Giải pháp hoàn thiện công tác quản lý thu thuế đối với Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tại Hải Phòng

Lời nói đầu Thuế ra đời và phát triển gắn liền với sự hình thành và phát triển của Nhà nước và là một đòi hỏi khách quan đối với sự tồn tại của Nhà nước đó. Do vậy, thuế là một khoản đóng góp mang tính bắt buộc, cưỡng chế, pháp lý cao, là nguồn thu chủ yếu cho ngân sách Nhà nước mà trong đó thu thuế đối với khu vực doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài chiếm tỷ trọng cao trong Ngân sách Nhà nước. Đặc biệt, để thực hiện những mục tiêu trong giai đoạn mới: Xây dựng một nền kinh tế mở, đa

doc86 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1422 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Giải pháp hoàn thiện công tác quản lý thu thuế đối với Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tại Hải Phòng, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
dạng hoá, đa phương hoá kinh tế, thu hút đầu tư nước ngoài, tranh thủ “ngoại lực”, đổi mới nền kinh tế, thực hiện CNH- HĐH, bước đầu tham gia quá trình hội nhập nền kinh tế, chính sách thuế áp dụng đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài ngày càng trở nên quan trọng, cần luôn được quan tâm, sửa đổi, dần dần hoàn thiện. Trong xu thế quốc tế hoá nền kinh tế, tự do hoá thương mại, khối doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài sẽ ngày càng phát triển và góp phần quan trọng trong sự tăng trưởng kinh tế của đất nước đòi hỏi công tác quản lý thu thuế phải đảm bảo “thu đúng, thu đủ, động viên tối đa cho ngân sách nhà nước trên cơ sở hợp lý”. Mặt khác trên thực tế, công tác quản lý thu thuế ở khu vực này vẫn còn nhiều khó khăn, vướng mắc,tình trạng ẩn lậu thuế vẫn còn xảy ra …thì việc nâng cao công tác quản lý thu thuế đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài trong giai đoạn mới là hết sức cấp thiết. Đầu tư nước ngoài vào Việt Nam có hai hình thức là đầu tư trực tiếp và đầu tư gián tiếp, trong phạm vi của luận văn này chỉ đề cập đến các giải pháp để hoàn thiện công tác quản lý thu thuế đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài. Xuất phát từ những yêu cầu và thực trạng trên, em đã chọn đề tài: “ Giải pháp hoàn thiện công tác quản lý thu thuế đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tại Hải Phòng “ Mục tiêu của luận văn này đặt ra một số giải pháp nhằm hoàn thiện công tác quản lý thu thuế, đảm bảo luật pháp nghiêm minh, góp phần khuyến khích, cải thiện môi trờng đầu tư , đảm bảo nguồn thu cho ngân sách Nhà nước. Ngoài ra, đặt trong mối tương quan với xu thế quốc tế hoá nền kinh tế, đề tài góp phần phát huy tác dụng của chính sách thuế, đặt ra giải pháp hoàn thiện chính sách thuế hiện hành. Vì khả năng và thời gian có hạn nên luận văn của em không tránh khỏi những thiếu sót, em mong được sự chỉ dẫn của các thầy,cô. Em xin chân thành cảm ơn thầy Nguyễn Quang Ninh và các cán bộ phòng quản lý doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đã hết lòng giúp đỡ em hoàn thành luận văn này. Tháng 06 năm 2003 Sinh viên Nguyễn Thị HồngViệt Chương I: Đầu tư nước ngoài và công tác quản lý thu thuế đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài I. Tổng quan về đầu tư nước ngoài. 1. Đầu tư nước ngoài và vai trò của nó đối với sự phát triển kinh tế xã hội của nước ta. - Nước ta vốn là một nước nông nghiệp, nền kinh tế phổ biến là sản xuất nhỏ tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa. Tổ chức sản xuất nhỏ thể hiện rõ trên các mặt: cơ sở sản xuất kỹ thuật còn nhỏ yếu, đại bộ phận lao động là thủ công, phân công lao động chưa phát triển, năng xuất lao đọng rất thấp, công nghiệp nặng chưa đủ sức cải tạo toàn bộ nền kinh tế quốc dân, công nghiệp và nông nghiệp chưa kết hợp thành một cơ cấu, tình trạng tổ chức và quản lý còn thiếu chặt chẽ. Trong khi đó trên thế giới cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật đang chuyển sang một giai đoạn mới (cuộc cách mạng khoa học lần II ) và đem lại những thành tựu cực kỳ to lớn làm thay đổi nhanh chóng cuộc sống của xã hội và loài người. Dựa trên sự phân tích khoa học tình hình trong nước và quốc tế, đại hội Đảng IV (1976) đã nêu ra đường lối chung và đường lối kinh tế của nước ta là :" đẩy mạnh công nghiệp hoá XHCN, xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật của CNXH, đưa nền kinh tế nước ta từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn XHCN..." Theo đường lối đó, tốc độ thu từ nội bộ nền kinh tế quốc dân trong nước giai đoạn 1976- 1980 tăng 8,9%, tốc độ tăng bình quân thu nhập quốc dân hằng năm là 1,8%, đồng thời quản lý và sử dụng các nguồn vốn vay, viện trợ của nước ngoài, bảo đảm các nhiệm vụ chiến lược của cách mạng. Tuy nhiên khó khăn lớn nhất của nền kinh tế nước ta thời kỳ đó là sản xuất chậm phát triển, năng suất lao động và hiệu quả kinh tế thấp, các mặt mất cân đối ngày càng trầm trọng. Mức độ chi ngân sách Nhà nước tăng nhiều, đặc biệt là những năm thập kỷ 80 siêu lạm phát với tốc độ tăng giá bình quân hằng năm từ trên 140% đến gần 600%. Tình trạng siêu lạm phát gần như liên tục suốt 6 năm liền (1981-1982 và 1985-1988). Tốc độ tăng thu của ngân sách nhà nước chậm không theo kịp tăng chi về quốc phòng, an ninh và về tiêu dùng, về đầu tư của Nhà nước. Như vậy, vấn đề đặt ra là phải giải quyết tình trạng lạm phát, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Mà " muốn có sự tăng trưởng về kinh tế cần có 3 yếu tố: lao động, vốn và công nghệ. Đối với nước ta, lực lượng lao động rất dồi dào, nhưng vốn lại khan hiếm và công nghệ lạc hậu. Tất nhiên muốn đổi mới công nghệ cần phải có vốn. Nói chung lại vốn là mấu chốt của chính sách tài chính Nhà nước trong giai đoạn hiện nay"(1)- Trích Tài chính trong nền kinh tế thị trường và xu hướng phát triển ở Việt Nam. Song trong những năm đầu của thời kỳ công nghiệp hoá đòi hỏi nguồn vốn mới, mà vốn trong nước còn hạn hẹp, nên phải huy động thêm vốn bên ngoài cho nhu cầu đầu tư phát triển trên nguyên tắc bảo đẩm hiệu quả kinh tế. Xuất phát từ thực trạng nền kinh tế nước ta và chủ trương của Đảng, đại hội Đảng lần thứ IV Đảng và Nhà nước ta đã đề ra chính sách mở cửa và giao lưu kinh tế với nước ngoài, trong đó hoạt động tài chính đối ngoại là một nội dung chính của chính sách mở cửa nền kinh tế thông qua hoạt động đầu tư, một mặt nhằm huy động vốn từ nước ngoài phục vụ cho nhu cầu phát triển kinh tế trong nước, mặt khác nhằm giải quyết việc làm, chuyển giao công nghệ, kích thích nội địa. Do đó, việc thu hút đầu tư nước ngoài là yếu tố vô cùng quan trọng tạo đòn bẩy kích thích tăng trưởng kinh tế, là xu hướng phát triển của thời đại. Đầu tư nước ngoài thực chất là sự di chuyển vốn đầu tư từ nước này sang nước khác để sản xuất và kinh doanh với mục đích kiếm lợi nhuận. Đầu tư nước ngoài vào Việt Nam là một hình thức quan hệ kinh tế quốc tế, phản ánh mối quan hệ giữa chủ đầu tư (có thể là cá nhân, tổ chức kinh tế, tổ chức phi chính phủ, CP,tổ chức TT-QT) và người nhận đầu tư (cá nhân, CP Việt Nam). Vốn đầu tư quốc tế có thể là tiền, công nghệ, vật tư.. Căn cứ vào tính chất sử dụng vốn, đầu tư nước ngoài gồm 2 hình thức + Đầu tư gián tiếp: là đầu tư mà chủ đầu tư nước ngoài bỏ vốn đầu tư, không trực tiếp quản lý và tham gia điều hành đối tượng đầu tư, VD: Hỗ trợ phát triển không chính thức (ODA, tín dụng thương mại quốc tế, đầu tư gián tiếp của tư nhân dưới hoạt động mua TPCP, thành lập công ty, CP...) + Đầu tư trực tiếp (FDI): là hoạt động đầu tư mà chủ đầu tư nước ngoài bỏ vốn đầu tư, trực tiếp quản lý và tham gia điều hành, phương pháp kinh doanh hoặc chịu rủi ro trong kinh doanh. Theo luật đầu tư nước ngoài của Việt Nam ra ngày 29/12/1987 ssửa đổi bổ sung ban hành 1/7/2000, FDI gồm 3 hình thức: - Hợp tác kinh doanh trên cơ sở hoạt động là văn bản ký kết giữa bên Việt Nam và nước ngoài (gọi tắt là các bên hợp doanh) để cùng nhau tiến hành một hoặc nhiều hoạt động kinh doanh ở Việt Nam trên cơ sở quy định trách nhiệm và phân chia kết quả kinh doanh cho mỗi bên mà không thành lập một pháp nhân Các loại hoạt động được áp dụng đối với các công trình xây dựng cơ sỉư hạ tầng kỹ thuật: *Hợp đồng xây dựng- kinh doanh-chuyển giao (BOT) *Hợp đồng xây dựng-chuyển giao-kinh doanh (BTO) *Hợp đồng xây dựng-chuyển giao (BT) - Doanh nghiệp liên doanh: là doanh nghiệp được thành lập tại Việt Nam trên cơ sở hợp đồng liên quan ký giữa bên Việt Nam với bên nước ngoài (gọi là các bên liên doanh) về đầu tư, kinh doanh tại Việt Nam. Doanh nghiệp liên doanh được thành lập theo hình thức công ty TNHH có tư cách pháp nhân theo pháp luật Việt Nam. - Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài: là doanh nghiệp thuộc sở hữu của nhà đầu tư nước ngoài, tổ chức hoạt động sản xuất kinh doanh tại Việt Nam được thành lập dưới hình thức Công ty TNHH có tư cách pháp nhân tại Việt Nam. a. Vai trò của đầu tư trực tiếp nước ngoài Khi đầu tư vốn ra nước ngoài, chủ đầu tư thu được hiệu quả đầu tư cao nhờ vào việc khai thác được lơị thế sản xuất mà chủ nhà dành cho họ, tránh được hàng rào thuế quan, bảo hộ thương mại, xây dựng được thị trường cung cấp nguyên liệu và tiêu thụ sản phẩm ổn định.Đó cũng là lý do mà đầu tư trực tiếp nước ngoà ngày càng tăng Theo báo cáo của tổ chức thương mại và phát triển của Liên hợp quốc, đầu tư nhà nước đã tăng mạnh trong các năm qua: 1980-19.159 triệu đola, năm 1996- 314.696 triệu đôla, 2000-1300 tỷ đôla. Mặt khác lợi ích mà đầu tư trực tiếp nước ngoài mang lại cho các nước nhận đầu tư là rất lớn, cho đến nay thu hút FDI là nhu cầu thiết yếu của các quốc gia, đặc biệt là các nước đang phát triển như Việt Nam. Vai trò FDI thể hiện qua các mặt chính sau: - Một là: Góp phần giải quyết vấn đề việc làm, tạo thu nhập cho người lao động Nhà đầu tư nước ngoài tiến hành đầu tư thông qua hoạt động sản xuất kinh doanh, thu hút được một số lượng lớn lao động , hơn nữa để khai thác lợi thế so sánh của nước chủ nhà, cùng năng lực cạnh tranh, tăng hiệu quả đầu tư thì nhà đầu tư phải thuê nhân công của nước chủ nhà. Thực tế cho thấy, không thể phủ nhận vai trò này của FDI đối với Việt Nam: với lực lượng lao động dồi dào, giá nhân công rẻ, chủ yếu là lao động thủ công trong khi các ngành sản xuất trong nước còn chậm phát triển, chưa tận dụng được nguồn nhân lực trong nước. Các công ty nước ngoài thường tập trung đầu tư vào các ngành cần nhiều lao động như: sản xuất hàng tiêu dùng, khai thác, chế biến vật liệu xây dựng, lắp rắp...do đó lao động đã trở thành lợi thế thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài của Việt Nam. -Hai là: Nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế qua quá trình chuyển giao công nghệ. Việt Nam vốn là nước có nền kinh tế nghèo nàn lạc hậu, chủ yếu là sản xuất nông nghiệp, khoa học kỹ thuật chậm phát triển. Với mục tiêu lợi nhuận, các nhà đầu tư nước ngoài ngoài nguồn vốn bằng tiền, còn đưa cả kỹ thuật kinh nghiệm quản lý, bí quyết kinh doanh. Hay có thể khẳng định FDI là hình thức thúc đẩy du nhập, truyền bá kỹ thuật, chuyển giao công nghệ vào nước ta, qua đó năng cao kỹ năng quản lý, trình độ năng lực chuyên môn của cán bộ, công nhân. Hơn nữa do phải đứng trước sự cạnh tranh gay gắt của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài nên các doanh nghiệp trong nước muốn tồn tại phát triển thì phải nâng cao trình độ quản lý, đầu tư công nghệ... để có thể chiếm lĩnh thị trường nội địa hướng tới xuất khẩu. Điều này góp phần nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh trong nước Ba là: Vấn đề thu hút nguồn vốn bổ sung quan trọng bằng ngoại tệ. Đối với Việt Nam, nguồn vốn tích luỹ từ trong nước còn eo hẹp, trong khi đó vấn đề đầu tư vào một số công trình sản xuất mới, cơ sở hạ tầng, và đầu tư nâng cao trình độ công nghệ và năng lực sản xuất để thúc đẩy sự phát triển kinh tế xã hội là rất cần thiết. Do đó, vốn ngoại tệ thu hút từ đầu tư nước ngoài là nguồn vốn hết sức quan trọng. ở nước ta nguồn vốn này chiếm tỷ trọng đáng kể trong cơ cấu đầu tư của nền kinh tế quốc dân. b. Kết quả đầu tư nước ngoài vào Việt Nam: Năm 2002 khu vực có vốn đầu tư nước ngoài trực tiếp (FDI) có những tiến triển khả quan, đóng góp 13,4% GDP. Tính đến 24 tháng 12 năm 2002 khu vực FDI cả nước có tổng số 3669 dự án còn đang hiệu lực, tổng số vốn đăng ký lên tới 3 tỷ USD. Trong đó khoảng 2000 dự án đã đi vào hoạt động với số vốn đăng ký tương ứng là24 tỷ USD; 949 dự án đang triển khai với số vốn đăng ký 7,7 tỷ; hơn 700 dự án chưa triển khai. Tình hình đầu tư trực tiếp nước ngoài năm 2002: Chỉ tiêu 2001 2002 Tỷ lệ 2002/ 2001(%) Vốn đầu tư thực hiện 2.300 triệu USD 2.345 triệu USD 101,96 Doanh thu 8.200 triệu USD 9.000 triệu USD 109,76 Xuất khẩu 3.673 triệu USD 4.500 triệu USD 122,52 Nhập khẩu 4.984 triệu USD 6.500 triệu USD 130,42 Nộp NSNN 373 triệu USD 459 triệu USD 123,06 Số LĐ cuối kỳ báo cáo 439 nghìn người 472 nghìn người 107,52 Số dư án cấp mới 523 dự án 694 dự án 132,70 Vốn đăng ký cấp mới 2.535,5 triệu USD 1379,2 triệu USD 54,40 Số lượt dự án 227 lượt dự án 305 lượt dự án 134,36 Vốn tăng thêm 607,7 918,7 151,18 (Nguồn: Vụ quản lý dự án đầu tư FDI – Bộ kế hoạch và đầu tư (24-12-2002) So sánh với năm 2001, năm 2002 khu vực đã thu được những kết quả đáng mừng, thể hiện sự tiến triển theo chiều hướng tốt. Tổng kim nghạch xuất khẩu của FDI đạt 4,5 tỷ USD chiếm 27% tổng kim nghạch xuất khẩu cả nước; Tốc độ gia tăng kim nghạch xuất khẩu là 23% so với năm 2001 ( kim nghạch xuất khẩu cả nước tăng 12,6%). Tuy nhiên tồn tại trong hoạt động thu hút vốn FDI là không nhỏ: Số dự án được cấp giấy phép nhưng chưa triển khai và không có khả năng triển khai chiếm 23% tổng dự án đầu tư, 20% tổng vốn đăng ký. Nhiều nhà đầu tư chưa thực sự tin tưởng vào môi trường đầu tư Việt Nam vì chính sách có nhiều thay đổi, thiếu tính ổn định, không có lợi cho họ, trong đó có chính sách thuế. Môi trường đầu tư của Việt Nam đựoc cải thiện đáng kể nhưng tính cạnh tranh vẫn thấp hơn so với các nước trong khu vực, chi phí dịch vụ còn cao, còn tồn tại cơ chế hai giá, hạ tầng cơ sở chậm cải thiện, chấ lượng nguồn nhân lực chưa cao, một vài loại thuế cao hơn ở nước ngoài. II. Quản lý thuế đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài 1. Thuế và vai trò của thuế đối với đầu tư nước ngoài -Thuế là một phạm trù tài chính có từ lâu đời, nó tồn tại phát triển cùng với sự tồn tại và phát triển của Nhà nước, của kinh tế hàng hoá, tiền tệ. Song cho đến nay quan niệm về thuế dưới góc độ định nghĩa chưa hoàn toàn thống nhất. Theo Mác -Ang ghen để thực hiện quyền lực công cộng cần phải có sự đóng góp của những công dân, của nhà nước, khoản đóng góp đó gọi là thuế. Quan niệm này nghiêng về khía cạnh công dụng của thuế nhưng chưa làm rõ tính đặc thù của thuế so với phạm trù phân phối khá. Cung với sự phát triển của thuế khoá trong thực tiễn của nền kinh tế, định nghĩa về thuế dần được hoàn chỉnh hơn. Trong cuốn từ điển kinh tế của tác giả người Anh Chriopha Pass và Bryan Lo cho rằng: thuế là một biện pháp của Chính phủ đánh trên thu nhập của cải và vốn nhận được của cá nhân hay doanh nghiệp ( thuế trực thu), trên việc chi tiêu hàng hoá dịch vụ (thuế gián thu) và trên tài sản. Định nghĩa trên về thuế mới chỉ dừng lại ở việc chỉ rõ nguồn hình thành của thuế, chưa nêu rõ tính đăc thù của thuế. Theo hai nhà kinh tế học người Mỹ K.P Makkohhell và C.L Bryu: ‘thuế là một khoản chuyển giao bắt buộc bằng tiền hoặc chuyển giao bằng hàng hoá, dịch vụ của các công ty, các gia đình và Chính phủ, mà trong sự trao đổi đó họ không nhận được một cách trực tiếp hàng hoá dịch vụ nào cả, khoản nộp đó không phải là tiền phạt mà toà án tuyên phạt do hành vi vi phạm pháp luật" (Economics K.P Makkohhell và C.L Bryu -Mớc-1993) Cho đến nay có nhiều khái niệm khác nhau về thuế, mỗi khi đưa lại một khía cạnh riêng của thuế. Tóm lại ta có thể hiểu thuế theo khái niệm tổng quát sau: Thuế là một khoản chuyển giao thu nhập bắt buộc từ các thể nhân và pháp nhân cho nhà nước, theo mức độ và thời gian được pháp luật ấn định.Khoản chuyển giao thu nhập này nhằm phục vụ cho mục tiêu công cộng, không được sử dụng cho mục tiêu cá nhân Đậc trưng cơ bản của thuế đó là nó mang tính bắt buộc và không hoàn trả trực tiếp. Thông qua việc thu thuế Chính phủ điều hoà phân phối lại thu nhập, cung cấp hàng hoá công cộng cho xã hội. * Xét vai trò của chính sách thuế: thuế có 2 vai trò chủ yếu sau: - Là nguồn thu chủ yếu của ngân sách nhà nước đảm bảo chi trả cơ sở vật chất cho sự tồn tại và hoạt động của nhà nước. Qua thuế tạo tiền đề để nhà nước tiến hành phân phối và phân phối lại tổng sản phẩm xã hội và thu nhập quốc dân trong xã hội. Sự phát triển và mở rộng chức năng của nhà nước đòi hỏi tăng cường chi tiêu tài chính, do đó vai trò này ngày càng được nâng cao. - Vai trò điều chỉnh nền kinh tế Vai trò điều chỉnh của thuế thông qua việc quy định các hình thức thu thuế khác nhau, xác định đúng đấn đối tượng chịu thuế và nộp thuế, xây dựng chính xác các mức thuế phải nộp có tính đến khả năng của người nộp thuế.Trên cơ sở đó nhà nước kích thích các hoạt động kinh tế đi vào quỹ đạo chung của nền kinh tế quốc dân, phù hợp với lợi ích xã hội: bằng cách sử dụng thuế để kích thích tăng trưởng hoặc kìm hãm tốc độ tăng trưởng, tăng cường hoặc làm yếu đi sự tích luỹ tư bản, mở rộng hoặc thu hẹp nhu cầu có khả năng thanh toán của dân cư,... Xét trên phương diện vĩ mô: Qua thuế Nhà nước thực hiện điều chỉnh cả nền kinh tế, trên phương diện vi mô với một chính sách thuế đơn giản, công bằng, hiệu quả và hợp lý sẽ vừa đảm bảo nguồn thu cho ngân sách vừa khuyến khích doanh nghiệp nói chung (doanh nghiệp ĐTNN nói riêng) phát triển, khuyến khích đầu tư. Vấn đề đặt ra là để có một hệ thống thuế đơn giản, công bằng hiệu quả và hợp lý, chính sách thuế Việt Nam phải ngày càng hoàn thiện hơn để theo sát được diễn biến thực tế của nền kinh tế, để có thể động viên tối đa nguồn lực cho ngân sách. Đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, vai trò khuyến khích doanh nghiệp phát triển của chính sách thuế được làm rõ qua các ưu đãi về thuế. 2. Chế độ thuế áp dụng đối với doanh nghiệp đầu tư nước ngoài tại Việt Nam Từ sự phân tích trên về vai trò thực trạng của đầu tư nước ngoài, những hạn chế và các nguyên nhân dẫn tới các hạn chế đó, mà một trong những nguyên nhân cơ bản thuộc về chính sách tài chính của nhà nước. Từ đó để phát huy hơn nữa vai trò của đầu tư nước ngoài và khắc phục được các hạn chế đòi hỏi công tác tài chính đối ngoại phải thật phù hợp, linh hoạt Chính sách tài chính đậc biệt các chính sách thuế là vấn đề mà các nhà đầu tư nước ngoài vô cùng quan tâm trước khi tiến hành đầu tư vào một quốc gia nào đó. Về phía nhà nước, chính sách thuế là một công cụ tài chính có hiệu lực để quản lý điều tiết vĩ mô nền kinh tế. Đối với Việt nam, quản lý thuế trong lĩnh vực đầu tư nước ngoài dựa trên cơ sở: Luật đầu tư nước ngoài tại Việt nam, các luật thuế hiện hành, các nghị định, thông tư văn bản,quy định khác của chính phủ, Bộ tài chính và Tổng cục thuế. Theo quy định thì việc áp dụng thuế đối với lĩnh vực đầu tư nước ngoài có một số điểm khác so với các loại thuế áp dụng đối với các tổ chức cá nhân trong nước mà ta sẽ đè cập khi đi chi tiết cụ thể từng loại thuế dươí đây Các nhà đầu tư nước ngoài vào Việt nam dưới bất kỳ hình thức nào đều phải nộp các loại thuế, phí, lệ phí sau: Biểu 1 Các loại thuế phí Đối với DN, cá nhân trong nước Đối với DN,cá nhân nước ngoài A. Các loại thuế 01. Thuế GTGT 02. Thuế TTĐB 03. Thuế TNDN 04. Thuế XNK 05. Thuế thu nhập cá nhân 06. Thuế tài nguyên 07. Thuế chuyển lợi nhuận ra nước ngoài 08. Thuế chuyển nhượng vốn 09. Thuế đất 10. Tiền thuê đất,mặt nước, mặt biển B. Các loại thuế mang tính chất phí Thuế môn bài C. Các loại lệ phí Lệ phí trước bạ D. Các loại phí x x x x x x 0 x x x x x x x x x x x x x x x 0 x x x x x Ghi chú: x => Các lọai thuế, phí phải nộp 0 => Các loại thuế, phí không phải nộp Qua bảng phụ lục trên ta thấy đối với doanh nghiệp đầu tư nước ngoài chính sách thuế áp dụng có khác biệt so với doanh nghiệp nội địa. Những loại thuế gián thu GTGT,TTĐB,… đều dựa trên luật thuế hiện hành tuy nhiên có những sự ưu đãi đặc biệt. Riêng thuế chuyển lợi nhuận ra nước ngoài thì khối doanh nghiệp nội địa không phải là đối tượng điều chỉnh: * Theo thông tư 13/2001/TT-BTC ngày 8/3/2001 và hướng dẫn thực hiện quy định về thuế đối với các hình thức đầu tư theo luật đầu tư nước ngoài tại Việt nam.Các sắc thuế áp dụng đối với các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài bao gồm: 2.1. Thuế thu nhập doanh nghiệp (TNDN) Cùng với công cuộc cải cách thuế bước một năm 1990 luật thuế lợi tức được ban hành áp dụng chung cho các doanh nghiệp thuộc khu vực quốc doanh và ngoài quốc doanh, tuy nhiên qua 8 năm thực hiện luật thuế lợi tức dần bộc lọ nhiều nhược điểm và không còn phù hợp với tình hình kinh tế nước ta trong giai đoạn mới. Vì vậy,ngày 10/5/1997 luật thuế TNDN được quốc hội kỳ họp thứ 11 khoá X thông qua thay thế cho luật thuế lợi tức, có hiệu lực thi hành từ ngày 1/1/1999. Thuế TNDN là một loại thuế đánh trực tiếp vào thu nhập chịu thuế của các hoạt động sản xuất kinh doanh. Thu nhập của doanh nghiệp là toàn bộ số tiền mà doanh nghiệp thu được từ các họat động sản xuất kinh doanh trong một thời kỳ nhất định thường là một năm. Tuy nhiên trong thực tế không phải toàn bộ thu nhập của doanh nghiệp đều là đối tượng điều chỉnh của thuế TNDN. Thuế TNDN chỉ điều chỉnh phần thu nhập chịu thuế - Đối tượng nộp thuế TNDN là các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và bên nước ngoài hợp doanh. - Trong trường hợp hiệp định tránh đánh thuế hai lần mà nước ta ký kết có quy định khác về cơ sở thường trú thì thực hiện theo hiệp định đó - Trường hợp một tổ chức cá nhân nước ngoài đầu tư cùng một lúc nhiều hợp đồng hợp tác kinh doanh thì thúê TNDN được tính riêng cho từng hợp đồng hợp tác kinh doanh. Thuế TNDN phải nộp: được xác đinh như sau: Thuế TNDN phải nộp = Thu nhập chịu thuế trong kỳ x Thuế suất thuế TNDN Thu nhập chịu thuế trong kỳ = Doanh thu tính thuế trong kỳ - Chi phí hợp lý hợp lệ trong kỳ + Thu nhập chịu thuế khác - Trong trường hợp doanh nghiệp sau khi quyết toán thuế với cơ quan thuế mà bị lỗ thì khoản lỗ này được trừ vào thu nhập chịu thuế của các năm tiếp theo, theo kế hoạch của doanh nghiệp thời gian chuyển lỗ liên tiếp trong 5 năm. 2.2. Thuế thu nhập đối với chuyển nhượng vốn Các chủ đầu tư nước ngoài chuyển nhượng phần vốn góp của mình trong doanh nghiệp liên doanh, doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài hoặc hợp đồng hợp tác kinh doanh có thu nhập phải thực hiện nghĩa vụ nộp thuế đối với thu nhập từ chuyển nhượng vốn. Thu nhập chịu thuế = Giá trị chuyển nhượng - Giá trị ban đầu của phần vốn chuyển nhượng - Chi phí chuyển nhượng nếu có Thuế thu nhập DN phải nộp = thu nhập chịu thuế x thuế xuất Trường hợp các chủ đầu tư sau tiếp tục chuyển nhượng lại phần vốn góp của mình thì giá trị ban đầu của phần vốn chuyển nhượng từng lần sau được xác định bằng giá trị chuyển nhượng của hợp đồng ngày trước đó cộng với giá trị phần vốn góp bổ sung (nếu có ) Giá trị chuyển nhượng, giá trị ban đầu của phần vốn chuyển nhượng , chi phí chuyển nhượng được quy định cụ thể trong Thông tư số 13/2001/TT - BTC ngày 8/3/2001. 2.3. Thuế chuyển lợi nhuận ra nước ngoài Đối tượng chịu thuế là lợi nhuận mà các tổ chức kinh tế nước ngoài hoặc cá nhân nước ngoài thu được do tham gia đầu tư vốn dưới bất kì hình thức nào được quy định trong Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam gồm cả số thuế lợi tức được hoàn trả do số lợi nhuận tái đầu tư và thu nhập do chuyển nhượng vốn khi chuyển ra khỏi lãnh thổ Việt Nam và được giữ lại ngoài Việt Nam. Số thuế chuyển lợi nhuận ra nước ngoài phải nộp được xác định bằng (=) số lợi nhuận chuyển ra nước ngoài hoặc số lợi nhuận nhà đầu tư giữ lại ngoài lãnh thổ Việt Nam nhân (x) với thuế suất chuyển lợi nhuận quy định tại giấy phép đầu tư. Trường hợp trong giấy phép đầu tư được cấp không quy định thì thuế suất thuế chuyển lợi nhuận ra nước ngoài thực hiện theo quy định tại Điều 50 Nghị định số 24/2000/NĐ-CP ngày 31/7/2000. Thuế suất thuế chuyển lợi nhuận ra nước ngoài bao gồm ba mức: 3%, 5%, 7%. 2.4. Thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu. Để quản lí các hoạt động xuất khẩu , nhập khẩu mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại; nâng cao hiệu quả hoạt động xuất khẩu , nhập khẩu; góp phần bảo vệ sản xuất, hướng dẫn tiêu dùng trong nước và góp phần tạo nguồn thu vào ngân sách nhà nước , ngày 26/12/1991 Luật thuế xuất nhập khẩu ra đời . Thuế xuất nhập khẩu là loại thuế gián thu đánh trên giá trị và chủng loại hàng hoá được trao đổi giữa hai hay nhiều quốc gia . Theo quy định hiện hành trong các văn bản pháp quy của Nhà nước về thuế xuất khẩu, nhập khẩu thì đối tượng chịu thuế của luật này là: Tất cả các hàng hoá mà các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và các bên hợp doanh được phép xuất khẩu, nhập khẩu qua biên giới Việt Nam kể cả hàng hoá từ thị trường Việt Nam bán cho các doanh nghiệp trong khu chế xuất và hàng hoá của các doanh nghiệp trong khu chế xuất bán vào thị truờng Việt Nam. Thuế xuất khẩu, nhập khẩu được tính theo công thức sau: Số thuế xuất nhập khẩu phải nộp = Số lượng từng mặt hàng thực từ xuất, nhập khẩu x Giá tính thuế từng đơn vị mặt hàng x Thuế suất từng mặt hàng ghi trong biểu thuế Thuế suất nhập khẩucó 3 loại: thuế suất thông thường, thuế suất ưu đãi, thuế suất ưu đãi đặc biệt và ngoài ra trong một số trường hợp có thể áp dụng thuế suất bổ sung. Các quy định về thuế suất, số lượng, chủng loại hàng hoá giá tính thuế được quy định cụ thể thông tư 172/1998/TT-BTC hướng dẫn thực hiện Nghị định 94/1998/NĐ-CP về luật thuế xuất, nhập khẩu. 2.5. Thuế giá trị gia tăng - Thuế giá trị gia tăng là một loại thuế gián thu, được tính trên khoản giá trị tăng thêm của hàng hoá, phát sinh trong quá trình từ sản xuất, lưu thông đến tiêu dùng (Điêù 1- Luật thuế giá trị gia tăng) - Đối tượng chịu thuế giá tri gia tăng là hàng hoá dịch vụ dùng cho sản xuất, kinh doanh, tiêu dùng ở Việt nam bao gồm cả hàng hoá sản xuất trong nước và hàng hoá nhập khẩu để tiếp tục quá trình sản xuất hàng hoá hoặc để tiêu dùng ở Việt nam ( trừ 26 nhóm hàng hoá, dịch vụ không thuộc diện chịu thuế giá trị gia tăng quy định tại Điều 4 luật thuế giá trị gia tăng) và các trường hợp mà các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và bên hợp doanh nước ngoài không phải chịu thúê giá trị gia tăng được quy định tại Điều 60 trong Nghị định 24/2000/NĐ-CP ngày 31/7/2000. Nguyên tắc cơ bản của thuế giá trị gia tăng là đánh trên mọi hàng hoá và dịch vụ được tiêu dùng trong phạm vi lãnh thổ quốc gia Việt nam (hay hiểu theo nghĩa thị trường nội địa) do vậy hàng hoá và dịch vụ được bán vào khu chế xuất sẽ được miễn thuế (thuế suất thuế giá trị gia tăng = 0%) - Đối tượng nộp thuế là tất cả các tổ chức cá nhân, các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài có hoạt động sản xuất kinh doanh hàng hoá, dịch vụ chịu thuế giá trị gia tăng hoặc có nhập khẩu hàng hoá theo đối tượng chịu thuế giá trị gia tăng. - Đối tượng chịu thuế thự chất là những người tiêu dùng cuối cùng. - Thuế giá trị gia tăng phải nộp được tính theo một trong hai phương pháp: phương pháp khấu trừ và phương pháp trực tiếp trên giá trị gia tăng. + Đối với các đơn vị tổ chức kinh doanh chấp hành tốt công tác hạch toán kế toán và chế độ hoá đơn chứng từ thì có đủ điều kiện thực hiện nộp thuế giá trị gia tăng theo phương pháp khấu trừ. Số thuế giá trị gia tăng tính theo phương pháp này được xác định như sau: Thuế GTGT đầu ra = Giá tính thuế của hàng hoá bán ra x thuế suất thuế giá trị gia tăng Thuế GTGT đầu vào bằng tổng số thuế GTGT ghi trên hoá đơn GTGT mua hàng hoá dịch vụ (bao gồm cả tài sản cố định dùng cho sản xuất kinh doanh, hàng hoá dịch vụ chịu thuế giá trị gia tăng, số thuế GTGT ghi trên chứng từ nộp thuế của hàng hoá nhập khẩu). + Đối với các doanh nghiệp không đủ điều kiện để thực hiện nộp thuế theo phương pháp khấu trừ thì phải nộp thuế theo phương pháp trực tiếp. Số thuê GTGT phải nộp = GTGTcủa hàng hoá, dịch vụ chịu thuế x Thuế suất thuế GTGT của hàng hoá đó GTGT của hàng hoá, dịch vụ chịu thuế = Giá hạch toán của hàng hoá dịch vụ bán ra - Giá thanh toán của hành hoá dịch vụ mua vào - Các doanh nhgiệp có vốn đầu tư nước ngoài đều có tư cách pháp nhân và thực hiện đầy đủ chế đọ kế toán, hoá đơn chứng từ nên thực hiện nộp thuế theo phương pháp khấu trừ trừ những trươìng hợp tổ chức cá nhân nước ngoài kinh doanh ở Việt nam không theo luật đầu tư nước ngoài tại Việt nam chưa thực hiện đầy đủ các điều kiện về kế toán, hoá đơn chứng từ để làm căn cứ tính thuế theo phương pháp khấu trừ thuế. - Thuế suất: luật thuế giá trị gia tăng hiện hành quy định 4 mục thuế suất + Mức thuế suất 0% áp dụng cho hàng xuất khẩu Thuộc loại nàybao gồm các hàng hoá dịch vụ chủ yếu sau: hàng hoá xuất khẩu bao gồm hàng hoá chịu thuế TTĐB xuất khẩu, hàng gia công xuất khẩu ra nước ngoài, dịch vụ xuất khẩu lao động, hoạt động xây dựng, lắp đặt ở nước ngoài và cho doanh nghiệp chế xuất... Xuất khẩu bao gồm xuất khẩu ra nước ngoài, xuất khẩu vào khu chế xuất hoặc cho doanh nghiệp chế xuất và các trường hợp cụ thể được coi là xuất khẩu theo quy định của Chính phủ. + Mức thuế xuất 5% áp dụng cho hàng hoá, dịch vụ thiết yếu cho đời sông xã hội, nguyên liệu và phương tiện phục vụ trực tiếp cho sản xuất, nhằm thực hiện chính sách xã hội, khuyến khích đầu tư sản xuất. VD: như các nguyên liệu cho sản xuất công nghiệp, đất đá cát sỏi, than tự nhiên,sản phẩm luyện kim đen... + Mức thuế suất10% áp dụng cho hàng hoá dịch vụ thông thường không nằm trong diện chịu các mức thuế suất 5%, 20%,0% và danh mục không áp dụng thuế GTGT. + Mức 20% áp dụng cho các hàng hoá và dịch vụ cao áp không thiết yếu, cần phải điều tiết tiêu dùng ( nhưng chưa đến mức phải áp dụng thuế TTĐB ) 2.6. Thuế tiêu thụ đặc biệt (TTĐB) Thuế tiêu thụ đặc biệt là một loại thuế gián thu đánh vào khâu sản xuất và khâu nhập khẩu các hàng hoá và dịch vụ là đối tượng chịu thuế tiêu thụ đặc biệt. Mặt khác hàng hoá đó phải được tiêu dùng trong phạm vi lãnh thổ Việt nam, do vậy hàng hoá xuất khẩu và hàng hoá dịch vụ được bán vào khu chế xuất sẽ được miễn thuế. Đối tượng nộp thuế tiêu thụ đặc biệt bao gồm: + 8 loại hàng hoá:thuốc lá, rượu, bia, ôtô,xăng các loại, điều hoà nhiệt độ (công suất từ 90.000 BTU trở xuống), bài lá, vàng mã, hàng mã. + 4 loại dịch vụ: kinh doanh vũ trường, mát xa- karaoke, kinh doanh casio, kinh doanh vé đặt cược đua xe, kinh doanh gôn (golf). Đối tượng nộp thuế tiêu thụ đặc biệt là cá nhân, tổ chức thuộc mọi thành phần kinh tế, đoàn thể xã hội, các doanh nghiệp thành lập và hoạt động theo đầu tư nước ngoài có nhập khẩu hay sản xuất, cung ứng dịch vụ những mặt hàng chịu thuế tiêu thụ đặc biệt. Thuế tiêu thụ đặc biệt phải nộp được xác định theo công thức sau: Thuế tiêu thụ đặc biệt phải nộp = Số lượng hàng hoá tiêu thu hoặc nhập khẩu x Giá tính thuế một đơn vị x Thuế suất - Thuế tiêu thụ đặc biệt đầu vào tương ứng với số hàng hoá bán ra Thuế tiêu thụ đặc biệt phải nộp đối với hàng nhập khẩu: Thuế tiêu thụ đặc biệt phải nộp = (Giá CI F + Thuế nhập khẩu) x Thuế suất thuế tiêu thụ đặc biệt Thuế suất thuế tiêu thụ đặc biệt gồm 12 mức thuế suất từ 15% đến 100% được áp dụng đối với cả hàng sản xuất._. trong nước và hàng nhập khẩu. Về miễn giảm thuế: các cơ sở gặp khó khăn do thiên tai, dịch hoạ, tai nạn bất ngờ phát sinh thua lỗ trong kinh doanh... được xét miễn giảm thuế tiêu thụ đặc biệt nhưng số thuế được miễn giảm không quá giá trị hàng hoá bị thiệt hại, không vượt quá 30 % so với số thuế phải nộp theo luật. 2.7. Thuế tài nguyên Thuế tài nguyên là một khoản thu bắt buộc đối với các tổ chức và các cá nhân có hoạt động khai thác tài nguyên không phụ thuộc vào cách thức tổ chức và hiệu quả sản xuất kinh doanh của người khai thác. ở nước ta trước năm 90 chưa thực hiện thuế tài nguyên nhưng đã áp dụng một số hình thức thu mang tính chất của thuế tài nguyên nhuư chế độ thu tiền nuôi rừng, chế độ thu đối với vàng sa khoáng… Trong cải cách thuế bước I đòi hỏi hệ thống thuế phải bao quát đầy đủ các nguồn thu trong nước và có tác động tích cực đối với sản xuất kinh doanh. Vì vậy páp lệnh thuế tài nguyên được ban hành có hiệu lực thi hành từ 1/1/1991 cho đến nay pháp lệnh thuế tài nguyên đã được sửa đổi bổ sung.Ngày 16/4/1998 pháp lệnh thuế tài nguyên (sửa đổi bổ sung ) đã được Uỷ ban thường vụ Quốc hội khoá X ban hành có hiệu lực thi hành từ 1/6/1998 Chính phủ và Bộ tài chính đã ban hành các nghị định và thông tư hướng dẫn thi hành pháp lệnh về thuế tài nguyên. Trong văn bản pháp luật hiện hành quy định: Đối tượng nộp thuế tài nguyên là tất cả các tổ chức thuộc mọi thành phần kinh tế không phân biệt ngành nghề quy mô hình thức hoạt động có khai thác tài nguyên theo quy định của pháp luật Việt nam (các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, các doanh nghiệp thành lập theo hợp đồng hợp tác kinh doanh nếu có khai thác tài nguyên theo quy đinh của pháp luật Việt Nam đều phải nộp thuế tài nguyên) Đối tượng chịu thuế tài nguyên là các tài nguyên thiên nhiên như khoáng sản kim loại, dầu mỏ, khí đốt, sản phẩm rừng tự nhiên, thuỷ sản tự nhiên... trong phạm vi đất liền, hải đảo, nội thuỷ, lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa thuộc chủ quyền nước ta. Thuế tài nguyên phải nộp được tính như sau: Số thuế tài nguyên phải nộp = Khối lượng tài nguyên khai thác thực từ x Giá tính thuế tài nguyên (đơn vị) x Thuế suất - Số thuế được miễn giảm. Thuế suất tài nguyên được quy định theo 8 nhóm loại tài nguyên chính với mức thuế suất cao nhất và thấp nhất đối vơí từng loại và từng nhóm loại tài nguyên từ 2% đến 40%. Các trường hợp giảm thuế tài nguyên được quy định trong thông tư 153/1998/TT-BTC ngày 26/11/1998. 2.8. Thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao (TNCN) Thuế TNCN đã được áp dụng từ rất lâu ở các nước phát triển. Lần đầu tiên ở Anh vào năm 1797 thuế TNCN được đưa thực hiện với tên gọi Income taxnhw một hình thức thu tạm thời nhằm mục đích trang trải cho cuộc chiến tranh chống Napoleon (Pháp) và chính thức áp dụng loại thuế này từ năm 1842. Sau đó nhưng nước tư bản phát triển khác cũng chính thức áp dụng loại thuế này: Nhật (1887), Mỹ (1913), Pháp (1914). Sự ra đời của thuế TNCN bắt nguồn từ hai yêu cầu cơ bản đó là thực hiện chức năng phân phối thu nhập, đảm bảo công bằng xã hội và nhu cầu chi tiêu của chính phủ. Ngày 27/12/1990 pháp lệnh thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao đã được Quốc Hội nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam thông qua, có hiệu lực thi hành từ ngày 1/4/1991. Mức khởi điểm chịu thuế liên tục được điều chỉnh tăng: Đối với người Việt Nam từ 650000 đồng/người/tháng đến 3000000000đồng/người/ tháng. Đối với người nước ngoài từ 2400000000 đồng/người/tháng dến 8000000000 đồng/người /tháng. Tuy vậy số thu nộp ngày càng tăng: năm 1991 : 62 tỷ đồng năm 1992 : 153 tỷ đồng năm 1993 : 184 tỷ đồng năm 1998 : 1550 tỷđồng năm 1999 : 1800 tỷ đồng năm 2000 : 1832 tỷ đồng năm 2001: 1762 tỷ đồng năm 2002: 1856 tỷ đồng. * Đối tượng nộp thuế thu nhập cá nhân: việc xác định đối tượng nộp thuê TNCN về cơ bản dựa trên 3 nguyên tắc: + Các cá nhânlà công dân Việt Nam ở trong nước hoặc đi công tác ,lao động ở nước ngoài có thu nhập và các cá nhân khác không mang quốc tịch Việt Nam nhưng định cư không thời hạn tại Việt Nam . + Người nước ngoài là “đối tượng cư trú ” tại Việt Nam. + Người nước ngoài không phải là “đối tượng cư trú ” tại Việt Nam có thu nhập tại Việt Nam (kể cả người nước ngoài không hiện diện tại Việt Nam). Như vậy mọi công dân Việt Nam ở trong nước hay ở nước ngoài có thu nhập đều là đối tượng nộp thuế thu nhập. Qui định này xét diện rộng nhưng lại thu hẹp thông qua qui định công dân Việt Nam có thu nhập từ tiền lương, tiền công và một số khoản thu nhập khác (Được qui định cụ thể trong thông tư). Một số qui định khác có liên quan đến điều chỉnh đối tượng nộp thuế TNCN là hiệp định tránh đánh giá thuế trùng, theo đó đối tượng là công dân Việt Nam nhưng đi lao động có thời hạn ở nước ngoài thì không phải nộp thuế TNCN ở Việt Nam. Để xác định người nước ngoài là “đối tượng cư trú ” tại Việt Nam, pháp lệnh hiện hành về thuế thu nhập cá nhân ở Việt Nam đã đưa ra tiêu chí : người nước ngoài phải có thời gian làm ăn sinh sống ở Việt Nam dưới 183 ngày thì không được coi là “đối tượng cư trú ” tại Việt Nam. Cụ thể hơn, người nước ngoài có thu nhập thường xuyên không phải “đối tượng cư trú ” tại Việt Nam nếu ở Việt Nam trên 183 ngày thì phải kê khai nộp thuế thu nhập tại Việt Nam theo biểu thuế luỹ tiến từng phần ; là “đối tượng cư trú ” tại Việt Nam nộp thuế theo một thuế suất trước ngày 30/06/2001 là 10%, từ 01/07/2001 là 25% thu nhập phát sinh tại Việt Nam . Người nước ngoài không phải là “đối tượng cư trú ” tại Việt Nam nhưng có thu nhập tại Việt Nam bao gồm các đối tượng được qui định tại điểm 1.3 mục 1 phầnI thông tư số 08/2002/TT-BTC ngày 17/01 /2002 của bộ tài chính . * Đối tượng chịu thuế : là các khoản thu nhập mà một cá nhân nhận được trong một khoảng thời gian nhất định, thường là 1 năm . Đối tượng chịu thuế gồm 2 loại : + Tiền công, tiền lương, tiền thường có tính chất như lương (qui định trong điểm 2.1 muc 2 phần I thông tư số 05 /2002/TT-BTC ngày 17/01/2002 là khoản phát sinh có tính thường xuyên ), có tính ổn định, đều đặn trong năm. + Thu nhập không thường xuyên : là khoản thu nhập phát sinh theo từng lần; từng đợt riêng lẻ không có tính chất đều đặn như quà biếu, quà tặng, tiền bản quyền, chuyển giao công nghệ, tiền trúng xổ số …( điểm 2.2 mục 2 phầnI thông tư số 08/2002/TT-BTC ngày 17/01 /2002 của bộ tài chính ). * Thuế suất : +Đối với biểu thuế suất luỹ tiến từng phần áp dụng đối với thu nhập thường xuyên, có phân biệt giữa người Việt Nam và người nước ngoài. Do nguồn thu nhập, mức thu nhập, mức sinh hoạt có khác khau giữa người Việt Nam và người nước ngoài nên biểu thuế đối với thu thập thường xuyên cũng được chia thành 2 biểu: một bểu cho người Việt Nam và cá nhân khác định cư không thời hạn ở Việt Nam và một biểu cho người nước ngoài cư trú tại Việt Nam và công dân Việt Nam lao động công tác ở nước ngoài; a) Biểu thuế suất luỹ tiến áp dụng đối với thu nhập thường xuyên của công dân Việt Nam và các cá nhân khác không mang quốc tịch Việt Nam nhưng định cư không thời hạn ở Việt Nam. Biểu thuế này bao gồm 6 mức thuế suất (0%, 10%, 20%, 30%, 40% và 50%) áp dụng tương ứng cho 6 bậc thu nhập, trong đó mức thu nhập thấp nhất chịu thuế (ngưỡng tính thuế) là trên 3 triệu đồng, mức thu nhập chịu thuế suất cao nhất (50%) là trên 15 triệu đồng. (Biểu cụ thể tại điểm 1.2 Mục 1 Phần II Thông tư số 05/2002/TT - BTC ngày 17/01/2002 của Bộ Tài chính). Công dân Việt Nam ở trong nước và cá nhân khác định cư tại Việt Nam, nếu sau khi đã nộp thuế theo biểu thuế nói trên mà thu nhập còn lại bình quân trên 15 triệu đồng/tháng thì phải nộp thuế thu nhập bổ sung theo thuế suất 30% cho phần thu nhập lớn hơn 15 triệu đồng đó. b) Biểu thuế suất luỹ tiến áp dụng đối với thu nhập thường xuyên của người nước ngoài cư trú tại Việt Nam và Công dân Việt Nam lao động công tác ở nước ngoài: Biểu này bao gồm 6 mức thuế suất (0%, 10%, 20%, 30%, 40% và 50%) áp dụng tương ứng cho 6 bậc thu nhập, trong đó mức thu nhập thấp nhất chịu thuế (ngưỡng tính thuế) là trên 8 triệu đồng, mức thu nhập chịu thuế suất cao nhất (50%) là trên 120 triệu đồng. (Biểu cụ thể tại Điểm 1.2 Mục 1 Phần II Thông tư số 05/2002/TT - BTC ngày 17/01/2002 của Bộ Tài chính). Riêng người nước ngoài cư trú tại Việt Nam từ 30 ngày đến 182 ngày trong năm thì áp dụng thuế suất thống nhất 25% trên tổng thu nhập. +Biểu thuế suất luỹ tiến từng phần áp dụng đối với thu nhập không thường xuyên, không phân biệt giữa người Việt Nam và người nước ngoài. Biểu thuế này bao gồm 6 mức thuế suất (0%, 5%, 10%, 15%, 20% và 30%) áp dụng tương ứng cho 6 bậc thu nhập, trong đó mức thu nhập thấp nhất chịu thuế (ngưỡng tính thuế) là trên 2 triệu đồng, mức thu nhập chịu thuế suất cao nhất (30%) là trên 30 triệu đồng. (biểu cụ thể tại Điểm 2.2 Mục 2 Phần II Thông tư số 05/2002/TT - BTC ngày 17/01/2002 của Bộ Tài chính). Ngoài quy định chung nói trên còn có một số ngoại lệ, áp dụng thuế suất toàn phần như sau: - Đối với thu nhập chuyển giao công nghệ, thu nhập từ quà biếu quà tặng từ nước ngoài, có giá trị trên 2 triệu đồng/lần thì áp dụng thuế suất 5% thống nhất trên tổng số thu nhập. - Đối với thu nhập về trúng thưởng xổ số có giá trị trên 12,5 triệu đồng thì áp dụng thuế suất 10% thống nhất trên tổng số thu nhập. 2.9. Tiền thuê đất, mặt nước, mặt biển Các tổ chức cá nhân nước ngoài đầu tư trực tiếp vào Việt Nam dưới các hình thức liên doanh, 100% vốn nước ngoài và các bên tham gia hợp đồng hợp tác kinh doanh dược nhà nước Việt Nam cho thuê đất mặt nước, mặt biển mà không phải nộp thuế sử dụng đất nông nghiệp và thuế đất như các tổ chức, cá nhân trong nước theo quyết định số 189/2000/QĐ-BTC ban hành ngày 24/11/2000. Đơn giá tiền thuê đất được qui định trong giấy phếp đầu tư mặt nước sông hồ vịnh có đơn giá thuê từ 75 $ đến 525 $ /ha/năm. Mặt biển đơn giá thuê từ150 $ đến 600 $/km2/năm . Đối với trường hợp thuê có diện tích không cố định thì áp dụng mức tiền thuê từ 1800$ đén 7500$/km2/năm. Trên đây là toàn bộ chế độ thuế áp dụng cho khối doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài. III. Nội dung công tác quản lý thu thuế. 1. Đặc điểm của khối doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài quy định công tác quản lý thu thuế. 1.1. Đặc điểm chung về pháp lý: Đầu tư trực tiếp nước ngoài bao gồm 3 hình thức: liên doanh góp vốn, 100% vốn nước ngoài, hợp tác kinh doanh hoạt động trên cơ sở giấy phép do cơ quan có thẩm quyền cấp (Bộ kế hoạch đầu tư đối với dự án lớn; sở kế hoạch đầu tư đối với dự án nhỏ hơn) có tư cách pháp nhân hoạt đọng theo nội dung, nhiêm vụ được qui định trong giấy phep đàu tư, điều lệ liên doanh, hợp đồng liên doanh…. Vì hoạt động trên đất Việt Nam có tư cách pháp nhân do vậy mối quan hệ giữa các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài với bên đối tác góp vốn tại ước ngoài là quan hệ giữa công ty mẹ với công ty con chỉ là mối quan hệ liên kết trong đó công ty mẹ không chịu trách nhiệm về mặt pháp lý đối với công ty con của mình kinh doanh tại Việt Nam . Các bên nước ngoài hợp tác kinh doanh trên cơ sở hợp đồng kể cả nhà thầu nước ngoài trong các hợp đồng dầu khí không mang tư cách pháp nhân Việt Nam, chỉ được phép kinh doanh tại Việt Nam theođúng các nội dung kinh doanh được ghi trên giấy phép đầu tư hoặc quyết định chuẩn y hợp đồng. Do vậy hình thức đầu tư này không hình thành pháp nhân mới nên mối quan hệ giữa phía nước ngoài hợp tác kinh doanh với công ty ở Việt Nam không phải là quan hệ giữa công ty mẹ với công ty con mà là mối quan hệ giữa chi nhánh và công ty. Như vậy công ty ở nước ngoài đó phải chịu trách nhiêm trước pháp luật Việt Nam về mọi hoạt động của chi nhánh tại Việt Nam. Các chi nhánh ngân hàng nước ngoài, ngoài các đặc điểm cũng giống như bên nước ngoài hợp tác koinh doanh trên cơ sở hợp đồng còn phải tuân thủ giấy phếp do ngân hàng nhà nước Việt Nam cấp và phải tuân thủ qui chế hoạt động của các chi nhánh ngân hàng tại Việt Nam (pháp lệnh Ngân hàng). 1.2. Đặc điểm về tài chính kế toán. Từ 1/1/1996 theo quy định tại Quyết định 1141 TC/QĐ/CĐKT ngày 1/11/1995 do Bộ tài chính phê duyệt về việc ban hành chế độ kế toán Việt nam, các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài phải thực hiện chế độ kế toán Việt nam. Trường hợp áp dụng chế độ kế toán khác phải được Bộ tài chính chấp nhận. Tuy nhiên, dù doanh nghiệp được phép sử dụng chế độ kế toán nào thì việc tính toán các khoản chi phí và xác định các căn cứ để tính các loại thuế phải tuân thủ quy định về thuế của Việt nam. Năm tính thuế là năm dương lịch bắt đầu từ ngày 1/1 và kết thúc ngày 31/12 hàng năm. Trường hợp doanh nghiệp được Bộ tài chính chấp thuận áp dụng năm tài chính khác với năm dương lịch thì năm tính thuế là năm tài chính đó. Ví dụ: từ1/3 năm nay đến 1/3 năm sau. Ngoài ra, nghị định số 24/2000 NĐ-CP có quy định rõ: + Đơn vị đo lường dùng trong kế toán và thống kê là đơn vị đo lường chính thức của Việt nam. Các đơn vị đo lường khác phải được quy đổi ra đơn vị đo lường chính thức của Việt nam. + Đơn vị được sử dụng trong ghi chép kế toán va thống kê là đồng Việt Nam. Trường hợp dùng đơn vị tiền tệ nước ngoài doanh nghiệp FDI phải được sự đồng ý của Bộ tài chính.Việc ghi chép kế toán thống kê được thực hiện bằng tiếng Việt nam hoặc đồng thời bằng tiếng Việt nam và tiếng nước ngoài thông dụng. + Về báo cáo tài chính: để đảm bảo tính trung thực chính xác của thông tin trong BCTC. BCTC của doanh nghiệp FDI phải được kiểm toán bởi một công ty kiểm toán độc lập được phép hoạt động tại Việt nam. BCTC của doanh nghiệp FDI đã được kiểm toán có thể đượic sử dụng làm cơ sở để xác định và quyết toán các nghĩa vụ thuế và nghĩa vụ tài chính khác đối với nhà nước Việt nam. 1.3. Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài có những ưu thế so với khối doanh nghiệp nội địa Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài có ưu thế hơn hẳn về công nghệ, vốn cũng như trình độ lao động so với các khối doanh nghiệp khác 1.4. Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài được hưởng một số ưu đãi về chính sách thuế Nhận thức được tầm quan trọng của đầu tư nước ngoài đối với sự phát triển kinh tế xã hội, để thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoà, chính sách thuế áp dụng đối với các dự án đầu tư có sự ưu đãi: - Thuế thu nhập doanh nghiệp *Ưu đãi về thuế suất 1. Thuế suất chung: đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài là 25%, trong khi các doanh nghiệp nội địa là 32%. 2. áp dụng mức thuế suất 20% trong thời hạn 10 năm kể từ khi hoạt động sản xuất kinh doanh đối với dự án đầu tư có một trong các tiêu chuẩn sau Xuất khẩu ít nhất 80% sản phẩm Sử dụng 500 lao động trở lên Nuôi trồng chế biến nông sản, lâm sản, thuỷ sản Sử dụng công nghệ tiên tiến, đầu tư vào nghiên cứu phát triển Sử dụng nguyên liệu vật tư sẵn có tại Việt nam, sản xuất sản phẩm có tỷ lệ nội địa hoá cao 3. áp dụng mức thuế suất 15% trong 12 năm đối với các dự áncó một trong các tiêu chuẩn sau: Xuất khẩu ít nhất 80% sản phẩm Đầu tư vào lĩnh vực luyện kim, hoá chất cơ bản, cơ khí chế tạo, hoá dầu, phân bón, sản xuất linh kiện điện tử, linh kiện ô tô xe máy Xây dựng kinh doanh công trình kết cấu hạ tầng (cầu, đường, cấp thoát nước, điện, xây dựng bến cảng...) Trồng cây công nghiệp lâu năm Đầu tư vào vùng khó khăn (kể cả dự án khách sạn) Chuyển giao không bồi hoàn tài sản cho nhà nước Việt nam sau khi kết thúc thời gian hoạt động (kể cả dự án khách sạn) Các dự án có đủ 2 tiêu chuẩn nêu tại điểm 2 nêu trên. 4. áp dụng thuế suất 10% trong thời hạn 15 năm đối với các dự án: Xây dựng kết cấu hạ tầng tại vùng khó khăn Đầu tư vào miền núi hải đảo, vùng sâu, vùng xa. Trồng rừng. Các dự án đặc biệt khuyến khích đầu tư khác: - Các dự án theo phụ lục số 1 Nghị định số 10/NĐ-CP của Chính phủ ngày 23/1/1998 về một số biện pháp khuyến khích và bảo đảm hoạt động đầu tư trực tiếp của nước ngoài Việt nam. -Tại Quyết định số 53/1999/QĐ-TTg ngày 26/3/1999 về một số biện pháp khuyến khích đầu tư trực tiếp của nước ngoài có bổ sung dự án thuộc danh mục đặc biệt khuyến khích đầu tư gồm: Xuất khẩu từ 80% sản phẩm trở lên Xuất khẩu từ 50% sản phẩm trở lên và sử dụng nhiều lao động, nguyên liệu, vật tư trong nước (có giá trị từ 30% chi phí sản xuất trở lên) Đầu tue vào địa bàn có điều kiện kinh tế, xã hội khó khăn đáp ứng một trong các điều kiện sau: Xuất khẩu từ 50% sản phẩm trở lên thuộc lĩnh vực nuôi trồng, chế biến nông lâm thuỷ sản. Xuất khẩu từ 50% sản phẩm trở lên và sử dụng trên 500 lao động Xuất khẩu trên 30% sản phẩm trở lên và sử dụng nhiêu nguyên liệu vật tư trong nước (có giá trị 30% chi phí sản xuất trở lên ) Sản xuất linh kiện phụ tùng cơ khí, điện, điện tử có giá trị cao. Chế biến khoảng sản khai thác tại Việt nam. 5. Đối với các dự án đầu tư theo hợp đồng BOT, BTO, BT dự án xây dựng hạ tầng khu công nghiệp, khu thuế suất thuế suất ưu đãi 20%, 15%,10% áp dụng trong suốt thời gian thực hiện dự án. Các thuế suất trên không áp dụng đối với các dự án khách sạn, ngân hàng bảo hiểm cung cấp dịch vụ thương mại. * Miễn giảm thuế TNDN - Các dự án được áp dụng thuế suất 20% trong thời hạn 10 năm hoạt động sản xuất kinh doanh được miễn 1 năm đầu kể từ khi có thu nhập chịu thuế và giảm 50% số thuế TNDN phải nộp trong 2 năm tiếp theo. - Các dự án được áp dụng thuế suất 15% trong thời hạn 15% trong thời hạn 15 năm kể từ khi sản xuất kinh doanh được miễn thuế thu nhập trong 2 năm đầu và giảm 50% số thuế thu nhập doanh nhgiệp phải nộp trong 3 năm tiếp theo. - Các dự án được áp dụng thuế suất 10% trong thời hạn 15 năm kể từ khi sản xuất kinh doanh được miễn thuế thu nhập trong 4 năm đầu và giảm 50% số thuế TNDN phải nộp trong 4 năm tiếp theo. - Các dự án trồng rừng và các dự án xây dựng kết cấu hạ tầng ở miền núi hải đảo và các dự án đặc biệt khuyến khích đầu tư được miễm thuế trong thời hạn 8 năm. Trong khi đó đối với doanh nghiệp trong nước hoạt động theo luật khuyến khích đầu tư trong nước, thuế suất đối với các trường hợp khuyến khích đầu tư tương ứng 25%, 20%, 15%, và thời gian miễn thuế tối đa là 4 năm. So với các nước trong khu vực,chính sách thuế thu nhập doanh nghiệp cũng có nhiều ưu đãi hơn. Ví dụ như: ở Inđônêsia các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoàiphải nộp thuế thu nhập doanh nghiệp với biểu thuế suất luỹ tiến tùư 10 đến 30%, không miễn giảm ( chỉ có một số ítdự án có tầm quan trọng đặc biệt đối với nền kinh tế, nếu được Tổng thống quuyết định mới được miễn thuế tối đa là 10 năm ).Taị Trung quốc, các doanh nghiệp FDI phải nộp thuế thu nhập doanh nghiệp với mức thuế suất 33%, trong đó 30% cho ngân sách trung ương và 3% cho ngân sách địa phương ( trừ đầu tư vào các khu vực phát triển kinh tế và công nghệ, các đặc khu kinh tế áp dụng thuế suất 15% và các khu vực kinh tế mở áp dụng thuế suất 24%, miễn thuế tối đa là 5 năm). - Thuế xuất nhập khẩu Theo Nghị định số 24/2000/NĐ-CP quy đinh rõ: 1. Doanh nghiệp FDI tại Việt nam được miễn thuế nhập khẩu đối với hàng hoá nhập khẩu để tạo TSCĐ của doanh nghiệp bao gồm: thiết bị máy móc, phương tiện vận tải chuyên dùng nằm trong dây chuyền công nghệ, phương tiện đưa đón công nhân, linh kiện, chi tiết... Riêng với vật liệu xây dựng chỉ miễn thuế nhập khẩu đối với những loại trong nước chưa sản xuất được. Điều này còn được áp dụng cho cả trường hợp mở rộng quy mô dự án, thay thế đổi mới công nghệ. 2. Ngoài ra, doanh nghiệp FDI thuộc danh mục các dự án đặc biệt khuyến khích đầu tư, hoặc đầu tư vào địa bàn có điều kiện kinh tế xã hội đặc biệt khó khăn, được miễn thuế nhập khẩu nguyên liệu, vật tư, linh kiện để sản xuất trong 5 năm kể từ khi bắt đầu sản xuất. Các loại nguyên liệu, phụ tùng, vật tư nhập khẩu để sản xuất hàng xuất khẩu cũng được miễn nhập khẩu. Trong khi đó, các nước khác trong khối Asean đều không miễn thuế nhập khẩu đối với máy móc, thiết bị, vật tư, nguyên liệu... để tạo ra tài sản cố định của doanh nghiệp FDI. Việc miễn thuế nhập khẩu đối với hành hoá, vật tư, thiết bị nhập khẩu được quy định kèm theo các quy định rất khắt khe. Tại Trung Quốc, kể từ ngày 1/1/1998 một trong các điều kiện để xét miẽn giảm thuế nhập khẩu với máy móc, thiết bị nhập khẩu là các dự án phải thuộc danh mục dự án khuyến khích đầu tư hoặc phải có cam kết chuyển giao công nghệ. Thái Lan quy đinh chỉ miễn (hoặc giảm 50%) thuế nhập khẩu đối với máy móc thiết bị nhập khẩu cho các dự án mà cơ quan quản lý đầu tư (BOI) cho là dự án được khuyến khích. Đối với nguyên liệu nhập khẩu để sản xuất hàng xuất khẩu, hầu hết các nước trong khu vực đều áp dụng miễn thuế nhập khẩu. Chẳng hạn, tại Inđônêxia và Malaysia quy định hoàn thuế nhập khẩu đối với nguyên liệu nhập khẩu để sản xuất hàng xuất khẩu. Tuy nhiên, Thái Lan quy định chỉ miễn thuế nhập khẩu đối với nguyên liệu thiết yếu trong 5 năm cho các dự án đầu tư vào địa bàn đặc biệt khuyến khích đầu tư và xuất khẩu ít nhất 30% sản phẩm. Ân Độ qui định chỉ các dự án xuất khẩu trên 75% sản phẩm thì mới được miễn thuế nhập khẩu đối với máy móc thiết bị và nguyên liệu nhập khẩu. - Ưu đãi về tiền thuê đất Theo Nghị định 24/2000/NĐ-CP doanh nghiệp FDI được thuê đất với mức giá thấp nhất và đươc miễn, giảm tối đa các loại thuế trong trường hợp đầu tư xây dựng nhà ở cho công nhân và các công trình hạ tầng ngoài hàng rào, mức giá thuê đất thấp nhất cũng đươc áp dụng đối với các lĩnh vực khám chữa bệnh, giáo dục đào tạo, nguyên cứu khoa học. 2. Nội dung công tác quản lý thu thuế tại khu vực các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài 2.1. Các yêu cầu của công tác quản lý thu thuế tại khu vực các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài Từ những đặc điểm riêng biệt về pháp lý, về tài chính kế toán, cũng như các đặc điểm về chính sách ưu đãi của Nhà nước nhằm thu hút đầu tư,…của khối doanh nghiệp có vốn đầu tư nứoc ngoài đặt ra những yêu cầu đối với công tác quản lý thu thuế : * Yêu cầu dối với cán bộ quản lý thuế Người làm công tác quản lý thuế đối với khu vực đầu tư nước ngoài phải đạt được các yêu cầu sau : - Cán bộ quản lý thuế phải am hiểu đầy đủ luật đầu tư nước ngoài tại Việt nam và các văn bản luật khác liên quan điều chỉnh lĩnh vực này. - phải nắm vững luật pháp về thuế áp dụng cho từng hình thức đầu tư nước ngoài vào Việt Nam. - Phải am hiểu các tiêu chuẩn kế toán quốc tế phổ biến và có kiến thức về quản lý kinh doanh. - phải biết ít nhất một ngoại ngữ thông dụng để đọc và hiểu các tài liệu, sổ sách chứng từ kế toán của đối tượng nộp. - Có kiến thức về Luật pháp Quốc tế, am hiểu và vận dụng vào thực tiễn quản lý thu thuế các hiệp định giữa Việt Nam và nước ngoài liên quan dến lĩnh vực mình quản lý như Hiệp định tránh đánh thuế hai lần, Hiệp định bảo hộ đầu tư… 2.2. Nội dung công tác quản lý thu thuế trong khu vực doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài a. Quy trình quản lý thu thuế : Quy trình quản lý thu thuế phản ánh trình tự các bước công việc phải làm nhằm tập trung đầy đủ và kịp thời số thu thuế vào ngân sách nhà nước. Có hai dạng qui trình quản lý thuế: - Cơ quan thuế tự tính và ra thông báo số thuế phải nộp - Đối tượng tự kê khai, tự tính và nộp thuế theo thông báo của cơ quan thuế. Hiện nay, để nâng cao tính tự giác thực hiện nghĩa vụ thuế theo luật định của đối tượng nộp thuế, phát huy chức năng, quyền hạn của cơ quan thuế theo việc hành thu theo đúng chức năng nhà nước quy định. Xoá bỏ chế độ chuyên quản đối tượng nộp thuế, áp dụng biện pháp nghiêm minh đối với trường hợp trốn lậu thuế. Tổng cục thuế đã ban hành quy trình quản lý thuế đối với các doanh nghiệp, quy trình tự tính, tự khai và nộp thuế vào kho bạc. Theo quy trình này, định kỳ theo thời gian hoặc chuyến hàng các đối tượng nộp thuế tự kê khai, tự tính và nộp thuế vào kho bạc Nhà nước. Cơ quan thuế nhạp các dữ liệu của đối tượng nộp thuế vào máy tính. Việc tính toán thuế doanh nghiệp phải nộp được thực hiện bằng máy, nếu số thuế phải nộp của doanh nghiệp tự tính không khớp với số thuế phải nộp do cơ quan thuế tính thì phần chênh lệch này sẽ được điều chỉnh sau, doanh nghiệp vẫn phải nộp thuế như theo qui định. với phương thức này nhiệm vụ của cơ quan thuế sẽ đơn giản hơn nhiều,việc tính toán cũng rất chính xác, tránh được các tiêu cực do cán bộ thuế tiếp xúc nhiều với đối tượng nộp thuế. Tuy nhiên, phương thức này chỉ mang lại kết quả tốt khi mỗi người nắm vững và tự giác chấp hành nghĩa vụ thúe của mình, đồng thời tính pháp lý của hệ thống thuế cao và công tác kiểm tra thuế được thực hiện có kết quả. trong quy trình này các bộ phận chính trực tiếp thực hiện hành thu là phòng quản lý thu, phòng máy tính và phòng thanh tra xử lý. Qui trình các bước quản lý thu thuế được thực hiện theo trình tự các bước sau: - Đăng ký thuế và cấp mã số thúê. - Xử lý tờ khai và chứng từ nộp thuế. - Hoàn thuế - Miễn giảm thuế - Quản lý hồ sơ doanh nghiệp Doanh nghiệp sau khi được cấp giấy phép đầu tư phải gửi tờ khai đăng ký thuế tới cơ quan thuế, phòng hành chính nhận tờ khai đăng ký thuế sẽ chuyển cho lãnh đạo, lãnh đạo Cục phân công cho từng phòng quản lý thu sau đó chuyển cho phòng quản lý thu và phòng máy tính. - Phòng quản lý thu thực hiện kiểm tra tờ khai đăng ký thuế - Phòng máy tính thực hiện nhập đăng ký thuế và cấp mã số thuế - Chuyển dữ liệu đăng ký thuế về tổng cục thuế: Phòng máy tính của cục thuế truyền dữ liệu đăng ký thuế về Tổng cục Thuế để tránh sự trùng lập mã số thuế trên phạm vi toàn quốc. - Tổng cục kiểm tra dữ liệu đăng ký thuế các cục thuế trên phạm vi toàn quốc để tránh việc đăng ký trùng lắp đồng thời kiểm tra quan hệ doanh nghiệp chủ quản với đơn vị trực thuộc thông qua mã số thuế. In giấy chứng nhận cấp mã thuế. Sơ đồ tóm tắt quy trình quản lý thuế Đối tượng nộp thuế Kho bạc Nhà nước Cục thuế thành phố Hải Phòng -Phòng hành chính: tiếp nhận tờ khai, gởi thông báo thuế. -Phòng quản lý thu kiểm tra tờ khai, xử lý thông tin: Xác định số thuế phải nộp, xử lý miễn giảm hoàn thuế. - Phòng máy tính : in và phát hành thông báo thuế (1) Hàng tháng nộp tờ khai thuế (TNCN, GTGT ) Hàng năm nộp hồ sơ quyết toán thuế, miễn giảm, hoàn thuế (2) Ra thông báo thuế (3) Nộp tiền thuế vào kho bạc theo thông báo thuế (4) Lệnh thu đối với các trường hợp không nộp thuế, nộp phạt Trong quy trình này, các bộ phận chính trực tiếp thực hiện hành thu là các phòng quản lý thu. Tại cục thuế Hải Phòng có 5 phòng quản lý thu: Phòng đầu tư nước ngoài, phòng ngoài quốc doanh, phòng công nghiệp, phòng nông lâm. b. Công tác kiểm tra thanh tra thuế Kiểm tra các chỉ tiêu kê khai trên quyết toán thuế (tên, mã số thuế, các chỉ tiêu, nếu thiếu hoặc sai mẫu cán bộ thuế sẽ tính toán lại số thuế phải nộp về số học). Nếu có sai sót, cán bộ thuế liên hệ với cơ sở kinh doanh qua điện thoại (fax) để chỉnh sửa và xác nhận về việc chỉnh sửa. Kèm theo bản báo cáo quyết toán thuế có các chỉ tiêu kê khai sai và bản đã sửa lại. Kiểm tra tính chính xác của số liệu trên báo cáo quyết toán thuế và lập danh sách đơn vị cần kiểm tra, thanh tra. Trên cơ sở kế hoạch kiểm tra, thanh tra được duyệt, tiến hành ra thông báo quyết định kiểm tra, thanh tra đối với doanh nghiệp. c. Công tác tổ chức tuyên truyền luật thuế Chương II: Công tác quản lý thu thuế đối với các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tại Hải Phòng I. Đầu tư nước ngoài tại Hải Phòng – Thực trạng và xu hướng phát triển 1. Những thuận lợi, khó khăn và triển vọng thu hút đầu tư nước ngoài tại Hải Phòng Hải Phòng là trung tâm kinh tế đồng thời là một trong bốn thành phố lớn của cả nước với tổng số diện tích đất đai là 1.458,9 km2 , dân số 1.870.253 người ( Theo số liệu thống kê năm 2002) với 4 quận ( đến 13/5/2003 sẽ thành lập thêm một quận thứ 5) , 8 huyện và 1 thị xã. Hải Phòng là một thành phố công nghiệp với tổng số thu ngân sách hằng năm gần 7000 tỷ đồng Việt Nam ( trong đó thu từ thuế nội địa chiếm khoảng 27%). Số thu ngân sách từ thuế chủ yếu qua các năm là từ nguồn từ sản xuất công nghiệp, trong đó số thu từ khối doanh nghiệp nội địa chiếm tỉ trọng nhỏ. Do đó để tăng nguồn thu cho ngân sách Nhà nước thì Hải Phòng ngoài việc tăng nhanh phát triển công nghiệp hoá, hiện đại hoá còn chú trọng đến việc thu hút vốn đầu tư nước ngoài. Đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Hải Phòng có 3 hình thức: liên doanh góp vốn, 100% vốn nước ngoài, hợp đồng hợp tác kinh doanh. Kể từ khi luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam được ban hành , với chủ trương thu hút đầu tư nước ngoài, Hải Phòng đã áp dụng nhiều chính sách ưu đãi về tài chính cho đến nay số dự án nước ngoài đã tăng nhanh từ 9 dự án năm 1991 đến hết năm 2002 số dự án tăng đên 122 dự án chưa kể quí I năm 2003 đã có thêm 13 dự án mới được cấp giấy phép. Tuy nhiên, việc đầu tư vào Hải Phòng cũng có nhiều thuận lợi và không ít khó khăn. * Những thuận lợi cơ bản Thành phố Hải Phòng nằm phía Đông Bắc của nước ta, thành phố có vị trí địa lý rất quan trọng là nằm trong vùng tam giác kinh tế mũi nhọn phía bắc giữa Hà Nội, Hải Phòng, Quảng Ninh. Hải Phòng nằm sát bờ biển Đông rất thuận tiện cho giao lưu kinh tế từ Bắc vào Nam và giao lưu với nước ngoài bằng đường biển. Hải Phòng có nhiều tuyến đường giao thông( bằng đường bộ, đường sắt, đường hàng không ) phục vụ cho việc giao dịch buôn bán, đi lại giao lưu, rất thuận lợi là cửa ngõ đi ra biển Đông trục đường số 5 nối Hải Phòng – Hải Dương – Hà Nội; đường số 10 nối hải Phòng – Thái Bình- Nam Định và các tỉnh phía Nam; trục đường nối Hải Phòng – Quảng Ninh sang Trung Quốc. Ngoài ra, Hải Phòng còn có tiềm năng về du lịch với khu nghỉ mát Đồ Sơn, đảo Cát Bà. * Những triển vọng thu hút vốn đầu tư nước ngoài của Hải Phòng: Từ nay đến năm 2010 kinh tế đối ngoại tiếp tục được coi là trọng tâm trong chiến lược phát triển kinh tế của thành phố, đồng thời sớm hoàn chỉnh quy hoạch phát triển kinh tế đối ngoại phù hợp với quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế – xã hội của thành phố nhằm chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng hiện đại hoá,công nghiệp hoá. Thực hiện đa phương, đa dạng đối tác và hình thức đầu tư. Tăng cường thu hút vốn đầu tư nước ngoài vào các lĩnh vực lâm ngư nghiệp, các ngành công nghiệp truyền thống như đóng tàu, SX xi măng, vận chuyển container,…,các ngành công nghệ cao,các ngành dịch vụ ngân hàng, tài chính, tư vấn và cơ sở hạ tầng. Đặc biệt, với chủ trương thu hút đầu tư nước ngoài năm 2002 được coi là năm doanh nghiệp, gần 20 dự án đầu tư đã đi vào hoạt động, trong đó nhiều dự án có số vốn đầu tư lớn như: T._.trung đầy đủ, kịp thời số thuế vào ngân sách nhà nước. Thực chất nội dung của quy trình quản lý thu thuế là thể chế hóa các luật, pháp lệnh thuế cho phù hợp với đối tượng phân công, phân nhiệm rõ ràng cụ thể giữa các bộ phận trong bộ máy quản lý. Do đó, việc thực hiện nghiêm túc các bước trong quy trình quản lý thu thuế đối với từng sắc thuế là nhiệm vụ quan trọng của cơ quan thuế các cấp. * Tiếp tục đẩy mạnh việc thực hiện nghiêm túc các quy trình tự kê khai, tự tính thuế và nộp vào ngân sách nhà nước: Trong thời gian qua, công tác quản lý đăng cấp mã số đối tượng nộp thuế và kê khai thuế đã được triển khai tốt, việc cấp mã số thuế đối tượng nộp thuế được thực hiện một cách nhanh chóng tạo điều kiện cho doanh nghiệp. Việc kê khai, nộp thuế được thực hiện tương đối nghiêm chỉnh. Để phát huy tốt những kết quả đạt được, hạn chế tình trạng chậm nộp tờ khai, nội dung tờ khai không đúng, không đủ... nghành thuế phải tăng cường công tác tuyên truyền cung cấp dịch vụ tư vấn, hướng dẫn các đối tượng nộp thuế, áp dụng nghiêm minh các hình thức phạt về thuế đối với các trường hợp vi phạm như không kê khai thuế, kê khai sai thuế, hay nộp chậm tờ khai... Tiến tới việc kết hợp tờ khai với việc thanh toán thuế, tăng cường ý thức tự giác thực hiện nghĩa vụ nộp thuế của đối tượng nộp thuế, giảm chi phí nguồn lực cho cơ quan thuế, giảm những tiêu cực phát sinh do việc tách rời thời điểm nộp tờ khai thuế và việc thanh toán thuế. * Tăng cường phối kết hợp chặt chẽ giữa phòng thanh tra thuế với các phòng quản lý thu trong việc kiểm tra, thanh tra đối tượng nộp thuế. Theo quy định của nghành thuế thì quy trình quản lý thu thuế được thực hiện tách bạch 3 phần: phần đôn đốc quản lý đối tượng nộp thuế do phòng quản lý thu đảm nhận; phần tính thuế, ra thông báo thuế... sẽ do phòng kế hoạch, kế toán thống kê và phòng máy tính đảm nhận và phần kiểm tra, thanh tra thuế sẽ do phòng thanh tra và xử lý tố tụng( gọi tắt là phòng thanh tra) đảm nhận. Trong thời gian qua, phòng quản lý các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đảm nhiệm cả 2 chức năng: quản lý đối tượng nộp thuế và thanh tra, kiểm tra thuế, điều này đã gây ra nhiều hạn chế, tồn tại; Vì vậy trong thời gian tới chức năng thanh tra, kiểm tra thuế sẽ do phòng thanh trakiểm tra thuế thực hiện là chủ yếu, có sự phối kết hợp chặt chẽ với phòng đầu tư nước ngoài. Tăng cường số lượng các đơn vị được thanh tra, kiểm tra. Phòng thanh tra tăng cường phối kết hợp với phòng quản lý thu và các cấp chính quyền, các nghành nội chính như: ủy ban nhân dân các cấp, công an kinh tế, Viện kiểm soát... tiến hành thanh tra kiểm tra thuế theo kế hoạch định kỳ hoặc theo kế hoạch kiểm tra đột xuất. Mỗi cuộc thanh tra đều phải lập biên bản , công bố công khai, đặc biệt đúc rút kinh nghiệm để tuyên truyền, phổ biến cho các cán bộ thuế, đảm bảo đợt thanh tra sau có hiệu quả, tiến hành nhanh gọn, không gây phiền hà, làm ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của đối tượng được thanh tra. * Tăng cường công tác tuyên truyền , giáo dục, cung cấp dịch vụ về thuế để nâng cao tính tự giác và trách nhiệm của đối tượng nộp thuế Để các luật thuế đặc biệt là 2 luật thuế được áp dụng tại Việt Nam (luật VAT và thuế thu nhập doanh nghiệp) đi vào đời sống, nâng cao ý thức của người dân trong việc chấp hành quy trình quản lý thu thuế mới, Nhà nước cũng như nghành thuế cần đẩy mạnh công tác tuyên truyền giáo dục pháp luật thuế trong mọi tầng lớp dân chúng. Cơ quan thuế cần tranh thủ mọi cơ hội và vận dụng hình thức thích hợp để các doanh nghiệp cũng như người dân hiểu rằng bản chất của thuế dưới chế độ XHCN được Nhà nước ta sử dụng nhằm mục đích phát triển kinh tế, phục vụ lợi ích cử nhân dân và vì dân. - Để công tác tuyên truyền được thực hiện một cách sâu rộng, nghành thuế có thể áp dụng các phương pháp sau: + Nghành thuế cần phải chủ động phối hợp chặt chẽ với báo đài trung ương và địa phương, đẩy mạnh công tác tuyên truyền nội dung các văn bản pháp lệnh thuế, các chính sách thuế trên các phương tiện thông tin đại chúng, in các chính sách, nội dung và các ý nghĩa của mọi sắc thuế.... thành các tờ ngắn gọn( các tờ rơi) giúp cho các doanh nghiệp cũng như nghười dân dễ hiểu và nắm được chương trình cải cách thuế, chế độ thu thuế trong từng giai đoạn. Thực hiện cung cấp các văn bản pháp quy về thuế như luật, nghị định và các thông tư hướng dẫn, kể cả các công văn trả lời ĐTNT, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp chủ động thực hiện tốt nghĩa vụ với ngân sách nhà nước. + Tuyên truyền công tác chống buôn lậu và trốn thuế, tình trạng chống người thi hành công vụ trong thuế, nêu rõ các quy hoạch sử phạt đối với các trường hợp này và tên các doanh nghiệp vi phạm chính sách thuế trên các phương tiện thông tin đại chúng. Bên cạnh đó tổ chức khen thưởng những đơn vị thực hiện nghĩa vụ nộp thuế tốt, có số đóng góp vào NSNN lớn được khuyến khích để doanh nghiệp tiếp tục thực hiện tốt nghĩa vụ thuế, thể hiện sự quan tâm của Nhà nước đến các doanh nghiệp . + Ngoài việc tuyên truyền về các luật thuế cho mọi người dân thì các cơ quan nghành thuế cần phải tìm hiểu sâu, tiếp nhận những phản hồi từ phía doanh nghiệp, đối tượng nộp thuế để kịp thời giải đáp các thắc mắc của các doanh nghiệp về cả quyền lợi và nghĩa vụ của họ để họ thông suốt về mục đích chính sách thuế. + Để có thể vừa giải đáp những thắc mắc, hướng dẫn các ĐTNT thực hiện tốt nghĩa vụ của mình và không tạo mối quan hệ thường xuyên giữa các ĐTNT và cán bộ quản lý ĐTNT thì việc hình thànhcác tổ chức, dịch vụ tư vấn thuế và là rất cần thiết và cần đẩy nhanh tiến đọ triển khai triểnt khai của phòng tư vấn này: Thực hiện các dịch vụ hỗ trợ , tư vấn thuế là một tất yếu trong bất kỳ một nghành thuế hiện đại nào, và điều nay đã được chứng minh qua kinh nghiệm của nhiều nước trên thế giới, ví dụ: tại Thụy Điển “ Dịch vụ hỗ trợ ĐTNT ” đã được xây dựng và phát triển từ nhiều năm nay, bắt đầu từ những năm 70 và đã phát triển song hành cùng với sự đi lên của xã hội và có liên quan mật thiết với các trương trình cung cấp dịch vụ của các cơ quan nhà nước khác. Do đó “dịch vụ hỗ trợ đối tượng nộp thuế” nếu được áp dụng phù hợp ở nước ta sẽ có tác dụng thiết thực với đối tượng nộp thuế nhằm ngăn ngừa giảm thiểu những sai phạm thường mắc phải, việc làm này còn thuận lợi cho cơ quan thuế trong quá trình thực hiện nhiệm vụ của mình. Thông qua hỗ trợ đối với tượng nộp sẽ tạo mối quan hệ thân thiện đối với đối tượng nộp thuế ... hơn nữa cũng tại dịch vụ hỗ trợ ĐTNT được mở rộng sẽ giảm rất nhiều chi phí trong toàn xã hội. Doanh nghiệp không mất thời gian và tiền cho quá trình thực hiện nghĩa vụ nộp thuế, cơ quan thuế lại càng tiết kiệm được nhiều hơn trong công tác quản lý thu thuế đồng thời số thuế doanh nghiệp chủ động thực hiện nộp vào NSNN sẽ tăng lên, từ đó hạn chế đến mức thấp nhất các cuộc thanh tra không cần thiết. Tư vấn hỗ trợ nộp thuế là một nội dung rộng lớn không chỉ tập chung trong phạm vi “một trung tâm” hay “ một phòng của cơ quan thuế ”mà phải bao gồm tất cả các tổ chức trong nghành thuế từ trung ương đến địa phương vì vậy tại mỗi cục và các chi cục lớn ta nên thành lập các phòng tư vấn về thuế. Với nước ta, trong giai đoạn đầu thực hiện hai luật thuế mới và quy trình quản lý thu thuế tự tính tự kê khai nộp thuế mới được áp dụng thì tại mỗi cục thuế nên đưa vào hoạt động ngay các văn phòng tư vấn thuế công, thực hiện tư vấn thuế không cần tiền phí dịch vụ, trước tiên là để cho các ĐTNT thực hiện đúng các quy định thuế của luật thuế và quy trình thu mới. Thứ hai là tạo điều kiện cho mọi doanh nghiệp ( đặc biệt các doanh nghiệp vừa và nhỏ chiếm tỷ lệ cao trong nền kinh tế nước ta) có thể tiếp cận dễ dàng với loại dịch vụ này (bởi các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở nước ta chưa có thói quen và nhu cầu tư vấn thuế nếu phải trả phí). * Tiếp tục tăng cường sự phối hợp đồng bộ giữa nghành thuế với các cấp nghành có liên quan trong công tác quản lý thu thuế Công tác quản lý thu thuế là trách nhiệm chung của chính quyền các cấp, các nghành và toàn diện chứ không chỉ nghành thuế. Do đó, để nâng cao hiệu quả công tác quản lý thuế, nghành thuế phải chấp hành nghiêm chỉnh sự chỉ đạo của các cấp, nghành chuyên môn. Tổ chức hệ thống thuế nước ta trực thuộc bộ Tài chính, nghành thuế phải thực hiện, triển khai nghiêm túc và kịp thời các chính sách, chế độ của bộ tài chính đồng thời cũng nâng cao ý thức trách nhiệm và vai trò của nghành thuế, không chỉ thực hiện dập khuôn, ỷ lại sự chỉ đạo của cấp trên,nghành thuế phải luôn nâng cao vị trí độc lập của mình, chủ động trong công việc tổ chức hướng dẫn, chỉ đạo thực hện nhiệm vụ thu, kiểm tra thi hành nhiệm vụ thu, kiểm tra thi hành các luật thuế cũng như trong công tác cán bộ, công tác đào tạo bồi dưỡng nâng cao trình đọ, công tác quản lý kinh phí, xây dựng cơ sở vật chất nghành, hiện đại hóa quản lý thuế công tác đối ngoại hợp tác quốc tế nghành thuế... Nghành thuế tổ chức theo nghành dọc từ trung ương đến địa phương và quản lý toàn bộ các khoản thu, cơ quan thuế địa phương phải thực hiện song trùng lãnh đạo. Vì vậy Cục thuế Hải Phòng phải thực hiện sông trùng lãnh đạo với UBND Thành phố Hải Phòng, phải luôn tranh thủ sự lãnh đạo của Đảng, sự chỉ đạo của UBDN chủ động phối kết hợp chặt chẽ với các nghành chức năng có liên quan nhất là các nghành nội chính như công an, quản lý thị trường, viên kiểm sát... để thực hiện quản lý ĐTNT tốt hơn: - Phối hợp với chính quyền các cấp các nghành chủ quản để kịp thời nắm chắc số lượng có đăng ký kinh doanh, số lượng các doanh nghiệp giải thể, phá sản, sáp nhập, chia tách, nghừng hoạt động, mở thêm chi nhánh, thay đổi địa điểm kinh doanh, hay bỏ trốn,... trên cở sở đó nghành thuế nhanh chóng đưa tất cả các đối tượng này vào “ống kính quản lý”. - Tăng cường phối hợp với các nghành Tài chính, kho bạc đảm bảo thực hiện các nguyên tắc, chế độ quản lý về tài chính, thu nộp thuế nhanh, gọn, kịp thời, đầy đủ. Phối hợp với các cơ tổng hợp như kế hoạch, thống kê lao động, vật giá... tổ chức theo dõi điều tra, thanh tra, năm thêm tình hình biến động của doanh nghiệp, và tình hình kinh doanh. - Phối hợp với nghành Ngân hàng để xác định tình hình hoạt động, doanh thu phát sinh của các doanh nghiệp, gửi ở tài khoản ngân hàng để khấu trừ thuế, tiền phạt trong trường hợp dây dưa, chây ỳ tiền thuế. Việc kết hợp với các nghành các cấp sẽ giúp nghành thuế tạo nên sức mạnh tổng hợp để hoàn thành nhiêm vụ thu thuế khu vực có vốn đầu tư nước ngoài. Giải pháp cho công tác quản lý hoá đơn Để thực hiện tốt chế độ mua bán,chi tiêu phải có chứng từ của mọi đối tượng nộp thuế( ĐTNT) đồng thời ngăn chặn những trường hợp sử dụng hóa đơn bán hàng không đúng chế độ quy định, sử dụng hóa đơn giả làm ảnh hưởng đến việc thực hiện nghĩa vụ thuế của bản thân doanh nghiệp và các doanh nghiệp có liên quan, ảnh hưởng đến công tác hoàn thuế gây thất thu cho ngân sách nhà nứoc thì: + Khuyến khích các ĐTNT sử dụng hóa đơn chứng từ tự in theo quy định của tổng cục thuế và chiu sự quản lý của cơ quan thuế. Đối với các doanh nghiệp chưa tự phát hành được hóa đơn, cơ quan thuế phải đáp ứng đầy đủ, kịp thời hóa đơn cho các doanh nghiệp này sử dụng. + Bộ Tài chính nghiên cứu xem xét lai loại giấy in hóa đơn, chứng từ và ký hiệu từng loại hóa đơn, chứng từ để chống in giả; Nối mạng về quản lý hóa đơn của đối tượng nộp thuế trên máy vi tính trong toàn quốc để tăng cường kiểm tra, xác minh đói chiếu. Phối hợp các cơ quan pháp luật để kiểm tra, phát hiện , xử lý nghiêm các trường hơp vi phạm chế độ quản lý, xử dụng hóa đơn. Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ nghành thuế Sự thành công của mỗi chính sách hay luật thuế, ngoài yếu tố nó phải đúng đắn, đồng bộ và phù hợp với điều kiện thực tế thì còn một yếu tố rất quan trọng, đó là nhân tố con người. Con người vừa tiến hành triển khai, vừa là đối tượng chịu tác động, cán bộ thuế là người đại diện của nghành thuế, thường xuyên tiếp xúc với ĐTNT nên việc làm tốt hay không của cán bộ thuế có ảnh hưởng đến uy tín của nghành. Do vậy, để đảm bảo nâng cao hơn nữa hiệu quả công tác quản lý thu thuế, đáp ứng yêu cầu của công cuộc cải cách thuế phù hợp với sự phát triển của nền kinh tế cũng như đáp ứng các nhu cầu của xu hướng hội nhập nền kinh tế thế giới cũng như khu vực thì công tác xây dựng, đào tạo và bồi dưỡng cán bộ thuế phải không ngừng được đổi mới và nâng cao theo hướng đội ngũ cán bộ thuế phải giỏi về chuyên môn,. nghiệp vụ thuế, giỏi về kế toán, thành thạo kỹ năng làm việc, kỹ năng quản lý, có trình độ tin học và ngoại ngữ, với một phẩm chất đạo đức tốt, lập trường quan điểm vững vàng để đáp ứng với nhu cầu ngày một cao và nặng nề của nhiệm vụ được giao. Nghành thuế nên thường xuyên mở các lớp nghiệp vụ, các lớp bồi dưỡng tập huấn về công tác quản lý về chính sách chế độ nhất là những chính sách, quy định mới, phức tạp như: “ nội dung hiệp định thương mại Việt Mỹ” và ảnh hưởng đến thuế như thế nào, nâng cao hiểu biết về hiện tượng và biện pháp về “ chống chuyển giá” và các hiệp định tránh đánh thuế trùng giữa Việt Nam và các nước... Thực hiện đào tạo cán bộ phải đi theo hướng chuyên môn hóa sâu theo từng chức năng công việc, phù hợp với mô hình quản lý thuế theo phương pháp tự tính, tự khai, tự nộp thuế. Trang bị kiến thức đầy đủ về lý luận và thực tiễn, đảm bảo cán bộ có khả năng trong việc phân tích, đánh giá khả năng thực thi chính sách thuế phát hiện ra các vi phạm luật thuế của doanh nghiệp và có thể ấn định tính khoán thuế một cách xác thực nhất. Cơ quan thuế cũng cần phải thường xuyên kiểm tra lại nội bộ để căn cứ đánh giá, phân loại chất lượng cán bộ theo các tiêu chuẩn về đạo đức, về nghiệp vụ, cả về lý thuyết cũng như trong thực hành. Qua đó, có kế hoạch sắp xếp, phân công, đề bạt theo đúng khả năng, trình độ. Có sự chuẩn bị kế cận và đào tạo, bồi dưỡng cho cán bộ, từng bước được đề bạt vào các cương vị lãnh đạo. Phải thường xuyên có những đánh giá, công khai, bình bầu các cán bộ thuế để có thể đánh giá trình độ năng lực của các cán bộ thuế, nêu lên các gương người tốt việc tốt hay phê bình những cán bộ thuế tiêu cực, mất phẩm chất... và xử lý kiên quyết, loại ra khỏi nghành những cán bộ quá yếu về nghiệp vụ, về phẩm chất đạo đức làm gương cho các cán bộ khác. Hàng năm cần tổ chức các kỳ thi tuyển, sát hạch về chuyên môn, kiến thức... nhằm bổ sung cán bộ theo hướng trẻ hóa đội ngũ, nâng cao chất lượng cán bộ. Mặt khác, nên khuyến khích các cán bộ thuế thực hiện các chương trình đào tạo, tự nâng cao trình độ kiến thức chuyên môn, nghiệp vụ, ngoại ngữ, tin học, nắm chắc chế độ thuế, luật pháp, chế độ kế toán, kiểm toán... thông qua nhiều hình thức tự nghiên cứu. Để tạo động lực khuyến khích các cán bộ tự nâng cao trình độ, hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao, nghành thuế cần có chế độ đãi ngộ thỏa đáng về tinh thần đối với những cán bộ hoàn thành xuất sắc công việc. Đồng thời có những biện pháp xủ lý đối với nhữnh cán bộ có trình độ thấp mà không chịu học hỏi và xử lý nghiêm khắc tùy theo mức độ đối với những cán bộ vi phạm 10 kỷ luật của nghành. 2. Những kiến nghị để hoàn thiện để hoàn thiện công tác quản lý thu thuế, góp phần tăng thu cho NSNN. a. Kiến nghị với nhà nước. * Một số kiến nghị về thuế GTGT - Kiến nghị về áp dụng một mức thuế suất thuế GTGT Qua 4 năm áp dụng luật thuế GTGT ở nước ta đã phát huy những ưu điểm to lớn trong việc thúc đẩy sản xuất, kinh doanh phát triển, đặc biệt là khuyến khích hàng sản xuất, xuất khẩu, thúc đẩy đầu tư,.. do đó, có thể nói VAT cùng các sắc thuế trong hệ thống thuế Việt Nam đã góp phần quan trọng trong tăng trưởng kinh tế. Đi đôi với những ưu điểm đó còn một số vướng mắc cần phải nghiên cứu để hòan thiện hơn. + Trong thời gian qua, ta thấy việc sử dụng nhiều mức thuế suất đã gây khó khăn, phiền hà trong việc xác định áp dụng cho một số mặt hàng bởi khó có thể phân biệt rạch ròi mặt hàng này chịu thuế suất 5% hay 10%. Điều này đã tạo ra “ kẽ hở” cho các ĐTNT “ luồn lách” nhằm gian lận thuế. Hơn nữa,việc sử dụng nhiều mức thuế suất sẽ làm chi phí cho việc quản lý hành chính và chi phí chấp hành luật thuế cao do phải theo dõi, quản lý thuế theo từng mức thuế suất và chi phí của bản thân ĐTNT chỉ ra trong việc kê khai tính thuế, quản lý sổ sách hóa đơn chứng từ, tập hợp doanh số tính thuế theo từng mức thuế cũng là một phần không nhỏ để khắc phục những vướng mắc này, phù hợp với xu hướng hội nhập khu vực và thế giới, kiến nghị Nhà nước tiến tới áp dụng một mức thuế suất VAT ở mức 10%. áp dụng thống nhất không phân biệt nhập khẩu, sản xuất, gia công hay kinh doanh thương mại ( hàng xuất khẩu vẫn được hưởng thuế suất 0%). + Vướng mắc trước mắt nữa là mức động viên chung lại quá thấp đối với 1 số nghành đang có lợi thế như điện lực, bưu chính viễn thông, hàng không...( do đang phải áp dụng thuế suất VAT 20% nay chỉ phải áp dụng một mức thuế suất 10%) làm giảm nguồn thu NSNN. Tuy nhiên về lâu dài việc áp dụng một mức thuế làm giảm nhiều về chi phí cho nghành thuế, cho NSNN, giảm chi phí cho các ĐTNT, đảm bảo quán triệt được quan điểm động viên cơ bản của hệ thống chính sách thuế phù hợp với xu hướng hội nhập. -Mở rộng đối tượng chịu thuế: Đưa các mặt hàng chịu thuế TTĐB ở khâu sản xuất và nhập khẩu, một số sản phẩm, dịch vụ xuất khẩu vào diện đối tượng chịu thuế, thực hiện khấu trừ và hoàn thuế đầu vào để khuyến khích xuất khẩu hàng hoá và dịch vụ. Đồng thời giảm và hạn chế đối tượng không chịu thuế GTGT, chỉ để lại những dịch vụ công ích và các sản phẩm thiết yếu phục vụ tiêu dùng cuối cùng. Cuối giai đoạn bổ sung đối tượng chịu thuế là sản phẩm ở khâu sản xuất nông nghiệp để đảm bảo thực hiện thuế GTGT liên hoàn và thống nhất ở các lĩnh vực sản xuất kinh doanh. - Về hoàn thuế GTGT: Chỉ nên hoàn thuế cho hàng hoá, dịch vụ xuất khẩu, đối với các loại hàng hoá, dịch vụ khác xử lý khấu trừ thuế, chỉ hoàn thuế đối với trường hợp doanh nghiệp đã hoàn toàn không phát sinh doanh thu chịu thuế (chuyển đổi sang loại hình sản xuất kinh doanh hàng hoá không chịu thuế GTGT) hoặc doanh nghiệp giải thể; trước khi hoàn phải thực hiện kiểm tra, xác minh trước hoàn thuế * Cần phải áp dụng tỷ giá ngoại tệ trong kê khai thuế thống nhất Để khắc phục tình trạng làm thiệt hại cho ngân sách Nhà nước do áp dụng tỷ giá để kê khai sai so với quy định, tạo điều kiện thuận lợi cho công tác kiểm tra, đối chiếu của cơ quan thuế. Kiến nghị, nên có quy định việc ghi tỷ lệ ngoại tệ trên hóa đơn ngay khi phát sinh doanh thu cung cấp hàng hóa dịch vụ. * Một số kiến nghị về thuế thu nhập doanh nghiệp ( TNDN) Kiến nghị bỏ thuế chuyển lợi nhuận ra nước ngoài, bỏ hoàn thuế lợi tức tái đầu tư tiến tới áp dụng chung một mức thuế suất TNDN giữa các doanh nghiệp trong nước và các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Theo thông tư 13/ 2001/TT- BTC ngày 8- 3- 2001 hướng dẫn thực hiện quy dịnh về thuế đối với các hình thức đầu tư theo luật ĐTNN tại Việt Nam thì doanh nghiệp có vốn ĐTNN chịu mức thuế suất thuế TNDN là 25%. Nhìn vào mức thuế suất thuế TNDN mà doanh nghiệp trong nước phải chịu là 32%, ta thấy doanh nghiệp có vốn ĐTNN được ưu đãi với mức thuế suất thấp hơn mức thuế suất các doanh nghiệp trong nước là 7%, tuy nhiên mức ưu đãi này không hoàn toàn là như vậy bởi doanh nghiệp có vốn ĐTNN chịu thuế suất thuế chuyển lợi nhuận ra nước ngoài. Nếu doanh nghiệp nước ngoài có số vốn đầu tư dưới 5 triệu USD sẽ phải chịu mức thuế suất thuế chuyển lợi nhuận ra nước ngoài là 7%. Giả sử thu nhập chịu thuế của doanh nghiệp ĐTNN là 100 đơn vị, thuế suất thuế TNDN là 25% thì doanh nghiệp nộp 25 đơn vị thuế TNDN. Số thu nhập sau thuế của doanh nghiệp sẽ là 75 (đơn vị). Doanh nghiệp bị đánh thuế 7% nếu chuyển lợi nhuận này ra nước ngoài, tức là phải nộp 5,25 (đơn vị) thuế chuyển lợi nhuận ra nước ngoài, vậy tổng số thuế TNDN phải nộp của 100 đơn vị thu nhập trước thuế là 25 + 5,25 = 30,25 ( đơn vị). Có nghĩa là mức thuế suất chỉ được ưu đãi hơn so với mức thuế suất thuế TNDN áp dụng cho cá doanh nghiệp trong nước là 1,75% chứ không phải là 7%. Hơn nữa doanh nghiệp nước ngoài lại bị khống chế số tiền chuyển ra nứoc ngoài trong từng lần chuyển. Với xu hướng toàn cầu hóa nên sự di chuyển lao động, nguồn vốn cũng linh hoạt hơn, vì vậy để phù hợp với xu thế, điều kiện hiện nay nhằm thu hút vốn đầu tư nước ngoài, kiến nghị xóa bỏ thuế chuyển lợi nhuận ra nước ngoài. Tiến tới áp dụng chung luật khuyến khích đầu tư cho các thành phần kinh tế Tiến tới đối xử công bằng về thuế giữa các doanh nghiệp trong nước và nước ngoài, nâng cao sự cạnh tranh của các doanh nghiệp trong nước trong xu thế hội nhập và phát triển thì cùng với lộ trình cắt giảm chi phí đầu tư và tiến tới chế độ một giá áp dụng thống nhất cho đầu tư trong nước và ĐTNN (như chi phí điện nước, điện thoại, giao thông vận tải, chi phí đăng kiểm, chi phí quảng cáo trên các phương tiện thông tin đại chúng...) tiến tới áp dụng một mức thuế suất thuế TNDN chung cho các doanh nghiệp trong nước và các doanh nghiệp nước ngoài, xóa bỏ hoàn thuế TNDN do lãi đầu tư. Công bố rộng rãi và có chiến dịch quảng cáo các danh mục dự án khuyến khích đầu tư, và chế độ ưu đãi về thuế suất, thời gian miễn giảm thuế. Thu hẹp các trường hợp miễn giảm thuế: Luật thuế TNDN hiện hành có quá nhiều các trường hợp miễn giảm thuế làm cho công tác thuế trở nên phức tạp, tạo kẽ hở cho các doanh nghiệp tìm cách để trốn lậu thuế, làm xói mòn cơ sở đánh thuế. Trong hầu hết các công tác công trình nghiên cứu về tính hiệu quả của việc miễn giảm thuế ở các nước cho thấy việc miễn giảm thuế rất tốn kém nhưng không đem lại lợi ích tương xứng cho nền kinh tế. Những biện pháp như vậy chỉ mang tính tác động bề ngoài chứ không phải là các công cụ thu hút đầu tư nhiều hơn, đặc biệt với việc miễn giảm thuế thu nhập doanh nghiệp cho các doanh nghiệp mới thành lập đã tạo ra kẽ hở cho các doanh nghiệp “ chuyển lợi nhuận thông qua giá” để trốn thuế TNDN. Do vậy về lâu dài Luật thuế TNDN cần được hoàn thiện theo hướng thu hẹp các trường hợp miễn giảm thuế thay vào đó là các biện pháp chi tiêu tài chính khác. * Kiến nghị về thuế thu nhập cá nhân Về thu nhập chịu thuế: Không phân biệt thu nhập thường xuyên và thu nhập không thường xuyên; Thu nhập từ kinh doanh được xác định trên cơ sở doanh thu kinh doanh trừ đi các chi phí liên quan đến kinh doanh; Bổ xung các khoản thu nhập từ đầu tư, lãi tiền cho vay, lãi cổ phần, trái phiếu, tiền bản quyền….Nói chung phải bao quát tất cả các khoản thu nhập của cá nhân. Về tiêu thức tiến hành đánh thuế: Tiêu thức tiến hành đánh thuế phải dựa vào 2 cơ sở: “ cư trú” và “nguồn phát sinh thu nhập”. Cá nhân cư trú tại một nước phải nộp thuế TNCN tại nước đó và đánh trên mọi khoản thu nhập phát sinh từ khắp các nước trên thế giới. Cá nhân không cư trú chỉ bị đánh thuế trên phần thu nhập phát sinh tại nước đó. Cá nhân có nguồn thu nhập phát sinh ở đâu chỉ bị đánh thuế trên phần thu nhập phát sinh tại nơi nhận được thu nhập. * Phải có cuộc cải cách lớn về cơ chế thanh toán của doanh nghiệp Bắt buộc các quan hệ mua bán, trao đổi phải thanh toán qua Ngân hàng, hạn chế đến mức thấp nhất việc thanh toán bằng tiền mặt như hiện nay( có thể quy dịnh mục tiêu thanh thanh toán từ 100.000 đ trở lên phải thanh toán bằng séc, thẻ tín dụng, thực hiện thanh toán qua ngân hàng, việc trả lương, thưởng thực hiện qua hệ thống ngân hàng). Thông qua các tài khoản tại hệ thống ngân hàng nhà nước sẽ quản lý hầu hết các hoạt động kinh tế phát sinh, từ đó xác định được doanh thu tính thuế ở mức tin cậy nhất hạn chế tệ nạn tham những, trốn lậu thuế, nhanh chóng giải quyết tình trạng doanh nghiệp chây ỳ, nợ đọng, dây dưa thuế. Kiến nghị với bộ Tài chính. Giành ngành thuế nguồn kinh phí thích đáng - Để đảm bảo trang thiết bị, hệ thống giảng dạy nâng cấp chương trình và hệ thống giáo trình, tài liệu đào tạo, đặc biệt là các giáo trình đào tạo về thuế quốc tế, các giáo trình, tài liệu phải đảm bảo dễ hiểu, dễ tra cứu và có thể tự nâng cao kiến thức của mỗi cán bộ thuế. Giành một nguồn kinh phí đáng kể để đào tạo cán bộ theo hướng chuyên sâu bao gồm cả đào tạo trong nước và nước ngoài. - Dựa trên cơ sở kế hoạch phát triển công tác tuyên truyền thuế trong từng năm cũng như kế hoạch dài hạn về công tác tuyên truyền thuế trong toàn nghành để giành một khoản kinh phí thích hợp. - Bổ xung thêm kinh phí để thực hiện các dịch vụ tư vấn thuế công... -Trang bị thêm cơ sở vật chất khác cho việc triển khai thực hiện các luật thuế mới. Không ngừng nâng cấp máy tính, hoàn thiện phần mềm quản lý thuế cho phù hợp với xu hướng hiện nay, phù hợp với sự phát triên không ngừng của hệ thống tin học hiện nay. - Có một chế độ lương, thưởng thích hợp để động viên đảm bảo cuộc sống tốt, giúp cho các cán bộ thuế yên tâm làm việc, hạn chế việc móc ngoặc với các đối tượng nộp thuế, tham ô, hối lộ... c. Kiến nghị với tổng cục thuế về cơ cấu tổ chức bộ máy thu thuế Từ những bất cập của công tác quản lý thu thuế nói chung em đưa ra kiến nghị về tổ chức ngành thuế như sau: Sơ đồ kiến nghi về tổ chức bộ máy ngành thuế tổng cục cục phòng dịch vụ công chi cục phòng cường chế các phòng thanh tra xử lý thông tin Theo sơ đồ này quá trình quản lý chuyển từ quản lý trực tiếp sang quản lý gián tiếp, chuyển từ quá trình ĐTNT tự kê khai, tự tính thuế và tự nộp thuế theo thông báo của cơ quan thuế sang doanh nghiệp tư kê khai, tự tính và nộp thuế. Mặt khác kết hợp giữa quản lý theo chức năng và quản lý theo đối tượng với quản lý theo chức năng là công việc chủ yếu đ tạo điều kiện thuận lợi hơn cho doanh nghiệp. Đối tượng nộp thuế sẽ được phòng dịch vụ công tư vấn, hướng dẫn, giải thích các thuế…….rồi tự kê khai tự tính và nộp thuế, không cần phải đợi cơ quan thuế đưa ra thông báo thuế đvừa giảm chi phí thông báo nộp thuế và chi phí tuân thủ pháp luật thuế của doanh nghiệp vừa tạo cho doanh nghiệp tính tự tuân thủ cao. Gắn với quyền tự chủ này, ĐTNT đồng thời phải chịu hoàn toàn trách nhiệm về tính chính xác, tính kịp thời và kết quả thực hiện thuế của mình. Thông tin từ phiá doanh nghiệp sẽ được phòng xử lý thông tin phân tích, kiểm tra ……Nếu đối tượng nộp thuế nào có một số biểu hiện sai phạm hoặc có căn cứ nghi ngờ sẽ được kiểm tra, thanh tra bởi phòng thanh tra và xử lý tố tụng về thuế. Các phòng thanh tra được phân theo đối tượng nộp thuế, ví dụ như phòng thanh tra khối doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, phòng thanh tra khối doanh nghiệp ngoài quốc doanh,… Những quyết định xử phạt, nếu đối tượng nộp thuế không tự nguyện thi hành thì sẽ bị cưỡng chế bởi phòng cưỡng chế đ nâng cao hiệu quả của công tác quản lý thu thuế * Từng bước áp dụng công nghệ tin học vào công tác quản lý thuế để tăng cường hiệu quả quản lý thuế. Ngày nay, công nghệ tin học đang phát triển mạnh trên thế giới, nhiều nước trong khu vực đã áp dụng tin học vào công tác quản lý thuế. Đây là thời cơ thuận lợi để áp dụng tin học vào công tác quản lý thuế ở nước ta. * Củng cố tổ chức bộ máy quản lý thu và nâng cao phẩm chất, trình độ chuyên môn nghiệp vụ của cán bộ thuế. Trong thời gian tới, cơ bản không tăng thêm biên chế, nhưng sẽ phân bổ lại nguồn tập trung vào các khâu công việc chính: đổi mới công tác quản lý cán bộ theo hướng qui định rõ trách nhiệm của từng loại cán bộ trên từng vị trí công tác. Đánh giá cán bộ chủ yếu căn cứ vào kết quả công tác, vào số lượng và chất lượng công việc được giao; coi trọng phẩm chất đạo đức, chính trị ... Kết luận Đối với Việt Nam và cũng như hầu hết các nước đang phát triển trên thế giới vấn đề ” Thu hút và khai thác hiệu quả vốn đầu tư nước ngoài” đang là một trong những mục tiêu hàng đầu cho phát triển kinh tế trước xu hướng toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế thế giới hiện nay. Trong thời gian qua được sự ưu đãi đặc biệt, khu vực đầu tư nước ngoài đã đạt được những thành tựu đáng kể: Tổng giá trị sản phẩm, dịch vụ được sản xuất ra và số thu từ thuế của khu vực nàyđã đóng góp một phần quan trọng trong công cuộc đổi mới của nền kinh tế nước ta, đưa chúng ta tiến nhanh hơn trên con đường CNH-HĐH đất nước. Tuy nhiên với việc ngày càng tăng lên khối lượng đầu tư nước ngoài vào Việt Nam sẽ kéo theo các hoạt động kinh tế hết sức mới mẻ, đa dạng, phong phú và cũng hết sức phức tạp đòi hỏi phải có sự quản lý chặt chẽ và định hướng đúng đắn của Nhà nước để khu vực này phát huy tối đa vai trò của mình đối với phát triển nền kinh tế đất nướctrong giai đoạn mới. Một trong những công cụ hữu hiệu được Nhà nước sử dụng có hiệu quả để khai thác tăng thu cho ngân sách Nhà nước, đồng thời thu hút định hướng đầu tư trực tiếp nước ngoài phục vụ những mục tiêu chiến lược trong thời gian qua đó là chính sách thuế áp dụng đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài. Hải Phòng là một trong những trung tâm kinh tế của cả nước, là nơi có mật độ đầu tư trực tiếp nước ngoài tương đối cao trong cả nước, đối tượng nộp thuế của khu vực này tương đối lớn, do đó Hải Phòng trở thành một địa bàn quan trọng trong công tác quản lý thu thuế các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài. Hơn nữa trong những năm qua số thu từ thuế trên thực tế và tiềm năng thu của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài trên địa bàn Hải Phòng là tương đối cao, chiếm tỷ trọng đáng kể trong tồng số thu ngân sách của thành phố, thực trạng quản lý thu thuế đối với các doanh nghiệp này còn gặp nhiều khó khăn vướng mắc thì việc đẩy mạnh và hoàn thiện công tác quản lý thu thuế đối với các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài cho phù hợp với điều kiện mới là một điều tất yếu và cấp thiết. Xuất phát từ những thực trang, yêu cầu đặt ra đối với công tác quản lý thu thuế đối với các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài cho thấy việc chọn đề tài “Giải pháp hoàn thiện công tác quản lý thu thuế đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tại Hải Phòng” của em là có ý nghĩa thiết thực về cả lý luận và thực tiễn. Với mục đích nghiên cứu để hiểu rõ hơn về công tác quản lý thu thuế đối với các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, nâng cao kiến thức đã học, đưa ra một số những giải pháp nhằm hoàn thiện công tác quản lý thu thuế đối với các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, em rất mong nhận được những ý kiến góp ý quý báu của thầy cô. Một lần nữa em xin chân thành cảm ơn thầy cô! Tháng 06/2003 Sinh viên nguyễn thị hồng việt Mục lục Trang ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc36994.doc
Tài liệu liên quan