Giải pháp hoàn thiện công tác quản lý thu thuế đối với khu vực ngoài quốc doanh ở Cục thuế Hà Nội

Lời mở đầu Năm 2001 là năm chuyển giao thiên niên kỷ, năm đầu triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng IX và nhiệm vụ của kế hoạch 5 năm 2001-2005 đặt ra trách nhiệm lớn cho cơ quan thuế các cấp. Mặc dù có nhiều yếu tố không thuận lợi, do tình hình xuất khẩu hàng hoá gặp nhiều khó khăn, thiên tai lớn xảy ra ở một số tỉnh ĐBSCL và miền Trung... nhưng được sự chỉ đạo của Đảng, của Chính phủ, sự chỉ đạo trực tiếp của Bộ tài chính, sự phối hợp tích cực của các ngành, các cấp, toàn ngành thuế

doc70 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1277 | Lượt tải: 1download
Tóm tắt tài liệu Giải pháp hoàn thiện công tác quản lý thu thuế đối với khu vực ngoài quốc doanh ở Cục thuế Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
đã nỗ lực phấn đấu liên tục, chủ động khai thác nguồn thu, tăng cường các biện pháp chống thất thu, chống nợ đọng đối với các sắc thuế, các khu vực trong phạm vi cả nước. Để góp phần thực hiện các luật thuế mới, đặc biệt là luật thuế GTGT và luật thuế TNDN, công tác chỉ đạo và quản lý thu theo quy trình mới đã có nhiều chuyển biến tích cực, các doanh nghiệp tự kê khai, tự tính thuế và nộp thuế theo quy định, cơ quan thuế xoá bỏ chế độ chuyên quản doanh nghiệp, nhiều biện pháp nghiệp vụ hành thu được chú trọng củng cố và phát huy. So với năm 2000, tổng thu NSNN tăng 12,1%; trong đó thu nội địa do ngành thuế quản lý tăng 10,3%; cả nước có 61/61 địa phương hoàn thành và hoàn thành vượt dự toán được giao. Dù áp dụng các luật thuế và quy trình quản lý thu thuế mới nhưng nền kinh tế vẫn duy trì tốc độ tăng trưởng khá ở mức gần 7%. Mặc dù nhiều địa phương đã hoàn thành toàn diện ba chỉ tiêu chính (doanh nghiệp Nhà nước, ngoài quốc doanh và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài), trong đó số thu từ khu vực ngoài quốc doanh (NQD) năm 2001 tăng 12,6% so với năm 2000, nhưng số thuế thu được từ khu vực này vẫn còn thất thu nhiều về hộ và doanh thu tính thuế. Tình trạng để sót hộ, khoán doanh thu với mức thuế chưa sát với hoạt động sản xuất kinh doanh của đối tượng nộp thuế, ghi chép sổ sách kế toán chỉ là hình thức...đã làm số thu từ khu vực NQD chưa tương xứng với tốc độ tăng trưởng kinh tế và mức độ kinh doanh ở khu vực này. Số thu từ khu vực KTNQD chỉ chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng số thu NSNN, song công tác quản lý thuế đối với khu vực này mang ý nghĩa hết sức quan trọng, không chí góp phần tăng thu cho NSNN mà chính là thực hiện vai trò quản lý của nhà nước đối với khu vực KTNQD, góp phần thực hiện sự bình đẳng và công bằng xã hội. Xuất phát từ ý nghĩa trên, đề tài: “Giải pháp hoàn thiện công tác quản lý thu thuế đối với khu vực ngoài quốc doanh ở Cục thuế Hà nội” với mục tiêu: dựa trên cơ sở lý luận cũng như những đánh giá về thực trạng, ưu nhược điểm của công tác quản lý thu thuế khu vực NQD trong những năm qua trên địa bàn thành phố Hà nội - trung tâm văn hoá, chính trị, kinh tế, xã hội của cả nước, một môi trường thuận lợi phát triển kinh tế NQD, từ đó chỉ ra nguyên nhân và đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm tăng cường công tác quản lý thu thuế trên địa bàn. Công tác quản lý thu thuế đối với khu vực NQD rất rộng, đa dạng và phức tạp. Phạm vi đề tài chỉ tập trung vào những giải pháp hoàn thiện công tác quản lý thu đối với hai luật thuế giá trị gia tăng (GTGT) và thu nhập doanh nghiệp (TNDN) đối với khu vực NQD trên địa bàn quản lý của Cục thuế Hà nội. Về nội dung của đề tài, ngoài phần mở đầu và kết luận có ba phần chính: Chương I: Những vấn đề cơ bản về công tác quản lý thu thuế khu vực NQD. Chương II: Thực trạng công tác quản lý thu thuế khu vực NQD. Chương III: Giải pháp hoàn thiện công tác quản lý thu thuế khu vực NQD. Chương I: Những vấn đề cơ bản về công tác quản lý thu thuế ngoài quốc doanh: I. Một số vấn đề chung về kinh tế ngoài quốc doanh: Trong định hướng xã hội chủ nghĩa về việc xây dựng nền kinh tế nhiều thành phần, báo cáo chính trị của Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá VI tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng đã khẳng định yêu cầu: - Thực hiện nhất quán, lâu dài chính sách phát triển nền kinh tế nhiều thành phần. Lấy việc giải phóng sức sản xuất, động viên tối đa mọi nguồn lực bên trong và bên ngoài cho CNH - HĐH, nâng cao hiệu quả kinh tế và xã hội, cải thiện đời sống nhân dân làm mục tiêu hàng đầu trong việc khuyến khích phát triển các thành phần kinh tế và các hình thức tổ chức kinh doanh. - Chủ động đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả kinh tế Nhà nước, kinh tế hợp tác. Kinh tế Nhà nước đóng vai trò chủ đạo, cùng với kinh tế hợp tác xã dần trở thành nền tảng. Tạo điều kiện pháp lý và kinh tế thuận lợi để các nhà kinh doanh tư nhân yên tâm đầu tư làm ăn laau dài, mở rộng các hình thức liên doanh, liên kết giữa kinh tế Nhà nước với các thành phần kinh tế khác cả trong và ngoài nước, áp dụng phổ biến các hình thức tư bản Nhà nước. Như vậy, trong gần 30 năm ở miền Bắc và gần 10 năm ở miền Nam, KTNQD đã không được chấp nhận, là đối tượng phải cải tạo, xoá bỏ, hạn chế. Đại hội Đảng lần thứ VI với chủ trương xây dựng nề kinh tế thị trường nhiều thành phần có sự quản lý của Nhà nước, khu vực KTNQD đã được thừa nhận là một khu vực quan trọng của nền kinh tế. I.1. Kinh tế thị trường và khu vực kinh tế ngoài quốc doanh. Việc nghiên cứu KTNQD nói chung và thuế đối với KTNQD nói riêng đều không thể tách rời việc nghiên cứu những đặc điểm của môi trường mà KTNQD tồn tại và phát triển. Đó chính là nền kinh tế được vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN. Việc chuyển đổi từ cơ chế kế hoạch hoá tập trung sang cơ chế thị trường là một nội dung bao trùm nhất của công cuộc đổi mới. Cho đến nay, cơ chế thị trường đã đi vào cuộc sống và tạo ra nhiều bién đổi lớn trong đời sống kinh tế xã hội. Trong đó, sự tồn tại của nền kinh tế nhiều thành phần là một tất yếu khách quan, cần thiết để giải phóng sức sản xuất xã hội, giải phóng mọi tiềm năng về vốn, lao động, kinh nghiệm... góp phần thúc đẩy nền kinh tế tăng trưởng và phát triển. Nếu xét trên giác độ sở hữu và quản lý, nền kinh tế được chia làm hai khu vực: khu vực kinh tế trong nước và khu vực có vốn đầu tư nước ngoài. Khu vực kinh tế trong nước hiện nay có năm thành phần kinh tế: thành phần kinh tế Nhà nước, thành phần kinh tế tập thể, thành phần kinh tế tư bản tư nhân, thành phần kinh tế cá thể, thành phần kinh tế tư bản Nhà nước; tất cả tồn tại trên cơ sở ba loại hình sở hữu chủ yếu là sở hữu Nhà nước, sở hữu tập thể và sở hữu tư nhân. Nếu xét trên giác độ chức năng và mục tiêu, nền kinh tế gồm hai khu vực: kinh tế quốc doanh (chủ yếu thực hiện chức năng dịch vụ công cộng vì mục tiêu là lợi ích chung của toàn xã hội) và kinh tế ngoài quốc doanh (chủ yếu làm chức năng kinh doanh vì mục tiêu tối đa hoá lợi nhuận). Trong cơ cấu sản xuất xã hội, KTNQD được coi là một thực thể khách quan, gồm các thành phần kinh tế được xác định tuỳ theo đặc điểm kinh tế xã hội và quan điểm chính trị của mỗi quốc gia trong từng giai đoạn khác nhau. Tại Việt nam, khu vực KTNQD tồn tại dưới các hình thức: doanh nghiệp tư nhân, công ty TNHH, công ty cổ phàn, hợp tác xã, tổ sản xuất, hộ kinh doanh cá thể... Từ năm 1986 đến nay, khu vực KTNQD đã tạo ra khoảng 50% tổng sản phẩm trong nước, 1/3 giá trị sản lượng công nghiệp mỗi năm. Khu vực này bộc lộ nhiều vai trò không thể phủ nhận, nhất là trong tình hình kinh tế hiện nay: - Thứ nhất, khu vực KTNQD góp phần khai thác những tiềm năng to lớn của nền kinh tế. Cùng với khu vực KTQD, KTNQD là cộng sự đắc lực đào xới những mảnh đất màu mỡ của nền kinh tế chưa được sử dụng đến. Các doanh nghiệp ngoài quốc doanh có khả năng tập trung vốn, trí tuệ vào các ngành kinh tế phát triển hay những ngành kinh tế đòi hỏi nhiều hàm lượng tri thức như công nghệ thông tin cũng như có khả năng lấp đầy những khoảng trống trong các lĩnh vực sản xuất kinh doanh không cần nhiều vốn và có mức lợi nhuận thấp mà các nhá đầu tư lớn ít quan tâm tới. - Thứ hai, khu vực KTNQD là cầu nối quan trọng để nền kinh tế nước ta từng bước hoà nhập với nền kinh tế trong khu vực và trên thế giới bởi lẽ đây là khu vực năng động và hiệu quả cao. - Thứ ba, khu vực KTNQD góp phần giải quyết công ăn việc làm cho nền kinh tế, vấn đề thất nghiệp và tạo ra sự phát triển cân đối trong cơ cấu nền kinh tế. Trung bình ở nước ta mỗi năm khu vực này đem lại việc làm cho hơn một triệu người lao động. - Thứ tư, KTNQD giải phóng năng lực sản xuất của người lao động, tạo ra nguồn sản phẩm phong phú về số lượng và chất lượng đáp ững mọi nhu cầu của xã hội. Trong hoạt động sản xuất kinh doanh, KTNQD luôn tập trung cao độ tinh thần làm việc, phát huy mọi khả năng sãn có để có thể đem lại hiệu quả cao nhất. Một mặt, đây là đối thủ cạnh tranh của khu vực KTQD, nếu một trong hai bên không năng động, mạnh dạn đổi mới thì lập tức sẽ bị thị trường đào thải; mặt khác, sự kết hợp sản xuất và tiêu thụ giữa hai khu vực tạo ra một dây truyền sabr xuất lớn trong nền kinh tế, giúp quá trình sản xuất được rút ngắn. - Thứ năm, KTNQD góp phần tăng thu cho NSNN. Thuế là nguồn thu chính vào NSNN từ khu vực này. Trong năm 2001, tổng thu từ khu vực KTNQD đạt 102,4% dự toán năm, từ DNNN là 109% và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (trừ dầu thô) là 113,5%. - Thứ sáu, KTNQD tạo ra một thị trường vốn tín dụng lớn và hứa hẹn nhiều tiềm năng. Với chính sách đổi mới, nền kinh tế tăng trưởng khá, khu vực KTNQD ngày càng tăng về số lượng và quy mô. Tính đến 12/2001, trên địa bàn Hà nội có 421 công ty cổ phần, 5223 công ty TNHH, 950 doanh nghiệp tư nhân, 543 hợp tác xã và tổ sản xuất, trên 75000 hộ kinh doanh cá thể và 375 là thuộc các loại hình khác. I.2. Đặc điểm của khu vực kinh tế ngoài quốc doanh: KTNQD là khu vực kinh tế bao gồm các tổ chức, cá nhân hoạt động kinh doanh bằng nguồn vốn của cá nhân hoặc một số cá nhân đóng góp, theo cơ chế thị trường vì mục tiêu lợi nhuận. -Thứ nhất, KTNQD mang tính sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất, do tư nhân quản lý và phân phối lợi nhuận, hiệu quả sản xuất gắn liền với quyền lợi cá nhân người sản xuất. - Thứ hai, mục tiêu lớn nhất trong kinh doanh là lợi nhuận, họ có thế sẵn sàng bằng bất kỳ giá nào để kiếm được thật nhiều lợi nhuận với những phương án kinh doanh táo bạo và mạo hiểm. Do vậy nhiều khi gây hậu quả xấu cho xã hội. KTNQD thường tự phát và khó quản lý, không ít cơ sở kinh doanh trái phép, kinh doanh không kê khai nộp thuế, trốn thuế, lợi dụng hoá đơn chứng từ xin hoàn thuế sai quy định. - Thứ ba, tổ chức các cơ sở KTNQD phần lớn là quy mô nhỏ do vốn ít, cơ cấu gọn nhẹ, linh hoạt, dễ dàng thích ứng nhanh với sự thay đổi của môi trường kinh doanh. Nhân viên thường đảm nhận công việc theo kiểu đa năng, chi phí nhân công thấp. Với những vai trò và đặc điểm trên, khu vực KTNQD ngày càng được khuyến khích và đảm bảo môi trường thuận lợi để phát triển. Tuy vậy, khuyến khích phát triển khu vực này không đồng nghĩa với việc buông lỏng quản lý, do vậy, hệ thống pháp luật phải được thể chế hoá đầy đủ, rõ ràng cả tầm vĩ mô và vi mô để có thể phát huy tối đa mặt tíc cực và hạn chế đến mức thấp nhất mặt tiêu cực của KTNQD trong cơ chế thị trường. I.3. Các sắc thuế chủ yếu đối với khu vực kinh tế ngoài quốc doanh: Từ ngày 1/1/1999 thực hiện chương trình cải cách thuế bước hai, hệ thống thuế của Nhà nước ta bao gồm 10 sắc thuế, trong đó có 4 sắc thuế chủ yếu áp dụng đối với khu vực KTNQD. A. Thuế môn bài: Thuế môn bài mang tính chất là thuế trực thu, động viên sự đóng góp trực tiếp của cơ sở kinh doanh, tạo được một nguồn thu quan trọng cho nhu cầu chi tiêu của NSNN ngay từ đầu mỗi năm khi các nguồn thu khác chưa nhiều. Thuế môn bài có tác dụng kiểm kê, kiểm soát các cơ sở kinh doanh, có căn cứ phân loại quy mô doanh thu lớn, vừa, nhỏ để áp dụng biện pháp quản lý thu thuế thích hợp. Thuế môn bài áp dụng đối với mọi tổ chức, cá nhân có thực tế kinh doanh. Thuế thu mỗi năm một lần và chủ yếu thu vào đầu năm. những cơ sở kinh doanh hoạt động trong sáu tháng đầu năm phải nộp mức thuế môn bài cả năm. Nếu bắt đầu hoạt động trong sáu tháng cuối năm thì nộp 50% mức thuế cả năm. Thuế môn bài hàng năm được quy định trong biểu thuế qua sáu bậc tương ứng với số thu nhập bình quân tháng cao hay thấp. Với mục đích kiểm kê, kiểm soát các cơ sở thực tế kinh doanh, thuế môn bài không có quy định miễn giảm thuế. B. Thuế giá trị gia tăng (GTGT): Thuế GTGT là thuế tính trên khoản giá trị tăng thêm của hàng hoá, dịch vụ phát sinh trong quá trình từ sản xuất, lưu thông đến tiêu dùng. Bản chất của thuế GTGT là loại thuế do người tiêu dùng hàng hoá hoặc dịch vụ chi trả, là một yếu tố cấu thành trong giá thanh toán của sản phẩm hàng hoá. Đối tượng của thuế GTGT là hàng hoá, dịch vụ dùng cho sản xuất, kinh doanh và tiêu dùng tại Việt nam (trừ 26 nhóm hàng hoá, dịch vụ quy định tại Thông tư số 122/2000/TT-BTC quy định chi tiết thi hành luật thuế GTGT. Căn cứ tính thuế GTGT là giá tính thuế và thuế suất. Thuế suất giá trị gia tăng hiện nay ở Việt nam có 4 mức: 0%, 5%, 10%, 20%. Cụ thể: - Thuế suất 0% áp dụng đối với hàng xuất khẩu. - Thuế suất 5% áp dụng đối với hàng hoá, dịch vụ thiết yếu. - Thuế suất 10% áp dụng đối với hàng hoá, dịch vụ phổ thông. - Thuế suất 20% áp dụng đối với hàng hoá, dịch vụ được coi là cao cấp cần điều tiết cao. Hiện nay ở nước ta áp dụng hai phương thức tính thuế GTGT: Phương pháp khấu trừ áp dụng cho các đối tượng kinh doanh và các doanh nghiệp Nhà nước, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, doanh nghiệp tư nhân, công ty cổ phần, hợp tác xã và các tổ chức kinh doanh khác thuộc diện thực hiện chế độ sổ sách kế toán, hoá đơn chứng từ theo quy định. Phương pháp tính trực tiếp áp dụng đối với các cá nhân sản xuất, hoạt đọng trong nước và các tổ chức, cá nhân nước ngoài kinh doanh ở Việt nam không theo luật Đầu tư nước ngoài tại Việt nam chưa thực hiện đầy đủ các điều kiện về kế toán, hoá đơn chứng từ để làm căn cứ tính thuế theo phương pháp khấu trừ, các cơ sở kinh doanh mua bán vàng, bạc, đá quý. C. Thuế tiêu thụ đặc biệt (TTĐB): Thuế TTĐB mang tính chất là thuế gián thu áp dụng đối với 8 loại hàng hoá và 4 hình thức dịch vụ (quy định trong luật thuế TTĐB) được sản xuất trong nước và nhập khẩukhông thuộc loại thật cần thiết cho nhu cầu đời sống thiết yếu nhằm động viên sự đóng góp của người tiêu dùng cho NSNN, hạn chế sản xuất, nhập khẩu và tiêu dùng nhiều các mặt hàng này. Những cơ sở sản xuất mặt hàng chịu thuế TTĐB phải nộp thuế TTĐB và không phải nộp thuế GTGT. Thuế TTĐB chỉ nộp một lần tại khâu sản xuất (đối với hàng hoá sản xuất trong nước), khâu nhập khấu (đối với hàng hoá nhập khẩu hoặc ở khâu cung ứng dịch vụ (đối với dịch vụ chịu thuế). Căn cứ tính thuế TTĐB là giá tính thuế của hàng hoá dịch vụ chịu thuế và thuế suất. Theo quy định hiện hành, biểu thuế TTĐB có mức thuế suất cao gồm 12 mức thuế suất khác nhau từ 15% đến 100% được phân theo loại hàng hoá và dịch vụ. Đối với hàng hoá, dịch vụ chịu thuế TTĐB, thuế suất thuế TTĐB không phân biệt hàng hoá nhập khẩu hay hàng hoá sản xuất trong nước. Thuế TTĐB được xét miến giảm và hoàn thuế trong một số trường hợp cụ thể được quy định trong luật thuế. D. Thuế thu nhập doanh nghiệp (TNDN): Thuế TNDN là loại thuế trực thu, đánh trực tiếp vào thu nhập thực tế của các đối tượng nộp thuế, các tổ chức, cá nhân sản xuất kinh doanh hàng hoá, dịch vụ có thu nhập chịu thuế. Căn cứ tính thuế TNDN là thu nhập chịu thuế và thuế suất. Mức thuế suất chung là 32%, ngoài ra có một số trường hợp đặc biệt mức thuế suất có thể thấp hơn hoặc cao hơn được quy định cụ thể trong luật thuế TNDN. II. Quản lý thu thuế ngoài quốc doanh: II.1. Yêu cầu của công tác quản lý thu thuế ngoài quốc doanh: Yêu cầu chung của công tác quản lý thu thuế đó là phải thu đúng, thu đủ và thu kịp thời theo đùng pháp luật. Tổng cục thuế đã nghiên cứu, ban hành các quy trình chế độ nghiệp vụ cho từng loại đối tượng kinh doanh có thực hiện hoá đơn, sổ sách kế toán hoặc khoán thuế thuộc diện quản lý thu thuế theo từng sắc thuế. Công tác quản lý thu thuế phải thực hiện đúng quy trình nghiệp vụ để nắm chắc cơ sở kinh doanh thực tế, có cớ sở thu thuế đầy đủ về doanh số phát sinh theo từng cơ sở, từng thời gian, đảm bảo được nguyên tắc lập sổ thuế, thông báo thuế và thu thuế đúng với thời gian quy định và cơ sở để giải quyết xử lý nộp chậm, dây dưa tiền thuế, trốn thuế. Việc tách công tác quản lý thành ba bộ phận nhằm tạo được sự hỗ trợ trong tổ chức thuế, vừa chống được thất thu có hiệu quả, vừa khắc phục tuỳ tiện, tiêu cực trong công tác quản lý thu thuế. Một yếu tố cơ bản để cơ quan thuế xác định được việc thu thuế sát đúng với thực tế hoạt động sản xuất kinh doanh là phải đảm bảo được việc thực hiện nghiêm chỉnh chế độ kê khai đăng ký thuế, chế độ hoá đơn chứng từ, sổ sách kế toán ở tất cả các cơ sở kinh doanh. Ngoài yêu cầu cơ bản trên, công tác quản lý thu thuế đối với nền kinh tế nhiều thành phần còn phải đảm bảo yêu cầu về mặt tài chính tức là đảm bảo tỷ lệ động viên hợp lý đối với các thành phần kinh tế, thuế là nguồn thu chủ yếu của ngân sách, phải bao quát đủ mọi nguồn thu để khai thác động viên cho ngân sách; đảm bảo yêu cầu về mặt kinh tế tức là phải làm cho thuế trở thành công cụ chủ yếu của Nhà nước trong quản lý vĩ mô nền kinh tế; đảm bảo yêu cầu về mặt xã hội là phải góp phần từng bước thực hiện công bằng xã hội. Để thực hiện tốt những yêu cầu trên, trong công tác quản lý cần phải quán triệt một số quan điểm sau: Thứ nhất, phát huy sức mạnh của các cấp, các ngành. Công tác thuế là nhiệm vụ chung của chính quyền các cấp, do vậy phải có sự tăng cường chỉ đạo, lãnh đạo của chính quyền các cấp, đặc biệt là cấp cơ sở. Công tác thuế là một công tác chính trị, kinh tế tổng hợp liên quan đến mọi thành phần kinh tế trong xã hội, là cuộc đấu tranh gay gắt giữa lợi ích cá nhân cục bộ với lợi ích quốc gia, giữa quyền lợi và nghĩa vụ của mọi công dân, mọi tổ chức hoạt động sản xuất kinh doanh. Vì vậy không thể tách công tác quản lý thu thuế của ngành thuế ra khỏi sự chỉ đạo của chính quyền các cấp. Phải coi việc lãnh đạo, chỉ đạo công tác thuế là nhiệm vụ trọng tâm thường xuyên của địa phương. Các ngành nội chính cũng cần xác định mối quan hệ với cơ quan thuế, vừa là phối hợp hỗ trợ, vừa là trách nhiệm cùng cơ quan thuế thực hiện các luật thuế có hiệu quả. Thứ hai là quan điểm đảm bảo bình đẳng về nghĩa vụ nộp thuế. Trong cơ chế thị trường, mọi thành phần kinh tế được bình đẳng trước pháp luật để cạnh tranh trong sản xuất kinh doanh. Do đó, hệ thống thuế cũng phải được thực hiện thống nhất nhằm đảm bảo sự bình đẳng về nghĩa vụ đóng góp cho NSNN giữa các doanh nghiệp, tầng lớp dân cư. Về lâu dài cần nghiên cứu, thu hẹp tiến tới xoá bỏ mọi phân biệt đối xử tràn lan về nghĩa vụ nộp thuế để đảm bảo sự bình đăngr và cạnh tranh lành mạnh. Thứ ba là giải quyết hài hoà mối quan hệ giữa lợi ích Nhà nước với người nộp thuế . Do đó phải xác định rõ chức năng của từng sắc thuế và của cả hệ thống thuế. Mỗi sắc thuế chỉ nên đảm nhận một số chức năng chủ yếu nhất định, đảm bảo cho sắc thuế đó đơn giản, có thể thực hiện đầy đủ, có hiệu quả cao. Một chính sách thuế được coi là hoàn hảo khi nó đạt được các mục tiêu về mặt tài chính (đưa lại số thu quan trọng cho ngân sách); về mặt xã hội (đảm bảo công bằng và hợp lý); về mặt kinh tế (có tác dụng khuyến khích và thúc đẩy hoạt động sản xuất); về mặt nghiệp vụ (đơn giản, dễ hiểu, dễ làm). Trong cơ chế thị trường, nền kinh tế phát triển do nhiều yếu tố khách quan, đặc biệt là quy luật cung cầu và quy luật giá trị, do đó thuế có vai trò quan trọng trong điều tiết vĩ mô chỉ nên tác động ở mức độ vừa phải, góp phần, không phải là công cụ độc nhất. Chính sách và biện pháp quản lý về thuế không can thiệp quá sâu vào mọi khía cạnh hoạt động tích cực hay tiêu cực của từng doanh nghiệp và cần tạo môi trường thông thoáng mang tính bình quân để cơ sở kinh doanh có thể chủ động, linh hoạt trong điều hành sản xuất kinh doanh, tạo thu nhập cao và nộp thuế đầy đủ theo quy định của pháp luật. Thứ tư là quan điểm quần chúng của Đảng trong tuyên truyền, giáo dục về thuế. Việc tuyên truyền, giáo dục chính sách, chế độ thuế không chỉ là truyền đạt một chiều từ trên xuống mà thông qua công tác quản lý thường xuyên, cán bộ thuế phải thấy được những khó khăn thực tế phát sinh trong tổ chức thực hiện. Phải lắng nghe ý kiến, nguyện vọng của các nhà doanh nghiệp, trung thực phản ánh ý kiến lên trên, nghiên cứu, sửa đổi bổ sung để chính sách thuế, chế độ thuế ngày càng phù hợp với trình độ và khả năng đóng góp của nhân dân. II.2. Nội dung của công tác quản lý thu thuế khu vực ngoài quốc doanh: II.2.1. Tổ chức bộ máy quản lý thu thuế: Hệ thống tổ chức bộ máy quản lý thu thuế bao gồm ba cấp: - Cấp trung ương: Tổng cục thuế là cơ quan quản lý Nhà nước về thuế (trực thuộc Bộ tài chính). - Cấp tỉnh hoặc cấp tương đương: Cục thuế chỉ đạo thống nhất việc thực hiện các luật thuế, pháp lện thuế trên địa bàn (trừ thuế xuất nhập khẩu). Cục thuế chịu sự chỉ đạo song trùng của Tổng cục thuế và Uỷ ban nhân dân cùng cấp. - Cấp huyện hoặc cấp tương đương: Chi cục thuế có chức năng trực tiếp tổ chức công tác thu trên địa bàn theo đúng pháp luật. Chi cục thuế chịu sự chỉ đạo song trùng của cơ quan thuế cấp trên và Uỷ ban nhân dân cùng cấp. Đối với việc tăng cường tổ chức bộ máy quản lý có bốn yêu cầu cần phải đáp ứng, đó là: Thứ nhất, hệ thống quản lý thu thuế phải được kiện toàn, đảm bảo đủ điều kiện thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của hệ thống thuế. Thứ hai, bộ máy quản lý thu thuế phải trở thành hệ thống thống nhất từ trung ương đến địa phương, đảm bảo hiệu lực của hệ thống chính sách thuế. Thứ ba, phẩm chất cách mạng và năng lực toàn diện của cán bộ quản ly thu thuế phải được nâng cao về trình độ nghiệp vụ, chuyên môn, về trình độ tổ chức quản lý phù hợp với điều kiện mở rộng kinh doanh của tát cả các thành phần kinh tế và thực hiện một chính sách thuế bình đẳng giữa các thành phần kinh tế. Thứ tư, quyền hạn, trách nhiệm giữa các cấp chính quyềnphải được xác lập rõ ràng, có sự phân công cụ thể, hợp lý trong tổ chức chỉ đạo và thực hiện công tác thuế. Chủ tịch UBND các cấp chịu trách nhiệm trực tiếp về công tác thuế trên địa bàn lãnh thổ. II.2.2. Mục tiêu, chức năng, nhiệm vụ của công tác quản lý: Để phát huy tác dụng tích cực của các luật thuế mới đối với nền kinh tế và thực hiện tốt quy trình quản lý mới, công tác quản lý cần thực hiện các mục tiêu sau: - Đảm bảo công bằng về quyền lợi và nghĩa vụ của doanh nghiệp, hộ kinh doanh trong nền kinh tế, giúp các doanh nghiệp ổn định sản xuất kinh doanh, tạo điều kiện đổi mới máy móc thiết bị, công nghệ, thúc đẩy công tác hạch toán kế toán trong các doanh nghiệp, tăng khả năng cạnh tranh trong nước cũng như trên thị trường quốc tế. - Đảm bảo nguồn thu cho ngân sách, khai thác, phát hiện và khơi thông các nguồn thu còn tiềm ẩn, hạn chế tình trạng nợ đọng thuế. - Khuyến khích mạnh mẽ hoạt động xuất khẩu để giải quyết việc làm cho người lao động. - Nâng cao ý thức trách nhiệm trong việc thực hiện nghĩa vụ thuế của các doanh nghiệp cũng như các tầng lớp dân chúng trong xã hội. Để đạt được các mục tiêu trên, công tác quản lý thu thuế có những chức năng cơ bản sau: - Hướng dẫn đối tượng nộp thuế thực hiện quyền và nghĩa vụ thuế, chẳng hạn: các thủ tục về kê khai, đăng ký nộp thuế, quyết toán hoàn thuế... - Đôn đốc tổ chức thu thuế. - Thanh tra, kiểm tra việc thực hiện nghĩa vụ thuế của các đối tượng thuế. - Xử lý vi phạm hành chính về thuế và giải quyết khiếu nại về thuế. - Tuyên truyền giáo dục sâu rộng chính sách, chế độ thuế. Ngoài ra, bộ máy tổ chức còn có những nhiệm vụ sau: Thứ nhất, thông qua công tác quản lý thu thuế và tình hình biến động về kinh tế, xã hội, trình Nhà nước có những sửa đổi, bổ sung chính sách, chế độ thuế. Hướng dẫn và tổ chức thực hiện thống nhất các quy định thuế chung cả nước. Thứ hai, tổ chức thực hiện tốt nhiệm vụ thu các koại thuế hàng năm trên từng địa bàn và trong phạm vi cả nước, đảm bảo hoàn thành và hoàn thành toàn diện nhiệm vụ thu thuế được giao. Thứ ba, tổ chức công tác thanh tra, kiểm tra thường xuyên, đột xuất về thuế. Thứ tư, quản lý thống nhất trong toàn ngành về biên chế, lao động, lương... đối với cán bộ viên chức ngành thuế. II.2.3. Đội ngũ cán bộ: Mỗi cán bộ thuế phải nắm được lý luận cơ bản về khoa học kinh tế và khoa học kỹ thuật để có thể phân tích, đánh giá chính xác tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh, hiệu quả kinh tế của từng cơ sở. Từ đó xác định đúng mức phải nộp trong kỳ. Cán bộ thuế phải có quan điểm chính trị vững vàng, tinh thần trách nhiệm và kỷ luật cao, biết tranh thủ sự lãnh đạo, chỉ đạo của các tổ chức Đảng, chính quyền các cấp và có sự phối hợp chặt chẽ với các ngành liên quan, quần chúng. II.2.4. Quy trình quản lý thu thuế: Theo Quyết định số 1368 TCT/QĐ-TCCB, ngành thuế bắt đầu áp dụng quy trình quản lý, thu thuế mới từ 1/1/1999 đối với các doanh nghiệp quốc doanh trung ương và địa phương, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài hoạt động theo luật đầu tư nước ngoài, công ty nước ngoài hoạt động tại Việt nam không theo luật đầu tư nước ngoài, công ty cổ phần, doanh nghiệp tư nhân, công ty TNHH, các cơ sở kinh tế tập thể, hợp tác xã, các đơn vị sự nghiệp kinh tế, nhà khách, nhà nghỉ và các tổ chức kinh tế khác của các cơ quan Nhà nước, Đảng, Đoàn thể, hội, đơn vị lực lượng vũ trang nhân dân trung ương và địa phương, các hộ cá thể sản xuất kinh doanh đăng ký nộp thuế GTGT theo phương pháp khấu trừ thuế. Nội dung: II.2.4.1. Nhiệm vụ và chức năng của các bộ phận chính trong quá trình quản lý thu: Phòng quản lý thu: - Quản lý đối tượng nộp thuế, theo dõi tình hình biến động về đối tượng nộp thuế trên địa bàn quản lý. Phân tích tình hình thu nộp, tham gia việc lập dự toán thu, khai thác các nguồn thu trong lĩnh vực được giao quản lý. Tham mưu đề xuất với lãnh đạo Cục các biện pháp quản lý thuế. - Hướng dẫn đối tượng nộp thuế các thủ tục kê khai đăng ký thuế, kê khai thuế, lập hồ sơ miễn giảm thuế, hoàn thuế và quyết toán thuế... giải đáp thắc mắc của đối tượng nộp thuế liên quan tới việc tính thuế, thu nộp thuế. Lập và tổ chức lưu giữ hồ sơ các doanh nghiệp. - Thực hiện kiểm tra các chỉ tiêu kê khai trên các tờ khai, hồ sơ của doanh nghiệp. Liên hệ với đối tượng nộp thuế để chỉnh sửa theo đúng quy định. - Đề xuất và tham mưu cho lãnh đạo Cục giải quyết các trường hợp đề nghị miễn giảm thuế, hoàn thuế. Lập các thủ tục xét miễn, giảm, hoàn thuế, kiểm tra hồ sơ quyết toán thuế. Cung cấp thông tin về kết quả xét miễn, giảm, hoàn thuế và quyết toán thuế cho bộ phận tính thuế. - Thực hiện việc ấn định thuế cho các đối tượng nộp thuế không nộp hoặc nộp chậm tờ khai thuế. Xác định các đối tượng nộp thuế cần phát hành lệnh thu hoặc phạt hành chính thuế. - Theo dõi tình hình nộp thuế. Phối hợp với phòng TT-XLTT thực hiện kiểm tra sổ sách kế toán, hoá đơn, chứng từ mua bán của các đối tượng có hiện tượng khai man thuế, trốn lậu thuế... Phòng kế hoạch-kế toán- thống kê và phòng máy tính: - Phân tích số liệu thống kê thuế để lập dự toán thu hàng năm của toàn đơn vị. Phân bổ kế hoạch và theo dõi tiến độ thực hiện kế hoạch của các chi cục và các phòng quản lý thu. Tham mưu cho lãnh đạo Cục về khai thác các nguồn thu và các biện pháp chỉ đạo thu. - Thực hiện nhập tờ khai đăng ký thuế và quản lý hệ thống cấp mã số đối tượng nộp thuế, in Giấy chứng nhận đăng ký thuế. - Xử lý tính thuế, tính nợ, tính phạt nộp chậm, in thông báo thuế, nhận giấy nộp tiền từ kho bạc, chấm nợ. Nhận các kết quả xét miễn, giảm, hoàn thuế, quyết toán thuế và các kết quả thanh tra, kiểm tra từ các phòng quản lý thu, phòng TT-XLTT và phòng nghiệp vụ,.. thực hiện các biện pháp thu nộp thuế. - Thực hiện công tác kế toán, thống kê thuế theo chế độ quy định. Kiểm tra, đối chiếu số thu với Kho bạc. - Triển khai và phát triển công tác tin học cho Cục thuế và các chi cục thuế trực thuộc Cục. Phòng thanh tra-xử lý tố tụng: - Kiểm tra phát hiện các đối tượng có hoạt động sản xuất kinh doanh, dịch vụ nhưng không kê khai đăng ký nộp thuế để đưa vào diện quản lý thu thuế. - Căn cứ vào các thông tin do bộ phận quản lý và bộ phận tính thuế cung cấp về tình hình nộp từ khai thuế, nộp thuế và các nguồn thông tin khác để xác định các đối tượng cần thanh tra, kiểm tra về thuế. Lập kế hoạch thanh tra, kiểm tra trình lãnh đạo Cục duyệt. Tổ chức lực lượng kiểm tra và tiến hành kiểm tra các đối tượng cần kiểm tra về hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ, kiểm tra sổ sách, hoá đơn, chứng từ mua bán hàng hoá... phát hiện kịp thời các hành vi khai man thuế, trốn thuế, đề xuất các biện pháp xử lý theo pháp luật. - Hỗ trợ các phòng quản lý thu thuế để quản lý, đôn đốc thu nộp và thực hiện các biện pháp cưỡng chế thu đối với các đối tượng chấy ỳ, cố tình vi phạm luật thuế. - Kiểm tra việc chấp hành các quy định về quản lý thu và tính thuế của các bộ phận quản lý thu và bộ phận tính thuế để kịp thời chấn chỉnh những sai sót trong công tác quản lý thu thuế. II.2.4.2. Nội dung quy trình: II.2.4.2.1. Quy trình đăng ký thuế và cấp mã số thuế. Doanh nghiệp ra kinh doanh phải liên hệ với Cục thuế (bộ phận ấn chỉ thuế) để nhận và kê khai tờ khai đăng ký thuế theo mẫu quy định. Sau đó doanh nghiệp gửi tờ khai đăng ký thuế kèm theo bản sao có công chứng quyết định thành lập và giấy phép kinh doanh tới cơ quan thuế để được cấp mã số thuế. Phòng hành chính sẽ nhận tờ khai đăng ký thuê của doanh nghiệp và nhận các tệp tờ đăng ký từ các Chi cục gửi lên và ghi sổ nhận đăng ký thuế. Phân loại tờ khai theo từng phòng quản lý thu để chuyển cho phòng quản lý thu và chuyển các tệp đăng ký thuế của các Chi cục cho phòng KH-KT-TK (MT). Phòng quản lý thu tiến hành kiểm tra các tờ khai đăng ký thuế, tiến hành sửa đổi nếu có sai sót và chuyển tờ khai đăng ký thuế đã kiểm tra cho phòng KH-TK-KT (MT). Phòng này nhận các tệp tờ khai và các tờ khai từ Chi cục và phòng quản lý thu, thực hiện nhập các thông tin vào máy tính. Máy tính sẽ gán mã số thuế cho đối tượng nộp thuế. Cán bộ thuế nhập đăng ký thuế sẽ ghi lại mã số cho đối tượng nộp thuế vào tờ khai đăng ký. Phòng KH-TK-KT (MT) truyền dữ liệu đăng ký thuế về Tổng cục để kiểm tra tránh sự trùng lắp mã số trên toàn quốc. Sau khi kiểm tra Tổng cục sẽ gửi trả kết quả cho Cục thuế và phòng KH-KT-TK (MT) tiến hành in giấy chứng nhận đăng ký thuế và bảng kê danh sách mã số đối tượng nộp thuế chuyển cho các phòng quản lý thu và các Chi cục để gửi tới đối tượng nộp thuế. II.2.4.2.2. Quy trình xử lý tờ khai và chứng từ nộp thuế. Phòng hành chính nhận tờ khai thuế, ghi sổ theo dõi và chuyển tờ khai cho các phòng quản lý thu. Phòng quản lý thu nhận tờ khai và tiến hành kiểm tra phát hiện lỗi. Phòng quản lý thu có trách nhiệm liên hệ với đối tượng nộp thuế để sửa lỗi tờ khai. Sau khi kiểm tra tờ khai thuế, phòng quản lý thu tiến hành phân loại và đóng tệp tờ khai theo ngày kiểm tra và gửi tờ khai ngay trong ngày cho phòng KH-KT-TK (MT). Phòng này tiến hành nhập tờ khai vào máy tính._., tiếp tục kiểm tra phát hiện lỗi. Đối tượng nộp thuế sẽ phải liên hệ qua điện thoại hoặc trực tiếp đến cơ quan thuế để sửa lỗi. Việc sửa lỗi tờ khai thuế GTGT phải diễn ra trước ngày 15 hàng tháng, sửa lỗi tờ khai thuế TNDN trước ngày 28/2 hàng năm. Nếu quá thời hạn thì phòng quản lý thu tiến hành ấn định thuế theo luật định. Phòng KH-KT-TK (MT) tính nợ kỳ trước chuyển sang, tính thuế phải nộp kỳ này dựa vào tờ khai và danh sách ấn định thuế để in thông báo thuế. Thông báo thuế in xong được chuyển cho lãnh đạo Cục ký và được sao thành 2 bản: 1 bản cho đối tượng nộp thuế giữ và 1 bản chuyển cho phòng quản lý thu lưu giữ hồ sơ của doanh nghiệp. Các trường hợp nộp chậm tiền thuế, kéo dài sẽ bị tính phạt nộp chậm hoặc phạt hành chính hoặc lập lệnh thu được tiến hành theo Quyết định số 1368 của Tổng Cục thuế. Đối tượng nộp thuế căn cứ tờ khai tính thuế của mình để tự viết giấy nộp tiền và nộp thuế vào kho bạc. Phòng KH-TK-KT (MT) hàng ngày nhận giấy nộp tiền từ các Kho bạc hoặc các Chi cục chyển lên nhập số liệu từ giấy nộp tiền vào máy tính để theo dõi tình hình nộp thuế của đối tượng nộp thuế. Phòng TT-XLTT và các phòng quản lý thu khai thác đối tượng nộp thuế có nghi vấn về kê khai thuế trên máy tính để tiến hành kiểm tra và xử lý. II.2.4.2.3. Quy trình xử lý hoàn thuế. Đối tượng nộp thuế lập hồ sơ theo quy định để đề nghị hoàn thuế và gửi đến cơ quan thuế trực tiếp quản lý thu. Phòng quản lý thu tiến hành kiểm tra các thủ tục hồ sơ đề nghị hoàn thuế của đối tượng nộp thuế và xác định số thuế hoàn trả và lập phiếu trình lãnh đạo về việc hoàn thuế cho doanh nghiệp. Thời gian cơ quan thuế nhận xử lý hồ sơ hoàn thuế và ra quyết định hoàn thuế chỉ được kéo dài tôí đa không quá 30 ngày. Trong thời gian 5 ngày kể từ khi nhận được quyết định hoàn thuế của cơ quan thuế, kho bạc thực hiện thủ tục hoàn thuế, lập chứng từ hoàn thuế và gửi 1 liên chứng từ hoàn thuế cho cơ quan thuế. II.2.4.2.4. Quy trình xử lý miễn thuế, giảm thuế, tạm giảm thuế. Đối tượng nộp thuế thuộc diện được miễn, giảm, tạm giảm thuế theo luật thuế phải lập hồ sơ đề nghị được miễn, giảm, tạm giảm thuế theo quy định để gửi cơ quan thuế. Phòng quản lý thu có nhiệm vụ hướng dẫn, giải thích các thủ tục lập hồ sơ để nghị miễn, giảm, tạm giảm thuế cho các đối tượng nộp thuế. Phòng hành chính nhận hồ sơ đề nghi và ghi vào sổ nhận hồ sơ theo mẫu, đóng dấu ngày nhận vào đơn đề nghị và chuyển tới các phòng quản lý thu. Phòng quản lý thu nhận hồ sơ tiến hành kiểm tra thủ tục hồ sơ để xác định số thuế được miễn, giảm, tạm giảm. Sau đó trình lãnh đạo duyệt. Phòng hành chính nhận được quyết định miễn, giảm, tạm giảm sao thành 3 bản: 1 bản lưu tại phòng hành chính, 1 bản cho phòng quản lý thu, 1 bản cho đối tượng nộp thuế. Phòng quản lý thu căc cứ vào quyết định miễn, gảm, tạm giảm thuế để lập danh sách kết quả miễn, giảm, tạm giảm theo mẫu. Phòng KH-TK-KT (MT) nhận danh sách quyết định nhập số thuế được miễn, giảm, tạm giảm để điều chỉnh số thuế phải nộp từng kỳ của đối tượng nộp thuế. II.2.4.2.5. Quy trình xử lý quyết toán thuế. Đối tượng nộp thuế trong thời hạn 60 ngày kể từ khi kết thúc năm dương lịch phải lập và gửi quyết toán thuế cho cơ quan thuế. Đối với đối tượng nộp thuế chia, tách, sát nhập, giải thể trong thời hạn 45 ngày kể từ khi có quyết định sát nhập, chia tách, giải thể... Phòng hành chính nhận quyết toán thuế, ghi vào sổ theo mẫu và đóng dấu ngày nhận vào rồi chuyển tới các phòng quản lý thu. Phòng quản lý thu có trách nhiệm kiểm tra số liệu quyết toán thuế và xác định số thuế còn thừa hoặc thuế sau quyết toán của từng đối tượng nộp thuế. Phòng quản lý thu lập danh sách đối tượng nộp thuế nộp chậm hoặc không nộp quyết toán, trình lãnh đạo quyết định phạt hành chính. Chuyển danh sách ghi số tiền phạt hành chính cho phòng KH-TK-KT để theo dõi thu nộp. II.2.4.2.6. Lập hồ sơ đối tượng nộp thuế. Phòng quản lý thu có trách nhiệm tạo lập và quản lý hồ sơ các doanh nghiệp. Mỗi doanh nghiệp sẽ có một cặp hồ sơ lưu trữ các tài liệu như đăng ký thuế, thông báo thuế, các hồ sơ và quyết định hoàn thuế, giảm, tạm giảm, quyết toán thuế, các biên bản kiểm tra, quyết định xử lý kiểm tra... thời gian lưu trữ hồ sơ trong suốt quá trình tồn tại, hoạt động của doanh nghiệp, huỷ sau 10 năm kể từ khi doanh nghiệp có quyết định giải thể, phá sản... Phòng KH-KT-TK (MT) có nhiệm vụ lưu trữ các tờ khai, bảng kê, chứng từ nộp thuế của đối tượng nộp thuế theo từng sắc thuế, kỳ thuế và theo phòng quản lý thu. Thời gian lưu giữ trong vòng 5 năm. II.3. Vai trò của quản lý thu thuế ngoài quốc doanh: Thuế thu từ khu vực KTNQD chiếm tỷ trọng không lớn trong tổn thu NSNN. Công tác quản lý thu thuế KTNQD không chỉ đơn thuần phục vụ cho mục tiêu thu ngân sách mà chính là thực hiện vai trò quản lý Nhà nước đối với khu vực NQD, thông qua công cụ thuế thực hiện yêu cầu quản lý toàn bộ nền kinh tế quốc dân nói chung. Quản lý thu thuế NQD có vai trò quan trọng trong việc đưa chính sách, pháp luật vào cuộc sống kinh doanh và phát huy tác dụng của các chính sách đó.. công tác quản lý thu thuế NQD còn đảm bảo công bằng xã hội và tạo ra sự cạnh tranh lành mạnh giữa các đơn vị và thành phần kinh tế. Thông qua công tác thuế đã góp phần tích cực trong việc tạo môi trường kinh tế, pháp lý và tạo sự bình đẳng giữa các chủ thể kinh doanh; thực hiện chức năng kiểm soat, định hướng phát triển của Nhà nước đối với khu vực KTNQD; thúc đẩy nền kinh tế hàng hoá phát triển nhanh chóng và đúng hướng; thúc đẩy các cơ sở thực hiện hạch toán kinh doanh, huy động triệt để các nguồn vốn ngày càng có hiệu quả, sử dụng nguồn lao động, thiết bị tốt hơn. Công tác thuế góp phần quan trọng phát huy mặt tốt của nền kinh tế thị trường và hạn chế mặt trái của nó. Một trong những “trục trặc” của cơ chế thị trường là sự phân hoá thu nhập giữa người giàu và người nghèo, dễ phát sinh tệ nạn tham nhũng làm tha hoá bản chất đạo đức do kinh doanh chạy theo lợi nhuận bất chấp cả luật pháp. Hoạt động thu thuế góp phần điều tiết thu nhập giữa các tầng lớp dân cư, góp phần thực hiện công bằng xã hội và tạo ra sự cạnh tranh lành mạnh giữa các chủ thể kinh doanh. Công tác quản lý thu thuế NQD có vai trò giáo dục ý thức và trách nhiệm của công dân trong việc thực hiện nghĩa vụ với Nhà nước. Thông qua công tác tuyên truyền pháp luật thuế của ngành thuế đã làm cho mọi người biết và hiểu các quy định của Nhà nước để chấp hành. đối tượng nộp thuế thuộc khu vực KTNQD rất đa dạng và phức tạp, nhiều nơi có trình độ dân trí chưa cao, ý thức chấp hành luật pháp của nhân dân chưa nghiêm, sự hiểu biết về pháp luật và nhận thức về trách nhiệm nghĩa vụ của công dân chưa đầy đủ, thông qua công tác quản lý thu thuế cán bộ thuế đã truyền đạt chính sách pháp luật của đảng và Nhà nước, giới thiệu, giải thích chính sách thuế cho đối tượng nộp thuế để họ hiểu và tự giác thực hiện nghĩa vụ của mình. Từ đó, đảm bảo thu đúng, thu đủ, thu kịp thời tiền thuế vào ngân sách. III. Kinh nghiệm về quản lý thu thuế ở các nước trên thế giới: Thứ nhất, về chế độ kê khai, đăng ký và cấp mã số thuế: Trước khi bắt đầu hoạt động, các cơ sở kinh doanh phải kê khai, đăng ký thuế và nhận một mã số thuế riêng cho đơn vị , được ghi vào máy tính. Mọi hoạt động kinh doanh đều phải được thường xuyên bổ sung vào hồ sơ theo mã số hoá của đơn vị, thuận tiện cho việc tra cứu và xác định căn cứ tính thuế. Định kỳ theo quy định của cơ quan thuế đối tượng nộp thuế phải lập tờ khai theo mẫu và trực tiếp nộp thuế nào kho bạc cùng giấy nộp tiền. Thứ hai, về hoá đơn, chứng từ, sổ sách kế toán: Mọi đơn vị kinh doanh lớn và vừa phải thực hiện nghiêm chỉnh chế độ hoá đơn, số sách kế toán. Ngoài việc hoá đơn ghi rõ mã số của đơn vị bán hàng, thuận tiện tra cứu khi cần thiết, nên khuyến khích các đơn vị tự in hoá đơn. Thứ ba, về chính sách: Chính sách thuế phải được quy định rõ ràng, đầy đủ. Từ đó, đối tượng nộp thuế có thể thực hiện tự kiểm tr, tự tính thuế, tự kê khai, tự nộp thuế. Cán bộ thuế làm công tác kiểm tra các đơn vị nghi vấn và xử lý khi có vi phạm. Thứ tư, về công tác kiểm tra và cưỡng chế thuế: Khi kiểm tra, thông qua hệ thống máy tính, phát hiện khai không đúng, sử dụng hai hệ thống sổ sách, sử dụng chứng từ giả, quay vòng chứng từ phải lập biên bản và xử lý thích đáng đối với từng loại sai phạm. kế hoạch kiểm tra, thanh tra thường xuyên có sự dự tính đến hiệu qủa giữa chi phí bỏ ra và số thuế thu về. Tổ chức cưỡng chế thuế được coi là khâu cuối cùng của công tác thu thuế. Trường hợp dây dưa tiền thuế bị cưỡng chế thuế qua hình thức trích tiền trong tài khoản ngân hàng, kê biên tài sản bán đáu giá. trường hợp vi phạm nặng, lập hồ sơ chuyển sang toà án hành chính. Thứ năm, về công tác tuyên truyền, giáo dục: Tuyên truyền, giáo dục phải được tiến hành thường xuyên thông qua đăng đầy đủ các văn bản trên báo, sách và các tờ rơi tóm tắt văn bản đầy đủ. Mở rộng các trung tâm tư vấn thuế. Thứ sáu, về đội ngũ cán bộ: Cán bộ thuế phải được tuyển chọn qua các kỳ thi tuyển chặt chẽ, được đào tạo bồi dưỡng đầy đủ theo chức danh cán bộ trong ngành. Tiền lương, thưởng khá cao nhưng xử lý vi phạm cũng nghiêm minh để chống tiêu cực trong ngành. Thứ bảy, về phương tiện vật chất: Cơ quan thuế phải được trang bị đầy đủ về phương tiện làm việc: trụ sở, phương tiện đi lại, mạng vi tính... Chương II: Thực trạng công tác quản lý thu thuế ngoài quốc doanh ở Cục thuế Hà nội. I. Khái quát chung về Cục thuế Hà nội: I.1. Chức năng, nhiệm vụ và cơ cấu tổ chức của Cục thuế Hà nội: Cục thuế Hà nội là một trong 61 Cục thuế trong cả nước được thành lập theo Quyết định số 314TC/QĐ-TCCB ngày 21/8/1990 của Bộ trưởng Bộ tài chính về việc thành lập Cục thuế Nhà nước. Cục thuế Hà nội ngoài đặc điểm là thực hiện nguyên tắc song trùng lãnh đạo (vừa được sự lãnh đạo trực tiếp của Tổng cục thuế về nghiệp vụ cũng như về chỉ tiêu được giao thực hiện trong năm, vừa được sự lãnh đạo về nhiều mặt của UBND tỉnh, thành phố nơi Cục thuế đóng trụ sở), còn có đặc điểm riêng là đóng trên địa bàn Hà nội-thủ đô của cả nước, nơi có nhiều cơ quan trung ương đóng. Do vậy, Cục thuế trong quá trình thực hiện nhiệm vụ chịu nhiều yếu tố tác động từ bên ngoài. Về tổ chức bộ máy hành thu: Cục thuế Hà nội bao gồm 18 phòng (1800 người), trong đó có 10 phòng quản lý thu và 8 phòng thực hiện các chức năng khác, ngoài ra có 12 chi cục thuế quận, huyện ở khắp trên địa bàn Hà nội. Bộ phận lãnh đạo Cục bao gồm: 01 Cục trưởng: có nhiệm vụ quản lý chung, ngoài ra còn trực tiếp chỉ đạo phòng thu thuế đầu tư nước ngoài. 04 Cục phó: quản lý các phòng thu theo sự phân công như sau: 01 Cục phó phụ trách các phòng thanh tra, ấn chỉ, phòng thuế trước bạ. 01 Cục phó phụ trách 5 phòng thuế xí nghiệp quốc doanh: thuế giao thông, bưu điện, xây dựng, nông, lâm, thương nghiệp. 01 Cuc phó phụ trách về nghiệp vụ chính sách và 2 phòng thu các doanh nghiệp ngoài quốc doanh. 01 Cục phó phụ trách phòng đầu tư, kế hoạch, máy tính. Sơ đồ: Bộ máy hành thu Cục thuế hà nội Chi cục thuế Ba đình Phòng thuế đầu tư Phòng Kế hoạch Phòng thuế GT, XD, BĐ Chi cục thuế Thanh xuân Phòng Nghiệp vụ Chi cục thuế đống đa Phòng Máy tính Phòng thuế công nghiệp Chi cục thuế Hoàn kiếm Phòng TCCB Phòng thuế T. nghiệp Phòng trước bạ bạ Phòng tài chính ngân hàng Phòng Tài vụ Chi cục thuế Sóc sơn Chi cục thuế Thanh trì Chi cục thuế Từ liêm Chi cục thuế Gia lâm Chi cục thuế Đông anh Chi cục thuế Cầu giấy Chi cục thuế Tây hồ Phòng ấn chỉ Phòng TT-XL-TT Phòng Hành chính Phòng nông lâm Phòng NQD và QD quận huyện 2 Phòng NQD và QD quận huyện 1 Chi cục thuế H.B. trưng Phòng thuế văn xã I.2. Tình hình thu ngân sách của Cục thuế Hà nội trong thời gian qua: Dự toán năm 2001 giao cho thành phố Hà nội thu ngân sách nội địa là 11.959 tỷ đồng, trong đó nhiệm vụ ngành thuế phải thực hiện là 11.869 tỷ đồng. Tháng 6/2001, tại công văn số 5501 TC/TTC, Bộ tài chính giao dự toán phấn đấu cho thành phố Hà nội 13.832,3 tỷ, trong đó ngành thuế thực hiện 13.532,3 tỷ đồng, tăng thêm 1.664 tỷ. Để triển khai nhiệm vụ thu ngân sách măm 2001 đạt kết quả tốt, ngay từ đầu năm, ngành thuế Hà nội đã giao nhiệm vụ cho các phòng, các chi cục thuế tăng 5% so với chỉ tiêu pháp lệnh được giao để các đơn vị phấn đấu thu ngay từ đầu năm. Sau khi nhận được chỉ tiêu phấn đấu của Bộ tài chính, ngành thuế Hà nội đã khẩn trương phân bổ để các đơn vị phấn đấu thực hiện. Hàng quý, giao nhiệm vụ thu cho các đơn vị kèm theo chỉ tiêu thưởng thi đua; hàng tháng tại các cuộc giao ban đã kiểm điểm lại kết quả thực hiện nhiệm vụ thu trong tháng. Vì vậy, ngay từ tháng đầu, quý đầu năm, các đơn vị trong ngành đã tổ chức thực hiện tốt nhiệm vụ hàng tháng, quý được giao, góp phần vào việc thực hiện nhiệm vụ thu ngân sách hàng năm đạt kết quả khá. Cụ thể: kết quả thu ngân sách nội địa năm 2001 của thành phố Hà nội đã hoàn thành vượt mức 13.576 tỷ, đạt 113,52% so với nhiệm vụ pháp lệnh; 98,15% so với nhiệm vụ phấn đấu; tăng 6,71% so với thực hiện năm 2000. Ngành thuế Hà nội thực hiện 13.437 tỷ, đạt 113,21% so với nhiệm vụ pháp lệnh; 99,3% so với nhiệm vụ phấn đấu, tăng 5,98% so với thực hiện năm 2000. (Biểu 1 phản ánh kết quả chung thu thuế năm 2001 của Cục thuế Hà nội). Các loại thu do ngành thuế thực hiện đều hoàn thành vượt mức dự toán thu pháp lệnh, đặc biệt thu thuế công thương nghiệp - dịch vụ ngoài quốc doanh là loại thuế từ ngày thành lập ngành thuế đến nay đã hoàn thành vượt mức dự toán được giao (tăng 105,55% so với dự toán pháp lệnh; 116,75% so với thực hiện năm 2000). Ngoài ra, thu từ DNNN Trung ương tăng 5,37% so với cùng kỳ năm trước, thu từ các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tăng 16,52% so với thực hiện năm 2000, thu lệ phí trước bạ tăng 27,39% so với thực hiện năm 2000... Các khoản thu liên quan đến nhà và đất, ngân sách địa phương được hưởng điều tiết 100% vượt dự toán tương đối lớn như tiền sử dụng đất (vượt 55,06%), tiền thuê đất (55,74%), thuế nhà đất (13,73%), thuế chuyển quyền sử dụng đất (46,27%), tiền bán nhà (110,51%)...góp phần tích cực vào ngân sách Trung ương cũng như Biểu 1: Kết quả chung thu thuế năm 2001 của Cục thuế Hà nội Đơn vị: phần trăm (%) Chỉ tiêu TH 2001 so dự toán PL TH 2001 so dự toán PĐ TH 2001 so TH 2000 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 Tổng số Ngành thuế thực hiện Thu từ DNNN Trung ương Thu từ DNNN địa phương Thu từ DN có vốn ĐTNN Thuế công thương ngiêp NQD Thu lệ phí trước bạ Thuế nhà đất Thuế thu nhập cá nhân Thu xổ số kiến thiết Thu phí xăng dầu Thu phí và lệ phí Thuế chuyển quyền sử dụng đất Thu tiền bán nhà Thu tiền thuế đất Thuế sử dụng đất nông nghiệp 113,52 113,21 103,01 107,34 105,55 134,36 113,73 100,00 103,26 111,44 128,03 146,27 155,06 210,51 175,04 133,52 98,15 99,30 95,41 95,22 100,52 121,47 113,73 95,35 103,25 102,28 115,33 146,27 155,06 168,41 134,64 133,52 106,71 105,98 97,71 116,52 116,75 127,39 88,87 102,40 103,80 113,58 88,00 127,97 136,07 181,21 106,38 44,72 Nguồn: Báo cáo tổng kết công tác thu năm 2001 của Cục thuế Hà nội) ngân sách thành phố, phục vụ tốt cho nhiệm vụ xây dựng, phát triển kinh tế xã hội ở thủ đô theo Nghị quyết 15 của Bộ chính trị và Pháp lệnh về thủ đô. Đến hết tháng 11 đã có 14/22 đơn vị hoàn thành dự toán pháp lệnh, đó là các phòng giao thông, tài chính, nông lâm, trước bạ và các chi cục thuế Ba đình, Đống đa, Tây hồ, Thanh xuân, Cầu giấy, Thanh trì, Đông anh, Sóc sơn. Kết quả cả năm tất cả 22 dơn vị thu của ngành thuế Hà nội đều hoàn thành vượt mức dự toán thu pháp lệnh, nhiều đơn vị đã hoàn thành vượt mức dự toán phấn đấu. Các đơn vị hoàn thành dự toán với tỷ lệ cao nhất là: phòng trước bạ (34,55%), chi cục thuế Cầu giấy (68,02%). Đơn vị thực hiện vượt mức chỉ tiêu cao nhất là phòng tài chính ngân hàng vượt 510 tỷ, phòng giao thông vượt 472 tỷ. (Biểu 2 phản ánh kết quả thu ngân sách của các phòng, các chi cục thuế). Sở dĩ ngành thuế Hà nội có kết quả thu như trên nguyên nhân chính là do tình hình kinh tế cả nước và thành phố Hà nội đạt được nhiều kết quả khả quan, duy trì ổn định và phát triển. Mặc dù gặp nhiều khó khăn về thời tiết, giá cả, hàng hoá xuất nhập khẩu giảm, suy thoái kinh tế thế giới...nhưng kinh tế vẫn đạt được những mục tiêu chủ yếu trong Nghị quyết của HĐND thành phố đề ra, so với năm trước, hầu hết các chỉ tiêu kinh tế đều tăng. Biểu 2: Kết quả thu ngân sách các phòng, các chi cục thuế năm 2001 Đơn vi: phần trăm Thứ tự Phòng - Chi cục Kết quả thu năm 2001 so (%) Dự toán pháp lệnh Dự toán phấn đấu So năm 2000 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 Phòng công nghiệp Phòng giao thông Phòng tài chính ngân hàng Phòng thương nghiệp Phòng đầu tư Phòng văn xã Phòng nông lâm Phòng trước bạ Phòng NQD số 1 Phòng NQD số 2 Chi cục thuế Hoàn kiếm Chi cục thuế Hai bà trưng Chi cục thuế Đống đa Chi cục thuế Ba đình Chi cục thuế Tây hồ Chi cục thuế Thanh xuân Chi cục thuế Cầu giấy Chi cục thuế Từ liêm Chi cục thuế Thanh trì Chi cục thuế Gia lâm Chi cục thuế Đông anh Chi cục thuế Sóc sơn 103,12 114,16 119,95 106,75 102,65 113,16 124,81 134,55 106,21 112,66 104,12 112,97 114,37 117,17 112,20 146,68 160,19 143,49 135,35 130,84 141,94 154,10 101,81 97,11 98,47 99,24 92,59 96,26 72,59 130,81 101,25 107,25 98,26 106,11 107,88 109,44 103,70 124,41 124,62 131,97 121,78 11444 119,76 135,47 104,87 108,43 98,42 109,23 109,56 93,82 122,18 116,22 110,23 120,40 107,94 114,32 111,26 100,26 110,69 136,04 149,58 125,12 123,20 113,00 102,75 100,97 (Nguồn: Báo cáo tổng kết công tác thu năm 2001 của Cục thuế Hà nội) II. Đặc điểm hoạt đông khu vực kinh tế ngoài quốc doanh trên địa bàn Hà nội: Từ 16 ngành nghề của 67 doanh nghiệp thành lập năm 1991, đến nay, các doanh nghiệp NQD đã hoạt động trên 350 ngành nghề thuộc mọi lĩnh vực của nền kinh tế. Các doanh nghiệp này góp phần phát triển các ngành công nghiệp, thương mại, dịch vụ của Hà nội từng bước thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tạo hướng phát triển các ngành nghề truyền thống. Tính đến ngày 31/2/2002, Cục thuế Hà nội đang trực tiếp quản lý 5.399 doanh nghiệp ngoài quốc doanh tại văn phòng cục được thành lập theo luật công ty, luật doanh nghiệp tư nhân, trong đó tập trung chủ yếu ở các lĩnh vực gia công hàng may mặc, lắp ráp điện tử, tiểu thủ công nghệp, thủ công mỹ nghệ, thương mại, dịch vụ, vận tải, du lịch. Trong đó bao gồm 421 công ty cổ phần, 5223 công ty TNHH, 393 hợp tác xã, 150 tổ sản xuất, 305 chi nhánh, 950 doanh nghiệp tư nhân và 375 là các loại hình khác. Đối với tình hình quản lý của các chi cục thuế: Về hộ kinh doanh cá thể do các chi cục thuế quản lý, năm 2001, tổng số hộ quản lý thu thuế môn bài toàn thành phố Hà nội là 62.814 hộ, đạt 90% so với số hộ qua điều tra thống kê; trong đó số hộ quản lý thu thuế GTGT và thuế TNDN là 45.776 hộ; hộ thuộc diện miễn thuế TNDN và không thu thuế GTGT do thu nhập thấp là 17.038 hộ. Bảng 3: Tình hình hoạt động của doanh nghiệp ngoài quốc doanh do các chi cục thuế quản lý (tính đến 2/2002). Đơn vị: doanh nghiệp. Loại hình doanh nghiệp Tổng số quản lý Trong đó Cơ sở hoạt động Cơ sở nghỉ kinh doanh, không tìm thấy Công ty cổ phần Công ty TNHH Chi nhánh Doanh nghiệp tư nhân Hợp tác xã Tổ sản xuất Khác 303 6.539 248 1.058 611 397 568 225 4.075 163 887 477 254 411 33 1.038 40 124 100 100 132 (Nguồn: Niên giám thống kê Hà nội). Về các doanh nghiệp NQD, tổng số 9.724 là số doanh nghiệp NQD hiện đang được quản lý bởi các chi cục thuế quận huyện, tình hình cụ thể của khối doanh nghiệp này được thể hiện trong bảng 3. Với quy mô trên, hàng năm cùng với khu vực kinh tế Quốc doanh, khu vực KTNQD đã góp phần thúc đẩy sản xuất tạo ra nhiều chủng loại hàng hoá, dịch vụ đáp ứng nhu cầu của người dân và giải quyết một khối lượng lớn việc làm cho người lao động. Cơ cấu sản phẩm trong nước thuộc KTNQD hàng năm luôn đạt trên 20% tổng sản phẩm xã hội. Tuy vậy, các cơ sở ngoài quốc doanh chủ yếu tập trung ở nội thành chiếm 90%, số còn lại phân bổ ở các huyện ngoại thành. Có thể nói, sự xuất hiện và phát triển của các công ty, doanh nghiệp, hợp tác xã, hộ cá thể trên địa bàn Hà nội đã góp phần khắc phục một số khó khăn về huy động vốn, giải quyết việc làm cho người lao động. Hàng hoá sản xuất ra đa dạng, phong phú về chủng loại, chất lượng, lưu chuyển nhanh chóng, thúc đẩy sản xuất, ổn định giá cả. Các nhà quản lý Nhà nước cũng đỡ mất thời gian về một số lĩnh vực mà kinh tế Quốc doanh không đảm nhận được. Hoạt động trong khu vức KTNQD thường hướng vào những ngành hàng tương đối dễ làm, dễ tiêu thụ, lợi nhuận khá, thu hồi vốn nhanh (chế biến nông sản, thực phẩm, vật liệu dân dụng, hàng may mặc xuất khẩu...). Hội nghị tổng kết công tác thuế năm 2001 đã thống nhất đánh giá năm 2001 toàn ngành thuế hoàn thành xuất sắc, toàn diện nhiệm vụ thu NSNN, nhất là khu vực công thương nghiệp và dịch vụ ngoài quốc doanh, là năm có tốc độ thu tăng cao nhất so với trước đây, tăng 12% so với năm 2000. Trên địa bàn Hà nội, thu thuế khu vực KTNQD là một lĩnh vực đầy khó khăn và nóng bỏng, nhưng đến tháng 9/2001 đã thu đạt kết quả mà những năm trước đâychưa bao giừ đạt đước: đạt 77% dự toán pháp lệnh, 74% dự toán phấn đấu, tăng 18% so với cùng kỳ năm trước. Để hạn chế tình trạng thất thu đối với khu vực này, cục thuế đã chỉ đạo các phòng, chi cục thuế tăng cường các biện pháp quản lý đối tượng, quản lý doanh thu và thực hiện các quy trình quản lý thu thuế, đẩy mạnh công tác kiểm tra chống thất thu, kiểm tra quyết toán thuế, kiểm tra việc kê khai nộp thuế. Tuy nhiên, KTNQD vẫn còn nhiều mặt yếu kém, hạn chế. Vấn dề nổi bật là tình trạng thiếu vốn, nguyên liệu, môi trường hoạt động, địa điểm kinh doanh, thông tin, khả năng tiếp cận thị trường, trình độ quản lý, kiến thức khoa học kỹ thuật... Quy mô sản xuất nhìn chung chưa lớn, trang thiết bị lạc hậu, chưa có điều kiện vững chắc để hoà nhập một cách thuận lợi, dễ dàng vào kinh tế thị trường, đặc biệt là thị trường thế giới. Tổ chức kinh doanh còn bị hạn chế về sức cạnh tranh. Trình độ quản lý hạn chế trong phạm vi chủ gia đình hơn là trình độ chủ doanh nghiệp vừa và lớn. Một số doanh nghiệp hoạt động mang tính chất tiêu cực, chệch hướng, làm ăn phi pháp, lừa đảo, làm hàng giả, đầu tư ngầm, tranh thủ khe hở của các luật thuế để chiếm đoạt tiền Nhà nước. Nhiều doanh nghiệp lợi dụng quy trình tự tính thuế, tự giác kê khai thuế để trốn thuế, kê khai không đúng kinh doanh thực tế, lập bảng kê khai khống để gian lận thuế, tình trạng mua bán không xuất hoá đơn, lập hoá đơn liên 2 cao hơn liên 1 để chiếm đoạt tiền thuế, bán hoá đơn khống. Tháng 9/2001, Cục thuế Hà nội đẫ đưa ra kiểm tra 17.000 lượt hộ, đã xử lý vi phạm chế độ sổ sách kế toán đối với 795 hộ, truy thu và phạt 675 triệu đồng. Tình trạng thất thu thuế còn nhiều cả về đối tượng nộp thuế và doanh thu tính thuế. Mặc dù đã có nhiều cố gắng thể hiện ở những kết quả khả quan nhưng khu vực KTNQD nói chung và trên địa bàn Hà nội nói riêng vẫn cần phải được quan tâm nhiều hơn nữa. Sự phát triển mạnh mẽ về quy mô và số lượng của khu vực KTNQD khiến công tác quản lý thu thuế NQD khá phức tạp và gặp nhiều khó khăn (mỗi cán bộ quản lý 35-40 doanh nghiệp), đòi hỏi ngành thuế Hà nội phải vươn lên và củng cố về mọi mặt. III. Thực trạng công tác quản lý thu thuế khu vực kinh tế ngoài quốc doanh ở Cục thuế Hà nội: III.1. Kết quả thu thuế ngoài quốc doanh trong thời gian qua: Một cách tổng quát, sự phát triển về quy mô và số lượng các cơ sở KTNQD trong thời gian qua đã đóng góp không nhỏ vào tổng thu NSNN trên địa bàn Hà nội. Bảng 4 thể hiện tỷ trọng thu của khu vực NQD so với tổng thu các năm trên địa bàn. Bảng 4: Tỷ trọng thu ngoài quốc doanh trên địa bàn Hà nội. Đơn vị: triệu Việt nam đồng Chỉ tiêu 1997 1998 1999 2000 2001 Tổng thu NS 5.951.608 6.206.980 10.451.864 13.241.000 11.959.000 Thu từ KTNQD 483.436 525.853 463.021 46.000 527.000 Tỷ trọng 8,12% 8,47% 4.43% 3,5% 4,2% (Nguồn: Niên giám thống kê Hà nội 2001). Sở dĩ số thu năm 1999, 2000 giảm xuống là do sự thay đổi căn bản về cơ chế chính sách thu (kinh doanh hàng xuất khẩu được áp dụng thuế suất thuế GTGT 0%, thuế suất thuế TNDN 32% giảm so với thuế lợi tức trước đây đối với hàng ăn uống, dịch vụ, thương nghiệp). Đây là thời kỳ hoạt động sản xuất gặp nhiều khó khăn, sức mua giảm nên ảnh hưởng tới kết quả thu ngân sách. Năm 1999, số thu thuế từ khu vực này là 463.012 tỷ, đạt 77,17% dự toán năm, đạt 88,32% so với năm 1998. Đồng thời, sự bất mãn từ phía các đối tượng nộp thuế GTGT đối với những sản phẩm trước đây chịu thuế doanh thu ở mức 0,5%, 1%, 2% nay lên 10% trên giá chưa có thuế, mặc dù khấu trừ thuế đầu vào nhưng thuế GTGT vẫn cao hơn thuế doanh thu phải nộp trước kia rất nhiều. Bảng 5: Tốc độ thu đối với khu vực ngoài quốc doanh theo sắc thuế. Đơn vị : phần trăm (%) Chỉ tiêu Thực hiện năm 2001 so Dự toán năm Thực hiện năm 2000 Pháp lệnh Phấn đấu Thuế GTGT TĐ: CTN-NQD 110,07 93,38 102,35 93,38 107,65 116,56 Thuế TTĐB TĐ: CTN-NQD 99,43 107,73 95,12 107,73 99,76 101,89 Thuế TNDN TĐ: CTN-NQD 109,79 121,1 93,41 108,22 106,76 118,27 Thuế môn bài TĐ: CTN-NQD 111,65 112,29 105,66 105,63 108,64 109,47 Thu khác TĐ: Khu vực CTN-NQD 409,76 118,79 135,85 118,79 271,49 119,49 (Nguồn: Báo cáo tổng kết công tác thu năm 2001). Đến năm 2000, ngay từ đầu năm, Cục thuế Hà nội đã chỉ đạo các chi cục thuế và hai phòng quản lý NQD tăng cường các biện pháp quản lý đối tượng nộp thuế nhằm hạn chế tối đa tình trạng thất thu. Tuy nhiên, đến hết năm 2000, số thuế thu chỉ đạt 460 tỷ, tăng 84% dự toán và 100% so cùng kỳ. Nguyên nhân chủ yếu của việc không đạt được dự toán thu năm 2000 về mặt khách quan là do dự toán thu năm 2000 cấp trên giao cho Hà nội cao (tăng 23% so với thực hiện năm 1999), ngoài ra do tính tự giác của doanh nghiệp không cao, trốn lậu thuế nhiều, chấp hành chế độ sổ sách hoá đơn chưa nghiêm, để tránh sự kiểm soát của cơ quan thuế nên nhiều doanh nghiệp thường thay đổi địa chỉ kinh doanh, văn phòng, tình trạng sát nhập vào công ty, doanh nghiệp tư nhân của các hộ kinh doanh cá thể để trốn thuế... Về mặt chủ quan xuất phát từ bộ máy quản lý, do các doanh nghiệp được quản lý tập trung và cơ sở lại phát triển nhanh, nhiều, lực lượng cán bộ thuế quá mỏng, địa bàn rộng, phân tán...nên quản lý khó; sự phối hợp giữa quận huyện với cơ quan thuế còn hạn chế. Do tình hình trên, để thực hiện thu ngân sách từ khu vực KTNQD đạt kết quả tốt, năm 2001, Cục thuế Hà nội đã chỉ đạo thu quyết liệt ngay từ đầu năm, giao nhiệm vụ thu cho các đơn vị tăng 5% so với nhiệm vụ pháp lệnh Bộ tài chính giao. Từ cuối năm 2000, Cục thuế đã chỉ đạo các chi cục thuế và hai phòng quản lý thu NQD tiến hành kiểm tra, rà soát lại đối tượng nộp thuế, doanh thu tính thuế để thực hiện ấn định, lập sổ bộ thuế, tăng cường kiểm tra chống thất thu ngân sách, kiểm tra quyết toán thuế đối với các doanh nghiệp thu theo phương pháp khấu trừ. Đứng trước đối tượng nộp thuế quá lớn, Cục thuế đã chủ động báo cáo Tổng cục thuế phương án phân cấp cho các chi cục thuế quản lý, trong năm đã thực hiện chuyển gần 3000 đối tượng là các doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ, ăn uống, nhà nghỉ, các hợp tác xã, tổ sản xuất...cho các chi cục thuế; công tác kế toán hộ kinh doanh được đẩy mạnh; thực hiện chỉ thị số 15/2001/CT-TTG (11/6/2001) của Thủ tướng Chính phủ, UBND thành thố đã chỉ đạo thành lập các Ban chỉ đạo chống thất thu ngân sách ở tất cả các quận, huyện do cơ quan thuế làm thường trực, do đó công tác chống thất thu ngân sách đã được tăng cường, các khoản thuế tồn đọng được phân loại và đôn đóc ráo riết nộp vào NSNN. Năm 2001, thu ngân sách từ khu vực này đạt 527 tỷ đồng, đạt 105,55% dự toán pháp lệnh; 100,52% dự toán phấn đấu; tăng 16,75% so với thực hiện năm 2000. Kết quả cụ thể về tốc độ thu các loại thuế đối với khu vực công thương nghiệp - ngoài quốc doanh (CTN-NQD) trong 2001 được thể hiện trong bảng 4. Để tăng cường kiểm soát hoạt động sản xuất kinh doanh của các hộ kinh doanh công thương nghiệp chống thất thu thuế, từ năm 1996, Cục thuế Hà nội đã trình UBND thành phố Hà nội ban hành quyết định 551 giao chỉ tiêu về số hộ cho từng quận huyện phải đưa vào diện mở sổ sách kế toán. Việc chỉ đạo đẩy mạnh triển khai chế độ kế toán hộ kinh doanh đã đưa trên cả nước là 100.000 hộ kinh doanh lớn vào thực hiện chế độ kế toán, hoá đơn chứng từ, trong đó hơn 4000 hộ chuyển sang thu thuế theo phương pháp kê khai, khoảng 2000 hộ đã đăng ký nộp thuế GTGT theo phương pháp khấu trừ. Phần lớn các hộ thực hiện kế toán hoá đơn đều có doanh thu và số thuế mới cao hơn mức cơ quan thuế ấn định trước đây. Bảng 6 là kết quả triển khai kế toán hộ kinh doanh trên địa bàn Hà nội năm 2001. Như vậy, thực hiện quy trình quản lý mới, thực hiện chế độ sổ sách kế toán và hoá đơn chứng từ nghiêm chỉnh, đội ngũ cán bộ thuế quản lý doanh nghiệp đủ trình độ hướng dẫn, kiểm tra quản lý các đối tượng nộp thuế, nhìn chung, các doanh nghiệp NQD đã chấp hành tương đối đầy đủ các luật thuế mới, hàng tháng có trên 95% só doanh nghiệp nộp tờ khai thuế theo quy định, tăng từ 10-15% so với thuế doanh thu trước đây. Nhiều doanh nghiệp thực hiện tốt chế độ hoá đơn chứng từ, sổ sách kế toán, kê khai rất đúng với hoạt động thực tế. Công tác đôn đốc thu nộp có nhiều tiến bộ, đa số doanh nghiệp đã chấp hành tốt việc nộp thuế đúng hạn theo thông báo thuế, hạn chế tình trạng nợ đọng thuế triền miên như trước đây. Đặc biệt, năm 1999, tình trạng nợ đọng thuế của khu vực NQD là 19.959 tỷ đồng, giảm 5% so với năm 1998. Tuy vậy, đến hết tháng 12/2001, số thuế nợ đọng khu vưc NQD là trên 40 tỷ đồng (tương đương 1 tháng thuế). Nhiều doanh nghiệp có số thuế nợ đọng lớn là: Công ty chế biến nông sản Sóc sơn nợ 2,3 tỷ, Công ty XNK Bắc Sơn nợ 14 tỷ...Số thuế thu được từ các doanh nghiệp NQN do hai phòng quản lý đến tháng 11/2001 lần lượt là: 104.173 triệu đồng và 114.166 triệu đồng là cố gắng rất lớn, cả 12 chi cục thuế quận huyện đều hoàn thành dự toán pháp lệnh, nhiều chi cục thuế vượt chỉ tiêu dự toán phấn đấu: Thanh xuân (117%), Cầu giấy (110,7%), Đông anh (108,7%)... T._. trên 30% số hộ ghi sổ sách kế toán không đấy đủ so với hoạt động kinh doanh thực tế, nhiều hộ bán hàng tiêu dùng nên người mua không cần lấy hoá đơn. đặc biệt là các hộ thu theo phương pháp kê khai và phương pháp khấu trừ, một số hộ trước đây thu khoán với doanh thu 100 đến 150 triệu đồng, thuế từ 12 đến 15 triệu một tháng nay thu theo phương pháp kê khai hoặc khấu trừ chỉ còn khoảng 1,5 triệu một tháng hoặc thậm chí thường xuyên có số thuế âm. 6. Đối với công tác hoàn thuế: Hiên hay trong công tác hoàn thuế GTGT, Cục thuế Hà nội gặp một số khó khăn, có nhiều nghi vấn đối với một số trường hợp nếu xét vè mặt hồ sơ thì cơ quan thuế không đủ căn cứ để bác bỏ, cụ thể: Đối với các doanh nghiệp xin hoàn thuế theo trường hợp xuất khẩu hàng hoá là nông, lâm, thuỷ sản, chính sách thuế cho phép các doanh nghiệp được khấu trừ 2% đối với nông, lâm, thuỷ sản mua vào theo bảng kê và khấu trừ 3% đối với hoá đơn bán hàng thông thường, do vậy một số doanh nghiệp lợi dụng để xin hoàn thuế theo hai dạng: do trực tiếp mua nông, thuỷ, hải sản để suất khẩu, khi mua đơn vị có lập bảng kê trong đó nhiều trường hợp số lượng và giá trị hàng rất lớn, nhưng bảng kê lại không ghi chi tiết cụ thể địa chỉ cuả người bán, việc thanh toán chủ yếu bằng tiền mặt nên cơ quan thuế khó kiểm tra, xác minh để biết là có hàng hay không; trường hợp khác là không mua hàng bằng bản kê mà bằng hoá đơn thông thường của các hộ kinh doanh mà việc quản lý hoá đơ đối với hộ cá thể chưa được chặt chẽ vì vậy có hiện tượng xin hoá đơn để tự ghi giá đầu vào mà thực chất là ghi khống. Một số doanh nghiệp không có hoạt động xuất khẩu, chỉ nhập khẩu hàng về để tiêu thụ nội địa nhưng liên tục xin hoàn thuế với lý do hàng tồn kho lơns mà tồn thật hay giả thì cơ quan thuế không thể khẳng định được. Một số doanh nghiệp có số thuế đầu ra thường xuyên thấp hơn thuế đầu vào và thuộc diện phải hoàn thuế. Trong các trường hợp trên, định mức tiêu hao nguyên vật liệu cho quá trình sản xuất của doanh nghiệp chaư được cơ quan nào quy định, chủ yếu là do doanh nghiệp tự xác định nên không trành khỏi việc doanh nghiệp tăng mức tiêu hao nguyên vật liệu để xin hoàn thuế, trong khi đó số lượng sản phẩm bán ra doanh nghiệp không báo cáo đầy đủ, hàng bán không xuất hoá đơn. Đối với cơ chế tín dụng như hiện nay thì cơ quan thuế rất khó kiểm tra đối với doanh nghiệp. Một số doanh nghiệp chế biến gỗ xuất khẩu: doanh nghiệp nhập khẩu gỗ tròn, xuất khẩu gỗ thành phẩm và gỗ tròn, một số thành phẩm không đảm bảo chất lượng nên doanh nghiệp bán nội địa, doanh nghiệp làn đơn xin hoàn thuế với lý do là hàng xuất khẩu. Nghi vấn cảu cơ quan thuế: sản phẩm bán nội địa người tiêu dùng không đòi hỏi hoá đơn nên doanh nghiệp không kê khai phần hoạt động kinh doanh nội địa dẫn đến xác định mức tiêu hao vật tư do doanh nghiệp báo cáo cáo hơn nhiều định mức tiêu chuẩn do Cục kiểm lâm ban hành. Mặt khác, giá ghi trện hoá đơn phần bán nội địa thấp hơn nhiều so với giá thị trường. Doanh nghiệp kinh doanh mặt hàng ô tô, xe máy có hiện tượng bán xe cho các đối tượng là cá nhân, ghi giá trệ hoá đơn thấp hơn nhiếuo với giá thực tế tính lệ phí trước bạ. Doanh nghiệp có đơn xin hoàn thuế với lý do là hải quan áp giá thúế lớn hơn giá thực nhập, kiểm tra đối chiếu giá thực tế thu tiền và giá ghi trên hoá đơn rất khó do người mua là các nhân tiêu dùng. Doah nghiệp kinh doanh mặt hàng máy vi tính xin hoàn thuế với lý do nhập khẩu linh kiện phải nộp thuế GTGT với thuế suất 10%, khi lắp ráp máy tính chịu thuế suất 5%, doanh nghiệp có giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh ngành nghề lắp ráp máy vi tính. Khi xuất máy tính cùng model bán cho các đối tượng khác nhau với các mức giá khác nhau vpí giá khác nhau, bán cho cá nhân ghi địa chỉ không rõ tàng với giá thầp hơn bán cho các doanh nghiệp và giả trình về việc ghi không rõ ràng là do yêu cầu của khách hàng. 7. Sự phối hợp giữa quận huyện với các chi cục thuế về công tác thuế còn hạn chế. Các cấp, ngành chưa quan tâm hỗ trợ ngành thuế trong triển khai kế toán hộ kinh doanh, trong tìm kiếm các đối tượng nộp thuế không tìm thấy. 8. Công tác thanh tra, kiểm tra chưa làm tốt dẫn đến chất lượng ghi chép sổ sách kế toán không đạt yêu cầu nên nhiều chi cục thuế phải ấn định doanh thu tính thuế, có chi cục thuế cả năm không kiểm tra. Công tác kiểm tra sau hoàn thuế dù đã được tăng cường nhưng mới kiểm tra được 30% đơn vị được hoàn thuế. Nhiều khi nghi vấn doanh nghiệp hoàn thuế để rút tiền ngân sách nhưng không kiểm tra kịp thời đến khi phát hiện ra thì doanh nghiệp đã được hoàn với giá trị thuế lớn. Hiệu quả của các quyết đing sau kiểm tra, thanh tra đã đươch quy định rõ trong luật thuế và các văn bản xử lý các đối tượng vi phạm bằng các hình thức: trích tiền gửi của đối tượng nộp thuế tại ngân hàng, Kho bạc, tổ chức tín dụng để bù thuế, phạt, giữ hàng hoá tang vật đảm bảo thu đủ tiền nợ, kê biên tài sản..., tuy vậy phần lớn các cơ quan thuế chỉ áp dụng phạt hành chính, phạt nộp chậm hoặc truy thu thuế do vậy đã giảm hiệu lực của công tác cưỡng chế thuế. Mặc dù trong năm 2001 số thu của khu vực KTNQD đã khởi sắc nhưng thành tựu đó chỉ có thể duy trì trong nhiều năm tiếp theo khi ngành thuế đưa ra giải pháp hữu hiệu hoàn thiện công tác quản lý thu thuế trên địa bàn của mình. II. Giải pháp hoàn thiện công tác quản lý thu thuế ngoài quốc doanh ở Cục thuế Hà nội. II.1. Phương hướng, nhiệm vụ trong thời gian tới: Để thực hiện các luật thuế và quy trình quản lý thu thuế mới có hiệu quả, hoàn thành chỉ tiêu dự toán thu ngân sách năm 2002 được giao tăng cao so với thực hiện năm 2001, ngành thuế Hà nội tiếp tục phối hợp với các Sở, Ban, ngành thực hiện các nội dung sau: 1. Tiếp tục phối hợp chặt chẽ với cơ quan thông tin đại chúng để đẩy mạnh hơn nữa việc thường xuyên tuyên truyền các luật thuế mới. 2. Rà soát toàn bộ các đối tượng đã được cấp mã số thuế nhưng chưa gửi tờ khai thuế theo quy định để nhắc nhở các doanh nghiệp thực hiện nghêm túc. 3. Giải quyết kịp thời việc hoàn thuế theo đúng quy định của luật thuế, đồng thời đôn đốc các doanh nghiệp nộp thuế theo thông báo thuế. 4. Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra các doanh nghiệp thực hiện chế độ hoá đơn, chứng từ và hạch toán kế toán, kê khai nộp thuế có nghi vấn để kịp thời chấn chỉnh và xử lý nghiêm các trường vi phạm. Tiếp tục theo dõi và nắm diễn biến trong quá trình thực hiện các luật thuế để kịp thời phát hiện vướng mắc phát sinh và đề xuất các biện pháp xử lý. Đồng thời tập trung chỉ đạo giúp doanh nghiệp sắp xếp lại sản xuất, xây dựng phương án kinh doanh, xử lý giá đầu vào, đầu ra hợp lý để thực hiện nghiêm ngặt luật thuế. 5. Phối hợp với cơ quan Kho bạc để tổ chức việc thu thuế trực tiếp qua hệ thống Kho bạc Nhà nước, đảm bảo các thủ tục nộp thuế được kịp thời, nhanh chóng cho đối tượng nộp thuế. Tiến hành việc nối mạng thông tin giữa cơ quan Kho bạc với Cục thuế để thường xuyên đối chiếu kịp thời số thuế đã nộp. 6. Tăng cường bồi dưỡng, đào tạo, nâng cao trình độ năng lực chuyên môn của cán bộ thuế và trang bị thêm phương tiện kỹ thuật để hoàn thành được nhiệm vụ Nhà nước giao. 7. Tăng cường đối thoại với các doanh nghiệp để nắm vững những khó khăn vướng mắc và đề xuất biện pháp xử lý. 8. Ban chỉ đạo thực hiện các luật thuế mới Thành phố và các quận huyện đẩy mạnh hoạt động, theo dõi chỉ đạo các ngành thuế, tài chính, hải quan, quản lý thị trường và các ngành liên quan khác trong việc thực hiện các luật thuế, quản lý thu thuế, quản lý thị trường, giá cả. xử lý nghiêm các trường hợp vi phạm về thuế, về thị trường, giá cả. Phát hiện, tổng hợp những khó khăn vướng mắc của các cơ sở kinh doanh và đề xuất các biện pháp xử lý. Duy trì thường xuyên chế độ báo cáo theo định kỳ. II.2. Một số giải pháp hoàn thiện công tác quản lý thu thuế ngoài quốc doanh. II.2.1. Tiếp tục tăng cường, củng cố các phòng thu thuộc văn phòng Cục thuế và các đội thuế phường xã. Việc tăng cường củng cố các phòng thu và các đội thuế có ý nghĩa rất quan trọng nhằm tập trung lực lượng quản lý chặt chẽ các đối tượng nộp thuế trên từng địa bàn, thuộc mọi thành phần kinh tế, đảm bảo chống thất thu có hiệu quả về số cơ sở kinh doanh, về doanh thu, về nợ đọng dây dưa, phát huy tác dụng của công tác thuế góp phần củng cố chính quyền địa phương. Hai phòng quản lý thu các doanh nghiệp NQD thuộc Cục thuế Hà nội, với biên chế mỗi phòng mỏng, quản lý thu số doanh nghiệp nhiều gấp 5-6 lần so với đầu mối quản lý của khu vực doanh nghiệp Nhà nước, địa bàn quản lý của mỗi phòng lại phân tán tại các quận huyện nên không có điều kiện để quản lý sâu xát. cần thiết tăng thêm biên chế các phòng, mỗi phòng chỉ theo dõi từ 1.200 đến 1.400 doanh nghiệp, bố trí cán bộ thuế theo những công việc phù hợp với trình độ chuyên môn của từng người, tăng cường đưa tin học vào công tác quản lý sẽ nâng cao hiệu quả quản lý để quản lý tốt hơn hiện nay. Tại 12 quận huyện đang trực tiếp quản lý trên 12.614 hộ kinh doanh, ngoài 5.131 doanh nghiệp NQD đến nay các chi cục thuế còn được phân cấp thêm 4.570 doanh nghiệp từ Cục thuế Hà nội, do vây, việc củng cố, kiện toàn Đội thuế phường, xã, phát huy hiệu quả hoạt động cảu mô hình này có ý nghĩa lớn nhằm quản lý chặt chẽ các đối tượng nộp thuế trên địa bàn, chống thất thu về hộ và mức thuế có hiệu quả. Mỗi phường, xã có một đội thuế đảm bảo tinh gọn, gắn liền với chính quyền cơ sở để quản lý sâu sát các đối tượng. Phối hợp chặt chẽ với Hội đồng tư vấn thuế trong công tác nắm hộ, nắm doanh thu và đôn đốc thu nộp thuế. Các đội thuế cần làm tốt công tác tham mưu cho chính quyền cơ sở trong công tác chỉ đạo thuếếp tục bồi dưỡng và đào tạo lại để nâng cao trình độ cho đội ngũ cán bộ thuế và đội trưởng thường xuyên tập huấn về chính sách có tổ chức kiểm tra, thi sát hạch để giúp cán bộ tự quan tâm nắm vững chính sách thuế, tổ chức thi chọn đội trưởng quản lý giỏi và thực hiện chuyển vùng đối với những cán bộ quản lý để hạn chế tình trạng nể nang tình cảm đối với hộ kinh doanh. Ngoài ra, việc xác định mức doanh thu khoán đối với hộ kinh doanh cá thể có ý nghĩa rất quan trọng trong việc chống thất thu thuế. Yêu cầu của việc xác định doanh thu khoán là phải sát với thực tế kinh doanh, phải đảm bảo công bằng giữa các hộ kinh doanh cùng ngành hàng, hạn chế đến mức tối đa tình trạng thất thu thuế do mức doanh thu khoán quá thấp. Đồng thời, đảm bảo cân đối về mức doanh thu giữa các hộ kinh doanh trong chợ với các hộ kinh doanh ngoài đươngf phố, tránh tình trạng do định mức doanh thu trong các chợ cao hơn ngoài đường phố mà các hộ đã bỏ chợ để ra ngoài kinh doanh. Muốn vậy, các đội thuế phường, xã phải phối hợp với các Hội đồng tư vấn thuế, Ban quản lý chợ, công an, tổ chức các hộ kinh doanh nhỏ vào từng tổ kinh doanh theo địa bàn đường phố, theo ngành nghề, dãy chợ, thuận tiện cho việc sinh hoạt nghe phổ biến các chính sách, chế độ thuế, về quản lý kinh tế tài chính trật tự an ninh...Tiến hành điều tra, sắp xếp các hộ kinh doanh có quy mô tương đối giống nhau vào thành các nhóm, trong mỗi nhóm chọn một số hộ điển hình, bám sát điều tra trực tiếp trong một số ngày đông khách, vắng khách, bình thường để có căn cứ dự kiến doanh thu bình quân cả tháng, từ đó, xem xét, bàn bạc một cách dân chủ để xác định mức thuế khoán cho từng nhóm hoặc từng hộ cụ thể ngày càng bám sát với thực tế. Cán bộ quản lý thu thuế và đội thuế phường xã phải theo dõi chặt chẽ ngành nghề kinh doanh, loại hình kinh doanh, đây là cơ sở ban đầu để cán bộ thuế có cái nhìn tổng thể về đối tường quản lý. Đồng thời, hàng tháng, căn cứ vào thông báo thuế đã phát hành cho các đối tượng nộp thuế để tiến hành việc đôn đốc các cơ sở kinh doanh trực tiếp nộp đủ số tiền thuế đã ghi trên thông báo vào Kho bạc, theo dõi số thuế chưa nộp để tiếp tục đôn đốc các cơ sở kinh doanh nộp đủ và kịp thời trong tháng. Hết tháng phải thông báo UBND phường xã và Hội đồng tư vấn thuế về kết quả thu và số thuế tồn đọng, để xuất hiện các biện pháp giải quyết nợ đọng thuế. II.2.2. Phát huy tác dung quản lý thu thuế theo quy trình tách 3 bộ phận: Trong thời gian qua, quy trình quản lý tách ba bộ phận (bộ phận quản lý đối tượng nộp thuế, đôn đốc thu nộp thuế và các khoản thu nộp khác do cơ quan thuế phụ trách; bộ phận tính thuế, lập sổ thuế, trình lãnh đạo cơ quan duyệt các mức doanh thu, mức thuế, phát hành thông báo thuế, theo dõi thu nộp thuế; bộ phận kiểm tra, thanh tra theo dõi việc thực hiện các quy trình công tác của các bộ phận quản lý, bộ phận kế toán, tiến hành xử lý các vi phạm chính sách thuế, chế độ thuế) đã được thực hiện và phát huy tác dụng. Tuy nhiên vẫn còn nhiều vướng mắc và tồn tại. Việc thực hiện quy trình quản lý thu thuế theo ba bộ phận phải đi vào thực chất nhằm tăng cường công tác quản lý thu nộp thuế đạt hiệu quả cao, đảm bảo tính công khai, dân chủ, công bằng xã hội trong việc thực hiện các luật thuế. Phát huy tính độc lập trong chuyên môn hoá để nâng cao vai trò, trách nhiệm của cá nhân và tập thể trong quản lý, thu nộp thuế, có sự hỗ trợ tích cực giữa các bộ phận, khắc phục những nhược điểm, sơ hở trong từng bộ phận công tác, đảm bảo tổ chức quản lý thu thuế thống nhất trong cả nước, từng bước cải tiến các nghiệp vụ hành thu theo hướng ngày càng văn minh, tiến bộ và hiện đại. Bộ phận quản lý: cần phối hợp với chính quyền phường xã và hội đồng tư vấn thuế và các ngành có liên quan điều tra, năm chắc các hộ, các cơ sở kinh doanh trên địa bàn, tiến hành phân loại cơ sở theo quy mô, tính chất, ngành nghề để áp dụng biện pháp quản lý thích hợp. Cụ thể phải nắm các hộ đang sản xuất kinh doanh (có đăng ký thuế, không có đăng ký thuế, đã nộp thuế, chưa nộp thuế...), các hộ mới ra hoạt động, bỏ kinh doanh, xin nghỉ kinh doanh, giải thể, sát nhập, phân tán, di chuyển địa điểm..., phải hướng dẫn, giải thích cho các cơ sở thực hiện đăng ký nộp thuế, hướng dẫn làm tờ khai nộp thuế và thu hồi tờ khai (đối với các cơ sở nộp thuế theo kê khai). Lập hồ sơ các cơ sở kinh doanh trên địa bàn để theo dõi quản lý. Tiếp nhận đơn xin nghỉ sản xuất kinh doanh, xin giải thể, xin sát nhập, chuyển địa điểm, kiểm tra nội dung đơn và theo dõi tình hình nghỉ, giải thể, sát nhập, phân tán, di chuyển để xử lý trường hợp vi phạm. Lập danh sách những cơ sở xin nghỉ, giải thể để trình lãnh đạo giải quyết những vấn đề tồn tại cần thiết đúng quy trình của Nhà nước. Đối với các hộ nộp thuế theo chế độ khoán doanh thu thì vấn đề quan trọng là thường xuyên bám sát điều tra tình hình hoạt động của các hộ điển hình để có sự đánh giái đúng tình hình tăng, giảm doanh thu so với mức khoán và so với thực tiến kinh doanh của thời gian trước. Từ đó đưa ra lấy ý kiến của tổ kinh doanh và dự kiến điều chỉnh doanh thu, mức thuế đối với hộ kinh doanh điển hình, đại diện từng nhóm kinh doanh. Thực hiện việc điều chỉnh doanh thu thưpờng xuyên và đột xuất theo chỉ đạo của lãnh đạo Cục thuế, chi cục thuế đối với những hộ hoạt động trong những ngành nghề, mặt hàng phát triển. Sau khi bộ phận kế toán tính thuế, lập sổ thuế trình lãnh đạo duyệt và viết thông báo, bộ phận quản lý có nhiệm vụ nhận thông báo thuế nhuyển đến tận tay từng đối tượng nộp thuế và yêu cầu đối tượng ký nhận thông báo. Phối hợp với UBND phường xã, tổ trưởng dân phố, thôn, xóm, ban quản lý chợ chọn địa điểm bố trí thu, thông báo cho hộ kinh doanh trực tiếp mang tiền đến nộp, vận động hộ kinh doanh nộp tiền thuế đúng lịch và địa điểm thu. Bố trí cán bộ phụ trách từng công việc: viết biên lai, thu tiền thuế, chấm sổ thuế, tổ chưc theo dõi thu nộp thuế, chấm sổ thuế kịp thời, chính xác. Tiến hành thanh toán biên lai, nộp thuế theo đúng lịch tại cơ quan Kho bạc. Lập danh sách những hộ nợ đọng thuế, số tiền thuế đọng, phối hợp với bộ phận kiểm tra, xử lý theo quy định của luật thuế. Đối với các đối tượng nộp thuế theo chế độ kê khai: phải hướng dẫn cơ sở thực hiện đầy đủ chế độ hoá đơn, sổ sách kế toán, lập tờ khai doanh thu, tờ khai thuế GTGT và tờ khai thu nhập chịu thuế theo mẫu quy định, cán bộ quản lý nhận tờ khai, kiểm tra các chỉ tiêu kê khai, đối chiếu với thực tế kinh doanh qua công tác quản lý thường xuyên, ký xác nhận và tờ khai. Để phát hiện kịp thời những gian dối trong kê khai, bộ phận quản lý cần thực hiện những công việc sau: thu thập các chứng từ, sổ sách kế toán để chuẩn bị công tác kiểm tra, so sánh đối chiếu, cụ thể là các boá cáo kết quả kinh doanh của doanh nghiệp kỳ báo cáo và các kỳ trước, các hợp đồng ký kết với khách hàng về cung cấp sản phẩm, hàng hoá, dịch vụ, các hoá đơn bán hàng, các chứng từ vận chuyển liên quan, các bảng thanh quyết toán, thanh lý hợp đồng bán hàng, cung cấp theo vụ, dịch vụ các chứng từ thanh toán các hợp đồng, khế ước tín dụng, các sổ chi tiết bán hàng, sổ chi tiết tiêu thụ, sổ chi tiết về thu nhập hoạt động tài chính, hoạt động bất thường, các sổ kế toán và sổ tài khoản. Tiến hành kiểm tra, so sánh, đối chiếu quá trình phát sinh doanh thu, kiểm tra căn cứ để xác định số thuế đầu vào được khấu trừ qua hoá đơn mua hàng, phiếu nhập kho, các chứng từ vân chuyển, cân đối lại hàng tồn kho, số hàng thực tế đã nhập, tính toán lại giá trị hàng mua vào thực tế, kiểm tra độ chính xác, tính trung thực, kịp thời của các giấy tờ trên. Sau khi bộ phận kế toán tính thuế và ra thông báo thuế, bộ phận quản lý chuyển thông báo tới tận tay cơ sở, có ký nhận của cơ sở, đôn đốc các đối tượng nộp thuế nộp thuế đúng vào Kho bạc. Thống kê các cơ sở kinh doanh đã nộp thuế từng ngày, những cơ sở chưa nộp thuế để đề nghị bộ phận kế toán ra thông báo thuế lần 2 và xử lý phạt chậm. Bộ phận kế toán nghiệp vụ: cần củng cố và kiện toàn để nâng cao chất lượng đáp ứng kịp thời thông tin phục vụ công tác chỉ đạo của lãnh đạo, đồng thời phát huy vai trò tham mưu. Sau khi tiếp nhận tờ khai nộp thuế của các cơ sở kinh doanh, thông qua các thông tin về doanh nghiệp, so sánh doanh thu của các cơ sở kinh doanh cùng ngành nghề, cùng quy mô tiế hành tính thuế trên máy tính và kiểm tra độ chính xác của tờ khai thuế để ra thông báo thuế. Cán bộ thuộc bộ phận này phải nắm chắc về pháp lệnh kế toán thống kê, nghiệp vụ, chính sách thuế và sử dụng máy vi tính thành thạo để có thể xử lý các thông tin một cáh chính xác, phát hiện những gian dối trong tự khai, tự tính thuế của doanh nghiệp. Bộ phận kiểm tra: cần được bổ sung cả về chất lượng và số lượng để thực hiện tốt công tác kiểm tra. Tăng cường kiểm tra, thanh tra các đối tượng nộp thuế, phát hiện các cơ sở trốn lậu thuế, thực hiện các thủ tục cưỡng chế thuế. Tăng cường công tác thanh tra nội bộ về việc chấp hành các quy định của luật thuế, thực hiện quy trìng quản lý thuế và 10 điều kỷ luật của cán bộ thuế nhằm kịp thời trấn chỉnh đội ngũ cán bộ thuế. Ba bộ phận trên có những nhiệm vụ độc lập nhưng đồng thời lại có các môi quan hệ mật thiết với nhau, thường xuyên cung cấp thông tin cho nhau, cùng bàn bạc giải quyết những vướng mắc phát sinh. Kết quả công việc của bộ phận này là căn cứ, tài liệu để thực hiện nhiệm vụ của các bộ phận khác, cùng hỗ trợ đảm bảo các quy trình quản lý được thực hiện đầy đủ, nghiêm chỉnh, khép kín. II.2.3. Tiếp tục đưa việc thực hiện chế độ sổ sách, hoá đơn, chế độ kế toán vào nề nếp: Có thể nói việc thực hiện tốt chế độ hoá đơn chứng từ là một trong những điều kiện tiên quyết đảm bảo sự thành công các luật thuế mới và quy trình thực hiện quản lý theo 4 tự: tự khai, tự tính, tự nộp, tự kiểm tra. Ngoài mục đích tạo được căn cứ pháp lý cho việc kiểm tra, kiểm soát và quản lý thu thuế, chứng từ hoá đơn còn phục vụ cơ sở kinh doanh có điều kiện theo dõi quá trình hoạt động, nắm chắc diễn biến về doanh thu, chi phí, lãi lỗ trong kinh doanh của mình, xác định đúng số thuế GTGT đầu ra, đầu vào được khấu trừ, tính đúng các khoản thu nhập và các khoản chi phí hợp lý được trừ khi tính thu nhập chịu thuế, làm tròn nghĩa vụ nộp thuế cho Nhà nước. Ngoài ra, việc quản lý sử dụng hoá đơn chứng từ, hoá đơn bán hàng thống nhất, đầy đủ, đúng quy định còn có tác động tích cực góp phần thiết lập trật tự kỷ cng trong công tác quản lý hành chính, lành mạnh hoá các quan hệ kinh tế xã hội, là cơ sở để bảo vệ lợi ích, quyền lợi chính đáng của người tiêu dùng, giữ vng và nâng cao uy tín của doanh nghiệp. Về chế độ quy định của Nhà nước đối với việc quản lý xử dụng hóa đơn chứng từ đã có đầy đủ nhưng nhìn chung trong xã hôi việc nhận thức về vấn đề này chưa đầy đủ, đúng mức, thể hiện ở việc bỏ sót, để lọt nhiều hoá đơn, chứng từ không hợp pháp khi thanh quyết toán tài chính, thuế. Tình trạng sử dụng hoá đơn giả, mua bán hoá đơn thật trôi nổi trên thị trường, tình trạng để mất hoá đơn, báo mất hoá đơn sau đó mang ra sử dụng trốn thuế hoặc hợp thức hoá các khoản chi phí không hợp lý, việc cấp hoá đơn cho khách hàng còn tuỳ tiện...đặc biệt trong khu vực NQD trong thời gian qua đã gây thất thu thuế nghiêm trọng chu NSNN và gây mất trật tự, bình đẳng trong cạnh tranh trên thị trường. Để khắc phục được những tồn tại trên và thực hiện chế độ hoá đơn chứng từ, sổ sách kế toán một cách nghiêm túc, ngành thuế cần tiến hành một số biện pháp sau: Trước hết, cán bộ thuế cần thông suốt yêu cầu, tác dụng và nâng cao trình độ về chế độ hoá đơn chứng từ. Từ đó, hướng dẫn, đôn đốc, kiểm tra các cơ sở kinh doanh thực hiện nghiêm túc. Đồng thời, cơ quan thuế cần có chế độ quản lý thường xuyên đối với từng đối tượng, tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, phát hiện và xử lý nghiêm minh các vụ vi phạm, từng bước đưa việc thực hiện pháp lệnh kế toán thống kê vào nề nếp. *Thực hiện tốt nguyên tắc quản lý hoá đơn: cơ quan thuế bán sổ theo dõi mua hoá đơn cho các cơ sở, mỗi lần để mua hóa đơn các cơ sở phải xuất trình sổ theo dõi mua hoá đơn, khi nhận được hoá đơn các cơ sở phải đóng dấu của cơ sở mình đầy đủ về tên hiệu, địa chỉ, mã số ngành thuế vào trên hóa đơn của tất cả các liên giao cho khách hàng trước khi sử dụng để tránh tình trạng cơ sở bán lại hoá đơn trắng cho các đơn vị khác sử dụng, vận chuyển hàng trốn lậu thuế; cần quy định thành chế độ cho các cán bộ trực tiếp quản lý cơ sở phải liên đới chịu trách nhiệm theo dõi, kiểm tra, quản lý việc đóng đấu trên các liên giao cho khách hàng; các trạm kiểm soát thuế trên dường phải đóng dấu của trạm lên hoá đơn mỗi khi có hàng vân chuyển qua trạm nhằm ngăn chặn việc quay vòng hoá đơn nhiều lần; phải xem xét cơ sở đang sử dụng mấy quyể hoá đơn cùng lúc, nếu phát hiện dùng cùng một lúc hai quyển hoá đơn cho một nơi mà nhu cầu không cần thiết, hoá đơn dùng nhảy cóc, nội dung ghi chép không rõ ràng, không đúng các chi tiết quy định trên hoá đơn phải lập biên bản xử lý theo đúng chế độ; trong trường hợp cơ sở thực hiện chế độ hoá đơn mang tính đối phó để được nộp thuế thấp theo tài liệu kê khai cần bố trí kiểm tra, theo dõi, yêu cầu khách hàng xuất trình hoá đơn bán hàng hoặc cung ứng dịch vụ để phát hiện các trường hợp không xuất hoá đơn hoặc ghi trên hoá đơn liên 2 cao hơn liên 1 giữ lại doanh nghiệp; đối với các đơn vị xin phép tạm nghỉ lâu, cán bộ thuế lập biên bản tạm thu hồi các quyển hoá đơn chưa dùng, đang dùng dở và sổ theo dõi mua hoá đơn để tránh việc lợi dụng hoá đơn còn lại của doanh nghiệp để xuất hàng, trốn lậu thuế; đối với những trường hợp bị mất hóa đơn phải lập biên bản ghi rõ nguyên nhân, trách nhiệm, báo cáo cơ quan thuế và cơ quan công an nơi sở tại số lượng hoá đơn mất để xác minh, xử lý và thông báo rộng rãi nhằm vô hiệu hoá việc sử dụng số hoá đơn đã mất; cuối năm, cuối quý phải kiểm tra sổ theo dõi mua hoá đơn, đối chiếu với doanh thu kê khai để phát hiện số doanh thu trong những quyển hoá đơn đã dùng nhưng lại không chịu vào sổ sách kế toán và không kê khai đầy đủ doanh thu nộp thuế. Hơn nữa, việc nâng cấp hệ thống tin học sẽ góp phần ngăn chặn có hiệu quả sự lưu hành hoá đơn giả, ghi chênh lệch giá giữa các liên, ghi hoá đơn khống...chống thất thu cho ngân sách. Đối với các cơ sở kinh doanh, cần giả thích, tuyên truyền sâu rộng đồng thời bắt buộc để họ hiểu được việc thực hiện tốt chế độ hoa đơn chứng từ vừa là một nghĩa vụ bắt buộc vừa là quyền lợi đối với mọi cơ sở kinh doanh. Đối với những cơ sở thực hiện sai pháp lệnh kế toán thống kê hay vi phạm chế đọ hoá đơn chứng từ cần phải xử lý thật nghiêm minh tuỳ theo mức độ vi phạm. Biểu dương khen thưởng kịp thời các hộ kinh doanh đã thực hiện tốt chế độ kế toán, phê phán, xử lý phạt những hộ không thực hiện hoặc thực hiện không nghiêm túc, cố tình ghi chép chống đối với mục đích trốn thuế.. Khuyến khích các hộ ghi sổ kế toán, lập hoá đơn chứng từ tương đối tốt được chuyển sang nộp thuế theo kê khai, tạo điều kiện cho các hộ có nguyện vọng nộp thuế theo phương pháp khấu trừ được chuyển sang một cách nhanh chóng, thuận lợi. Đối với người tiêu dùng cần tăng cường tuyên truyền giải thích để họ hiểu chứng từ hoá đơn hợp lệ là căn cứ pháp lý để đảm bảo trách nhiện của cơ sở sản xuất kinh doanh đối với khách hàng. Giáo dục ý thức thói quen mua hàng phải lấy hoá đơn chứng từ, giúp các cơ quan phát hiện các cơ sở vi phạm chế độ hoá đơn chứng từ. Cần quy định rõ sự liên đới chịu trách nhiệm của người mua trong trường hợp cơ sở kinh doanh bán hàng hoặc cung ứng dịch vụ không xuất hoá đơn, nên đưa vào chế độ tuần kỳ quay thưởng đối với hoá đơn mua hàng. II.2.4. Nâng cao hiệu lực công tác thanh tra, kiểm tra và cưỡng chế thuế: Để thanh tra, kiểm tra có hiệu quả, Cục thuế Hà nội cần phải thực hiện các biện pháp sau: Tăng cường số lượng thanh tra viên lên khoản 25-30% tổng cán bộ ngành, có sự phối hợp chạt chẽ với chính quyền các cấp, các ngành. Tuyển chọn các cán bộ thanh tra thuế có trình độ chuyên môn cao, có tư tưởng vững vàg, thường xuyên trau dồi kinh nghiệm, kiến thức cần thiết cho công tác thanh tra thuế. Phòng thanh tra lập kế hoạch thanh tra đối với những trường hợp có nghi vấn hoặc khi nhận được đơn khiếu nại về thuế, tiến hành thanh tra theo kế hoạch, đột xuất hoặc theo chuyên đề. Để đảm bảo cuộc thanh tra khách quan cần tách biệt mối quan hệ về lợi ích kinh tế cũng như quan hệ tình cảm giữa cán bộ thanh tra và đối tượng cần thanh tra. Mỗi cuộc thanh tra đều phải được lập biên bản, công bố công khai, đặc biệt đúc rút kinh nghiệm để tuyên truyền, phổ biến cho cán bộ thuế đảm bảo đợt thanh tra sau có hiệu qủa, tiến hành nhanh gọn, không ảnh hưởng tới hoạt động kinh doanh của công ty. Cùng với công tác thanh tra cũng cần có các biện pháp để đảm bảo hiệu lực các quyết định của cán bộ thanh tra: nên xây dựng các tổ chức cưỡng chế thuế tại các địa phương dể xử lý các vụ dây dưa tiền thuế, vừa đôn đốc thu thuế vừa giáo dục, ngăn ngừa nộp thuế chậm; quan hệ tốt với các ngân hàng để có thể sắn sàng lập lệnh thu trên tài khoản khi cần thiết; thậm chí nên hình thành các toà án kinh tế, toà án hành chính để xử lý các vi phạm lớn về thuế, có thể áp dụng biện pháp kê biên tài sản, thông báo trên các phương tiện thông tin đại chúng, thu hồi giấy phép kinh doanh như một số nước để nâng cao vai trò của thuế trong nền kinh tế quốc dân. Công tác thanh tra nội bộ ngành thuế cần có kế hoạch cụ thể từng ngày, hàng tuần trình lãnh đạo duyệt. II.2.5. Tăng cường công tác tuyên truyền, giáo dục chính sách thuế: Để cho mọi người dân thấy được rằng: bản chất thuế dưới chế độ xã hội chủ nghĩa là của dân, do dân và vì dân, Nhà nước thu thuế để làm chức năng quản lý Nhà nước, phát triển kinh tế xã hội vì mục tiêu dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng văn minh, vì đời sống ấm no, hành phúc của toàn dân, công tác tuyên truyền thuế có vai trò quan trọng ngoài tuyên truyền các luật, chính sách thuế còn phải tìm hiểu sâu và giải đáp những thắc mắc của từng người, cả về quyền lợi và nghĩa vụ để họ thông suốt mục đích của chính sách thuế. Ngành thuế chủ động phối hợp chặt chẽ với các báo đài trung ương và địa phương đưa tin về các chính sách thuế ngắn gọn dễ hiểu; tuyên truyền về công tác thu nộp thuế, các mô hình mới trong thu nộp thuế; phản ánh ý kiến đóng góp của các tổ chức, các nhân đối với các sắc thuế và ngành thuế; giới thiệu kinh nghiệm công tác quản lý thu thuế ở nước ngoài phù hợp với Việt nam. Đồng thời, kết hợp thăm dò, lắng nghe nguyện vọng, đòi hỏi chính đáng của nhân dân, phản ánh lên trên nghiên cứu, sửa đổi, bổ sung để chính sách, biện pháp quản lý thu thuế ngày càng hoàn thiện phù hợp với khả năng thực hiện của mỗi loại hình kinh doanh. II.2.6. Tiếp tục tăng cường sự phối hợp giữa ngành thuế với các cấp, các ngành có liên quan: Công tác quản lý thu thuế là nhiệm vụ chung của chính quyền các cấp, các ngành chứ không phải chỉ ngành thuế. Như vậy, ngành thuế sẽ không thể hoàn thành tốt nhiệm vụ thu của mình nếu không có sự phối hợp với các ngành khác với các chức năng và nhiệm vụ nhất định. Cục thuế Hà nội tiếp tục phối hợp với UBND thành phố, Uỷ ban kế hoạnh thành phố để rà soát lại toàn bộ các cơ sở kinh doanh theo từng loại, trên cơ sở đó đưa tất cả vào diện quản lý hệ thống. Tăng cường phối hợp với các cơ quan tài chính, kho bạc để thường xuyên trao đổi thônh tin về tình hình sản xuất kinh doanh của đối tượng nộp thuế, tình hình nợ đọng thuế. Phối hợp với các cơ quan công an, kiểm soát để ủng hộ ngành thuế chống lại ác vi phạm lớn, kiên trì đấu tranh chống trốn lậu thuế. Phối hợp với Ngân hàng mở rộng diện mở tài khoản để việc mua bán chủ yếu được thực hiện quan Ngân hàng, hạn chế hình thức thông đồng trốn thuế bằng tiền mặt. Đồng thời cũng có căn cứ để giải quyết biện pháp trích tiền trong tài khoản để khấu trừ tiền thuế, tiền phạt trong trường hợp dây dưa thuế. Những biện pháp trên đã và đang được ngành thuế xem xét đưa vào áp dụng để nâng cao công tác quản lý và chúng chỉ có thể phát huy hiệu quả toàn diện khi và chỉ khi các văn bản chính sách liên quan đến các luật thuế có hệ thống và hoàn thiện: vấn đề thu hẹp số lượng các mức thuế suất đối với thuế GTGT và TNDN, bỏ quy định về khấu trừ thuế GTGT đầu vào theo gảng kê thu mua hàng nông sản, lâm sản, thuỷ sản chưa qua chế biến mua của người gán không có hoá đơn và tỷ lệ phần trăm đối với các trường hợp không phải là hoá đơn GTGT; đối với hoá đơn bán hàng mua của cơ sở kinh doanh nộp thuế theo phương pháp khấu trừ thì nên giảm tỷ lệ khấu trừ từ 3% xuống 1%. Đồng thời với bổ sung chính sách thuế như trên, cần thêm điều kiện để được hoàn thuế là doanh nghiệp phải thực hiện thanh toán qua ngân hàng. Cuối cùng, Nhà nước cần có quy định chặt chẽ về mức tiêu hao nguyên vật liệu đối với các doanh nghiệp. Kết luận ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc28750.doc
Tài liệu liên quan