Giải pháp hoàn thiện công tác phân tích tài chính tại Công ty XNK các sản phẩm cơ khí - MECANIMEX

Lời nói đầu Trong điều kiện kinh tế thị trường, các doanh nghiệp muốn tồn tại, đứng vững và ngày càng phát triển, đòi hỏi phải có một tiềm lực tài chính mạnh mẽ để tiến hành sản xuất kinh doanh và cạnh tranh có hiệu quả. Mặt khác, theo đà phát triển của nền kinh tế, các mối quan hệ kinh tế tài chính ngày càng trở nên mới mẻ, phong phú và đa dạng. Vì vậy, vấn đề đặt ra cho các doanh nghiệp là phải thường xuyên tiến hành công tác phân tích tài chính và không ngừng hoàn thiện công tác này, trên c

doc67 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1168 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Giải pháp hoàn thiện công tác phân tích tài chính tại Công ty XNK các sản phẩm cơ khí - MECANIMEX, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ơ sở đó, định hướng cho các quyết định nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh, cải thiện tình hình tài chính của doanh nghiệp. Thực tiễn đã cho thấy, nếu các nhà quản trị doanh nghiệp quan tâm đúng mức tới công tác phân tích tài chính thì họ sẽ có những quyết định đúng đắn và thành đạt trong kinh doanh, ngược lại họ sẽ khó tránh khỏi những sai lầm và thất bại. Việt nam đang trong quá trình đổi mới, hội nhập kinh tế khu vực và thế giới. Điều này đòi hỏi các doanh nghiệp trong nước phải nỗ lực không ngừng trong việc nâng cao năng lực cạnh tranh và hiệu quả quản lý tài chính doanh nghiệp. Đặc biệt là trong công tác phân tích tài chính doanh nghiệp. Mặc dù hiện nay công tác phân tích tài chính doanh nghiệp đã bước đầu được các doanh nghiệp quan tâm, thực hiện song những vướng mắc gặp phải là không nhỏ và đã làm hạn chế nhiều đến hiệu quả của công tác này. Nhận thức được tầm quan trọng của công tác trên, qua một thời gian thực tập tại: Công ty xuất nhập khẩu các sản phẩm cơ khí - Mecanimex, với sự giúp đỡ của Ban giám đốc, các bác, các cô chú, anh chị trong Công ty em đã lựa chọn đề tài: “Giải pháp hoàn thiện công tác phân tích tài chính tại Công ty xuất nhập khẩu các sản phẩm cơ khí - Mecanimex” làm đề tài cho chuyên đề thực tập tốt nghiệp. Mục đích nghiên cứu Nghiên cứu vai trò của công tác phân tích tài chính đối với hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Nghiêu cứu các phương pháp và nội dung phân tích tài chính doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường. Phân tích thực trạng tình hình tài chính, từ đó chỉ ra những hạn chế, tồn tại công tác phân tích tài chính tại Công ty MECANIMEX. Đưa ra một số giải pháp cơ bản nhằm hoàn thiện công tác phân tích tài chính doanh nghiệp tại Công ty MECANIMEX. Phương pháp nghiên cứu Phương pháp nghiên cứu được sử dụng gồm: Phương pháp duy vật biện chứng, duy vật lịch sử, phương pháp phân tích, tổng hợp thống kê. Kết cấu chuyên đề thực tập được trình bày theo 3 chương: Chương 1: Những vấn đề cơ bản về phân tích tài chính doanh nghiệp Chương 2: Thực trạng công tác phân tích tài chính tại Công ty xuất nhập khẩu các sản phẩm cơ khí Chương 3: Một số giải pháp hoàn thiện công tác phân tích tài chính tại Công ty xuất nhập khẩu các sản phẩm cơ khí Chương 1: những vấn đề cơ bản về phân tích tài chính doanh nghiệp 1.1. Sự cần thiết của phân tích tài chính doanh nghiệp 1.1.1. Hoạt động tài chính doanh nghiệp Doanh nghiệp là một tổ chức kinh tế độc lập, có tư cách pháp nhân hoạt động sản xuất kinh doanh trên thị trường vì mục tiêu tối đa hoá lợi nhuận, tối đa hoá giá trị chủ sở hữu của doanh nghiệp. Doanh nghiệp được phân chia theo hình thức khác nhau. Trong phạm vi nghiên cứu về tài chính và các quan hệ tài chính, doanh nghiệp được phân chia theo hình thức sở hữu thành nhiều các loại hình như: doanh nghiệp Nhà nước, công ty cổ phần, công ty liên doanh, doanh nghiệp có 100% vốn đầu tư nước ngoài... Mỗi loại hình doanh nghiệp đều có những ưu điểm và nhược điểm riêng do đặc thù của hoạt động sản xuất kinh doanh quyết định, song về bản chất nội dung của hoạt động tài chính và quản lý tài chính là cơ bản giống nhau. Mỗi doanh nghiệp từ khi thành lập và đăng ký kinh doanh đã phải xác định cho mình những vấn đề sau: Xác định ngành nghề và mặt hàng kinh doanh. Xác định quy mô và phạm vi hoạt động. Xác định nguồn vốn cần thiết cho hoạt động kinh doanh, Lên các phương án, kế hoạch chiến lược kinh doanh trong ngắn hạn và dài hạn. Các vấn đề trên chỉ được thực hiện khi doanh nghiệp tiến hành các hoạt động tài chính. Hoạt động tài chính doanh nghiệp là một nội dung quan trọng trong quản trị doanh nghiệp. Hoạt động này nhằm thực hiện các mục tiêu của doanh nghiệp đó là: tối đa hoá lợi nhuận, tối đa hoá giá trị doanh nghiệp, hay mục tiêu tăng trưởng, phát triển... Hoạt động tài chính doanh nghiệp trả lời cho các câu hỏi sau: Nên đầu tư dài hạn vào đâu và bao nhiêu cho phù hợp với loại hình sản xuất kinh doanh đã lựa chọn. Đây chính là chiến lược đầu tư dài hạn của doanh nghiệp và là cơ sở dự toán vốn đầu tư? Nguồn vốn tài trợ được huy động ở đâu, vào thời điểm nào với một cơ cấu vốn tối ưu và chi phí vốn thấp nhất? Lợi nhuận thu được từ hoạt động sản xuất kinh doanh được sử dụng như thế nào? Phân tích, đánh giá, kiểm tra hoạt động tài chính như thế nào, để thường xuyên đảm bảo trạng thái cân bằng tài chính? Quản lý hoạt động tài chính ngắn hạn như thế nào để đưa ra những quyết định thu, chi phù hợp? Hoạt động tài chính doanh nghiệp được khái quát qua sơ đồ sau: Bảng cân đối kế toán đầu kỳ Kết quả kinh doanh Kết quả bằng tiền Doanh thu Chi phí Thuế Lợi nhuận Thu Chi Cân đối Báo cáo kết quả kinh doanh Báo cáo lưu chuyển tiền tệ Bảng cân đối kế toán cuối kỳ Hoạt động tài chính là quá trình tìm tòi, nghiên cứu các nguồn lực nhằm biến các lợi ích dự kiến thành hiện thực cho một khoảng thời gian đủ dài trong tương lai. Đó là quá trình dự toán vốn đầu tư và quyết định đầu tư dài hạn. Phân tích rủi ro, lạm phát ảnh hưởng tới quy mô, thời hạn của các dòng tiền trong tương lai là vấn đề cốt lõi nhất của dự toán vốn đầu tư. 1.1.2 Tầm quan trọng của phân tích tài chính doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường Phân tích tài chính là sử dụng một tập hợp các khái niệm, phương pháp và các công cụ cho phép xử lý các thông tin kế toán và những thông tin khác về quản lý nhằm đánh giá tình hình tài chính của một doanh nghiệp, đánh giá rủi ro, mức độ và chất lượng hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp đó. Quy trình thực hiện phân tích tài chính ngày càng được áp dụng rộng rãi trong mọi đơn vị kinh tế được tự chủ nhất định về tài chính như các doanh nghiệp thuộc mọi hình thức, được áp dụng trong các tổ chức xã hội, tập thể và các cơ quản lý, tổ chức công cộng. Đặc biệt với sự phát triển của các doanh nghiệp, ngân hàng và của thị trường vốn đã tạo nhiều cơ hội để công tác phân tích tài chính chứng tỏ thực sự là có ích lợi và vô cùng cần thiết. Thông qua việc tính toán các chỉ tiêu tài chính đặc trưng và các mối quan hệ chiến lược, phân tích tài chính giúp những người sử dụng thông tin đánh giá chính xác sức mạnh tài chính, khả năng sinh lãi và triển vọng phát triển của doanh nghiệp. Do vậy, phân tích tài chính doanh nghiệp mà trọng tâm là phân tích các Báo cáo tài chính là mối quan tâm của rất nhiền nhóm người khác nhau. Tuỳ thuộc vào nhu cầu thông tin khác nhau mà mỗi nhóm người quan tâm lại tập trung vào những khía cạnh riêng trong bức tranh tài chính của doanh nghiệp. Đối với nhà quản trị doanh nghiệp Đối với nhà quản trị doanh nghiệp, mối quan tâm hàng đầu của họ là tìm kiếm lợi nhuận và khả năng thanh toán các khoản nợ. Bên cạnh đó, nhà quản trị doanh nghiệp cũng quan tâm đến các mục tiêu khác như: tạo công ăn việc làm cho người lao động, nâng cao chất lượng sản phẩm, cung cấp nhiều sản phẩm hàng hoá, dịch vụ với chi phí thấp, đóng góp phúc lợi xã hội... Như vậy, hơn ai hết các nhà quản trị doanh nghiệp cần có đủ thông tin nhằm đánh giá hoạt động sản xuất kinh doanh, hiểu rõ thực trạng tài chính, xác định điểm mạnh, điểm yếu của doanh nghiệp. Đó chính là cơ sở để định hướng các quyết định của Ban giám đốc, Giám đốc tài chính, dự báo tài chính: kế hoạch đầu tư, ngân quỹ và kiểm soát các hoạt động quản lý, ... Đối với nhà đầu tư Đây là những doanh nghiệp, cá nhân quan tâm trực tiếp đến tính toán giá trị của doanh nghiệp, họ giao vốn cho doanh nghiệp sử dụng và sẽ chịu chung mọi rủi ro mà doanh nghiệp có thể gặp phải. Thu nhập của nhà đầu tư bao gồm: tiền chia lợi tức và giá trị tăng thêm của vốn đầu tư (giá trị cổ phiếu). Hai yếu tố này chịu ảnh hưởng của lợi nhuận kỳ vọng của doanh nghiệp. Các nhà đầu tư lớn thường dựa vào các nhà chuyên môn - những chuyên gia phân tích tài chính, nghiên cứu kinh tế về tài chính để phân tích và làm dự báo triển vọng của doanh nghiệp, đánh giá cổ phiếu của doanh nghiệp. Đối với các nhà đầu tư hiện tại và các nhà đầu tư tiềm năng, thì mối quan tâm trước hết của họ là việc đánh giá những đặc điểm đầu tư của doanh nghiệp. Họ quan tâm tới phân tích tài chính để nhận biết khả năng sinh lời của doanh nghiệp. Đó là một trong những căn cứ giúp họ ra quyết định bỏ vốn vào doanh nghiệp hay không? Đối với người cho vay Người cho vay phân tích tài chính để nhận biết khả năng vay và trả nợ của khách hàng. Chẳng hạn, để quyết định cho vay, một trong những vấn đề mà người cho vay cần xem xét là doanh nghiệp có thực sự có nhu cầu vay hay không? Khả năng trả nợ của doanh nghiệp như thế nào? Vì vậy, họ đặc biệt quan tâm tới số tiền và các tài sản khác có thể chuyển đổi thành tiền nhanh chóng. Từ đó so sánh với số nợ ngắn hạn để biết được khả năng thanh toán nhanh của doanh nghiệp. Ngoài ra, người cho vay cũng chú ý tới giá trị vốn chủ sở hữu bởi vì nguồn vốn này chính là khoản bảo hiểm cho họ trong trường hợp doanh nghiệp gặp phải rủi ro. Những người cho vay cũng quan tâm tới khả năng sinh lãi của doanh nghiệp vì đó là cơ sở của việc hoàn trả vốn gốc và lãi vay dài hạn. Các đối tượng khác Ngoài ra, phân tích tài chính cũng rất cần thiết đối với một số đối tượng khác như: Đối với người lao động: Bên cạnh các nhà quản trị doanh nghiệp, nhà đầu tư, các chủ nợ của doanh nghiệp, người lao động được hưởng lương trong doanh nghiệp cũng rất quan tâm đến thông tin tài chính của doanh nghiệp. Điều này dễ hiểu bởi kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp sẽ có tác động trực tiếp tới tiền lương và các khoản thu nhập khác của người lao động. Ngoài ra, trong một số doanh nghiệp, người lao động được tham gia góp vốn mua một lượng cổ phần nhất định. Như vậy họ cũng là chủ doanh nghiệp nên có quyền lợi và trách nhiệm gắn với doanh nghiệp. Đối với các cơ quan quản lý nhà nước về kinh tế (cục thuế, các bộ chủ quản, thanh tra, cảnh sát kinh tế, luật sư...). Dù hộ công tác ở các lĩnh vực khác nhau, nhưng họ đều muốn hiểu biết về hoạt động của doanh nghiệp để thực hiện tốt hơn công việc của họ. Công tác phân tích tài chính doanh nghiệp Tổ chức công tác phân tích tài chính doanh nghiệp Như đã trình bày ở trên, công tác phân tích tài chính doanh nghiệp thực sự đóng vai trò quan trọng, có ý nghĩa quyết định tới hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Để có được những thông tin đầy đủ, chính xác cho việc ra quyết định đối với người sử dụng thông tin thì công tác phân tích tài chính cần phải được tổ chức, thực hiện theo một quy trình hoàn thiện với nguồn thông tin chất lượng, với phương pháp và nội dung phân tích phù hợp, khoa học. Cụ thể, có thể tiến hành công tác phân tích tài chính doanh nghiệp theo các bước sau: Bước 1: Chuẩn bị cho công tác phân tích Xác định mục tiêu, kế hoạch phân tích, từ đó lập ra các kế hoạch chi tiết về: nguồn thông tin sử dụng, thời gian tiến hành phân tích, số lượng nhân sự phục vụ cho công tác phân tích, tổ chức phân công công việc khoa học... Lập kế hoạch phối hợp giữa các bộ phận trong quá trình phân tích. Lựa chọn các phương pháp và nội dung phân tích nhằm đảm bảo hoàn thành mục tiêu đề ra. Thu thập và xử lý sơ bộ các nguồn thông tin bên trong và bên ngoài doanh nghiệp. Bước 2: Tiến hành phân tích Tính toán các chỉ tiêu, nhóm chỉ tiêu tài chính cần thiết. Trên cơ sở đó, tuỳ theo góc độ nghiên cứu khác nhau sẽ đi sâu vào phân tích các nội dung có liên quan. Lập bảng biểu để so sánh, phân tích các chỉ tiêu đã tính toán, nhằm tìm ra nguyên nhân gây ra thực trạng của tình hình tài chính. Bước 3: Báo cáo kết quả phân tích Đưa ra nhận xét, đánh giá về kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Dựa vào đó, đề xuất những giải pháp nhằm phát huy những thành công và khắc phục những hạn chế. Lập kế hoạch, dự báo tài chính cho năm tới 1.2.2.Trình tự các bước tiến hành phân tích tài chính doanh nghiệp 1.2.2.1. Thu thập thông tin Đây là bước đầu tiên và có ý nghĩa xuyên suốt quá trình phân tích tài chính doanh nghiệp. Trong bước này, căn cứ mục đích của công tác phân tích tài chính, nhà phân tích sẽ lựa chọn những nguồn thông tin phù hợp. Có rất nhiều nguồn khác nhau để thực hiện "thu thập thông tin" từ thông tin nội bộ đến thông tin bên ngoài doanh nghiệp, từ thông tin kế toán đến các thông tin quản lý khác, những thông tin về số lượng và giá trị... Những thông tin đó đều giúp cho nhà phân tích có thể đưa ra được những nhận xét, kết luận tinh tế và chính xác. Tuy nhiên, để đánh giá một cách cơ bản tình hình tài chính của doanh nghiệp, thì thông tin kế toán trong nội bộ doanh nghiệp là một nguồn thông tin quan trọng nhất. Do vậy, có thể hiểu một cách đơn giản, thực chất của công tác phân tích tài chính doanh nghiệp là tiến hành phân tích các Báo cáo tài chính của doanh nghiệp. 1.2.2.2. Xử lý thông tin Đây là bước thứ hai tiếp sau quá trình thu thập thông tin. Trong bước này, nhà phân tích sẽ tiến hành nghiên cứu và xử lý nguồn thông tin đã thu thập được bằng những công cụ và phương pháp nhất định nhằm tính toán, so sánh, giải thích, đánh giá, xác định các nguyên nhân của các kết quả đạt được và xu hướng vận động của các đối tượng phục vụ cho quá trình tiếp theo. Nhưng phân tích tài chính sẽ không có ý nghĩa khi chỉ đơn thuần là công việc tổng hợp và sắp xếp số liệu trong khi các đối tượng tài chính cần nghiên cứu lại luôn luôn biến động về số lượng và trạng thái tồn tại. Cho nên ở bước này, các nhà phân tích tài chính phải biết đặt một đối tượng tài chính này trong mối quan hệ biện chứng với các đối tượng khác và trong mối liên hệ với các tiêu chuẩn, các định mức tài chính và kinh tế. Ví dụ, để hợp đồng tín dụng của doanh nghiệp được chấp nhận thì chủ Ngân hàng phải xem xét, thẩm định về khả năng thanh toán của doanh nghiệp trong quá khứ và hiện tại, cũng như về khả năng sinh lời cần thiết trong tương lai từ hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Do đó, các tiêu chuẩn mà doanh nghiệp cần phải đáp ứng chính là duy trì một lượng ngân quỹ hợp lý; lên kế hoạch sử dụng nguồn vốn, quản lý tài sản, kế hoạch về thu nhập, chi phí ... Mỗi đối tượng đều đưa ra cho doanh nghiệp những tiêu chuẩn khác nhau song nhìn chung, đều nhằm vào 4 mục tiêu: khả năng sinh lợi, khả năng thanh toán, khả năng cân đối tài chính và mức độ rủi ro. 1.2.2.3. Đánh giá và dự báo Đây là bước cuối cùng, là mục tiêu của công tác phân tích tài chính doanh nghiệp. Nếu như hai bước trên được thực hiện theo đúng thứ tự và đúng nguyên tắc thì kết quả của bước này chỉ còn phụ thuộc vào trình độ chuyên môn của nhà phân tích. Tóm lại, công tác phân tích tài chính được thực hiện sẽ xây dựng lên bức tranh toàn cảnh về hoạt động sản xuất kinh doanh nói chung và hoạt động tài chính nói riêng của doanh nghiệp. Qua đó, mỗi đối tượng khác nhau khi sử dụng các kết quả phân tích để đưa ra các quyết định riêng của mình trong tương lai đáp ứng mục tiêu đã lựa chọn ở bước một. Đối với chủ doanh nghiệp và nhà quản trị doanh nghiệp: đó là quyết định có liên quan tới mục tiêu tổng thể của doanh nghiệp. Đối với các nhà đàu tư và chủ nợ của doanh nghiệp: đó là các quyết định tài trợ và đầu tư. Đối với các cơ quan quản lý nhà nước về kinh tế: đó là các quyết định quản lý doanh nghiệp. 1.2.3. Thông tin sử dụng trong phân tích tài chính doanh nghiệp 1.2.3.1. Thông tin từ hệ thống kế toán Như đã đề cập ở trên, công tác phân tích tài chính doanh nghiệp sử dụng chủ yếu các số liệu kế toán được phản ánh trong các Báo cáo tài chính. Báo cáo tài chính là những báo cáo được lập dựa vào phương pháp kế toán tổng hợp các số liệu từ các sổ kế toán, theo các chỉ tiêu tài chính phát sinh tại những thời điểm hoặc thời kỳ nhất định. Bảng cân đối kế toán: là bảng tổng hợp - cân đối tổng thể phản ánh tình hình vốn kinh doanh của đơn vị cả về tài sản và nguồn vốn ở một thời điểm nhất định, thường là ngày cuối cùng của năm tài chính. Đây là tài liệu có ý nghĩa quan trọng đối với mọi đối tượng có quan hệ sở hữu, quan hệ kinh doanh và quan hệ quản lý, đánh giá một cách tổng quát tình hình và kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh, trình độ sử dụng vốn và triển vọng của doanh nghiệp. Thông thường, Bảng cân đối kế toán được trình bày dưới dạng bảng cân đối số dư trên các tài khoản kế toán: một bên phản ánh tài sản và một bên phản ánh nguồn vốn của doanh nghiệp. Báo cáo kết quả kinh doanh: Một thông tin không kém phần quan trọng được sử dụng trong phân tích tài chính là thông tin phản ánh trong Báo cáo kết quả kinh doanh. Khác với bảng cân đối kế toán, Báo cáo kết quả kinh doanh cho biết sự dịch chuyển của tiền trong quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp và cho phép dự tính khả năng hoạt động của doanh nghiệp trong tương lai. Báo cáo kết quả kinh doanh cũng giúp nhà phân tích so sánh doanh thu với số tiền thực nhập quỹ khi bán hàng hoá, dịch vụ; so sánh tổng chi phí phát sinh với số tiền thực xuất quỹ để vận hành doanh nghiệp. Trên cơ sở doanh thu và chi phí, có thể xác định được kết quả sản xuất kinh doanh: lãi hay lỗ trong năm. Như vậy, Báo cáo kết quả kinh doanh phản ánh kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh, phản ánh tình hình tài chính của doanh nghiệp trong một thời kỳ nhất định. Nó cung cấp những thông tin tổng hợp về tình hình và kết quả sử dụng các tiềm năng về vốn, lao động, kỹ thuật và trình độ quản lý sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Báo cáo lưu chuyển tiền tệ: Để đánh giá một doanh nghiệp có đảm bảo được chi trả hay không, cần tìm hiểu tình hình Ngân quỹ của doanh nghiệp. Ngân quỹ thường được xác định cho thời hạn ngắn (thường là từng tháng). Tình hình ngân quỹ của doanh nghiệp được phản ánh trên Báo cáo lưu chuyển tiền tệ. Báo cáo lưu chuyển tiền tệ là báo cáo tài chính tổng hợp phản ánh việc hình thành và sử dụng lượng tiền phát sinh trong kỳ báo cáo của doanh nghiệp. Bản thuyết minh các báo cáo tài chính: đây là một báo cáo quan trọng của bất kỳ một doanh nghiệp nào trong nền kinh tế, có tính chất bổ sung, hoàn thiện thông tin cho ba Báo cáo tài chính trên. Đó là những thông tin về đặc điểm hoạt động kinh doanh (hình thức sở hữu vốn, hình thức hoạt động, lĩnh vực kinh doanh...), chế độ kế toán áp dụng tại doanh nghiệp, chi tiết một số chỉ tiêu trong các Báo cáo tài chính (chi phí sản xuất kinh doanh, tình hình tăng giảm tài sản cố định, tình hình thu nhập của công nhân viên, tình hình tăng giảm nguồn vốn chủ sở hữu, các khoản phải thu và nợ phải trả...). 1.2.3.2. Các nguồn thông tin khác Ngoài nguồn thông tin từ các Báo cáo tài chính, công tác phân tích tài chính còn cần phải sử dụng nhiều nguồn thông tin khác từ bên ngoài doanh nghiệp để các kết luận phân tích tài chính có tính thuyết phục cao. Các nguồn thông tin khác được chia thành các nhóm sau: Thông tin liên quan đến tình hình kinh tế: Hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp chịu tác động của nhiều yếu tố thuộc môi trường vĩ mô nên khi tiền hành phân tích tài chính cần phải đặt trong bối cảnh chung của nền kinh tế trong nước và khu vực. Kết hợp những thông tin này giúp cho các nhà quản trị doanh nghiệp có những đánh giá đầy đủ hơn tình hình tài chính và dự báo chính xác hơn những nguy cơ, cơ hội đối với hoạt động của doanh nghiệp. Những thông tin cần quan tâm là: Thông tin về tăng trưởng, suy thoái kinh tế. Thông tin về lãi xuất Ngân hàng, tỷ giá ngoại tệ. Thông tin về tỷ lệ lạm phát. Các chính sách kinh tế, chính trị. ngoại giao lớn của Nhà nước. Thông tin theo ngành Ngoài những thông tin về môi trường vĩ mô, những thông tin liên quan đến ngành, lĩnh vực kinh doanh cũng cần được chú trọng. Mức độ và yêu cầu công nghệ của ngành. Mức độ cạnh tranh và quy mô của thị trường. Nhịp độ và xu hướng vận động của ngành. Nguy cơ xuất hiện những đối thủ cạnh tranh tiềm tàng. Những thông tin trên sẽ làm rõ hơn nội dung các chỉ tiêu tài chính trong từng ngành, lĩnh vực kinh doanh, đánh giá rủi ro kinh doanh của doanh nghiệp. Thông tin về đặc điểm hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp Do mỗi doanh nghiệp có những đặc điểm riêng trong hoạt động sản xuất kinh doanh và trong định hướng phát triển nên để đánh giá hợp lý tình hình tài chính, các nhà phân tích cần nghiên cứu kỹ lưỡng đặc điểm sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp mình. Cụ thể là: Mục tiêu và chiến lược hoạt động của doanh nghiệp gồm cả chiến lược tài chính và chiến lược kinh doanh. Đặc điểm quá trình luân chuyển vốn của doanh nghiệp. Tính chu kỳ trong hoạt động sản xuất kinh doanh. Mối liên hệ giữa doanh nghiệp với nhà cung cấp, khách hàng, Ngân hàng v.v... Các chính sách hoạt động khác. Phương pháp phân tích tài chính doanh nghiệp Phương pháp so sánh: Phương pháp so sánh được sử dụng phổ biến trong phân tích hoạt động kinh doanh cũng như trong phân tích tài chính của doanh nghiệp. Phương pháp này dùng để xác định xu hướng phát triển và mức độ biến động của các chỉ tiêu phân tích. Khi sử dụng phương pháp này cần phải nắm chắc các nguyên tắc sau: Lựa chọn tiêu chuẩn để so sánh: Tiêu chuẩn so sánh là chỉ tiêu của một kỳ được lựa chọn làm căn cứ để so sánh được gọi là gốc so sánh. Tuỳ theo mục đích của nghiên cứu mà lựa chọn gốc so sánh thích hợp. Các gốc so sánh có thể là: Tài liệu ở nhiều năm trước đây (kỳ trước), thông thường tài liệu phân tích được tổ chức từ 3 đến 5 năm liền kề: Các mục tiêu đã dự kiến (kế hoạch, dự toán, định mức). Các chỉ tiêu trung bình của ngành, các chỉ tiêu của các doanh nghiệp khác cùng ngành. Các chỉ tiêu của kỳ được so sánh với kỳ gốc được gọi là chỉ tiêu kỳ thực hiện và là kết quả mà doanh nghiệp đã đạt được. Điều kiện so sánh Để phép so sánh có ý nghĩa thì điều kiện tiên quyết là các chỉ tiêu được sử dụng phải đồng nhất về cả thời gian và không gian. Về mặt thời gian: Các chỉ tiêu phải được tính trên cùng một khoảng thời gian hạch toán và phải thống nhất trên 3 mặt sau: Phải cùng phản ánh một nội dung kinh tế Phải cùng một phương pháp tính toán Phải cùng một đơn vị đo lường Về mặt không gian: Các chỉ tiêu cần phải quy đổi về cùng một quy mô và điều kiện kinh doanh tương tự nhau. 1.2.4.2. Phương pháp tỷ số: Phương pháp truyền thống được sử dụng phổ biến trong phân tích tài chính là phương pháp phân tích tỷ số. Phương pháp này dựa trên ý nghĩa chuẩn mực của các đại lượng tài chính trong các quan hệ tài chính. Mỗi sự biến đổi của các tỷ số cố nhiên sẽ là sự biến động của các đại lượng tài chính. Về nguyên tắc, phương pháp tỷ số yêu cầu phải xác định được các định mức, các ngưỡng để nhận xét đánh giá tình hình hoạt động tài chính của doanh nghiệp trên cơ sở các tỷ lệ nhất định. Các ngưỡng này còn gọi là các tỷ lệ tham chiếu. Trong phân tích tài chính doanh nghiệp các tỷ số tài chính được phân chia thành các nhóm chỉ tiêu đặc trưng, phản ánh những nội dung cơ bản theo mục tiêu hoạt động của doanh nghiệp. Tuỳ theo mục tiêu phân tích mà các nhà phân tích tài chính lựa chọn những chỉ tiêu và nhóm chỉ tiêu phù hợp. 1.2.4.3. Phương pháp phân tích Dupont Phương pháp phân tích Dupont được Công ty Dupont của Mỹ đưa vào sử dụng trong phân tích tài chính lần đầu tiên vào khoảng Chiến tranh Thế giới lần thứ nhất. Ngay sau đó, phương pháp này đã nhanh chóng thu hút được sự chú ý của giới chuyên môn vì tính hữu dụng của nó và dưới nhiều hình thức, được áp dụng rộng rãi tại các công ty lớn của Mỹ. Mục đích của phương pháp là cung cấp cho các nhà quản trị doanh nghiệp một thước đo kết quả hoạt động tổng hợp dưới dạng một tỷ lệ thu nhập trên khoản đầu tư ROI (return on investment)- phản ánh khả năng sinh lợi của doanh nghiệp. Hai dạng phổ biến của ROI là ROA và ROE. Ưu điểm lớn nhất của phương pháp Dupont so với phương pháp phân tích tỷ số và phương pháp so sánh là ở chỗ phương pháp Dupont không chỉ đừng lại ở phản ánh các hiện tượng tài chính mà cố gắng tìm hiểu và tiếp cận các nguyên nhân gây ra hiện tượng đó thông qua phân tích một tỷ lệ sơ cấp (phản ánh hiện tượng) thành tích của các tỷ lệ thứ cấp (phản ánh nguyên nhân), sau đó tỷ lệ thứ cấp đó lại trở thành tỷ lệ sơ cấp cho một sự phân tích tiếp theo. Cứ như vậy ta sẽ có một chuỗi các tỷ lệ quan hệ nhân quả với nhau mà sự thay đổi của tỷ lệ sau là nguyên nhân gây ra sự thay đổi của tỷ lệ trước. Thông qua đó xác định nhân tố nào là nguyên nhân chính gây ra biến động của chỉ tiêu được phản ánh ở tỷ lệ sơ cấp. Quá trình phân tích có thể được lặp lại tuỳ theo nhu cầu và khả năng của người phân tích và thường được biểu thị bằng một biểu đồ phân nhánh. Sau đây là một biểu đồ đơn giản nhất được công ty Dupont đưa ra lần đầu tiên, do vậy có tên là biểu đồ Dupont: Biểu đồ Dupont ROI Lãi ròng trên doanh thu Doanh thu trên tổng tài sản Nhân với Lãi ròng Doanh thu Doanh thu Tổng tài sản Lãi gộp TSCĐ TSLĐ Các chi phí: Bán hàng Quản lý Khác Thuế thu nhập Vốn chủ sở hữu Nợ dài hạn Nợ ngắn hạn Chia cho Chia cho Cộng Trừ đi Tương đương Cộng Trừ đi Cộng Nội dung phân tích tài chính doanh nghiệp Phân tích tài chính doanh nghiệp bao gồm các nội dung sau: Phân tích Báo cáo tài chính. Phân tích các tỷ số tài chính đặc trưng. Phân tích diễn biến nguồn vốn và tình hình sử dụng nguồn vốn. Phân tích tình hình đảm bảo nguồn vốn kinh doanh. Phân tích các Báo cáo tài chính Báo cáo tài chính là những báo cáo được lập dựa vào phương pháp kế toán tổng hợp các số liệu từ các sổ kế toán, theo các chỉ tiêu tài chính phát sinh tại những thời điểm hoặc thời kỳ nhất định. Tiến hành phân tích Báo cáo tài chính, người sử dụng thông tin sẽ có được cái nhìn tổng quát nhất về thực trạng tình hình tài chính của doanh nghiệp. Thông qua việc so sánh các khoản mục trong Báo cáo tài chính sẽ thấy được mức độ biến động về khối lượng, quy mô của các khoản mục, xu hướng phát triển... từ đó đánh giá tình hình tài chính của doanh nghiệp là tăng trưởng hay suy thoái. Phân tích các chỉ tiêu tài chính Trong phân tích tài chính, các tỷ số tài chính chủ yếu thường được phân thành 4 nhóm: Tỷ số về khả năng thanh toán: Đây là nhóm chỉ tiêu thường sử dụng để đánh giá khả năng đáp ứng các khoản nợ ngắn hạn của doanh nghiệp. Tỷ số về khả năng hoạt động: Đây là nhóm chỉ tiêu đặc trưng cho việc sử dụng tài nguyên, nguồn lực của doanh nghiệp. Tỷ số về khả năng cân đối vốn hoặc cơ cấu vốn: Nhóm chỉ tiêu này phản ánh mức độ ổn định và tự chủ tài chính cũnh như khả năng sử dụng nợ vay của doanh nghiệp. Tỷ số về khả năng sinh lãi: Nhóm chỉ tiêu này phản ánh hiệu quả sản xuất kinh doanh tổng hợp nhất của doanh nghiệp. Tuỳ theo mục tiêu phân tích tài chính mà nhà phân tích chú trọng nhiều hơn tới nhóm chỉ tiêu này hay nhóm chỉ tiêu khác. Chẳng hạn, các chủ nợ ngắn hạn đặc biệt quan tâm tới tình hình khả năng thanh toán của người vay. Trong khi đó, các nhà đầu tư dài hạn quan tâm nhiều hơn đến khả năng hoạt động và hiệu quả sản xuất kinh doanh. Họ cũng cần nghiên cứu tình hình và khả năng thanh toán để đánh giá khả năng của doanh nghiệp đáp ứng nhu cầu thanh toán hiện tại và xem xét lợi nhuận để dự tính khả năng trả nợ cuối cùng của doanh nghiệp. Bên cạnh đó, họ cũng chú trọng tới tỷ số về cơ cấu vốn vì sự thay đổi này sẽ ảnh hưởng tới đáng kể lợi ích của họ. Mỗi nhóm tỷ số trên bao gồm nhiều tỷ số và trong từng trường hợp các tỷ số được lựa chọn sẽ phụ thuộc vào bản chất, quy mô của hoạt động phân tích tài chính. 1.2.5.2.1. Tỷ số về khả năng thanh toán. Tỷ số khả năng thanh toán hiện hành: Khả năng thanh toán hiện hành = Tổng TSLĐ Nợ ngắn hạn Đây là thước đo khả năng thanh toán ngắn hạn của doanh nghiệp, phản ánh mức độ các khoản nợ ngắn hạn của các chủ nợ ngắn hạn được trang trải bằng bao nhiêu lần các loại tài sản có thể chuyển đổi thành tiền trong một thời gian tương đương với thời hạn của khoản nợ đó. Tài sản lưu động thông thường bao gồm: tiền, các chứng khoán ngắn hạn dễ chuyển nhượng (tương đương tiền), các khoản phải thu và dự trữ (tồn kho); còn Nợ ngắn hạn thường bao gồm: các khoản vay ngắn hạn Ngân hàng và các tổ chức tín dụng khác, các khoản phải trả nhà cung cấp, các khoản phải trả, phải nộp khác v.v... Cả tài sản lưu động và nợ ngắn hạn đều có một thời hạn nhất định - dưới một năm. Tỷ số khả năng thanh toán nhanh: Khả năng thanh toán nhanh = TSLĐ - Dự trữ Nợ ngắn hạn Đây là tỷ số giữa các tài sản quay vòng nhanh với Nợ ngắn hạn. Đó là các tài sản như: tiền, chứng khoán ngắn hạn, các khoản phải thu. Tài sản dự trữ (tồn kho) là các tài sản khó chuyển thành tiền hơn cả trong tổng tài sản lưu động và dễ bị lỗ nhất nếu được bán. Do vậy, tỷ số khả năng thanh toán nhanh cho biết khả năng hoàn trả các khoản nợ ngắn hạn không phụ thuộc vào việc bán tài sản dự trữ. Tỷ số khả năng thanh toán tức thời: Khả năng thanh toán tức thời = Tiền Nợ đến hạn Nợ đến hạn ở đây là các khoản nợ ngắn hạn, trung hạn và dài hạn đến hạn trả nợ. Tuỳ thuộc vào ngành nghề, lĩnh vực kinh doanh khác nhau mà các doanh nghiệp có tỷ số khả năng thanh toán tức thời khác nhau. Tuy nhiên, nếu tỷ số này quá thấp thì các doanh nghiệp có thể gặp phải khó khăn trong thanh toán, còn nếu tỷ số này quá cao thì cũng không tốt vì lúc đó tiền của doanh nghiệp bị ứ đọng quá nhiều, vòng quay tiền chậm làm giảm hiệu quả sử dụng vốn. 1.2.5.2.2. Tỷ số về khả năng hoạt động Đây là nhóm chỉ tiêu được sử dụng để xem xét hiệu quả sử dụng tài sản của doanh nghiệp và hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh. Vốn của doanh nghiệp được sử dụng để đầu tư cho các loại tài sản khác nhau như: Tài sản lưu động, Tài sản cố định. Do đó, các nhà phân tích không chỉ quan tâm tới việc đo lường hiệu quả sử dụng tổng tài sản mà còn chú trọng tới hiệu quả sủ dụng của từng bộ phận cấu thành tổng tài sản của doanh nghiệp. Chỉ tiêu doanh thu thuần được sử dụng chủ yếu trong tỷ lệ này nhằm tính tốc độ quay vòng của một số đại lượng rất cần cho quản lý tài chính ngắn hạn. Các tỷ lệ này cho ta những thông tin hữu ích để đánh giá mức độ cân bằng tài chính và khả năng thanh khoản của doanh nghiệp. Vòng quay tiền: Vòng quay tiền = Doanh thu thuần Tiền + Tài sản tương đương tiền bình quân Tiền là khoản mục có tính lỏng cao nhất trong tổng tài sản của doanh nghiệp. Việc giữ tiền và các tài sản tương đương tiền đem lại cho doanh nghiệp nhiều lợi thế như chủ động trong kinh doanh, mua hàng trả tiền ngay được hưởng chiết khấu, ngoài ra khi vật tư hàng hoá rẻ doanh nghiệp có thể dự trữ với lượng lớn tạo điều kiện giảm chi phí sản xuất. Tuy nhiên, tiền được lưu trữ ở mức không hợp lý có thể gây ra nhiều bất lợi. Thứ nhất, điều kiện thiếu vốn đang phổ biến ở các doanh nghiệp thì việc giữ ._.quá nhiều tiền sẽ gây ứ đọng vốn, hạn chế khả năng đầu tư vào các tài sản khác, do đó lợi nhuận của doanh nghiệp có thể bị giảm. Thứ hai, do có gía trị theo thời gian và do chịu tác động của lạm phát, tiền sẽ bị mất giá. Vì vậy, cần quan tâm đến tốc độ vòng quay tiền sao cho đem lại khả năng sinh lợi cao nhất cho doanh nghiệp. Tỷ số này phản ánh số vòng quay của tiền trong năm, cụ thể hơn nó chỉ ra rằng với một lượng tiền nhất định dùng vào sản xuất kinh doanh đã mang lại tổng doanh thu là bao nhiêu trong một năm. Vòng quay dự trữ (tồn kho): Vòng quay dự trữ (tồn kho) = Doanh thu thuần Giá trị dự trữ bình quân Hàng tồn kho là một loại tài sản lưu động có tính chất dự trữ nhằm đảm bảo hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp được diễn ra bình thường, liên tục, đáp ứng nhu cầu thị thường qua từng thời kỳ. Do vậy, hàng tồn kho nhiều hay ít chịu sự chi phối của đặc điểm hàng hoá, đặc điểm thị trường và kế hoạch sản xuất kinh doanh cũng như sự chạy bén với nhu cầu thị trường của nhà quản trị doanh nghiệp. Nếu tỷ lệ này cao thì doanh nghiệp sẽ tạo ra khả năng tiêu thụ hàng hoá khả quan. Song nếu tỷ lệ này quá thấp thì tốc độ tiêu thụ hàng hoá bị trì trệ, giảm khả năng chi trả và lợi nhuận từ hoạt động kinh doanh. Khi đó, doanh nghiệp sẽ phải nghiên cứu để đưa ra chiến lược sản phẩm và chiến lược khách hàng thích ứng hơn. Kỳ thu tiền bình quân: Kỳ thu tiền bình quân = Các khoản phải thu x 360 Doanh thu thuần Kỳ thu tiền bình quân cho biết thông tin về khả năng thu hồi vốn trong thanh toán, đặc biệt là thu hồi khoản từ bán chịu hàng hoá. Nó chịu tác động bởi nhiều yếu tố: Chính sách bán hàng, chu kỳ sản xuất kinh doanh, chính sách tín dụng, nhu cầu xâm nhập hay mở rộng thị trường, tình trạng của nền kinh tế... Hiệu suất sử dụng tài sản cố định: Hiệu suất sử dụng tài sản cố định = Doanh thu thuần Tài sản cố định Chỉ tiêu này cho ta biết một đồng tài sản cố định của doanh nghiệp tạo ra được bao nhiêu đồng doanh thu. Tài sản cố định ở đây được xác định theo giá trị còn lại đến thời điểm lập báo cáo. Hiệu suất sử dụng tổng tài sản: Hiệu suất sử dụng tổng tài sản = Doanh thu thuần Tổng tài sản Chỉ tiêu này còn được gọi là vòng quay toàn bộ tài sản, nó cho biết một đồng tài sản đem lại bao nhiêu đồng doanh thu. 1.2.5.2.3. Tỷ số về khả năng cân đối vốn (cơ cấu tài chính) Cơ cấu tài chính là một trong những chính sách quan trọng của doanh nghiệp, là công cụ hữu hiệu giúp nhà phân tích đánh giá mức độ an toàn hay rủi ro có thể chấp nhận được và mức độ khuếch đại lợi nhuận của các khoản nợ. Bởi lẽ, các chủ nợ nhìn vào số vốn của chủ sở hữu doanh nghiệp để thể hiện mức độ tin tưởng vào sự đảm bảo an toàn cho món vay. Nếu chủ sở hữu chỉ đóng góp một phần nhỏ trong tổng nguồn vốn thì rủi ro trong sản xuất kinh doanh chủ yếu do các chủ nợ gánh chịu. Bằng cách tăng vốn thông qua vay nợ, các chủ sở hữu vẫn nắm quyền kiểm soát doanh nghiệp và điều hành doanh nghiệp. Ngoài ra, nếu doanh nghiệp thu được lợi nhuận từ tiền vay thì lợi nhuận dành cho các chủ doanh nghiệp sẽ tăng đáng kể. Công tác phân tích thường thông qua một số chỉ tiêu cơ bản sau: Tỷ số nợ trên tổng tài sản (hệ số nợ): Tỷ số nợ trên tổng tài sản = Tổng nợ phải trả Tổng tài sản Tỷ lệ này cho biết cơ cấu nợ phải trả trên tổng tài sản, qua đó, xác định nghĩa vụ của chủ doanh nghiệp đối với các khoản nợ. Đối với chủ nợ, với mục tiêu là an toàn cho các khoản vay, tức là phải đảm bảo thu hồi đầu tư cả gốc là lãi đúng thời han, thì họ mong muốn tỷ số này vừa phải, bởi vì ngay cả trong trường hợp xấu nhất là doanh nghiệp rơi vào tình trạng phá sản thì các khoản nợ của họ vẫn sẽ được đảm bảo và được giải quyết theo đúng trình tự pháp lý hiện hành. Còn đối với chủ doanh nghiệp, họ lại thích và mong muốn một tỷ số nợ trên tổng tài sản cao. Trong các khoản nợ của doanh nghiệp, sử dụng vốn của người khác bằng cách đi vay (sử dụng nợ vay) càng cao thì tác động đòn bẩy tài chính càng lớn mà quyền sử hữu của các cổ đông của doanh nghiệp vẫn đảm bảo không bị pha loãng. Nếu duy trì một tỷ số nợ quá cao để theo đuổi mục tiêu lợi nhuận sẽ dẫn tới rủi ro tài chính do mất cân đối về cơ cấu vốn giữa nguồn vốn chủ sở hữu và vốn vay. Do đó, xác định một tỷ lệ nợ hợp lý sẽ là cơ sở để tạo ra cơ cấu vốn tối ưu và khả năng kinh doanh cho doanh nghiệp. Để đánh giá được việc sử dụng nợ cũng như mức độ sử dụng nợ của doanh nghiệp người ta tính mức độ đòn bẩy tài chính (Degree of Financial Leverage - DFL) của doanh nghiệp. Mức độ ảnh hưởng của DFL được xác định như là tỷ lệ thay đổi về doanh lợi vốn chủ sở hữu phát sinh do sự thay đổi về lợi nhuận trước thuế và lãi vay phải trả. DLF = Q(P-V) - F Q(P-V) - F - I Trong đó: Q là sản lượng P là giá bán đơn vị sản phẩm V là chi phí biến đổi mỗi đơn vị sản phẩm F là chi phí cố định I là chi phí lãi vay phải trả Từ công thức trên ta thấy khi lợi nhuận trước thuế và lãi vay không đủ lớn để trang trải lãi vay thì doanh lợi vốn chủ sở hữu sẽ bị giảm sút. Nhưng khi lợi nhuận trước thuế và lãi vay đã đủ lớn để trang trải lãi vay phải trả thì chỉ cần một sự gia tăng nhỏ về sản lượng cũng mang lại một biến động lớn về doanh lợi vốn chủ sở hữu. Khả năng thanh toán lãi vay hay số lần có thể trả lãi: Khả năng thanh toán lãi vay = Lợi nhuận trước thuế và lãi vay Chi phí trả lãi vay Chỉ tiêu này cho biết khả năng thanh toán lãi vay bằng lợi nhuận trước thuế và lãi vay (EBIT); đây cũng chính là khả năng sinh lợi trên các khoản nợ. Chỉ tiêu này càng cao (càng lớn hơn 1) bao nhiêu càng chứng tỏ tình trạng tài chính của doanh nghiệp càng lành mạnh bấy nhiêu. Nếu chỉ tiêu này càng gần 1, thì nó chỉ ra là chi phí vốn vay của doanh nghiệp đang quả lớn mà doanh nghiệp không thể gánh nổi bằng EBIT, theo đó, lợi nhuận sau thuế sẽ giảm sút, buộc doanh nghiệp phải tìm kiếm nguồn tài trợ khác để giảm chi phí vốn, tăng lợi nhuận và tăng giá trị doanh nghiệp. Tỷ số cơ cấu tài sản: Tỷ số cơ cấu tài sản = TSLĐ (TSCĐ) Tổng tài sản Tỷ số này phản ánh cơ cấu đầu tư vào các loại tài sản của doanh nghiệp. Nó cao hay thấp chưa phản ánh được hiệu quả đầu tư vào tài sản nếu không căn cứ vào loại hình, lĩnh vực sản xuất kinh doanh, đặc điểm kinh doanh. Phân tích chỉ tiêu này cho phép xây dựng và điều chỉnh cơ cấu tài sản phù hợp với môi trường kinh doanh của từng doanh nghiệp. Tỷ số cơ cấu nguồn vốn: Tỷ số cơ cấu nguồn vốn = Vốn chủ sở hữu Tổng nguồn vốn Chỉ tiêu này cho biết khả năng tự tài trợ cho vốn kinh doanh của doanh nghiệp. Chỉ tiêu này càng lớn chứng minh cho khả năng độc lập về tài chính của doanh nghiệp càng cao. Song song với nó là dấu hiệu an toàn để doanh nghiệp kêu gọi vốn đầu tư từ bên ngoài doanh nghiệp. Bởi tất nhiên, không một ai lại thừa tiền đầu tư vào một doanh nghiệp mà vốn chủ sở hữu chiếm tỷ lệ quá nhỏ bé trong tổng nguồn vốn, nó chỉ ra khả năng chi trả kém trong tương lai. Tuy nhiên, đối với chủ doanh nghiệp, họ luôn có tâm lý chiếm dụng vốn kinh doanh của người khác . Vì lẽ đó, họ lại mong đợi một tỷ lệ thấp để đạt lợi nhuận tối đa trên đồng vốn mình bỏ ra. Nhưng nhiệm vụ của các nhà phân tích tài chính là phải dung hoà cả hai lợi ích trên. Tức là phải xác định một cơ cấu vốn hợp lý hay tố ưu với chi phí thấp nhất, đảm bảo lợi ích giữa các bên tham gia góp vốn hình thành nguồn kinh doanh của doanh nghiệp. Muốn vậy, doanh nghiệp phải tìm kiếm vốn từ các nguồn khác nhau, tức là đa dạng hoá các nguồn tài trợ có lựa chọn. Theo tiêu thức thời gian, nguồn tài trợ có thể từ: Nguồn tài trợ dài hạn: - Nguồn vốn tự có (vốn chủ sở hữu): Đối với doanh nghiệp Nhà nước, vốn tự có chính là nguồn do Ngân sách Nhà nước cấp và những khoản có nguồn gốc từ Ngân sách Nhà nước. Đối với doanh nghiệp tư nhân, vốn tự có ít nhất là số vốn pháp định theo quy định thành lập doanh nghiệp. Đối với các công ty cổ phần thì vốn tự có chính là số vốn góp của các cổ đông. Ngoài ra, vốn chủ sở hữu còn thường xuyên được bổ sung bằng lợi nhuận giữ lại. - Nguồn vốn tín dụng dài hạn: Doanh nghiệp có thể huy động bằng cách vay ngân hàng và phải chịu một mức phí tín dụng nhất định. Các khoản vay này thường có thời hạn từ 1 đến 3 năm hoặc 3 năm đến 5 năm trở lên. Hiện nay, doanh nghiệp muốn vay tín dụng dài hạn thường phải theo một dự án nhất định và phải chịu một số điều khoản về việc thẩm định hiệu quả của dự án đầu tư một cách rất nghiêm ngặt. - Vốn huy động bằng phát hành cổ phiếu: Đây cũng là một nguồn tài trợ quan trọng đối với doanh nghiệp. Hiện nay, Việt Nam đang đẩy nhanh quá trình cổ phần hoá các doanh nghiệp Nhà nước, song song với đẩy mạnh hoạt động của thị trường chứng khoán non trẻ. Đó là một dấu hiệu tốt cho sự phát triển và hoàn thiện thị trường vốn, tạo cơ hội phát triển cho các doanh nghiệp. - Vốn huy động bằng phát hành trái phiếu công ty và các công nợ có khả năng chuyển đổi khác: Đây là hình thức bổ sung và tạo khả năng đa dạng hoá các phương thức tài trợ cho doanh nghiệp. - Nguồn tài trợ từ nội bộ: Đây là một hình thức huy động có tác dụng phát huy nội lực của mỗi đơn vị từ đội ngũ cán bộ công nhân viên- những người gắn lợi ích riêng của cả doanh nghiệp. Tài trợ nội bộ có thể bằng chính sách phân phối cổ tức và phát hành cổ phiếu nội bộ Nguồn tài trợ ngắn hạn: - Tín dụng ngân hàng: doanh nghiệp có thể đáp ứng được nhu cầu vốn ngắn hạn từ một vài ngày đến dưới 1 năm bằng nguồn vốn vay từ các Ngân hàng thương mại, các tổ chức tín dụng phi ngân hàng khác. - Tín dụng thương mại (tín dụng nhà cung cấp): Đây là phương thức tài trợ vốn của doanh nghiệp với nhà cung ứng sản phẩm dịch vụ phát sinh trong quan hệ thương mại như các hình thức mua hàng trả chậm, trả góp .... Khả năng mở rộng tín dụng phụ thuộc lớn vào uy tín của doanh nghiệp trên thương trường. 1.2.5.2.4. Tỷ số khả năng sinh lời và phân phối lợi nhuận Đây là nhóm chỉ tiêu đánh giá khả năng sinh lời và hiệu quả của các hoạt động và quyết định đầu tư trước đó. Bởi một trong những mục tiêu của doanh nghiệp được thành lập và hoạt động là tối đa hoá lợi nhuận. Lợi nhuận càng cao doanh nghiệp càng khẳng định được vị thế và sự tồn tại của mình. Song nếu đánh giá quá cao chỉ tiêu lợi nhuận thì các kết luận khi phân tích rất có thể dẫn tới những sai lầm bởi vì lợi nhuận cao không đồng thời với khả năng thanh toán tốt, số lợi nhuận đem lại có thể không tương xứng với lượng vốn và chi phí bỏ ra, lợi nhuận cao nhưng lại có được từ sự mất cân đối cơ cấu vốn... Do vậy, khi đánh giá khả năng sinh lợi của doanh nghiệp, chúng ta cần phải đặt nó trong mối quan hệ mật thiết với các nhóm chỉ tiêu khác và trong một mối quan hệ với cơ cấu vốn hợp lý (sự tương đồng giữa vốn chủ sở hữu và các khoản nợ vay khác) Doanh lợi tiêu thụ sản phẩm: Doanh lợi tiêu thụ sản phẩm = Lợi nhuận sau thuế Doanh thu thuần Chỉ tiêu này cho ta biết 1 đồng doanh thu có thể tạo ra bao nhiêu đồng lợi nhuận sau thuế. Nó thường được sử dụng để xem xét khả năng tạo ra lợi nhuận từ các hoạt động của doanh nghiệp so với các doanh nghiệp riêng lẻ khác. Doanh lợi tài sản (ROA): Doanh lợi tài sản = Lợi nhuận sau thuế Tổng tài sản Tỷ lệ tài chính trên cho ta biết 1 đồng vốn đầu tư của doanh nghiệp sẽ tạo ra bao nhiêu đồng lợi nhuận; được sử dụng như là một chỉ tiêu tổng hợp đánh giá khả năng sinh lời vốn đầu tư, hiệu quả và cách thức sử dụng vốn cũng như mức độ mạo hiểm của hoạt động kinh doanh; bên cạnh đó, lại tạo ra một thông tin phản hồi nâng cao năng lực thu hút vốn đầu tư. Doanh lợi vốn chủ sở hữu (ROE): Doanh lợi vốn chủ sở hữu = Lợi nhuận sau thuế Vốn chủ sở hữu Chỉ tiêu trên theo dõi số lợi nhuận sau thuế được tạo ra trên 1 đồng vốn chủ sở hữu. Nếu tỷ lệ này cao thì chứng tỏ rằng doanh nghiệp đang ở đà tăng trưởng bền vững, đầu tư vào doanh nghiệp là một quyết định đúng đắn. Nhờ vậy, doanh nghiệp có thể thêm nguồn vốn kinh doanh qua thị trường tài chính (đặc biệt là từ thị trường chứng khoán). 1.2.5.3. Phân tích diễn biến nguồn vốn và sử dụng vốn Đây là công việc xem xét và đánh giá sự thay đổi các chỉ tiêu tài chính trong Bảng cân đối kế toán cuối kỳ so với đầu kỳ. Một công cụ hữu hiệu để thực hiện nội dung phân tích này là Bảng kê chi tiết nguồn vốn và sử dụng nguồn vốn (bảng tài trợ). Mỗi sự thay đổi ở nguồn vốn và sử dụng nguồn vốn (tài sản) nhất thiết phải tuân thủ các nguyên tắc sau đây: Sử dụng vốn: tăng tài sản và giảm nguồn vốn. Nguồn vốn : tăng nguồn vốn và giảm tài sản. Nguồn vốn và sử dụng nguồn vốn phải cân đối với nhau. Nội dung phân tích này cho ta biết tình hình tăng (giảm) nguồn vốn, tình hình sử dụng nguồn vốn biến động như thế nào, tỷ lệ tài trợ là bao nhiêu?. Từ đó, tìm những giải pháp khai thác khả năng nguồn vốn và sử dụng nguồn vốn có hiệu quả hơn. Một công cụ khác không kém phần quan trọng trong nội dung này chính là phương pháp phân tích theo luồng tiền để xác định sự tăng (giảm) tiền và nguyên nhân tăng (giảm) tiền. Mỗi sự thay đổi về luồng tiền đều phải dựa theo nguyên tắc sau đây: Tăng tiền mặt: tăng nguồn vốn và giảm tài sản. Giảm tiền mặt: tăng tài sản và giảm nguồn vốn Tổng tăng (giảm) tiền mặt đến cuối kỳ phải đúng bằng sự thay đổi tiền mặt cuối kỳ so với đầu kỳ trên Bảng cân đối kế toán. Các khoản làm tăng tiền: lợi nhuận sau thuế, tăng tiền do tăng khoản vay ngắn hạn, tăng không phải trả phải nộp. Các khoản làm giảm tiền mặt: tăng khoản phải thu, tăng dự trữ, tăng đầu tư dài hạn, giảm vay ngân hàng, trả lãi cổ phần. Từ chỗ xác định nguyên nhân của những biến động, khả năng chuyển đổi tài sản thành tiền mặt sẽ được xác định, khả năng thanh toán của doanh nghiệp cũng sẽ được định lượng. 1.2.5.4. Phân tích tình hình bảo đảm nguồn vốn kinh doanh Một doanh nghiệp muốn theo đuổi mục tiêu lợi nhuận, khả năng cạnh tranh và an toàn thì phải có thực lực về vốn để thực thi các kế hoạch, chiến lược đã đề ra. Do vậy, phân tích tình hình đảm bảo nguồn vốn cho hoạt động là nội dung cần thiết không thể thiếu trong công tác phân tích tài chính doanh nghiệp. Trong nội dung này, người ta thường quan tâm tới 3 chỉ tiêu sau: Vốn lưu động thường xuyên = Tài sản lưu động - Nguồn vốn ngẵn hạn Nhu cầu vốn lưu động thường xuyên = Hàng tồn kho + Các khoản phải thu - Nợ ngắn hạn Vốn bằng tiền = Vốn lưu động thường xuyên - Nhu cầu vốn lưu động thường xuyên Chỉ tiêu Vốn lưu động thường xuyên (VLĐ thường xuyên) chỉ ra mức độ an toàn của các tài sản ngắn hạn. Nếu VLĐ thường xuyên < 0, điều có nghĩa là doanh nghiệp phải sử dụng nguồn vốn ngắn hạn để tài trợ cho tài sản cố định. Chính sự không tương ứng về cấu trúc thời hạn của nguồn vốn và đối tượng đầu tư đã dẫn tới rủi ro tài chính cho doanh nghiệp. Đồng thời, doanh nghiệp do không đủ tài sản lưu động để trang trải cho các khoản nợ ngắn hạn rất dễ bị đẩy đến tình trạng mất khả năng thanh toán. Chỉ tiêu Nhu cầu VLĐ thường xuyên, cho ta biết phải cần bao nhiêu hàng tồn kho và khoản phải thu để tài trợ đủ bằng nợ ngắn hạn. Nếu Nhu cầu VLĐ thường xuyên > 0, tức là hàng tồn kho và các khoản phải thu lớn hơn nợ ngắn hạn, khi đó nhu cầu chi trả nợ sẽ lớn hơn khả năng thanh toán tức thời của doanh nghiệp. Doanh nghiệp buộc phải tạm thời sử dụng nguồn dài hạn để thanh toán. Từ kết quả phân tích, áp dụng một chính sách tín dụng thương mại thắt chặt, nhanh chóng thu hồi các khoản nợ từ khách hàng, kích thích tiêu thụ hàng tồn kho là cấp thiết để vực dậy tình trạng tài chính đang tồi tệ của doanh nghiệp. Vốn bằng tiền Nếu tiền < 0 sẽ xảy ra tình trạng mất cân đối trong nguồn vốn ngắn hạn và dài hạn (vốn ngắn hạn nhiều, vốn dài hạn ít) hoặc mất cân đối trong đầu tư dài hạn (đầu tư dài hạn quá nhiều). Tuy nhiên, trên thực tế, không phải lúc nào doanh nghiệp cũng phải tuân theo nguyên tắc tương ứng về cấu trúc kỳ hạn của các khoản vốn và sử dụng vốn. Tức là doanh nghiệp có thể sử dụng nợ ngắn hạn để tài trợ cho tài sản lưu động nếu thị trường tạo nguồn ngắn hạn của nó là khá thuận lợi. Nhìn chung, muốn đảm bảo nguồn vốn liên tục về chất lượng và số lượng, đảm bảo lành mạnh về tài chính, doanh nghiệp cần thiết phải duy trì đồng thời: VLĐ thường xuyên > 0, Nhu cầu VLĐ thường xuyên 0. 1.2.5.5. Phân tích các chỉ tiêu tài chính trung gian Trong phân tích tài chính, các nhà phân tích tài chính thường kết hợp chặt chẽ những đánh giá về trạng thái tĩnh với những đánh giá về trạng thái động để đưa ra bức tranh toàn cảnh về tình hình tài chính của doanh nghiệp. Nếu như trạng thái tĩnh được thể hiện thông qua bảng cân đối kế toán thì trạng thái động được phản ánh qua Bảng tài trợ và Báo cáo kết quả kinh doanh. Thông qua các Báo cáo tài chính này các nhà phân tích có thể đánh giá sự thay đổi về vốn lưu động ròng, về nhu cầu vồn lưu động, từ đó có thể đánh giá những thay đổi về ngân quỹ của doanh nghiệp. Khi phân tích trạng thái động, trong một số trường hợp nhất định, người ta còn chú trọng đến các chỉ tiêu quản lý trung gian nhằm đánh giá chi tiết hơn tình hình tài chính và dự báo những điểm mạnh, điểm yếu của doanh nghiệp. Những chỉ tiêu này là cơ sở để xác lập nhiều hệ số rất có ý nghĩa về hoạt động, cơ cấu vốn .v.v.... của doanh nghiệp. Lãi gộp = Doanh thu - Giá vốn hàng bán Thu nhập trước khấu hao và lãi vay = Lãi gộp - Chi phí bán hàng, quản lý doanh nghiệp Thu nhập trước thuế và lãi vay = Thu nhập trước khấu hao và lãi vay - Khấu hao Thu nhập trước thuế = Thu nhập trước thuế và lãi vay - Lãi vay Thu nhập sau thuế = Thu nhập trước thuế - Thuế TNDN Trên cơ sở đó, nhà phân tích có thể xác định mức tăng tuyệt đối và mức tăng tương đối của các chỉ tiêu qua các thời kỳ để nhận biết tình hình hoạt động của doanh nghiệp và tiến hành so sánh với các doanh nghiệp cùng ngành để đánh giá vị thế của doanh nghiệp. 1.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến công tác phân tích tài chính doanh nghiệp 1.3.1. Các nhân tố chủ quan Nhân tố chủ quan là những nhân tố tồn tại bên trong doanh nghiệp, tác động chi phối tới chất lượng của công tác phân tích tài chính doanh nghiệp. Bao gồm: Chất lượng thông tin sử dụng trong phân tích tài chính Đây là yếu tố quan trọng hàng đầu quyết định chất lượng phân tích tài chính vì nếu thông tin sử dụng không chính xác thì kết quả phân tích chỉ là hình thức không có ý nghĩa gì. Do vậy, thông tin sử dụng trong phân tích tài chính là nền tảng của phân tích tài chính. Từ các thông tin bên trong của doanh nghiệp và các thông tin bên ngoài có ảnh hưởng đến môi trường hoạt động của doanh nghiệp, người phân tích không chỉ thấy dược tình hình tài chính của doanh nghiệp mà còn dự đoán phương hướng phát triển của doanh nghiệp. Nhân tố con người Đây là một nhân tố quan trọng có ảnh hưởng quyết định đến nội dung, phương pháp phân tích được sử dụng trong công tác phân tích. Nhân tố này thể hiện ở hai khía cạnh: Nhà quản trị doanh nghiệp hay người sử dụng kết quả phân tích Người thực hiện công tác phân tích Đối với nhà quản trị doanh nghiệp trên cương vị là người ra quyết định và chịu trách nhiệm về sự thành công của doanh nghiệp, nếu có nhận thức đầy đủ về tầm quan trọng của phân tích tài chính doanh nghiệp, yêu cầu sử dụng thường xuyên các kết quả phân tích trong điều hành quản lý, ra quyết định sản xuất kinh doanh,.. thì công tác phân tích tài chính doanh nghiệp sẽ được chú trọng phát triển tại doanh nghiệp. Nếu không thì hoạt động này chỉ mang tính hình thức, bắt buộc do vậy kết quả đạt đựoc không có nhiều ý nghĩa trong quản trị. Đối với người thực hiện công tác phân tích tài chính doanh nghiệp thì trình độ chuyên môn nghiệp vụ kinh nghiệm công tác cũng ảnh hưởng tới kết quả việc phân tích tài chính. Vì với những thông tin chính xác những tập hợp và xử lý thông tin đó như thế nào để đưa lại kết quả phân tích tài chính có chất lượng cao thì không đơn giản. Từ các thông tin thu thập được, các bộ phận tài chính phải tính toán các chỉ tiêu, thiết lập các bảng biểu. Vì là những con số riêng lẻ thì không nói lên điều gì, do vậy, nhiệm vụ của người thực hiện phân tích là sử dụng các phương pháp phân tích mới hiện đại nhằm gắn kết, tạo lập mối quan hệ giữa các chỉ tiêu, kết hợp các thông tin và các điều kiện, hoàn cảnh cụ thể của các doanh nghiệp để lý giải tình hình tài chính của các doanh nghiệp, xác định thế mạnh, điểm yếu cũng như nguyên nhân của nó để từ đó giúp nhà quản trị có những quyết định đúng trong định hướng phát triển. Lựa chọn phương pháp phân tích Khi đã đầy đủ thông tin cần thiết cho phân tích tài chính doanh nghiệp thì một yếu tố không kém phần quan trọng đó là lựa chọn phương pháp phân tích phù hợp. Tuy nhiên, hiện nay ở nước ta vẫn còn áp dụng phương pháp phân tích tài chính cũ do đó kết quả thu được không phản ánh hết được tình hình doanh nghiệp dẫn đến chất lượng phân tích thấp. Những phương pháp phân tích hiện đại sẽ giúp cho phân tích tài chính được chính xác, toàn diện hơn. 1.3.2. Nhân tố khách quan Nhân tố khách quan là những nhân tố từ môi trường bên ngoài thường xuyên tác động đến chất lượng phân tích tài chính doanh nghiệp. Đó là những vấn đề về pháp lý, tình hình chính trị, các vấn đề về kinh tế xã hội ... Tình hình kinh tế, chính trị, hệ thống pháp lý... Đây là những yếu tố thuộc môi trường vĩ mô có tác động trực tiếp hoặc gián tiếp lên công tác phân tích tài chính, khuyến khích hoặc hạn chế tình hình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Chính vì vậy, một môi trường vĩ mô ổn định sẽ là điều kiện tốt cho các doanh nghiệp phát triển hoạt động sản xuất kinh doanh của mình, do vậy giúp cho các nhà phân tích có thể lựa chọn được các phương pháp pháp phân tích tài chính phù hợp, có điều kiện thống nhất các chỉ tiêu trong toàn ngành, trong từng khu vực. Do đó các nhà phân tích có thể dễ dàng trong việc tìm kiềm thông tin và ngược lại. Hệ thống chỉ tiêu trung bình ngành. Việc phân tích tài chính trở nên hoàn thiện hơn nếu có hệ thống chỉ tiêu trung bình ngành. Đây là cơ sở tham chiếu quan trọng khi tiến hành phân tích tài chính. Chúng ta có thể khẳng định các tỷ lệ tài chính của một doanh nghiệp cao hay thấp khi đem chúng so sánh với các tỷ lệ tương ứng của doanh nghiệp khác có đặc điểm và điều kiện sản xuất kinh doanh tương tự mà đại diện là chỉ tiêu trung bình ngành. Thông qua đối chiếu với chỉ tiêu trung bình ngành, nhà quản lý biết được vị thế của doanh nghiệp mình từ đó đánh giá một cách chính xác thực trạng tài chính doanh nghiệp cũng như hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Ngoài những nhân tố trên còn có một số nhân tố khác cũng tác động đến công tác phân tích tài chính doanh nghiệp như: sự can thiệp của chính phủ, công tác tổ chức điều hành của công ty... Như vậy, có rất nhiều yếu tố ảnh hưởng đến công tác phân tích tài chính doanh nghiệp đòi hỏi các nhà phân tích phải hết sức linh hoạt để kịp thời nắm bắt tình hình nhằm có được những kết quả phân tích chính xác. chương 2: phân tích tình hình tài chính tại Công ty xuất nhập khẩu các sản phẩm cơ khí 2.1. Khái quát về Công ty xuất nhập khẩu các sản phẩm cơ khí 2.1.1. Quá trình hình thành và phát triển của Công ty Giới thiệu về Công ty: Tên công ty: Công ty Xuất nhập khẩu các sản phẩm cơ khí Tên quốc tế: The Viet Nam National Mechanical Products Import - Export Company Tên viết tắt: Mecanimex Trụ sở chính: Số 37 Tràng Thi, Quận Hoàn Kiếm, TP Hà nội Điện thoại: 826.904 - 8257459 Fax: 84-4826.904 Chi nhánh: 35 Tôn Đức Thắng- TP Hồ Chí Minh Văn phòng đại diện tại TP Hải Phòng. 2.1.1.2. Đặc điểm của Công ty: Công ty được thành lập theo quyết định số 88/CT ngày 2/3/1985 của Chủ tịnh HĐBT (nay là Chính Phủ) và bắt đầu đi vào hoạt động ngày 26/3/1985 theo giấy phép kinh doanh số 1.10.11.012/GP của Bộ trưởng Bộ Cơ khí và luyện kim (nay là Bộ Công nghiệp). Công ty được thành lập trên cơ sở sáp nhập hai phòng là Phòng Xuất nhập khẩu của Tổng Công ty xuất nhập khẩu tạp phẩm (TOCOTAP) và Phòng Xuất nhập khẩu của Công ty xuất nhập khẩu máy (Machinoimport). Công ty trở thành đơn vị thành viên của Tổng Công ty Máy và Thiết bị Công nghiệp theo quyết định số 1171/GP/TCNSĐT ngày 27/10/1995 của Bộ trưởng Bộ công nghiệp. Công ty MECANIMEX là một doanh nghiệp Nhà nước nên chức năng và phạm vi hoạt động cũng phù hợp với sự đổi mới và phát triển của nền kinh tế Việt nam. Từ khi thành lập đến nay Công ty đã trải qua hai giai đoạn phát triển: Giai đoạn 1 (trước năm 1986), do tính chất là một doanh nghiệp Nhà nước, Công ty chủ yếu hoạt động kinh doanh theo Nghị định thư giữa Chính Phủ Việt Nam với các nước trong khối XHCN về các mặt hàng là sản phẩm của ngành cơ khí và luyện kim. Giai đoạn 2 (từ năm 1990 đến nay): Sau khi thể chế Liên Xô cũ và Đông Âu sụp đổ, làm cho thị trường truyền thống bị phá vỡ. Trong thời gian đó Nhà nước ban hành chính sách đổi mới buộc các công ty kinh doanh phải hạch toán độc lập. Vì vậy Công ty đã phải tự chủ hoàn toàn trong hoạt động kinh doanh và đã gặp phải rất nhiều khó khăn. Đại hội Đảng lần VI (Tháng 12/1986) đã mở ra một thời kỳ mới và tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp hoạt động kinh doanh. Nhà nước chủ trương chuyển đổi nền kinh tế sang hoạt động theo cơ chế thị trường. Đẩy mạnh giao lưu hàng hoá quốc tế, khuyến khích các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu theo tư tưởng chỉ đạo của Quyết định số 21/HĐBT, giao quyền tự chủ cho các đơn vị sản xuất kinh doanh, đã tạo điều kiện thuận lợi cho Công ty thoát khỏi sự ràng buộc của cơ chế kế hoạch hoá tập trung, chuyển sang hạch toán độc lập. Tuy nhiên đó cũng là khó khăn và thách thức lớn đối với sự tồn tại và phát triển của Công ty. Để tồn tại, phát triển và hoà nhập với xu thế của đất nước, Công ty đã từng bước bố trí, sắp xếp lại cơ cấu tổ chức kinh doanh cho gọn nhẹ, phù hợp với quy mô và khẳ năng kinh doanh. Công ty rất chú trọng quản lý và lãnh đạo, bồi dưỡng tăng cường kỹ thuật nghiệp vụ cho cán bộ công nhân viên. Hơn nữa Công ty còn nhanh chóng đổi mới phương thức kinh doanh, mở rộng mặt hàng kinh doanh xuất nhập khẩu, đa dạng hoá thị trường. Bước vào nền kinh tế thị trường, Công ty đã được tự chủ hoàn toàn trong hoạt động kinh doanh của mình. Hiện nay, Công ty hoạt động kinh doanh trong các lĩnh vực: xuất nhập khẩu các sản phẩm cơ khí, luyện kim, hoá chất; xuất nhập khẩu các mặt hàng điện tử gia dụng, vật liệu xây dựng và một số mặt hàng tiêu dùng khác; Ngoài ra, công ty còn kinh doanh trong một số lĩnh vực khác như gia công, chế biến hàng xuất khẩu, hàng tiêu dùng trong nước, làm đại lý, kinh doanh dịch vụ, tổ chức hội chợ triển lãm hàng công nghiệp... Về thị trường hoạt động, một mặt công ty vẫn duy trì các thị trường cũ như Liên bang Nga và các nước Đông Âu. Mặt khác, Công ty nỗ lực từng bước xâm nhập vào các thị trường tiềm năng hiện nay như các nước Đông Nam á, Trung Quốc, Đài Loan, Hàn Quốc, Nhật Bản, Mỹ, Tây Âu... 2.1.2. Chức năng, nhiệm vụ của Công ty a) Chức năng: Là doanh nghiệp thuộc ngành công nghiệp nặng Việt Nam, Công ty có các chức năng: Thực hiện các hoạt động thương mại dịch vụ, trực tiếp tham gia hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu (tự doanh và uỷ thác) với các đối tác trong và ngoài nước. b) Nhiệm vụ: Xây dựng và tổ chức các kế hoạch dài hạn và ngắn hạn của hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu. Xây dựng và tổ chức các kế hoạch dài hạn và ngắn hạn của hoạt động kinh doanh. Tổ chức nghiên cứu thị trường, tìm hiểu và xác định các mặt hàng kinh doanh phù hợp với nhu cầu và thị hiếu của khách hàng trong và ngoài nước. Bảo toàn và phát triển nguồn vốn được giao. Công ty được phép huy động vốn của các tổ chức và các thành phần kinh tế để tổ chức hoạt động kinh doanh theo quy định của pháp luật. Thực hiện nghĩa vụ và nhiệm vụ Nhà nước giao đồng thời thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ chung của Nhà nước. Cơ cấu tổ chức của Công ty Với phương châm gọn, nhẹ nhưng hiệu quả, Công ty MECANIMEX có cơ cấu tổ chức bộ máy được bố trí, tổ chức theo sơ đồ sau: Phòng Hành chính Phòng Tổ chức Kế hoạch Phòng Tài chính Kế toán Phòng Kinh doanh Chi nhánh tại TP HCM Ban giám đốc Đại diện tại TP Hải Phòng Sơ đồ 2.1: Cơ cấu tổ chức của Công ty xuất nhập khẩu các sản phẩm cơ khí Ban giám đốc Công ty: Bao gồm: Giám đốc và các Phó giám đốc): Đứng đầu Công ty là Giám đốc do Bộ trưởng Bộ Công nghiệp trực tiếp bổ nhiệm. Giám đốc điều hành Công ty theo chế độ một thủ trưởng và chịu trách nhiệm về mọi hoạt động của Công ty trước pháp luật, trước Bộ Công nghiệp và toàn thể công nhân viên chức của Công ty. Giám đốc được quyền tổ chức bộ máy quản lý và mạng lưới kinh doanh cho phù hợp với nhiệm vụ của Công ty và các quyết định phân cấp quản lý của Bộ. Giúp việc cho Giám đốc là các Phó giám đốc, Phó giám đốc do Giám đốc Công ty lựa chọn và đề nghị Bộ Công nghiệp bổ nhiệm. Phó giám đốc giúp việc cho Giám đốc điều hành Công ty và chịu trách nhiệm trực tiếp trước Giám đốc về các nhiệm vụ được phân bổ và uỷ quyền. Các phòng ban chức năng: Với quy mô nhỏ Công ty MECANIMEX có 04 phòng trực thuộc, 01 chi nhánh và 01 văn phòng đại diện. ở cấp thực hiện này, thì các trưởng phòng, giám đốc chi nhánh, trưởng văn phòng đại diện chịu trách nhiệm trước Giám đốc Công ty về phần việc do bộ phận mình đảm trách Trong Công ty, các phòng ban đều có nhiệm vụ, chức năng riêng và có mối quan hệ mật thiết với nhau. Tuy nhiên, do phạm vi nghiên cứu của chuyên để thực tập nên chúng ta sẽ đi sâu vào cơ cấu tổ chức, chức năng, nhiệm vụ của Phòng Tài chính Kế toán. Phòng Tài chính Kế toán Công tác tài chính kế toán của Công ty là một bộ phận quan trọng có mối quan hệ chặt chẽ với các bộ phận, phòng ban khác. Phòng Tài chính Kế toán thực hiện báo cáo trực tiếp với Giám đốc và các Phó giám đốc. Tất cả các hoạt động kinh tế phát sinh của các bộ phận trong Công ty đều được phản ánh tại Phòng Tài chính Kế toán, riêng chi nhánh TP Hồ Chí Minh được hạch toán độc lập. Nhiệm vụ của Phòng Tài chính Kế toán: - Theo dõi, quản lý vốn, nguồn vốn, tình hình sử dụng vốn, đề ra những chiến lược của Công ty về tiền vốn, tham mưu cho Giám đốc về những vấn đề tài chính ... - Tổng hợp tất cả các số liệu kế toán để tiến hành lập các báo cáo tài chính định kỳ hàng năm theo quy định của chế độ kế toán. - Thực hiện các thủ tục thanh toán nội bộ giữa Công ty với các đơn vị trong nước và thanh toán ngoại giữa Công ty với các đối tác nước ngoài khi xuất khẩu, nhập khẩu các mặt hàng kinh doanh. - Lập kế hoạch tài chính cho các kỳ kinh doanh. Tổ chức nhân sự của Phòng Tài chính Kế toán: Gồm 6 nhân viên. - ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc29168.doc
Tài liệu liên quan