường là hình thức đầu tư nhằm mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm của công ty mẹ sang các nước sở tại. Việc sản xuất sản phẩm cùng loại ở nước sở tại làm cho chủ đầu tư không cần đầu tư thiết bị, công nghệ mới lại có thể tận dụng được lao động rẻ, tiết kiệm chi phí vận chuyển, qua đó nâng cao tỉ suất lợi nhuận. Các công ty tiến hành đầu tư dưới dạng này điển hình là các công ty sản xuất các sản phẩm gia dụng hoặc các loại hàng hoá công nghiệp khác nhằm đáp ứng nhu cầu thực tế hoặc trong tương lai đối với sản phẩm của họ, muốn thích ứng các sản phẩm với “khẩu vị” và nhu cầu địa phương. Trong một số trường hợp, thực hiện FDI tìm kiếm thị trường có thể là các công ty cung ứng phục vụ cho khách hàng của họ ở nước ngoài. Ví dụ, một nhà sản xuất linh kiện ô tô có thể đầu tư theo một nhà sản xuất ô tô. Loại FDI này còn tập trung vào các thị trường trước đây được phục vụ bởi hàng xuất khẩu, hoặc vào các thị trường đóng cửa được bảo hộ bởi thuế nhập khẩu cao hoặc các hàng rào phi thuế quan khác. Do đó, đây được coi là chiến lược bành trướng thị trường của các công ty đa quốc gia để vượt qua hàng rào bảo hộ của nước sở tại và kéo dài “tuổi thọ” các sản phẩm của họ. - FDI tìm kiếm hiệu quả thường thấy như một hình thức đầu tư tiếp tục. Một công ty xuyên quốc gia có thể tiến hành một số đầu tư tìm kiếm nguồn lực hoặc tìm kiếm thị trường rồi sau một thời gian, có thể quyết định kết hợp những hoạt động này trên cơ sở sản phẩm hoặc quy trình. Đây thực chất là các hoạt động hợp lý hoá hoặc kết nối khu vực hay toàn cầu dẫn đến sản phẩm xuyên biên giới hoặc việc chuyên môn hoá quy trình sản xuất. Tuy nhiên, các công ty chỉ có thể làm được điều này khi các thị trường xuyên biên giới là mở và ở trình độ phát triển cao. Hình thức FDI này phổ biến nhất ở các thị trường được hội nhập theo khu vực, điển hình nhất là ở châu Âu và Bắc Mỹ. Các công ty xuyên quốc gia cũng có thể tiến hành hợp lý hoá sản phẩm ở quy mô nhỏ hơn giữa một số nước láng giềng. Loại đầu tư này được minh hoạ bởi các công ty con của Nestle ở Bắc Phi và Trung Đông. Mỗi công ty con sản xuất một sản phẩm chuyên biệt cho thị trường khu vực, đồng thời cũng nhập khẩu các sản phẩm khác từ các công ty con khác ở các nước láng giềng. Như vậy, cùng với nhau, khu vực này có toàn bộ các sản phẩm, nhưng mỗi công ty con chỉ chịu trách nhiệm sản xuất một phần nhỏ. - FDI tìm kiếm tài sản chiến lược xuất hiện khi các công ty tiến hành các vụ mua lại hay liên minh nhằm thúc đẩy các mục tiêu kinh doanh dài hạn của mình. Ví dụ, để phục vụ thị trường nội địa, một công ty xuyên quốc gia có thể mua một doanh nghiệp nhà nước đang được tư nhân hoá thay vì thành lập một công ty mới. Mỗi loại FDI có đặc điểm riêng, tạo ra ảnh hưởng khác nhau tới nền kinh tế, phù hợp với từng thời kì phát triển kinh tế, xã hội riêng và mức độ kết hợp vào chiến lược phát triển kinh tế quốc gia cũng rất linh hoạt. Do đó, để đề ra một đối sách thu hút FDI có hiệu quả cả về mặt kinh tế và xã hội, trước tiên cần nhận thức rõ loại hình FDI nên được khuyến khích và phù hợp nhất với môi trường quốc gia trong thời điểm xem xét. 2.3. Các hình thức FDI FDI có nhiều hình thức khác nhau, mỗi hình thức có đặc điểm, ưu thế và hạn chế nhất định, phù hợp với từng giai đoạn phát triển khác nhau của nền kinh tế. Việc nghiên cứu các hình thức FDI nhằm tạo cơ sở đưa ra các quyết định để lựa chọn khi kêu gọi hay chấp nhận FDI. Luật pháp từng nước qui định cho phép áp dụng các hình thức FDI khác nhau. Các hình thức FDI phổ biến bao gồm: - Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài là doanh nghiệp do chủ đầu tư nước ngoài đầu tư 100% vốn tại nước sở tại và có quyền điều hành toàn bộ doanh nghiệp theo qui định của nước chủ nhà. Hình thức này trong giai đoạn đầu tư ban đầu, do còn ít hiểu biết về thị trường nước sở tại, e ngại rủi ro cao nên ít được các nhà đầu tư ưa chuộng. Tuy nhiên, cùng với sự chuẩn hoá của môi trường đầu tư theo hướng tự do hoá và toàn cầu hoá, khi các nhà đầu tư đã thích nghi dần với văn hoá, pháp luật, chính sách của nước chủ nhà, hình thức này ngày càng tỏ ra tích cực trong việc hỗ trợ các nhà đầu tư vượt qua các trở ngại trong việc bất đồng quan điểm điều hành doanh nghiệp. Do đó, hình thức này có xu hướng ngày càng mở rộng trong đầu tư quốc tế. - Doanh nghiệp liên doanh là hình thức tổ chức kinh doanh của các bên có quốc tịch khác nhau trên cơ sở cùng sở hữu về vốn góp, cùng quản lý, cùng phân phối lợi nhuận, chia sẻ rủi ro để tiến hành các hoạt động sản xuất kinh doanh, hoạt động dịch vụ hay các hoạt động nghiên cứu theo các điều khoản cam kết trong hợp đồng liên doanh phù hợp với các qui định của luật pháp nước sở tại. Hình thức này được sử dụng rộng rãi nhất trong giai đoạn xâm nhập thị trường do phù hợp với cả nước đầu tư và nước sở tại. Trong giai đoạn này, các nhà đầu tư nước ngoài chưa am hiều nhiều về nước sở tại nên hình thức này giúp họ tranh thủ được sự hỗ trợ của đối tác nước sở tại trong các khâu hình thành, thẩm định, thực hiện dự án, giảm thiểu rủi ro mà phạm vi, lĩnh vực và địa bàn hoạt động của doanh nghiệp lại rộng hơn. Còn đối với nước chủ nhà, đây là hình thức từng bước thu hút vốn nước ngoài hợp pháp và hiệu quả. Nhìn chung các nước đều có xu hướng tăng dần vốn góp của nước mình trong doanh nghiệp liên doanh để tăng ảnh hưởng trong doanh nghiệp, tiến tới kiểm soát và quản lí hoàn toàn các hoạt động sản xuất kinh doanh. Ngoài ra, hình thức này đòi hỏi nước tiếp nhận phải có đủ khả năng góp vốn và có trình độ quản lí doanh nghiệp tương đương với đối tác nước ngoài thì mới đạt hiệu quả như mong muốn. - Hợp tác kinh doanh trên cơ sở hợp đồng hợp tác kinh doanh là hình thức liên kết kinh doanh dựa trên các văn bản kí kết như: hợp đồng chia lợi nhuận hoặc phân chia sản phẩm mà không thành lập pháp nhân mới. Hình thức này đước áp dụng phổ biến trong lĩnh vực thăm dò, khai thác dầu khí, bưu chính viễn thông và công nghiệp gia công, dịch vụ. - Hình thức hợp đồng BOT, hợp đồng BTO, hợp đồng BT là hình thức đầu tư được kí giữa cơ quan nhà nước có thẩm quyền của nước sở tại và nhà đầu tư chủ yếu trong các dự án đầu tư vào cơ sở hạ tầng để tiến hành xây dựng công trình kết cấu hạ tầng đặc biệt là giao thông đường bộ, đường sắt, cảng biển, nhiệt điện, thuỷ điện… Các nền kinh tế có cơ sở hạ tầng yếu kém, lại không đủ vốn để đầu tư xây dựng rất ưa chuộng hình thức đầu tư này. Điểm khác biệt giữa 3 hình thức đầu tư này như sau: Theo hợp đồng BOT, sau khi tiến hành xây dựng xong, nhà đầu tư có quyền kinh doanh công trình đó trong một thời gian nhất định, rồi mới chuyển giao không bồi hoàn cho nước sở tại. Theo hợp đồng BTO, nhà đầu tư phải bàn giao công trình đó cho nước chủ nhà trước khi được phép tiến hành kinh doanh công trình trong một thời hạn nhất định để thu hồi vốn và có lãi. Theo hợp đồng BT, sau khi xây dựng và chuyển giao công trình, nhà đầu tư sẽ được nước chủ nhà tạo điều kiện thực hiện dự án khác để thu hồi vốn và lợi nhuận hoặc thanh toán theo thoả thuận trong hợp đồng. - Công ty cổ phần có vốn đầu tư nước ngoài là doanh nghiệp có vốn điều lệ được chia thành nhiều phần bằng nhau, trong đó, các cổ đông sáng lập nước ngoài một tỉ lệ tối thiểu vốn điều lệ (theo luật Việt Nam là 30% vốn điều lệ). Hình thức này có khả năng nâng cao hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp FDI, đồng thời kết hợp được huy động vốn của các nhà ĐTNN với các nhà đầu tư trong nước để đầu tư đổi mới công nghệ, tạo thêm việc làm, phát triển doanh nghiệp. Ngoài ra, FDI còn được thực hiện dưới các hình thức khác, tuỳ thuộc mục đích và đặc điểm trong yêu cầu tiếp nhận đầu tư, như: doanh nghiệp FDI đa mục tiêu, doanh nghiệp hợp danh, công ty mẹ-công ty con… Tóm lại, các hình thức FDI rất đa dạng và phong phú. Việc lựa chọn hình thức đầu tư phù hợp còn tuỳ thuộc vào khả năng và điều kiện cụ thể của từng quốc gia. Để kết hợp hài hoà lợi ích của các bên tham gia đầu tư, thực hiện được mục tiêu thu hút vốn phù hợp với từng vùng và toàn bộ nền kinh tế cần phải đa dạng hoá các hình thức đầu tư. 2.4. Cơ cấu FDI Cơ cấu FDI có ảnh hưởng trực tiếp đến cơ cấu kinh tế của quốc gia tiếp nhận. Một cơ cấu thu hút phù hợp sẽ đảm bảo cho nền kinh tế phát triển cân đối, hợp lý. Cơ cấu FDI của từng nhà đầu tư còn cho thấy thế mạnh, xu hướng đầu tư của họ trong quá khứ, hiện tại, làm cơ sở dự đoán tương lai, từ đó, tạo điều kiện thuận lợi thích hợp cho họ đầu tư vào lĩnh vực mong muốn. Đồng thời, phân tích cơ cấu đầu tư giúp nước tiếp nhận đánh giá được kết quả và hạn chế của hoạt động thu hút FDI, từ đó rút ra bài học và có các điều chỉnh, đối sách phù hợp với mục tiêu đã định. Nhìn chung, có 3 loại cơ cấu FDI: - Cơ cấu ngành là cốt lõi của chiến lược kinh tế và là nhân tố quan trọng quyết định hiệu quả kinh tế quốc dân của nước sở tại. Hầu hết các quốc gia tiếp nhận đều muốn phát triển một cơ cấu các ngành cân đối trong khi với động lực chủ yếu là lợi nhuận, FDI thường chỉ được thu hút mạnh vào các ngành nước chủ nhà có lợi thế so sánh. Do đó, nước sở tại phải có biện pháp phù hợp để cân bằng lợi ích giữa các bên. - Cơ cấu vùng: các dự án đầu tư chủ yếu tập trung ở những vùng có điều kiện kinh tế xã hội phát triển để tận dụng ưu thế sẵn có về cơ sở hạ tầng. Điều này làm gia tăng khoảng cách với các vùng có điều kiện khó khăn, gây mất cân đối nền kinh tế. Tìm hiểu cơ cấu FDI theo vùng, nước chủ nhà sẽ xây dựng được đối sách phù hợp để vừa thu hút mạnh vốn FDI, vừa giảm sự cách biệt kinh tế giữa các vùng. - Cơ cấu đối tác đầu tư: việc nghiên cứu cơ cấu đối tác đầu tư giúp nước chủ nhà xác định được đối tác đầu tư tiềm năng, đối tác đầu tư quan trọng nhằm tăng hiệu quả thực hiện FDI. II. Các nhân tố ảnh hưởng tới thu hút FDI ở một quốc gia Lượng vốn FDI đổ vào một quốc gia xét cho cùng là phụ thuộc vào quyết định của các nhà đầu tư. Các quyết định này thực chất không phải để phục vụ lợi ích cho nước chủ nhà mà chủ yếu nhằm thu lợi về cho chính bản thân họ. Hợp tác đầu tư với nước ngoài chỉ có thể thành công khi có sự gặp gỡ về lợi ích của cả hai bên [22]. Vì vậy, nước sở tại cần phải nghiên cứu những nhân tố ảnh hưởng tới thu hút FDI, xem nhà đầu tư mong chờ thu được những lợi ích gì từ việc “đổ tiền” vào quốc gia mình, thì mới có thể đưa ra các giải pháp hữu hiệu thu hút FDI, không chỉ mang lại các món lợi kinh tế trước mắt mà còn có thể thu được các lợi ích xã hội trong dài hạn. 1. Lợi ích của nước đi đầu tư khi thực hiện hoạt động FDI Lợi ích FDI có thể đem về cho các doanh nghiệp tiến hành đầu tư và nước đầu tư rất đa dạng, bao gồm [22]: - FDI không những giúp nước chủ đầu tư xây dựng thị trường cung cấp nguyên liệu ổn định với giá phải chăng mà còn mở rộng thị trường tiêu thụ, tránh được hàng rào bảo hộ mậu dịch ở nước sở tại, tăng cường bành trướng sức mạnh kinh tế, tạo điều kiện thâm nhập vững chắc vào thị trường nước nhận đầu tư, qua đó, phát triển thị trường sang nước thứ ba, toàn vùng hoặc toàn khu vực, đồng thời, thông qua ảnh hưởng về kinh tế để nâng cao uy tín chính trị, vai trò ảnh hưởng trên thế giới. - FDI tạo điều kiện cho nước đầu tư khai thác lợi thế so sánh của nước tiếp nhận về giá nhân công, chi phí vận chuyển, thuế và chi phí sản xuất khác…để giảm giá thành sản phẩm, nâng cao sức cạnh tranh quốc tế của hàng hoá, rút ngắn thời gian thu hồi vốn đầu tư, tăng hiệu quả sử dụng vốn, tăng lợi nhuận, đồng thời, giảm rủi ro đầu tư so với chỉ tập trung vào thị trường trong nước. - FDI tạo điều kiện cho nước chủ đầu tư thường xuyên đổi mới công nghệ, điều kiện sống còn trong cạnh tranh. Thông qua FDI, các nước chủ đầu tư di chuyển một bộ phận sản xuất công nghệ, phần lớn là các máy móc ở giai đoạn lão hoá hay có nguy cơ bị hao mòn vô hình nhanh sang các nước kém phát triển hơn để tiếp tục sử dụng, kéo dài thêm chu kì sống của sản phẩm hoặc để mau khấu hao, tăng sản xuất tiêu thụ, thu hồi vốn, tạo lợi nhuận. Đồng thời, điều này còn giúp nước chủ đầu tư có thêm tư bản và điều kiện đổi mới cơ cấu sản xuất, áp dụng công nghệ mới, nâng cao năng lực cạnh tranh. 2. Các nhân tố cơ bản ảnh hưởng tới luồng vốn FDI vào một quốc gia Nhìn chung, dòng vốn FDI sẽ tìm đến nơi đầu tư an toàn, đồng vốn được sử dụng hiệu quả, quay vòng nhanh và ít rủi ro. Tuy nhiên, tuỳ từng giai đoạn, từng thời kì, các tiêu chí đánh giá mức độ hấp dẫn của một môi trường đầu tư là khác nhau. Không những thế, các tiêu chí này lại biến đổi đối với từng mục tiêu đầu tư, từng nhà đầu tư khác nhau. Tóm lại, khả năng thu hút vốn đầu tư của các quốc gia phụ thuộc vào nhiều nhân tố, cả nhân tố khách quan, không phụ thuộc vào nỗ lực, kiểm soát của nước tiếp nhận và nhân tố chủ quan, phụ thuộc vào những động thái của nước nhận. 2.1. Nhân tố khách quan Trước hết là các lợi thế so sánh tự nhiên của nước tiếp nhận như vị trí địa lý, tài nguyên thiên nhiên, qui mô nguồn nhân lực, qui mô thị trường. Vị trí địa lý thuận lợi không gần các vùng có động đất, núi lửa, sóng thần…, thông thương thuận tiên tạo khả năng phát triển các hoạt động du lịch, trung chuyển, tái xuất khẩu, chuyển khẩu hàng hoá qua các khu vực lân cận. Tài nguyên đa dạng, phong phú, gần nguồn nguyên liệu giúp nhà đầu tư giảm chi phí sản xuất, nâng cao sức cạnh tranh của hàng hoá…Tuy nhiên, ngày nay, khi khoa học và công ng._.hệ ngày càng tiên tiến, các nhân tố này trở nên kém quan trọng hơn, ít đóng vai trò quyết định trong đầu tư. Thứ hai là tiềm lực tài chính và năng lực kinh doanh của nhà đầu tư. Mọi doanh nghiệp đều có khả năng tài chính giới hạn. Nếu môi trường đầu tư hấp dẫn, điều kiện kinh doanh thuận lợi nhưng nhà đầu tư không có vốn, hạn chế về năng lực kinh doanh thì các kế hoạch đầu tư của họ cũng không thể thực hiện được. Do đó, các nước tiếp nhận cần đánh giá chính xác tiềm lực tài chính, khả năng kinh doanh trong lựa chọn nhà đầu tư nhằm tránh tình trạng không có vốn để giải ngân, không có khả năng thực hiện, làm lỡ cơ hội đầu tư của các nhà đầu tư khác, giảm lượng FDI thực tế thu hút được. Thứ ba, việc một quốc gia nằm trong xu thế vận động của các dòng vốn FDI là điều kiện thuận lợi để quốc gia đó đưa ra các điều kiện phù hợp thu hút nguồn vốn này. Điều này phụ thuộc vào chiến lược đầu tư của các nhà đầu tư trong từng giai đoạn. Trong những năm gần đây, nằm trong vùng kinh tế phát triển năng động nhất, khu vực Đông Á và Đông Nam Á trở thành địa điểm hấp dẫn đầu tư nước ngoài hơn trong số các nước đang phát triển. Một mặt do khu vực này có giá nhân công rẻ, môi trường đầu tư ngày càng được cải thiện, mặt khác, so với các nước tư bản phát triển, mức độ cạnh tranh ở khu vực này thấp hơn. Việc nắm bắt được xu hướng chuyển dịch FDI trên thế giới là cơ sở để các quốc gia đón đầu được luồng vốn này. Cuối cùng, môi trường kinh tế, chính trị, xã hội trên thế giới và trong khu vực cũng có ảnh hưởng sâu sắc đến khả năng thu hút FDI của một quốc gia. Các cuộc khủng hoảng kinh tế, khủng hoảng tài chính-tiền tệ, khủng hoảng chính trị, văn hoá hay dịch bệnh… trên thế giới hay trong khu vực đều là các nhân tố có khả năng tác động theo nhiều phương diện tới thu hút FDI, thu hẹp dòng vốn đầu tư. Sự tác động đó có thể trực tiếp là làm giảm lượng vốn dư thừa ở các quốc gia đầu tư, làm giảm khả năng đầu tư hay gián tiếp là tạo ra tâm lý e ngại của các nhà đầu tư khi đưa ra các quyết định. Một môi trường ổn định, nền kinh tế thế giới, khu vực tăng trưởng cao và bền vững, hoạt động giao dịch trong khu vực và trên thế giới sôi động sẽ tạo cơ hội tốt cho các nước thu hút FDI, kim ngạch đầu tư đạt mức tăng trưởng cao. 2.2. Nhân tố chủ quan Nhân tố chủ quan là nhân tố nội sinh của nước tiếp nhận, là điều kiện quyết định để hình thành nên một môi trường đầu tư hấp dẫn. Nhân tố này bao gồm chủ trương huy động vốn phục vụ phát triển kinh tế, những cải thiện trong môi trường đầu tư và mối quan hệ kinh tế quốc tế của nước chủ nhà. 2.2.1. Chủ trương huy động vốn của nước chủ nhà Chủ trương huy động vốn phục vụ phát triển kinh tế thể hiện định hướng, đường lối của một quốc gia trong việc thu hút các nguồn vốn, là cơ sở để đề ra các chính sách cụ thể. Nội dung của chủ trương thể hiện quan điểm của Nhà nước sở tại trong việc có cho phép mở cửa thu hút vốn bên ngoài hay không; trọng tâm là thu hút vốn trong nước hay ngoài nước; nguồn vốn nước ngoài tập trung chủ yếu vào nguồn nào: FDI, ODA hay vay thương mại; định hướng các lĩnh vực, ngành thu hút vốn… Nếu lựa chọn chiến lược tăng trưởng kinh tế hướng nội, dựa vào phát triển sản xuất thay thế nhập khẩu, hình thức huy động vốn được ưa thích hơn cả là vay thương mại ngắn hạn, phát hành tín phiếu kho bạc và trái phiếu chính phủ ra nước ngoài. Nếu theo đuổi chiến lược phát triển kinh tế hướng ngoại, tăng trưởng dựa vào xuất khẩu thì hình thức huy động vốn được ưa thích là FDI và vay dài hạn. Các hình thức này không chịu sức ép ngắn hạn của yêu cầu trả nợ cũng như sự gia tăng quá nhanh của khối lượng nợ. Ngoài ra, FDI còn giúp nước tiếp nhận có được kĩ thuật, công nghệ hiện đại, đồng thời, tận dụng tốt hơn các quan hệ thị trường để thúc đẩy tăng trưởng xuất khẩu. 2.2.2. Môi trường đầu tư của nước chủ nhà Có thể nói, môi trường đầu tư của nước chủ nhà là yếu tố quan trọng nhất ảnh hưởng tới quyết định đầu tư của các nhà đầu tư. Trên thực tế, các quốc gia có môi trường đầu tư càng thuận lợi, thông thoáng thì dòng vốn FDI chảy vào càng nhiều, ngược lại, các quốc gia có môi trường đầu tư kém cạnh tranh thì ít thu hút được nguồn vốn này. Trên thực tế, một môi trường đầu tư hấp dẫn, có sức cạnh tranh là sự tổng hoà của nhiều nhân tố: Sự ổn định về chính trị, kinh tế và xã hội Chính trị, xã hội có ổn định, kinh tế có bền vững thì các nhà đầu tư mới có điều kiện chuyên tâm kinh doanh, thu hồi vốn, tạo lợi nhuận. Đây là yếu tố vĩ mô, điều kiện tiên quyết nhằm giảm thiểu những rủi ro kinh tế, chính trị của vốn FDI khi vượt khỏi sự kiểm soát của chủ đầu tư nước ngoài. Những bất ổn định kinh tế, chính trị không chỉ làm dòng vốn này bị chững lại, thu hẹp mà còn làm cho dòng vốn từ trong nước chảy ngược ra ngoài, tìm đến nơi an toàn và hấp dẫn hơn. Điều kiện này không chỉ bao gồm duy trì sự phát triển kinh tế một cách ổn định, chính trị, xã hội được bảo đảm trật tự và an toàn mà còn phải duy trì được dư luận và tâm lí xã hội ủng hộ các nhà đầu tư nước ngoài. Bất kì sự bất ổn định chính trị, các xung đột khu vực, nội chính hay sự hoài nghi, tẩy chay, thiếu thiện cảm của giới lãnh đạo và nhân dân đối với vốn FDI đều là những nhân tố nhạy cảm tác động tiêu cực đến tâm lí và hành động thực tế của các chủ đầu tư, đồng thời làm chậm lại các cải cách chính sách cần thiết trong thu hút FDI của nước chủ nhà. Tiêu chí này ngày càng được coi trọng, đặc biệt trong điều kiện hiện nay, khi tình hình chính trị ở hầu hết các châu lục, các khu vực đều diễn biến hết sức phức tạp, không lường trước được; nạn khủng bố, đánh bom, bắt cóc …diễn ra thường xuyên; dịch bệnh tràn lan và liên tục gây tâm lí hoảng loạn, lo ngại, không an tâm tiến hành hoạt động đầu tư. Sự hoàn chỉnh, hữu hiệu của hệ thống pháp luật đầu tư nước ngoài Luật pháp các nước, dù ít dù nhiều, đều có các điểm khác biệt. Khi tiến hành đầu tư ra nước ngoài, các hoạt động đầu tư cũng như các hoạt động sản xuất kinh doanh của chủ đầu tư nước ngoài dù đến từ bất kì quốc gia nào đều chịu sự điều chỉnh của pháp luật của nước sở tại. Mặt khác, trong quá trình thực hiện các dự án đầu tư, các nhà đầu tư có thể phải cư trú trong một thời gian tương đối dài ở nước sở tại. Do đó, việc xem xét các nhân tố pháp lí bảo vệ quyền lợi của mình ở nước tiếp nhận để đánh giá khả năng thích nghi, tiềm năng đầu tư là vô cùng quan trọng để đưa ra quyết định đầu tư. Hệ thống pháp luật càng rõ ràng, đồng bộ, chặt chẽ, không chồng chéo, tính cưỡng chế cao và đặc biệt là phù hợp với luật pháp, thông lệ quốc tế, điều tiết vĩ mô thay vì can thiệp trực tiếp quá sâu vào hoạt động đầu tư nước ngoài thì càng tạo tâm lí thoải mái, hấp dẫn các nhà đầu tư. Sự phát triển của bộ máy và thủ tục hành chính quốc gia Thủ tục hành chính là khâu đầu tiên mà nhà đầu tư phải trải qua để tiến hành và duy trì hoạt động đầu tư tại hầu hết các nước. Thủ tục hành chính rườm rà, phiền phức, gây tốn kém về thời gian và chi phí là sự cản trở lớn làm nản lòng các nhà đầu tư, làm mất cơ hội thu hút đầu tư. Ngược lại, một bộ máy hành chính hiệu quả, gọn nhẹ, nhất quán, nhạy bén; thủ tục được công khai, đơn giản hoá; đội ngũ cán bộ thực thi chuyên nghiệp, tôn trọng pháp luật sẽ quyết định sự thành công không chỉ của công tác thu hút mà còn đẩy nhanh quá trình tiếp nhận vốn, tăng hiệu quả của toàn bộ quá trình huy động và sử dụng vốn cho đầu tư phát triển. Hầu hết các nước đã thành công trong thu hút vốn nước ngoài để phát triển kinh tế như Trung Quốc, Mĩ đều có xu hướng giảm bớt những hoạt động can thiệp trực tiếp, thay bằng can thiệp gián tiếp của nhà nước vào nền kinh tế, đồng thời đề cao, hỗ trợ, tạo điều kiện cho khu vực kinh tế tư nhân, cho các nhà ĐTNN, coi đó là động lực quan trọng để phát triển đất nước [42]. Sự minh bạch, hấp dẫn của hệ thống chính sách đầu tư nước ngoài Chính sách đầu tư nước ngoài là hệ thống các công cụ chính sách mà nhà nước áp dụng để điều chỉnh hoạt động đầu tư nước ngoài. Chính sách đầu tư nước ngoài rất quan trọng đối với việc tạo điều kiện ưu đãi cho thu hút vốn FDI, hình thành nên sức cạnh tranh cho môi trường đầu tư. Những chính sách thu hút FDI phù hợp thường nhằm tạo dựng môi trường kinh doanh nội địa cạnh tranh bình đẳng, minh bạch và năng động. Mặt khác, các chính sách kinh tế của nước chủ nhà có khả năng tối đa hoá lợi ích và tối thiểu hoá chi phí cho các dự án FDI triển khai đều có sức thuyết phục các nhà đầu tư nước ngoài bỏ vốn đầu tư. Hệ thống các chính sách đầu tư nước ngoài hấp dẫn FDI thường gồm: Chính sách thương mại thông thoáng theo hướng tự do hoá để đảm bảo khả năng xuất nhập khẩu các máy móc, thiết bị, nguyên vật liệu sản xuất cũng như sản phẩm sản xuất ra. Điều này có nghĩa là bảo đảm sự thuận lợi, kết nối liên tục các công đoạn trong hoạt động đầu tư, làm cho quá trình thực hiện dự án và thu hồi vốn diễn ra nhanh chóng, thuận tiện. Chính sách tiền tệ giải quyết được các vấn đề chống lạm phát và ổn định tiền tệ. Chính sách lãi suất và tỉ giá tác động gián tiếp đến dòng chu chuyển FDI với tư cách là những yếu tố quyết định giá trị đầu tư và mức lợi nhuận thu được tại một thị trường nhất định. Lãi suất cao đồng nghĩa với chi phí trong đầu tư cao, làm giảm đi lợi nhuận của nhà đầu tư, giảm sức hấp dẫn của thị trường đối với đầu tư lâu dài. Mặt khác, một chính sách tỉ giá hối đoái linh hoạt, phù hợp với tình hình phát triển kinh tế ở từng giai đoạn sẽ làm tăng kim ngạch xuất khẩu, tăng khả năng thu lợi nhuận từ xuất khẩu. Các ưu đãi đầu tư, đặc biệt ưu đãi thuế dành cho đầu tư nước ngoài đảm bảo cho chủ đầu tư thu được lợi nhuận cao trong điều kiện kinh doanh chung của khu vực, của thế giới sẽ khuyến khích họ đầu tư vào trong nước và vào những lĩnh vực, địa bàn mà chính phủ muốn khuyến khích đầu tư. Tại một số nước, chính phủ còn lập các quỹ hỗ trợ đầu tư nước ngoài để hỗ trợ tín dụng cho các nhà đầu tư. Sự hỗ trợ tín dụng cùng các dịch vụ tài chính, bảo lãnh của chính phủ, các cơ quan tín dụng xuất khẩu, các tổ chức tài chính đa phương đã, đang và sẽ đóng vai trò to lớn làm tăng dòng vốn nước ngoài. Sự hoàn thiện của cơ sở hạ tầng Cơ sở hạ tầng là nền tảng để tiến hành hoạt động đầu tư, là điều kiện vật chất để các chủ đầu tư có thể nhanh chóng thông qua các quyết định, tiến tới triển khai trên thực tế các dự án đã cam kết. Một tổng thể hạ tầng phát triển bao gồm: hệ thống giao thông vận tải phát triển với các cầu cảng, đường xá, kho bãi và các phương tiện vận tải đủ sức bao phủ quốc gia cũng như đủ tầm hoạt động quốc tế; hệ thống bưu điện, thông tin liên lạc, viễn thông có thể nối mạng thống nhất toàn quốc và toàn cầu; hệ thống điện nước dồi dào, phân bổ tiện lợi cho các hoạt động sản xuất kinh doanh cũng như đời sống thường nhật; các hệ thống dịch vụ khác phát triển rộng khắp, đa dạng và chất lượng cao như: y tế, giáo dục, giải trí, các dịch vụ hải quan, tài chính, ngân hàng, quảng cáo, kĩ thuật…Đặc biệt, dịch vụ thông tin đầu tư, thông tin đánh giá kết quả đầu tư cập nhật, có hệ thống, đáng tin cậy, dịch vụ hỗ trợ nhà đầu tư tiếp xúc, lựa chọn các dự án thích hợp hay làm thủ tục kí kết hợp đồng kinh doanh, thành lập các doanh nghiệp là những nhân tố xúc tác quan trọng thúc đẩy các dòng FDI vào thị trường nội địa. Việc hình thành một hệ thống cơ sở hạ tầng phát triển không chỉ là điều kiện cần để tăng sự hấp dẫn của môi trường đầu tư, tạo điều kiện thuận lợi cho các chủ đầu tư triển khai các dự án, kế hoạch của họ mà còn là cơ hội để các nước tiếp nhận đầu tư có thể thu lợi đầy đủ hơn từ dòng vốn đã thu hút được thông qua tăng thu nhập từ dịch vụ vận tải, tài chính, thông tin… Sự phát triển của lực lượng lao động và hệ thống doanh nghiệp nội địa Nguồn nhân lực đáp ứng được yêu cầu của nhà đầu tư, nhanh chóng thích nghi, tiếp nhận được các kĩ năng, kiến thức cần thiết sẽ đẩy nhanh tiến trình triển khai dự án, nâng cao năng suất và hiệu quả kinh doanh, từ đó, thúc đẩy nhà đầu tư mở rộng đầu tư ở nước sở tại. Mặt khác, hệ thống doanh nghiệp trong nước phát triển đủ sức trở thành đối tác ngang tầm với các nhà đầu tư nước ngoài là điều kiện cần thiết để nước nhận đầu tư thu hút được nhiều và hiệu quả hơn dòng vốn nước ngoài. Hệ thống doanh nghiệp đó phải bao gồm cả những doanh nghiệp sản xuất lẫn dịch vụ ở tất cả các lĩnh vực, ngành nghề và thành thạo các nghiệp vụ kinh doanh quốc tế, đủ sức giữ được thị phần thích đáng tại thị trường trong nước và ngày càng có sức cạnh tranh quốc tế. Trong đó, mạng lưới các doanh nghiệp dịch vụ về tài chính-ngân hàng có vai trò quan trọng nhằm tạo ra các điều kiện thuận lợi cho việc huy động và lưu chuyển vốn trong nước và quốc tế. Sự thành công của các dự án FDI đã triển khai Các dự án FDI đã được triển khai đạt lợi nhuận cao sẽ khuyến khích, củng cố niềm tin cho chính nhà đầu tư hiện tại tiếp tục mở rộng đầu tư, đồng thời là những bảng quảng cáo thuyết phục nhất với các nhà đầu tư tương lai. Ngược lại, các dự án đang triển khai thường xuyên thua lỗ sẽ làm nản lòng các nhà đầu tư. Thực tế cho thấy, địa phương nào có nhiều dự án không triển khai, vốn thực hiện so với vốn đăng kí thấp thì rất khó thu hút thêm dự án mới. Do đó, đi đôi với hoạt động xúc tiến đầu tư, nước chủ nhà cần quan tâm tới các dự án còn hiệu lực, tạo điều kiện thuận lợi, tháo gỡ khó khăn cho các nhà đầu tư trong quá trình thực hiện. 2.2.3. Quan hệ quốc tế của nước chủ nhà Các quan hệ quốc tế phong phú nhiều chiều sẽ tạo điều kiện cho nước sở tại đa dạng hoá các cơ hội tìm kiếm đối tác đầu tư, tạo nhiều lựa chọn trong thu hút đầu tư, từ đó, nâng cao khả năng thu hút vốn FDI một cách hiệu quả. Thực tế cho thấy, quốc gia càng có nhiều mối quan hệ hữu hảo với nhiều quốc gia, tham gia tích cực vào các tổ chức khu vực và quốc tế thì càng có khả năng thu hút mạnh vốn đầu tư, cải thiện đáng kể chất lượng FDI. Ngày nay, các mối quan hệ quốc tế diễn ra trên nhiều lĩnh vực khác nhau: chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội…trong đó quan hệ kinh tế quốc tế vừa là trọng tâm, vừa là cơ sở, vừa là động lực thúc đẩy mối các quan hệ khác. Ngược lại, các mối quan hệ trên lĩnh vực chính trị, văn hoá, xã hội cũng tạo điều kiện thuận lợi để các mối quan hệ kinh tế được mở rộng. Để tăng cường quan hệ kinh tế quốc tế, các chính phủ phải thiết lập và duy trì các quan hệ đối ngoại chính thức hoà bình, hợp tác thân thiện, đàm phán, kí kết các hiệp định và cam kết đầu tư, thương mại, bảo hiểm, tư pháp song phương và đa phương ở cấp quốc gia, khu vực và quốc tế để tạo ra khung pháp lý chính thức, đầy đủ mở đường cho sự lưu chuyển vốn đầu tư FDI. Tự do hoá đầu tư càng cao càng thu hút được nhiều vốn từ các nơi trên thế giới. *Những phân tích trên cho thấy, các quyết định của nhà ĐTNN phụ thuộc vào rất nhiều nhân tố. Do đó, để có thể thu hút hiệu quả nguồn vốn này, nước chủ nhà cần xây dựng một hệ thống các giải pháp đồng bộ, linh hoạt, tăng khả năng giao thoa lợi ích đôi bên. Trong bối cảnh hiện nay, nhìn chung, Việt Nam tiềm ẩn nhiều yếu tố thuận lợi cho thu hút vốn FDI. Nằm trong khu vực Đông Nam Á phát triển năng động, tình hình chính trị xã hội tương đối ổn định, các mối quan hệ quốc tế ngày càng được mở rộng, môi trường đầu tư tích cực được cải thiện, Việt Nam đang trở thành một trong những điểm nóng đầu tư trên thế giới. III. Vai trò của vốn FDI đối với nước đang phát triển tiếp nhận đầu tư Sự tăng trưởng và phát triển của bất kì một quốc gia nào cũng phụ thuộc vào 4 nguồn lực nòng cốt, đó là: vốn, lao động, công nghệ kĩ thuật và tài nguyên thiên nhiên. Trong các nguồn lực trên, FDI đã có tác động tích cực, cả trực tiếp và gián tiếp, đối với 3 yếu tố đầu, tạo nên tác động tổng thể làm tăng năng suất lao động, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Ngoài ra, trong những giai đoạn nhất định, FDI còn góp phần bổ sung thu ngân sách, thúc đẩy xuất khẩu, chuyển dịch cơ cấu kinh tế hợp lý [1]…Có thể nói, FDI giữ vai trò to lớn và khá toàn diện sự phát triển kinh tế, xã hội của nước tiếp nhận. Ngày nay, trong môi trường đầu tư năng động, khu vực kinh tế có vốn FDI ngày càng khẳng định vai trò và vị thế của mình. 1. FDI là nguồn đóng góp quan trọng cho vốn đầu tư phát triển kinh tế *Nhu cầu vốn đầu tư phát triển kinh tế lớn mà nguồn vốn trong nước hạn hẹp: Vốn đầu tư là yếu tố vật chất quyết định tốc độ phát triển kinh tế của một quốc gia. Đặc biệt, sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá nền kinh tế đất nước đòi hỏi nhu cầu vốn đầu tư cho phát triển rất lớn. Không phải tự nhiên mà có câu: “nước chảy chỗ trũng” bởi có đầu tư thì mới có lợi nhuận. Một hoạt động kinh tế hay một người lao động dù tiên tiến, giỏi giang đến đâu nếu không có vốn đầu tư vào nguyên vật liệu, máy móc, kĩ thuật thì cũng không thể cho ra sản phẩm, không thể tạo ra giá trị gia tăng. Trên thực tế, tại các quốc gia giàu, với nguồn vốn đầu tư cho phát triển dồi dào, mở rộng đầu tư lại tạo điều kiện thuận lợi để thúc đẩy tăng trưởng. Trái lại, ở những quốc gia nghèo, vốn đầu tư hạn hẹp, nền kinh tế của họ thiếu yếu tố vật chất cho phát triển, cứ sa mãi vào cái vòng luẩn quẩn: nghèo, thiếu vốn và tiếp tục nghèo. Do đó, lợi ích đầu tiên có thể thấy là FDI bổ sung nguồn vốn cho các nước tiếp nhận. FDI làm gia tăng khối lượng tài sản và tiền mặt trong nền kinh tế, sự gia tăng này, đến lượt nó lại thúc đẩy sự gia tăng tiếp theo của tài sản và tiền mặt, tạo thêm động lực cho tăng trưởng kinh tế. Chức năng bổ sung vốn của FDI có ý nghĩa quan trọng, đặc biệt đối với các nước đang phát triển thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá như Việt Nam. Tại những quốc gia này, tỉ lệ huy động vốn trong nước thông qua kênh tiết kiệm và các khoản thu của nhà nước không đáp ứng đủ nhu cầu vốn đầu tư. Mặt khác, trong giai đoạn đầu của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hoá đất nước, tình trạng nhập siêu là không thể tránh khỏi, dẫn đến sự thiếu hụt ngoại tệ trong thời gian dài, có thể gây tác động xấu cho các hoạt động kinh tế. Vì vậy, muốn đẩy nhanh tốc độ phát triển kinh tế, phá cái vòng luẩn quẩn (nghèo-thiếu vốn-nghèo), các nước đang phát triển sẽ phải dựa vào ngoại lực mà trong đó, FDI là một kênh huy động có nhiều ưu thế. Hoạt động FDI là một đặc trưng nổi bật của nền kinh tế thế giới hiện đại, vừa là kết quả, vừa là công cụ và động lực quan trọng thúc đẩy toàn cầu hoá. Tại Việt Nam, FDI đóng vai trò là nguồn vốn bổ sung vô cùng quan trọng, chiếm 16,3% tổng đầu tư toàn xã hội năm 2005 và 15,4% năm 2006. Bộ kế hoạch và đầu tư, Sổ tay kế hoạch 2007, Kế hoạch 2006-2010. *Ưu thế của vốn FDI so với các nguồn vốn đầu tư nước ngoài khác Như đã phân tích ở trên, nhu cầu về nguồn vốn đầu tư từ bên ngoài đối với các quốc gia đang phát triển là tương đối rõ ràng. Tuy nhiên, các nguồn vốn ĐTNN lại khá đa dạng về hình thức, phong phú về nội dung. Với các quốc gia đang phát triển, trong số các kênh bổ sung vốn từ bên ngoài, FDI và ODA là phổ biến nhất. Mặc dù FDI không thay thế được ODA nhưng nó có những đặc trưng và thế mạnh riêng. Trước hết, ODA thường gắn liền với quan hệ chính trị giữa nước cấp vốn với nước nhận viện trợ. Các nước cấp vốn thường sử dụng các điều kiện cấp vốn ODA như một biện pháp nhằm gia tăng ảnh hưởng chính trị của mình lên nước tiếp nhận. Ngay cả các tổ chức tài chính quốc tế như IMF, WB, ADB cũng đòi hỏi các nước đi vay phải thực hiện nhiều cam kết đôi khi khá ngặt nghèo về tái cơ cấu kinh tế, về cải cách hệ thống tài chính, tiền tệ…Do đó, với các quốc gia kém phát triển, các điều kiện để được nhận viện trợ ODA là tương đối khó khăn. Hơn nữa, chi phí ODA, xét cho cùng, là khá đắt cho các nước nhận viện trợ vì buộc phải chịu các qui định khác về giải ngân và triển khai dự án ODA theo các điều kiện bất lợi, như: mua, bán thiết bị công nghệ theo các địa chỉ, đối tác chỉ định sẵn, trả lương cao cho chuyên gia… Mặt khác, tín dụng ngắn hạn nước ngoài được quyết định bởi những tính toán đầu tư dựa trên cơ sở chênh lệch lãi suất quốc tế và những dự tính về tỉ giá hối đoái chứ không phải những tính toán dài hạn. Sự di chuyển của các dòng vốn này thường là kết quả của hiệu ứng rủi ro đạo đức như sự đảm bảo ngầm đối với tỉ giá hối đoái hay sự sẵn sàng trợ giúp của chính phủ đối với hệ thống ngân hàng. Những dòng vốn này không có tác dụng lâu dài, không có tính ổn định và sẽ rút chạy ngay lập tức nếu tình hình bất ổn xảy ra, dễ dàng gây ra những cuộc khủng hoảng kinh tế. Trong khi đó, FDI là kênh đầu tư tương đối hiệu quả hơn vì nhà đầu tư nước ngoài tự chịu trách nhiệm về chi phí và hiệu quả đầu tư, chịu trách nhiệm vay và trả nợ. Các quyết định gắn với FDI có mục tiêu lợi nhuận cao, do đó, thường đem lại kết quả đầu tư hiệu quả hơn. FDI không để lại gánh nặng nợ nần cho ngân sách nhà nước như vay thương mại; không phải chịu sức ép ràng buộc các điều kiện kinh tế, chính trị như vay ODA; đồng thời, là dòng chu chuyển vốn thời hạn tương đối dài, FDI hạn chế cho nước chủ nhà những biến động đầy rủi ro trên thị trường chứng khoán. Theo kinh nghiệm của nhiều nước châu Á, các nhân tố được xác định là đầu tàu cho tăng trưởng kinh tế gồm: tiết kiệm trong nước là quan trọng nhất, tiếp đến là ngoại thương và FDI; còn ODA dù quan trọng đến đâu cũng chỉ coi là sự trợ giúp hay hỗ trợ. Thực tế cho thấy, FDI, đặc biệt là từ các công ty xuyên quốc gia có tác động kích thích các công ty khác tham gia đầu tư vào nước chủ nhà và là tác nhân để thu hút ODA từ các nước, các tổ chức quốc tế, đồng thời gia tăng tốc độ tăng trưởng kinh tế, từ đó tăng thêm tỉ lệ huy động vốn trong nước. 2. FDI góp phần tạo công ăn việc làm và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực Trước hết, FDI góp phần gia tăng qui mô cầu lao động, các dự án FDI thu hút một lượng lớn lao động, góp phần giải quyết tình trạng thất nghiệp…Số lượng việc làm luôn phụ thuộc vào qui mô đầu tư và bản thân qui trình sản xuất. Trong khi đó, vốn FDI được thu hút vào thường đồng nghĩa với tăng qui mô đầu tư của nền kinh tế. Điều này dẫn tới nhu cầu về nguồn nhân lực tăng lên đáng kể, đặc biệt là đối với các quốc gia đang phát triển, nơi hầu hết FDI đổ vào đều thuộc loại tìm kiếm nguồn lực, khai thác các ưu thế về lao động giá rẻ, tập trung vào các ngành có hàm lượng lao động cao. Ví dụ, tại Việt Nam, năm 2005, tổng cầu lao động trong khu vực FDI là 870 nghìn người, năm 2006 khoảng 1 triệu người, chiếm 2,28% tổng số lao động đang làm việc trong toàn bộ nền kinh tế. Tốc độ tăng lao động bình quân trong loại hình doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài vài năm gần đây bình quân là 32%/năm [37]. Hơn nữa, các doanh nghiệp FDI còn tạo ra hàng triệu việc làm của lao động gián tiếp khác trong các ngành xây dựng, công nghiệp phụ trợ và dịch vụ…Không những thế, song song cùng với việc làm mới là thu nhập và sức mua bổ sung đối với những người dân địa phương, từ đó, tăng khả năng tích luỹ cho nền kinh tế [4,22]. Lợi ích của FDI không chỉ thể hiện ở số lượng việc làm được tạo ra mà còn có thể thấy được trong chất lượng lao động được cải thiện. Các dự án FDI thường có yêu cầu cao về chất lượng nguồn lao động, do đó, sự phát triển của FDI ở các nước sở tại đặt ra yêu cầu khách quan phải nâng cao chất lượng năng lực của người lao động. Mặt khác, chính các chủ đầu tư nước ngoài cũng góp phần tích cực bồi dưỡng, đào tạo đội ngũ lao động ở nước sở tại, từ đó các kĩ năng của người lao động được nâng cao. Thực tế cho thấy các công ty nước ngoài thường tham gia vào các hoạt động sử dụng tương đối nhiều công nhân lành nghề và thực hiện đào tạo qua công việc nhiều hơn các công ty trong nước. Đặc điểm của các khoá đào tạo của các doanh nghiệp FDI thường là ngắn hạn, sát hợp với tình hình thực tế, học đi đôi với hành làm cho kiến thức thêm sâu sắc. Ví dụ, ở Việt Nam, công ty đền hình Orion-Hanel với số lao động là 1.300 đã đào tạo bình quân 30-40 giờ/người/năm; công ty Liên doanh kính nổi Việt Nam với 400 nhân viên có chương trình đào tạo hàng năm, năm 2005 có 19 khoá đào tạo với 584 lượt người được đào tạo; công ty Toyota Việt Nam năm 2003 có 96 khoá, năm 2005 có 154 khoá đào tạo kĩ năng; từ 1996 đến 2006 có 360 người trong tổng số 800 lao động được đào tạo ở nước ngoài [24]. Những người lao động đó chính là đội ngũ nòng cốt trong việc học tập, tiếp thu kỉ cương, kỉ luật, kĩ thuật, công nghệ hiện đại, năng lực quản lí, điều hành tiên tiến của nước ngoài. Những kĩ năng này thường được chuyển giao sang các lĩnh vực khác và các hoạt động khác khi người lao động tìm kiếm việc làm mới hoặc thành lập doanh nghiệp của chính mình. Hơn nữa, người lao động cũng thường được đặt vào những kĩ năng tổ chức và quản lý mới, từ đó, kích thích tăng năng suất, phát huy tinh thần làm việc và học hỏi. 3. FDI tạo điều kiện phát triển công nghệ Nhìn chung, khi tiến hành thiết lập cơ sở sản xuất ở nước ngoài, các nhà đầu tư phải thực hiện chuyển giao cả các qui trình, bí quyết quản lý sản xuất để vận hành cơ sở đó. Vì thế, FDI không chỉ thuần tuý thể hiện sự di chuyển của các luồng vốn mà là sự di chuyển “cả gói” bao gồm vốn, kĩ năng quản lý, công nghệ mới. Khoảng cách về công nghệ giữa nước đầu tư và nước tiếp nhận càng lớn thì mức độ chuyển giao càng lớn. Theo nghĩa rộng, công nghệ là hệ thống các giải pháp được tạo nên bởi sự ứng dụng các kiến thức khoa học, được sử dụng để giải quyết một hoặc một số nhiệm vụ thực tiễn trong sản xuất, kinh doanh, thể hiện dưới dạng bí quyết kĩ thuật, phương án, qui trình công nghệ, tài liệu…Công nghệ bao gồm 2 phần: phần cứng (máy móc, thiết bị, dụng cụ, kết cấu xây dựng, nhà xưởng…) và phần mềm (con người, thông tin, tổ chức, phần bao tiêu hay nghiên cứu thị trường đầu ra). Chuyển giao công nghệ được tiến hành qua 3 kênh chính: qua hoạt động FDI; qua hợp đồng nhập khẩu công nghệ; nhập khẩu tư liệu sản xuất (máy móc, trang thiết bị, cử chuyên gia, cán bộ kĩ thuật ra nước ngoài, mời chuyên gia cán bộ kỹ thuật nước ngoài vào…). Tuy nhiên, trong điều kiện thực tế của hầu hết các nước đang phát triển với nguồn ngân quỹ còn hạn hẹp như Việt Nam thì FDI là kênh quan trọng thu hút công nghệ hiện đại [38]. FDI thực hiện chuyển giao công nghệ qua thúc đẩy chuyển giao máy móc, thiết bị, qui trình sản xuất và học tập bí quyết kĩ thuật, kinh nghiệm quản lý, kinh doanh của nước ngoài, từ đó, giúp nước sở tại tạo lập được nền tảng công nghệ riêng cho mình. Một mặt, FDI có thể cải thiện quyền tiếp cận của đất nước về công nghệ thông qua lixăng, liên doanh và thương mại địa phương. Mặt khác, những người làm việc cho các công ty có vốn đầu tư nước ngoài có thể nắm được bí quyết, kinh nghiệm của các công ty này, sau đó, thành lập các công ty khác hoặc tham gia vào công ty trong nước đang hoạt động và tiến hành phổ biến những kiến thức này cho người lao động của nước sở tại. Cùng với chuyển giao công nghệ và năng lực điều hành doanh nghiệp, FDI còn tạo ra sức ép cạnh tranh buộc các nhà sản xuất trong nước đẩy mạnh cải tiến công nghệ nhằm nâng cao năng lực sản xuất, bắt kịp các doanh nghiệp có vốn FDI. Ngoài ra, FDI còn cải thiện hoạt động quản lý công nghệ ở các nước tiếp nhận, như trình độ lãnh đạo, khả năng thẩm định, đánh giá từng loại công nghệ, mức độ tự chủ của cán bộ và tính định hướng tổ chức bởi khi quyết định tiếp nhận một loại công nghệ nào thì các nước đều phải tính đến yêu cầu phục vụ và giải quyết tốt nhất các mục tiêu kinh tế, chính trị, xã hội đã đặt ra [38]. Dù dưới hình thức nào thì chuyển giao công nghệ đều có xu hướng dẫn đến sự tăng trưởng cao năng suất lao động, thúc đẩy phát triển kinh tế. Có thể nói, FDI là nguồn chủ yếu và quan trọng nhất để phát triển trình độ công nghệ của các nước đang phát triển, thúc đẩy tiến trình công nghiệp hoá đất nước [38]. 4. FDI thúc đẩy quá trình hội nhập của nước tiếp nhận Ngày nay, dưới tác động của cách mạng khoa học và công nghệ, lực lượng sản xuất phát triển mạnh mẽ, phá vỡ sự biệt lập, tạo nên sự gắn kết giữa các quốc gia, dân tộc trong sự vận động phát triển. Quá trình thế giới hoá, toàn cầu hoá, quốc tế hoá đời sống kinh tế đang diễn ra nhanh chóng, trở thành một xu hướng với qui mô và tốc độ ngày càng lớn, tạo nên một nền kinh tế thị trường toàn cầu, trong đó tính phụ thuộc lẫn nhau của các nền kinh tế, dân tộc ngày càng gia tăng. Các quốc gia, dù lớn hay nhỏ, là nước phát triển hay đang phát triển, dù muốn hay không đều chịu tác động của quá trình này và để tồn tại, phát triển trong điều kiện đó không thể không tham gia quá trình toàn cầu hoá, buộc phải mở cửa, khai thông, hội nhập kinh tế quốc tế, khu vực và toàn cầu, trong đó, FDI là một bộ phận không thể thiếu. FDI và toàn cầu hoá có mối quan hệ hữu cơ qua lại với nhau. Dòng vốn FDI lớn hay các công ty nước ngoài đầu tư vào nhiều sẽ tạo cơ hội cho các doanh nghiệp đối tác trong nước tham gia mạng lưới sản xuất toàn cầu, từ đó thúc đẩy quá trình hội nhập quốc tế. Ngược lại, mức độ hội nhập của quốc gia càng cao, môi trường đầu tư càng thích ứng với thông lệ quốc tế, các quan hệ bang giao càng được mở rộng thì cơ hội thu hút FDI từ đa dạng các đối tác càng nhiều. Có thể nói, FDI vừa là tiền đề, vừa là động lực, là kết quả thể hiện của toàn cầu hoá, của hội nhập sâu rộng hơn vào nền kinh tế thế giới. Vì thế, thu hút FDI là phù hợp và đáp ứng với yêu cầu của trào lưu hội nhập kinh tế quốc tế đang diễn ra. 5. Các lợi ích khác Ngoài các tác động tích cực trên, vốn FDI còn mang lại nhiều lợi ích khác: - FDI mở rộng cơ sở nguồn thu của nhà nước và địa phương, đóng góp vào ngân sách nhà nước, từ đó, cải thiện cán cân thanh toán [1,23]. Điều này thể hiện trong mức tăng khả năng thu thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế xuất nhập khẩu, các nguồn thu từ các khoản cho thuê đất, mặt nước, mặt biển. Thậm chí nếu các nhà đầu tư nước ngoài được miễn hoàn toàn thuế trong môt giai đoạn thông qua các ưu đãi đầu tư thì các chính phủ vẫn có thể có được nguồn thu gia tăng từ việc trả thuế thu nhập cá nhân bởi FDI tạo ra các việc làm mới. Ngoài ra, đầu tư định hướng xuất khẩu còn giúp tạo ra các khoản thu ngoại tệ, góp phần cải thiện cán cân thanh toán trong ngắn hạn [4,22]. - Với các chính sách thu hút vốn FDI theo các ngành nghề định hướng hợp lý, nguồn vốn FDI là yếu tố góp phần tích cực thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu nền kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá. - FDI có xu hướng dẫn đến sự gia tăng đầu tư trong nước bởi các công ty ở nước sở tại dễ dàng hơn trong việc dành được quyền tiếp cận các kênh phân phối do các công ty có vốn FDI mở ra, trở thành nhà cung cấp hoặc thích ứng cạnh tranh v._. ra những triển vọng to lớn để Việt Nam gia tăng sức hấp dẫn thu hút các nhà FDI Nhật Bản, trở thành đối tác “cộng 1” đáng tin cậy. Tuy nhiên, trong thời gian tới, có xảy ra sự bùng nổ đầu tư của Nhật Bản vào Việt Nam hay không lại phụ thuộc vào chính nỗ lực của Việt Nam trong việc tiếp tục cải thiện môi trường đầu tư để không thua kém Trung Quốc và các quốc gia châu Á khác. Việt Nam cần dựa trên cơ sở duy trì, phát huy những lợi thế về môi trường chính trị, xã hội ổn định, vai trò quốc tế được nâng cao, sự tín nhiệm của các doanh nghiệp Nhật Bản…đồng thời nghiên cứu rào cản vẫn còn tồn tại đối với các nhà đầu tư để đề ra những biện pháp trước mắt và lâu dài tháo gỡ khó khăn. Dựa trên những phân tích về thực trạng đầu tư, cơ hội và thách thức với Việt Nam, khoá luận đưa ra một số khuyến nghị nhằm tăng tính hấp dẫn trong mắt các doanh nghiệp Nhật Bản. 3.1. Về khuôn khổ pháp lý Trước hết, chính phủ Việt Nam cần tiếp tục chú trọng bổ sung, hoàn thiện thể chế pháp luật theo hướng rõ ràng và đồng bộ hoá, tạo nền tảng cơ sở cho các doanh nghiệp Nhật Bản kinh doanh thuận lợi. Nhanh chóng ban hành những văn bản hướng dẫn còn thiếu vừa nhằm giúp các nhà đầu tư hiểu rõ hơn các quy định của luật, vừa để thấy rõ tính ưu đãi trong đầu tư của Việt Nam. Ngoài ra, thay vì khuyến khích thu hút FDI vào một số ngành như hiện nay, nên xem xét chỉ qui định lĩnh vực cấm đầu tư và cho phép đầu tư vào mọi lĩnh vực ngoài các lĩnh vực cấm; hay ban hành các danh mục lĩnh vực được phép đầu tư 100% vốn nước ngoài, hình thức đầu tư mà các nhà đầu tư Nhật Bản ưa chuộng. Tiến hành bổ sung, chỉnh sửa, đồng bộ hoá chính sách ưu đãi đầu tư và các chính sách khác trên cơ sở khuyến khích hơn nữa đầu tư vào các lĩnh vực và địa bàn ưu tiên. Xem xét cho phép các tập đoàn lớn có nhiều dự án ở Việt Nam thành lập công ty quản lý vốn, đẩy nhanh việc cổ phần hoá các doanh nghiệp có vốn FDI, tính đến việc cho thành lập liên doanh về hoạt động đầu tư mạo hiểm, thúc đẩy chuyển giao công nghệ mới, công nghệ cao ở Việt Nam. Tích cực rà soát để sửa đổi, bổ sung các chính sách thuế, chính sách ưu đãi đầu tư và các chính sách khác nhằm đưa ra chương trình triển khai đầy đủ, theo đúng tiến độ các cam kết hội nhập, thể hiện Việt Nam thực hiện nghiêm túc các cam kết quốc tế không chỉ là nghĩa vụ mà còn xuất phát từ mong muốn tạo thuận lợi cho các nhà đầu tư, dành sự tin tưởng của nhà đầu tư. Xây dựng khuôn khổ pháp lý và thể chế để tạo lập đồng bộ các yếu tố thị trường, từng bước hình thành các thị trường như: thị trường vốn, thị trường bất động sản, thị trường lao động, thị trường dịch vụ khoa học-công nghệ…nhằm hỗ trợ cho các hoạt động đầu tư. Thứ hai là đảm bảo sự thống nhất trong các văn bản ban hành. Nâng cao hơn nữa năng lực của đội ngũ làm luật, trên cơ sở bám sát những qui định trong Luật để ban hành những văn bản hướng dẫn cho phù hợp, tránh trường hợp luật qui định một đường, thông tư hướng dẫn một nẻo, gây khó khăn cho nhà đầu tư trong việc thi hành. Tăng cường rà soát qui định của địa phương, tránh tình trạng một số địa phương ban hành những ưu đãi đầu tư vượt quá khuôn khổ pháp luật hiện hành, gây nên tình trạng cạnh tranh không lành mạnh về thu hút FDI, phá vỡ tính pháp lý của các văn bản cao hơn, gây mất lòng tin cho các nhà đầu tư. Thứ ba, Chính phủ nên xem xét thành lập một tổ chức độc lập thực hiện rà soát, đánh giá lại, nhận diện các trở ngại trong chính sách đã ban hành, đảm bảo các đề xuất chính sách và điều tiết mới không làm phương hại đến môi trường đầu tư trên cơ sở học tập kinh nghiệm của các quốc gia khác, như Uỷ ban Năng lực cạnh tranh quốc gia do thủ tướng Thái Lan đứng đầu, Uỷ ban năng suất của Ôxtralia… 3.2. Về bộ máy hành chính Trên cơ sở tích cực thực hiện chương trình tổng thể cải cách hành chính Nhà nước giai đoạn 2001-2010, Việt Nam cần thống nhất, công khai, đơn giản hoá quy trình, thủ tục về ĐTNN, tăng cường thực hiện cơ chế một cửa theo qui định 181/2003/QĐ-TTg, thực hiện tốt việc phân cấp quản lý ĐTNN gắn liền với tăng cường phối hợp kiểm tra, giám sát thi hành pháp luật, tiến tới thí điểm cơ chế “một cửa liên thông” trong các thủ tục hành chính. Các cơ quan quản lý có liên quan cần tích cực thực hiện chế độ giao ban định kì, duy trì thường xuyên việc tiếp xúc trực tiếp giữa các cơ quản quản lý nhà nước với các nhà đầu tư để kịp thời xử lý dứt điểm những vướng mắc phát sinh do thủ tục hành chính gây ra, đẩy nhanh tiến độ cấp phép, điều chỉnh giấy chứng nhận đầu tư hay các thủ tục liên quan đến triển khai dự án đầu tư. Cuối cùng, Việt Nam cần tích cực đẩy mạnh ứng dụng công nghệ cao trong các hoạt động quản lý như kê khai thuế, hải quan từ xa để tinh giản bộ máy công quyền, hạn chế chồng chéo nhiệm vụ, thu hẹp các chức năng can thiệp vào hoạt động kinh doanh và tăng thêm tính chủ động cho các doanh nghiệp FDI, đồng thời nâng cao được hiệu quả quản lý của nhà nước. 3.3. Về quản lý nhà nước đối với hoạt động FDI: Một bộ luật tốt mới chỉ là sự khởi đầu, vấn đề cốt lõi là đưa luật vào cuộc sống. Luật tốt mà thực thi không tốt thì cũng không những không thể phát huy được những ưu điểm của luật mà còn gây mất lòng tin của các nhà đầu tư. Do đó, Việt Nam cần nhanh chóng nâng cao hiệu lực thi hành luật và hiệu quả quản lý nhà nước đối với hoạt động FDI. Trước hết, chính quyền các cấp cần tích cực phổ biến, tuyên truyền cho mọi tầng lớp nhân dân và các doanh nghiệp hiểu về luật thông qua các phương tiện truyền thông như sách, báo, đài…hay qua hoạt động tư vấn pháp luật với sự tham gia của nhiều cơ quan, đoàn thể, hiệp hội luật sư…Điều này, một mặt tạo nền tảng thực thi đúng luật pháp, mặt khác, tăng khả năng phản ánh các sai phạm, bất cập, tạo cơ sở khắc phục, xử lý kịp thời. Ngoài ra, Việt Nam cần tăng cường xã hội hoá một số hoạt động bổ trợ tư pháp, như: các dịch vụ pháp lý, tổ chức hoà giải…nhằm đáp ứng nhanh, đầy đủ nhu cầu tiếp cận thông tin pháp luật, nhu cầu xử lý tranh chấp và được bảo vệ bằng pháp luật của người lao động, các tổ chức, doanh nhân nước ngoài. Thứ hai, nhà nước cần tích cực nâng cao trình độ và năng lực của đội ngũ cán bộ, công chức các cấp không chỉ thông qua hệ thống trường chuyên ngành trong nước mà nên mạnh dạn gửi ra nước ngoài đào tạo hay thuê các chuyên gia nước ngoài vào làm việc ở những khâu chưa đảm đương được hoặc còn yếu như khâu kiểm toán…Đồng thời, các cơ quan quản lí cần thành lập đường dây nóng nhằm kịp thời nắm bắt vi phạm hay vướng mắc của nhà đầu tư cũng như kiên quyết xử lý nghiêm khắc, công khai những trường hợp sách nhiễu, cửa quyền, tiêu cực, vô trách nhiệm của cán bộ, công chức. Thứ ba, song song với việc phân cấp mạnh quản lý đối với hoạt động FDI, các cơ quan nhà nước cần thường xuyên rà soát, phân loại các dự án đã được cấp phép để xử lý kịp thời các vấn đề phát sinh, nâng cao hiệu quả hoạt động của dự án. Đặc biệt, đối với các dự án đã triển khai thực hiện, Bộ, ngành và UBND cấp tỉnh cần có biện pháp tháo gỡ khó khăn và tạo thuận lợi cho doanh nghiệp, nhất là khâu đền bù, giải phóng mặt bằng, một khâu bức xúc hiện nay Cuối cùng, tính thực thi của pháp luật phải được coi là trọng tâm của công tác cải cách hệ thống tư pháp. Việt Nam cần củng cố và hoàn thiện hệ thống trọng tài, toà án kinh tế đáp ứng yêu cầu giải quyết kịp thời các tranh chấp, vi phạm, tránh hình sự hoá các quan hệ kinh tế, đồng thời, hoàn thiện cơ chế quản lý nhà nước thống nhất từ quy trình tố tụng, công tác điều tra, xét xử tới công tác thi hành án, sao cho mọi tranh chấp, vi phạm phải được giải quyết nhanh chóng, đúng luật, không gây phiền hà, sách nhiễu đến nhà đầu tư. 3.4. Về ngành công nghiệp phụ trợ Công nghiệp phụ trợ là nền tảng cho phát triển các ngành công nghiệp chính yếu, giống như chân núi, tạo phần cứng để hình thành nên thân núi và đỉnh núi là ngành công nghiệp sản xuất và lắp ráp [19]. Với xuất phát điểm thấp, Việt Nam cần kết hợp cả phát triển các công ty cung ứng nội địa và thúc đẩy các doanh nghiệp FDI cung ứng, đồng thời phát triển con đường hai chiều từ các nhà lắp ráp đến các nhà cung ứng và ngược lại. Trước hết, thực tế cho thấy, các nước đi trước như Thái Lan, Malaysia và Inđônêxia đã mất một khoảng thời gian khá dài mà vẫn chưa thực sự đạt được mục tiêu đặt ra trong chiến lược phát triển công nghiệp hỗ trợ từ các doanh nghiệp nội địa [40]. Do đó, việc phát triển các doanh nghiệp FDI trong ngành công nghiệp phụ trợ được coi là giải pháp đầu tiên và trước mắt để thu hút FDI từ các doanh nghiệp lắp ráp Nhật Bản. Hơn nữa, sự gia tăng của các doanh nghiệp FDI cung ứng với trình độ công nghệ khá tiên tiến, kĩ năng quản lý cao sẽ ảnh hưởng tới nhận thức và sự phát triển của các doanh nghiệp cung ứng Việt Nam. Để đạt được mục tiêu này, chính phủ Việt Nam cần ban hành các ưu đãi cần thiết cho đầu tư vào lĩnh vực công nghiệp hỗ trợ, xây dựng thí điểm một số khu công nghiệp hỗ trợ với các ưu đãi riêng như gần hãng chính về mặt địa lý, ưu đãi trong chính sách đất đai, thuế… Tuy nhiên, về lâu về dài, Việt Nam cần có những đối sách thích hợp để phát huy nội lực, phát triển các doanh nghiệp cung ứng nội địa. Nhà nước cần hỗ trợ các doanh nghiệp nội địa, một mặt, liên kết với các doanh nghiệp FDI trong cùng nhóm ngành, mặt khác, tăng năng lực để có thể tự sáng tạo, học hỏi, tiếp thu hấp thụ công nghệ mới thông qua các hình thức: hỗ trợ đào tạo, tổ chức các lớp bồi dưỡng cán bộ R&D; tài trợ các chương trình trao đổi chuyên gia…Trong thời gian tới, chính phủ cũng nên xem xét cho phép tính chi phí nghiên cứu khoa học vào giá thành sản phẩm; đặc biệt, sớm cho ra đời Quĩ đầu tư mạo hiểm để hỗ trợ doanh nghiệp đổi mới công nghệ. Hiện nay đã có 3 trung tâm hỗ trợ kỹ thuật tại Hà Nội, Đà Nẵng và thành phố Hồ Chí Minh đi vào hoạt động với tư cách là cơ quan đầu mối, tổ chức thông tin về yêu cầu của nhà lắp ráp đối với các dòng phụ tùng, linh kiện. Chính phủ cần phát huy vai trò tích cực của các trung tâm này, hình thành một mạng lưới liên kết giữa các địa phương để luồng thông tin được thông suốt, thực sự hữu ích cho các doanh nghiệp; đồng thời nâng cao hiệu quả hoạt động của các hiệp hội nghề nghiệp liên quan đến các sản phẩm hỗ trợ. Hơn nữa, mỗi nhà lắp ráp lại có yêu cầu khác nhau về thông số kĩ thuật, mẫu mã, kích cỡ nên hỗ trợ từ chính hãng có tính quyết định đến sự tồn tại và phát triển của các nhà cung ứng nội địa, đặc biệt khi hệ thống công nghiệp phụ trợ Việt Nam còn “manh mún”. Các công ty chính hãng có thể tăng cường hỗ trợ kỹ thuật bằng hình thức cử chuyên gia đến nhằm đào tạo kỹ thuật sản xuất trực tiếp, xây dựng và khơi nguồn công tác nghiên cứu phát triển… Tuy nhiên, các cản trở đối với thiện chí hỗ trợ của chính hãng là khả năng tiếp nhận của doanh nghiệp cung ứng, tình trạng ăn cắp bản quyền và điều kiện sinh hoạt cho các chuyên gia. Do đó, để được thu nạp vào chuỗi cung cấp của chính hãng, chính phủ cần cam kết thực hiện nghiêm túc quyền sở hữu trí tuệ theo thông lệ quốc tế, tạo điều kiện thuận lợi cho các chuyên gia chính hãng đến Việt Nam có môi trường sống đảm bảo. Mặt khác, các công ty cung ứng cũng cần nỗ lực thể hiện mình là những đối tác chuyên nghiệp và đáng tin cậy. Đặc biệt, khi làm ăn với nhà đầu tư Nhật Bản, những con người rất coi trọng chữ tín, các doanh nghiệp Việt Nam cần thay đổi nhận thức, hết sức tôn trọng các khế ước, hợp đồng để duy trì được sự tín nhiệm, hỗ trợ lâu dài. 3.5. Về nguồn nhân lực có tay nghề và nhân lực quản lý Trước hết, để phát triển cung lao động có năng lực, Việt Nam cần tiêu chuẩn hoá hệ thống trường dạy nghề trong cả nước, xây dựng các qui hoạch, kế hoạch đầu tư vào hệ thống dạy nghề kĩ thuật thực hành. Trước mắt, các cơ quan nhà nước cần tập trung thực hiện mục tiêu đã đề ra là xây dựng 40 trường dạy nghề trọng điểm quốc gia, trong đó 15 trường đạt chuẩn khu vực, phát triển mạnh hệ thống dạy nghề với 3 cấp trình độ và liên thông giữa các cấp trình độ [26]. Đồng thời, các trường cần đưa kỉ luật, tác phong công nghiệp, pháp luật lao động vào chương trình đào tạo, nhằm hạn chế trường hợp vi phạm kỉ luật do thiếu hiểu biết; tiến hành phổ cập tiếng Anh, khuyến khích người lao động học tiếng Nhật để nâng cao năng lực tiếp thu công nghệ. Đồng thời, Nhà nước cần có biện pháp khuyến khích doanh nghiệp FDI dành tài chính cho đào tạo lao động, như cho phép tính chi phí đào tạo vào chi phí sản xuất, kinh doanh và được khấu trừ vào doanh thu trước khi tính thuế; quan tâm thúc đẩy việc thành lập và hoạt động của tổ chức công đoàn, tạo niềm tin cho người lao động làm việc tại các doanh nghiệp FDI. Mặt khác, Việt Nam cần phát triển hệ thống thông tin thống kê thị trường lao động, xây dựng các trung tâm giới thiệu việc làm phân bố rộng khắp, đặc biệt ở các KCN, KCX, cửa ngõ các thành phố lớn để tiếp nhận và giới thiệu việc làm cho lao động ngoại tỉnh. Chính phủ cũng nên xem xét tiến tới thiết lập các sàn giao dịch thường xuyên, định kì, liên thông giữa các địa phương và các doanh nghiệp FDI tại các trung tâm này thay cho các hội chợ việc làm. Ngoài ra, Nhà nước cần nghiên cứu giải pháp đảm bảo tính linh hoạt của thị trường lao động như tạo thuận lợi cho di chuyển lao động, đặc biệt là di chuyển vào các KCN, KCX, khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư xây dựng nhà ở theo đúng quy hoạch, tiêu chuẩn điều kiện sinh hoạt, vệ sinh, góp phần phát triển thị trường nhà ở tại các KCN, KCX… 3.6. Về cơ sở hạ tầng, kĩ thuật Trước hết để nâng cao hiệu quả xây dựng cơ sở hạ tầng kĩ thuật, Việt Nam cần tích cực rà soát, điều chỉnh, tăng cường qui hoạch thống nhất, bảo đảm tính đồng bộ và hiện đại của hệ thống cơ sở hạ tầng. Trong đó, để nhanh chóng đáp ứng nhu cầu ĐTNN, chính phủ cần ưu tiên nâng cấp mạng lưới thông tin liên lạc, hệ thống điện, nước, giao thông vận tải, sân bay, bến cảng, xử lý chất thải và vệ sinh môi trường. Hiện nay, việc xây dựng các cảng lớn Hiệp Phước-Thị Vải, Lạch Huyện, Vân Phong, hệ thống đường bộ cao tốc, đường sắt cao tốc Bắc-Nam, hai hành lang kinh tế Việt Nam-Trung Quốc sẽ tạo điều kiện cho nhà đầu tư Nhật Bản di chuyển các cơ sở sản xuất sang Việt Nam hay phối hợp với Trung Quốc trong chiến lược “Trung Quốc+1”. Mặt khác, Việt Nam cũng nên xem xét những giải pháp tạm thời trước mắt để nhanh chóng đảm bảo nhu cầu sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp FDI. Trong thời gian gần đây, chính phủ đã cho phép Tập đoàn điện lực Việt Nam đầu tư xây dựng các đường dây 220 KV mua điện từ Trung Quốc nhằm cứu nguy cho tình trạng thiếu năng lượng. Mặt khác, để giảm nhẹ gánh nặng đầu tư cho ngân sách nhà nước, Việt Nam cần đẩy mạnh đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng (CSHT) từ nhiều nguồn vốn; nhanh chóng thông qua danh mục quốc gia về thu hút ĐTNN vào xây dựng CSHT; xây dựng qui chế ưu đãi rõ ràng, đủ sức hấp dẫn các hình thức đầu tư BOT, BT và BTO vào các địa bàn trọng điểm. Theo đó, trước hết cần tập trung đầu tư phát triển CSHT của 3 vùng kinh tế trọng điểm trong mối liên kết với các vùng kinh tế khác để vừa đáp ứng ngay yêu cầu của các nhà đầu tư vừa tạo đòn bẩy phát triển CSHT cho những vùng khác. Bên cạnh đó, hình thức tổ chức sản xuất công nghiệp tập trung có sức hấp dẫn rất lớn đối với vốn FDI Nhật Bản, vì thế, cần khuyến khích đầu tư xây dựng KCN, KCX, thành lập các đặc khu kinh tế tại những địa bàn thích hợp. Mặt khác, để đẩy nhanh tiến độ xây dựng và phát triển CSHT, các cơ quan cần cải thiện công tác đền bù, giải phóng mặt bằng, hình thành khung giá đền bù thống nhất, tương xứng giá thị trường, tạo chính sách phù hợp hỗ trợ người mất đất song song với tăng tính cưỡng chế thi hành của các quyết định. Ngoài ra, Việt Nam cần phát triển một hệ thống dịch vụ rộng khắp, đa dạng và có chất lượng cao, đặc biệt là các dịch vụ hải quan, tài chính, ngân hàng, quảng cáo, mạng lưới tư vấn về đầu tư, XNK, nghiên cứu thị trường… 3.7. Về hoạt động xúc tiến đầu tư (XTĐT) và thông tin đầu tư Một mặt, Việt Nam cần tích cực thúc đẩy quan hệ hợp tác toàn diện giữa hai nước, làm cơ sở cho hoạt động hợp tác đầu tư, trong đó chú ý sự kết hợp chuyến công tác của lãnh đạo cấp cao vào các hoạt động XTĐT được coi là biện pháp tốt để cải thiện hình ảnh Việt Nam và kết quả thu hút vốn FDI. Tiếp đó, Việt Nam cần tiến hành “định vị phù hợp”, tránh “định vị quá cao, không thực tiễn” [11], từ đó xây dựng các kế hoạch tổng thể nhằm đẩy mạnh tuyên truyền, quảng bá hình ảnh quốc gia trong mắt các nhà đầu tư Nhật Bản mà trọng tâm là: “Việt Nam muốn trở thành quốc gia phân tán rủi ro trong chiến lược “Trung Quốc+1””, chủ động tiếp cận và hỗ trợ có hiệu quả những nhà đầu tư Nhật Bản tiềm năng. Mặt khác, chính phủ cần xây dựng hệ thống cơ sở dữ liệu về các nhà đầu tư Nhật Bản tiềm năng; tổ chức tốt hệ thống Marketing về ĐTNN tại Việt Nam; cập nhật trang web về ĐTNN, dịch sang tiếng Nhật dưới sự hỗ trợ của các chuyên gia Nhật Bản nhằm giúp nhà đầu tư cả hai nước nắm bắt kịp thời, đầy đủ các cơ hội hợp tác hay những thông tin đầu tư cần thiết, kể cả luật pháp, chính sách, tình hình ĐTNN tại Việt Nam; nâng cao chất lượng, tính trung thực và chính xác của hệ thống tài liệu XTĐT. Hơn nữa, song song với nâng cao năng lực hoạt động của phòng XTĐT thuộc cục ĐTNN, cơ quan chuyên trách XTĐT cấp quốc gia cần khẩn trương đặt bộ phận XTĐT tại một số địa bàn trọng điểm ở Nhật Bản; sớm xây dựng cơ chế phối hợp hoạt động của các bộ phận này cả cấp vĩ mô và vi mô để thực sự trở thành một công cụ mạnh, hiệu quả cho chiến lược XTĐT Nhật Bản. Đồng thời, bố trí tài chính, dành một phần ngân sách thích đáng cho hoạt động XTĐT, kể cả in ấn tài liệu phát miễn phí cho các nhà đầu tư tiềm năng; sớm ban hành Quy chế xây dựng và thực hiện Chương trình XTĐT quốc gia 2007-2010 để bảo đảm kinh phí cho hoạt động XTĐT gắn liền với xúc tiến thương mại và du lịch. *Tổng kết: Các giải pháp thu hút FDI Nhật Bản nhằm hướng tới chiến lược “Trung Quốc +1” rất đa dạng. Tuy nhiên, để thực thi có hiệu quả, Việt Nam cần phải nhận định rõ tầm quan trọng cũng như tính cấp thiết của từng giải pháp trong bối cảnh hiện nay. Trước hết, giải pháp tăng cường xúc tiến đầu tư, chú trọng vào nhà đầu tư Nhật Bản được coi là giải pháp hiệu quả trước mắt khi các doanh nghiệp Nhật Bản đang gấp rút tiến hành khảo sát môi trường đầu tư Việt Nam. Thứ hai, năng lực ngành công nghiệp hỗ trợ, cơ sở hạ tầng kĩ thuật từ lâu đã là vấn đề nổi cộm trong thu hút FDI của Nhật Bản. Do đó, phát triển ngành công nghiệp hỗ trợ, hoàn thiện hạ tầng kĩ thuật cần được coi là giải pháp chiến lược ưu tiên hàng đầu để tăng khả năng hấp thụ nguồn vốn này. Thứ ba, giải pháp tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật và chính sách thu hút FDI là giải pháp lâu dài. Nhiều nhà đầu tư Nhật Bản cho biết cản trở lớn nhất với họ là sự thiếu minh bạch, rõ ràng, nhất quán của các văn bản pháp quy liên quan đến hoạt động FDI. Do đó, trước mắt cần nhanh chóng ban hành những văn bản hướng dẫn dưới luật còn thiếu rồi mới tiến tới cải thiện tính hấp dẫn của các chính sách ưu đãi đầu tư. Thứ tư, giải pháp về thủ tục hành chính, về quản lý nhà nước đối với hoạt động FDI là những giải pháp quan trọng để nâng cao sự hoàn thiện của luật, tăng hiệu quả thu hút, sử dụng nguồn vốn này. Thứ năm, vấn đề con người mà cụ thể là nâng cao chất lượng lao động cung ứng cho các doanh nghiệp Nhật Bản là giải pháp vừa mang tính chiến lược vừa mang tính cấp bách. Trong thời gian tới, để vừa có thể chủ động chào đón các doanh nghiệp Nhật Bản, trở thành đối tác tin cậy, lâu dài cho chiến lược “Trung Quốc+1” của họ, vừa khai thác tốt nguồn vốn này thì các giải pháp trên cần được tiến hành đồng bộ, liên tục, nhất quán nhưng linh hoạt ưu tiên các giải pháp trước mắt, từng bước thực hiện các giải pháp lâu dài. Ngoài ra, yếu tố quan trọng hàng đầu là duy trì được môi trường chính trị, xã hội ổn định tạo nền tảng vững chắc cho thực thi tốt các giải pháp. KẾT LUẬN Tận dụng nguồn vốn FDI để đẩy nhanh quá trình công nghiệp hoá trong bối cảnh ngày càng hội nhập vào nền kinh tế toàn cầu là chiến lược “khôn ngoan” của bất kì một quốc gia đang phát triển nào trong thời đại ngày nay. Nhật Bản lại là nước có kinh nghiệm phong phú về phát triển công nghiệp, đi đầu thế giới về năng suất và chất lượng, do đó, nguồn vốn FDI của Nhật Bản luôn được Đảng, Nhà nước và Chính phủ Việt Nam coi trọng, tập trung thu hút. Có thể khẳng định, cho đến nay sự thành công của Việt Nam trong việc thu hút vốn FDI của Nhật Bản được coi là một trong những yếu tố nổi bật của quá trình tăng trưởng kinh tế và mở rộng quan hệ hợp tác thương mại, đầu tư giữa Việt Nam và Nhật Bản. Trong 20 năm qua, kể từ khi Việt Nam bắt đầu tiến hành công cuộc đổi mới đất nước, nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài của Nhật Bản tuy trải qua nhiều bước thăng trầm cùng với sự vận động nói chung của dòng vốn này vào Việt Nam nhưng đã có những đóng góp quan trọng cho sự phát triển kinh tế đất nước: tích cực thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế, bổ sung nguồn vốn đầu tư phát triển, chuyển giao công nghệ, giải quyết việc làm, mở rộng thị trường, tiếp thu kinh nghiệm quản lý tiên tiến, cải thiện đáng kể cán cân thanh toán và nâng cao khả năng hợp tác quốc tế của Việt Nam. Đến nay, nền kinh tế đã từng bước ổn định, chuẩn bị chuyển sang giai đoạn phát triển tăng tốc, nguồn vốn này lại càng quan trọng hơn. Bối cảnh, vận hội mới đang đặt Việt Nam trước thời cơ lớn để trở thành đối tác tin cậy lâu dài của các công ty Nhật Bản trong chiến lược phân bố đầu tư theo mô hình “Trung Quốc+1”. Phó trưởng đại diện JICA tại Việt Nam, ông Oshikiri Koji đã khẳng định: “Đầu tư của Nhật Bản vào Việt Nam không còn là làn sóng “thời thượng” mà là quyết định đúng đắn và nghiêm túc của nhà đầu tư Nhật Bản” Báo Lao động số 292 (23/10/2006), Đầu tư từ Nhật Bản: khởi động làn sóng thứ hai. . Vấn đề cơ bản và cấp thiết hiện nay của Việt Nam là duy trì những lợi thế đã có, khắc phục khó khăn, nhanh chóng tạo ra một môi trường đầu tư hấp dẫn, hoàn thiện, chủ động về nhiều mặt đón chào các nhà đầu tư một cách có quy hoạch, tránh tình trạng mất kiểm soát, hỗn loạn trong đầu tư và quản lý đầu tư. Với những nỗ lực không ngừng từ hai phía, cả chính phủ, doanh nghiệp Việt Nam và Nhật Bản, hi vọng trong tương lai, làn sóng đầu tư thứ hai từ Nhật Bản sẽ sớm được hiện thực hoá, Việt Nam sẽ trở thành điểm đến lí tưởng cho chiến lược “Trung Quốc+1”, không những khơi thông, khai thác, sử dụng được thế mạnh của nguồn vốn này một cách liên tục và bền vững mà còn ngày càng khẳng định được vị trí quốc gia trên trường quốc tế. Khoá luận đã cố gắng xem xét, phân tích thực trạng hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài của Nhật Bản trong mối quan hệ với đầu tư trực tiếp vào Việt Nam và hoạt động đầu tư ra nước ngoài của Nhật Bản nói chung. Khoá luận cũng căn cứ trên điều kiện, định hướng chiến lược riêng của từng nước để đánh giá tiềm năng, thách thức, từ đó đề ra giải pháp hướng tới sự giao thao lợi ích của hai quốc gia trong bối cảnh đầu tư mới. Tuy nhiên, do hạn chế về thời gian cũng như về trình độ kiến thức, khoá luận này không tránh khỏi những thiếu sót nhất định, kính mong nhận được sự góp ý, nhận xét chân thành của các thầy cô giáo, bạn bè và những người quan tâm để khoá luận được hoàn chỉnh thêm. TÀI LIỆU THAM KHẢO Tài liệu tiếng Việt Lê Xuân Bá (cb) (2006), Tác động của đầu tư trực tiếp nước ngoài tới tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam, Nxb Khoa học và kĩ thuật, Hà Nội. Nguyễn Kim Bảo (2000), Đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Trung Quốc từ 1979 đến nay, Nxb Khoa học xã hội, 117-213,Hà Nội. Bộ Công thương (7/12/2005), Việt Nam với chính sách Trung Quốc cộng một, Bộ kế hoạch và đầu tư (2003), Kỹ năng xúc tiến đầu tư, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Bộ lao động, thương binh và xã hội (2006), Số liệu thống kế Lao động-Việc làm ở Việt Nam, Nxb Lao động-Xã hội, Hà Nội. Bộ tài chính (21/8/2007), Đón luồng đầu tư mới, Ngô Hồng Diệp (9/2006), Những nhân tố tác động đến đầu tư trực tiếp của Nhật Bản vào ASEAN giai đoạn từ 1973 đến 2003, Tạp chí Nghiên cứu Đông Bắc Á số 7, Hà Nội. Nguyễn Duy Dũng (2/2007), Liệu có làn sóng đầu tư thứ hai của Nhật Bản vào Việt Nam hay không?, Tạp chí Nghiên cứu Đông Bắc Á số 2, Hà Nội. Tư Giang (8/2005), Chiến lược xây dựng hình ảnh quốc gia, Thuý Hằng (17/1/2007), Nhà đầu tư chuyển hướng, Nguyễn Thị Thu Hiền, Phan Thu Giang (5/2007), Thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam trong bối cảnh tăng cường hợp tác Trung Quốc-ASEAN, Tạp chí Công nghiệp kì 1, Hà Nội. Dương Phú Hiệp (2/2004), Nhìn lại 30 năm quan hệ Việt Nam-Nhật Bản, Tạp chí nghiên cứu kinh tế số 1(49). Hoàng Xuân Hoà (6/2005), Một số nguyên nhân giải thể trước thời hạn đối với dự án có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, Tạp chí nghiên cứu kinh tế số 325, Hà Nội. Minh Hoài (7/2007), Nhìn lại bức tranh kinh tế 6 tháng đầu năm, dự báo triển vọng cả năm 2007, Tạp chí Khu công nghiệp Việt Nam, Hà Nội. Hoài Hương (13/9/2007), Trung Quốc: Tỉ lệ lạm phát cao nhất 11 năm qua, Trần Thị Thu Hương (10/2005), Hoàn thiện công tác quản lý nhà nước về đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Việt Nam, Tạp chí nghiên cứu kinh tế số 329, Hà Nội. Trần Kiên (6/2007), Triển vọng và cơ hội đầu tư, kinh doanh tại Việt Nam, Tạp chí Kinh tế và dự báo số 5, Hà Nội. Báo Kinh tế Sài Gòn (3/10/2005), Đón làn sóng FDI mới từ Nhật như thế nào?, KXS (5/8/2005), Muốn thu hút FDI phải phát triển công nghiệp phụ trợ, C.M.L (26/9/2007), Bảng xếp hạng về tham nhũng thế giới, Phương Loan (26/9/2007), Chi phí hành chính: Lực cản với môi trường kinh doanh Việt Nam, Vũ Chí Lộc (1997), Giáo trình đầu tư nước ngoài, Nxb Giáo dục, Hà Nội. Luật đầu tư 2005. Phan Thu Lương (9/2006), Hiệu quả của công tác đào tạo, sử dụng người lao động trong doanh nghiệp FDI, Tạp chí doanh nghiệp đầu tư nước ngoài số 5, Hà Nội. Mizuno Masumi (19/1/2007), Từ phía Trung Quốc nhìn sang Việt Nam, Đinh Thị Thu Nga (2007), Phát triển thị trường lao động Việt Nam thời kì hậu WTO, Tạp chí Kinh tế và dự báo số 5, Hà Nội. Báo Người lao động (9/1/2007), Việt Nam chính thức trở thành thành viên đầy đủ của WTO, Hà Thị Ngọc Oanh (2005), Đầu tư quốc tế và chuyển giao công nghệ tại Việt Nam, Nxb Lao động-Xã hội, Hà Nội. Tiền Phong (15/8/2007), Doanh nghiệp nước ngoài tìm lợi thế đầu tư mới, Trần Thị Ngọc Quyên (2007), Xúc tiến đầu tư: một trong những yếu tố nhằm tăng cường hiệu quả thu hút FDI, Tạp chí Những vấn đề Kinh tế và chính trị thế giới số 1, Hà Nội. Báo Thanh Niên (2007), Việt Nam đang mê hoặc các doanh nghiệp Nhật Bản, Đinh Trung Thành (2006), Đầu tư trực tiếp của TNCs Nhật Bản ở Việt Nam-tổng quan và triển vọng, Tạp chí Nghiên cứu kinh tế số 335, Hà Nội. Đức Thành (3/8/2007), Chất lượng cơ sở hạ tầng quyết định nguồn FDI, Trịnh Thu Thảo (5/2007), Tác động của Nghị định 108/CP hướng dẫn thi hành Luật đầu tư năm 2005 và một số vấn đề bất cập, Tạp chí Doanh nghiệp đầu tư nước ngoài số 13, Hà Nội. Nguyễn Văn Thuật (9/2006), FDI của Nhật Bản vào Việt Nam tăng mạnh từ Sáng kiến chung 2 nước, Tạp chí Doanh nghiệp Đầu tư nước ngoài số 5, Hà Nội. Mạc Văn Tiến (9/2006), Phát triển lao động kĩ thuật ở Việt Nam trong bối cảnh toàn cầu hoá, Tạp chí nghiên cứu kinh tế số 340, Hà Nội. Nguyễn Tiệp (5/2007), Việc làm và đời sống của người lao động trong doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, Tạp chí nghiên cứu kinh tế số 348, Hà Nội. Nguyễn Anh Tuấn (1/2007), Chuyển giao công nghệ qua FDI: thực tiễn ở một số nước đang phát triển và Việt Nam, Tạp chí Nghiên cứu kinh tế số 344, Hà Nội. Phan Minh Tuấn (2/2007), Đầu tư trực tiếp của Nhật Bản vào Việt Nam: cơ hội, thách thức và triển vọng, Tạp chí Nghiên cứu Đông Bắc Á số 2, Hà Nội. Phan Đăng Tuất (4/2007), Trở thành nhà cung cấp cho các doanh nghiệp Nhật Bản: con đường nào cho các doanh nghiệp Việt Nam?, Tạp chí công nghiệp kì 1, Hà Nội. Trần Xuân Tùng (2005), Đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Việt Nam: thực trạng và giải pháp, Nxb chính trị quốc gia, Hà Nội. Trung tâm thông tin và dự báo kinh tế, xã hội quốc gia (17/9/2007), Kinh nghiệm thu hút FDI của một số nền kinh tế, Trung tâm xúc tiến thương mại và đầu tư thành phố Hồ Chí Minh (27/1/2007), Trung Quốc mất dần ưu thế thu hút đầu tư, TTXVN (7/11/2006), FDI của Nhật Bản vào Trung Quốc giảm mạnh, TTXVN (20/8/2007), Việt Nam hấp dẫn nhiều tập đoàn lớn, Vinanet (8/9/2005), Để không bỏ lỡ làn sóng đầu tư từ Nhật Bản, Vinanet (23/6/2006), Việt Nam là điểm đến hấp dẫn của các công ty Nhật Bản, Vneconomy (19/8/2005), Doanh nghiệp Nhật chuyển hướng đầu tư: Việt Nam không nên đánh mất cơ hội, Tài liệu tiếng Anh JBIC (2006), Survey report on Overseas business operations by Japanese Manufacturing Companies, Jetro (2007), Japans outward FDI, based on reports and notifications, DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT ĐTNN FDI GDP IMF JETRO JIBIC JICA KCN KCX MPI NSNN ODA OECD R&D SME UBND VCCI WB WEF WTO XTĐT Đầu tư nước ngoài. Đầu tư trực tiếp nước ngoài. Tổng sản phẩm quốc nội. Quĩ tiền tệ thế giới. Tổ chức xúc tiến thương mại Nhật Bản. Ngân hàng hợp tác quốc tế Nhật Bản. Văn phòng hợp tác quốc tế Nhật Bản. Khu công nghiệp. Khu chế xuất. Bộ kế hoạch và đầu tư. Ngân sách nhà nước. Viện trợ phát triển chính thức. Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế. Nghiên cứu và phát triển. Doanh nghiệp vừa và nhỏ. Uỷ ban nhân dân. Phòng thương mại và công nghiệp Việt Nam. Ngân hàng thế giới. Diễn đàn kinh tế thế giới. Tổ chức thương mại thế giới. Xúc tiến đầu tư. DANH MỤC ĐỒ THỊ, BẢNG BIỂU Đồ thị Đồ thị 1: FDI của Nhật Bản vào Việt Nam (1989-2006). Đồ thị 2: Cơ cấu vốn FDI đăng kí vào Việt Nam (1988-2007). Đồ thị 3: Cơ cấu FDI Nhật Bản vào châu Á (từ 1989 đến nay). Đồ thị 4: Cơ cấu vốn FDI của Nhật Bản vào Việt Nam theo ngành (1994-2007). Đồ thị 5: Cơ cấu vốn FDI của Nhật Bản vào Việt Nam trong ngành công nghiệp và xây dựng (1989-2007). Đồ thị 6: Cơ cấu vốn FDI Nhật Bản vào Việt Nam theo địa phương (1989-2007). Đồ thị 7: Cơ cấu FDI Nhật Bản vào Việt Nam theo hình thức đầu tư (1994-2006) Bảng biểu Bảng 1: Xếp hạng môi trường đầu tư trong trung hạn (2000-2006). Bảng 2: Đánh giá của nhà đầu tư Nhật Bản về khả năng phân tán rủi ro của các nước châu Á năm 2006. Bảng 3: Tỉ lệ doanh nghiệp Nhật Bản có kế hoạch mở rộng đầu tư (2006). Bảng 4: Đánh giá tiềm năng tăng trưởng thị trường của một số nước châu Á (2006). Bảng 5: Đánh giá của nhà đầu tư Nhật Bản về môi trường đầu tư (2005-2006). MỤC LỤC ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc14065.doc